Sống Thánh Giữa Đời

Phần Thứ Ba

(Introduction À La Vie Dévote)

Nguyên tác của Thánh PHANXICÔ SALÊDIÔ, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh 

Bản dịch của Lm.Ph.HOÀNG MINH TUẤN, Dòng Chúa Cứu Thế

Nguồn: http://www.khoi-nguon.com/

CHƯƠNG 01 - TẬP NHÂN ĐỨC, PHẢI BIẾT CHỌN LỰA

Không bao giờ Ong chúa ra ngoài đồng mà không có lũ ong quân đi theo, thì đức mến cũng không bao giờ vào trong một linh hồn mà không kéo theo đoàn các nhân đức, rồi tập dượt chúng, như một viên tướng thao luyện binh sĩ mình. Song đức mến không bắt các nhân đức hành động đột ngột, bằng nhau, hay ở mọi nơi, mọi chỗ như nhau. Người công chính như cây trồng bên dòng nước, sinh hoa trái theo mùa, vì đức mến tưới bón một linh hồn làm cho nảy ra các việc nhân đức mỗi thứ mỗi mùa. Có câu cách ngôn rằng : “Âm nhạc có đặc tính làm ta vui tai, song không hợp tình hợp cảnh trong một đám tang” (Sách Huấn Ca 22, 6). Nhiều người có lỗi lớn này là khi tập một nhân đức nào riêng, thì cố quyết thi hành bất kể trường hợp nào. Họ muốn làm như những triết gia thời xưa, hoặc luôn cười hay luôn khóc. Còn tệ hơn, họ trách móc và phê bình những người không luôn tập những nhân đức như họ. Thánh Tông Đồ Phaolô nói : “Phải vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” “đức thương yêu thì kiên nhẫn, dịu dàng”, khoáng đạt, khôn ngoan, nhún nhường (Xem 1Cor 13, 4-5).

Tuy nhiên, có những nhân đức có thể dùng khắp nơi, mà không nên hạn chế vào một nơi riêng ; hơn thế chúng còn phải đem các tính chất tốt thấm nhuần các hoạt động của các đức khác. Không phải luôn ta có dịp tập đức dũng lực, đại đảm, hào hoa, nhưng đức hiền từ, tiết độ, lương thiện và khiêm nhường là những đức phải luôn thấm nhuần mọi hoạt động đời ta. Đã hẳn, có những đức khác còn tuyệt hảo hơn chúng song thường ta cần dùng đến chúng hơn. Đường ngon hơn muối, song người ta cần dùng đến muối nhiều hơn. Vì thế luôn phải có sẵn một số vốn các thứ nhân đức chung có thể dùng ngay ấy, vì ta cần đến chúng hầu như mọi lúc.

Trong số các nhân đức đang tập, mình phải chọn cái nào cho phù hợp với bổn phận hơn, chứ không phải hợp sở thích hơn. Thánh Paola thích hãm dẹp xác thịt cách khắc khổ để được hưởng các ngọt ngào thiêng liêng dễ hơn, nhưng bổn phận đời người phải vâng lời bề trên hơn. Vì đó, thánh Hiê-rô-ni-mô mới bảo là người đáng trách vì đi ngược ý của vị Giám mục của mình mà làm những việc phạt xác quá độ. Trái lại, các Thánh Tông Đồ, nhận sứ mệnh rao truyền Phúc Âm và phân phát bánh thiêng (Lời Chúa) cho các linh hồn đã khôn ngoan nhận xét rằng : Các Ngài không được trễ nải công việc thánh đó để thực hành một nhân đức khác, tuy rất tốt lành, là lo cho kẻ nghèo (xem Công Vụ 6, 2 tiếp). Mỗi bậc sống đều cần tập đôi nhân đức riêng. Nhân đức của vị Giám mục không phải là của nhà vua, của quân nhân không giống của người phụ nữ kết hôn hay của người cô quả. Đã đành, mỗi người phải có tất cả nhân đức, song không phải đều tập y như nhau. Nhưng mỗi người tập các đức cần riêng cho bậc sống Chúa đã kêu gọi mình.

Trong số nhân đức không mật thiết liên quan đến bổ phận riêng mình, phải chọn các đức tuyệt hảo nhất, chứ không phải các đức có hình dáng bên ngoài nhất. Sao chổi thường có vẻ lớn hơn các tinh tú và được đánh giá trọng hơn. Nhưng thực tế, có lớn có đẹp đến đâu chúng cũng không thể sánh bì các vì sao khác. Chỉ vì chúng gần ta hơn, nên có vẻ lớn hơn. Có đôi nhân đức cũng giống vậy, vì gần ta, dễ nhận thấy hơn và có thể nói là vật chất hơn, nên rất được quý trọng và được người tầm thường ưa chuộng. Ví dụ : người ta thích bố thí của cải hơn bố thí thiêng liêng, thích áo nhặm, ăn chay, trần trụi, đánh tội và các hãm xác hơn là hiền từ, nhân ái, nết na và các kềm chế linh hồn khác, là những đức tuyệt hảo hơn. Vậy Philôtê, con hãy chọn những đức tốt nhất chứ không phải được ưa chuộng nhất, tốt đẹp nhất chứ không phải có điệu nhất.

Mỗi người cũng nên chọn vài nhân đức riêng mà tập, không phải bỏ các đức khác, song để tâm trí mình được thao luyện và có quy củ. Một thiếu nữ sinh đẹp, chói sáng như mặt trời ; trang điểm như một hoàng hậu, đầu mang triều thiêng lá ô-liu, hiện ra cùng thánh Gioan Giám Mục thành Ale-xan-dria mà nói : “Ta là trưởng nữ của nhà vua, nếu người muốn coi ta là bạn, ta sẽ dẫn người trước mặt Ngài”. Thánh nhân nhận ra đó là lòng thương các kẻ khó mà Thiên Chúa muốn Ngài có. Sau đó, ngài tập nhân đức này cách đặc biệt đến nỗi mọi nơi người ta đều mệnh danh ngài là thánh Gioan hay bố thí. Ơ-lê-giê A-lê-xan-dri-nô (Euloge d’Alexandrie) muốn làm đôi việc gì cho Chúa, nhưng không đủ sức sống đời ẩn tu, hay sống trong một dòng tu nào khác, ông nghĩ ra cách vời một kẻ phong hủi khốn cực về nhà ông để thi hành đức bác ái và hãm mình đối với người nầy. Để làm việc ấy xứng đáng hơn, ông đã khấn tôn kính, phụng sự, đối xử với người ấy như tôi đòi với chủ nhân và Chúa mình. Xảy ra có một cơn cám dỗ làm hai người lìa nhau, cả hai đến trình bày cùng thánh An-tôn (ẩn tu), người bảo họ : “hai người hãy ý tứ đừng lìa bỏ nhau, vì cả hai sắp đi đến đích của đời mình, nếu thiên thần không thấy hai người còn ở với nhau, hai người có thể liều mình mất triều thiên phần thưởng”.

Vua thánh Lu-y đi thăm nhà thương và tự tay hầu hạ các bệnh nhân y như một người làm công. Thánh Phan-xi-cô yêu quý đức khó nghèo mà người gọi là Bà Chủ mình. Thánh Đa-minh quý việc rao giảng và dòng Ngài đã mang tên ấy. Thánh Grê-gô-riô Cả yêu thích tiếp đón các lữ khách theo gương ông A-bra-ham đón tiếp Chúa vinh hiển dưới hình người lữ khách. Tô-bia thực hành đức bác ái bởi mai táng kẻ chết. Thánh nữ Ê-li-gia-bét, dù là hoàng hậu sang trọng, song vẫn ưa thích khinh ghét mình. Thánh Ca-ta-ri-na thành Giê-nơ khi đã góa bụa, đã hiến mình vào giúp nhà thương. Ca-xi-a-nô kể chuyện một thiếu nữ đạo đức, muốn tập luyện nhân đức nhẫn nại, đã chạy đến hỏi ý kiến thánh A-ta-na-xia. Thánh nhân nhận lời, đã để cho nàng ở với một mụ góa nghèo khó, có tính bẳn gắt, giận dữ, không ai chịu nổi, mụ này luôn mắng nàng nhờ đó nàng có dịp tập đức hiền từ và nhún nhường.

Như thế, trong số các tôi tá Chúa, có vị hiến mình giúp bệnh nhân, vị khác cứu vớt kẻ nghèo khó, vị lo dạy dỗ các trẻ em biết đạo lý công giáo, vị khác đi tìm những linh hồn hư hỏng, xiêu lạc. Có vị đi trang hoàng các nhà thờ và bàn thờ, có vị lại dàn xếp cho người ta sống bình an, hòa hảo với nhau. Các vị bắt chước người thợ thêu đặt trên tấm vải làm nền những lượt chỉ lụa vàng bạc khác nhau dệt thành những cánh hoa sặc sỡ. Linh hồn nào thực hành một việc đạo đức riêng biệt cũng vậy, họ dùng việc ấy như một tấm vải làm nền để thêu lên trên đó các việc tập nhân đức khác. Như thế, các hành động, các tâm tình của họ được liên kết hơn với việc thực hành chính kia, và làm nổi vẻ đẹp của chúng lên.

“Áo dạ thêu chỉ vàng,

Mũi kim dệt nổi vạn hàng hoa xinh “

Khi ta bị một tính xấu nào làm lung lạc, được chừng nào hay chừng nấy ta phải tập một nhân đức ngược lại, và hướng các đức khác về đức này. Nhờ phương pháp ấy, ta sẽ thắng địch thù, và đồng thời tiến bộ trong các nhân đức khác. Nếu tôi bị tính kiêu ngạo hay nóng giận tấn công thì trong mọi sự, tôi phải hướng chiều, phải ngả về sự khiêm nhường và hiền lành. Còn các việc đạo đức khác như nguyện ngắm, lãnh Bí Tích, tập khôn ngoan, bền chí, tiết độ tôi đem tất cả phục vụ công việc trên. Như lợn rừng, muốn mài nhọn răng nanh, chúng cọ chúng chà với các răng khác, thành ra các răng này cũng nhờ đó thành nhọn sắc. Người nhân đức cũng vậy, đã đem công tập một nhân đức mình thấy cần hơn cả để bảo vệ cho mình, thì phài đem mài dũa nó bằng cách tập tành các đức khác. Các đức này, khi mài dũa đức kia, cũng được trở nên tuyệt hảo và bóng láng hơn. Trường hợp ông Gióp giống vậy. Ông tập cách riêng lòng nhẫn nại để chống lại bao cám dỗ mà ông đang mắc phải, thế mà ông đã nên hoàn toàn thánh thiện trong mọi nhân đức khác nữa. Thánh Grê-gô-riô Na-diăng nói : bởi tác động của một đôi nhân đức đã được tập luyện thuần thục, người ta có thể đạt tới đỉnh tất cả các nhân đức. Ngài có nêu chuyện bà Ra-háp làm tỉ dụ : chỉ vì bà này đã thực hành việc cho khách trú ngụ mà đã đạt tới đỉnh vinh quang. Nhưng phải hiểu đó là khi ta thực hành việc như thế một cách tuyệt hảo, với lòng sốt sắng và đức bác ái lớn lao.



CHƯƠNG 02 - TIẾP CHƯƠNG TRÊN : CHỌN LỰA CÁC NHÂN ĐỨC

Thánh Ao-gu-ti-nô nói rất đúng : Những người khởi sự đi đàng thánh đức thường phạm đôi lỗi ban đầu. Đã đành như thế cũng là đáng trách, nếu đem đối chiếu với luật nên trọn lành ; nhưng xét theo một mặt khác các lỗi kia cũng đáng khen vì báo trước một tương lai tốt đẹp đầy thánh đức mà chính chúng gián tiếp chuẩn bị đưa đến. Tỉ dụ : Sự sợ hãi thấp hèn thô thiển gây ra bối rối quá đáng trong những tâm hồn mới thoát khỏi vòng tội lỗi, cũng có thể là một đức tính nên có trong bước đầu ấy : nó tiên báo chắc chắn một lương tâm trong sạch sau này. Nhưng sợ hãi như thế đáng trách nơi những ai đã tiến bộ nhiều rồi vì trong lòng họ tình mến phải đã ngự trị và sẽ dần dà xua đuổi tính sợ hãi nô lệ ấy đi. Thánh Bê-na-đô thoạt đầu có một thái độ rất nghiêm nhặt và cứng rắn với những ai được ngài hướng dẫn. Ngài dặn họ phải bỏ thân xác ở nhà và chỉ đem linh hồn đến với Ngài mà thôi. Khi nghe họ xưng tội, ngài tỏ ra ghét gắt gao mọi thứ nết xấu, dù nhỏ mọn và ngài thối thúc các người tập đi đàng trọn lành thái quá đến nỗi ngài lại làm cho họ chùn bước, mất hết can đảm và đuối sức bởi vì luôn luôn bị thúc bách trèo leo con đường dốc dác khó khăn như thế. Philôtê con có thấy không, lòng nhiệt thành cực điểm do tâm hồn trong sạch hoàn toàn của thánh nhân đã xui khiến ngài dùng phương pháp cứng rắn. Lòng nhiệt thành ấy là một đức lớn, tuy vậy vẫn đáng trách. Cho nên có lần Chúa đã hiện ra sữa chữa, và ban cho tâm hồn ngài một tinh thần hiền từ, êm ái và dịu dàng đáng mến. Nhờ vậy ngài đã hoàn toàn thay đổi, và ngài hối hận nhiều vì quá ngặt nghèo, gắt gao. Ngài trở nên niềm nở và nhún nhường với mọi người đến nỗi ngài thành tôi tớ mọi người để thu phục họ cho Chúa.

Thánh Hiê-rô-ni-mô kể chuyện thánh Pao-la, con thiêng liêng ngài không những quá độ nhưng còn ngoan cố trong các việc hãm xác, đến nỗi không chịu tuân theo lời thánh Epi-phanô Giám Mục của người mà giảm bớt đi. Ngoài ra người còn quá tiếc thương các người thân thuộc đã qua đời đến nỗi người rủi có thể bị chết theo. Sau cùng thánh Hiê-rô-ni-mô kết luận : “Chắc người ta sẽ nói tôi : Đáng lẽ ca tụng thánh nữ ấy chứ sao lại trách móc và phê bình người. Tôi xin Chúa Giêsu, Đấng người đã phụng sự và tôi cũng mong muốn phụng sự, chứng giám cho là tôi không nói thiên lệch về phía nào cả, trái lại tôi chỉ nêu ra cách trung thực những gì người có, với tư cách tôi là một Kitô hữu viết về một Kitô hữu khác. Nói cách khác, tôi viết lại tiểu sử, chứ không viết bài chúc từ ca ngợi. Tôi không chối là các thói xấu này nơi người có khi lại là nhân đức nơi kẻ khác chưa biết chừng”. Ngài muốn nói các thói hư, nết xấu nơi thánh Paola có thể được coi là những nhân đức nơi một linh hồn kém hoàn thiện hơn. Thực thế, có những việc bị coi là khuyết điểm nơi người hoàn thiện, lại được cho là hoàn hảo nơi người còn kém cỏi. Ở một bệnh nhân vừa khỏi bệnh, khi thấy chân tay mập béo ra, đó là dấu tốt về tạng chất trong người bình phục nên đã tẩy các khí chất độc. Nhưng nếu hiện tượng ấy thấy ở người khoẻ lại là triệu chứng xấu, vì tạng chất trong người họ không đủ sức tiêu tan các chất độc ứ đọng. Philôtê thân mến, ta phải nghĩ tốt về người mà ta thấy đang tập nhân đức, tuy còn vụng về, vì các thánh cũng đã trải qua con đường ấy. Phần ta, phải ra sức tập không những cách trung thành song còn khôn ngoan nữa. Muốn thế phải theo lời đấng khôn ngoan dạy : “Đừng căn cứ vào việc khôn khéo riêng của ta”, nhưng của những vị mà Thiên Chúa gửi đến dẵn dắt ta !

Có những cái nhiều người cho là nhân đức, kỳ thực không ! Tôi muốn nói với con đôi lời về điều ấy : đó là những ngất trí, xuất thần vô cảm giác, kết hợp thần hóa, linh hồn bay bổng[1] hay siêu hóa, và các điều kỳ diệu giống như thế. Có nhiều sách bàn về các điều ấy, và có tham vọng đưa hồn đến bực chiêm niệm thần bí, hoàn toàn sống trong thế giới thuần linh và đời sống siêu việt. Chắc Philôtê đã thấy đó không phải là nhân đức, song phần thưởng Chúa ban cho nhân đức. Hay đúng hơn là những mối hoan lạc khai vị của đời sau, ban xuống cho người thế để gây nơi họ thèm muốn tất cả bữa tiệc trên thiêng đàng. Nhưng không nên đòi những ân huệ ấy, vì chúng không cần thiết để phụng sự và yêu mến Chúa. Chỉ mình Ngài mới là tất cả ước vọng của ta. Đàng khác, đó không thường là những ơn có thể lấy tài khéo hay tập tành mà đoạt được, vì chúng là những tâm trạng thụ động hơn là hoạt động, ta có thể thụ lãnh mà không thể tạo tác ra được. Ta hãy chuyên tập tành nên người lương thiện, đạo đức ; những ông sốt sắng, những bà sốt sắng. Còn nếu đẹp ý Chúa mà Ngài muốn nâng ta lên tới các sự kỳ diệu thiên thần đó, lúc đó chúng ta cũng có thể là các thiên thần tốt lành lắm. Nhưng đang khi chờ đợi, ta hãy đơn sơ, khiêm nhường và sốt sắng tập các nhân đức nhỏ bé mà Chúa muốn ta nỗ lực thực hành : đó là đức nhẫn nại, đức nhân từ, hãm mình bề trong, khiêm nhường, vâng phục, khó nghèo, thanh khiết, yêu thương đồng loại, chịu đựng các khuyết điểm của họ, cũng như sự cần mẫn và sốt sắng. Ta hãy nhường những sự siêu việt kia cho các linh hồn cao cả. Ta không đáng ở cấp cao như thế trong việc phụng sự Chúa, sung sướng chán nếu ta được giúp việc Ngài trong xó bếp, nơi kho bánh của Ngài, được làm đầy tớ, làm phu khuân vác, làm bồi phòng của Ngài. Sau đó nếu đẹp ý Ngài, Ngài sẽ đem ta làm tại văn phòng hay trong hội đồng tư mật của Ngài.

Phải, Philôtê, vì Vua vinh hiển ấy không ban thưởng tôi tá theo chức tước lớn nhỏ, song theo lòng mến và khiêm nhường của họ khi thi hành các chức vụ ấy. Sao-lê khi đi tìm lừa cho cha lại được làm Vua nước Is-ra-el. Rê-bê-ca cho lạc đà A-bra-ham uống, đã được làm vợ của con ông. Bà Rút mót lúa đồng ông Bốt và phục dưới chân ông, được đưa tới gần ông và cưới làm vợ. Đã hẳn những tham vọng cao kỳ đến các sự phi thường như thế, thường dễ làm mờ mắt ta trong ảo tưởng giả trá. Và đôi khi những kẻ tưởng mình là thiên thần lại chưa là người lương thiện nữa. Kỳ thực có cao siêu chăng thì chỉ là trong lời nói chứ không chút nào trong tâm tình và trong việc làm của họ. Nhưng ta không ta nên khinh hay chỉ trích hàm hồ. Ta cứ ca tụng Thiên Chúa vì sự cao siêu tuyệt vời của kẻ khác ; phần ta cứ giữ mình trong con đường thấp kém hơn, nhưng chắc chắn hơn, kém tuyệt hảo hơn song ám hạp với nỗi thiếu thốn và phận nhỏ nhoi của ta hơn. Nếu ta cứ sống khiêm nhường và trung tín trong đó, Thiên Chúa sẽ nhấc ta lên những bậc cao cả lớn lao.

------------

[1] Phi thần.



CHƯƠNG 03 - ĐỨC KIÊN NHẪN

Thánh Phaolô tồng đồ nói : “Anh em cần có đức kiên nhẫn ngõ hầu, khi đã thi hành ý Chúa, anh em được hưởng lời Chúa hứa” (Thư cho Hy-Bá 10, 36). Thật vậy, Chúa Cứu Thế đã phán : “Cứ kiên nhẫn ắt sẽ giữ được linh hồn mình”. Philôtê, hạnh phúc của con là giữ được linh hồn mình. Kiên nhẫn càng hoàn toàn, ta càng giữ hồn ta hoàn toàn. Con hãy nhớ luôn : Chúa đã cứu ta bởi kiên trì chịu đau khổ, thì phần ta cũng mưu phần rỗi bằng đau khổ, cực phiền, chịu đựng các sỉ nhục, trái ý, chống nghịch, với tất cả sự hiền từ có thể có.


Đừng hạn định đức kiên nhẫn con vào một thứ sỉ nhục và cực khổ nào thôi, hãy nới rộng ra tất cả mọi thứ mà Thiên Chúa sẽ gửi đến và cho phép xảy đến cho con.

Có người chỉ muốn chịu các cực khổ đầy danh giá, như bị thương ngoài mặt trận, bị tù binh, bị bắt bớ vì đạo, bị nghèo khó vì một cuộc kiện tụng mà họ đã nắm được phần thắng. Những người này không yêu đau khổ, song yêu danh dự mà đau khổ mang lại. Người nhẫn nại thật chịu đựng các khốn cực có kèm nhục nhã cũng như các khốn cực gây danh giá. Bị khinh bỉ, quở trách và tố cáo bởi ác nhân : vẫn còn là ngọt ngào cho người can đảm. Nhưng bị quở mắng, tố cáo và hành hạ bởi chính người tốt lành, bạn hữu, thân thuộc mình đó mới thật tuyệt. Thái độ hiền từ của thánh cả Ca-rô-lô Bô-rô-mêô khi chịu một vị giảng thuyết nổi danh, tu sĩ của một dòng rất nghiêm nhặt, từ trên tòa giảng chê trách công khai, lâu dài : đức hiền từ ấy mới đáng quí hơn trăm nghìn lần khác ngài bị người khác tấn công. Ong chích thì buốt hơn muỗi đốt, các sự cực lòng và các chống đối mà người tốt lành làm cho ta thì khó chịu hơn các cái khác. Thường lại thấy xảy ra việc hai người tốt lành đối chọi, chống nghịch nhau rất dữ dội, trong một vấn đề mà cả hai cùng có thiện chí, song chỉ vì bất đồng quan điểm.

Con hãy kiên nhẫn không chỉ cách chung chung về các đau khổ, mà còn về các hoàn cảnh và chi tiết tùy thuộc nữa. Nhiều người muốn chịu đau khổ, miễn là đừng bị rầy rà cơ cực. Kẻ nói : “Bị nghèo không hề gì, nếu sự đó không cản trở tôi giúp bạn hữu, giáo dục con cái, và sống cách tử tế như tôi mong muốn”. Kẻ khác nói : “Tôi không ngại gì khác đâu, song chỉ ngại người ta sẽ nói rằng nghèo là lỗi tại tôi”. Có kẻ  vui lòng để người ta nói hành mình, chịu đựng hết sức nhẫn nại, miễn là đừng ai tin lời kẻ dèm pha họ. Người khác muốn chịu đôi phần cơ cực, song không phải tất cả. Họ nói : “họ không khó chịu vì mắc bệnh, song vì không có tiền để chạy chữa, hoặc vì các người chung quanh họ phải liên lụy”. Nhưng Philôtê, phần tôi, tôi nói, đức kiên nhẫn đòi không những chịu bệnh tật, song còn bệnh nào Chúa muốn, ở nơi Chúa muốn, ở giữa các người Chúa muốn, với các phiền hà Chúa muốn. Các khốn khó khác cũng vậy. Khi con mắc bệnh hoạn nào, hãy chạy chữa thuốc men tùy sức và theo luật Chúa, nếu không, tức là thử thách Chúa. Nhưng, làm hết sức rồi con hãy hết lòng nhẫn nhục đợi chờ hiệu quả mà Chúa bằng lòng cho phép xảy ra. Nếu đẹp ý Chúa mà thuốc chữa được bệnh, con hãy hết lòng khiêm nhường cám ơn Chúa. Nếu trái lại, bệnh vẫn hoàn bệnh, con hãy chúc tụng Ngài trong nhẫn nại.

Tôi đồng ý với thánh Grê-gô-riô : khi con bị cáo một tội gì đúng lý, con hãy hết sức hạ mình xưng ra mình đáng bị lời cáo ấy. Nếu là vu cáo, con hãy chữa mình cách từ tốn, vì con cần phải tôn trọng sự thật và làm gương sáng cho đồng loại. Nhưng sau khi chữa mình chính đáng như thế, người ta vẫn tiếp tục cáo con, con đừng xao xuyến và đừng tìm cách bắt người ta phải nhận lời bào chữa của mình. Như thế, sau khi có chu toàn bổn phận đối với sự thực, con cũng phải có bổn phận đối với đức khiêm nhường nữa. Làm như thế, con không phương hại đến bổn phận phải bảo vệ danh giá con, đồng thời cũng không đánh mất lòng mến chuộng sự bình an, đức hiền từ trong lòng và đức khiêm nhường.

Con hãy cố gắng ít than phiền về các sự tai hại người ta làm cho con. Vì chắc chắn kẻ than phiền thì phạm một tội đã đành, hơn thế lòng tự ái thường phóng đại các xúc phạm ra cho lớn hơn có thật. Nhưng cách riêng con đừng than phiền với những người mau nóng giận hay nghĩ trái. Nếu cần than phiền với ai để sửa chữa sự xúc phạm, hay để thư thái cho tâm trí con, thì chỉ nên nói với những tâm hồn bình tĩnh và mến Chúa. Nếu không, thay vì làm cho lòng thư thái, sẽ lại xao động lo lắng thêm. Thay vì nhổ gai, hóa ra lại ấn vào sâu hơn.

Có nhiều người, khi bị ốm đau, cực phiền và xúc phạm, gắng cầm mình không than vãn và nuông chiều xác thịt. Vì theo họ nghĩ như thế là tỏ ra mình thiếu can đảm và đại độ. Điều đó đúng. Nhưng họ lại hết sức mong muốn và dùng mưu mẹo để người khác ái ngại cho họ, thương hại họ, và quí chuộng họ, không những là người bị cực khổ, song còn là người nhẫn nại và can đảm. Đó cũng là một sự nhẫn nại, song nhẫn nại giả hiệu, chẳng qua là tham vọng và khoe khoang tinh vi và lắt léo. Họ được vẻ vang, song đâu có phải vẻ vang trong Chúa ! (Roma 4, 2) Người nhẫn nại chân chính không than về cái khổ của mình, không ước ao người ta ái ngại mình. Họ nói về đó cách chân thành, đơn sơ, không khóc lóc, không than vãn, không phóng đại. Nếu ai phàn nàn hộ họ đành kệ cho làm, trừ phi người ta phàn nàn về một sự khổ mà họ không có. Lúc đó, họ từ tốn nói là không bị sự khổ đó, và cứ bình tĩnh sống trong sự thật và nhẫn nại, ôm ẵm cực khổ và không kêu trách gì cả.

Giữa những chống đối sẽ xảy đến cho con khi tập sống đạo đức (chắc không thiếu đâu !), con hãy nhớ lời Chúa : “Khi người đàn bà sắp sinh thì đau đớn lo lắng, nhưng khi thấy con lọt lòng rồi, liền quên hết đau vì một người đã ra chào đời”. (Gioan 16, 21). Con cưu mang trong hồn con trẻ quý báu nhất trần gian, đó là Giêsu Kitô. Trước khi Ngài sinh ra, chắc hẳn con phải thấy đau đớn. Song hãy can đảm, vì một khi đau đớn qua đi, vui sướng muôn đời sẽ còn mãi trong con, vì đã sinh ra một người như thế cho trần gian. Mà Ngài chỉ sinh ra cho con, nếu con đã hoàn toàn nắn đúc Ngài trong lòng con và trong việc làm của con bởi bắt chước đời sống Ngài.

Khi bệnh tật, con dâng mọi đau đớn, cực nhọc và mệt mỏi để phụng sự Chúa, và xin Ngài kết hiệp chúng với các cực hình Ngài đã chịu vì con. Hãy vâng lời thầy thuốc, hãy dùng thuốc men hay các phương pháp trị bệnh nào khác vì mến Chúa, lòng hằng tưởng nhớ đến mật đắng Chúa đã uống vì yêu ta. Con hãy ước ao lành bệnh để để phục vụ Chúa. Đừng từ chối chịu đau đớn ngõ hầu tuân theo ý Ngài ; và hãy sẵn sàng chết, nếu đó là ý Ngài, để ca tụng và hưởng mặt Ngài đời đời… Con hãy xem : con ong ăn một thứ đồ đắng để có thể làm ra mật ngọt. Đây cũng vậy, có khi nào ta phát sinh những việc nhân đức, hiền từ và kiên nhẫn lớn lao, hoặc tiết ra thứ mật các nhân đức tuyệt đẹp cho bằng lúc ta ăn bánh đắng cay và sống trong sầu não ? Và như mật do hoa cây bách lý hương là thứ cây nhỏ và đắng làm nên, lại là mật ngọt nhất, thì nhân đức tập luyện trong cay đắng hèn hạ, và nhuốc hổ nhất lại là đức tuyệt hảo không gì bằng.

Con hãy luôn luôn đưa mắt tâm hồn nhìn ngắm Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, trần truồng, bị nói phạm, vu khống, chối bỏ và bị đè nặng dưới bao khó nhọc, buồn sầu và lao nhọc. Và con hãy nghĩ đến tất cả các nỗi đau đớn của con, có nhiều mấy, có to mấy cũng không tài nào sánh kịp được, và không bao giờ con sẽ phải đau khổ vì Ngài bằng Ngài đã đau khổ vì con.

Con hãy suy đến những cực hình các đấng tử đạo chịu xưa, những đau đớn mà bao người nay đang chịu, nặng nề hơn biết bao lần các đau đớn con đang trải qua, rồi con hãy nói : “Ôi, các lao nhọc của tôi chỉ là yên ủi, các cực khổ là hoa hồng, so sánh với những kẻ không ai giúp đỡ, cứu vớt cho nhẹ gánh đau thương, sống mà như chết liên lỉ, giữa bao cơn sầu khổ lớn lao vô ngần !”.



CHƯƠNG 04 - ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG BÊN NGOÀI

Tiên tri Ê-li-dêu nói với bà góa nghèo khổ : “Hãy mượn nhiều bình không rồi đổ dầu vào” (Sử Ký II, đoạn 4, 3-4). Muốn nhận được ơn Chúa vào lòng, lòng cần phải trống rỗng những hư vinh về chính mình. Con chim vọ khi vừa kêu vừa nhìn các chim săn mồi, thì làm cho chúng tê liệt không biết bởi một sức gì bí mật. Vì vậy chim câu yêu nó hơn hết các loài chim khác và đến sống cạnh nó để được bình an. Khiêm nhường cũng thế ! nó đuổi Satan, gìn giữ trong hồn ta ơn nghĩa và ơn huệ của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, các thánh, nhất là Vị Vua các thánh và Mẹ Ngài, tôn trọng và yêu quý đức này hơn tất cả mọi luân đức[1].

Ta gọi cái vinh quang mà người ta tự ban cho mình là hư vinh vì ta không có, hay nếu có song không phải của ta, hoặc nếu ta có như là của ta song không đáng ta tự phụ. Sự sang quý của dòng dõi, được kẻ lớn mến chuộng, được dân chúng ưa thích, đó là những cái ta không có, nhưng chỉ có ở nơi các bậc tiền bối ta, hoặc do sự kính nể của kẻ khác. Có người hãnh diện và kiêu căng vì cưỡi ngựa quý, vì có một chùm lông xù trên mũ, vì áo quần sang trọng, nhưng ai chẳng cho đó là ngớ ngẩn. Nếu có vẻ vang thì vẻ vang cho con ngựa cho con chim, cho người thợ may. Vay mượn từ một con ngựa, một mớ lông, một tấm áo, chút khen ngợi của người ta, chẳng phải là một cử chỉ ti tiện sao ? những người khác so sánh, đánh giá nhau vì những bộ ria xoăn, những bộ râu mượt, vì những lọn tóc quăn, vì những bàn tay thanh lịch, vì biết nhảy, biết chơi, biết hát, như thế chẳng là bần tiện vì muốn đề cao mình, và làm tăng thanh danh mình bởi những vật phù phiếm, nhăng nhít ấy sao ? Có kẻ vì có chút học thức muốn được tôn trọng, kính nể, như thể mọi người phải đến học hỏi họ và lạy họ làm sư phụ… Chính vì thế, người ta tặng họ biệt hiệu “mô phạm rởm”. Còn kẻ khác nữa thì vênh vênh tự đắc khi thấy mình xinh đẹp và tưởng cả thế giới đều chạy theo tán tỉnh mình. Tất cả các cái đó là tầm phào lố bịch và vô lý quá chừng. Còn cái vẻ vang bởi đó mà ra là thứ vẻ vang hão huyền lố lăng và vô lối.

Người đời nhìn biết cái tốt thật như người sành biết dầu thơm chính hiệu. Người ta thử dầu thơm bằng cách nhỏ vài giọt vào nước, nếu nó chìm xuống đáy, thì đó là dầu hảo hạng và quý. Cũng vậy, muốn biết một người có thật khôn ngoan, thông thái, đại độ, cao thượng không, phải xem các đức ấy có mang dấu khiêm nhường, nhũn nhặn và phục tùng không lúc ấy mới thực là đức chân chính. Nhưng nếu chúng muốn vươn lên, muốn cho mọi người thấy, đó là đức giả hiệu, càng giả vì càng phô trương bên ngoài. Những hạt ngọc trai nảy nở và nuôi giữa gió và tiếng sấm sét chỉ có vỏ là ngọc còn bên trong rỗng tuếch. Các nhân đức và đức tính tốt của người ta cũng vậy, nếu nó nảy nở và nuôi dưỡng trong kiêu ngạo, trong khoác lác và trong khoe khoang chỉ có cái vỏ là nhân đức còn không có thực chất, không có tủy, không chắc.

Danh giá, cấp bậc, chức quyền cũng như củ nghệ, càng bị chà đạp càng xinh tốt, xum xuê. Vinh dự vì có sắc đẹp sẽ tiêu ma nếu ta đâm tự đắc. Sắc đẹp muốn cho có duyên dáng cần phải để tự nhiên. Học lực sẽ đem đến tủi hổ, nếu nó làm ta đâm hách và biến thành thông thái rởm. Nếu ta ráo riết chi ly vế cấp bậc, chỗ ăn chỗ ngồi, chức tước, chúng làm các cái đó thành đê tiện và đáng ghét, ấy là chưa kể ta đưa các đức tính ta làm đầu đề cho người ta đàm tiếu, soi mói và công kích.

Vì danh vọng chỉ tốt đẹp khi ta lãnh như một ơn hụê, nếu ta đòi hỏi, tìm kiếm và chạy chọt, nó sẽ thành đáng ghét. Khi con công xòe đuôi để người ta nhìn, nó phô trương cả mình nó nữa, làm cho người ta xem thấy cả những cái xâu của nó. Hoa chỉ đẹp khi trồng dưới đất, nếu đem mân mê nó sẽ héo tàn. Cũng như hương cây ngài sâm ngửi xa xa và thoảng qua thì thấy thơm dễ chịu, nhưng ai ngửi gần và lâu sẽ bị ngất xỉu và lâm bệnh[2]. Thì đây, danh vọng ban an ủi êm ái cho ai ngửi nó xa xa và thoảng qua, không quá tha thiết vồ vập với nó lắm. Nhưng yêu thích và ước mơ, danh vọng chỉ còn đáng khinh chê, ghét bỏ vô cùng.

Yêu quý và theo đuổi nhân đức, là bắt đầu làm ta nên người nhân đức ; nhưng đeo đuổi và yêu thích danh vọng làm ta đáng khinh, đáng trách. Các tâm hồn cao thượng không có dây vào những lố lăng về cấp bậc, danh vọng, khúm núm ấy, họ có nhiều chuyện khác phải làm. Đấy là việc của bọn người ăn không ngồi rỗi. Ai đã có ngọc trai không màng đến vỏ, người theo đàng nhân đức không hám danh vọng. Đã hẳn, mỗi người có thể sống và giữ chức bậc mình mà không mất khiêm nhường, miễn là sống cách tự nhiên không ham hố. Người đi Pê-ru (Pérou) trở về, ngoài số vàng bạc họ thu thập được, còn mang theo khỉ và vẹt về nữa, vì chúng không đắt mấy và cũng không làm nặng thuyền. Người sống thánh đức cũng không từ bỏ các chức bậc và danh giá họ có, với điều kiện đừng là những gánh nặng bắt họ quá lo lắng và để tâm, mà gây nên những xao xuyến, những âu lo, tranh giành hay kiện tụng. Ở đây, tôi có ý nói đến những người có địa vị thuộc công ích, hoặc đôi trường hợp riêng có thể có hậu quả lớn lao. Ở hoàn cảnh này người nào phải giữ lấy địa vị của người nấy với khôn ngoan dè dặt, đi đôi với lòng bác ái và lịch thiệp.

-----------------

[1] Luân đức là các nhân đức luân lý : như nghèo khó, thanh tịnh, khiêm nhường v.v… khác với thần đức là các nhân đức thần giao như tin, cậy, mến, nghĩa là khi ta tin, cậy, mến, ta trực tiếp lấy Chúa làm đối tượng của lòng tin, cậy, mến của ta, ta trực tiếp giao cảm với Thiên Chúa. Còn nhân đức là ta hành động trực tiếp trên các sự vật ngoài Thiên Chúa song vì Thiên Chúa.



CHƯƠNG 05 - ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG BÊN TRONG

Nhưng chắc Philôtê còn muốn tôi dẫn con vào sâu hơn trong đức khiêm nhường, vì làm như tôi đã bàn trên kia thì xem có vẻ khôn ngoan hơn là khiêm nhường. Vậy bây giờ tôi qua chặng khác. Có nhiều người không muốn, không dám nghĩ hay suy đến những ơn Thiên Chúa đã ban riêng cho họ, sợ nhiễm tính chuộng hư danh hay tính tự mãn. Họ lầm ! Vì như thánh Tiến sĩ Thiên Thần (Thánh Tô-ma A-qui-nô) nói : phương thế tốt để đạt tới lòng mến Chúa là suy đến các ơn huệ Ngài ban. Càng biết chúng hơn, ta càng chuộng hơn. Và thường các ơn huệ đặc biệt làm ta cảm kích hơn các ân huệ thông thường, nên càng phải suy về chúng cẩn thận hơn. Đã hẳn, không gì cho mình cảm thấy tủi hổ trước lòng thương xót của Chúa cho bằng nghĩ đến muôn vàn ơn huệ Thiên Chúa đã ban cho ta ; hoặc tủi hổ trước đức Công bình của Ngài cho bằng thấy mình đã phạm bao nhiêu điều ác. Ta hãy suy đến những gì Ngài đã làm cho ta và những gì ta đã làm chống lại với Ngài ; và như ta xét cặn kẽ về từng tội, ta cũng hãy suy về từng ơn huệ Chúa ban. Đừng sợ biết những ơn Ngài ban làm ta kiêu căng, miễn ta lưu tâm điểm này : cái gì tốt trong ta không phải do ta. Ôi ! lừa kia đâu có mất bẩm chất nặng nề hôi hám chỉ vì được mang trên mình những vật quý giá và thơm tho của vua ! Có gì tốt mà chẳng là của ta đã nhận được sao ? Nếu đã nhận được mới có, sao ta lên nước ? (1Cor 4, 7). Trái lại, lưu tâm suy đến các ơn đã nhận được giúp ta nên khiêm nhường vì biết thì sinh biết ơn. Nhưng nếu, nhìn các ơn Chúa đã ban, ta thấy ngứa ngáy muốn khoe mình, phương thuốc hay nhất là đem trí suy đến các bạc bẽo, các khuyết điểm, các khốn cực của ta. Nếu ta suy các cái ta đã làm, khi Chúa chưa ở với ta, ta sẽ thấy rõ cái ta làm được khi Ngài ở cùng ta không phải là do tài cán hay sức lực ta đâu. Đã đành ta hưởng, ta vui vì có các sự đó, song ta chúc vinh chỉ mình Thiên Chúa vì ngài là tác giả các việc ấy. Đức Trinh Nữ Maria đã nêu gương cho ta : Người tuyên xưng : Thiên Chúa đã làm nơi Người bao điều cao trọng nhưng là để Người hạ mình và tôn kính Thiên Chúa : như Người nói : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Ngài đã thực hiện trong tôi muôn điều trọng đại”. (Luca 1, 46).

Biết bao lần ta nói mình không là gì cả, là khốn nạn và nhơ nhớp của trần gian, nhưng ta lại buồn khi ngươi ta coi đó là thật và người ta rêu rao lên rằng ta hệt như ta nói : hoặc ngược lại, ta giả bộ chạy trốn cốt để người ta chạy theo tìm kiếm. Cử chỉ bên ngoài tỏ ra  ta là người muốn rốt bét và ngồi cuối bàn, song dụng ý là để được mời lên đầu bàn cách oanh liệt. Đức khiêm nhường chân chính không giả bộ, không những chỉ nói những lời khiêm nhường, vì không những nó muốn che giấu các đức khác, mà còn và nhất là che giấu chính mình. Giả sử có thể nói dối, giả bộ hay làm gương xấu được thì nó sẽ làm bộ kiêu căng, tự đắc để che giấu kỹ hơn và để sống không ai biết đến mình.

Hỡi Philôtê, tôi thiển nghĩ hoặc đừng nói những lời khiêm nhường, hoặc nói thì nói với tâm tình thành thật trong ngoài đi đôi. Chỉ nên cúi mặt nhìn xuống khi lòng ta hạ xuống khiêm nhường. Đừng giả vờ làm kẻ rốt bét mà thực tình ta chẳng muốn. Tôi cho đó là một luật chung, không có luật trừ. Tuy nhiên phép lịch sự đòi ta phải nhường sự tốt đẹp hơn cho người, dầu ta biết họ sẽ từ chối. Cái đó không phải là tráo trở hay khiêm tốn giả. Vì chính cử chỉ kính nhường ấy đã làm cho người ta được danh dự phần nào rồi, nếu ta không thể đem cho họ tất cả danh dự, ta không làm gì xấu khi hiến cho họ một phần. Về đôi lời trọng vọng hay tôn kính, nếu xét cho cùng có vẻ không thật, nhưng dầu sao chúng cũng thật một phần nào, miễn là khi nói phải thật lòng muốn tôn kính người mình nói với. Dù những lời ấy có đi quá sự thật một chút, ta không mắc lỗi, vì thói quen đòi phải dùng thế. Tuy vậy, tôi mong sao các lời kia phải sát với tâm tình ta được chừng nào hay chừng ấy, để trong mọi sự và mọi nơi ta luôn giữ lòng đơn sơ và trong sáng. Người thực sự khiêm nhường thích người khác nói mình khốn nạn, không ra gì, không đáng giá gì chứ không phải chính mình nói ra. Ít nhất khi biết người ta nói như thế mình không phản đối, nhưng vui lòng nhận vì tin chắc người ta nói đúng, nên mình rất vui mừng thấy người khác nghĩ như mình. Có người nói : Thôi dành việc suy ngắm cho người hoàn thiện còn mình không xứng đáng. Người khác tuyên bố : Họ không dám rước lễ luôn luôn, vì họ không thấy mình trong sạch đủ. Kẻ lại nói : sợ làm ô nhục cho đàng nhân đức nếu họ đưa mình vào, vì tự thấy khốn nạn và mỏng dòn lắm. Kẻ khác : từ khước không đem tài năng phụng sự Chúa và đồng loại, vì họ nghĩ mình yếu đuối, họ sợ đâm kiêu ngạo nếu họ được là dụng cụ để làm việc tốt lành nào đó, và đem soi sáng cho kẻ khác, họ bị hao mòn đi. Tất cả những lời nói trên đều là xảo ngôn, là thứ khiêm nhường, không những giả hiệu, song còn tai hại. Vì nhờ những lời đó người ta muốn chê trách các điều thuộc về Chúa cách ngấm ngầm, tinh quái ; hoặc ít ra lấy cớ khiêm nhường để che đậy tính yêu thích ý kiến riêng tâm tình riêng và lười biếng của mình. I-sa-ya tiên tri nói với vua A-kháp : “Hãy xin Chúa một điềm lạ trên trời hay dưới đáy biển”. Nhưng vua trả lời : “Không, tôi không xin, tôi không muốn thử thách Chúa” (Isaia 7, 17). Ôi con người manh tâm ! Ông ta ra vẻ rất tôn trọng Thiên Chúa, lấy lý khiêm nhường để tự chước cho mình khỏi mong cầu ơn thánh. Chúa đã rủ lòng thương trách lỗi ấy của ông. Sao ông lại chẳng thấy : một khi Chúa muốn thi ân thì từ chối các ơn huệ Chúa muốn ban là kiêu ngạo, còn vâng lời và hết sức đáp lại các ước muốn của Ngài, là khiêm nhường ư ? Mà ước muốn của Chúa là ta hãy nên hoàn thiện, bởi kết hiệp với Ngài, bắt chước Ngài hết sức. Người kiêu hãnh, tự tín vào mình, có đủ lý mà không dám làm gì cả. Song người khiêm nhường càng can đảm khi thấy mình càng bất lực, và khi biết mình yếu hèn chừng nào, họ càng bạo dạn chừng ấy, vì đặt tất cả lòng trông cậy nơi Chúa, Đấng thích thi thố quyền phép vạn năng trong yếu hèn của ta và dủ lòng thương xót nỗi khốn cực của ta. Vậy, phải lấy lòng khiêm nhường và thánh thiện mà dám làm những gì các linh hướng ta xét hạp để giúp ta tiến bộ.

Nghĩ mình biết cái mình không biết, là ngu xuẩn rõ ràng ! Làm bộ thông thái về cái mình biết là mình không biết, là khoe khoang không thể chịu được ! Phần tôi, tôi cũng không muốn làm kẻ giỏi vì cái tôi biết hay ngược lại làm kẻ vờ ngu. Khi đức bác ái đòi, phải thông truyền cách thẳng thắn và từ tốn cho người đồng loại không những điều họ cần hiểu biết mà ngay cả điều có ích cho họ thỏa lòng. Vì đức khiêm nhường che giấu các nhân đức khác là cốt để bảo vệ, gìn giữ, nhưng khi đức bác ái đòi hỏi, lại không ngần ngại tỏ các nhân đức ra để làm chúng tăng tiến, lớn lên và hoàn hảo. Như thế, đức ấy giống như thứ cây nọ ở đảo Ty-lốt[1], cứ ban đêm thì che kín lấy những cánh hoa đỏ đẹp, và chỉ mở ra lúc hé bình minh, cho nên thổ dân nói thứ hoa ấy ngủ ban đêm. Đức khiêm nhường cũng che kín mọi nhân đức và hoàn thiện của người ta, và chỉ cho lộ ra vì bác ái, là nhân đức không phải của con người đời song của trời, không phải thuộc luân thường song trực tiếp thuộc Thiên Chúa, là mặt trời các nhân đức, thống trị trên các nhân đức, cho nên khiêm nhường mà làm hại cho bác ái, đó là khiêm nhường giả trăm phần trăm.

Tôi không muốn làm kẻ dại, cũng không muốn làm người khôn, sự đơn sơ, ngay thẳng ngăn tôi làm dại. Và nếu khoe khoang là trái với khiêm nhường thì mánh lới giả bộ, kiểu cách trái với đơn sơ, ngay thẳng. Nếu có đôi vị tôi tớ trọng vọng của Chúa đã giả bộ làm kẻ dại để trở nên nhớm gờm trước thế gian, ta chỉ nên thán phục mà đừng bắt chước. Họ có lý để làm cái kì dị ấy. Đó là những chuyện đặc biệt và phi thường của riêng các ngài, cho nên đừng ai áp dụng cho mình. Kìa vua Đa-vít nhảy múa trước Hòm Bia bất chấp nghi lễ thủ tục thông thường không phải người muốn thành điên dại, song người đã làm những bộ điệu bên ngoài ấy cách đơn sơ không kiểu cách vì nó hợp với niềm hân hoan tràn trụa vô tả người cảm thấy trong lòng. Đã hẳn, Mi-kôn, vợ người, có trách người về cử chỉ điên dại ấy, người không buồn vì đã ra như bần tiện. Song người không thay đổi cách diễn tả chất phác chân thành niềm vui của mình, và đã tỏ ra vui nhận chút nhục nhã vì Chúa. Dựa theo đó, tôi tưởng nếu do những hành động của lòng đạo đức chân thành và đơn thật mà người ta coi con là kẻ hèn hạ, đáng ghét hay điên dại, đức khiêm nhường sẽ làm cho con vui mừng vì những sự tủi hổ có phúc đó, vì căn nguyên tủi hổ này không do con song do các kẻ làm cho con.

-----------------

[1] Các đảo trong vịnh Ba-tư.



CHƯƠNG 06 - KHIÊM NHƯỜNG LÀM TA YÊU QUÝ SỰ HÈN HẠ CỦA MÌNH

Tôi tiến thêm bước nữa để nói cho con, hỡi Philôtê, là hãy yêu sự hèn hạ của con trong mọi sự, mọi nơi. Chắc con sẽ hỏi : Cái đó nghĩa là thế nào ? Theo La ngữ, hèn hạ có nghĩa là khiêm nhường hạ mình, và khiêm nhường có nghĩa là hèn hạ. Khi Đức Mẹ nói lên trong bài ca của Người “vì Chúa đã ghé mắt nhìn phận hèn hạ của nữ tớ Chúa, rồi đây muôn thế hệ sẽ tung hô tôi diễm phúc”, Đức Mẹ có ý nói : Chúa đã vui lòng nhìn đến sự hèn hạ, ti tiện và thấp kém của Người để đổ tràn những ơn sủng và đặc ân. Tuy vậy, vẫn có khác nhau giữa khiêm nhường và hèn hạ. Vì hèn hạ là sự nhỏ nhoi, thấp kém và ti tiện có ở nơi ta, mà ta không nghĩ đến. Còn đức khiêm nhường là sự hiểu biết đích xác và chân nhận cái hèn hạ của mình. Mà tuyệt điểm của khiêm nhường không chỉ ở tại sự chân nhận sự hèn hạ, mà còn yêu nó, thích nó, không phải vì thiếu can đảm và đại độ, song để tôn vinh Thiên Chúa Uy linh hơn, cũng như để quý trọng người đồng loại nhiều hơn so với chính mình. Đó là điều tôi muốn khuyên con, và để hiểu rõ hơn, con nên biết trong số các sự khó ta phải chịu, có cái đê hèn, song có cái danh giá. Nhiều người chịu được sự khó danh giá, còn hầu như không ai muốn chịu cái đê hèn. Con hãy xem một thầy ẩn tu đạo hạnh, quần áo rách rưới và rét run. Ai cũng tôn trọng bộ quần áo rách nát, và cảm thương sự đau đớn của vị ấy. Nhưng nếu một thợ thủ công, một người quý tộc, một cô tiểu thơ mà nghèo đói như thế, người ta khinh bỉ chế nhạo. Chính đây sự nghèo khó của họ mới thật gọi là hèn hạ. Một tu sĩ nhận lời quở trách nặng nề của Bề trên cách cung kính, hay con cái của cha mẹ : ai cũng gọi đó là hãm xác, vâng phục và khôn ngoan. Nếu một hiệp sĩ hay một mệnh phụ nào cũng chịu như vậy bởi một người nào đó, thì dù có bởi lòng mến Chúa, người ta cũng cho đó là hèn nhát và ti tiện. Đây cũng là một sự khốn khó đê hèn nữa. Một người bị ung nhọt nơi cánh tay, kẻ khác nơi mặt. Thế mà người trước chỉ phải bệnh ấy thôi ; còn người sau vừa bị bệnh, vừa bị sự khinh bỉ, chê bỏ và tủi nhục. Cho nên tôi nói : không chỉ yêu cái sự khốn khó, đó là đức nhẫn nại, mà còn quý chuộng cả sự hèn hạ, cái này mới là đức khiêm nhường.

Lại nữa có những nhân đức hèn hạ và nhân đức danh giá. Đức kiên nhẫn, hiền từ, đơn sơ và khiêm nhường là các đức mà người thế gian coi là ti tiện, đê hèn. Trái lại, họ rất chuộng sự khôn ngoan, dũng cảm và hào hoa. Lại còn có giữa những hành động của cùng một nhân đức mà hành động này bị khinh chê, còn hành động kia được tôn trọng. Bố thí và tha thứ các xúc phạm là hai hành động của cùng một đức bác ái. Mọi người đều quý mến cái trên, còn cái dưới trước mặt thế gian thường bị khinh chê. Một người dòng dõi hay một mệnh phụ mà không buông mình sống bừa bãi theo nhóm người buông tuồn, không ăn nói, chơi bời nhảy nhót, ăn mặc, sẽ bị người khác chế nhạo và chỉ trích, và sự đoan trang đạo hạnh của họ bị mệnh danh là đạo đức rởm hay kiểu cách. Yêu sự đó, là yêu sự hèn hạ. Đây một ví dụ khác : ta đi thăm bệnh nhân, nếu người ta đưa tôi đến nơi khốn khó nhất, đó là một sự hèn hạ cho tôi xét theo thói đời, vì thế tôi yêu thích nó. Nếu người ta đem tôi đến những người có chức tước, đây lại là một sự hèn hạ trong tinh thần, vì đây không được nhân đức và công nghiệp bằng trên kia, vậy tôi cũng yêu quý sự hèn hạ này. Ngã giữa phố, ngoài cái đau còn có cái xấu hổ, phải yêu cái hèn hạ ấy. Có những lỗi, trong đó không có gì xấu nhưng có sự hèn hạ. Đức khiêm nhường không bắt ta phải cố ý làm các lỗi ấy, nhưng đòi ta đừng quá bối rối lo âu khi đã trót phạm. Tỉ dụ : đối sự dại dột ngớ ngẩn, bất lịch sự và vô ý tứ… vẫn phải tránh các cái đó vì lịch thiệp và khôn ngoan, song trót lỡ thì phải khứng nhận sự hèn hạ do đó và phải vui lòng nhận chịu để sống khiêm nhường. Còn hơn thế nữa : nếu tôi đã buông theo tính nóng giận hay bừa bãi mà nói những điều bất xứng làm Chúa và đồng loại bị xúc phạm, tôi sẽ hối hận hết sức và đau đớn cực lòng vì đã làm, và tôi sẽ cố gắng đền bù được chừng nào hay chừng nấy. Nhưng tôi cũng không quên nhận sự hèn hạ và khinh bỉ do đó đem đến cho tôi. Mà nếu có thể tách đôi hai sự ấy thì tôi sẽ mạnh mẽ khu trừ tội còn giữ lấy sự hèn hạ trong khiêm nhường.

Dù ta yêu sự hèn hạ đi liền với sự dữ , vẫn phải nhớ đền bù sự dữ đã gây ra hèn hạ bằng các phương tiện ám hạp và chính đáng, nhất là khi sự dữ lại có hậu quả lớn. Nếu tôi có một nhọt bẩn trên mặt, tôi sẽ chữa đi, song không phải để người ta đừng để ý đến sự hèn hạ tôi phải chịu do đó. Nếu tôi làm một điều không xúc phạm đến ai, tôi sẽ không cần xin lỗi, dù đó là một lỗi sai, miễn là nó không xảy ra thường xuyên. Tôi không nên xin lỗi chỉ vì để có sự hèn hạ mà chịu : Điều này đức khiêm nhường không cho phép. Song nếu vì vô ý hay dại dột, tôi đã xúc phạm hay làm gương xấu cho ai, tôi sẽ đền bù bằng xin lỗi, nhất là sự xấu ấy cứ kéo dài và đức bác ái buộc tôi khu trừ đi. Tựu chung, có đôi khi đức bác ái đòi ta phải đừng nhận sự hèn hạ vì ích cho người khác, khi thanh danh ta cần cho họ. Nhưng trong trường hợp này, khi cất sự hèn hạ khỏi mắt người ta để tránh gương xấu cho họ, ta phải cất giấu nó vào lòng, để họ được thấy gương sáng sinh ích lợi cho họ.

Nhưng Philôtê, con muốn biết những sự nào hèn hạ hơn cả, thì đây : những cái lợi ích cho hồn ta và đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả là những cái ta phải chịu vì tình cờ xảy đến hoặc do bậc sống của ta, ta không tự ý chọn, nhưng ta nhận từ tay Chúa gửi đến, mà Chúa chọn thì bao giờ cũng hơn ta chọn. Còn nếu phải chọn, thì những hèn hạ lớn hơn cả là tốt hơn cả. Gọi là lớn hơn cả, những cái trái ngược với xu hướng ta, miễn là chúng phù hợp cho chức bậc ta. Đây cần phải nói một lần cho rõ : cái tật chọn lựa làm hư, giảm hầu hết các nhân đức của ta.

Ôi, ai sẽ cho ta được nói như thánh vương Đa-vít : “Tôi chọn làm kẻ hèn trước nhà Chúa, còn hơn ở lầu đài kẻ có tội” (Ca vịnh 81, 11).

Philôtê thân mến, người đó chắc không ai ngoài Đấng, vì muốn nâng ta lên, đã sống và chết trong “tủi nhục và hèn hạ trước mặt mọi người và cả toàn dân”. Tôi đã nói nhiều điều con thấy có vẻ khó khăn cay cực khi thoạt nghĩ tới, song con hãy tin tôi, nó sẽ êm ái ngọt ngào hơn đường và mật và khi con thực hành.



CHƯƠNG 07 - CÁCH BẢO VỆ THANH DANH KHI TẬP ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

Người đời không tặng khen lao, danh dự và vinh quang cho ai chỉ có nhân đức thường song có nhân đức cao siêu. Vì khi khen lao, ta muốn thuyết phục người khác cũng tôn trọng sự ưu tú của một người nào. Và khi làm vinh dự ai, ta quả quyết chính ta tôn trọng người đó. Còn vinh quang, theo ý tôi, là cái ánh rực rỡ của thanh danh phát ra từ các lời khen lao và vinh dự gom góp lại. Nếu vinh dự và khen lao là ngọc quý, thì vinh quang là tia sáng bật ra từ đống ngọc ấy. Mà đức khiêm nhường không cho phép ta tưởng mình vượt xa hay được quý chuộng hơn kẻ khác, cho nên cũng không cho phép ta tìm kiếm khen lao, danh dự và vinh quang mà chỉ ai ưu tú mới được hưởng. Tuy vậy, đức khiêm nhường cũng nghe lời răn bảo của Đấng khôn ngoan dạy : “phải chăm nom cho thanh danh ta” vì giữ gìn thanh danh tức là tôn trọng không phải vẻ ưu tú tuyệt vời, song tôn trọng nết lương thiện và vẻ tinh khiết của đời sống ta. Đức khiêm nhường không cấm ta nhìn nhận có sự ấy nơi ta, tức cũng không cấm ta ước mong được danh thơm bởi đó. Đã hẳn, khiêm nhường sẽ khinh bỏ thanh danh nếu đức bác ái đòi hỏi, song vì thanh danh là một trong những nền móng của xã hội loài người, không nó, ta trở nên không những vô dụng mà còn có hại cho quần chúng vì gương xấu của ta. Tóm, đức bác ái đòi hỏi, và khiêm nhường cho phép ta ước mong và bảo vệ thanh danh cách thận trọng.

Vả lại, như lá cây tự nó không đáng giá gì, nhưng vừa giúp tô điểm, vừa để che chở cho hoa quả khi còn non, thì thanh danh cũng thế, tự nó không đáng thèm khát bao lăm, tuy vậy, cũng hữu dụng lắm, không những để tô điểm đời ta, mà còn gìn giữ các nhân đức, nhất là các nhân đức còn non yếu. Bị bó buộc phải giữ tiếng tốt và phải sống xứng đáng với sự quý trọng của người ta, cái đó cưỡng ép vừa mạnh mẽ vừa êm ái, chí can đảm của ta thêm nổ lực hơn. Philôtê thân mến, ta hãy gìn giữ nhân đức ta vì chúng đẹp lòng Chúa, Đấng là đối tượng cao cả và siêu việt của mọi hành động ta. Song cũng như kẻ muốn giữ các trái cây không chỉ đem làm mứt, còn đem để mứt ấy trong bình, ngõ hầu giữ chúng lâu dài ; đây cũng thế, tuy lòng mến Chúa là yếu tố chính gìn giữ các nhân đức ta, ta còn có thể dùng cả thanh danh làm yếu tố thích hạp, hữu ích để gìn giữ nữa.

Tuy nhiên không nên quá hăng hái, chi li, xét nét trong việc bảo vệ tiếng tốt, vì người dễ cảm xúc, dễ mích lòng về thanh danh mình thì giống như kẻ hơi húng hắng khó chịu là đã chạy tìm đủ mọi thứ thuốc. Họ tưởng như thế là giữ sức khỏe, kỳ thực họ làm hại. Nên người quá lo lắng cho thanh danh, sẽ đánh mất nó : bởi vì, quá dễ động lòng, họ sẽ trở nên kỳ quặc ương ngạnh, khó tính và kích thích ác tâm của kẻ hay gièm pha.

Che giấu và coi khinh các nỗi sỉ nhục và vu khống đó thường là phương thuốc hiệu nghiệm hơn là giận dỗi, tranh chấp và oán thù. Coi khinh là làm chúng tiêu tan, còn nếu đâm tức giận, thì như đem thú ra. Cá sấu chỉ cắm kẻ nào sợ chúng, lời gièm pha cũng chỉ làm đau đớn kẻ lo buồn vì nó.

Sự sỡ hãi quá độ phải mất thanh danh tỏ ra ta ít tin tưởng vào nền tảng chắc chắn của thanh danh ta, tức là một đời sống tốt lành chân thật. Thành phố nào có cầu gỗ bắc trên sông, lo chúng bị nước lũ cuốn đi ; còn thành nào có cầu bằng đá chỉ lo khi có đại lụt bất thường. Cũng vậy, người có căn bản đạo hạnh chắc chắn thường khinh những lời gièm pha, còn kẻ thấy mình yếu hèn lại sợ bất cứ cái gì. Đã hẳn, Philôtê, ai muốn có tiếng tốt trước mặt hết tất cả mọi người, sẽ mất ; ai muốn nhờ những kẻ đã thành đê tiện và nhơ nhuốc vì xấu nết đem tiếng tốt cho lại cho, thì họ đáng mất danh dự.

Thanh danh ví như một bảng hiệu, trỏ cho biết nhân đức ở đâu, cho nên phải quý chuộng nhân đức hơn cả, bất cứ ở đâu và về sự gì. Vì thế, nếu ai nói con : “đồ giả hình” vì đã theo đường đạo đức ; hoặc người ta coi con là nhát đảm, vì đã tha thứ xúc phạm, con hãy bất chấp tất cả những cái đó. Vì không kể những xét đoán ấy là do những kẻ xuẩn ngốc, thì dù có phải mất thanh danh chăng nữa, con cũng đừng vứt bỏ nhân đức hay bỏ con đường đạo đức, vì phải chuộng quả hơn lá, nghĩa là của cải bề trong và thiêng liêng hơn mọi của cải bề ngoài. Phải chăm nom săn sóc, nhưng không nên tôn thờ thanh danh. Không nên chọc mắt người lành, thì cũng không nên đòi hài lòng kẻ xấu. Râu tô điểm bộ mặt người nam, và tóc trang điểm khuôn mặt người nữ, nếu người ta nhổ hết râu hay tóc ấy tự gốc, chắc rất khó mọc lại, song nếu chỉ hớt hay cạo nó đi, nó sẽ mọc lại ngay và còn rậm và cứng hơn trước. Tiếng tốt cũng vậy, dù có bị cắt bị nạo đi bởi miệng kẻ dèm pha, mà theo lời Đa-vít, nó sắc như dao cạo (Ca vịnh 61, 4), cũng không nên lo lắng, vì nó sẽ mọc lại ngay, không những đẹp như xưa mà còn vững chắc hơn. Nhưng nếu cái nết hư, cái hèn nhát, đời sống xấu xa của ta làm ta mất thanh danh, khó mà lấy lại được vì chân gốc nó đã bị nhổ. Chân gốc đây là gì ? là sự tốt lành và liêm chính. Bao lâu nó còn trong ta, bấy lâu còn có thể phát sinh lại danh dự mà nó có quyền có.

Phải bỏ những chuyện trò vô ích, những giao du vô dụng, các tình bạn bè hão đi, nếu nó làm hại thanh danh, vì thanh danh đáng trọng hơn những vui thú hão huyền ấy, còn nếu vì lo việc đạo đức, để tiến bộ trong nhân đức và lập công nghiệp đời sau mà người ta lẩm bẩm, kêu trách, vu oan, ta mặc kệ cho tụi chó ngao sủa mặt trăng. Nếu chúng gây được vài dư luận xấu chống thanh danh ta, và như thế là hớt tóc và cạo râu của thanh danh ta, chầy kịp thanh danh ta sẽ mọc lại, và lưỡi dao cạo của dèm pha lại giúp cho danh dự ta như dao kéo tỉa nhành nho, làm nho sinh nhiều trái hơn.

Ta hãy luôn nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đanh ta hãy phụng sự Chúa với lòng trông cậy và đơn sơ, song cách khôn ngoan và kín đáo. Ngài sẽ là Đấng bảo vệ thanh danh ta, còn nếu Ngài cho phép nó bị cất đi là cố ý đền trả ta một cái tốt hơn : hoặc cho ta được tiến bộ trong khiêm nhường, mà một ly nhỏ còn quý hơn nghìn lượng danh giá. Nếu người ta quở trách ta bất công, ta cứ bình tĩnh đem sự thật đối lại vu khống ấy, nếu nó còn tiếp diễn ta cũng cứ tiếp tục hạ mình, trao phó thanh danh với cả linh hồn ta trong tay Thiên Chúa : như thế còn bảo đảm nào chắc hơn nữa ? Cứ phụng sự Chúa “lúc được tiếng tốt cũng như khi bị tiếng xấu”, theo gương thánh Phaolô, ngõ hầu nói được như vua Đa-vít : “Lạy Chúa, vì Chúa con chịu đựng nhuốc nha và tủi nhục đã phủ đầy mặt con” (Ca vịnh 68, 8).

Tuy vậy, tôi trừ ra một vài tội ác quá độc dữ và quá đê tiện đến nỗi không ai được phép bằng lòng chịu vu vạ như thế, mà không tự bào chữa một cách chính đáng. Cũng trừ ra một đôi người mà thanh danh rất cần để mưu ích thiêng liêng cho nhiều người khác : trong trường hợp này, theo ý kiến các nhà thần học, phải bình tĩnh bắt đền bù lại sự thiệt hại và danh giá đã bị.



CHƯƠNG 08 - ĐỨC HIỀN TỪ ĐỐI VỚI ĐỒNG LOẠI PHƯƠNG THẾ CHỮA TÍNH NÓNG

Trong phép Thêm Sức và các lễ nghi Hiến Thánh, Hội Thánh noi theo truyền thống các tông đồ để lại, có dùng một thứ Dầu thánh là hợp chất của dầu ô-liu trỗn lẫn với hương dược. Nó tượng trưng không kể nhiều điều khác, hai nhân đức rất đáng quý chuộng vẫn hằng sáng chói nơi Chúa chúng ta. Ngài đã đặc biệt khuyên dạy chúng ta tập hai đức đó, như thể nhờ hai đức đó dâng mình cách đặc biệt để phụng sự việc Chúa và theo dõi gương Chúa. Ngài phán : “Hãy đọc nơi Thầy lòng hiền từ và khiêm nhường” (Mt 2, 29). Đức khiêm nhường làm ta hoàn hảo đối với Thiên Chúa, đức hiền từ, đối với đồng loại. Trong số các chất dầu thơm, hương dược luôn lặn chìm xuống dưới, nên nó chỉ sự khiêm nhường. Còn dầu ô-liu luôn nổi lên trên, tiêu biểu lòng hiền từ, nhân hậu, luôn vượt lên trên mọi sự. Nó vượt trên mọi nhân đức như hoa của đức bác ái. Đức bác ái, như lời thánh Bê-na-đô nói, chỉ đạt mức hoàn toàn khi nó không những kiên nhẫn mà còn hiền từ và nhân hậu nữa. Nhưng Philôtê, con hãy lo sao cho dầu bí nhiệm pha trộn bằng hiền từ và khiêm nhường ấy luôn luôn ở trong lòng con. Vì một trong các mánh khóe của kẻ thù linh hồn là làm cho nhiều kẻ mãn nguyện với các vẻ bên ngoài của hai đức ấy, mà không xét kỹ các tâm tình bên trong của họ, cho nên tưởng mình khiêm nhường và hiền lành, mà kỳ thực không có tý nào cả. Cái đó dễ nhận thấy lắm ; mặc dầu họ có những cử chỉ rất có vẻ hiền từ và khiêm nhường song chỉ cần môt câu nói nhẹ, trái ý họ, một sự sỉ nhục cỏn con đối với họ, họ liền lên mặt cách kiêu hãnh không ngờ. Người ta đồn ai đã dùng thuốc khử độc, gọi nôm na là “mỡ thánh Phaolô” dùng[1] thì dù rắn độc cắn không bị sưng, miễn là thứ mỡ ấy mịn ; đây cũng vậy, khiêm nhường và hiền lành chân thật, sẽ làm bớt sưng bớt nhức, mà các sỉ nhục thường hay gây nên trong lòng ta. Nếu bị cắn, bị chích bởi các kẻ dèm pha và địch thù mà ta đâm ra kiêu kỳ, lên mặt giận dữ, đó là dấu khiêm nhường và hiền lành của ta không chân thật, mà là giả trá và có mã bên ngoài thôi. Thánh Tổ-phụ Giuse dặn anh em mình khi cho họ từ Ai-cập trở về quê cha mẹ : “Đừng nóng dọc đường” (Sách Sáng Thế : 45, 24). Tôi cũng dặn con như vậy, Philôtê. Đời này chỉ là một cuộc hành trình cực khổ về đời sau hạnh phúc, ta đừng giận nhau ở dọc đường. Hãy đi đường với anh em và bạn hữu ta cách hiền hòa, yên thấm dễ thương. Tôi quả quyết hẳn và không có luật trừ rằng : Con đừng bao giờ nóng giận, nếu có thể. Đừng lấy bất cứ cớ gì để cho phép con giận dữ, vì thánh Gia-cô-bê nói thẳng không e dè rằng : “tính nóng giận của người ta không gây được sự công chính của Thiên Chúa” (Gc 1, 20). Đã đành ta phải đánh đuổi sự xấu và sửa trị các tính hư của các kẻ ta có trách nhiệm trông coi, cách cương nghị và trung kiên, nhưng cũng hiền từ và êm thắm. Không có gì làm voi dữ diu tính bằng nhìn thấy một con cừu non, và không gì làm giảm sức phá của trái thần công bằng nắm len. Người ta không chấp nhận lời răn bảo nói lúc nóng tính, dù có lý mấy đi nữa, cho bằng lời sửa bảo mà ta chỉ vì lẽ phải mà nói ra. Lý do là : lý trí ta tự nhiên thích nghe theo lẽ phải, song chỉ chịu khuất phục tính nóng nảy vì áp lực. Cho nên khi lý trí mượn sức của cơn nóng nảy mà nói, nó trở thành đáng ghét : sức lực khắc phục chính đáng của nó đâm suy đồi vì đã vịn vào bạo lực áp chế.

Vua chúa làm vinh dự và yên ủi cho dân rất nhiều nếu đến thăm dân với một đoàn tùy tùng an hòa. Nhưng nếu đến với một đạo binh, dù là vì công ích, người dân vẫn khó chịu, vì cho đi các vị có ra kỷ luật sắt cho binh sĩ chăng nữa, thì tài tình thế nào cũng không khỏi lọt đôi ba sự lộn xộn, hà hiếp, bạo lực. Đây cũng vậy, khi nào lý trí cai trị, sữa chữa, trách phạt an hòa, thì dù có làm cách nghiêm ngặt và thẳng thắn, ai cũng thích và tán thành. Nhưng nếu làm theo cơn nóng nảy tức giận, mà theo lời thánh Au-gu-ti-nô nói, là đoàn quân tháp tùng, lúc ấy nó làm người ta sợ hơn là yêu nó. Và hậu quả trực tiếp nhất là chính lòng nó bị chà đạp và ngược đãi. Thánh Au-gu-ti-nô viết cho Pro-fu-tu-rô : “Đóng cửa và không cho tức giận vào dù nó công bình và hợp lý, thì khôn hơn hé mở để nó chen chân vào dù chút ít, vì một khi lọt vào được, khó mà đuổi ra. Nhất là khi vào nó chỉ là mầm non, chẳng bao lăm nó to lớn như cái cột nhà”. Còn khi nào nó kéo dài tới đêm và mặt trời lặn rồi vẫn còn giận, (đây là điều mà thánh Tông đồ ngăn cấm (Eph 4, 26), tức là đã thành căm hờn, lúc ấy hầu như vô phương khu trừ nó : vì nó sẽ vịn lấy trăm ngàn cớ giả dối, bởi lẽ chưa bao giờ người giận dữ cho sự giận dữ mình là vô lý cả.

Vậy, biết sống không nóng giận thì tốt hơn là muốn dùng nóng giận cách vừa phải và khôn ngoan. Còn khi nào vì tính yếu đuối, sơ sót mà ta bất chợt đâm nóng giận, hãy đàn áp nó ngay còn hơn là dụ dự với nó. Vì chỉ cần cho nó có thế đứng, nó sẽ làm chủ tình thế ngay như con rắn hễ đầu đi là đuôi lọt. Con sẽ hỏi : làm sao đẩy lui sự nóng giận ? Đây Philôtê, vừa chợt cảm thấy nổi cơn nóng, con hãy tập trung gấp mọi sức lực tuy không cần hấp tấp hay dữ dằn song nhẹ nhàng êm thắm, nhưng rất nghiêm trang. Vì nhiều khi thấy xảy ra trong các phiên họp của Thượng nghị viện hay Quốc hội, người môn lại la lên : “Im lặng !” kỳ thực ông ta làm huyên náo hơn các kẻ ông muốn bắt im lặng. Cho nên, nhiều khi ta muốn đàn áp cơn nóng giận cách hung bạo, ta gây nhiều lộn xộn trong lòng ta hơn chính cơn nóng giận nữa. Một khi lòng đã xao xuyến như thế, nó không còn thể tự chủ được.


Sau cái cố gắng êm thấm kia, con hãy thi hành điều thánh Ao-gu-ti-nô, khi đã cao niên, dạy cho Giám mục trẻ tuổi Ao-xi-liô : “Con hãy làm như một người có bổn phận phải làm. Còn khi nào xảy đến cho con điều nói trong Ca vịnh : “Mắt tôi ngầu lên vì giận dữ” lúc ấy con hãy chạy đến kêu cầu Chúa :”Xin Chúa thương xót con, Lạy Chúa”, ngõ hầu Ngài giang tay ra dẹp tan cơn nóng giận của con. Tôi có ý nói :con phải xin Chúa giúp khi thấy mình nóng giận, theo gương các thánh Tông đồ lúc bị dông bão làm đảo thuyền nghiêng ngửa trên Biển Hồ (Tibêriađê), Chúa sẽ truyền khiến cơn nóng giận ta phải hạ xuống, và yên lặng sẽ vãn hồi. Tôi lưu ý con điều này :nguyện ngắm để chống trả cơn nóng giận hiện thời đang dồn dập con, phải là nguyện ngắm cách êm ái bình tĩng chứ không phải hung bạo. Đây là điều phải giữ khi dùng bất cứ phương pháp nào chống lại cái tính xấu kia.

Dầu vậy, khi con bất chợt thấy mình đã làm điều gì vì nóng giận hãy đền bù bởi một hành vi hiền từ đối với chính người con vừa tức giận. Cũng như vừa thoạt lỡ nói dối ta vội chữa lại ngay, là một phương thế hiệu nghiệm chống tật nói dối, thì một phương thuốc hay trừ nóng giận là sửa chữa ngay bởi một việc rất hiền từ ngược lại, đúng như người đời thường nói : vết thương còn mới dễ chữa lành !

Hơn thế, lúc tâm hồn con yên tĩnh, không có gì làm tức giận, hãy cố thu tích rất nhiều hiền từ và nhân hậu bằng cách nói lời gì, làm việc gì, nhỏ hay lớn, cách hết sức êm ái. Con hãy nhớ đến Vị Hôn Thê trong sách Nhã Ca : mật ngọt ngào không chỉ ở trên đầu lưỡi và trên môi nàng song còn dưới lưỡi nữa, nghĩa là trong lòng. Không chỉ có mật ong, còn có cả sữa (Nhã Ca 4, 11). Không phải chỉ có lời nói êm dịu đối với người đồng loại là đủ mà có cả tấm lòng cũng dịu dàng nữa. Và không những phải có sự dịu ngọt của mật thơm tho, nghĩa là sự khả ái trong khi tiếp truyện với khách, mà còn cả sự dịu ngọt của sữa đối với những người thân nhân và láng giềng. Nhiều người rất thiếu sót trong điểm này : ngoài đường họ như thiên thần, về nhà họ như quỷ dữ.

------------

[1] Người ta đồn rằng thánh Phao-lô dùng chất mỡ thuốc này trong trường hợp ngài bị rắn cắn kể ở sách Công Vụ Tông Đồ đoạn 18



CHƯƠNG 09 - HIỀN TỪ VỚI CHÍNH MÌNH

Một trong những thực hành đức hiền từ tốt nhất : là tập đối với chính mình, không bao giờ tức về mình, hay tức vì thấy mình khuyết điểm. Dù lẽ phải bảo rằng, sau khi phạm lỗi, ta phải buồn phiền, thống hối, song vẫn không được bực tức cay chua, ray rức, hờn giận và nóng nảy. Nhiều người phạm lỗi lớn về điều này : họ tức mình vì đã tức giận, họ bực bội vì đã bực tức, giận mình vì đã nóng giận. Làm như thế, họ nuôi lòng họ trong nóng giận, dù sự nóng giận thứ hai có vẻ là sửa phạt cái thứ nhất, kỳ thực nó làm mồi cho một cơn nóng giận khác nữa sẵn sàng có dịp là bùng dậy. Không kể những cơn nóng giận, hờn dỗi và bực tức với chính mình đó đưa đến kiêu ngạo, và bắt nguồn từ cái tính tự ái cứ hay lo lắng xao xuyến vì thấy mình còn khiếm khuyết nhiều.

Vậy, phải có lòng buồn bực vì đã phạm lỗi, nhưng cách êm ái, bình tĩnh và cương quyết. Khi ông chánh án cứ bình tĩnh và chiếu theo pháp lý mà tuyên án thì ông phạt tội kẻ gian ác hiệu nghiệm hơn là khi ông nóng nảy hung hãn, vì làm như thế ông không phạt theo lỗi mà lại theo tính tình của ông. Chúng ta cũng tự phạt mình bởi tâm tình sám hối bình tĩnh và đều đặn thì hiệu nghiệm hơn là bởi những thống hối cay đắng, dồn dập và nóng nảy. Những sám hối như thế đâu có phải là chiếu theo trọng tính của tội, nhưng theo những khuynh hướng tự nhiên. Tỷ dụ, người yêu quý đức thanh khiết sẽ bực tức cách cay đắng bất cứ lỗi nhỏ mọn nào nghịch đức này, trái lại họ tỉnh không khi phạm một lỗi gièm pha lớn. Ngược lại, kẻ ghét sự gièm pha sẽ âu sầu não nề vì tội gièm pha thoáng qua, nhưng coi thường một lỗi lớn phạm đức thanh khiết. Về các đức khác, cũng vậy. Cách cư xử lộn xộn ấy là do họ không xét xử lương tâm theo lý trí, nhưng theo tư dục.

Philôtê hãy tin tôi, cũng như các lời khiển trách dịu dàng và thật tình của người cha có sức khiến đứa con sửa mình chứ không phải các lời sấm sét lôi đình, thì khi hồn ta phạm tội lỗi nào, nếu ta trách móc cách êm ái, bình tĩnh, tỏ ra nhiều thương hơn là tức, đồng thời khuyến khích nó sửa mình đền tội, tâm tình thống hối của nó sẽ sâu đậm hơn và làm nó đau buồn hơn là nếu ta bực bội, giận dữ, ầm ỹ.

Riêng tôi, chẳng hạn tôi ước ao chẳng bao giờ mắc tính khoe khoang, thế rồi tôi đã sa ngã cách nặng, dầu vậy tôi cũng sẽ không trách phạt hồn tôi như sau : “Sau bao lần dốc lòng mà mày còn buông theo tính khoe khoang, có phải là đồ khốn nạn, đáng ghê tởm không ? Hãy xấu hổ mà chết đi, đừng ngước mặt nhìn trời nữa, hỡi đồ đui mù, vô liêm sỉ, phản trắc và thất trung với Chúa mày”, và những câu tương tự… Nhưng tôi sẽ sửa lỗi vừa phải, với niềm thương cảm : “Đó thấy chưa, hỡi hồn tôi, ta đã ngã sa trong tội, mà ta đã bao lần quyết định lướt thắng. Thôi ! ta hãy chỗi dậy, hãy từ bỏ nó cho đến mãn đời. Ta hãy kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy trông cậy lòng thương xót ấy sẽ trợ giúp ta để từ này vững vàng hơn. Ta hãy hạ mình khiêm nhường. Can đảm lên ! từ nay hãy đề phòng. Thiên Chúa sẽ giúp ta, ta sẽ khá hơn”. Sau khi đã trách lỗi như thế, tôi sẽ dốc lòng cương quyết vững vàng không bao giờ còn tái phạm, đồng thời dùng những phương tiện thích hợp, kể cả lời chỉ dạy của vị linh hướng tôi.

Tuy thế, nếu ai tự cho mình không thể dễ cảm kích bởi cách sửa lỗi êm ái ấy, họ có thể trách mắng và rầy la mạnh mẽ và cứng cỏi để kích thích mình cảm thấy tủi hổ sâu sa. Miễn là sau khi đã nặng lời trách mắng và giận mình, họ giảm bớt sự hung hãn và kết thúc niềm hối hận trong tâm tình trông cậy êm ái và thánh thiện nơi Chúa, theo gương vị Đại-Xám-Hối kia, khi thấy hồn mình ưu sầu, đã tự khích lệ mình rằng : “Sao buồn sầu, hỡi hồn tôi, tại sao xao xuyến ? Hãy trông cậy Chúa vì ta sẽ còn chúc tụng Ngài là phần rỗi và Thiên Chúa thật của ta”. (Ca vịnh 41, 6)

Vậy con hãy êm ái nâng tâm hồn con dậy khi nó ngã, và hạ mình thẳm sâu trước mặt Thiên Chúa để xưng mình khốn nạn mà không ngạc nhiên về sự sa ngã của mình. Vì có chi lạ khi sự suy yếu thì bạc nhược, sự yếu đuối thì yếu hèn và sự khốn cực thì khốn nạn ? Miễn là con hết sức chê ghét việc xúc phạm đến Chúa, và con lại đem hết can đảm và trông cậy lòng từ bi Chúa mà tiếp tục việc thực hành nhân đức đang dở dang.



CHƯƠNG 10 - PHẢI LO CÔNG VIỆC CÁCH CHU ĐÁO, KHÔNG HẤP TẤP VÀ XAO XUYẾN

Lo công việc cách chu đáo, cần mẫn thì hoàn toàn khác bồn chồn, lo lắng và lật đật. Các thiên thần cẩn thận săn sóc cho phần rỗi ta, song không vì thế mà các vị đâm bồn chồn lo lắng lật đật. Vì chăm nom săn sóc là việc thuộc đức bác ái của các vị, còn sự bồn chồn lo lắng và lật đật hoàn toàn nghịch lại phúc lạc của các vị. Lý do là chăm nom săn sóc có thể thi hành trong yên tĩnh và bằng an của tâm trí, mà sự bồn chồn xao xuyến thì không, và sự lật đật lại không lắm nữa.

Philôtê, con hãy cần mẫn chu đáo trong mọi công việc con phải làm, vì Thiên Chúa đã trao phó cho con,  Ngài cũng muốn con chăm nom hết sức. Nhưng nếu có thể được, đừng đâm bồn chồn lo lắng, và quá nóng nảy. Đừng hấp tấp trong việc làm, vì bất kỳ lật đật thế nào cũng làm rối trí suy nghĩ và xét đoán, và ngăn trở ta làm tử tế công viêc mà ta làm hối hả.

Khi Chúa Giêsu trách thánh nữ Mát-ta. Ngài nói : “Mát-ta ơi, con lo lắng và bồn chồn về nhiều chuyện quá” (Luca 10, 41). Con xem, nếu nàng chỉ lo việc một cách chuyên cần thôi, thì đâu có đâm xao xuyến. Nhưng vì nàng quá bồn chồn lo lắng nên đâm hối hả và bối rối, vì thế bị Chúa trách. Con song từ từ chảy về trung châu, cho phép tàu bè chở hàng hóa đến. Các trận mưa nhỏ hạt song đều đều trên đồng ruộng làm lúa má phì nhiêu. Nhưng dòng thác hay nước lũ chảy làm long lở đất đai tàu bè không qua lại buôn bán được. Các cơn mưa ào ào và dông bão chỉ phá hoại đồng ruộng và vườn tược ! Công việc làm cuồng nhiệt và hối hả không bao giờ tốt đẹp được như câu ngạn ngữ cổ nói : “Phải nhanh nhẹn cách từ tốn”.

Còn Sa-lô-môn cũng nói : “Kẻ hấp tấp thường dễ vấp ngã”. Khi ta làm tử tế là làm nhanh đủ rồi. Ong đất thường ầm ỹ và lật đật hơn ong mật, nhưng cùng lắm chúng chỉ làm ra sáp chứ không ra mật. Kẻ hối hả lo lắng ồn ào vừa không làm được nhiều vừa không làm tử tế.

Con ruồi không làm ta bực mình vì nó hung hăng song vì chúng nó nhiều, cũng vậy các công việc lớn không làm nao núng bằng các việc nhỏ song nhiều. Vậy con hãy đón nhận các công việc con phải làm với tâm hồn bình tĩnh, và cứ tuần tự từng cái một mà làm. Nếu con muốn làm tất cả một trật hoặc cách lộn xộn, con sẽ phải cố gắng nhiều, làm hao tổn tâm trí, làm con kiệt quệ, rồi cứ bình thường, con sẽ ngóc đầu lên không nổi chẳng làm gì nên trò.

Trong mọi việc, con hãy hoàn toàn nương tựa vào Quan Phòng của Thiên Chúa, nhờ Ngài mọi ý định của con sẽ được thực hiện. Còn phần con, hãy làm việc cách êm ả, và hợp tác với Quan Phòng Chúa. Và con hãy tin tưởng, nếu con hết tình tin cậy Thiên Chúa, thành công mà con lượm được sẽ vẫn là hữu ích hơn cả cho con, dù theo xét đoán riêng của con nó có vẻ bề ngoài thế nào đi nữa.

Hãy như đứa trẻ, một tay nắm tay cha mình, tay kia hái dâu hay trái mâm xôi dọc bờ dậu. Con cũng vậy, một tay vun quén, quán xuyến của cải đời này, tay kia luôn nắm tay Cha trên trời, thỉnh thoảng quay nhìn Ngài xem Ngài có ưng ý về việc nhà hay việc làm ăn của con không. Đừng bao giờ rời tay Ngài và sự phù trợ của Ngài cả, con tưởng sẽ rảnh tay hơn mà vơ lấy được nhiều hơn, song nếu Ngài buông con, con sẽ không đi một bước mà không ngã chúi mũi. Philôtê, tôi muốn dặn con khi đang lo công việc làm ăn thường thường mà không đòi con phải chú ý quá hay dồn dập quá, con hãy nhớ đến Chúa hơn công việc. Khi công việc quan trọng đến nỗi cần con phải đem tất cả chú ý để làm[1], thì thỉnh thoảng con hãy nhìn lên Chúa, như thủy thủ đi biển để lái con thuyền về bến, họ nhìn lên trời hơn là nhìn xuống nước. Như thế, Thiên Chúa sẽ làm việc với con, trong con và cho con, và công việc sẽ mang lại yên ủi.

------------

[1] Công việc mà ta làm do ý Chúa, cũng là điều đẹp lòng Chúa. Cho nên, làm việc đó tức là ta đang kết hiệp với Chúa rồi, ngay trong việc ấy, vì ta thi hành thánh ý Ngài. Ở đây ta kết hiệp với Chúa bằng việc làm, lúc suy ngắm ta kết hiệp với Chúa bằng trí khôn và tâm tình.



CHƯƠNG 11 - SỰ VÂNG PHỤC

Chỉ có đức mến làm ta nên thánh thiện. Nhưng đức vâng phục, đức thanh tịnh và nghèo khó lại là ba phương thế để đạt tới. Vâng phục cung hiến lòng ta, khiết tịnh cung hiến thân xác ta và nghèo khó cung hiến của cải ta cho tình mến Chúa và để phụng sự Ngài. Đó là ba cánh cửa thập giá thiêng, nhưng ba cánh đó phải xây trên cánh thứ bốn là đức khiêm nhường. Tôi không nói về các đức ấy như ba lời khấn dòng : vì đó là riêng cho các tu sĩ, hoặc như lời khấn tư thường, tuy nhờ lời khấn các nhân đức được thêm nhiều ơn và công nghiệp. Để giúp ta nên thánh thiện, các nhân đức ấy không cần phải thành lời khấn, chỉ cần thực hành các đức ấy là đủ. Các lời khấn, nhất là khấn công khai, đặt người ta trong bậc sống hoàn thiện.

Nhưng, để giúp con người tới hoàn thiện, chỉ cần thực hành các nhân đức ấy. Vì giữa bậc sống hoàn thiện và sự hoàn thiện có sự khác biệt rất lớn. Ta thử nghĩ xem : không phải tất cả mọi Giám mục và tu sĩ sống trong bậc hoàn thiện, đều được nên hoàn thiện cả đâu, điều ấy đã quá rõ ràng. Vậy hỡi Philôtê, ta gắng thực hành ba nhân đức ấy, mỗi người tùy theo bậc sống của mình. Dù chúng không đặt ta trong bậc sống hoàn thiện đi nữa, song chúng sẽ giúp ta nên hoàn thiện thực sự. Vì thế, tất cả chúng ta đều bó buộc phải tập ba đức ấy, nhưng không phải mọi người đều tập cách giống nhau.

Có hai thứ vâng phục, một vì cần thiết, hai vì tự ý. Vâng phục vì cần thiết là khi con phải khiêm nhường vâng phục các bề trên trong Hội Thánh như Đức Giáo Hoàng và Đức Giám Mục, Cha Xứ và những ai được các ngài ủy quyền cho. Con phải vâng phục các người cầm quyền trong xã hội : Đức Vua và các quan đã được ngài thiết lập coi xứ sở con. Con còn phải vâng phục các người trên trong nhà, nghĩa là cha mẹ, thầy giáo, cô giáo. Gọi vâng phục ấy là cần thiết vì không ai được phép tự chuẩn mình khỏi vâng lời các bề trên ấy, là người đã được Thiên Chúa ban quyền truyền khiến và cai quản mỗi người tùy theo trách nhiệm họ đối với ta. Con hãy tuân theo các mệnh lệnh của họ, đó là điều bó buộc. Song muốn nên hoàn thiện, con hãy tuân theo cả lời khuyên bảo của họ, ngay cả nguyện vọng và xu hướng của họ ngần nào tùy đức bác ái và đức khôn ngoan cho phép con. Hãy vâng phục khi họ truyền cho con điều dễ chịu, như đi dùng bữa, đi nghỉ giải trí. Dù thấy vâng lời như thế có vẻ chẳng nhân đức gì mấy, ít ra trái lệnh lúc ấy lại là một nết xấu hơn. Hãy vâng phục trong các điều không can hệ gì, như mặc áo này hay mặc áo nọ, đi đường này hay đi đường kia, hát hay im lặng : vâng phục như thế cũng đáng khuyến khích lắm. Vâng phục trong những điều khó, cực nhọc và nhờm gớm : đây là vâng phục trọn hảo. Cuối cùng, con hãy vâng phục cách hiền từ, không cãi lại, nhanh chóng không trì hoãn, vui vẻ không âu sầu ; nhất là vì mến yêu Đấng vì yêu ta “đã vâng phục cho đến chết trên thập giá”, và theo lời thánh Bê-na-đô, Đấng thà mất mạng sống hơn bỏ vâng lời.

Để tập dễ dàng vâng lời các Bề trên, con hãy dễ dàng nhún nhường chiều ý của bạn đồng trang, nhượng bộ các ý kiến họ trong những điều không xấu, không nên cãi cọ hoặc bướng bỉnh. Con cũng hãy cố nghe theo nguyện vọng của các kẻ Bề dưới con, trong khuôn khổ lẽ phải, đừng có kiểu uy hiếp họ khi họ vẫn tỏ ra tử tế đàng hoàng.

Thật là lầm to nếu nghĩ mình sẽ vâng phục cách dễ dàng nếu mình là tu sĩ, đang khi mình thấy cực lòng khó chịu vì phải vâng phục những người mà Thiên Chúa đang đặt làm bề trên ta.

Còn vâng phục tự ý là vâng phục ta muốn chọn để vâng theo, không ai gán buộc cho ta cả. Bình thường, ít có người trong chúng ta tự chọn lấy vua hay Giám mục, cha mẹ và nhiều khi ngay cả chồng mình nữa[1]. Song người ta tự chọn cha giải tội, cha linh hướng cho mình. Có đôi khi người ta còn thêm lời khấn vâng phục các ngài nữa như trường hợp thánh Tê-rê-xa Mẹ, ngoài lời khấn trọng thể vâng phục Bề trên Dòng, người còn khấn riêng vâng lời cha Gra-xi-a-nô. Hoặc có thể không khấn như thế song tự buộc vâng phục một người nào, cho nên gọi sự vâng phục ấy là tự ý, vì căn nguyên nó là do ý muốn ta chọn lấy.

Phải vâng phục mọi bề trên, tùy theo quyền chức mỗi vị đối với ta. Về các điều liên quan đến trật tự và quốc gia, phải vâng phục các vua chúa. Về các điều thuộc quản trị của Hội Thánh, phải vâng phục các vị có giáo chức. Về các điều thuộc gia đạo, phải vâng phục cha, thầy, chồng. Còn về việc lương tâm, vâng phục cha linh hướng, hoặc cha giải tội riêng của mình.

Con hãy nhờ cha linh hướng sắp đặt các việc đạo đức mà con phải làm, những việc ấy sẽ được thêm giá trị và tốt đẹp, đáng mến gấp đôi : vì một phần do bản chất của chúng là đạo đức, phần khác do đức vâng lời đã xếp đặt và dạy ta làm. Phúc cho kẻ vâng phục, vì không bao giờ Thiên Chúa để họ lạc lối.

-----------------

[1] Vì chế độ quân chủ và chế độ xã hội thời đó : vua là dòng dõi mà lên ngôi, chồng là do cha mẹ gả.



CHƯƠNG 12 - ĐỨC THANH KHIẾT CẦN THIẾT

Đức thanh khiết là hoa hụê các nhân đức, nâng con người gần ngang bậc thiên thần. Cái gì đẹp đều trong sạch, mà sự trong sạch của loài người là đức thanh khiết. Người ta gọi thanh khiết là liêm khiết, và gọi việc thực hành đức thanh khiết là danh giá. Nó cũng được gọi là sự  tuyền vẹn, còn ngược lại thì gọi là truỵ lạc. Nói tóm, nó có cái vinh quang đặc biệt, là một nhân đức tốt đẹp của cả xác hồn.

Không bao giờ được phép gây thú vui dâm ô nơi thân thể, bằng bất cứ cách nào, trừ trong hôn nhân chính đáng. Sự thánh thiện của hôn nhân có sức bù đắp đủ để sửa chữa lại tai hại mà khoái lạc gây nên nơi người ta. Và ngay trong hôn nhân, cũng vẫn phải giữ ý ngay thẳng để cho tất cả mọi việc vợ chồng làm cho nhau được nên cao thượng bởi ý chí hoàn toàn thanh cao, liêm khiết.

Lòng khiết tịnh là cõi lòng không muốn nhận một vui thú nào ngoài hôn nhân, là điều Thiên Chúa cho phép. Ngoài đó ra, đừng nghĩ đến dù chỉ một ý tưởng khoái lạc, cố ý và đồng tình.

Bậc thứ nhất của đức ấy là : con hãy giữ mình khỏi mọi khoái lạc bị cấm, hoặc vì không được phép dùng ngoài hôn nhân, hoặc ngay trong hôn nhân song vì chúng nghịch với luật hôn nhân.

Bậc thứ hai : được chừng nào hay chừng nấy, phải bớt những vui thú vô ích và dư thừa tuy là được phép.

Bậc thứ ba : Đừng để lòng dính bén vấn vương những vui thú và khoái lạc phải dùng hay buộc dùng, vì dù có phải dùng những sự vui thú cần thiết, nghĩa là thuộc về cứu cánh và thể chế của phép hôn phối, tuy vậy không nên để lòng ta, trí ta quyến luyến những sự đó.

Ngoài ra, mỗi người đều rất cần đến nhân đức thanh khiết ấy. Người góa bụa cần có một đức thanh khiết đầy nghị lực, không những để khinh rể những điều nguy hiểm hiện tại hay tương lai, mà còn để xua đuổi những tưởng tượng sẽ bày vẽ lại trong trí các khoái lạc đã được phép dùng xưa trong hôn nhân ; lúc này người ta dễ mềm lòng trước cám dỗ. Thánh Ao-gu-ti-nô ngưỡng mộ đức trong sạch của A-ly-piô thân mến của Ngài đã biết hoàn toàn quên bỏ và khinh chê các thú vui xác thịt, mà chàng đã đôi lần hưởng dùng trong thời thanh xuân. Mà thật, khi quả cây còn nguyên vẹn, có thể giữ chúng trong đám rơm, trong cát hay ủ trong lá. Nhưng khi đã ăn dở, không thể giữ chúng lại được, cùng lắm có thể đem ngâm đường và mật làm mứt. Đức thanh khiết cũng thế, khi chưa bị tổn thương hay đụng chạm tới, có thể gìn giữ bằng nhiều cách : song một khi đã bị đụng chạm, không gì có thể giữ nó được nữa, trừ ra bởi một đời đạo đức hoàn hảo, là mật và đường của tâm hồn như tôi thường nói.

Những người trinh khiết cần có một đức thanh khiết cực độ thanh cao và tế nhị, để tiễu trừ khỏi lòng họ mọi ý nghĩ hiếu kỳ, và tuyệt đối khinh miệt mọi thứ khoái lạc nhơ nhuốc mà nói thật chẳng đáng người ta thèm muốn, vì loài trâu ngựa mới dầm mình trong đó. Vậy, những tâm hồn thanh sạch hãy cận thận đừng bao giờ đâm nghi hoặc đức thanh sạch là điều tuyệt hảo vô song hơn tất cả những gì không đi đôi với nó. Thánh cả Hiê-rô-ni-mô nói : Kẻ nghịch đem hết lực lượng thúc bách những người trinh khiết ước ao nếm khoái lạc, bằng cách phô bày vẻ thú vị và tươi đẹp nhiều hơn là thật. Cái đó thường làm cho họ xao xuyến nhiều, vì cái họ không biết đến, họ lại cho là êm đẹp ; như con bướm đêm, nhìn thấy ánh đèn, bay xà đến lượn quanh để xem thử ngọn lửa có êm dịu đẹp đẽ không. Rồi bị tính hiếu kỳ thúc đẩy, nó cứ bay lượn luôn không yên cho đến lúc thử nhào vào và chết luôn. Các thanh niên thường cũng dễ bị choáng mắt đâm dại dột ưa thích những thú vui nhục dục, đến nỗi sau khi đã tưởng nghĩ về đó vì tò mò, họ buông mình sống truỵ lạc và liều mình hư mất đời đời. Thật là dại hơn con bướm ! Con bướm có lý một phần nào mà tưởng ngọn lửa là thú vui, vì lửa đẹp thật. Còn những kẻ kia đã biết điều họ tìm kiếm là bất chính hết sức, mà vẫn cứ yêu chuộng các khoái lạc dại dột và thô bỉ ấy.

Còn về những người có đôi bạn, đức thanh khiết quả thực là điều tối cần cho họ (tuy người thường không cho là thế !). Không phải trong đời họ phải hoàn toàn kiêng cữ những vui thú xác thịt, song biết cầm mình trong các sự ấy. Đới với tôi, giới luật nầy : “Dầu có tức giận, song đừng phạm tội” (Eph 4, 26), khó hơn giới luật : “Đừng nóng giận”, vì tránh không nóng giận thì dễ hơn là điều hoà cơn nóng giận. Cũng vậy, bỏ hẳn mọi khoái lạc xác thịt dễ hơn là giữ điều độ. Đã hẳn sự được phép dùng hôn nhân có một sức riêng để dập tắt lửa dục vọng, nhưng tính yếu đuối của những người dùng thường làm cho họ dễ dàng vượt quá mức được phép mà đi đến phóng túng, không còn sử dụng mà lạm dụng. Biết bao người giàu không bao giờ bố thí, chẳng phải vì họ nghèo song vì họ hà tiện thì cũng thấy nhiều người sống trong hôn nhân đi quá trớn vì vô tiết độ và dâm dật, mặc dù việc họ làm là chính đáng. Dục tình của họ như một ngọn lửa cháy lan đây đó mà không dừng lại một chỗ nào cả. Dùng thuốc mạnh luôn có nguy hiểm, hoặc uống nhiều quá độ cần thiết hoặc không dọn thuốc cận thận, thay vì chữa nó lại gây tai hại lớn. Hôn phối được chúc lành và một phần nào được chỉ định để làm lắng dịu dục tình, đã hẳn như thế nó là một phương thuốc hay, nhưng thuốc mạnh, và như vậy đầy nguy hiểm nếu không biết dùng cách dè dặt.

Xin thêm rằng không kể những lúc bệnh tật lâu dài, trong đời sống còn có đủ thứ công việc thường làm vợ chồng phải sống xa nhau. Vì thế, người kết bạn cần có hai thứ thanh khiết để giữ tiết dục tuyệt đối khi họ phải xa cách nhau trong những trường hợp tôi vừa kể, và thanh khiết để có điều độ khi họ bình thường chung sống bên nhau. Thánh Ca-ta-ri-na thành Xiên-na nhìn thấy trong số các kẻ sa hỏa ngục, nhiều linh hồn bị hình khổ dữ dằn vì phạm đến sự thánh thiện của hôn nhân. Người nói : Họ bị phạt không phải vì tội họ lớn, tội sát nhân và lộng ngôn còn lớn hơn, nhưng nhất là vì họ phạm tội ấy mà không hối hận ăn năn, do đó cứ tiếp tục phạm mãi.

Xem đó, đủ biết đức thanh khiết cần cho mọi hạng người. Thánh Tông Đồ nói : “Anh em hãy sống hòa bình với mọi người, và sống thánh thiện, chẳng vậy không ai sẽ được thấy Thiên Chúa” (Hy-bá 12, 14). Sống thánh đây, theo giải thích của thánh Hiê-rô-ni-mô và Gio-an Kim Khẩu, thánh tông đồ có ý nói là sống thanh khiết. Vậy Philôtê, không ai được thấy Thiên Chúa nếu không có lòng khiết tịnh ; không ai ở trong lều Ngài, nếu lòng không tinh sạch. Như Chúa Cứu Thế phán “hạng chó má và dâm ô sẽ phải loại!” (Khải Huyền 22, 15), và “phúc cho kẻ có lòng thanh sạch vì họ sẽ thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8).



CHƯƠNG 13 - LỜI KHUYÊN BẢO GIÚP GIỮ ĐỨC THANH KHIẾT

Con hãy hết sức nhanh chóng bỏ đi, đừng mon men tới những điều dâm đãng, vì cái tội này hoạt động êm thắm : bằt đầu bằng những sơ suất nho nhỏ, nó tiến đến những tai họa tầy trời. Lánh trước vẫn dễ hơn chữa sau.

Thân xác con người giống như những tấm kính, không thể để chung với nhau mà mang đi vì sẽ vỡ. Giống như quả cây, dù còn nguyên vẹn, dù được tẩm ướp, nhưng vì va chạm nhau nên làm rập nát nhau. Ngay đến nước đựng trong bình trong mát, khi đã bị con vật nào đụng tới sẽ không còn giữ được thanh trong lâu ngày. Hỡi Philôtê, con đừng để cho ai bất nhã đụng chạm tới con, dù có ý đùa bỡn hay vì có cảm tình. Nếu có may mắn còn giữ được đức thanh khiết qua các cử chỉ vui đùa hơn là hiểm độc ấy, vẻ tươi mát và tinh ròng của đức thanh khiết chẳng khỏi bị thương tổn, hư hại. Mà để cho người ta đụng chạm cách bất chính, đó là đức thanh khiết đã hoàn toàn bị hư hỏng rồi.

Thanh khiết hệ tại tâm hồn như nguồn gốc, song liên quan đến thân xác như chất liệu. Vì thế người ta mất thanh khiết vừa bởi ngũ quan thân xác, cũng như bởi tư tưởng và ước muốn của tâm hồn. Nhìn, nghe, nói, ngửi, đụng chạm các vật bất chính đang khi lòng mình vui thú và hướng chiều, đó là dâm ô. Thánh Phaolô nói gọn gàng : “Chớ gì anh em đừng nói ngay cả chuyện dâm ô” (Eph 5, 3). Con ong không chỉ tránh đụng tới thịt rữa thối, mà còn trốn lánh và ghét cực độ những hôi thối bởi nó xong ra. Trong sách Nhã Ca thấy nói đến nàng Hôn thê để tay chảy ra chất mộc dược, là dầu ngừa sự hư nát ; môi viền lằn chỉ hồng đỏ, dấu hiệu sự nết na trong lời nói ; đôi mắt như mắt bồ câu vì đơn sơ trong sáng ; tai đeo những hoa tai vàng dấu hiệu sự tinh khiết; mũi để giữa những cây bách hương núi Li-ba-nô, là giống gỗ không bị mọt (Nhã Ca 4)[1]. Hồn sống đạo đức cũng phải như vậy : thanh tịnh, trong sạch, đoan trang nơi tay, nơi miệng lưỡi, tai, mắt và toàn thân.

Về điểm này, tôi cho con biết một câu mà giáo phụ Gio-an Ca-xi-a-nô thuật lại lời thánh cả Ba-si-li-ô nói về mình rằng : “Tôi không biết đàn bà, dầu vậy tôi đâu dám cho mình là thanh khiết”. Có bao nhiêu sự dâm dật, hư hỏng, thì đức thanh khiết có thể bị mất vì bấy nhiêu cách. Các sự dâm dật kia, tùy theo chúng lớn nhỏ mà làm suy nhược, tổn thương hay tuyệt diệt đức ấy. Có đôi sự quá thân mật riêng tư, những dục vọng bất cẩn, lố lăng và phóng đãng, tuy chưa đích thực vi phạm thanh khiết, song làm suy yếu, bạc nhược và mất vẻ trong sáng của nó. Có những sự suồng sã và dục tình khác, không những bất cẩn, còn xấu xa, không chỉ lố bịch song bất chính, không chỉ phóng đãng song dâm dật, do đó ít nhất đức thanh khiết cũng bị tổn thương ít nhiều. Tôi nói ít nhất, vì nếu các điều xấu xa dại dột dâm ô ấy kích thích xác thịt khoái lạc cực độ thì đức thanh khiết bị chết hẳn. Như thế, hoá ra đức thanh khiết lại bị tiêu hủy cách bất xứng, cách khốn nạn hơn là khi nó bị tan nát bởi tội thông dâm, hoặc ngay bởi ngoại tình và loạn dâm. Vì những loại nhơ nhuốc này chỉ là tội, còn các cái kia, như lời ông, Ter-tu-lia-nô nói trong sách bàn về sự Đoan trang, là những quái vật của tội ác xấu xa. Thánh Ba-xi-liô[2] khi nói câu trên kia là có ý chỉ về các ý tưởng xấu về nhục dục. Những ý tưởng này, dù không làm nhơ uế thân xác, song làm nhơ bẩn trái tim ; các linh hồn đại độ lại vô cùng trìu mến sự thanh khiết của tâm hồn.

Đừng bao giờ giao du thân mật với những người dâm đãng, nhất là họ lại vô liêm sỉ nữa, mà thường họ như thế. Như dê khi ngoặm đến trái hạnh đào ngon thì nó hoá nên đắng, thì các linh hồn ô uế và trái tim thối tha, khi tiếp chuyện ai bất cứ, người đồng phái hay khác phái, cũng làm hư hại đức liêm khiết của họ. Chúng có nọc độc trong mắt và trong hơi thở như loài rắn thần.

Trái lại, con hãy giao thiệp với người thanh khiết và đức độ. Hãy luôn nghĩ và đọc các sách thánh, vì lời Thiên Chúa thì thanh khiết và làm kẻ yêu chuộng nó cũng nên thanh khiết. Đa-vít đã sánh nó với hoàng ngọc là viên ngọc quý, có đặ́c tính làm giảm lửa của tà dục.

Con hãy luôn hầu cận bên Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đanh, cách thiêng liêng bởi suy ngắm và cách thực sự bởi rước lễ. Người ta cho rằng người nào nằm trên cỏ có tên là “Chiên thanh bạch”[3], được nên khiết tịnh và liêm chính, thì khi trái tim con nghỉ nơi Chúa Giêsu, là Chiên thanh khiết, tinh tuyền thật, con sẽ thấy chẳng bao lâu linh hồn và trái tim con được tẩy trừ hết mọi tỳ ố dâm đãng.

------------

[1] Các tác giả đạo đức cắt nghĩa các câu Thánh Kinh cách bí mhiệm thiêng liêng rất xa với nghĩa đen của căn bản.

[2] Bỏ một câu không thích hợp.

[3] Đây là một tin tưởng thời xưa.



CHƯƠNG 14 - TINH THẦN NGHÈO KHÓ GIỮA GIÀU SANG

“Phúc cho kẻ có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3). Vậy thì khốn cho kẻ có óc giàu sang vì hỏa ngục ghê sợ là phần của họ. Kẻ có óc giàu sang là kẻ  đem sự giàu sang vào trong óc mình, hay đặt tất cả trí óc mình vào sự giàu sang. Kẻ có lòng nghèo khó, là kẻ không để của cải vào trong đầu óc mình cũng như không đặt tất cả tâm trí mình trong của cải. Chim bói cá làm tổ to bằng quả lê, mà chỉ đục một cửa nhỏ nhìn lên trời ; chúng đặt tổ bên bờ biển, song tổ kín và chắc, sóng có đập, nước cũng không thể vào trong được, nên chúng ở giữa biển mà vẫn làm chủ được tình thế.

Hỡi Philôtê thân mến, trái tim con cũng phải như vậy, mở phía cõi trời và đóng kín không cho của cải và các sự mau qua lọt vào. Nếu con có của cải, làm sao cho lòng con không dính bén, và luôn vượt lên trên. Làm sao ở giữa của cải nó vẫn như không có gì và làm chủ trên của cải. Không, con đừng đặt tâm trí cao quí trong các vật hèn thế tục, đem nó vượt lên trên của cải, chứ không phải của cải trên nó.

Có thuốc độc thì khác bị ngộ độc. Các dược sĩ luôn có sẵn mọi thứ thuốc để dùng trong những trường hợp cần thiết, song không phải vì thế mà họ bị trúng độc, vì họ không có thuốc độc trong thân thể họ, nhưng để ngoài tủ hàng. Con cũng có thể có của cải, song đừng bị trúng độc vì nó : Đó là khi con có của cải trong nhà, hay trong túi, nhưng không để nó trong lòng. Giàu của cải song lòng nghèo dính bén : đó là vạn phúc cho người Kitô hữu, vì như thế, hưởng những tiện nghi do sự giàu có đem lại cho đời này, và cũng công trạng của đức nghèo khó cho đời sau.

Buồn thay, Philôtê, không có ai xưng mình hà tiện, ai cũng phủ nhận tính bần tiện và hèn hạ ấy. Song người ta tự bào chữa là phải lo trách nhiệm cho con cái, là đức khôn ngoan đòi phải dự trữ tiền của sẵn mà không bao giờ cho là quá đủ cả, luôn người ta thấy cần phải có thêm. Ngay cả người hà tiện nhất cũng không thú nhận mình hà tiện, trong thâm tâm họ tự nghĩ họ đâu có hà tiện. Hà tiện thật là một cơn sốt lạ kỳ, càng sốt nặng càng không cảm thấy gì nữa. Ông Maisen thấy lửa thánh bốc cháy trong bụi gai mà không thiêu bụi gai ra tro ; nhưng lửa đê hèn của tính hà tiện, trái lại, thiêu hủy hao mòn kẻ hà tiện song không bốc cháy lên. Ở giữa lửa cháy bỏng, họ lại khoe được mát mẻ êm ái nhất đời ; cái thèm khát vô độ của họ, họ cho là khát tự nhiên êm dịu.

Nếu con thấy mình thèm muốn và lo lắng xao xuyến cho có những của mà con không có, thì dù con có biện bạch là không muốn có của cải ấy cách bất công cũng bằng vô ích, con thật là kẻ hà tiện rồi. Kẻ thèm muốn và lo lắng bồn chồn được uống nước, thì dù chỉ muốn uống nước lã thôi họ cũng tỏ ra có cơn sốt trong người rồi.

Ôi Philôtê, tôi không biết : ước ao được cách công bình của cải mà người khác đang làm chủ có phải là ước ao ngay chính không ? vì với cái ước ao ấy, ta muốn lợi cho ta mà bất lợi cho người khác. Kẻ đang làm chủ của cách công bình lại chẳng có lý để giữ lấy nó hơn là ta để ước ao được nó cách công bình ư ? Tại sao ta lại muốn đem lòng ao ước của cải họ có để họ phải mất nó đi ? Cho dẫu cái ước muốn ấy không bất chính, thì nó cũng còn bác ái nữa ; vì ta không muốn kẻ khác ước mong được cái mà hiện thời ta muốn giữ lấy cách chính đáng. Đó là tội của A-kháp : muốn được vườn nho của Na-bô cách hợp lý, đang khi Na-bô muốn giữ lấy một cách còn hợp lẽ hơn nữa. A-kháp thèm muốn, nóng nảy bồn chồn, vì thế ông đã xúc phạm tới Thiên Chúa.

Philôtê thân mến, con hãy đợi khi người kia bắt đầu muốn bỏ hẵng ước ao của cải của họ. Lúc ấy, cái muốn bỏ của họ làm cho ước ao con không những ngay chính, mà còn bác ái. Phải, tôi nguyện chúc cho con luôn chăm lo tăng tài sản và của cải, miễn là đừng làm một cách bất công, nhưng cách êm ái và bác ái.

Nếu con quá quyến luyến những của con có, nếu con quá bận bịu vì đó, để lòng con vào đó, và trí luôn nghĩ về đó, và quá sợ hãi lo lắng mất của ấy, thì con hãy nghe tôi, con còn đang bị bệnh sốt : kẻ đang sốt hấp tấp uống nước người ta đưa với cái vẻ mà người khỏe mạnh không có. Trong một chuyện mà ta không mấy tha thiết, không thế có vui thích nhiều được. Nếu có khi nào con mất của, và con thấy lòng con âu sầu não nề, thì hỡi Philôtê, con hãy tin là con quyến luyến các của ấy lắm. Vì không có gì bộc lộ lòng ta quyến luyến của cải bị mất bằng sự buồn bã khi ta mất của  ấy.

Vậy con đừng bao giờ cố tình ước ao của mà con không có. Cũng đừng quá trìu mến của cải mà con đang có. Đừng quá âu sầu vì mất của. Như thế con mới có thể tự nhận mình là người dù có giàu của cải song tinh thần vẫn nghèo khó, như vậy con mới có phúc, “vì Nước Trời là của con”.



CHƯƠNG 15 - CÁCH THỰC HÀNH ĐỨC KHÓ NGHÈO THỰC TẾ, DÙ SỐNG TRONG GIÀU SANG

Bức hoạ chân tướng của dân thành Nhã Điển (Hy Lạp) do nhà họa sĩ Pa-ra-xiô vẽ thật thần tình ! Bằng những nét tính tình tự nhiên, linh hoạt và thay đổi của họ, ông đã lột trần được chân tướng họ như sau : nóng giận, bất công, thay đổi, lịch thiệp, khoan hồng, thương xót, kiêu kỳ, vẻ vang, khiêm tốn, làm phách và nhát gan : tất cả ! Phần tôi, tôi cũng muốn đặt chung trong lòng con, Philôtê, sự giàu có với đức khó nghèo sự chăm lo với lòng khinh chê các của thế tạm.

Hãy lo sao cho của cải con sinh sôi nảy nở hơn người đời. Thử hỏi có phải những thợ làm vườn của vua chúa chẳng thường xuyên cần và tận tụy trồng trọt và sửa sang vườn cảnh mà họ có phận sự chăm nom cũng y như chúng thuộc về của họ sao ? Tại sao vậy ? Hẳn vì họ coi các vườn cảnh đó như những vườn cảnh của vua chúa mà họ muốn làm cho các ông ấy vui lòng bởi công việc mẫn cán của mình. Philôtê, đây cũng thế, các của cải ta không thuộc về ta, Thiên Chúa đã trao cho ta săn sóc, Ngài muốn ta làm chúng sinh lợi. Chăm nom săn sóc như thế ta làm hài lòng Ngài vì đã phục vụ chu đáo.

Nhưng phải săn sóc nhiều hơn và tử tế hơn các người đời săn sóc của cải họ. Họ chịu khó vì chỉ muốn mưu lợi cho chính họ, còn ta, ta làm là vì mến Chúa. Mà yêu mình là thứ tình hung bạo mạnh mẽ, xôn xao, nên sự săn sóc cho mình cũng đầy xao xuyến, lo lắng, bồn chồn, buồn sầu. Còn tình yêu Chúa thì êm ái, bình tĩnh, an hòa, nên lo lắng yêu Chúa cho dù là để toan tính về của cải thế tạm, cũng vẫn êm ái, đáng mến và tươi đẹp. Ta hãy biết săn sóc như thế khi coi sóc và ngay cả khi tăng gia các của cải thế tạm của ta, lúc gặp dịp chính đáng hay địa vị đòi hỏi. Vì Thiên Chúa muốn ta làm thế vì yêu mến Ngài.

Song coi chừng kẻo tính vị kỷ đánh lừa con. Nhiều khi nó trá hình đội lốt lòng mến Chúa khéo đến nỗi ta lầm. Muốn khỏi mắc lừa, và để sự săn sóc của cải không biến thành hà tiện, thì ngoài những điều nói ở chương trước, ta còn phải thực hành đức khó nghèo cụ thể, thực tế giữa các của cải Thiên Chúa đã ban cho.

Vậy con hãy vui lòng bỏ ra đôi phần của cải và đem cho kẻ nghèo. Cho người khác là làm mình nghèo đi. Cho bao nhiêu, nghèo đi bấy nhiêu. Thiên Chúa sẽ đền bù lại, không những ở đời sau, mà ngay ở̉ đời này, thành ra không có gì làm ta sung túc hơn là bố thí. Đang khi đợi Chúa đền bù, con cũng cứ nghèo đi cái đã. Ôi bố thí, thật là việc nghèo đi thánh thiện và giàu có thay !

Con hãy yêu kẻ nghèo và sự nghèo khó. Bởi lòng yêu ấy, con trở nên nghèo khó thật, vì như lời Kinh Thánh nói : “Ta nên giống cái ta yêu thích”. Tình yêu làm cho hai người yêu nhau nên bằng nhau. Thánh Phaolô viết : “Ai yếu đuối mà tôi chẳng nên yếu đuối như họ” (2Cr 12, 10). Ngài có thể nói : Ai nghèo khổ mà tôi chẳng nên nghèo khổ với họ ? Tình yêu biến Ngài giống kẻ ngài yêu. Nếu con yêu kẻ nghèo, con sẽ chia phần nghèo khổ thật sự với họ, nghèo như họ.

Nếu con yêu kẻ nghèo, con hãy đi lại với họ, vui thích thấy họ đến nhà con và con đến thăm họ. Hãy vui vẻ tiếp chuyện họ. Hãy vui lòng để họ ở gần con trong nhà thờ, ngoài phố hay nơi nào khác. Con hãy khó nghèo trong lời ăn tiếng nói với họ như bạn đồng số phận : Nhưng tay con hãy giàu có khi phân phát của cải cho họ.

Hỡi Philôtê, con muốn làm hơn nữa chăng ? Hãy đừng chỉ nghèo như kẻ nghèo, còn nghèo hơn kẻ nghèo. Làm sao ? “Đầy tớ hèn hơn chủ”. Nên con hãy làm tôi tớ người nghèo đi giúp bên giường họ, giúp khi ốm đau, tự tay giúp. Con làm bếp ch họ, và lấy chính tiền của con. Hãy giặt giúp, là ủi áo quần cho họ. Ôi Philôtê, giúp việc ấy thật huy hoàng hơn cả chức làm vua. Tôi không hết khâm phục lòng hăng hái thực hành điều này của thánh Lu-y, là một trong những vua lớn nhất dưới gầm trời này. Lớn trong đủ vẻ lớn lao. Đây : người đi giúp bàn ăn cho kẻ nghèo người nuôi hầu như mỗi ngày, người vời ba người nghèo đến ăn cùng mâm với người. Nhiều lần người ăn cháo họ ăn thừa với một tình yêu rõ rệt. Khi người thăm nhà thương - là điều người quen làm - người thường giúp kẻ mắc những bệnh tật nhờm tởm hơn cả như hủi, ung nhọt thối tha và các bệnh giống vậy. Khi làm, người để đầu trần, quỳ gối dưới đất, tôn kính Chúa Cứu Thế nơi họ. Người yêu quý họ hết tình như người mẹ yêu quý con. Thánh nữ Ê-li-da-bét, con vua Hung Gia Lợi, thường hay lui tới sống với kẻ nghèo. Đôi khi để giải trí, người bận áo như một người nghèo, ngay lúc ở giữa các bà lớn trong triều. Người nói : “Nếu tôi là người nghèo, tôi sẽ mặc như thế này”. Lạy Chúa tôi, thật vua ấy, bà hoàng ấy nghèo khó trong giàu sang và giàu sang trong nghèo khó.

“Phúc cho người nghèo khó như thế vì Nước Trời thuộc về họ”. “Ta đói, chúng con đã cho ăn ; giá lạnh đã cho mặc, các con hãy đến lãnh lấy Nước Trời đã sẵn dọn cho chúng con từ khi tạo lập thế giới”, đó là lời Vua các kẻ nghèo và Vua trên hết các Vua sẽ phán trong ngày phán xét sau hết.

Không ai tránh khỏi đôi khi mắc thiếu thốn, hay gặp những điều bất tiện : khách đến chơi nhà, ta muốn tiếp đãi tử tế, song không có những phương tiện lúc đó. Ta có áo đẹp cất một nơi, đang khi ở nơi khác ta cần đến để tiếp tân lại không có.

Có khi rượu để trữ trong kho bị hư hỏng, chỉ còn đặt rượu xấu không ra gì. Về đồng ruộng, chỉ có lều tranh, thiếu đủ mọi vật cần, không giường, chiếu, phòng bàn, người giúp đỡ. Dù giàu sang mấy, cũng thường có lúc ta thiếu vật này vật nọ. – Mà sống khó nghèo là vậy, là sống trong thiếu thốn. Philôtê, con hãy vui lòng về những bất tiện đó, hãy lãnh nhận và chịu đựng cách vui vẻ.

Khi những hoàn cảnh ngang trái xảy đến làm con nghèo túng nhiều hay ít : như bão tố, hỏa tai, nước lụt, hạn hán, trộm cướp, kiện cáo, ôi, đó thật là mùa thực hành đức khó khăn, khi biết nhẫn lãnh với lòng hiền hòa, những hao hụt tài sản, biết nhẫn nại, biết kiên trung thích ứng mình với hoàn cảnh nghèo túng mới ấy. Sách thánh kể : Ê-dau đến trước mặt cha, cánh tay vốn đầy lông lá, Gia-cóp là em cũng bắt chước (Sáng thế thư 27), song lông ấy không là lông thật, song là của bao tay, nên người ta có thể lột bộ lông giả ấy mà không làm đau đớn hay tróc thịt. Trái lại, lông tay của Ê-dau dính vào da, tự nhiên vốn vậy, ai nhổ hẳn làm cậu đau đớn lắm, và chắc cậu sẽ la ầm lên và có khi nổi giận đánh lại. Khi lòng ta dính bén của cải, nếu bão tố, trộm cướp, kẻ kiện tụng đến lấy một đôi phần đi, ta sẽ kêu rêu, sẽ bối rối, sẽ xao xuyến chừng nào ! Nhưng khi ta săn sóc của cải như Chúa muốn, chứ không để lòng dính bén, nếu có ai đến cướp lấy, ta sẽ không mất bình tĩnh và bằng yên. Người và vật khác nhau về bộ áo hoặc bộ lông : bộ lông của vật dính vào da, bộ áo của người chỉ khoác ngoài, người ta có thể mặc vào hay cởi ra tùy ý : của cải đối với ta cũng phải như vậy.



CHƯƠNG 16 - CÁCH SỐNG GIÀU TRONG TINH THẦN TUY NGHÈO VỀ CỦA CẢI

Philôtê thân mến, nếu con nghèo túng thật, thì con cần nghèo khó cả trong tinh thần. Phải biến tình cảnh bó buộc ấy nên một nhân đức, sử dụng viên ngọc khó nghèo quí báu ấy cho đáng với giá trị nó. Nó không chói sáng ở trần gian này ; dầu vậy, nó tuyệt đẹp tuyệt sang.

Hãy vui mừng, con không lẻ loi, Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các Tông Đồ, bao thánh nam nữ đã sống nghèo khó. Dù có thể giàu, các đấng đã không muốn. Biết bao người sống ở đời mà đi ngược thói đời, đã hăm hở tìm kiếm sự nghèo khó thánh thiện trong các tu viện và nhà thương. Họ đã mất nhiều công để tìm kiếm, như thánh A-lệ-sĩ, thánh Pao-la, thánh Pao-li-nô, Ang-gê-la và bao vị khác. Còn con, Philôtê, con may mắn hơn, khó nghèo đã đến với con, con đã gặp mà không phải khó nhọc tìm kiếm. Con hãy ôm ẫm lấy như một người bạn chí thân của Chúa Giêsu Kitô, là Đấng sinh ra, sống và chết trong khó nghèo.

Philôtê, sự nghèo túng của con có hai lợi điểm : thứ nhất, cái khó nghèo đến với con không do con chọn, song do ý Chúa, ý muốn con không có can thiệp gì ở đây. Mà nhận lãnh do từ ý Chúa, là điều làm Ngài hết sức vui lòng, miễn là ta nhận lãnh cách vui lòng và vì mến yêu Thánh ý Ngài. Đâu ít có phần ta, đấy có Chúa nhiều hơn. Nhận lãnh hoàn toàn do từ ý Chúa, sự đau khổ của ta càng rất mực tinh tuyền.

Lợi điểm thứ hai của cái khó nghèo ấy : đó là một khó nghèo thực sự. Nghèo khó mà được khen ngợi, mơn trớn, quý trọng, giúp đỡ chạy chữa, thì như giàu có rồi, ít ra không còn hẳn là nghèo nữa. Nhưng nghèo khó mà bị khinh chê, bỏ rơi, xa tránh, và chê cười, mới thật là nghèo. Mà đó là sự nghèo khó của giáo hữu ngoài đời, vì họ không tự nguyện sống nghèo khó, song vì hoàn cảnh bó buộc, cho nên không ai chú trọng đến. Chính bởi không được ai chú trọng, nên sự nghèo khổ của họ nghèo hơn sự nghèo khó của các tu sĩ, dù nghèo khó này tuyệt hảo hơn và quý trọng hơn nhiều, nguyên vì lời khấn và ý hướng khi chọn lấy nó.

Philôtê thân mến, con đừng phàn nàn về nỗi khó nghèo con, vì người ta chỉ phàn nàn về cái làm ta bực mình. Mà nếu con bực tức vì nghèo khó, thế thì con không còn tinh thần nghèo khó nữa, trái lại, con giàu tinh thần quyến luyến của cải rồi.

Con đừng âu sầu thiểu não vì không được cứu giúp như con đáng, chính đây là tuyệt điểm của đức khó nghèo. Muốn nghèo khó, mà không chịu phiền lụy, thực là một tham vọng quá đáng, vì tức là vừa muốn được danh giá của sự khó nghèo, vừa muốn được cả tiện lợi của giàu có.

Con đừng xấu hổ vì nghèo, hay vì phải xin người ta bố thí. Hãy lãnh bố thí với khiêm nhường, và nếu bị từ chối, hãy hiền từ. Con hãy nhớ đến cuộc hành trình của Đức Mẹ sang Ai-cập để đem con Người đi lánh nạn : Người đã phải chịu bao khinh bỉ, nghèo túng và cơ cực. Nếu con sống như thế, con sẽ rất giàu trong cảnh khó nghèo của con.



CHƯƠNG 17 - TÌNH BẰNG HỮU TRƯỚC HẾT : TÌNH BÈ BẠN XẤU VÀ LỐ LĂNG

Trong các thị dục, tình yêu đứng đầu. Nó là chúa các tâm tình của trái tim. Nó lôi cuốn mọi cái khác về nó, làm cho ta nên giống cái nó yêu. Philôtê thân mến, con hãy ý tứ đừng để mình có tình yêu xấu, vì con sẽ thành xấu ngay. Mà tình bạn là tình yêu nguy hiểm nhất, vì các tình yêu khác có thể không cần tương giao, song tình bạn lại hoàn toàn xây trên nền ấy. Ta không thể nối tình bạn với một người mà không thông chia tính nết của họ.

Không phải bất cứ tình yêu nào cũng là tình bạn, vì : 1) ta có thể yêu mà không được yêu lại : lúc ấy chỉ có tình yêu mà không có tình bạn. Tình bạn là một tình tương giao, nếu khác thì không phải nó. 2) Và không chỉ tương giao mà còn cần cả hai bên biết tình yêu mến của họ đối với nhau. Và nếu họ không biết, thì chỉ có tình yêu mà không có tình bạn. 3) Với cái này, giữa hai người còn phải có trao đổi thông công là nền tảng của tình bạn.

Dựa theo sự trao đổi khác nhau mà tình bạn thành khác nhau. Trao đổi khác nhau là tại các điều tốt xấu họ trao đổi cho nhau. Nếu các cái này giả và hão huyền, tình bạn sẽ giả và hão huyền. Nếu chúng chân thật, tình bạn sẽ chân thật. Chúng càng tốt hảo, tình bạn càng tốt đẹp. Như mật lấy ở những nụ hoa tươi đẹp nhất, là mật ong hảo hạng, thì tình yêu căn cứ trên sự trao đổi các điều tốt đẹp nhất, là tình yêu tuyệt hảo nhất. Như ở xứ Hê-ra-clê miền Pông-tô (Héraclée de Pont) có thứ mật độc, kẻ ăn nó sẽ bị điên, vì mật đó lấy nơi cây phụ tử mọc nhan nhản trong xứ đó, tình bạn dựa trên sự trao đổi của giả trá và xấu xa, cũng thành giả dối và xấu xa.

Trao đổi khoái lạc nhục thể là bản năng thô lỗ và lôi cuốn tàn bạo, không đáng mang tên tình bạn, khi nó chỉ là câu chuyện của trâu ngựa làm. Nếu trong hôn nhân người ta không san sẻ cho nhau gì hơn, ở đó cũng chẳng có tình bạn. Nhưng thường ngoài cái đó, còn có san sẻ cuộc sống, trao đổi các tài khéo, các của cải, tình âu yếm và sự trung tín sắt son, nên tình bạn trong hôn nhân là tình bạn chân thật và thánh thiện.

Tình bạn dựa vào sự trao đổi các vui thú giác quan thì hoàn toàn thô bỉ, bất xứng với tên nó. Cả đến tình bạn căn cứ vào các tính lố lăng, hão huyền vì chúng thuộc phạm vi giác quan. Tôi gọi là vui thú giác quan những cái liên quan trực tiếp và trước tiên tới các ngũ quan, như thú nhìn sắc đẹp, nghe giọng ca du dương, vuốt ve sờ mó … và các cái giống vậy. Tôi gọi là tính cách lố lăng một đôi cái xảo kế, cáo khéo léo mà các kẻ nhẹ dạ cho là đức tính hay hoàn thiện hoàn mỹ. Hãy nghe đa số các thanh nam thanh nữ, phụ nữ và đám tuổi trẻ nói chuyện mà xem, họ không nói đùa đâu, đây : Chàng này rất đức độ, anh có nhiều đức tính, nào là nhảy giỏi, biết chơi đủ mọi môn, biết ăn mặc, hát hay, khéo tán tỉnh và đẹp trai. Còn có khi những tụi bịp bợm coi là có nhiều đức tính nhất kẻ nào quấy đảo nhất trong bọn. Mà tất cả những cái đó có liên quan với ngũ quan cho nên những tình bè bạn do đó phải gọi là xác thịt, lố lăng, hão huyền, nên gọi là trò bỡn cợt hơn là tình bè bạn. Thường đó là tình bè bạn của đám thanh niên, chú trọng đến bộ râu mép, làn tóc, liếc mắt, áo quần, làm điệu, chuyện nhăng nhện, đó là những lứa bè bạn của tuổi mới biết yêu, mà chưa có nhân đức già giặn, phán đoán chưa chín chắn. Cho nên, tình bè bạn đó chỉ tạm bợ mau qua, sẽ tan đi như tuyết dưới ánh mặt trời.



CHƯƠNG 18 - ÁI TÌNH LÃNG MẠN

Khi tình bè bạn ấy xảy ra giữa hai người khác phái, không có ý đưa đến hôn nhân, tình bạn ấy gọi là ái tình lãng mạn. Vì chỉ là một thứ tình bạn nửa chừng hay đúng hơn một thứ tình bạn mơ hồ, mang tính cách tạm bợ và khiếm khuyết, nên không thể đội tên là tình bằng hữu hay tình yêu.

Nhưng trong đó đôi trái tim nam nữ lại gắn bó, ràng buộc nhau trong những tình cảm hão huyền và điên dại, đưa nhau sống những phút liên lạc bỡn cợt và vui thú đớn hèn mà tôi nói trên kia. Và tuy ái tình ngớ ngẩn ấy thường xô đẩy vào hố bùn lầy nhục dục và dâm dật xấu xa, dù đó không phải là ý định đầu tiên của họ, nếu không thì đã chẳng còn là ái tình lãng mạn, song là dâm ô trắng trợn rồi. Nhiều khi, hàng năm qua đi mà không xảy ra điều gì nghịch đức thanh khiết trực tiếp nơi thân xác họ, song họ để trái tim say sưa trong những câu thề nguyền, ước vọng, những lời than thở nỉ non, ve vãn, hoặc những trò lăng nhăng hão huyền khác với nhiều chủ đích khác nhau.

Có người chỉ vì muốn thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, khi chiều theo xu hướng yêu đương tự nhiên của con tim. Để chọn lựa mối tình, họ chỉ biết nghe theo sở thích và bản năng, nên khi gặp một người họ thích, thì không xét tư cách hay hạnh kiểm, họ nhào vào mối tình lãng mạn để mắc màng lưới khốn nạn mà sau họ khó mà gỡ ra nổi. Có kẻ lại chơi với tình ái chỉ cốt để khoe khoang kiêu hãnh : Chiếm đoạt trái tim người khác là một vinh dự lớn lắm. Với ý định kiêu kỳ như thế, họ sẽ mò mẫn quyến rũ những nơi thanh lịch, cao quý khó khăn và danh tiếng. Kẻ khác lại bị lôi cuốn vừa bởi khuynh hướng yêu đương tự nhiên vừa bởi khoe khoang. Lòng họ thèm muốn chuyện yêu đương nhưng cũng không muốn bỏ mất phần kiêu hãnh.

Các thứ tình tứ đó đều xấu, dại dột và hão huyền. Xấu, nhất là khi chúng kết thúc trong tội nhục dục, và vì nó cướp tình yêu, tức là cướp trái tim khỏi Thiên Chúa, khỏi chồng hoặc vợ là người có quyền được hưởng tình yêu ấy. Dại dột, vì chúng không có nền tảng, không có lý do. Hão huyền, vì không đem lại mối lợi nào danh dự hay thỏa thích. Trái lại, chúng làm phí thì giờ, phương hại đến danh dự, không đem lại thú vui nào ngoài cái xôn xao lo cầu cạnh và hy vọng mà không biết cái mình hy vọng, cái mình cầu cạnh là gì.

Đối với những kẻ đớn hèn ấy, không biết tại sao họ vẫn tưởng có cái gì đáng ao ước lắm trong những tang chứng biểu lộ tình bè bạn, họ cũng không biết nói đó là cái gì. Do đó, ước muốn của họ càng ngày càng thêm thúc bách lòng họ ngổn ngang trăm mối nghi ngờ, ghen tuông, xao xuyến. Về vấn đề này, thánh Grê-gô-riô Na-diăng viết những câu bất hủ để răn dạy những phụ nữ nhẹ dạ. Đây là một đoạn ngắn ngài nói riêng cho phụ nữ, song cũng có ích cho đàn ông : “Sắc đẹp của con là để cho mình chồng con. Nếu lại có ý để cho người khác, như căng lưới đánh bẫy một đàn chim, thì sẽ ra sao ? Người biết thưởng thức sắc đẹp chắc sẽ được con ưa thích. Con sẽ liếc mắt để đáp cái liếc của họ, nhìn họ đáp lại cái nhìn của họ. Sau đó, bỗng dưng một đôi nụ cười và buông vài lời yêu đương lúc đầu. Nhưng chẳng bao lâu quen tính rồi người ta sẽ đi đến những cử chỉ mơn trớn tỏ tường. Nhưng hỡi miệng lưỡi tôi, thôi đừng nói điều sẽ sảy ra sau đó nữa ! Song cho tôi nói điều chân thật này : Không có gì mà hạng nam nữ trẻ tuổi nói và làm với nhau trong những lần vui đùa ấy mà không đưa đến nguy hiểm. Tất cả trò chơi của ái tình lãng mạn đó nương vào nhau, lôi cuốn nhau, như miếng sắt bị nam châm hút sẽ lôi cuốn theo nó các miếng sắt khác”.

Quả  thật vị Giám mục lừng danh ấy nói chí lý lắm ! Con định làm gì ? Ban bố tình yêu ? Không đâu : Không ai cố ý cho tình yêu mà không muốn được yêu lại. Kẻ ấy bị mắc vào tròng rồi. Thứ cỏ Approxis thoạt khi thấy nhọn lửa là nó liền bốc cháy : trái tim ta cũng vậy. Chợt thấy linh hồn nào cháy tình yêu ta, trái tim ta cũng liền bén tình yêu lại. Có người sẽ nói : tôi muốn bắt tình, song không muốn đi xa. Ôi, bạn nhầm to ! lửa tình ấy mạnh mẽ và xâm lăng hơn là bạn tưởng. Bạn tưởng chỉ có một đốm lửa, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy trong khoảnh khắc nó bùng lan cả trái tim, đốt tan ra tro mọi quyết định, ra mây khói tất cả thanh danh bạn. Đấng khôn ngoan kêu lên : “Ai còn thương đến kẻ dụ rắn lúc nó bị rắn cắn ?” (Sách Huấn Ca : 12,13). Như Ngài, tôi sẽ kêu lên : Hỡi kẻ dại dột ! các ngươi tưởng mê hoặc được tình yêu rồi có thể điều khiển nó theo ý thích ? Chơi với nó, nó sẽ cắn các ngươi chết. Các ngươi muốn biết người đời sẽ nói sao không ? Họ sẽ cười ngươi, vì đã muốn mê hoặc tình yêu, và đã quá ngây thơ cả tin khi rước rắn vào nhà, nó đã làm bạn mất cả linh hồn lẫn danh giá. “

Lạy Chúa ! sao có thể mù quáng đến nỗi dám liều phần quí nhất của tâm hồn ta trước những bảo đảm mong manh như thế ? Phải, hỡi Philôtê, Thiên Chúa chỉ chuộng con người là vì tâm hồn, chuộng hồn vì ý chí, và chuộng ý chí vì tình yêu. Than ôi, chúng ta chưa cho tới độ phải yêu : tôi có ý nói còn xa lắm, ta mới yêu Chúa cho đủ. Ấy thế, đã khốn nạn như vậy mà ta còn phí phạm tình yêu trong những chuyện điên dại, vô ích và phù phiếm như thể chúng ta có quá nhiều ! Ôi vị Thiên Chúa cao cả kia, Đấng muốn dành cho mình Ngài tình yêu của hồn chúng ta để đáp lại ơn tạo thành, gìn giữ và cứu chuộc, Ngài sẽ đòi ta trả lẽ gắt gao về các trò chơi tình ái điên cuồng kia. Nếu Ngài sẽ xét xử nghiêm nhặt về các lời nói vô ích, Ngài sẽ xét xử sao về các tình ái vô lối, mất thời giờ, dại dột và tai hại ?

Cây bồ đào rất hại cho vườn nho và đồng lúa nơi trồng nó vì nó to lớn, nó sẽ hút hết mầu đất, làm các cây khác hết đất sống. Cành lá của nó rậm rạp làm thành bóng rợp lớn, và tai hại sau cùng là nó lôi cuốn các người qua đường, ai cũng muốn hái đôi quả, vì thế dẫm nát mọi cây cỏ chung quanh. Tình ái lãng mạn cũng phá hại hồn như thế : nó sẽ xâm chiếm hồn, cuốn hút mạnh mẽ các tâm tình của linh hồn đến nỗi hồn tê liệt không làm việc lành nào nữa. Cành lá của nó, nghĩa là những cuộc trò chuyện đùa bỡn, tán tỉnh thường xảy ra làm hư phí mọi thời giờ rảnh rang. Sau hết, chúng lại lôi kéo đến biết bao cám dỗ, chia trí, nghi ngờ và mọi xôn xao khác, thành thử trái tim như bị dẫm nát và hư hỏng. Tựu chung, các tình tứ lãng mạn ấy tận diệt tình yêu thiêng liêng còn phá tan lòng kính sợ Thiên Chúa, làm nao núng tinh thần, suy giảm thanh danh, tắt một lời : đó là trò đùa của nơi ăn chơi song là ôn dịch của tâm hồn.



CHƯƠNG 19 - TÌNH BẠN CHÂN CHÍNH

Hỡi Philôtê, con hãy yêu mỗi người với một tình bác ái. Nhưng chỉ nên kết bạn với người có thể thông giao với con về các câu chuyện nhân đức. Càng đem các nhân đức cao đẹp hơn bao nhiêu vào việc giao dịch ấy, tình bạn của con càng hoàn hảo. Nếu giao dịch trong các chuyện văn chương, khoa học, đã hẳn tình bạn cũng đã đáng khen, càng đáng khen hơn nếu là trong các chuyện nhân đức, như đức khôn ngoan, tiết độ, dũng cảm và công bình. Còn nếu thông giao với nhau về đức bác ái, sự đạo đức và thánh thiện thì thật tình bạn của con vô cùng quí báu ! Nó tuyệt hảo vì nó từ Thiên Chúa đến, vì nó quy về Thiên Chúa, vì giây liên kết nó là Thiên Chúa, và cuối cùng vì nó sẽ tồn tại đời đời trong Ngài. Ôi, đẹp thay khi người ta yêu nhau dưới đất như yêu ở trên trời, tập yêu quý nhau ở đời này như sau ta sẽ yêu nhau muôn kiếp ở đời sau. Ở đây tôi không nói về đức bác ái thông thường mà ta phải có với mọi người, nhưng về tình bằng hữu thiêng liêng, trong đó hai hay ba tâm hồn thông truyền cho nhau lòng đạo đức, tình quý mến thiêng liêng, và trở nên đồng tâm nhất trí với nhau. Những tâm hồn phúc lộc ấy có lý để hát câu : “Ôi hạnh phúc và êm đềm thay khi anh em được chung sống bên nhau” (Ca vịnh 132, 1). Phải, dầu thơm êm dịu của đời đạo đức sẽ từ lòng người này chảy sang lòng người kia luôn luôn, nên có thể nói : Thiên Chúa đã đổ rưới phúc lành và sự sống trên tình bạn đó cho đến muôn đời.

Theo thiển ý tôi, các tình bạn khác chỉ như bóng chập chờn so sánh với tình bạn này, các giây nối kết của chúng chỉ là sợi giây thủy tinh, so với giây đạo đức bằng vàng nguyên này. Con đừng có tình bạn nào khác, nghĩa là các tình bè bạn mà con tự tìm kiếm lấy. Đàng khác, cũng không nên khinh hay bỏ các tình bạn mà thiên nhiên hay bổn phận đòi con phải giữ : như đối với họ hàng, các kẻ thân thuộc, các ân nhân, láng giềng hay kẻ khác nữa. Tôi chỉ có ý ngăn về các tình bạn con tự tìm kiếm lấy thôi. Có khi nhiều người sẽ nói với con : không nên có lòng quý mến hay bằng hữu riêng tư gì cả, nó làm bận tâm chia trí và sinh ghen tương. Họ đã khuyên lầm. Vì họ đã xem trong sách của nhiều thánh và tác giả đạo đức, nói về tình bạn riêng tư và tình quý mến ngoại luật làm hại vô kể cho các tu sĩ, rồi họ tưởng về mọi người đều cũng thế cả. Song câu chuyện đâu có đơn giản thế. Trong một tu viện có kỷ cương, mọi người đều một chí hướng nhắm tới sự thánh thiện, nên chẳng cần phải có những sự trao đổi riêng tư kia với nhau, sợ khi tìm tư riêng cho mình trong cái chung cho mọi người, người ta sẽ từ riêng tư đâm ra riêng rẽ. Nhưng đối với những người sống giữa thế gian, mà muốn sống đời nhân đức cần phải liên kết với nhau trong tình bạn thánh thiện siêu phàm, nhờ đó, kích thích nhau, giúp nhau, đem nhau tới sự lành. Người đi đường bằng không cần đưa tay đỡ nhau, kẻ đi đường gồ ghề, trơn trợt phải nâng đỡ nhau để đi cho vững. Những người sống trong dòng tu cũng vậy, không cần bạn hữu riêng tư, còn kẻ ngoài đời lại cần, để giúp đỡ nhau trong bao đoạn đường nguy hiểm phải qua. Ở đời, không phải mọi người cùng hướng theo một đích, cùng có một tinh thần. Vậy phải kéo riêng nhau một vài người mà kết tình bạn với nhau. Cái riêng tư ấy thành riêng rẽ, nhưng riêng rẽ thánh thiện, không gây chia rẽ, có chia rẽ chăng là giữa sự thiện và sự ác, giữa chiên với dê, giữa ong mật và ong bầu : chia rẽ ấy cần thiết !

Đã đành, không ai chối Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt thánh Gio-an, ông La-da-rô, bà Mát-ta, và Ma-đa-lê-na, như Phúc Âm làm chứng. Thánh Phê-rô yêu riêng thánh Mát-cô và thánh Pê-trô-nil-la, như thánh Phaolô yêu quý thánh Ti-mô-tê và Tê-kla. Thánh Grê-gô-riô Na-diăng đã nhiều lần khoe mối tình bạn hiếm có giữa ngài với thánh cả Ba-si-liô như sau : “Giữa hai chúng tôi, là hai người song chỉ còn một linh hồn. Nếu không nên tin thuyết mọi sự ở trong nhau, ít ra cũng nên tin chúng tôi ở trong nhau, và cả hai ở trong mỗi người. Cả hai cùng một chí hướng : rèn luyện nhân đức và đem các dự định của đời chúng tôi hướng theo những phần thưởng đời sau. Như thế, chúng tôi như đã ra khỏi trần gian trước khi chết”. Thánh Ao-gu-ti-nô cho biết thánh Am-brô-xiô yêu quý một mình thánh Mo-ni-ca vì các nhân đức hiếm có ngài thấy trong thánh nữ, và phần thánh nữ đáp lại cũng quý mến ngài như thiên thần Thiên Chúa.

Trong một chuyện quá rõ rệt như thế, tôi còn nói thì là bậy. Thánh Giê-rô-ni-mô, Ao-gu-ti-nô, Grê-gô-riô, Bê-na-đô và tất cả các đấng đầy tớ lớn nhất của Chúa đều đã có tình bạn đặc biệt mà không phương hại đến sự hoàn thiện của các ngài. Khi trách sự phóng đãng của người ngoại giáo, thánh Phaolô đã gọi là những kẻ vô tâm vô tình (2Tm 3,3), nghĩa là không có tình bằng hữu gì cả. Và thánh Tô-ma-sô, cũng như mọi triết gia danh tiếng khác, công nhận tình bằng hữu là một nhân đức. Đó là ngài nói về tình bằng hữu tự riêng theo ngài, tình bằng hữu hoàn hảo không thể bao quát nhiều người được. Vậy sự hoàn thiện không ở tại không có tình bạn nào, song nếu có thì phải là tình bạn tốt và thánh thiện.



CHƯƠNG 20 - TÌNH BẠN TỐT XẤU KHÁC NHAU CHỖ NÀO ?

Hỡi Philôtê, hãy nghe lời căn dặn quan trọng này. Mật của xứ Hê-ra-clê rất độc, song lại giống thứ mật rất bổ sức kia, nên nếu uống nhầm thứ này với thứ kia thì nguy to hay uống chung nhau cũng vậy, vì cái tốt cũng không ngăn cản được cái độc làm hại. Phải thận trọng lắm để khỏi bị lầm trong các tình bạn của mình, nhất là khi giữa hai người khác phái nhau dù với lý do nào đi nữa, vì thường thường Satan hay lừa gạt kẻ có tình bạn ấy. Bắt đầu, tình bạn rất nhân đức, nhưng nếu không hết sức khôn ngoan, tình yêu lãng mạn sẽ len lỏi vào, rồi đến tình yêu dâm đãng, rồi tình yêu nhục dục. Ngay trong tình yêu thiêng liêng cũng còn có nguy hiểm, nếu người ta không rất thận trọng. Đã hẳn, ở đây khó bị lầm lẫn, vì sự trong trắng của nó làm cho dễ nhận thấy các vết nhơ mà Satan muốn trộn lẫn vào. Vì thế, khi Satan can dự vào, nó sẽ hành động cách khôn khéo để gắng cho xen vào đó những ô uế cách kín đáo khó nhận thấy.

Con sẽ phân biệt tình bạn phàm tục với tình bạn thánh thiện như người ta phân biệt mật ong của xứ Hê-ra-clê với mật tốt kia. Mật của xứ Hê-ra-clê thơm ngọt hơn mật thường, nhờ chất cây phụ tử làm nó thêm dịu ngọt. Tình bạn phàm tục bình thường được biểu lộ ra bằng nhiều lời êm tai, những tiếng say mê và ca ngợi sắc đẹp, duyên dáng và những đức tính, thể xác. Còn tình bạn thiêng liêng chỉ biết nói lời đơn sơ, ngay thật, chỉ biết khen nhân đức và ơn sủng của Thiên Chúa, là nền tảng độc nhất xây dựng tình bạn ấy. Uống mật của xứ Hê-ra-clê vào, sẽ cảm thấy choáng váng ; tình bạn giả hiệu cũng gây choáng váng, bước đi loạng choạng trong đàng khiết tịnh và đạo đức, đưa đến những liếc nhìn kích thích, nhõng nhẽo thái quá đến vuốt ve dâm đãng, những than thở bất chính, những than trách đau đớn vì không được yêu rồi đến những điệu bộ kiểu cách, những lẳng lơ, những hôn hít và những thân mật suồng sã khác là những triệu chứng chắc chắn không thể ngờ vực sự suy sụp sắp tới của lòng liêm khiết. Còn trong tình bạn thánh thiện, đôi mắt luôn đơn sơ và đoan trang, chỉ có mơn trớn trong sạch và ngay thật, chỉ có than thở về trời cao, chỉ có thân mật về tinh thần, chỉ than vãn vì thấy Chúa không được yêu mến : đó là dấu không thể lầm của tính liêm khiết. Mật của xứ Hê-ra-clê làm quáng mắt, tình bạn phàm tục làm mờ trí phê phán thành thử kẻ mắc trong đó tưởng làm phải đang khi họ làm trái, và họ cho các cớ, các câu chữa lỗi, các lời nói của họ đều là những lý do chân chính. Họ sợ ánh sáng, thích bóng tối. Còn tình bạn thánh thiện có đôi mắt sáng, nó không giấu giếm song sẵn lòng ra trước mặt mọi người lương thiện. Sau hết, mật xứ Hê-ra-clê gây vị đắng trong miệng, các tình bạn giả dối cũng kết thúc bằng những lời, những đòi hỏi xác thịt : nếu bị từ chối, thì sẽ là những lời sỉ nhục, vu khống, bịp bợm, những sầu muộn, xấu hổ và ghen tương, nhiều khi đưa đến mê mẫn đần độn làm những việc cuồng loạn. Còn tình bạn tinh khiết luôn luôn lương thiện, luôn lịch sự và đáng yêu, và chỉ càng ngày thêm kết hiệp hoàn hảo hơn, trong sạch hơn giữa hai tâm hồn : Thật đây là hình ảnh linh động của tình bằng hữu phúc lộc của thần thánh trên trời.

Thánh Grê-gô-riô Na-diăng nói : “Con công khi xòe đuôi làm điệu, nó kêu lên để kích thích con cái nghe tiếng nó làm chuyện xấu xa”. Khi thấy một người làm điệu, chưng diện đến tán tỉnh, thì thầm bên tai phụ nữ hay thanh nữ mà không chủ ý đến hôn nhân chân chính, thì hẳn chỉ để dụ dỗ họ tới dâm đãng. Người đàn bà tiết hạnh sẽ bịt tai để khỏi nghe tiếng kêu của con công ấy, tiếng nói đường mật của kẻ quyến rũ xảo quyệt. Nếu nàng để tai nghe, than ôi ! thật là điềm gỡ báo trước một trái tim hư hỏng.

Những thanh niên làm điệu, nét mặt kiểu cách, giở trò mơn trớn, hay nói những lời mà họ không muốn cha mẹ vợ chồng, hay cha giải tội bắt gặp nghe thấy, tỏ ra họ tính chuyện khác chuyện danh dự và lương tâm. Khi thấy thiên thần trong hình dáng một người, Đức Mẹ đâm bối rối vì thấy mình có một mình và người kia lại tặng Người những lời khen thái quá tuy rất thánh thiện. Ôi lạy Chúa Cứu Thế, đức trong sạch e sợ cả một thiên thần trong hình người thế, còn sự ô uế tại sao không e sợ một người, dù mặc lốt thiên thần đi nữa khi kẻ ấy khen lao mình bằng những lời dâm dật và phàm tục?



Song dùng phương thuốc nào chống lại cái nòi giống các tình ái rồ dại, trăng hoa và dâm đãng kia ? Thoạt tiên vừa chợt linh cảm thấy sự ấy, con hãy bỏ hẳn đi. Với lòng đắng cay chê ghét cái giả trá ấy, con hãy chạy đến bên thánh giá Đấng Cứu Thế, lấy vòng gai của Ngài mà bao bọc trái tim con để những loại chồn cáo ấy không đến gần được. Hãy giữ mình đừng dây dưa chút nào với kẻ thù, đừng nói : “tôi nghe song không làm cái nó nói. Tôi chỉ để tai nghe mà lòng không chiều theo”. Ôi, Philôtê, vì Chúa, con hãy nghiêm nhặt trong những dịp này, vì trái tim và lỗ tai hai cái ấy thông thương với nhau. Một ngọn thác đang đổ sườn núi, có ai ngăn cản được ? Đây cũng vậy, tình yêu đã vào lỗ tai khó mà ngăn cản nó khỏi lọt xuống trái tim[1]. Trái tim ta hô hấp bởi lỗi tai, và thở hít các ý tưởng bởi cái lưỡi thích nói, thì nó cũng thở hít bằng cai tai thích nghe các ý nghĩ của kẻ khác. Vậy ta hãy bảo vệ tai ta khỏi các thứ khí của lời nói càn dở, nếu không trái tim ta sẽ bị nhiễm độc. Đừng nghe lời đề nghị gì hết, dù với cớ nào đi nữa. Chỉ trong trường hợp này, cư xử như vậy được mà không sợ bất lịch sự hay quê mùa.

Con hãy nhớ, con đã hiến trái tim con cho Thiên Chúa, và con đã hiến trọn tình yêu làm của tế lễ cho Ngài, lấy lại một mảnh nào, cũng sẽ là phạm thánh. Con hãy hiến dâng lại trái tim con cho Ngài bằng những điều dốc quyết và cam kết, để trong đó con được bao bọc như con nai trong thành lũy. Con hãy kêu cầu Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và tình yêu Ngài sẽ bảo vệ tình yêu của con, hầu nó chỉ còn sống vì một mình Ngài.

Nếu con đã bị vướng mắc trong lưới tình ái càn dở ấy, quả thật là khó gỡ lắm ! Con hãy đặt mình trước Nhan thánh Uy linh Thiên Chúa, hãy nhật biết tất cả sự lớn lao của nỗi khốn nạn, nỗi yếu đuối và lo lắng của con. Rồi gắng hết sức hết lòng, ghét cay đắng các tình ái đã khởi nhóm, hãy từ bỏ lời con đã tuyên bố hão huyền, khước từ tất cả mọi điều người ta hứa hẹn với một ý chí cương quyết tuyệt đối, con quyết định không bao giờ còn trở lại các trò chơi, chuyện vãn trăng hoa kia.

Nếu con có thể lánh xa những người bạn kia, tôi rất vô cùng tán thành, vì kẻ bị rắn cắn không thể dễ dàng khỏi bệnh khi trước mặt mình có những kẻ cũng đã bị thương tích như mình, thì người bị nọc độc ái tình cũng khó khỏi bệnh, bao lâu họ còn gần kẻ cũng bị một nọc độc như họ. Đổi chỗ ở giúp rất nhiều cho việc làm dịu những nóng nảy, bồn chồn xao xuyến của đau khổ hay của ái tình. Thánh Am-brô-xiô trong cuốn thứ hai bàn về đức sám hối, nói đến một chàng thanh niên, sau một cuộc du hành trở về, đã bỏ hẳn mọi tình ái lăng loàn của anh ta trước kia. Anh đã thay đổi đến nỗi, khi gặp anh, cô thiếu nữ phải lòng anh đã ngạc nhiên nói : “Anh quên em rồi à ? Em đây mà !”, chàng trả lời : “Phải, bây giờ tôi không còn là tôi nữa”. Xa cách đã đem lại cho anh sự thay đổi có phúc ấy. Thánh Ao-gu-ti-nô kể lại : để khuây khỏa nỗi sầu vì bạn tạ thế, người đi khỏi thành Ta-giét (Tageste) nơi người bạn chết để đi đến Cac-ta-giơ (Carthage).

Nếu không đi xa được, làm sao ? Phải tuyệt đối cắt đứt mọi buổi chuyện trò tư riêng, bí mật, những con mắt tình tứ, nụ cười ý nghĩa, nói chung, mọi sự thông giao, bắt mối, có thể nuôi cái lửa mờ ám, hôi hám ấy. Nếu cùng lắm bị bó buộc phải nói đôi khi với kẻ kia, trong dịp ấy hãy tuyên bố bằng một lời cự tuyệt mạnh mẽ, ngắn và nghiêm nghị sự phân chia đôi ngả vĩnh viễn. Tôi kêu to cho mọi kẻ rơi vào cảm bẫy của ái tình lăng loàn ấy nghe : “Cắt đi, chặt đi, đập tan đi !” đừng có dại mà tháo gỡ từ từ mà thôi, phải xé ngay. Không chỉ gỡ mối liên lạc, nhưng phải chặt đứt, những giây rằng buộc ấy chẳng đáng giá gì. Không nên gượng nhẹ trong cái ái tình ngược với tình yêu Chúa như thế.

Song, sau khi đã chặt đứt mọi giây nô lệ khốn nạn ấy, sẽ còn vương vấn trong tôi đôi tâm tình, còn hằn nơi chân tôi những vết xiềng xích xưa, nghĩa là nơi tình cảm tôi. Philôtê ơi, những cái đó không đáng sợ gì nếu con đã thật tình ghét cay ghét đắng cái tai nạn kia. Lúc ấy, con chẳng bị xao xuyến gì ngoài ra thấy hồn mình kinh tởm cái tình ái khốn kiếp kia và mọi sự thuộc về nó. Và con sẽ thong dong thoát khỏi mọi luyến ái vật con đã thải bỏ, bây giờ chỉ còn có tình mến Chúa rất trong sạch thôi. Nhưng giả sử con còn giữ đôi xu hướng xấu, con hãy tạo cho hồn con một chốn tĩnh mịch tinh thần như tôi đã chỉ dạy trên kia : được chừng nào hay chừng nấy, con hãy đem trí con muôn ngàn lần lui vào ẩn trong đó, đem hết tình mà từ bỏ mọi xu hướng đi. Hãy đọc sách đạo đức nhiều hơn. Xưng tội siêng hơn thường và rước lễ. Hãy khiêm nhường và đơn sơ phơi bày mọi xúc xiểm, mọi cám dỗ về điều ấy với cha linh hướng nếu có thể được, hoặc ít ra với linh hồn khôn ngoan và thân tín nào đó. Con hãy vững tin Chúa sẽ giải cứu con khỏi mọi tình dục miễn con trung thành tiếp tục làm các việc ấy.

Con sẽ nói : “Dứt bỏ một tình bạn cách tàn nhẫn như thế chẳng phải là vô ơn bạc nghĩa ư ?”. Ôi ! vô ơn bạc nghĩa ấy thật có phúc vì nó làm ta đẹp lòng Thiên Chúa ! Không Philôtê ơi, vì Chúa, như thế không thể là một bạc tình bạc nghĩa được, trái lại, một ơn lành con làm cho người yêu con, vì khi cắt đứt các dây ràng buộc con, con cũng chặt đứt cho họ, vì là dây ràng buộc  chung cả hai. Dù hiện thời họ chưa thấy hạnh phúc, chầy kíp họ sẽ nhận thấy và lúc ấy sẽ cùng với con ca lên lời tạ ơn : “Lạy Chúa, Chúa đã cắt dây ràng buộc con, con hiến tế lên Chúa lễ vật ngợi khen và con kêu cầu danh thánh Chúa” (Ca vịnh 115, 16).

-------------------

[1] Bỏ một câu không hợp thời.



CHƯƠNG 22 - VÀI ĐIỀU KHUYÊN DẶN THÊM

Tình bạn đòi phải có một mối thông giao sâu đậm giữa hai người, nếu không, tình bạn không thể phát sinh và tồn tại. Vì thế, thường thấy đi đôi với sự thông giao ấy, nhiều thứ thông giao khác thầm lén vào hồn rất khó nhận thấy qua các lần trao đổi những tâm tình yêu mến, xu hướng và cảm tưởng cho nhau. Cái đó xảy ra nhất là khi kẻ ta yêu là người ta rất quý trọng. Lúc đó lòng ta mở đón tình thân hữu của người đó đến nỗi cùng với tình ấy các xu hướng, các cảm nghĩ của họ hoặc tốt, hoặc xấu cũng chuyển sang ta dễ dàng. Loại ong sản xuất ra mật Hê-ra-clê đã hẳn là chỉ hút mật của hoa, song khi chúng hút ở cây phụ tử thì cùng với chất mật chúng cũng hút luôn mà không để ý cả chất độc của cây ấy.

Vậy ở đây Philôtê, ta phải thực hành lời Chúa Cứu Chuộc thường nói như tổ tiên ta dạy : “Hãy là những người đổi bạc và đúc tiền sành sỏi”, nghĩa là đừng nhầm bạc giả với bạc thật, vàng xấu với vàng tốt, phân biệt cái quý khỏi cái tầm thường. Phải ! chẳng có ai mà không có khuyết điểm. Nhưng tại sao ta lại nhận bừa bãi các thói xấu, các khiếm khuyết của bạn ta cùng với tình bạn của họ ? Đã hẳn, phải yêu họ dù họ còn khuyết điểm, nhưng đâu có phải là yêu và nhận lấy khiếm khuyết của họ ? Tình bạn cần trao đổi cho nhau sự tốt, chứ không phải sự xấu. Cũng như kẻ xúc cát sỏi ở sông Tagiê biết chọn lấy vàng, còn vứt sỏi cát lại trên bờ ; người có tình bằng hữu cũng phải loại các khuyết điểm, đừng để lọt vào hồn mình. Thánh Grê-go-riô Na-diăng có ghi lại : nhiều người yêu kính và khâm phục thánh Ba-xi-liô cũng đâm bắt chước cả những khuyết điểm bên ngoài của thánh nhân : cách nói chậm, cái vẻ xa vắng và trầm ngâm suy tư, cách để râu, cách đi đứng.

Chúng ta thấy có những người vợ, chồng, con cái, bạn hữu, vì quý trọng nhau quá sức, nên nhiễm phải không biết vì bắt chước hay vì nhún nhường, muôn vàn những cái tính khí xấu lặt vặt, bởi liên lạc với nhau. Điều này không nên, vì mỗi người đã có khá nhiều khuynh hướng xấu rồi, không dại gì lại đèo thêm của người khác. Tình bạn không bao giờ đòi phải làm thế đã đành, trái lại còn buộc ta giúp nhau tránh thoát muôn các thứ khiếm khuyết. Dĩ nhiên ta phải chịu đựng cách hiền từ các khiếm khuyết nơi người bạn, nhưng không phải là nuôi dưỡng, huống hồ chuyển các cái ấy sang cho mình.

Đây tôi chỉ nói đến các khuyết điểm. Còn về tội, không được nuôi dưỡng cũng như chịu đựng ở nơi bạn mình. Thấy bạn hư mất mà không cứu vớt, thấy bạn chết vì ung nhọt mà không dám dùng dao sửa lỗi mà mổ xẻ cho họ khỏi thì thật là tình bạn yếu ớt hay độc ác ! Tình bạn chân chính, sống động, không thể tồn tại trong tội lỗi. Người ta nói con kỳ nhông khi nằm vào lửa thì rập tắt ngay lửa, tội lỗi nằm trong tình bạn rập tắt tình bạn. Nếu là tội nhất thời, tình bạn giúp nó qua đi bằng cách sửa lỗi. Nhưng nếu nó lưu lại ở lỳ đó tình bạn sẽ chết theo, vì tình bạn chỉ tồn tại trong nhân đức. Huống hồ người ta lại phạm tội vì tình bạn ! Bạn sẽ là thù nếu muốn kéo ta đến tội ; nó đáng mất tình bạn, nếu muốn làm hư mất bạn mình. Một trong những dấu chắc chắn nhất của tình bạn giả trá là kết thân với người xấu nết, xấu về loại tội gì mặt ý. Nếu kẻ ta mến mà xấu nết, tình bạn ta chắc cũng đồi bại : vì nếu tình bạn không nhắm đến nhân đức, dĩ nhiên nó sẽ nhắm đến cái phóng túng, cái dâm đãng.

Thương hội do các nhà buôn lập nên để mưu lợi tức thế tạm cho nhau, chỉ cho ta một hình ảnh xa mờ về tình bằng hữu ; ở đây đâu có phải vì quý mến nhau mà chỉ vì muốn kiếm lợi.

Sau cùng, hai lời Chúa sau đây sẽ là hai cột trụ để chống đỡ đời sống Kitô giáo. Một là lời của đấng khôn ngoan : “Ai kính sợ Thiên Chúa, sẽ được một tình bạn chân thật” (Huấn Ca 6, 17). Lời kia của thánh Gia-cô-bê : “Bầu bạn với thế gian là thù nghịch với Thiên Chúa”. (4.4)



CHƯƠNG 23 - CÁC VIỆC PHẠT XÁC BÊN NGOÀI

Những nhà vạn vật học quả quyết : nếu viết chữ trên hạt hạnh nhân còn nguyên vẹn rồi đem bọc vỏ lại  cho kỹ lưỡng đem trồng lại, say này các quả cây hạnh đào đều mang những chữ ấy hết. Theo đó, Philôtê, tôi không thể tán thành phương pháp của những người muốn cải thiện người ta, lại bắt đầu từ bên ngoài, từ cử chỉ bộ điệu, áo quần, tóc tai.

Theo thiển kiến tôi, phải bắt đầu từ bên trong. Thiên Chúa phán : “Hãy ăn năn trở lại cùng ta hết lòng”, “Con ơi ! hãy dâng lòng con cho ta”. Vì tấm lòng là nguồn các hành động. Hành động sao, tấm lòng là vậy ! Bạn Tình thánh mời linh hồn : “Hãy đặt ta như con dấu trên trái tim con, và trên cánh tay con” (Nhã ca 8, 6). Thật thế ! Vì ai có Chúa Giêsu Kitô trong lòng, tức cũng có Ngài trong các hành động bên ngoài. Bởi vậy Philôtê thân mến, trước hết mọi sự tôi muốn ghi khắc trên trái tim con câu thánh này : “Vạn tuế Chúa Giêsu !” Như thế tôi yên tâm, vì đời sống của con sau đó, do từ con tim phát sinh ra, như cây hạnh đào do hạt hạnh nhân, sẽ phát sinh mọi hoạt động như hoa quả của nó, tất cả đều được khắc cái chữ có phúc ấy. Như Chúa Giêsu sống trong trái tim con, Ngài cũng sẽ sống trong mọi hành vi cử chỉ : sẽ hiện ra trong mắt con, nơi miệng, nơi tay, ngay cả trong làn tóc. Lúc ấy con có thể nói như thánh Phaolô : “Tôi sống, song không còn phải tôi, Chúa Giêsu Kitô sống nơi tôi” (Galát 2,20). Nói tóm : chiếm được trái tim là chiếm được cả người. Song trái tim là nơi ta bắt đầu việc cải tổ con người, đòi ta huấn luyện nó để nó biết điều khiển cách cư xử và cử chỉ bên ngoài, ngõ hầu người ta nhìn thấy ở đó không chỉ sự thánh đức, mà còn cả sự khôn ngoan và xử sự ý tứ nữa. Vì đó tôi muốn giúp đôi điều căn dặn.

Nếu có thể ăn chay được, hãy chay lòng vài ngày ngoài các lần chay Hội Thánh buộc. Vì ngoài hiệu quả thường thức là thảnh thơi lòng trí dẹp xác thịt, thực hành nhân đức và được phần thưởng lớn lao hơn trên trời, chay lòng còn có lợi ích lớn này là cho phép sửa trị tính ham ăn uống và bắt dục tình và thân xác lệ thuộc luật tinh thần. Dù ta không ăn chay nhiều, kẻ nghịch vẫn sợ ta hơn, vì nó thấy ta biết ăn chay. Xưa các tín hữu giữ chay vào những ngày thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Con cũng hãy dùng những ngày đó mà ăn chay, được bao nhiêu là tùy lòng đạo đức của con và do phán đoán của cha linh hướng sẽ chỉ dạy.

Tôi muốn nói với con lời của thánh Hiê-rô-ni-mô nói cho bà Lê-ta : “Ăn chay lâu dài và quá độ là điều tôi không ưng, nhất là nếu người ấy còn trẻ tuổi. Theo kinh nghiệm tôi nhận thấy con lừa con mà đói mệt dọc đường, sẽ tìm cách đi chệch đường” : nghĩa là khi còn trẻ mà đã yếu ớt vì chay giới quá độ, thường lại đổi tính thành quá nuông chiều xác thịt. Có hai trường hợp con hươu chạy không mau : khi quá no bụng hay quá gầy đói. Ta dễ bị các cám dỗ tấn công khi xác ta được nuôi dưỡng quá đầy đủ hoặc khi nó quá kiệt quệ : lý do cái trên là thân xác đâm ra chướng kỳ xấc xược vì được chiều chuộng ; lý do cái dưới là thân xác đâm ra bải hoải bất lực vì quá bị bạc đãi. Nó quá béo, ta không mang nổi, nó quá gầy, nó không mang nổi ta. Thiếu điều độ trong việc ăn chay, đánh tội áo nhặm và phạt xác làm cho những năm tốt đẹp nhất của đời nhiều người đâm ra vô dụng, không phục vụ được đức bác ái. Chính thánh Bê-na-đô ở trường hợp đó Ngài hối hận vì đã quá dùng sự hãm mình phạt xác khổ hạnh. Ngược đãi thân xác ban đầu chừng nào, sẽ bị bó buộc chiều chuộng nó sau này chừng ấy. Nếu vậy dung hòa cách đối đãi cho vừa phải mà đều đều và thích hợp với nghĩa vụ và công việc của địa vị họ lại chẳng hay hơn sao ?

Chay lòng và làm việc có sức trị dẹp và trấn áp xác thịt. Nếu công việc con làm là cần thiết hay làm sáng danh Thiên Chúa nhiều, thì tôi thích con chịu những khó nhọc do việc làm ấy gây ra hơn là ăn chay. Đó là ý Hội Thánh : Người miễn chuẩn khỏi ăn chay dù là chay buộc cho những ai làm các việc ích lợi để phục vụ Thiên Chúa và đồng loại. Người này khó nhọc vì ăn chay, người khác khó nhọc vì phục vụ bệnh nhân, viếng thăm tù nhân, giải tội, giảng, trợ giúp kẻ khốn khó, cầu nguyện và các công việc giống vậy. Cái khó nhọc này còn hơn cái khó nhọc kia, vì không kể nó cũng hãm dẹp xác thịt nó còn phát sinh các hoa quả đáng ước ao hơn. Đàng khác, chung chung ta nên giữ sức khỏe thể xác dồi dào hơn là tiêu hủy nó quá độ, vì ta có thể hủy sức khỏe khi ta muốn, nhưng không thể bồi đắp lại luôn bất cứ lúc nào ta muốn được.

Vậy theo ý tôi, ta phải tôn trọng lời Chúa Giêsu Cứu Thế phán với các môn đệ : “Chúng con hãy ăn lương thực người ta dọn cho” (Luca 10, 8). Tôi thiết nghĩ, khi ăn uống cái gì người ta dọn cho mình, ăn cách làm sao, dù ngon miệng hay không, mình không kén chọn gì cả : thì đó là một nhân đức lớn hơn là luôn ta chọn lấy món dở nhất. Dù cách sau này có vẻ kham khổ hơn, song cách trước cho nhiều dịp nhẫn nhịn hơn, bởi vì không những ta từ bỏ sở thích mà còn cả sự kén chọn. Mà để ý riêng mình uốn theo sở thích người khác và tùy theo may rủi, không phải là khổ hạnh nhỏ đâu. Thêm vào đó, thứ hãm xác ấy lại thầm kín, không làm phiền ai và đặc biệt hợp cho đời sống xã giao ! Bỏ miếng thịt này để chọn miếng khác, cái gì cũng thò đũa vào mà thử, chê món này chưa đúng vị, món kia không đẹp mắt, mỗi món là mỗi làm khó dễ : những kiểu đó cho thấy một con người yểu điệu và nghiêng chiều về chuyện ăn uống. Tôi thích thánh Bê-na-đô khi Ngài uống lầm dầu thay vì nước hay rượu hơn là nếu ngài cố tình uống nước hòa chất đắng, vì như thế là dấu ngài không nghĩ gì đến cái ngài uống. Hoàn toàn lãnh đạm với đồ ăn thức uống của ta, đó là đã thực hành hoàn hảo lời Chúa : “Hãy ăn các lương thực người ta dọn ra cho các con”. Tuy vậy, có luật trừ : thịt, thường hại sức khỏe hoặc làm nặng tâm trí. Những người dùng thịt hầm và dặm nhiều gia vị, hầm với rượu hay bị chứng đó. Cũng trừ vài trường hợp, khi cần bồi bổ sức khỏe để có thể đảm đương một công việc làm sáng danh Thiên Chúa. Sống thanh đạm đều đặn, chừng mực vẫn hơn những trai giới quá khắc khổ mà chỉ làm đôi lần, và giữa những lần đó lại xen lẫn những sự thả lỏng quá trớn.

Đánh tội, nếu dùng có chừng mực, có đặc tính đặc biệt lay tỉnh lòng ham muốn sống đạo đức. Áo gai nhặm trấn áp thân xác, nhưng bình thường những ai sống trong hôn nhân hay thể chất mảnh dẻ không khuyên dùng, cũng như người chịu nhiều nỗi thống khổ lớn khác rồi. Đã đành trong những ngày dành riêng hơn để sám hối đền tội, ta có thể dùng sau khi đã lãnh ý cha linh hướng có tính thận trọng.

Tùy theo sức lực mỗi người, mỗi đêm nên ngủ đủ giờ để ngày có thể tỉnh táo mà làm việc. Kinh Thánh, bởi trăm nghìn cách, cũng như gương sáng của các thánh, và lý lẽ tự nhiên cho thấy buổi sáng là lúc tốt nhất và phong phú sinh lực nhất trong cả ngày. Đàng khác, vì Chúa Giêsu được mệnh danh là Mặt Trời Bình Minh và Đức Mẹ là buổi Rạng Đông, nên tôi tưởng gắng đi ngủ sớm buổi tối là việc công đức, hầu có thể dậy sớm ngày mai. Buổi sớm là trời êm đẹp, yên lặng và ít bận rộn nhất. Chim chóc cũng mời đón ra chỗi dậy sớm và ca ngợi Thiên Chúa. Như thế dậy sớm vừa lợi cho sức khỏe, vừa giúp sự thánh thiện.

Ba-la-am cưỡi lừa đi tìm gặp Ba-lác, nhưng vì ông không có chủ ý tốt, nên thiên thần đón ở đường, cầm gươm dọa giết. Lừa trông thấy thiên thần, ngừng lại ba bốn lần, có điệu bất kham. Ba-la-am đánh lừa dữ dội cho nó tiến bước, đến lần thứ ba con lừa nằm khụy xuống, nhưng bởi một phép lạ đã nói lên tiếng rằng : “Tôi làm gì mà ông đánh tôi ba lần thế ?”. Mắt của Ba-la-am được mở ra, ông thấy thiên thần, và nghe tiếng người nói : “Tại sao đánh lừa ? Nếu nó không lùi bước trước mặt ta, thì ngươi đã bị tay ta giết mà tha nó rồi”. Lúc ấy ông Ba-la-am nói : “Lạy ông, tôi có tội, vì tôi không biết người đón tôi ở đường” (Dân số 22, 12 và tiếp). Con thấy chưa, Philôtê, Ba-la-am là nguyên nhân tội ác, thế mà ông ta lại đánh đập con lừa đáng thương kia khụy xuống. Đời ta cũng thường xảy ra như vậy. Người vợ kia, thấy chồng hay con ốm, thì ăn chay, mặc áo gai nhặm, đánh tội như Đa-vít đã làm trong trường hợp tương tự. Buồn thay, bạn ơi, bạn đánh đập con lừa, bạn hành hạ thân xác bạn, nó chẳng làm gì để bạn đau buồn cũng như để bạn bị Chúa tuốt gươm thịnh nộ. Tốt hơn hãy sửa tấm lòng quá chiều chồng, thờ chồng đi đã, tấm lòng nuông chiều thả lỏng con cái phạm muôn nghìn nết xấu, làm nó đâm kiêu ngạo, khoe khoang, tham danh vọng.

gười khác thấy mình hay sa phạm nặng nề trong tội dâm dục : sự cắn rứt rúc rỉa trong lương tâm như lưỡi gươm nhọn đâm xé lòng bắt họ kính sợ Thiên Chúa. Rồi, hồi tâm lại, người đó tự nói : À, xác thịt phản trắc, thân thể bất trung, mày đã phản bội ta ! “Thế là họ hung hăng làm dữ thân xác, ăn chay quá độ, đánh tội vô chừng, mặc áo nhặm liên lỉ ! Hỡi linh hồn đáng thương, nếu xác thịt ngươi có thể nói được như lừa của Ba-la-am, hẳn nó sẽ nói : “Quân khốn khiếp, sao mày đánh ta ?” Hỡi hồn tôi, chính mày mới đáng bị Chúa báo thù, chính mày là can phạm. Tại sao mày dẫn tao đến các cuộc chuyện trò xấu xa ? Tại sao mày dùng mắt, tay, môi tao vào việc dâm đãng ? Tại sao mày khuấy khuất tao bằng bao tưởng tượng nhơ uế ? Hãy có những ý nghĩ tốt, thì tao sẽ không có những cử động xấu. Hãy đi lại với người liêm chính, tao sẽ không bao giờ bị xao động bởi dục tình. Than ôi ! chính mày ném tao vào lửa mà lại muốn tao không bị cháy ư ? Mày đem khói lửa ném vào mắt tao mà lại muốn chúng không cháy lên ư ? Trong các trường hợp ấy, Thiên Chúa nói với bạn : “Hãy đánh, hãy đập, hãy chém, hãy vò nát tim các ngươi trước hết, ta thịnh nộ là thịnh nộ chúng”. Đã hẳn, muốn khỏi ngứa không chỉ tắm rửa, nhưng nhất là lọc máu và bồi bổ gan ; để chữa các nết xấu cũng vậy, đã hẳn là phải hãm mình phạt xác, nhưng tối cần là phải tẩy luyện các tâm tình ta và tăng cường trái tim ta. Vậy, trong mọi sự ở mọi nơi, chỉ nên dùng các khổ hạnh thể xác sau khi lãnh ý của vị hướng dẫn.



CHƯƠNG 24 - TRÒ CHUYỆN VÀ CÔ TỊCH

Tìm dịp bắt chuyện hay trốn tránh đều là hai thái cực đối với đời đạo đức của người sống giữa thế gian. Trốn tránh là vì khinh thị người đồng loại và tìm tòi là do tại ăn không ngồi rồi và vô dụng. Phải yêu người như mình. Để tỏ ra ta yêu họ, không được trốn tránh họ. Và để tỏ ra ta yêu ta, ta phải ở lại trong mình. Mà người ta chỉ ở với mình khi ở một mình. Thánh Bê-na-đô nói : “Hãy nghĩ đến mình, rồi đến kẻ khác”. Vậy, nếu không có gì thúc bách tiếp chuyện hay đón khách tại nhà, con hãy ở một mình và trò chuyện với lòng mình. Nhưng nếu cần phải tiếp chuyện, hay vì lý do chính đáng nào con phải đi nói chuyện, hãy vì Chúa mà đi, Philôtê ; và con hãy đối xử với nguời đồng loại cách tử tế và niềm nở.

Người ta gọi là trò chuyện xấu những trò chuyện vì ý xấu, hoặc kẻ dự vào là những kẻ xấu nết, phóng túng, bừa bãi. Phải tránh những cuộc trò chuyện ấy như ong mật tránh đám ong bầu và ruồi trâu. Kẻ bị chó dại cắn, nước bọt, hơi thở và mồ hôi họ đều có nộc độc, nguy hiểm cách riêng đối với trẻ con và người thể chất yếu ớt ; kẻ xấu nết càn dỡ cũng vậy, ai đi lại với họ chỉ gặp nguy hại, cách riêng những người đạo còn non yếu, mỏng manh.

Có những trò chuyện vô ích, song phải dùng khi giải trí, để giúp khuây khỏa sau những việc nghiêm trang. Cũng không nên quá mức trong chỗ này, chỉ nên dành cho chúng những giờ phút buổi giải trí thôi.

Các trò chuyện khác có mục đích lương thiện, như thăm viếng nhau và đôi cuộc hội họp để chúc mừng người ta, cũng không nên thực hành các điều này cách mê man cuồng nhiệt, đàng khác đừng bất lịch sự đến nỗi khinh rể chúng. Vậy hãy khiêm tốn nết na làm bổn phận ấy, hầu tránh khỏi sự quê kệch lẫn nhẹ dạ.

Còn các trò chuyện hữu ích, như giữa những người đạo đức, lành thánh với nhau, thì Philôtê, gặp được các cuộc trò chuyện như thế luôn thật là một lợi ích lớn lao cho con. Gốc nho trồng giữa các cây dầu ô-liu trổ sinh các trùm nho sai quả và có mùi dầu ô-liu thơm tho ; linh hồn sống ở giữa những người nhân đức chắc sẽ hưởng lây các nhân đức của họ. Tự mình ong đất không làm ra mật, song chúng giúp cho ong mật làm ; để tập cho ta có lòng đạo đức, nói chuyện với các linh hồn đạo đức là một lợi ích lớn lao.

Bất cứ trò chuyện thế nào, lòng ngay thật, đơn sơ hiền lành và khiêm tốn luôn được ưa chuộng. Có những người không làm một cử chỉ, điệu bộ nào mà không cầu kỳ kiểu cách làm cho ai nấy đều ngán. Cũng như kẻ đi dạo mà cứ đếm từng bước, kẻ mở miệng là hát, ai mà chẳng bực mình ; thì kẻ điệu bộ kiểu cách, lúc nào cũng khuôn sáo, làm cho cuộc nói chuyện đâm tẻ nhạt. Những hạng người đó không nhiều thì ít vẫn thường hợm mình luôn. Bình thường trong câu chuyện phải có sự vui tươi ôn hòa. Thánh Rô-mu-al-đô và Antôn được người đời ca tụng hết sức vì nét mặt và lời nói các ngài luôn đượm vẻ vui tươi, hoan hỉ và lịch sự, mặc dù các ngài sống vô cùng khổ hạnh. “Hãy vui với kẻ vui”, đó là lời thánh Phaolô nói (Roma 12, 15). Tôi nhắc lại một lời nữa của Ngài : “Hãy luôn hoan hỉ song ở trong Chúa chúng ta. Chớ gì sự khiêm tốn[1] của anh em tỏ bày ra trước mọi người” (Philíp 4, 4). Để vui trong Chúa, thì muốn vui về điều gì tùy ý song phải là điều mang tính chất lương chính. Nói thế, vì có những chuyện thong dong tùy ý mà không lương chính. Sau đó, muốn tỏ ra khiêm tốn, con đừng có chướng kỳ ngạo nghễ, là điều luôn luôn đáng trách. Hạ bệ người này, bêu xấu người kia, châm chích kẻ khác, làm cực một kẻ khờ dại : toàn là những trò đùa bỡn vui cười dại dột và ngạo ngược.

Ngoài sự tĩnh mịch tâm trí là nơi con có thể lui vào sống với Chúa ngay giữa mọi câu chuyện náo nhiệt như đã chỉ dạy trên kia, con cũng phải luôn yêu thích sự tĩnh mịch thực sự bên ngoài. Không phải bảo con đi vào sa mạc như thánh nữ Ma-ria Ai-cập, thánh Phao-lô, thánh An-tôn, Ác-sê-niô và các đấng thánh ẩn tu khác, nhưng đôi lần đi vào phòng riêng của con, trong vườn hay nơi nào khác tùy thích. Ở đó con có thể đem trí về lại trong lòng mình và nuôi dưỡng tâm hồn bằng đôi ba điều suy ngắm hay ý tưởng tốt lành thánh thiện, hoặc bằng đôi đoạn sách đạo đức, bắt chước thánh Giám Mục thành Na-diăng như ngài viết về mình : “Tôi một mình thả bộ lúc hoàng hôn và để dòng thời gian trôi lặng lẽ trên bãi biển.

ôi có thói quen dùng cách đó để giải trí và làm khuây khỏa những điều buồn bực thường ngày”. Sau đó ngài nói đến các cảm nghĩ thánh thiện do cảnh ấy gợi lên trong lòng ngài, như trên kia đã ghi lại (Phần II Chương 13). Thánh Ao-gu-ti-nô thuật lại về thánh Am-brô-siô rằng : nhiều lần vào phòng ngài (vì ngài không cấm cửa ai hết), Ao-gu-ti-nô thấy ngài đang đọc sách, sau khi đợi ít phút không dám khuấy động, Ao-gu-ti-nô lặng lẽ quay ra vì nghĩ : Vị Chủ chiên chỉ có chút ít giờ này là rảnh rang để bồi dưỡng và bồi đắp tinh thần sau bao công việc bận rộn nên không dám làm ngài mất thì giờ.

Phúc âm cũng chép lại : sau khi nghe các tông đồ kể lại cho Chúa Giêsu việc giảng dạy và các công việc các vị làm, Chúa nói : “Chúng con hãy vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút” (Marcô 6, 31).

---------------

[1] Chữ “khiêm tốn” ở đây tác giả cố ý dùng thật ra không đúng nghĩa, phải dịch : lòng tốt.



CHƯƠNG 25 - CÁCH ĂN MẶC

Thánh Phao-lô muốn rằng các phụ nữ đạo đức phải ăn mặc tử tế, trang phục kín đáo và nết na. Về phần các ông cũng phải nói tương tự như vậy. Ăn mặc và trang sức có thích đáng hay không là tùy ở hình thức và sự sạch sẽ của nó. Về sự sạch sẽ, quần áo ta thường phải luôn tinh sạch, ta đừng để bao giờ có vết nhơ hay ô uế gì trên áo. Sạch sẽ bên ngoài tiêu biểu một phần nào sự liêm khiết bên trong. Chính Thiên Chúa cũng đòi các người đến gần bàn thờ và lo việc phụng thờ phải sạch sẽ tươm tất.

Về phẩm chất và hình thức áo xống, muốn thanh lịch trong điều này, phải xét các trường hợp về thời gian cơ hội tuổi tác, chức bậc, và hạng người giao du với mình. Thường người ta chưng diện hơn vào những ngày lễ, và tùy lễ lớn hay lễ nhỏ. Thời buổi ăn chay đền tội, như mùa chay cả, ăn mặc phải đơn giản. Dịp cưới hỏi, người ta mặc áo dự dự đám cưới gặp hoàn cảnh ma chay, lại mang áo tang. Bên các vua chúa, ăn mặc sang làm tăng giá trị của chức vị ta, cạnh kẻ thân thuộc, áo xống lại phải nhũn nhặn. Đàn bà có chồng phải trang điểm vì chồng, như chồng ước mong. Nhưng nếu chồng xa vắng, mà vẫn trau truốt, người ta sẽ tự hỏi để cho ai nhìn ? Đối với thanh nữ, có quyền trang sức nhiều hơn vì các cô còn có tự do ước muốn mua lòng nhiều người, để chỉ kén lấy một trong hôn nhân. Các quả phụ muốn tái giá mà trang điểm cũng không phải là xấu thói, miễn đừng ra vẻ diêm dúa, nhất là đã là mẹ gia đình, sống trong buồn nhớ của bậc quả phụ, tâm thần phải chín chắn và cương nghị lắm rồi chứ. Còn các quả phụ thật, không chỉ cô đơn trong thân xác mà trong tâm hồn, chẳng đồ trang sức nào hợp cho họ, ngoài sự khiêm nhu, đoan trang và đạo đức. Vì nếu họ muốn bắn sẻ ái tình với người khác, họ hết là quả phụ, vì nếu không muốn gửi gắm tình yêu cho ai nữa thì chưng diện làm gì ? Ai không muốn có khách hàng, phải tháo biển quảng cáo đi. Người đời chê cười những ai đã quá lứa mà muốn làm đỏm, người đời chỉ tha phép cho bọn trẻ thôi.

Philôtê, con hãy ở sạch. Đừng để cái gì trên mình lôi thôi, lếch thếch. Đến với người ta để chuyện trò mà ăn mặc luộm thuộm là khinh bỉ họ. Nhưng cũng lo tránh những cái cầu kỳ, xa hoa, kiểu cách và diêm dúa. Con hãy tùy tiện giữ sự đơn sơ và nhũn nhặn là nữ trang quý nhất cho sắc đẹp, đồng thời lại làm lu mờ các nét xấu xí. Thánh Phê-rô khuyên bảo cách riêng những thiếu phụ trẻ đừng quá uốn tóc quăn, tóc lượn. Người đàn ông mà chỉ thích chải chuốt thường bị coi là yểu điệu như đàn bà. Còn đàn bà làm đỏm bị coi kém tiết hạnh : nếu may ra có chút tiết hạnh, chắc nó bị chìm nghỉm dưới bao thứ lằng nhằng ấy. Các người đó nói : họ không nghĩ đó là điều xấu, nhưng tôi vặn lại như đã vặn một lần trên kia : ma quỷ nó thì lại luôn nghĩ xấu ! Phần tôi, tôi muốn người đạo đức là người ăn mặc thanh lịch hơn hết trong chúng bạn, song lại ít hào nhoáng và diêm dúa hơn cả. Như có nói trong sách Cách ngôn, tôi cũng ước nguyện : họ đầy duyên dáng, phong nhã và tề chỉnh. Thánh Lu-y nói gọn trong một câu : ăn măc sao cho xứng bậc mình, để cho người khôn ngoan và tử tế không thể nói : “Bạn diện quá !” hoặc ngược lại, đám người trẻ cũng không nói được : “Bạn lôi thôi quá !”. Nhưng trong trường hợp đám người trẻ không muốn ăn mặc chỉ để cho lịch sự mà thôi, thì ta nên nghe theo ý người khôn ngoan.



CHƯƠNG 26 - CÁCH NÓI CHUYỆN

Khám lưỡi, bác sĩ sẽ biết ta mắc bệnh hay sức khỏe. Lời nói biểu lộ các đức tính tâm hồn. Chúa Cứu Thế phán : “Tùy theo lời nói của ngươi mà ngươi được công chính hay bị kết án” (Mathêu 12, 37). Đau đâu ta hay sờ lên chỗ đó, yêu thích gì, ta cũng hay nói về sự ấy.

Nếu con yêu Chúa, hỡi Philôtê, con sẽ năng nói về Chúa trong câu chuyện thường ngày với các người trong nhà, bạn hữu, láng giềng. Thật thế, vì “miệng người công chính giảng sự khôn ngoan và lưỡi người nói lời chính trực”. (Cách ngôn 36, 30). Như ong chỉ dùng vòi bé nhỏ của chúng để rỉ ra mật chứ không làm gì khác, thì miệng con cũng vậy, phải luôn thơm ngọt tình Thiên Chúa, và không còn gì dịu ngọt hơn là cảm thấy môi miệng con luôn tràn những lời ngợi khen chúc tụng danh thánh Ngài. Người ta kể : thánh Fan-xi-cô khi đọc danh thánh Chúa, thì liếm môi chép miệng như muốn nếm sự ngọt ngào nhất trần gian vậy !

Nói về Chúa, con phải nói cách xứng đáng với Chúa, nghĩa là cách kín cẩn và sốt sắng. Không phải làm bộ ta đây, hoặc dạy đời, song trong hiền từ, bác ái và khiêm nhường, theo sức hiểu biết của mình và giống như sách Nhã Ca nói về Hiền thê Chúa nhả từng giọt mật thơm ngon của lòng đạo đức và các sự trên trời, lúc vào tai người này, lúc vào tai người khác, đang khi đó trong lòng con âm thầm cầu xin Chúa làm cho sương trời ấy thấm vào lòng kẻ nghe con.

Nhất là phải làm công việc cao cả ấy cách êm ái, dịu dàng, không theo cách sửa dạy, những gợi ý, như mời gọi. Ai mà không bỡ ngỡ khi thấy lời đề nghị khả ái dịu dàng một điều tốt lành lại có thể có mãnh lực cuốn hút lòng người ta đến thế được ?

Đừng bao giờ nói về Chúa hay về đạo đức cách chiếu lệ, làm cho rồi, nhưng luôn phải nói cách chú ý và sốt sắng. Điều tôi nói đây là cốt đả phá thói khoe khoang lạ đời nơi một số người tự cho mình là đạo đức, nên lúc nào cũng mở miệng nói những lời đạo đức, thiêng liêng, ngon lành lắm, song tuyệt nhiên chẳng nghĩ mình đã nói gì. Khi nói xong, họ tưởng mình đã nên như lời mình vừa nói. Thật ra, đâu có thế !



CHƯƠNG 27 - LƯƠNG CHÍNH TRONG LỜI NÓI, VÀ TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC

Thánh Gia-cô-bê : “Nếu ai không lỗi trong lời nói, đó là người hoàn thiện” (3, 2). Con hãy cận thận giữ mình đừng buông lời bất nhã, dù con không có ý xấu, kẻ nghe cũng có thể bị ảnh hưởng xấu nào đó. Lời bất nhã rơi vào lòng kẻ yếu đuối loang ra như giọt dầu trên chiếc khăn vải, đôi khi nó lũng đoạn tâm hồn đến nỗi gây nên muôn nghìn ý tưởng và cám dỗ dâm dật.

Như thuốc độc qua miệng vào làm hại trong cơ thể, thì thuốc độc giết hại linh hồn qua tai lọt vào. Lưỡi nói lời độc là lưỡi sát nhân, dù may mắn nọc độc nó tiết ra không gây ác quả, vì tâm hồn người nghe có sẵn chất khử độc, thì cũng không phải bản chất nó không giết người đâu. Mà xin đừng nói là họ không nghĩ đến sự đó, vì Chúa Giêsu, Đấng biết thấu mọi tư tưởng, đã nói : “Miệng dào ra những điều ứa đầy lòng” (Matt 12, 34). Nếu người không nghĩ là xấu, thì thằng quỷ xảo quyệt nó nghĩ, lăm le rình lợi dụng những lời xấu nết để phá hủy lòng người. Tương truyền rằng : ai ăn cỏ, cỏ thiên thần, thì hơi thở luôn thơm tho dễ chịu. Kẻ có lòng lương chính, khiết tịnh, là nhân đức của thiên thần luôn nói lời thanh sạch, lịch sự, liêm chính. Thánh Tông Đồ (Phaolô) muốn ta đừng nói điều mất nết, các điều bất chính, ngài còn cho hay rằng : “không gì phá hoại phong hóa bằng các lời xấu xa” (1Corintô 15, 33).

Nếu những lời bất lương kia lại nói cách thầm lén, kiểu cách, tinh vi, chúng càng độc dữ. Vì lưỡi dao càng nhọn sắc càng đâm thấu tim gan, thì lời càng sắc bén, càng thấu đến linh hồn. Kẻ tưởng mình nói những lời như thế trong khi đàm đạo, là văn vẻ hoa bướm, hóa ra họ chẳng hiểu đàm đạo nhằm mục đích gì. Đàm đạo phải giống như một bầy ong tụ hội để làm mật qua các câu chuyện thanh lịch, đạo đức, chứ đâu phải một lũ ong vò vẽ xúm lại để rúc rỉa đồ thối tha ! Nếu có kẻ ngu xuẩn nào nói với con những lời bất nhã, con quay đi chỗ khác hoặc cách nào khác khôn ngoan tùy xử sự, để cho chúng biết những lời ấy đau tai lắm.

Thích châm biến là thói xấu nhất trong mọi thói xấu mà một trí óc có thể có. THIÊN CHÚA ghét cay đắng nết xấu ấy, xưa ngài đã ra nhiều hình phạt lạ kỳ. Không có gì nghịch đức bác ái, và phản lòng đạo đức bằng khinh bỉ, chê bai người đồng loại. Chê bai, cười nhạo luôn là bởi khinh bỉ, vì thế, nó là một tội rất lớn đến nỗi các đấng tiến sĩ có lý mà nói : Nhạo báng là điều xúc phạm lớn nhất, người ta có thể làm cho đồng loại bởi lời nói. Vì trong các xúc phạm khác còn có đôi chút tôn trọng kẻ bị xúc phạm, còn nhạo báng hoàn toàn chỉ còn có khinh khi miệt thị.

Còn những câu nói chơi trong lúc vui vẻ đùa bỡn, nó thuộc về một đức tính người Hy-Lạp gọi là “hoan hỉ”, còn ta có thể gọi là ăn nói có duyên.

Nói chơi là cách giải trí lương thiện, hòa nhã tươi vui về những trường hợp ngây ngô, dớ dẩn mà con người khiếm khuyết ai lại chẳng bị. Song cần phải giữ cho đừng từ vui cười tử tế đâm ra phỉ báng. Phỉ báng là làm cho cười vì khinh bỉ, miệt thị kẻ khác, còn nói đùa, khôi hài là làm cho cười cách đơn sơ vô tội trong tình thân thiện, bởi đôi câu nói ngộ nghĩnh khéo léo. Khi các tu sĩ muốn nói với người về những chuyện cao hơn sau bữa ăn, thánh LU-Y nói : “Bây giờ không phải là giờ lý luận, song giờ giải trí qua câu nói vui đùa hay hài hước. Ai có gì nói cứ việc nói cách tử tế”. Người nói thế là có ý biệt đãi hàng quí phái đang hầu quanh người, mong được nhà Vua để ý. Nhưng, Philôtê, ta làm thế nào để qua thời giờ giải trí, mà vẫn giữ được cuộc đời bởi lòng đạo đức.



CHƯƠNG 28 - ĐOÁN XÉT LIỀU

Chúa Cứu Thế phán : “đừng đoán xét kẻo mình bị đoán xét, đừng kết án kẻo chính mình bị kết án” (Luca 6, 3). Thánh Tông Đồ nói : “Đừng đoán xét quá sớm, đợi Chúa đến ; Ngài sẽ bộc lộ bí mật của bóng tối và phơi trần mọi mưu tính của lòng người” (1Cor 4, 5). Ôi lạy Chúa ! Các đoán xét liều lĩnh làm phật ý Chúa dường nào ! Đoán xét của con cái loài người liều lĩnh vì họ không phải là thẩm phán của nhau. Khi đoán xét, họ đoạt quyền Chúa. Đoán xét ấy liều lĩnh tại vì : tội là do chủ ý và quyết định của lương tâm, mà chính cái đó lại hoàn toàn bí mật đối với ta. Liều lĩnh còn tại vì mỗi người trong ta cứ xét xử chính mình cũng đủ rồi, không cần phải đem thân đi đoán xét hộ ai. Để khỏi bị xét xử, thì đừng đoán xét kẻ khác và đồng thời phải tự xét xử mình, vì nếu Chúa Ki-tô cấm ta làm cái trên, Thánh Tông Đồ dạy ta làm cái dưới qua lời nầy : “Nếu ta tự xét xử mình, ta sẽ khỏi bị xét xử” (1Cor 11, 31). Nhưng, lạy Chúa, chúng con… làm trái ngược hẳn : cái gì cấm, chúng con làm, cứ xét đoán người khác bất luận về chuyện gì, còn cái chuyện phải làm, tức là phải xét xử về chính mình, chúng con lại không làm.

Muốn sửa chữa thói xét đoán liều ấy phải tìm nguyên do của chúng :

1) Có những tâm hồn sẵn bản tính gay gắt, chua cay khó chịu, họ biến thành chua cay gay gắt tất cả cái gì đến với họ, như lời tiên tri nói : “Họ biến lời phê phán thành mật đắng, khi đoán xét đồng loại bao giờ cũng hà khắc và thẳng nhặt” (A-môt 6, 13). Những người này cần một vị lương y thiêng liêng lành nghề ra tay cứu vớt, vì tính gay gắt kia là do bản tính nên khó trị ; vẫn biết tự nó không phải là tội, ít ra chỉ là khiếm khuyết, tuy vậy nó rất tai hại vì đem vào đặt ngự trị trong hồn cái thói đoán xét dông dài và nói hành.

2) Có kẻ đoán xét dông dài, không vì khó tính, song vì kiêu ngạo, họ tự nghĩ : càng hạ giá kẻ khác, họ càng nâng cao danh giá họ lên. Đầu óc kiêu căng và tự phụ ấy chỉ biết khen mình và cao tiếng ca ngợi mình đến nỗi nhìn mọi sự khác bằng nửa con mắt hệt như ông Pha-ri-sêu hợm mình kia trong Phúc Âm : “Tôi không phải như kẻ khác đâu !”.

3) Đôi người khác không đến nỗi kiêu ngạo rõ rệt như thế, mà chỉ có khoái trá đôi chút khi thấy sự xấu kẻ khác, để thưởng thức về mình và cho người khác nhè nhẹ thưởng thức cái tốt mà họ tự cho là mình có. Cái tự đắc nầy rất kín đáo và khó nhận thấy, đến nỗi ai không tinh mắt không khám phá ra được, và ngay chính đương sự là nạn nhân cũng không nhìn nhận được nó dù ta chỉ cho thấy.

4) Còn kẻ khác, muốn tự bào chữa tha thứ và làm dịu đi những cắn rứt của lương tâm, đâm đoán xét dễ dàng kẻ khác là xấu nết ngay trong điều mà chính họ phạm, hay điều xấu to lớn nào khác. Họ tưởng con số đông các phạm nhân sẽ làm cho tội họ bớt đáng trách.

5) Nhiều kẻ sẵn sàng đoán xét liều chỉ vì thích đàm đạo, thích triết lý dông dài trên phong hóa và tâm tính người đời như thao trường để luyện trí. Nếu chẳng may họ nói trúng, ôi thôi, họ càng say sưa bạo dạn khó mà ai gạt đi được.

6) Có kẻ xét đoán vì tư dục : họ xét là tốt cái họ thích, là xấu cái họ ghét, trừ ra đôi trường hợp kỳ lạ, nhưng có thật, vì quá yêu thích mà xét đoán sai lạc về cái họ yêu. Đó là hậu quả kỳ dị thật song bắt nguồn từ một tình yêu vẩn đục, khiếm khuyết, lộn xộn và bệnh hoạn, đó là lòng ghen tương. Đối với tính xấu này ai cũng biết, một cái nhìn, một nụ cười cỏn con vô tội cũng bị kết án là bội tín, ngoại tình.

7) Cuối cùng, tính hay sợ, tính tham vọng và các yếu đuối khác của tâm trí cũng góp phần không nhỏ vào việc phát sinh nghi ngờ và đoán xét dông dài.

Dùng phương thuốc nào đây ? Kẻ uống cỏ “Ô-phi-u-da” của Á-rập (cỏ này văn hào Pli-nô nói đến), đâm qua mắt, thấy toàn rắn rết và các vật ghê sợ khắp nơi. Kẻ no đầy kêu ngạo, ghen tị, ham hố, giận ghét, chẳng có gì mà họ chẳng cho là xấu và đáng trách. Các kẻ trên muốn khỏi bệnh phải uống rượu cây thốt nốt, các kẻ dưới, tôi sẽ nói với họ : “Bạn uống nhiều rượu thánh đức bác ái chừng nào càng hay chừng ấy, nó sẽ giải chất độc đã khiến bạn đưa ra những phán đoán cong quẹo đó”. Đức bác ái sợ gặp phải sự xấu, huống hồ lại đem thân đi chuốc nó vào mình ! Khi gặp, nó quay mặt đi và che đậy. Hơn thế nó nhắm mắt để khỏi thấy khi nghe có dấu hiệu báo tin. Rồi nó tin tưởng trong một tâm tình đơn sơ tốt lành rằng : đó không phải là sự xấu, nhưng chỉ là bóng dáng hay ảo ảnh của sự xấu. Nếu nó bị bó buộc phải công nhận đó là sự xấu, nó sẽ quay mặt đi và gắng quên. Đức bác ái là linh dược chữa mọi sự dữ, cách riêng cái tật xấu đoán xét liều này. Trước mắt kẻ bị chứng vàng da, mọi vật đều hóa màu vàng. Người ta đồn rằng : chữa bệnh này phải cho con bệnh mang chất Thổ hoàng liên dưới chân[1]. Tội đoán xét dông dài là bệnh vàng da thiêng liêng làm cho người mắc bệnh thấy gì cũng xấu. Nếu họ muốn lành phải đắp thuốc, không ở trên mắt, hay trí khôn, song ở trong tâm tình là chân của linh hồn. Nếu tâm tình con dịu hiền, phê phán của con cũng hiền từ. Nếu tâm tình con đầy bác ái, phán đoán của con cũng vậy. Tôi nêu ra ba tích rất đáng phục, I-da-ac (Isaac) đã nói rằng : Rê-bếch-ca là em họ. A-bi-mê-lếch thấy ông vuốt ve mơn trớn nàng cách âu yếm, liền chợt nghĩ  : nàng là vợ của ông. Một con mắt độc ác có lẽ đã nghĩ ngay : nàng là gái chơi, còn nếu là em họ, thì lại là kẻ loạn luân. Nhưng A-bi-mê-lếch đã có một tư tưởng bác ái trước sự kiện trên. Phi-lô-tê, ta phải luôn cư xử theo gương ấy : xét đoán tốt cho người khác chừng nào hay chừng ấy. Nếu một hành động có một trăm khía cạnh, phải nhìn khía cạnh tốt nhất. Đức Mẹ có mang, Thánh Giu-se thấy rõ ràng. Song mặt khác, người biết Đức Mẹ rất thánh, rất trong sạch như Thiên Thần, không bao giờ người lại có thể nghĩ rằng : Đức Mẹ đã thụ thai ngoài con đường bộn phận. Thành ra người đã để cho Thiên Chúa xét xử lấy, còn người thì bỏ đi. Dù tất cả vẻ bên ngoài đều như thúc đẩy người nghĩ trái về Đức Trinh Nữ, người vẫn không muốn đoán xét Đức Trinh Nữ như thế. Tại sao ? Vì người là công chính, như Thánh Thần Thiên Chúa nói. Người công chính, khi không thể bào chữa cho việc làm cũng như chủ ý của kẻ mà mình biết là người liêm chính, thì không hề đoán xét, song gạt ý nghĩ ấy đi, và để Thiên Chúa xét xử. Còn Chúa Cứu Thế, khi bị đóng đinh, dù không thể bào chữa cái tội của kẻ làm khốn Ngài, ít ra Ngài giảm bớt ác tính của nó đi lấy cớ là chúng không biết.

Khi ta không thể bênh chữa cho tội, ít ra hãy làm nó thành đáng thương, tìm cho nó một duyên cớ nghe được, chẳng hạn : vì không biết hay vì yếu đuối.

Như vậy không bao giờ được đoán xét người ta ư ? Không bao giờ ! Mình Thiên Chúa mới là Đấng xét xử kẻ tội lỗi thôi, Phi-lô-Tê ! Đã hẳn Ngài nhờ tiếng nói của các vị thẩm phán để cho ta nghe phán quyết của Ngài, họ chỉ là dụng cụ, là phương tiện trung gian, là phát ngôn viên, họ chỉ tuyên bố điều họ đã học được nơi Ngài, rồi truyền ra. Nếu họ làm khác, nghe theo tình dục của họ, lúc ấy chính họ xét xử, và do đó, họ cũng bị xét xử. Vì cấm người thế gian không được xét xử ai với tư cách họ là người thế gian thôi !

Nhìn và biết một điều gì, chưa gọi là đoán xét. Vì muốn đoán xét, như Thánh Kinh nói, đòi phải có một khó khăn, khúc mắt to hay nhỏ, thật hay như là thật, mà cần phải phanh phui ra. Cho nên Thánh Kinh nói : “Ai không tin đã bị xét xử rồi” (Gioan 3, 18), vì không còn ngờ vực gì về sự họ sẽ bị trầm luân. Nhưng, ngờ vực về người ta có phải tội không ? Không, vì không cấm ngờ vực, nhưng cấm xét đoán. Tuy vậy, không được phép ngờ vực hay nghi ngờ trừ phi có những lý do, những chứng cớ xác đáng hết sức ép ta phải ngờ vực. Ngoài ra, các ngờ vực, nghi hoặc sẽ thành liều lĩnh. Nếu có con mắt người xấu bụng nào thấy Gia-cóp hôn Ra-ken gần bên giếng hoặc thấy Rê-bếch-ca nhận vòng và hoa tai từ tay Ê-liê-dêu là khách lạ trong vùng, chắc họ đã̃ nghĩ xấu về hai trường hợp ngay lành trong sạch đó, đã hẳn là vô cớ, vô bằng. Vì, khi một hành động tự nó dửng dưng vô can mà ta rút ra một kết luận xấu, đó là một đoán xét dông dài vậy, trừ phi nhiều hoàn cảnh khác nhau ép ta lý luận như thế. Cũng là xét đoán dông dài khi ta kết luận từ một hành vi để khiển trách con người. Nhưng, về điều này tôi sẽ nói sau đây rõ hơn.

Sau cùng, những ai chăm lo đến lương tâm mình thường chẳng mắc vào việc xét đoán dông dài, như ong thấy sương mù hay mây đen liền lui vào tổ để làm mật : các cảm nghĩ của linh hồn đạo đức không hướng đến các vấn đề mờ tối hay những hành động uẩn khúc của đồng loại, trái lại, để tránh gặp chúng, các cảm nghĩ kia như tụ tập vào trong lòng để sinh ra các quyết định tốt mà sửa chính mình.

Thích xét về đời kẻ khác, đó là dấu một linh hồn vô dụng. Tôi không cố ý nó đến những ai có trách nhiệm trên kẻ khác, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, vì họ phải đem trí xem xét và coi sóc lương tâm kẻ khác. Họ hãy làm bổn phận với tất cả tình thương, xong việc, họ đừng quan tâm đến đó nữa, song chỉ còn lo cho mình.

--------------

[1] Một thứ cây thuốc theo tin tưởng bình dân thời đó.



Xét đoán liều sinh lo lắng, khinh bỉ đồng loại, kiêu ngạo và tự mãn về mình, và trăm ngàn hậu quả khốc hại khác, trong số đó, tật nói hành đứng hàng đầu, như ôn dịch trong các dịp đàm đạo. Ôi chớ chi tôi lấy được một miếng than hồng của bàn thờ để tẩy uế lưỡi người ta, như Thiên Thần Xêraphim đã tẩy uế miệng tiêng tri I-da-ia (Isaia) vậy (Isaia 6, 6-7). Ai cất được tội nói hành khỏi thế gian, sẽ cất được một phần lớn các tội lỗi của họ.

Ai làm mất tiếng tốt của kẻ khác cách bất công, không kể có tội, còn phải đền bù, tùy thứ loại của nó mà đền khác nhau. Không ai có thể vào Thiên Đàng mà còn giữ của kẻ khác, mà trong các của cải bề ngoài, danh thơm là của quí nhất. Nói hành là một thứ sát nhân, vì ta có ba sự sống :

Sự sống thiêng liêng là ơn nghĩa Thiên Chúa.

Sự sống thể xác mà hồn là căn nguyên.

Đời sống xã hội mà danh tiếng là huyết mạch.

Tội làm mất sự sống thứ nhất, chết làm mất cái thứ hai, nói hành làm mất cái thứ ba. Thường thường kẻ nói hành khi hoa môi múa mỏ, sát hại ba mạng sống : nó giết hồn mình và hồn kẻ nghe nó cách thiêng liêng, và hủy đời sống xã hội của kẻ nói hành. Như thánh Bê-na-đô nói : Kẻ nói và nghe nói hành, trong mình đều có ma quỉ : kẻ nói có trên lưỡi như lưỡi rắn. Kẻ nghe có nơi tai. Đa-vít nói về kẻ nói hành : “Chúng mài lưỡi nhọn như lưỡi rắn” (Ca vịnh 139, 4). Mà con rắn, theo nhận xét của A-rít-tốt có lưỡi chẻ làm hai và nhọn. Lưỡi kẻ nói hành y như thế, mỗi lần vận dụng lưỡi là vừa cắn vừa tiêm độc vào tai kẻ nghe và vào danh thơm kẻ bị nói hành.

Phi-lô-tê, con rất yêu cầu, tôi tha thiết cầu mong con đừng bao giờ nói xấu ai cả, trực tiếp hay gián tiếp cũng vậy. Giữ mình đừng gán cho người khác những tội ác, những lỗi lầm giả, hoặc bới móc những lỗi kín, phóng đại những lỗi đã hiển nhiên, cắt nghĩa xấu một việc tốt, chối sự tốt mà còn biết người ta có, hay che lấp cách tinh quái sự tốt ấy hoặc làm giảm giá trị đi bởi đôi lời nói nọ kia : bằng tất cả những cách ấy, con xúc phạm nặng nề tới Thiên Chúa. Nhưng, nhất là khi cáo gian hay chối sự thật làm cho người ta bị hại, vì ở đây có hai tội : vừa nói dối, vừa làm hại người ta.

Có kẻ khi muốn nói hành, đã khôn khéo tuyên bố danh dự trước, hoặc nói những lời có vẻ tử tế, hay đượm hài hước : đó là kẻ nói hành tinh quái và độc dữ nhất. Chúng nói : “Tôi tuyên bố rằng tôi quí mến người ấy, đàng khác, đó là một con người lịch thiệp. Tuy vậy phải nói thật, hắn đã bậy bạ khi làm chuyện đồi bại kia… Còn cô kia là con nhà đạo đức tử tế, song cô ta bị yếu đuối, sơ hở…”, và các điều khéo nói, đón trước rào sau như vậy. Con đã thấy cái lèo lá ở đó chưa ? Kẻ bắn cung, trước hết kèo cái tên về mình cho hết sức, nhưng cốt để bắn đi mạnh hơn. Những kẻ nói trên kia, có vẻ rút lời nói xấu về mình, nhưng mục đích là để bắn đi mạnh mẽ, làm cho cắm sâu vào lòng kẻ nghe hơn. Nói hành dưới hình thức hài hước thì ác hiểm hơn hết, vì như thuốc độc tự nó không mạnh, trái lại rất chậm nên dễ khử trừ, song nếu uống với rượu thì vô phương cứu chữa. Nói hành cũng vậy, mình nó sẽ trượt tai này sang tai kia, như người ta thường nói, nhưng nếu được dặm thêm vào đôi ba câu bông đùa, tinh quái, nó sẽ bám chắc vào trí người nghe. Đa-vít nói : “Những kẻ ấy có nọc rắn độc dưới làn môi” (Ca vịnh 139, 4). Rắn độc cắn, bắt đầu ta như không cảm thấy gì, nọc nó chỉ làm cho ta ngứa và gãi bằng thích, do đó quả tim và ruột gan ta càng thấm chất độc, và sau đó vô phương chạy chữa.

Con đừng nói : “Người nầy say sưa rượu chè”, dù con nhìn thấy rõ ràng họ đang say sưa đi nữa ; hay : “Người kia ngoại tình”, vì con đã bắt chợt quả tang họ phạm tội ; hoặc : “Người nọ loạn luân”, vì con đã thấy họ phạm lỗi ấy : chỉ vì một hành động chưa đủ để tặng họ danh từ ấy. Mặt trời ngưng lại một lần cho ông Gio-duệ thắng trận (Sách Gio-duệ 10-13), và một lần khác sầm tối lúc Chúa Cứu Thế tắt hơi, không ai lại vì đó mà nói mặt trời bất động hay tối đen ! Ông Noe say rượu một lần, ông Lót một lần khác, đèo thêm vào đó một tội loạn luân, nhưng đâu có phải hai ông là kẻ nghiện rượu, hay ông thứ hai có tật loạn luân. Phêrô không là tên khát máu vì đã một lần làm đổ máu (khi chém đứt tai tên đầy tớ), hay ông là kẻ lộng ngôn chỉ vì đã nói phạm một lần (khi chối Chúa). Để đội tên một tính xấu hay một nhân đức, phải đã có tập quán và làm liên tục. Cho nên gọi một người là nóng nảy hay là đứa trộm cướp, vì ta thấy họ nóng giận hay ăn cắp một lần : đó là nói ngoa.

Dù một người đã có nết xấu lâu, ta cũng liều mình nói ngoa khi gọi họ là kẻ xấu nết. Ông Simong “hủi” gọi Ma-đa-lê-na là gái tội lỗi, vì trước kia cô như thế. Nhưng ông đã nói sai, vì cô không còn thế nữa, trái lại, là người sám hối thánh thiện. Vì thế Chúa Giêsu đã bênh vực cô. Người Pha-ri-sêu ngạo nghễ kia coi người thu thếu là kẻ đại bợm, hoặc ít nhất, kẻ bất công, ngoại tình, cưỡng đoạt, nhưng hắn lầm to, vì ông này được nên công chính ngay sau đó. (Luca 7, 36-50 và 18, 9-14). Vì lòng nhân từ của Thiên Chúa lớn lao, đến nỗi chỉ một giây phút đủ để xin ơn và được ngay, thì ta làm sao dám quyết đoán chắc chắn rằng : người tội lỗi hôm qua, hôm nay vẫn thế ? Ngày hôm qua không có phép xử đoán ngày hôm nay, và hôm nay về ngày hôm qua. Chỉ có ngày sau cùng sẽ xét đoán về tất cả. Như thế không bao giờ được nói người ta độc ác mà không nguy hiểm là nói sai. Ta chỉ có thể nói nếu có bổn phận là họ đã làm một hành động xấu nào, đã sống trong tội thời gian nào, hay hiện thời đang làm điều ác. Nhưng không được kết luận từ ngày hôm qua, về ngày hôm nay, cũng như từ ngày hôm nay về ngày hôm qua, huống chi là về ngày mai.

Dù phải rất dè giữ cho khỏi nói hành người đồng loại, song cũng còn phải giữ kẻo lại thái quá trong vấn đề đó, như có vài người vì tránh nói hành lại ca tụng, nói tốt về các tính hư nết xấu. Nếu có ai nói hành, con đừng bào chữa cho họ là ngay thẳng và thành thật. Nếu người nào rõ ràng có tính hão huyền đừng bảo họ là hào hoa đại độ. Các điều quá thân mật nguy hiểm đừng cho là đơn sơ vô tội. Sự bất tuân phục, đừng cho là nhiệt thành, và che đậy tính kiêu ngoạo dưới danh từ cương trực, hay mệnh danh sự dâm đãng là tình bè bạn. Đừng, Phi-lô-tê, đừng nghĩ là trốn tránh tật nói hành bằng cách ủng hộ các tật xấu khác. Trái lại, cái xấu phải nói là xấu, cái gì đáng trách phải trách mắng. Hành động như thế là tôn vinh Thiên Chúa, nhưng với những điều kiện sau đây :

Để khiển trách thói xấu kẻ khác, cần phải nhắm lợi ích của kẻ ấy hay của kẻ ta đang nói với. Trước mặt các thiếu nữ mà tả những chuyện ái ân kín đáo của người này người nọ, những chuyện hiển nhiên là nguy hiểm ; hoặc cách sống buông tuồng của người này kẻ khác, trong lời nói hay bằng thái độ cử chỉ dâm đãng : nếu tôi không trách ngay cuộc nói chuyện xấu ấy mà lại có ý miễn chấp, thì các tâm hồn no trẻ đang nghe kia sẽ nắm cơ hội để buông theo. Lợi ích của họ đòi tôi phải khiển trách thẳng thắn những chuyện ấy ngay lúc đó, trừ phi tôi có thể dành lại dịp khác nói tiện hơn, và ít tai hại cho kẻ mà ta nói đến.

Ngoài điều kiện trên, còn phải là người có phận sự phải nói về vấn đề ấy nữa, như khi tôi là đầu trong cuộc hội họp ấy, mà nếu tôi không khiển trách, thì ra vẻ tôi tán thành tính xấu. Còn nếu tôi là một người bề dưới, tôi không có phận sự răn trách như thế. Nhất là tôi phải hết sức đúng trong lời nói để không một câu nào thừa. Chẳng hạn, tôi trách sự quá thân mật giữa thanh nam và thanh nữ kia, vì suồng sã và nguy hiểm, thì tôi phải cân nhắc cho đúng, đừng phóng đại thêm mảy may nào. Nếu chỉ có bóng dáng nhỏ mọn bên ngoài thôi, tôi sẽ nói chừng đó. Nếu là một sự dại dột thôi, tôi sẽ không nói thêm. Nếu chẳng có dáng tội lỗi cũng chẳng có gì dại dột thật mà chỉ tổ làm dịp cho vài đầu óc độc ác lấy cớ nói hành, thì tôi sẽ không nói gì hết. Khi nói về người đồng loại, cái lưỡi ở trong miệng cũng như dao mổ trong tay nhà giải phẩu, muốn cắt giữa hai đường gân vậy. Phải nhắm sao cho vừa đúng, để khỏi nói thừa nói thiếu. Và sau cùng, khi răn trách thói xấu, ta phải gắng kiêng nể người có tính xấu ấy được chừng nào hay chừng ấy.

Đã hẳn về các kẻ tội lỗi công khai, chán chường, ô nhục, ta có thể nói tự do, miễn là với tinh thần bác ái và thương cảm, không kiêu hãnh và tự đắc, hay để thích thú vì sự xấu của kẻ khác. Có tâm địa này, thực là dấu hiệu một tấm lòng đê tiện, tồi tàn. Tôi chừa ra các kẻ nghịch công khai của Thiên Chúa và Hội Thánh : Những kẻ nầy, phải mạt sát chúng chừng nào hay chừng nấy. Đó là những bè rối ly khai và các lãnh tụ của họ. Báo động có chó sói ở giữa đàn chiên hay bất cứ ở đâu, đó là bác ái vậy.(1)

Người ta thường tự tiện phê bình, đoán xét các bậc vua chúa và nói xấu mọi quốc gia tùy theo tâm tình họ thuận hay nghịch đối với các vị ấy, phần con, Phi-lô-tê, đừng rơi vào lỗi ấy, ngoài sự xúc phạm Thiên Chúa, con còn có thể gây muôn ngàn mối bất hòa.

Khi con nghe ai nói hành, hãy nghi vấn về lời cáo ấy, nếu có thể làm được cách chính đáng, nếu không, hãy bênh vực chủ ý người bị cáo. Nếu trường hợp sau nầy cũng không được nốt, con hãy tỏ lòng thương cảm họ, hãy gạt câu chuyện qua bên, trong khi đó con nhớ và nhắc bạn bè nhớ rằng : người không sai lỗi là nhờ ơn Chúa. Con hãy khéo đưa kẻ nói hành nghĩ đến bản thân hắn. Hãy nói vài điều tốt mà con biết về người nói hành.

--------------

[1] Với tinh thần cởi mở và thông cảm ở thời đại của Công Đồng Vaticanô II này chắ́c tác giả sẽ dùng câu nói nhẹ nhàng và dễ nghe, thấm tình huynh đệ hơn là tinh thần chống Lạc Giáo thời đó.



CHƯƠNG 30 - ĐÔI ĐIỀU CĂN DẶN THÊM VỀ LỜI NÓI

Lời nói phải êm đềm, thẳng thắn, thật thà, ôn tồn, đơn sơ và trung tín. Đừng hai lòng, xảo trá và lừa lọc. Đã hẳn không phải luôn luôn nói tất cả mọi sự thật, nhưng không được bao giờ nói sai sự thật. Con hãy quen không bao giờ cố tình nói sai sự thật, dù để bào chữa, dù cớ gì khác, vì nhớ rằng : Thiên Chúa là Thiên Chúa sự thật. Nếu nhỡ miệng nói dối mà có thể chữa ngay, nhờ sự cắt nghĩa hay sửa lại, con hãy chữa. Để chữa lỗi, một tiếng cáo lỗi chân thành thì đẹp đẽ và có thế lực hơn là nói dối biết bao.

Dẫu đôi khi, người ta có thể nói loanh quanh khéo léo mà che bớt hay giấu sự thật đi cách kín đáo và khôn ngoan, nhưng chỉ được dùng cách ấy trong chuyện quan hệ khi vinh dự và công việc Chúa đòi hỏi rõ ràng. Ngoài ra, các kiểu nói mánh khóe đều nguy hiểm, như lời Thánh Kinh nói : Chúa Thánh Thần không ngự trong tấm lòng xảo trá và nước đôi. Chẳng có sự tinh khôn nào tốt và đáng chuộng bằng sự đơn sơ. Khôn khéo phàm trần và mánh lới xác thịt là của con cái thế gian, con cái Thiên Chúa bước đi ngay thẳng và lòng không khúc khuỷu. Đấng khôn ngoan nói : “Ai bước đi đơn sơ, bước đi trong bằng an”. Nói dối, hai lòng và giả bộ tỏ ra một tinh thần yếu nhược và ti tiện.

Thánh Au-gu-ti-nô viết trong tập thứ tư của cuốn “Tự Thuật” rằng : linh hồn mình và linh hồn bạn đã kết hợp thành một, nên sau khi bạn quá cố, đời sống này trước mắt ngài chỉ còn là đáng ghét, vì ngài không muốn sống một nửa như thế, song đàng khác, cũng vì thế mà ngài sợ rủi mình chết, thì bạn sẽ phải chết hẳn cả. Những lời này ngài nhận thấy có vẻ giả tạo và kiểu cách quá nên ngài sửa lại trong cuốn “Cải Chính” của ngài và mệnh danh cho các lời đó là dớ dẩn. Con thấy đó, Phi-lô-tê, linh hồn cao đẹp thánh thiện ấy cũng yếu mềm trước tâm tình khách sáo giả tạo đó !

Đức trung tín, sự ngay thẳng và thật thà trong lời nói thật là vẻ hòa mỹ của đời sống người tín hữu. “Con dốc lòng : sẽ coi chừng bước đi để khỏi phạm tội nơi miệng lưỡi… Ôi Chúa ! xin hãy canh gác miệng con ; hãy đóng chốt lưỡi con lại…”. Đó là lời cầu của vua Đavít. (Ca vịnh 38, 2)

Vua Lu-y căn dặn chớ nên phản đối ai trừ phi đó là một chuyện tội hay có hại lớn nếu ta im lặng. Mục đích là tránh mọi cãi cọ và đấu khẩu. Khi cần phải nói ngược lại ai, hay nói nghịch ý kiến ai, ta nên hiền từ và khéo xử để khỏi áp bức tâm trí người kia, vì gay gắt đả kích điều nọ điều kia cái đó chẳng lợi gì cho ai cả.

Nói ít như các bậc Quân tử thời xưa khuyên dặn, không cố ý bảo phải nói ít lời, nhưng đừng nói những lời vô ích. Vì trong vấn đề ăn nói, không chú tâm về lượng cho bằng phẩm. Và tôi thiết nghĩ nên tránh hai cực đoan :

1) Quá trịnh trọng và quá nghiêm nghị, từ chối không chịu góp phần vào chuyện, như thế tỏ vẻ thiếu tin cậy hay khinh miệt. Còn nói huyên thuyên không ngớt miệng, không để cho người khác nói thì cũng là nhẹ dạ, nhẹ lòng.

2) Thánh Lu-y cho rằng khi hội họp với nhau mà hai ba người thầm thì riêng rẽ, nhất là lúc ngồi chung bàn ăn, là điều không tốt. Như thế làm cho người ta nghi mình nói xấu kẻ khác. Ngài nói : “Kẻ ngồi cùng bàn ăn, nếu có điều gì vui cười hãy nói cho mọi người nghe. Nếu có chuyện cẩn mật, thì im lặng đừng nói”.



CHƯƠNG 31 - VỀ TIÊU KHIỂN, GIẢI TRÍ ; TRƯỚC HẾT : NHỮNG CÁI ĐƯỢC PHÉP VÀ ĐÁNG KHEN

Tâm trí và thân thể ta đôi khi cũng cần phải nghỉ ngơi giải trí. Ca-xia-nô có kể : Một hôm, một người săn bắn gặp thánh Gioan sử gia và thấy ngài đang vuốt ve một con chim đa đa đậu trên nắm tay. Người đi săn hỏi tại sao ngài là một người cao trọng mà lại giết thì giờ cách hèn hạ thế kia. Thánh Gioan hỏi : “Tại sao ông không cầm cung cứ giương sẵn mãi ?”. Người đi săn đáp : “Sợ cánh cung cong mãi đến lúc cần bắn thì không còn đủ sức mạnh nữa”. Thánh Tông Đồ nói : “Ấy đó, ông đừng bỡ ngỡ khi thấy tôi lơi trí khôn để giải trí một chút, ngõ hầu sau đó tôi có sức hơn mà chiêm ngắm”.

Hẳn là một nết xấu khi quá nghiêm nhặt và mọi rợ đến nỗi không muốn dùng hay cho kẻ khác dùng đôi chút giải trí.

Hóng mát, dạo chơi, chuyện trò vui vẻ, dạo đàn, ca hát, săn bắn : đều là những giải trí lành mạnh. Để dùng cho đúng cách, chỉ cần ý tứ, khôn ngoan thường là đủ : nghĩa là biết xếp đặt thứ tự, thời giờ, nơi chỗ và chừng mực cho từng việc.

Những trò chơi có giải thưởng tài tình và khéo léo thể xác hay tinh thần, như đánh cầu, chơi bóng, chơi về đánh bóng, trò khều vòng, đánh cờ v.v… đều là trò chơi giải trí tự chúng tốt được phép dùng. Song đừng thái quá, hoặc về thời giờ, hay giải thưởng. Nếu dùng vào đó nhiều thì giờ quá, không còn là giải trí, nhưng là một việc bận rồi : không còn làm thảnh thơi trí khôn hay thể xác nữa. Trái lại làm mệt mỏi, bải hoải. Đánh cờ năm sáu giờ, khi tàn cuộc dĩ nhiên là mệt mỏi, và tâm trí bải hoải. Đánh cầu quá lâu, không còn là giải lao cho thân xác, song là làm cho rã rời. Còn giải thưởng hay tiền góp quá lớn, thì tâm trí các người chơi trong cuộc sẽ bị chi phối bởi ham lợi. Ngoài ra, đặt phần thưởng lớn, hay góp tiền lớn quá trong những trò chơi thường thức không quan hệ như các loại trò chơi thường thấy, thì thật là cả một sự bất công lệch lạc. Nhất là, Phi-lô-tê, con hãy ý tứ đừng đem lòng trìu mến các cái đó, vì tiêu khiển có lương thiện mấy mà để tâm trí vào đó thì vẫn là nết xấu, nết hư. Tôi không bảo không nên vui thích lúc chơi, nếu không thì còn đâu là giải trí. Song tôi bảo là không được đặt tâm trí vào đó để ước ao, để thỏa thích và sốt sắng quá.



CHƯƠNG 32 - NHỮNG TRÒ CHƠI CẤM

Chơi tứ sắc, chơi bài tây và các trò giống vậy, là những trò chơi do may rủi mà ăn nhau, không những là cách tiêu khiển nguy hiểm mà thôi, như khiêu vũ, nhưng còn đương nhiên đáng trách và xấu. Dó đó chúng vừa bị luật quốc gia cũng như luật Thiên Chúa cấm. Con sẽ thắc mắc : nào có gì xấu đâu ? Việc được thua trong các cuộc chơi đó không hợp lẽ phải, song chỉ nhờ may rủi mà được, nhiều khi người được chẳng đáng được, nhưng chỉ vì khôn khéo và mưu mẹo. Cho nên như thế là không hơp lẽ phải. Con sẽ nói : Chúng tôi đã thỏa thuận như thế. Thoả thuận này chỉ có tác dụng là cho thấy người được của không được cách bất công, nhưng không phải do đó mà sự thỏa thuận kia trở nên hợp lý và trò chơi cũng hợp lý. Vì tiền được phải là phần thưởng cho tài khéo nay nó trở nên phần thưởng cho số may rủi, là cái chẳng đáng được thưởng gì cả, vì may rủi đâu có tùy ở ta.

Đàng khác, các trò chơi ấy mang tên là tiêu khiển, được bày ra để giải trí. Tuy vậy, chúng chẳng giải lao gì, trái lại, bắt ta lao lung nhiều. Chẳng lao lung sao lại phải vò đầu bóp trán đem hết tinh thần chú ý vào đó, tâm trí lại xôn xao bởi bao lo lắng, sợ nọ sợ kia, hồi hộp, hối hả ? Có sự chú ý nào buồn thảm, âm u và rầu rĩ bằng sự chú ý của người chơi ? Nào không ai được nói gì về ván chơi, nào không được cười đùa, không được ho hắng ! Nếu không giữ là họ đâm khùng liền !

Cuối cùng, chỉ ai được thì người ấy vui. Cái vui ấy không bất công sao được, vì nó chỉ vui khi bạn nó mất mát và buồn khổ ? Kiểu trò chơi ấy chắc chắn là đê tiện ! Vì ba lý ấy, các trò chơi ấy bị cấm. Vua Thánh Lu-y, khi biết Bá Tước xứ Ăng-giu (Anjou) anh em của ngài và quan Gô-chi-ê Nơ-mua (Gautier de Nemours) đáng bạc, thì dù đang lâm bệnh ngài cũng chỗi dậy lảo đảo đi đến phòng các ông kia, cầm bàn cờ, cầm con súc sắc và một nắm tiền bạc ném qua cửa sổ xuống biển trong một cử chỉ phẫn nộ. Cô Sara thánh thiện và thanh khiết thưa với Chúa về lòng trong trắng vô tội của mình : “Chúa ôi! Chúa biết con không hề trà trộn trong đám người cờ bạc”.



CHƯƠNG 33 - VỀ KHIÊU VŨ [1] VÀ CÁC LOẠI TIÊU KHIỂN ĐƯỢC PHÉP NHƯNG NGUY HIỂM

Các vũ điệu và khiêu vũ tự bản chất là chuyện vô can. Nhưng theo thói thường người ta làm, chúng lại nghiêng về phía xấu, vì vậy đầy nguy hiểm. Người ta nhảy về đêm trong chỗ ánh đèn tối tăm mờ ảo. Dễ len vào đó nhiều chuyện tồi bại, tăm tối nơi những người bẩm tính nghiêng về sự dữ. Thức đêm thật tợn rồi ngày mai mất cả buổi sáng để ngủ, như vậy là mất dịp làm tôi Chúa trong những buổi ấy. Tắt một lời, thay đổi ngày với đêm, đổi ánh sáng lấy tối tăm, các việc lành với chơi bời lăng nhăng như thế, luôn luôn là chuyện cuồng dại. Ai ai đến khiêu vũ cũng khoe khoang. Mà khoe khoang là mở cửa cho những tình cảm xấu, ái tình nguy hiểm và đáng chê trách lọt vào nhờ dịp khiêu vũ. 

Phi-lô-tê, tôi nói với con về khiêu vũ, cũng như các y sĩ nói về các thứ nấm : Các ông ấy cho biết : ngay các loại nấm ngon nhất cũng chẳng bổ ích gì. Tôi cũng nói : những buổi khiêu vũ tốt đẹp nhất cũng chẳng có gì tốt. Nếu phải ăn nấm, hãy cẩn thận nấu dọn tử tế. Nếu đôi dịp con không thể khước từ dự những buổi khiêu vũ, hãy cẩn thận mà sửa soạn ! Sửa soạn thế nào ư ? Bằng nết na đoan trang, bằng nghiêm trang tử tế và bằng chủ ý ngay lành. Các y sĩ khuyên người ăn nấm : ăn ít và đôi khi thôi. Dù được nấu dọn tử tế chăng nữa, ăn nhiều thì vẫn nhiễm độc. Con hãy khiêu vũ ít, và ít khi thôi, Phi-lô-tê ! Nếu không sẽ khó tránh hiểm họa ưa thích các cái đó. 

Theo Pli-nô, các nấm có đặc tính hút các chất độc quanh nó, vì thân nó xốp. Nếu nó ở gần rắn rết, nó sẽ hút lấy nọc độc của chúng[2]. Các khiêu vũ, vũ điệu và các cuộc tụ hội tối tăm như thế lôi kéo các nết hư, tội lỗi đến : nào là cãi cọ ghen tương, khinh bỉ và ái tình man dại nông nổi. Cũng như các cuộc nhảy múa ấy làm lỗ chân lông nở ra để toát mồ hôi, chúng cũng làm cho trái tim mở ra. Lúc ấy, nếu có con rắn nào đến nhỉ tai vài lời dâm đãng đôi câu tán tỉnh hay nậng bợ, hay có loại “rắn thần” nào đến nhìn cách lả lơi, liếc mắt tống tình, trái tim sẽ dễ bị thu phục và dễ bị bả độc. 

Ôi Phi-lô-tê, các loại tiêu khiển cuồng loạn ấy thường đầy gian nguy. Chúng phá tan tinh thần đạo đức, làm kiệt quệ sức lực, làm nguội lạnh đức mến, khêu gợi trong hồn muôn nghìn tính ngang trái. Cho nên nếu có dùng, phải hết sức thận trọng. 

Người ta nói : sau khi ăn nấm, phải uống rượu mạnh. Tôi cũng nói : sau khi khiêu vũ phải dùng đôi điều suy niệm tốt lành thánh thiện để chận đứng các cảm tưởng nguy hiểm mà cuộc vui chơi vô bổ kia đã có thể lùa vào tâm trí ta. Suy niệm như thế nào ? 

1) Lúc con đang bận khiêu vũ, bao linh hồn đang bị thiêu trong lửa hỏa ngục vì tội phạm trong lúc khiêu vũ hoặc vì khiêu vũ. 

2) Bao nhiêu tu sĩ và nhà đạo đức đang lúc ấy ở trước nhan Thánh Chúa, ca ngợi và chiêm ngưỡng vẻ tuyệt mỹ của Ngài. Ôi, thật thời giờ của các người ấy đã được dùng đúng chỗ hơn thời giờ của con ! 

3) Đang lúc con vui chơi, bao linh hồn qua đời trong âu lo khắc khoải. Muôn ngàn người đang đau đớn rên xiết trên giường bệnh trong bệnh viện hay ngoài phố… Thương thay, họ chẳng được an nghỉ chút nào. Con có thông cảm tình cảnh họ chăng ? Hay có nghĩ rằng ngày kia con sẽ phải rên xiết như họ, còn các kẻ khác sẽ nhảy múa như con làm lúc nãy ? 

4) Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các Thiên Thần và các Thánh đã xem thấy con trong cuộc khiêu vũ. Ôi, các Ngài chắc thương hại con lắm, khi thấy con để lòng vui thú các chuyện hão huyền, chú tâm các cái vô lối ấy ! 

5) Thảm thay, lúc con mê mải trong cuộc vui chơi, thời giờ trôi qua, sự chết tới gần. Con hãy xem nó nhạo cười con, nó mời con đến vũ điệu tử thần của nó. Trong cuộc ấy, tội lỗi xưa của con sẽ rên xiết như tiếng đàn réo rắt và bước nhảy độc nhất của con sẽ là từ sự sống sang cõi chết. Khiêu vũ ấy mới thật là trò chơi qua thời giờ của kẻ hay chết : ở đây họ từ thời gian mà bước qua đời đời hạnh phúc hay đời đời bất hạnh. 

Tôi đề nghị mấy điểm suy niệm nho nhỏ ấy, còn Thiên Chúa sẽ gợi cho con nhiều điểm khác cũng cùng mục đích, nếu con có lòng kính sợ Ngài.

------------

[1] Vấn đề khiêu vũ tác giả nói đây là nói theo thói tục Âu-Mỹ. Chương này cũng như chương sau, khiêu vũ có ý nói về loại “Ban gia đình” (Bal familial) thời đó. 

[2] Đây cũng là một tin tưởng sai lầm của các nhà vạn vật học xưa.



CHƯƠNG 34 - KHI NÀO CÓ THỂ VUI CHƠI VÀ KHIÊU VŨ ?

Để vui chơi và khiêu vũ cách tử tế, phải là vì để giải trí, không gì trìu mến, trong một thời gian ngắn chứ không kéo dài đến mỏi mệt hay bải hoải, và phải ít khi có, nếu có thường xuyên, thì cuộc giải trí đã biến thành một việc bận. Có thể vui chơi và khiêu vũ trong trường hợp nào ? Những dịp chánh đáng để vui chơi và khiêu vũ vô can vô tội thì có nhiều hơn, vì đã hẳn các cuộc chơi như thế đáng trách và nguy hiểm hơn. Tắt một điều, con vui chơi và khiêu vũ theo các điều kiện tôi đã bảo là khi phải chiếu cố hay vì nể tình nhóm bạn bè quen thuộc tử tế của con. Sự khôn ngoan và thận trọng sẽ bảo cho con biết phải xử trí thế nào. Vì sự chiếu cố nể tình là như một hậu quả của đức bác ái, nó làm cho các việc vô tội vô hại nên tốt, việc nguy hiểm nên được phép. Nó còn phá cái ác tính nơi các việc có đôi khía cạnh xấu. 

Vì thế, các trò chơi may rủi chiếu lý ra đáng trách trở nên không đáng trách, nếu đôi khi vì nể tình chính đáng ta phải dự vào. Tôi an lòng vì đọc trong hạnh tích thánh Ca-rô-lô Bô-rô-mêô thấy thánh nhân cũng nể tình người Thụy Sĩ trong đôi điều mà thường ngài rất nghiêm ngặt. Còn thánh I-nha-xiô Loay-ô-la khi được mời cũng nhận chơi. Còn thánh Ê-li-da-bét, hoàng hậu Hung Gia Lợi lúc người đến các buổi họp bạn giải trí cũng vui chơi và khiêu vũ không làm hại gì cho lòng đạo đức của người. Lòng đạo này đã ăn sâu vào hồn người như những phiến đá quanh hồ Riê-ti[1], càng bị sóng đập lại càng thêm lớn mạnh, thì lòng đạo đức của người lại càng lớn mạnh giữa các phồn hoa giả trá mà người phải tham dự vì địa vị bó buộc. Ngọn lửa hồng cháy bùng theo sức gió, còn ngọn lửa leo lét sẽ tắt ngấm trước cơn gió nhẹ, nếu ta không đem che đi. 

--------------

[1] Riê-ti là thành phố trong nước Toà Thánh. 



CHƯƠNG 35 - PHẢI TRUNG TÍN TRONG VIỆC LỚN VÀ NHỎ

Trong sách Nhã Ca, bạn tình thánh có nói : Bạn người đã làm người si mê bởi vẻ diễm lệ của đôi mắt và dáng yêu kiều của sợi tóc phất phơ (Nhã Ca 4, 9). Trong các phần thân thể người ta, không có gì cao quý, hoặc vì kỹ thuật tinh vi hay vì linh động cho bằng con mắt, nhưng cũng không có gì hèn hơn sợi tóc. Do đó, bạn tình thánh muốn cho hiểu : Ngài không chỉ hài lòng về các việc lớn lao của các người đạo đức, nhưng cả những việc nhỏ và hèn hạ của họ. Và muốn phụng sự Ngài như ý Ngài sở nguyện, phải cận thận phục vụ Ngài trong việc lớn, việc trọng cũng như việc nhỏ, việc hèn, bởi vì đàng nào ta cũng có thể làm Ngài say mến ta bởi tình yêu của ta ? 

Con hãy sẵn sàng, Phi-lô-tê, mà chịu nhiều đau khổ lớn lao vì Chúa, ngay cả tử đạo. Hãy quyết chí dâng Ngài những gì qúi nhất của con, nếu Ngài ưng lấy : cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đôi mắt của con và cả mạng sống nữa. Con hãy dọn lòng sẵn sàng. 

Nhưng nếu quan phòng Chúa không gửi cho con các gian khổ cay cực và lớn lao như thế, không đòi con hy sinh con mắt của con, thì hãy dâng Ngài ít ra mấy sợi tóc. Nghĩa là, hãy yên hàn chịu đựng êm thắm các sỉ nhục nho nhỏ, những cái bất tiện tí xíu, những sự mất mát thường ngày xảy ra, không quan hệ gì mấy. Vì nhờ các dịp nho nhỏ ấy, làm với tình mến, con sẽ chiếm trọn trái tim Ngài thuộc về của con. Các việc tình mến nho nhỏ nhật ấy : đau đầu, nhức răng, sưng tay sưng chân, hay tính khí kỳ quặc của chồng hay vợ mình, đánh vỡ cốc (ly), sự khinh miệt hay hờn dỗi, mất bao tay, mất nhẫn, khăn tay, hay khó chịu phải đi ngủ sớm để mai dậy sớm mà cầu nguyện, mà rước lễ ; xấu hổ khi phải làm đôi việc đạo đức trước công chúng… Nói tóm, mọi cái đau khổ nho nhỏ, nếu nhận chịu với tình mến, đều làm thỏa lòng Chúa rất nhiều, Đấng đã hứa ban cho kẻ bố thí một bát nước lã, một biển đầy phúc lạc ? Đàng khác, vì các dịp ấy thường xảy ra luôn, nên nếu ta biết dùng, đó là một phương thế lớn để ta thu tích một kho của báu thiêng liêng. 

Khi tôi đọc trong đời bà Thánh Ca-ta-ri-na thành Xiê-na thấy bao lần ngất trí, tinh thần bay bổng, bao lời khôn ngoan, thượng trí, ngay cả nhiều bài giảng bà nói, tôi tin chắc rằng với con mắt ấy, con mắt chiêm vọng ấy, người đã làm lòng bạn tình chí Thánh trên trời say mê người. Song tôi cũng được an ủi không kém khi thấy người lụi hụi trong bếp của thân sinh người lúc nấu nướng, quạt lửa, xào thịt, lúc nhào bánh và làm mọi công việc thấp hèn nhất trong gia đình với một lòng can đảm đầy tình mến Chúa. Tôi không kém ngưỡng mộ việc suy ngắm nhỏ mọn người làm giữa mọi công việc nội trợ thấp hèn nhất, cũng như không kém quí chuộng các ngất trí và bay bổng tinh thần người thường có, mà Chúa ban cho người như phần thưởng cho sự khiêm nhường hạ mình kia. Người suy ngắm như thế này : khi dọn cơm cho cha, người tưởng mình là bà thánh Mat-ta đang dọn cho Chúa, còn mẹ người là Đức Mẹ, các anh em người là các thánh Tông Đồ. Cứ như thế, người kích thích mình phụng sự trong tâm trí tất cả triều đình thiên quốc, và làm các việc thấp hèn với một tâm hồn bằng tình êm ái, vì người biết Thánh ý Thiên Chúa muốn vậy. 

Phi-lô-tê, tôi kể gương ấy ra, hầu con biết : cần phải chu toàn tất cả các hành động ta, dù chúng thấp hèn mấy, để phụng sự Đấng Chí tôn. 

Để được thế, tôi hết sức khuyên con bắt chước người phụ nữ đảm đang mà Sa-lô-môn đã ca tụng : Bà bắt tay làm các việc mạnh mẽ, lớn lao, can đảm, song cũng không nhãng việc rút chỉ quấn sợi : “Người tra tay làm việc mạnh, và đưa tay quấn sợi” (Cách ngôn 31, 19). Con tra tay làm việc mạnh mẽ khi con chuyên cần lo cầu nguyện, suy ngắm, lĩnh các bí tích ? thông tình yêu Chúa cho các linh hồn, kích thích những ý tốt nơi các tâm hồn, và sau cùng làm những việc lớn và quan trọng tùy theo địa vị con. Nhưng, đừng quên cái cuốn chỉ, nghĩa là con hãy thực hành các nhân đức nhỏ hèn, là những đức nảy nở tràn lan như hoa dưới chân thập giá : giúp đỡ người nghèo, thăm bệnh nhân, săn sóc gia đình cùng những việc phụ thuộc, sự chuyên tâm cần mẫn làm việc luôn luôn để khỏi ngồi không. Khi làm các việc ấy, con hãy chêm vào đó các ý tưởng giống như thánh Ca-ta-ri-na mà tôi vừa kể lúc nãy. 

Các cơ hội lớn để phụng sự Thiên Chúa hiếm có lắm, còn các dịp nhỏ mọn thì nhan nhản. Mà Chúa Cứu Thế phán : “Ai trung tín trong các điều nhỏ, sẽ được đặt lên làm nhiều điều lớn” (Luca 19, 17). Vậy con hãy làm mọi sự vì danh Chúa, thì mọi sự sẽ được làm cách chu đáo và hoàn toàn, dù dọn ăn uống, ngủ nghĩ hay nấu bếp, miễn là con biết hướng các công việc con về ý tốt chắc con sẽ được hưởng nhiều ích lợi trước mặt Chúa, khi làm những sự ấy chỉ vì Chúa muốn con làm.



CHƯƠNG 36 - PHẢI CÓ CÔNG BẰNG VÀ HỢP LÝ

Ta là người nhờ có lý trí, ấy thế mà kiếm được những người biết điều thật là hiếm, nhất là tự ái thường làm ta đi trệch lẽ phải, đưa ta vô tình tới muôn ngàn cái bất công, bất chính nhỏ song nguy hại, chúng có thể ví như những con chồn nhỏ, phá phách vườn nho mà sách Nhã Ca nói đến (Nhã Ca 11, 45). Vì chúng càng nhỏ, ta càng không lưu ý tới, và vì chúng nhiều, chúng sẽ phá hại nhiều. Những cái tôi sắp nói cho con đây con xem chẳng phải là bất công và phi lý ư ? 

Một chút gì ta cũng tố cáo kẻ khác, còn ta lại tha thứ cho mình rất nhiều. Ta muốn bán đắt mua rẻ. Ta muốn người ta cư xử công bình với người khác, còn đối với ta và tại nhà ta, thì họ phải nhân nhượng, nới rộng. Ta muốn người khác hiểu đúng và hiểu tốt về các lời ta, còn ta lại dễ mích lòng mủi lòng vì lời của họ. Ta muốn kẻ khác trao của cho ta, khi ta trao tiền đủ cho họ, thế thì ngược lại, họ giữ của họ lại và trả lại tiền cho ta chẳng vẫn là công bình sao ? Ta bất mãn vì họ không chịu nhượng bộ ta, chẳng phải họ có lý hơn mà bực tức vì ta làm rầy rà họ ư ? 

Nếu ta ưng thích một việc, ta lơ là mọi các khác ; và ta kiểm soát thải bỏ tất cả cái gì không hợp sở thích ta. Nếu có người bề dưới nào của ta không được hài lòng ta, hoặc ta đã có lần oán tức, thì dù họ làm gì, ta cũng coi là xấu, ta sẽ không ngần ngại làm cực lòng họ và luôn ta kỳ kèo tra vấn. Trái lại, có ai vừa ý ta, họ có lầm gì ta cũng bào chữa cho. Có những trẻ em có đức tính tốt mà cha mẹ không thèm nhìn đến chỉ vì chúng có một khuyết điểm thể xác nào đó. Có trẻ xấu nết khác lại được chiều chuộng vì chúng xinh đẹp. Trong mọi sự ta ưa người giàu hơn kẻ nghèo, dù họ thế nào, tốt hay nhân đức. Ta ưa chuộng kẻ áo quần bảnh bao. Ta đòi quyền lợi ta phải được tôn trọng, còn muốn người khác phải dễ dàng hơn khi đòi quyền lợi họ. Ta chi li cặn kẽ giữ gìn địa vị ta, còn muốn kẻ khác khiêm tốn và nhún nhường. Ta trách móc kẻ khác dễ dàng, nhưng không muốn kẻ khác chê trách ta. Làm gì cho kẻ khác, ta cho là nhiều, kẻ khác làm cho ta, ta cho là chẳng có mấy. Tóm lại ta giống như chim đa đa của Páp-la-gô-ni (Paphlagonie), có hai quả tim : một quả tim hiền từ, dễ chịu, nhân nhượng đối với mình ; một quả tim kia cứng cỏi, nghiêm khắc, nhặt nhiệm với kẻ khác. Ta có hai lượng : lượng để đong phần lợi của ta cho rộng rãi hết sức, và lượng kia để xẻn xo phần của kẻ khác cho càng bớt chừng nào càng hay. Lời Thánh Kinh nói : “Môi miệng lừa đảo nói lời hai lòng”, nghĩa là chúng tráo trở và có hai lường : một to để nhận, một nhỏ để trao : đó là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa. 

Phi-lô-tê, con hãy gắng công bình, đều nhau, trong mọi hành động. Đặt mình vào địa vị người ta và địa vị con, như thế chắc chắn con sẽ xét đoán đúng mực. Con hãy coi mình như người bán khi con mua, và như người mua khi con bán, lúc ấy con sẽ bán và mua cách công bình. Tất cả những cái bất công tôi kể trên đây nhỏ mọn thật, vì chúng không buộc phải đền trả, ngoài ra, ta tính cách chặt chẽ trong cái có lợi cho ta. Nhưng không phải là chúng không buộc ta phải sửa mình đâu. Đó là những khuyết điểm lớn ngược lẽ phải và đức bác ái, chẳng mấy chốc sẽ thành chuyện gian manh, xảo trá. Người ta chẳng thiệt gì khi sống đại độ, cao quí, lịch thiệp và có lòng cao thượng, công bằng và hợp lý. Phi-lô-tê con, hãy nhớ siêng năng xét lòng con xem nó có đối xử với người đồng loại như con muốn lòng họ đối với con nếu con ở địa vị họ : Lẽ phải đòi vậy ! Vua Tra-gia-nô được các cận thận tâu cho biết là ngài quá ư dễ dàng cho người ta yết kiến, nhà vua trả lời : “Phải, sao trẫm chẳng phải là một Hoàng Đế dễ dãi cho người ta gặp, cũng như giả sử khi Trẫm là một người thường mà mong được gặp Hoàng Đế ư ?”.



CHƯƠNG 37 - VỀ CÁC ƯỚC MUỐN

Ai cũng biết phải vứt bỏ những ước muốn xấu, vì ước muốn điều xấu làm ta nên xấu. Phi-lô-tê, tôi còn nói hơn thế, đừng ước muốn các điều nguy hiểm cho tâm hồn, như khiêu vũ, các trò chơi và các loại tiêu khiển tương tự, các danh vọng, chức tước, các thị kiến (nhìn thấy hiện tượng lạ) và ngất trí vì trong các sự ấy có rất nhiều nguy hiểm khoe khoang và dễ bị ảo tưởng. Con đừng ước muốn những điều xa xôi, nghĩa là chỉ đến với con mãi sau nầy như nhiều người khác, vì đó họ làm mệt, làm phí sức tâm trí họ cách vô ích, và đâm đầu vào những mối lo lắng xao xuyến. Giả sử một thanh niên, hết sức ao ước được nhận một chức vụ gì trước khi đến thời, tôi xin hỏi ước mong đó có lợi gì cho anh ? Nếu một người đàn bà có chồng lại mong làm nữ tu, thì làm sao được ? Hay tôi muốn mua của cải của người hàng xóm khi người ta không có ý định bán, chẳng phải tôi mất thời giờ để mơ ước hão sao ? Hay đang liệt giường, tôi lại muốn giảng hay hành lễ, viếng bệnh nhân, làm những công việc người khỏe mạnh, các ước muốn đó chẳng hão huyền ư ? Vì lúc đó tôi có làm được đâu ? Ấy thế mà các mơ ước vô dụng ấy lại choáng hết chỗ của các nguyện ước khác đáng lẽ phải có : như trở nên kiên nhẫn, bằng lòng nhẫn nhục, hãm mình ép xác, vâng lời, hiền từ trong đau đớn, là những điều Thiên Chúa muốn tôi thực hành bây giờ. Thường thường ta hay có những ước muốn như của đàn bà có mang, muốn ăn trái dâu tươi trong mùa thu, và nho tươi lúc mùa xuân, toàn là của trái mùa ! 

Tôi không tán thành người đang có bổn phận này hay công việc kia lại tỏ ý mong ước một cảnh sống khác, hay mong muốn những công việc không hạp với địa vị hiện thời của mình. Vì các ước ao đó làm hao tâm trí và khiến nó tê liệt trong công việc đang phải làm. Nếu tôi ước mong sự cô tịch của nhà ẩn tu, tôi mất thời giờ, và mong ước ấy đoạt mất chỗ của cái mong ước khác cần phải có là chu toàn hết sức bổn phận hiện thời của tôi. Tôi cũng không ủng hộ cả người ước ao được trí khôn minh mẫn hơn, phê phán xác đáng hơn, vì đó là những ước mong hão huyền, thay vì ước mong tu luyện tâm trí hiện thời đang có. Cũng đừng ước mong những phương thế mà ta không thể có để phụng sự Thiên Chúa, nhưng hãy nguyện ước dùng các cái hiện đang có một cách tử tế. Những điều nói đây là phản đối những ước vọng hão huyền chỉ khuấy động tâm trí ta thôi. Còn các ao ước thường thường, thì không gây hại, miễn là đừng có luôn luôn. 

Đừng ao ước được vác thánh giá, trừ phi con dần dần đã tập biết vác những cái hiện thời xảy đến cho con. Vì muốn tử đạo mà lại không có can đảm nhịn một sỉ nhục, đó là đánh lừa mình. Kẻ thù ta thường xúi ta mong các vật xa xôi không bao giờ có, để đánh lạc hướng hồn ta khỏi những vật hiện có, mà ta có thể lợi dụng để gây ích lớn, dù chúng nhỏ mọn mấy đi nữa. Chúng ta tưởng tượng phải chiến đấu với các quái vật bên Phi Châu mà thực sự đang khi đó, ta lại để những con rắn nhỏ ta vô ý gặp trên đường đời đánh bại ! 

Đừng ước mong gặp cám dỗ, đó là liều lĩnh. Song hãy sẵn sàng chờ đón cách can đảm, và chiến đấu nếu xảy có. 

Ăn nhiều thịt, nhất là lại ăn no chỉ làm nặng bụng, thịt sẽ làm hư bao tử, nếu bao tử yếu. Con đừng chất đầy hồn những ước muốn thế gian, vì chúng sẽ làm hư tâm hồn con, ngay đến những ước vọng thiêng liêng nữa, những cái này sẽ làm hồn con nặng nề vướng víu ? Bao giờ hồn ta được tẩy sạch khỏi những tính xấu, nó liền thèm muốn những sự thiêng liêng : Nó như bị đói đâm ước ao muôn nghìn việc đạo đức, hãm mình, đền tội, hạ mình, bác ái, nguyện ngắm. Phi-lô-tê, khao khát như thế là dấu tốt lắm ! Nhưng hãy coi thử con có thể tiêu hết từng ấy cái mà con muốn ăn không đã chứ ! Vậy con hãy lãnh ý cha linh hướng mà chọn trong số các ước ao ấy, cái nào có thể thực hành được thì đem thực hành ngay đi, làm chúng sinh hiệu quả tốt đi. Sau đó, Thiên Chúa sẽ gửi đến cho con những cái khác, mà con sẽ thực hành đúng thời đúng buổi. Như thế không bao giờ con mất thời giờ vào những ước ao suông. Tôi không bảo là bỏ mọi nguyện ước lành thánh, nhưng chỉ nói phải nguyện ước cách trật tự : những cái nào chưa đến lúc có thể thực hiện, phải xếp chúng vào một góc lòng cho đến lúc có thể thực hiện được, còn phải thực hiện cái nào đã kịp thời. Điều tôi nói đây, không những nói về các sự thiêng liêng ; mà cả về các sự thực tế nữa. Không thế, chúng ta sẽ luôn sống trong lo lắng và bồn chồn hối hả.



CHƯƠNG 38 - LỜI KHUYÊN CÁC NGƯỜI KẾT BẠN

“Hôn phối là một bí tích cao trọng, tôi có ý chỉ về Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội” (Êphêsô 5, 32). Nó quý trọng đối với mọi người, nơi mọi người và trong mọi sự, nghĩa là trong mọi phần. Với mọi người, vì các người đồng trinh cũng phải tôn trọng cách khiêm cung. Nơi mọi người, vì nó thánh thiện nơi các người nghèo, cũng như người giàu. Trong mọi sự, vì nguồn gốc, mục đích, ích lợi, hình thức cũng như chất thể nó đều thánh. Đây là nơi ương trồng hạt giống đạo Chúa Kitô, nó sẽ tung các tín hữu ra đầy mặt đất, để làm đủ số các kẻ được chọn trên trời. Bởi thế nên bảo toàn hôn nhân là vấn đề tối ư quan trọng đối với quốc gia, vì đây là nguồn của mọi dòng suối khác.

Chớ gì Chúa Giêsu được mời đến dự mọi hôn nhân như đã dự đám cưới thành Cana, chắc hẳn rượu an ủi và chúc lành sẽ không bao giờ còn thiếu nữa. Tại sao thường chỉ có một chút rượu lúc đầu, là vì đáng lẽ mời Chúa Giêsu, người ta lại mờ A-đô-nis, và thần vệ nữ [1] đến thay vì Đức Mẹ. Ai muốn có những con cừu non và vằn như của Gia-cóp (sách Sáng Thế 30, 32) phải đem đến cho chúng những chiếc đũa nhỏ nhiều màu. Ai muốn thành công trong hôn nhân, phải đặt trước mặt mình sự thánh thiện và cao trọng của bí tích ấy vậy. Nhưng thường thay vì sự đó, ta chỉ thấy diễn ra muôn ngàn bừa bãi, phóng túng : nào vui chơi, nào tiệc tùng, nào ăn nói… Có lạ gì nếu hậu quả đáng tiếc !

Tôi khuyên vợ chồng hãy yêu nhau, như Chúa Thánh Thần đã cặn dặn nhiều trong Kinh Thánh. Hỡi các đôi vợ chồng, nếu chỉ khuyên các người : “Hãy yêu nhau với tình ái tự nhiên”, thì chưa đủ, vì đôi chim gáy cũng yêu được. Hoặc nói : “Hãy yêu nhau với tình ái nhân loại”, thì cũng chưa đúng, vì các người ngoại giáo vẫn làm. Nhưng tôi nói, tiếp lời thánh Tông Đồ cả : “Chồng phải yêu vợ như Chúa Giêsu Kitô yêu Hội Thánh. Còn vợ phải yêu chồng như Hội Thánh yêu Đấng Cứu Chuộc mình vậy” (Êphêsô 5, 25).

Chính Thiên Chúa đã đem Evà làm vợ cho tổ tiên Adong. Thì hỡi các bạn, chính Ngài dùng tay vô hình mà thắt buộc cái dây Thánh Hôn Phối của bạn lại, và đã ban người này cho người kia. Vậy tại sao các bạn lại không yêu đương nhau với tình yêu thánh siêu phàm ?

Hậu quả đầu tiên của tình yêu ấy là kết hợp bất khả phân ly hai trái tim bạn. Nếu người ta dán hai mảnh gỗ thông lại với nhau, mà keo lại mịn thì hai miếng ấy gắn chặt với nhau đến nỗi phải chẻ ra mới rời nhau được. Thiên Chúa đã lấy máu Ngài mà kết hợp chồng với vợ, nên sự kết hợp ấy chặt chẽ đế nỗi hồn có lìa khỏi xác của họ chứ họ không lìa nhau. Sự kết hợp nơi đây không nói trước hết về thể xác, nhưng về tâm hồn, về tâm tình và về tình yêu.

Hậu quả thứ nhì của tình yêu ấy là sự trung tín bất khả xâm phạm đối với nhau. Ngay xưa con dấu thường được khắc ngay vào nhẫn tay người có chức quyền, như Kinh Thánh cũng cho biết. Vậy đây là ý nghĩa bí nhiệm của nghi lễ hôn phối : Bởi tay linh mục, Hội Thánh làm phép nhẫn, rồi trao cho chồng trước hết, như để chứng tỏ Hội Thánh đóng dấu vào trái tim bởi Bí Tích ấy, ngõ hầu không bao giờ tên hay tình ái của một người đàn bà nào khác còn xâm trái tim ấy bao lâu người vợ Chúa ban cho mình còn sống. Sau đó chồng xỏ nhẫn vào ngón tay vợ để nàng hiểu rằng, không bao giờ trái tim mình còn được yêu người đàn ông nào khác, bao lâu chồng mình còn sống, người chồng mà Chúa Giêsu vừa ban cho nàng.

Hậu quả thứ ba của hôn nhân là sinh sản và dưỡng dục con cái. Hỡi vợ chồng Công Giáo, đây là một vinh dự lớn lao cho các bạn ! Thiên Chúa muốn tăng số các linh hồn có thể đời đời chúc tụng và ngợi khen Người, nên đã cho các bạn cộng tác vào việc lớn lao tạo thành thân xác, trong thân xác đó Ngài sẽ tạo dựng và ban cho một linh hồn hằng sống.

Người chồng hãy giữ luôn một tình yêu dịu dàng, bền bỉ và tha thiết đối với vợ. Người phụ nữ đã được rút từ sườn gần bên trái tim của người đầu tiên, chính là để nàng được chồng yêu thương cách thiết tha âu yếm. Các nhược điểm, yếu đuối, tật tàng, bệnh hoạn hoặc xác hoặc tinh thần của vợ không thể làm bạn khinh miệt họ chút nào, trái lại, gợi bạn đến tình thương cảm dịu dàng và yêu đương. Vì Thiên Chúa đã dựng nên họ như thế, ngõ hầu lụy phục bạn, cho bạn càng được thêm danh giá và tôn trọng, và dù có họ ở bên làm bạn đường, bạn vẫn là đầu và ở trên. Còn người vợ, hãy yêu mến âu yếm, song là tình yêu tôn trọng và kính nể đối với người chồng mà Thiên Chúa đã ban cho bạn. Vì chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên một phái nam mạnh mẽ và uy thế, và đã muốn người phụ nữ lệ thuộc người nam, xương do xương họ, thịt bởi thịt họ mà ra, và người nữ do một xương sườn phía dưới tay người nam mà ra, là để tỏ rằng, người nữ phải ở dưới cánh tay và sự hướng dẫn của chồng. Toàn là Kinh Thánh căn dặn rõ ràng cho bạn sự tùng phục đó, song sự tùng phục đã được nên nhẹ nhàng không những khi sách Thánh dạy bạn tùng phục trong yêu thương mà còn truyền cho chồng phải thi hành quyền họ với tất cả tình thương hiền từ và êm ái.

Thánh Phêrô viết : “Chồng hãy cư xử gượng nhẹ với vợ như là người mỏng dòn yếu đuối hơn, và hãy tôn trọng danh giá họ” (1Pr 3, 7).

Nhưng nếu tôi thúc giục các bạn càng ngày càng yêu nhau khắng khít hơn, các bạn cũng coi chừng kẻo nó đi quá hóa ghen tương. Vì đôi khi thấy trong quả táo mềm chín nhất lại có sâu, thì trong tình yêu nồng thắm và gắn bó nhất của đôi bạn lại nảy ra sự ghen tương. Ghen tương sẽ phá hư hỏng bản chất của tình yêu đi, vì dần dà nó gây ra cãi cọ, bất thuận và ly hôn. Đã hẳn ở đâu tình yêu nhau được xây trên nền nhân đức chân thật, ở đấy không bao giờ có ghen tương. Vì thế, ghen tương là dấu chính xác về một tình yêu giác cảm, xác thịt, thô kệch, nó chỉ sinh sôi nảy nở ở chỗ nào nhân đức còn lỏng lẻo, hoặc hay thay đổi và không đáng tín cẩn. Dó đó lấy ghen tương để đề cao tình yêu thì thật là hãnh diện kỳ quặc, dù ghen tương cho đi là dấu một tình yêu lớn mạnh, ít ra nó chưa phải dấu của tình yêu tuyệt hảo, trong trắng và hoàn bị. Vì một tình yêu hoàn bị đòi phải tin chắc vào đức độ của người yêu, thế mà ghen tương là còn nghi ngờ về đó.

Nếu bạn là chồng, muốn vợ bạn trung tín, hãy dạy vợ bạn bài học đó bằng gương sáng. Thánh Grê-gô-riô Na-điăng nói : “Còn mặt mũi nào để đòi vợ phải sống trinh bạch đang khi bạn sống phóng đãng ? Làm sao đòi họ cái mà bạn không cho họ ?” Bạn muốn vợ thanh tịnh, bạn hãy ăn ở thanh tịnh với họ, như lời Thánh Phaolô nói “Mỗi người hãy giữ thân mình trong sự thánh thiện”. Còn nếu trái lại, bạn dạy cho vợ những điều phóng túng, chẳng lạ gì bạn phải xấu hổ vì mất họ. Còn người vợ, danh dự các người gắn liền với đức thanh khiết và đoan trang, hãy lo bảo vệ vinh quang ấy cách ráo riết đừng để chút buông tuồng hư hốt nào làm mờ vẻ sáng đẹp của thanh danh các người.

Các bạn hãy e sợ bất cứ một vi phạm nhỏ. Đừng cho phép ai nói tán tỉnh, dụ dỗ với mình. Ai đến khen sắc đẹp và duyên dáng bạn, bạn phải nghi ngờ kẻ ấy. Vì kẻ khen một món hàng mà hắn không thể mua được, thì thường hắn bị cám dỗ đánh cắp lấy. Mà nếu đang khen bạn, lại thêm lời khinh miệt chồng bạn, kẻ ấy xúc phạm bạn quá mức rồi đó. Vì đã rõ là hắn không chỉ muốn làm bạn hư đi nhưng còn coi bạn như đã hỏng một nửa rồi, nên cuộc vận động của hắn đã xong được một nửa khi bạn đâm ngán người chồng bạn. Phụ nữa xưa cũng như nay có thói quen đeo những hạt ngọc làm hoa tai, vì thích nghe tiếng chúng chạm nhau lanh canh, như lời văn hào Pli-nô nói : Song phần tôi khi đọc thấy I-da-ác, tôi tá trung trực của Thiên Chúa, gửi biếu nàng Rê-bếch-ca trinh bạch những chiếc hoa tai để làm bảo chứng tình yêu của người, tôi nghĩ rằng : đồ trang sức bí nhiệm ấy có nghĩa là : điều trước tiên mà người chồng phải đối với vợ, và người vợ phải trung tín giữ cho chồng, là lỗ tai, ngõ hầu không có lời nào khác, tiếng nào khác lọt vào, ngoài cung giọng êm ái đáng yêu của những lời thanh tịnh và nết na, là những viên ngọc quí trong Phúc Âm vậy ; vì ta nên nhớ luôn : người ta đầu độc linh hồn bởi nói vào tai, cũng như đầu độc thân thể bởi ăn vào miệng.

Tình yêu và trung tín nếu luôn gắn bó keo sơn thì sẽ phát sinh tình thân mật và tin cậy, vì thế nên các thánh nam nữ đời xưa thường hay vuốt ve mơn trớn nhau trong hôn nhân, những vuốt ve thật đầy trìu mến, song thanh tịnh, âu yếu song thành tâm. Như I-da-ác và Rê-bếch-ca, là đôi vợ chồng thanh khiết nhất của thời xưa, qua cửa sổ người ta thấy hai người đang âu yếm vuốt ve nhau. Khi thấy thế dù chẳng có gì là bất chánh trong các cử chỉ kia, Vua A-bi-mê-lếch đã kết luận, họ chỉ có thể là đôi vợ chồng. Thánh cả Lu-y vừa rất nhặt nhiệm với thân xác mình, vừa rất âu yếm tha thiết với vợ, ngài hầu như bị trách là quá vuốt ve bạn mình, thực ra ngài đáng được ca tụng, vì biết tạm gác một bên hùng khí của người dũng sĩ để làm đôi việc nhỏ nhặt cần phải có để nuôi dưỡng tình yêu phu phụ. Vì những cái dấu nho nhỏ biểu lộ tình yêu ngay thật và trong trắng kia, tuy không thắt buộc trái tim người ta song cũng làm chúng gần gũi nhau hơn và cũng thêm hương cho câu chuyện ân tình.

Thánh nữ Mo-ni-ca, khi cưu mang thánh cả Ao-gu-ti-nô trong dạ đã nhiều lần dâng con cho đạo Thánh Chúa và để phụng sự vinh quang Thiên Chúa, như chính ngài sau nầy ghi chép : “Từ trong lòng mẹ, ngài đã nếm muối Thiên Chúa” (ban trong nghi lễ Rửa Tội). Đó là bài học hay cho mọi bà mẹ Công Giáo biết dâng hoa quả lòng mình cho Đấng Chí Tôn, ngay trước khi chúng sinh ra đời. Vì Thiên Chúa, Đấng nhận những lời khấn hứa buộc mình của tấm lòng khiêm nhượng dâng lên, sẽ trợ giúp những tâm tình tốt của các bà mẹ trong những lúc ấy. Bằng chứng là Tiên tri Sa-mu-ên, Thánh Tô-ma A-ki-nô Thánh An-rê Fi-xô-lê (André de Fisole) và nhiều vị khác. Mẹ thánh Bê-na-đô một bà mẹ xứng đáng với một người con như ngài, vừa sinh con ra liền lấy hai tay ôm lấy và dâng lên cho Chúa Giêsu ngay. Rồi từ đó, bà yêu con cái cách cung kính như một vật Thánh mà Thiên Chúa đã ủy thác cho vậy. Bà đã thành công phi thường trong việc giáo dục con, mà kết quả là cả bảy người con đều làm Thánh lớn. Khi trẻ sinh ra và bắt đầu có trí khôn, cha mẹ phải lo ghi vào lòng chúng sự kính sợ Thiên Chúa ? Bà hoàng hậu Blăng Ka-cắt-ti-la (Blanche de Castille) sốt sắng chăm lo gây nơi tâm hồn con là vua thánh Lu-y con bà cái tâm tình kính sợ Chúa ấy. Bà nhắc đi nhắc lại : “Con yêu dấu, mẹ mong thà con chết trước mặt mẹ còn hơn mẹ thấy con phạm một tội trọng”. Câu nói ấy khắc sâu vào tâm khảm người con Thánh ấy đến nỗi sau ngài kể lại, không có ngày nào mà ngài không nhớ đến câu của mẹ nói và ngài đem hết cố gắng để tuân giữ lời mẹ dạy. Kiểu nói thông thường, người ta nói “nhà” là để chỉ dòng dõi, và dân Do Thái xưa còn gọi giòng giống con cái là “xây nhà”. Theo nghĩa đó, ta thấy chép trong sách thánh là Thiên Chúa “xây nhà” cho các bà đỡ, người Ai Cập [2]. Do đó, ta được hiểu là : vơ vét cho gia đình được nhiều của cải thế tục không phải là cách xây dựng gia đạo tốt nhất đâu nhưng biết giáo dục con có lòng kính sợ Thiên Chúa và yêu các nhân đức. Trong việc này, đừng ngại khó nhọc, e lao tâm vì con cái là triều thiên thưởng công cha mẹ vậy.

Như thánh Mô-ni-ca đã hăng hái và kiên trường sửa trị những xu hướng xấu của thánh Ao-gu-ti-nô, đến nỗi để theo đuổi con, người phải vượt biển băng ngàn, phúc thay, phút sau cùng người đã làm cho Ao-gu-ti-nô ăn năn trở lại, thành con của nước mắt người đổ ra hơn là con của máu huyết mình đẻ ra.

Thánh Phaolô dành cho phụ nữ phần việc chăm lo gia đình. Vì thế, nhiều người có lý mà nghĩ rằng : lòng đạo đức của vợ có ảnh hưởng trong gia đình nhiều hơn là lòng đạo đức của người chồng, vì chồng thường ít có mặt trong gia đình, nên không thể khuyên bảo và tập tành dễ dàng nhân đức cho người trong nhà.

Vua Salômôn, miêu tả hạnh phúc của gia đình nằm gọn trong bàn tay săn sóc và tài quán xuyến của người đàn bà đảm đang (sách Cách Ngôn 31, 10-31).

Trong sách Sáng Thế (25, 21) có ghi : I-da-ác thấy bạn là Rê-bếch-ca son sẻ, cầu xin Chúa cho vợ, hay nói theo kiểu người Do Thái, ông cầu Chúa đối diện với vợ, vì chồng cầu ở một bên nhà thờ, vợ ở bên kia, nhờ vậy lời cầu của người chồng đã được Chúa nhận lời. Kết hợp trong lòng đạo đức, đó là sự kết hợp lớn lao nhất, phong phú nhất giữa hai vợ chồng, và cũng là kết hợp mà hai vợ chồng phải nổ lực thực hiện. Có những quả như mộc qua, rất đắng nên chỉ ngon khi đã thành mứt. Có những quả khác, vì rất mềm, mau hư như mận, đào, chỉ có thể để lâu nếu đem dầm với đường. Người vợ cũng phải mong ước cho chồng được ngâm hay dầm vào đường của lòng đạo đức, vì đàn ông mà không có lòng đạo thì là một con vật dã man nghiêm nghị và thô bạo. Còn người chồng phải mong sao cho vợ đạo đức, vì không đạo đức, người đàn bà sẽ quá mỏng dòn và dễ sa sẩy hoặc thất đức.

Thánh Phaolô đã viết : “Chồng ngoại nhờ vợ có đạo mà được thánh hóa, còn vợ ngoại lại nhờ chồng có đạo mà được” (1Cor 7, 14), vì trong hôn ước keo sơn ấy, người này sẽ lôi kéo người kia theo mình. Còn phúc lộc nào hơn khi cả hai đều là người có đạo, họ sẽ thánh hóa nhau chừng nào trong lòng kính sợ Chúa !

Lại nữa, hai vợ chồng phải biết nhịn nhục lẫn nhau đừng để bao giờ đôi bên cùng giận dữ nhau một trật, làm sao không bao giờ ở giữa hai người có sự cãi lộn bất hòa. Con ong ruồi không thể làm tổ nơi ầm ĩ tiếng động, Đức Chúa Thánh Thần cũng không ngự trong gia đình om sòm cãi cọ.

Thánh Grê-gô-riô Na-diăng làm chứng : thời ngài, các vợ chồng thường mỗi năm mừng lễ kỷ niệm ngày hôn nhân, tôi cũng tán thành cho tập tục ấy nhập vào nước ta, miễn là đừng mừng quá long trọng, theo thói đời ăn chơi buông tuồn. Ngày đó, hai vợ chồng xưng tội, rước lễ và tận tình phó thác nơi Chúa đời sống hôn nhân dang diễn tiến của họ, đồng thời dốc lòng lại sẽ càng ngày càng thánh hóa nó hơn bằng tình yêu và trung tín với nhau, và như Thần lực Chúa Giêsu Kitô bổ dưỡng, hai người sẽ thêm can đảm lãnh nhận các phận sự của bậc sống.

------------

[1] Hai vị thần huyền sử của Hy-lạp, thường được nói đến trong chuyện ái tình.

[2] Vì các bà đã vì kính sợ tch mà không tuân lệnh của Ác-vương Ai Cập : giết con sơ sinh của người Do Thái (sách Xuất Hành, chương 1).



CHƯƠNG 39 - ĐỨC LIÊM CHÍNH TRONG TÌNH CHĂN GỐI

Cuộc sống chăn gối của vợ chồng phải tinh tuyền, như thánh Tông Đồ nói, nghĩa là không vương dâm đãng hay các vết dơ phàm tục nào khác. Cho nên, hôn nhân đã được thiết lập trước tiên trong địa đàng nơi không bao giờ có sự buông tuồng phóng túng của dục tình hay điều gì bất chính.

Giữa các khoái lạc hôn nhân với khoái lạc trong sự ăn uống có đôi điểm giống nhau : cả hai cùng là chuyện của thân xác, dù cái trên vì tính cách thô bạo của chúng, nên được gọi là khoái lạc xác thịt.

Đây  tôi sẽ giải nghĩa về các khoái lạ mà tôi không thể nói được bởi những cái mà tôi có thể nói được.

1) Ăn là để bảo tồn mạng sống. Ăn để nuôi dưỡng và bảo tồn mạng sống là điều tốt, thánh thiện và buộc làm, thì sự sống chung của vợ chồng trong hôn nhân để sinh sản con cái tăng số nhân loại cũng là điều tốt và rất thánh. Đó là mục tiêu chính của hôn nhân.

2) Ăn uống không để sống mà thôi, song còn bảo vệ mối bang giao giữa đồng loại với nhau, vì thế là điều hợp lý và ngay chính. Cho nên, trong hôn nhân, sự vui thú chính đáng của hai vợ chồng trong hôn nhân cũng được thánh Phaolô gọi là một bổn phận. Bổn phận ấy to tát đến nỗi, ngài không cho phép một người bỏ qua, ngay cả vì lý do làm việc đạo đức mà không có sự ưng thuận tự do và hữu ý của người kia. Chính vì đó mà tôi đã nói về điều này trong chương bàn về sự rước lễ. Huống hồ người ta lại bỏ qua bổn phận ấy chỉ vì những căn cớ nhân đức giả tạo, hay vì giận dữ, khinh bỉ nhau !

3) Kẻ ăn uống vì tình nghĩa bang giao thì phải ăn uống cách vui vẻ thoải mái chứ không vì miễn cưỡng, cố gắng tỏ ra ăn ngon lành, thì bổn phận chung sống của hai vợ chồng cũng phải thi hành luôn luôn cách trung thành, chân thật, trong ước nguyện có con cái, dù đôi trường hợp người ta không được cái hy vọng ấy.

4) Ăn uống, không vì hai lý do đầu hết, song chỉ để đã thèm cũng còn được, tuy không đáng khen lắm. Để thoã mãn giác quan mà thôi thì không đủ lý do làm cho việc nên đáng khen, song đủ để được miễn chấp.

5) Ăn uống, mà không để đỡ đói, song vì tham lam quá là điều đáng trách, nhiều hay ít tùy theo sự quá độ ít hay nhiều.

6) Ăn uống quá độ không chỉ vì ăn nhiều, song còn trong cách thức ăn. Phi-lô-tê thân mến, mật hoa ngon ngọt, bổ dưỡng cho ong là chừng nào, ấy thế mà cũng có thể tai hại, làm ong sinh bệnh, như bệnh trệ bụng nếu chúng hút quá nhiều mật trong mùa xuân. Đôi khi còn làm chúng mất mạng nữa như khi cánh và đầu chúng dính đầy mật. Quả thật đời sống chung của vợ chồng tự nó thánh thiện, lương chính và đáng khuyến khích và ích lợi cho xã hội như thế mà đôi trường hợp lại gây nguy hiểm cho đôi bạn, vì làm cho họ sinh bệnh bởi tội nhẹ, khi đi hơi quá mức, khi khác lại gây tang tóc cho họ bởi tội trọng, như khi công cuộc mà thiên nhiên lập ra để nhắm sự sinh con cái lại bị ngăn chặn và phá hủy. Trong những trường hợp này, tội luôn là nặng, còn tùy người ta phá hoại trật tự ấy nhiều hay ít mà tội thêm phần quái gở. Vì việc sinh dựng con cái là mục đích chính và đầu tiên của hôn nhân, nên không bao giờ người ta có thể tự ý phá hủy hay ngăn trở cái diễn tiến tự nhiên của nó được, dù có đôi khi vì duyên cớ hay vì ngăn trở tự nhiên nào khác, việc thụ thai không xảy ra, như trường hợp son sẻ hay lúc đang có mang rồi. Trong những trường hợp này, ăn ở với nhau vẫn được coi là chính đáng, thánh thiện miễn là vẫn tôn trọng định luận điều hành công cuộc sinh sản. Không có một căn cớ nào có thể cho phép vi phạm định luật về mục đính chính của hôn nhân. Hành động đê tiện, quái gỡ của Ô-năng làm trong việc vợ chồng thật là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa[20]  như sách thánh ghi lại trong sách Sáng Thế, đoạn 38. Và dù có đôi người lạc đạo thời nay những người đáng trách ngàn lần hơn những hạng khuyển nho xưa (mà trong thư gửi bổn đạo Ê-phê-sô, Thánh Hiê-rô-ni-mô nói đến) muốn cắt nghĩa rằng, chỉ có cái ý xấu của tên Ô-năng khốn nạn đó là làm mất lòng Chúa thôi. Nhưng Thánh Kinh nói khác, và dạy chắc chắn rằng, chính hành động hắn làm là đáng ghét, ghê tởm trước mặt Thiên Chúa [21].

7) Một dấu báo hiệu tâm hồn tiểu nhân, đê hèn là mơ nghĩ đến ăn uống trước giờ dùng cơm. Tệ hơn nữa, nếu sau đó hắn lại thích nghĩ đến cái vui thú lúc ăn cơm, đem lời nói và ý tưởng mà gợi lại trong tâm trí những cảm giác vui khoái khi ăn miếng nọ miếng kia lúc nãy. Thật như người ta nói, trước bữa thì đem nướng tâm trí lên cho thèm, sau bữa thì gởi hồn đê mê trong đĩa chả đĩa thịt. Những hạng người này chỉ đáng làm cái  thùng rửa bát trong bếp, “Họ tôn cái bụng họ làm Chúa”, như lời thánh Phaolô nói (Philíp 3, 19). Người trọng danh dự chỉ nghĩ đến bữa cơm khi ngồi ăn. Sau bữa họ rửa miệng rửa tay để không còn dấy mù vị gì. Vợ chồng Công Giáo nhìn gương đó mà tránh trầm mình trong lạc thú xác thịt mà theo bậc sống họ được dùng. Nhưng khi đã qua, họ hãy tẩy rửa trái tim và tâm tình ngay, để tâm trí hoàn toàn tự do, thảnh thơi mà thi hành các hoạt động khác tinh sạch và cao siêu hơn [22].

Lời khuyên nhủ sau đây nhằm giúp thực hành một đạo lý tốt đẹp mà thánh Phaolô dạy các tín hữu Côrintô : “Thời giờ vắn vỏi từ nay ai có vợ kể như không có” (1Cor 7, 29). Theo Thánh Grê-gô-ri-ô, người có vợ mà kể như không có là người cùng chung hưởng thú vui thể xác với vợ nhưng không vì đó mà lại quên nhãng các hướng vọng siêu nhiên. Điều nói đây về chồng thì cũng áp dụng cho vợ. Thánh Tông Đồ nói thêm : “Người sử dụng thế gian nầy hãy như không sử dụng” (1Cor, 31).

Ta hãy dùng các sự vật trần gian tùy theo địa vị bậc sống mình, song dùng sao mà không để tâm trí mình sa lầy trong đó song vẫn tự do luôn và nhanh chóng phụng sự Thiên Chúa y như không dùng vậy. Theo lời thánh Ao-gu-ti-nô : con người mắc một tật xấu tai hại này, là muốn hưởng thụ cái họ chỉ được phép sử dụng và trái lại chỉ muốn sử dụng cái họ phải hưởng thụ. Ta phải hưởng thụ các sự thiêng liêng, mà chỉ dùng các vật thể xác. Nếu cái dùng mà đổi thành cái hưởng, thì linh hồn có lý tính cũng sẽ hóa thành hồn thô kệch đầy thú tính. Tôi cho là đã nói hết các điều cần nói, và mong rằng đã hiểu hết các ý tưởng mà tôi nói thoáng qua.

---------------

[20] Tội này gọi là “hư dâm”.

[21]  Vấn đề điều hoà sinh sản : Tất cả đoạn nói về sống chung của vợ chồng, tác giả đã chỉ nêu những quy luật căn bản mà không đả động đến những vấn đề phức tạp mà con người, nhất là thời nay, đang vấp phải : vấn đề nhân mãn, nhà ở chật chội, sức khoẻ suy yếu của người mẹ, đồng lương eo hep của người cha, vấn đề giáo dục con cái khi quá đông v.v...… Những vấn đề này đã là những lý do chính đáng để vợ chồng có phép dùng sự điều hoà sinh sản, miễn là với những phương pháp (tự nhiên) hợp pháp. Trong việc này những phát minh của khoa học tân tiến ngày nay có thể giúp rất nhiều.

  Công đồng chung Vaticanô II đã đề cập tới vấn đề này, người ta trông đợi Hội Thánh sẽ cho thêm ánh sáng. Hiện nay chúng ta biết Hội Thánh một đàng nhìn vào trật tự Thiên Chúa đã lập là vợ chồng sống chung để sinh và dưỡng dục con cái ; song cũng phải dung hoà với một chủ đích khác của hôn nhân là hạnh phúc của hai vợ chồng, mà sự chung sống là một yếu tố cần thiết, ngõ hầu qua tất cả cuộc đời yêu đương, họ nâng đỡ nhau tiến đến Chúa. Xét như thế, quan niệm đôi vợ chồng sống chung với nhau chỉ để sinh con đẻ cái là một quan niệm phi nhân (hay vô nhân đạo) ; và hơn thế, Hội Thánh cũng không bao giờ chủ trương thuyết “sinh nhiều con càng đông càng hay” vì tài năng giáo dục của cha mẹ có hạn, tiền của sức lực và phương tiện giáo dục có hạn, con người không phải là bầy súc vật đẻ ra bao nhiêu cũng được miễn là có sống. Con người cần nhiều điều kiện để thành con người xứng đáng. Cũng như ngược lại Hội Thánh luôn chống lại với chủ thuyết khoái lạc dưới mọi hình thức : khoái lạc vì khoái lạc, khoái lạc được núp dưới chiêu bài yêu đương, khoái lạc ích kỷ gạt ra ngoài những hy sinh cực nhọc phiền luỵ vì có con cái.v.v...… đang khi khoái lạc chính đáng của hôn nhân chỉ được coi như một yếu tố trợ giúp, một phần thưởng nếu có thể nói được, cho người chu toàn bổn phận thiên nhiên trao phó.

Biết như thế, một đôi vợ chồng cố gắng đại độ với Thiên Chúa trong việc sinh con cái và không đề cao khoái lạc ích kỷ trong đời họ vẫn có thể gặp khó khăn phức tạp trong các vấn đề chúng tôi đã nêu trên đầu. Để vượt qua những giai đoạn khó khăn gay cấn ấy, không chỉ nên ỷ lại vào các phương pháp khoa học (tự nhiên) hợp pháp để điều hoà sinh sản (tiếng Hội Thánh thường dùng là : “sinh sản có trách nhiệm”), song cần thiết đôi vợ chồng phải biết chuẩn bị cuộc hôn nhân và tự luyện ý chí mạnh mẽ để biết tự chủ mình, thêm vào đó một ý thức về sự tôn trọng con người của bạn đời mà tình yêu chân chính nào cũng nhất thiết phải có, đi đôi với sự hy sinh những tư lợi, ích kỷ riêng mình để tìm hạnh phúc cho bạn. Tất cả những đức tính đó chỉ có thể có được nhờ nỗ lực học hỏi và trui rèn bản thân, và nhất là nhờ siêng năng cầu nguyện, cậy nhờ vào ơn riêng biệt Thiên Chúa đã dành sẵn để ban cho đôi bạn trong Phép Bí tích Hôn phối.

Vài hàng này không thể cho phép nói hết tất cả sự phức tạp tế nhị của vấn đề, xin độc giả liên lạc với linh mục để bàn hỏi riêng. Cũng như tham khảo các sách hay bài vở Công giáo ngày nay không thiếu gì.

---------------

[22]  Bỏ một đoạn không thích hợp.



CHƯƠNG 40 - LỜI KHUYÊN BẢO CÁC QUẢ PHỤ

Thánh Phaolô đã có dạy bảo các Giám Mục : “Con hãy tôn trọng các người thực là quả phụ.” (1Timôtê, 5-7). Để thực là quả-phụ phải có những điều kiện sau đây :

1) Phải góa-bụa không chỉ phần xác, song cả trong trái tim, nghĩa là, phải đương-quyết sống trong thân-phận quả-phụ khiết-tịnh thật. Còn những bà góa chỉ đợi dịp may là tái-giá, là những người chỉ sống xa người nam theo thể xác nhưng đã liên kết với họ trong ước-muốn tâm-hồn rồi. Nếu vì muốn được sống vững-vàng hơn trong bậc quả-phụ, họ lại khấn dâng thân-xác và đức thanh khiết của mình cho Chúa, thì không những họ tạo cho mình lòng kiên-quyết, vững-chãi, mà còn tô điểm bậc quả-phụ mình thêm đẹp.

Đã khấn như thế, họ thấy mình không còn quyền rẫy bỏ đức thanh khiết nếu không muốn bỏ luôn cả Thiên-đàng, nên người quả-phụ sẽ thận trọng giữ quyết-định kia của mình đến mức sẽ không bao giờ cho phép ý-nghĩ làm lại cuộc đời,dù nhỏ mấy, lọt vào lòng mình. Thành ra lời khấn ấy sẽ đứng như thành-lũy ngăn-chận mọi dự tính, ước-muốn trái ngược với điều quyết định của mình. Thánh Au-gu-ti-nô khuyên các bà góa Công-Giáo nên làm lời khấn ấy. Ô-ri-gê-nê, văn-hào kỳ cựu và thông thái, còn đi xa hơn : Ông khuyên các phụ nữ có chồng hãy tự hiến đức thanh khiết trong trường hợp người chồng qua đời trước, ngõ hầu giữa những vui-sướng thể-xác phải có trong cuộc đời hôn nhân, họ còn được hưởng thêm công-nghiệp đức thanh khiết của bậc quả phụ bởi lời khấn trước ấy. Lời khấn làm mọi hành-động của ta nên đẹp lòng Thiên Chúa hơn, tăng can-đảm để hoạt-động ; đồng thời nó không chỉ dâng việc làm cho Chúa như hậu-quả của ý muốn, mà còn dâng ngay cả ý ấy, như thân cây trổ-sinh các việc làm kia. Bởi nguyên đức thanh khiết, ta phú cho Thiên-Chúa thân xác, nhưng vẫn giữ tự-do sử-dụng nó trong các vui-thú được phép. Còn với lời khấn giữ thanh khiết, ta tận hiến thân ta cho Chúa cách trọn-vẹn và không rút lại, không dành quyền thu-hồi lại. Ta sung-sướng làm nô-lệ cho lời khấn ấy : nô-lệ này còn cao đẹp hơn cả vương-quyền. Tôi hoàn-toàn tán-thành ý-kiến của hai tác giả lỗi lạc trên đây, và mong rằng ai muốn thi hành theo hai ý kiến ấy, hãy làm cách khôn-ngoan, sốt-sắng, vững-bền, sau khi đã lượng xét can-đảm mình, đã cầu-khẩn ơn trên soi-sáng và bàn-hỏi vị linh-hướng khôn-ngoan và đạo-đức. Nếu được như thế, chắc hẳn việc ấy sẽ sinh hậu-quả dồi-dào.

Ngoài ra, phải khước-từ việc tái-giá một cách thẳng thắn và đơn sơ, để tâm hồn mình trong sạch hơn mà hướng mọi tâm tình về Thiên Chúa và kết hợp lòng mình với Thiên Chúa oai nghi. Do đó, chỉ vì muốn để của lại cho con cái hay bất cứ vì dự tính phàm tục nào khác mà người đàn bá góa chịu sống bậc quả phụ thì có lẽ bà ta sẽ được người đời ca tụng, nhưng trước mặt Chúa chắc không đâu, vì chỉ được khen lao trước mặt Chúa khi ta làm vì Ngài.

3) Để được thực là quả phụ, còn phải tránh xa và rủ sạch mọi vui thú phàm tục. Theo lời thánh Phaolô, người quả phụ sống trong vui chơi thì sống mà như chết (1Tm 5, 6). Một đàng, muốn sống bậc quả phụ, đàng khác lại thích được theo đuổi, tán tỉnh, mơn trớn, sẵn sàng dự dạ hội, khiêu vũ, tiệc tùng, ưa tô son điểm phấn, làm đỏm, đó là một quả phụ sống bằng xác, mà chết phần hồn [23] .

Vì đã từng trải về mánh khéo đàn bà chinh phục đàn ông, người quả phụ càng biết bày ra nhiều cạm bẫy nguy hiểm cho họ. Đàn bà góa bụa mà sống trong các vui thú cuồng loạn ấy, có sống mà thật là chết, nói đúng ra, chỉ là một thây ma quả phụ vô hồn.

Sách Nhã Ca chép : “Mùa cắt tỉa đã về, tiếng bồ câu rủ rỉ ngoài thôn” (2, 12)[24] . Nghĩa là cắt tỉa xén bớt những cái thừa thãi chơi bời thế tục là điều kiện cần thiết cho người muốn sống đạo đức. Nhất là cần cho người quả phụ chân chính, là như chim bồ câu thanh khiết, còn tràn mi lệ thương tiếc người chống quá cố. Khi bà Nôê-mi từ đất Mô-áp trở về Bêlem, các phụ nữ trong thành quen biết bà trước kia lúc xuất giá liền đến hỏi : “Có phải bà Nôê-mi chăng ?” Song bà trả lời : “Xin đừng gọi tôi là Nôê-mi (có nghĩa là xinh đẹp) nhưng hãy gọi là Mara, vì Chúa đã đổ tràn hồn tôi sự cay đắng”. (Sách bà Rút : 20). Bà có ý nói việc chồng bà đã chết. Người quả phụ đạo đức cũng vậy, không nên để ai gọi mình, khen mình là đẹp là xinh, nhưng mãn nguyện với cái Chúa muốn mình sống, nghĩa là khiêm tốn và hèn hạ trước mặt Ngài.

Ngọn đèn có dầu tẩm hương sẽ tỏa ra hương thơm ngọt ngào khi tắt đi hơn khi còn sáng, thì các quả phụ trước kia đã sống đời tình yêu trong sạch trong hôn nhân, đến lúc ngọn đèn của họ, nghĩa là người chồng, bị tắt đi bởi cái chết, họ sẽ tỏa hương nhân đức và khiết tịnh thơm tho hơn. Yêu chồng khi chồng còn sống, đó là chuyện dĩ nhiên của các bà. Song yêu chồng đến độ sau lúc chồng chết vẫn không muốn lấy ai nữa, đó là tình yêu cao vượt mà chỉ các quả phụ chân chính mới có. Trông cậy vào Chúa khi chồng còn đó nâng đỡ mình, đâu có gì khó khăn hiếm hoi, song trông cậy vào Chúa khi không còn sự nâng đỡ kia nữa, mới là điều đáng ngợi khen ! Do đó, trong bậc quả phụ, người ta dễ nhận thấy mức hoàn bị của nhân đức hơn lúc đang sống trong hôn nhân.

Nếu quả phụ có con cái, chúng cần sự dạy dỗ, hướng dẫn của bà, nhất là về chuyện tâm hồn và đường tiến thủ công danh, không bao giờ vì cớ gì mà bỏ rơi chúng. Vì thánh Phaolô nói rõ : Các bà có bổn phận lo lắng cho chúng, đàng khác còn phải lo tròn đạo hiếu đối với cha mẹ nữa. Hơn thế, ai không lo cho người trong gia đình, nhất là kẻ thân thuộc, kẻ ấy còn tàn tệ hơn người ngoại đạo. Nếu con cái đã đến trình độ không cần dẫn dắt, người quả phụ lúc ấy sẽ chỉ còn lo thu hết mọi tâm tình, nghĩ tưởng vào việc tăng tiến trong tình yêu Chúa mà thôi.

Nếu không có việc gì bó buộc lương tâm người quả phụ phải vướng mắc chuyện bên ngoài, như kiện tụng chẳng hạn, tôi khuyên họ nên tránh đi, và dùng cách nào xếp đặt công việc êm thấm, gọn gàng hơn hết, mặc dầu nó có vẻ không sinh lợi mấy. Vì cái bận tâm xao xuyến kia phải được bù đắp bằng những mối lợi lớn lao lắm mới đủ để họ với các ích lợi do sự bình an yên tĩnh đem lại, ấy là chưa kể kiện tụng và các cuộc lộn xộn tranh chấp làm cho tâm hồn phân tán loạn ly và thường mở lòng cho các kẻ thù của đức thanh khiết đột nhập, vì khi muốn chiều lòng kẻ ta đang cầu cạnh đến ủng hộ ta, ta có thể có những thái độ, cử chỉ không đạo đức và mất lòng Chúa.

Nguyện ngắm phải là việc thực hành liên lỉ của người quả phụ. Vì chỉ còn yêu có mình Thiên Chúa, nên có nói gì thì chỉ là nói với Chúa mà thôi. Miếng sắt, bị kim cương ngáng đường ngăn chận không hút theo nam châm được, nhưng khi bỏ kim cương đi, nó liền bị cuốn hút theo nam châm ngay, trái tim của người quả phụ cũng vậy, khi chồng còn sống, không thể dễ dàng thảnh thơi mà hướng mình về Thiên Chúa và buông theo tất cả sức thu hút của tình yêu Chúa được nên sau khi chồng khuất bóng, phải hăng hái chạy theo mùi hoa hương Thiên Đàng, miệng than thở theo lời của hôn thê thánh : “Ôi lạy Chúa, bây giờ con hoàn toàn làm chủ mình con, xin hãy đón nhận con làm của Chúa, hãy lôi kéo con đến Người, chúng con sẽ chạy theo hương thơm của Người” (Nhã Ca 1, 3-4).

Những nhân đức riêng người quả phụ thánh thiện phải tập là đức đoan trang hoàn toàn, từ bỏ danh giá chức tước, cấp bậc, hội hè và các điều phù phiếm giống vậy. Thêm vào đó, biết giúp kẻ nghèo khó và bệnh tật, an ủi kẻ sầu khổ, dẫn dắt thanh thiếu nữ tập sống đời đạo đức, và làm gương hoàn hảo về mọi nhân đức cho các thiếu phụ. Hai món trang điểm áo mặc của họ là : cần thiết và giản dị. Hai nét mỹ lệ của hành động là khiêm nhường và bác ái. Lương chính và nhân từ là hai vẻ hoa mỹ của lời nói họ ; nết na và liêm sỉ là nét duyên dáng của đôi mắt họ. Và Chúa Giêsu Kitô bị đóng đanh là tình yêu duy nhất của trái tim họ ?

Tóm tắt, trong Hội Thánh : người quả phụ chân chính là đóa hoa màu tím nhỏ mùa cuối đông, nép mình dưới đám lá to rộng của lòng khiêm hạ tận cùng, song đìu hiu dâng tỏa làn hương êm dịu khôn tả của lòng đạo đức. Đóa hoa màu tím không lòe loẹt nói lên việc hãm mình phạt xác. Nảy nở ở những nơi thoáng khí vì không có trồng trọt, vì không muốn bị thúc bách gò ép trong cuộc trò chuyện của người đời, ngõ hầu bảo vệ hữu hiệu hơn, nét tươi thắm của lòng họ chống lại mọi sức nóng thiêu đốt của lòng ước ao của cải, danh giá và ngay cả ái tình. Thánh Tông Đồ nói  : “Nếu họ cứ kiên trung sống như thế, họ sẽ thật là người có phúc” (1Cor, 7-40).

Tôi còn nhiều điều muốn nói về vấn đề này. Nhưng xin tóm tắt hết cả trong lời nầy : muốn bảo vệ danh dự của địa vị mình, người quả phụ hãy đọc chăm chú các thư rất hay mà thánh Hiê-rô-ni-mô viết cho Furia và Salvia, và các bà khác được hân hạnh làm con thiêng liêng của một cha linh hồn cao cả như thế. Không còn có thể thêm điều gì vào các điều người viết cho họ, cùng lắm là lời dặn này : bà quả phụ chân chính không bao giờ nên trách mắng, hay chỉ trích những người tái giá, ngay cả tái giá lần thứ ba hay thứ bốn, vì trong đôi trường hợp ấy Thiên Chúa đã an bài như vậy để hiển danh Ngài hơn nữa. Rồi phải luôn tâm tâm niệm niệm điều người xưa truyền lại : dù là quả phụ hay đồng trinh trên trời chẳng dành riêng cho họ vinh quang nào khác ngoài vinh quang vì họ đã sống khiêm nhường.

------------------

[23] Bỏ một đoạn.

[24] Đúng ra phải viết là : “Mùa hoa nở, mùa hoà ca, tiếng cu gáy…”



CHƯƠNG 41 - ĐÔI LỜI VỚI NGƯỜI ĐỒNG TRINH

Hỡi các thanh nữ ! Nếu các con muốn tính việc nhân duyên trần thế, hãy giữ kỹ mối tình đầu cho người chồng đầu tiên. Tôi cho là một xảo trá khi dâng hiến cho chồng thay vì một trái tim nguyên tuyền và thành thực, lại là một trái tim đã tàn phai rữa nát, chán chường trong tình ái. Nhưng nếu tiếng nói hạnh phúc kêu mời các con tới cuộc giao duyên trong sạch, tinh khiết thiêng liêng, trong cách sống đồng trinh trọn đời, thì lạy Chúa ! Các con hãy thận trọng, ý tứ giữ gìn tình yêu các con hết sức để dành cho mình Bạn Tình chí thánh, là chính sự trong sạch hiện thân và Ngài chẳng yêu gì bằng sự trinh trong, và Ngài có quyền hưởng của đầu mùa của tất cả mọi sự, nhất là của tình yêu. Các thư của thánh Hiê-rô-ni-mô sẽ chỉ dạy cho các con những điều cần thiết. Mặt khác, vì các con đang ở giai đoạn cần được chỉ bảo dạy dỗ, nên hãy chọn một người hướng dẫn, để giúp các con hiến trọn trái tim và thân xác cho Thiên Chúa Oai linh một cách thánh thiện hơn.