Chúa Giêsu và Các Đồ Đệ

Đức Ông Nguyễn Văn Tài

Radio Veritas Asia, Philippines

Trích: https://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm 

Lời Nói Đầu

Chúng ta hãy suy niệm về việc Chúa kêu gọi các đồ đệ theo Ngài. Chúa Giêsu Kitô là vị thầy, nhưng là một vị thầy đặc biệt, khác với mọi vị thầy trên thế gian này, một vị thầy đi tìm đồ đệ, chớ không phải là một vị thầy chờ đồ đệ đến chọn mình.


Người đồ đệ là kẻ được Chúa Giêsu Kitô chọn, chứ không phải là kẻ tự phụ đứng ra chọn Chúa. Ơn gọi là món quà Thiên Chúa gởi đến cho con người, và con người phải đáp trả với tinh thần khiêm tốn và biết ơn.


Xin gởi đến quý vị và các bạn những bài suy niệm "Chúa Giêsu và các Ðồ Ðệ" để chúng ta cùng bước đi theo Chúa và sống với Chúa trong cuộc đời phục vụ và yêu thương anh em. Ðây là những bài suy niệm ngắn đã được phát trên đài Phát Thanh Veritas trong mục "Suy Niệm Lời Chúa", và vì hoàn cảnh chưa cho phép, nên tập sách suy niệm nầy chưa được phát hành như đã giới thiệu trong đợt xuất bản tập sách "Lẽ Sống". Hy vọng qua hệ thống "Mạng Lưới Toàn Cầu" (Internet), những bài suy niệm ngắn nầy sẽ giúp cho qúy vị có được những giây phút Bình An và Hạnh Phúc trên con đường theo Chúa.


Manila, Philippines

Phêrô Nguyễn Văn Tài.

e-mail: veritas@mnl.sequel.net


_______________________

1. (Mc 3,13-16) : Chúa tìm Ðồ Ðệ

Chúng ta hãy suy niệm về việc Chúa kêu gọi các đồ đệ theo Ngài. Chúa Giêsu Kitô là vị thầy, nhưng là một vị thầy đặc biệt, khác với mọi vị thầy trên thế gian này, một vị thầy đi tìm đồ đệ, chớ không phải là một vị thầy chờ đồ đệ đến chọn mình.


Người đồ đệ là kẻ được Chúa Giêsu Kitô chọn, chứ không phải là kẻ tự phụ đứng ra chọn Chúa. Ơn gọi là món quà Thiên Chúa gởi đến cho con người, và con người phải đáp trả với tinh thần khiêm tốn và biết ơn. Chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe đoạn phúc âm theo thánh Marcô, chương 3, câu 13 đến câu 16, như sau:


Ðoạn Chúa Giêsu lên núi và gọi những người Chúa muốn chọn. Họ đến cùng Chúa. Chúa chỉ định 12 người làm môn đệ và để ủy đi giảng dạy. Chúa ban cho họ quyền chữa lành các bệnh tật và trừ ma quỷ. Chúa chọn mười hai ông: Ông Simon Chúa đặt tên cho là Phêrô.


Chúa Giêsu lên núi và gọi đến gần Ngài một vài đồ đệ mà Ngài đã chọn?


Thánh sử chú ý nhắc đến chi tiết Chúa Giêsu lên núi chọn các đồ đệ. Lên núi để cầu nguyện. Chúa Giêsu thường được mô tả hay lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Luca đã nói rõ ra là Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện (Lc 6, 12). Việc chọn các tông đồ, những kẻ cộng tác với Ngài, là một việc làm thật quan trọng, đến nỗi Chúa Giêsu cần bàn hỏi với Thiên Chúa Cha trong những giây phút cầu nguyện.


Mọi ơn gọi ban cho con người, ban cho bạn, ban cho tôi, đều được bao bọc trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, lời cầu nguyện xưa kia, và lời cầu nguyện liên lỉ trong hiện tại. Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho các đồ đệ của Ngài xưa và nay. Ðáp lại ơn Chúa gọi, chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện, để được luôn trung thành.


Sau đó, cách thức Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ cũng thật khác cách thức những thầy thông luật Do Thái thời đó. Chúa không để cho các đồ đệ tự nhiên được thu hút đến với Chúa, vì những lời lẽ khôn ngoan. Nhưng Chúa đích thân kêu gọi họ và kêu gọi từng người một. Ngài nhìn thấy tận thâm tâm và yêu thương từng người. Ngài kêu gọi, trước cả khi người được gọi đó đáp lại lời Chúa. Ngài kêu gọi họ đến gần Ngài, đến sống với Ngài, để được đồng hoá với Ngài, cùng chia sẻ sứ mạng của Ngài, sứ mạng mà Thiên Chúa Cha đã giao phó: rao giảng và xua đuổi ma quỷ.


Chúa Giêsu kêu gọi các đồ đệ đến với Ngài để có thời gian huấn luyện họ. Vì làm đồ đệ của Chúa không hệ tại ở chỗ chỉ làm việc cho Chúa, theo như kiểu người đến làm công rồi thôi, nhưng phải là người được đồng hoá trở nên như một với Chúa. Người đồ đệ do đó cần phải luôn sống gần gũi với Chúa, trong sự hiệp thông với Chúa, trong kinh nguyện, trong việc tham dự các bí tích. Chúa gọi ta sống với Chúa trước khi được sai phái ra đi rao giảng Lời Ngài.


Tại sao Chúa gọi người này mà không gọi người khác? Chúng ta chỉ có thể trả lời: ơn gọi là một món quà nhưng không Chúa muốn cho ai tuỳ ý Ngài.


"Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng Thầy đã chọn chúng con và sai chúng con ra đi, để mang lại hoa trái." Chúa đã chọn các tông đồ đầu tiên không phải vì những tài năng, những công nghiệp của họ. Chúa Giêsu Kitô giờ đây tiếp tục chọn những người Kitô theo Ngài, cũng không phải vì những tài năng, vì công nghiệp riêng của họ, mà chỉ vì tình thương bao la của Ngài đối với con người được chọn mà thôi.


Nguyện xin Chúa ban cho mỗi người Kitô, những kẻ được Chúa chọn theo Ngài, được ý thức rằng ơn gọi là quà tặng của Thiên Chúa và rằng người được chọn phải đáp trả với hết lòng sẵn sàng và dâng hiến.


Lạy Chúa, là Ðấng đã phán hãy tìm Nước Thiên Chúa trước mọi sự. Xin mạc khải cho con biết được ý định nhiệm mầu của Chúa đối với cuộc đời con. Con xin dâng tất cả con người con cho Chúa, xin Chúa hãy thương nhận và sử dụng cách nào mặc ý Chúa. Nguyện xin Nước Chúa ngự đến. Amen.


_______________________

2. (Jn 1,35-40) : Ðược gọi sống với Chúa

Người tông đồ là kẻ được Chúa kêu gọi, chứ không tự mình chọn Chúa. Người tông đồ còn là kẻ được gọi sống với Chúa, chứ không phải chỉ biết một cách trừu tượng những giáo huấn của Ngài mà thôi. Cần phải có kinh nghiệm sống cá nhân, thân thiết, giữa Chúa, Ðấng kêu gọi, và người được gọi. Cần phải có một sự chia sẻ hoàn toàn số phận của Chúa. Ðặc điểm này được nhắc đến một cách nổi bật trong bài tường thuật của phúc âm theo thánh Gioan chương 1, câu 35-40 như sau:


Hôm sau ông Gioan còn ở đó với hai môn đệ của ông. Nhìn vào Chúa Giêsu đang đi qua, ông nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". Nghe vậy, hai môn đệ của ông Gioan liền theo Chúa Giêsu. Chúa quay lại thấy họ đang theo mình, Chúa hỏi: "Các bạn muốn gì?" Các ông thưa: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Chúa trả lời: "Các bạn hãy đến xem: các ông đã đến và đã xem nơi Chúa ở, rồi lưu lại với Chúa ngày hôm ấy; lúc đó là độ giờ thứ mười". Ông Anrê, em ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan giảng và theo Chúa Giêsu.


Mở đầu bài tường thuật việc Chúa kêu gọi hai môn đệ Gioan và Anrê, phúc âm theo thánh Gioan nhắc đến chi tiết: Chúa Giêsu đi ngang qua đấy. Chi tiết này cũng được các phúc âm theo thánh Marcô, Luca, Matthêu nhắc đến nhiều lần (Mt 4,18.20.22; Mc 1,16; Lc 9,57; Jn 1,39). Chúa Giêsu đi ngang qua nơi cuộc sống của người Chúa muốn gọi theo Ngài. Chúa xuất hiện một cách bất ngờ, không báo trước và cũng không dừng lại lâu. Ngài đi ngang qua và kêu gọi. Chúa đến tìm các đồ đệ, nhưng một cách bất ngờ, không hẹn trước và đi qua mau, không nài nỉ dừng lại lâu. Do đó giây phút Chúa đến kêu gọi phải là giây phút quý giá, ngắn ngủi, cần phải mau mắn quyết định vì dịp may qua rồi không còn trở lại nữa!


Chúa Giêsu đi ngang qua cuộc sống chúng ta, những người Kitô, những kẻ được gọi là đồ đệ của Ngài, bất ngờ không hẹn trước, ngắn ngủi. Ðó là những giây phút thật đặc biệt mà chúng ta cần phải sẵn sàng luôn để nghe tiếng Chúa gọi và mau mắn đáp lại.


Trong chương phúc âm được suy niệm hôm nay, chúng ta thấy bên cạnh hai đồ đệ sắp được Chúa gọi là Gioan và Anrê, còn có một vị uy tín đứng bên cạnh để nhắc, để chỉ đường, để lưu ý cho Gioan và Anrê về sự hiện diện quý giá của Chúa Giêsu đang đi ngang qua. Thánh Gioan Tiền Hô đã nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa." Ngài không nói: Ðây là một vĩ nhân, một bậc thầy thông thái, nhưng lại dùng ngôn ngữ hình bóng thánh kinh "Ðây là Chiên Thiên Chúa", đi thẳng vào sứ mệnh chính của Chúa Giêsu là Ðấng được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi nhân loại, để chuộc tội con người, bằng chính hy sinh mạng sống của mình, như con chiên hiến tế.


Thánh Gioan nhắc cho các đồ đệ sắp theo Chúa Giêsu về sự hiện diện của Chúa đang đi ngang qua, mà cũng vừa chỉ cho hai người biết rõ sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Giêsu và vận mệnh cuối cùng của Ngài là chết hy sinh, đền tội cho con người, để hai đồ đệ đừng có ảo tưởng về một cuộc sống sung sướng vật chất, có đầy đủ đặc ân hay tiện nghi, khi chấp nhận theo Chúa Giêsu. Theo Chúa Giêsu, Ðấng là Chiên Thiên Chúa, người đồ đệ được mời gọi trở thành như những "chiên hy sinh" khác, thêm vào việc phục vụ và hy sinh mạng sống của Chúa.


Với lời hướng dẫn của thánh Gioan Tiền Hô đứng bên cạnh khi Chúa Giêsu đi ngang qua, hai môn đệ được kêu gọi có ý thức rõ ràng về tầm quan trọng của quyết định theo Chúa, đi đến chia sẻ cuộc sống với Chúa: người ta bách hại Thầy thì cũng sẽ bách hại các con. Nhưng các con đừng sợ Thầy sẽ thắng thế gian?


Sau lời giới thiệu của thánh Gioan Tiền Hô: "Ðây là Chiên Thiên Chúa", hai môn đệ Gioan và Anrê quyết định theo Chúa Giêsu. Thấy họ theo Ngài, Chúa Giêsu quay lại hỏi: "Hai người muốn gì?" Họ đáp: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Hãy đến mà xem!?"


Với những ai muốn theo làm môn đệ Ngài, chấp nhận chia sẻ vận mệnh Ngài, Chúa Giêsu mời gọi họ đến mà xem, đến sống với Ngài, để có thời giờ đạt đến mức độ trưởng thành, vững mạnh. Không có mối tương quan thân mật sống với Chúa, thì khó mà trở thành đồ đệ của Chúa; khó mà rao giảng tình yêu của Chúa cho con người, khi chính mình chưa cảm nghiệm và sống tình yêu ấy.


Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin cho mỗi người chúng con được gặp Chúa, được sống trong sự hiện diện của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương con người, mỗi người, để chúng con có thể trở thành những chứng nhân của tình yêu Chúa, trong môi trường sinh sống hiện tại. Amen.


_______________________

3. (Mt 9,9-13) : Không theo tiêu chuẩn con người

Khi chọn các đồ đệ theo Ngài, Chúa Giêsu không hành động theo những tiêu chuẩn con người trần gian thường áp dụng. Lời kêu gọi của Chúa được gởi đến tất cả không kỳ thị; Ngài chọn theo Ngài cả những ai mà dư luận bên ngoài không chấp nhận với thiện cảm. Ðó là điều đã xảy ra, khi Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế Lêvi theo Ngài, như đã được mô tả nơi phúc âm theo thánh Matthêu, chương 9, câu 9 đến câu 13 như sau:


Ði khỏi đấy, Chúa Giêsu thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta." Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa. Khi Chúa Giêsu dự tiệc trong nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và kẻ tội lỗi ngồi đồng bàn với Chúa và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pharisiêu nói với các môn đệ rằng: "Tại sao Thầy các ông ngồi ăn cùng người thu thuế và kẻ tội lỗi?" Nghe những lời ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Người khỏe mạnh không cần đến thày thuốc; chỉ người ốm cần thôi. Các ông hãy đi mà học cho biết ý nghĩa câu này: Ta muốn sự thương xót chứ không muốn lễ vật. Vì Ta đến không phải để gọi kẻ lành, một để gọi kẻ có tội."



Chúa Giêsu đi ngang qua nơi Lêvi, người thu thuế, đang làm việc. Những người đương thời nhìn vào Matthêu với đôi mắt khinh rẻ, vì đối với họ làm nghề thu thuế là một nghề tội lỗi, gian lận tiền bạc công khai, để được lợi. Họ không thể nghĩ còn điều gì tốt nơi con người Matthêu. Nhưng đối với Chúa thì khác. Ngài nhìn đến Matthêu, biết rõ con người đó như thế nào, và kêu gọi: "Hãy đến theo Ta." Và Lời Chúa có đủ sức mạnh biến đổi Matthêu thành con người mới, thành đồ đệ, rồi được chọn vào nhóm 12, trở thành tông đồ của Chúa.


Và trước lời kêu gọi bất ngờ của Chúa, Matthêu đáp trả nhanh nhẹn, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ tất cả để theo Chúa. Matthêu đã tỏ ra tín thác vào Chúa hết lòng, không còn muốn Chúa giải thích thêm lý do này nọ nữa. Matthêu không hỏi Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa mình đến đâu, không hỏi xem Chúa có cơ sở nhà cửa cần thiết, đủ sức bảo đảm tương lai cho mình một cách vững chắc hơn chính nghề nghiệp mình đang thi hành hay không. Không, Matthêu không đặt vấn đề gì cả. Chỉ một lòng tín thác vào Lời Chúa và từ bỏ mọi sự theo Chúa. Matthêu bắt đầu cuộc sống mới. Ðối với mỗi người Kitô chúng ta cũng thế. Ðáp lại lời mời gọi của Chúa, chúng ta bước vào cuộc sống mới, đúng hơn một cuộc phiêu lưu mới với Chúa và chỉ có Chúa mới biết rõ cuộc phiêu lưu đó sẽ đến đâu. Phần người được gọi chỉ biết sống tín thác mà thôi. Ðáp lại thái độ tín thác của Matthêu, Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông, một cử chỉ nói lên ý định Chúa muốn trở thành người thân thiết với Matthêu. Những người xung quanh lúc đó không thể hiểu được hành động của Chúa. Họ trách Chúa đến ăn uống với kẻ tội lỗi. Họ không hiểu Chúa có quyền tha tội, tẩy sạch mọi vết nhơ của quá khứ, biến đổi con người nên mới. Chúa phải quả quyết mạnh mẽ một lần nữa: Ta không đến kêu gọi những kẻ cho mình là công chính, nhưng những người tội lỗi!


Con người nhỏ nhoi hẹp hòi. Thiên Chúa rộng lượng khoan dung. Tội lỗi của con người không ngăn cản Ngài đến với con người, nếu con người có chút thành tâm thiện ý nhìn thấy lúc Ngài đến trong cuộc đời và sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.


Thiên Chúa không chọn con người theo những tiêu chuẩn phàm trần, cũng không chọn con người vì những tài năng riêng của họ, nhưng chỉ vì Ngài yêu thương con người và muốn con người cộng tác với Ngài trong công trình tình thương, công trình cứu chuộc.


Lạy Chúa, xin đến với con, tẩy sạch mọi điều hư đốn tội lỗi nơi con người yếu đuối của con. Xin cám ơn Chúa vì ban cho con thành đồ đệ của Chúa. Amen.


_______________________

4. (Mc 10,17-22) : Không phải tất cả đều biết lắng nghe

Người đồ đệ của Chúa hiểu rõ hơn về giá trị của ơn gọi mình, khi chứng kiến những thái độ khước từ của kẻ khác. Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người theo Ngài, nhưng không phải mọi người đều lắng nghe chấp nhận. Một số đưa ra những lý do để khước từ, hoặc để hoãn lại một thời gian. Những thái độ khước từ hay hoãn lại đó có thể giúp mỗi người chúng ta, những kẻ đã đáp lại tiếng kêu mời của Chúa, hiểu sâu xa hơn về giá trị của ơn gọi và sự đáp trả của mình. Chúng ta sẽ suy niệm thêm về điểm này, dựa trên bài tường thuật của phúc âm theo thánh Marcô, chương 10, câu 17-22, về việc Chúa Giêsu kêu gọi chàng thanh niên giàu có theo Ngài, nhưng chàng thanh niên đó đã chối từ.


Chúa vừa đi ra thì một người chạy lại, quỳ trước mặt Chúa và hỏi rằng: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì cho được sống đời đời?" Chúa đáp: "Sao anh gọi Ta là nhân lành? Chỉ có một mình Thiên Chúa là nhân lành. Anh đã biết các giới răn: Ðừng gian dâm, đừng giết người, đừng làm chứng gian, đừng làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ." Anh ta thưa: "Thưa Thầy, tôi đã giữ cẩn thận các điều ấy từ thuở nhỏ." Bấy giờ, Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh rồi bảo: "Anh còn thiếu một điều: anh hãy về, bán tất cả gia tài và lấy tiền làm phúc cho kẻ nghèo khó, anh sẽ được một kho báu trên trời, rồi anh đi đến đây theo Ta." Nghe lời ấy, anh buồn rầu chán nản bỏ đi vì anh có nhiều của lắm.


"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chàng thanh niên đã có thiện chí, đã nhìn nhận Chúa Giêsu là vị Thầy, là Thầy nhân lành và muốn tìm nơi Chúa một con đường sống để đạt tới lý tưởng sự sống đời đời. Chành thanh niên đó có lòng kính trọng đối với Chúa, vì đã gọi Chúa bằng từ ngữ "Thầy nhân lành", và trong thâm tâm mình đang có một ao ước mạnh mẽ muốn tiến lên trong cuộc sống, xa hơn mức sống hiện tại. Anh đã chu toàn mọi điều luật đạo Do Thái truyền, và giờ đây khi đến với Chúa Giêsu để hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì nữa để sống đời đời?", anh muốn tiến thêm một mức trọn lành nữa. Và câu trả lời của Chúa Giêsu cho ta thấy đâu là điều cần thiết phải thực hiện để tiến lên trong mức trọn lành mới. Ðó là:


"Con chỉ còn thiếu một điều: hãy về bán tất cả những gì con có, lấy tiền cho kẻ nghèo. Con sẽ có một kho tàng trên trời. Rồi đến mà theo Ta."


Trước khi nói những lời này, Chúa Giêsu nhìn chàng thanh niên với đôi mắt đầy yêu thương. Thái độ này như thể muốn nói cho chàng thanh niên đó biết rằng: để chấp nhận những Lòi Chúa nói sau đây cho cuộc sống mình, chàng thanh niên đó được mời gọi tin tưởng vào tình thương của Chúa đối với anh. Chúa yêu thương anh và những gì Chúa muốn anh thực hiện là tốt nhất cho anh, bởi vì đến từ tình thương chăm sóc của Chúa. Chỉ khi bắt gặp và chấp nhận tình thương này của Chúa, chàng thanh niên mới có thể đủ sức mạnh tinh thần đáp trả, và chấp nhận những lời khuyên của Chúa. Nhưng xem ra như chàng thanh niên đó đã không lưu ý đến cái nhìn của Chúa. Các tông đồ xung quanh thì lưu ý được chi tiết này.


Chúa Giêsu đề nghị với chàng thanh niên một sự thay đổi quan trọng, đem tất cả của cải anh có, để đổi lấy kho tàng vô giá trên trơì! Kho tàng đó như là viên ngọc quý giá mà người buôn tìm được, và cần phải bán tất cả để mua thửa ruộng có viên ngọc quý ấy. Và phương pháp để trao đổi là: từ bỏ, bán đi tất cả mọi của cải, lấy tiền phân phát cho người nghèo, rồi theo Chúa.


Theo Chúa, làm đồ đệ của Chúa phải là ngời biết quý trọng kho tàng trên trời hơn tất cả mọi của cải vật chất trần gian. Theo Chúa, làm đồ đệ Ngài, phải là kẻ biết dùng của cải, phương tiện vật chất, để phục vụ những người nghèo khổ. Ðó là những đặc điểm chính của cuộc sống người đồ đệ của Chúa Kitô. Nhưng chàng thanh niên trong phúc âm không đủ can đảm thực hiện cuộc trao đổi này, và anh ta ra đi buồn bã; anh đã hoãn lại không trả lời Chúa ngay và có thể nói là đã mất dịp may theo Chúa.


Lạy Chúa, xin ban ơn giúp con sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Xin cho con biết lắng nghe lời mời gọi của Chúa, tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa và thực hiện những gì Chúa muốn trong cuộc đời con. Amen.


_______________________

5. (Mc 4,2-12) : Những phút dành riêng cho Chúa

Chúng ta suy niệm về dung mạo tinh thần của người đồ đệ Chúa. Các sách Phúc Âm mô tả cho chúng ta thấy mối liên lạc thân tình và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và các đồ đệ, khác và trổi vượt hơn mối liên lạc Ngài có đối với dân chúng đến nghe lời Ngài giảng dạy. Chính Chúa Giêsu cũng không dấu giếm điều này, mà đôi khi Ngài còn nhấn mạnh, lưu ý các đồ đệ. Phần các đồ đệ, các ngài cũng ý thức về điều này, nên khi nghe lời giảng dạy của Chúa mà có gì không lĩnh hội được, thì các ngài tìm dịp, để hỏi lại Chúa, xin Người giải thích thêm. Chúng ta có một bằng chứng cho lối sống này, nơi phúc âm thánh Marcô, chương 4, từ câu 2 đến câu 12. Sau khi nghe qua về dụ ngôn về người gieo giống, các đồ đệ không hiểu hết các ý nghĩa nên khi dân chúng đã giải tán, các ông đến với Chúa xin Ngài giải thích thêm. Thánh Marcô kể lại như sau:


Khi còn một mình Chúa, mấy người thân cận và mười hai môn đệ hỏi Chúa về ý nghĩa thí dụ ấy. Chúa bảo họ rằng: "Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được tỏ ra cho anh em, còn đối với các kẻ ở ngoài, thì phải dùng thí dụ giảng dạy mọi điều. Ðể họ có xem mà không thấy, có nghe mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha thứ."



"Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được tỏ ra cho chúng con, còn đối với các kẻ ở ngoài, thì phải dùng thí dụ mà giảng dạy?" Cách thức Chúa Giêsu mạc khải, giải thích về Mầu Nhiệm Nước Trời cho các đồ đệ thân yêu hằng sống bên cạnh Ngài, và cũng sẽ là những kẻ được Ngài trao cho sứ mạng tiếp tục công trình rao giảng và cứu chuộc của Ngài, cách thức đó, khác với cách thức Ngài dùng để nói với dân chúng. Khung cảnh thông thường cho cuộc đối thoại trao đổi riêng giữa Chúa Giêsu và các đồ đệ, -- theo như các phúc âm kể lại -- là khung cảnh riêng tư, tại nhà, khi không có sự hiện diện của dân chúng đông đảo. Ðó là một khung cảnh thân tình, thuận tiện cho việc đào sâu mối tương quan thầy trò thêm mỗi ngày một chặt chẽ hơn. Nơi câu 34, chương 4, Marcô đã nhận định như sau:


Chúa không nói điều gì mà không dùng thí dụ. Song Chúa giải nghĩa riêng cho các môn đệ.


Những giây phút riêng tư đólà những giây phút đặc biệt thuận tiện để đào sâu về Mầu Nhiệm Chúa mạc khải, những giây phút các môn đệ không còn bị những yếu tố phụ thuộc nào khác làm cho họ lo ra chia trí. Trọn cả sức chú ý của họ được hướng về Chúa và những lời giải thích của Ngài. Trong khung cảnh thân tình riêng tư này, các ngài có đủ điều kiện hiểu hơn về Mầu nhiệm mà các ngài có sứ mạng rao giảng lại cho kẻ khác.


Từ đây, chúng ta có thể rút ra một kết luận cho cuộc đời mỗi người chúng ta, những đồ đệ của Chúa Kitô. Chúng ta cũng phải dành riêng ra những giây phút đặc biệt, để sống mối liên lạc thân tình với Thiên Chúa, trong đó chỉ có Chúa và ta mà thôi. Ðó là những giây phút ta trình bày lên Chúa những thắc mắc về công việc tông đồ, về cuộc sống của mình, để rồi lãnh nhận những soi sáng chỉ dẫn, những giải thích của Chúa. Ðó là những giây phút người đồ đệ được mời gọi "nâng tâm hồn lên cùng Chúa", những giây phút dành riêng cho việc cầu nguyện, suy niệm, đối thoại với Chúa. Ðể làm môn đệ của Chúa, và để càng ngày càng trở nên người đồ đệ tốt, hữu hiệu, hoạt động cho Chúa, người Kitô hữu không thể nào bỏ qua hay không chú ý đến những giây phút dành riêng này cho Chúa. Thật là đẹp đẽ biết bao, trong mỗi thánh lễ, mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, vị linh mục sau khi đã chuẩn bị lễ vật, đã kêu mời mọi tín hữu: "Hãy nâng tâm hồn lên." Và toàn thể cộng đoàn thưa lại: "Chúng tôi đang hướng về Chúa." Phải, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần nên trả lời như vậy. Bất cứ lúc nào trong cuộc sống mình, chúng ta cũng đang hướng tâm hồn lên cùng Chúa, sẵn sàng lắng nghe Chúa nói, soi sáng những quyết định phải có. Mỗi người Kitô, như các đồ đệ của Chúa, phải dành những giây phút cho Chúa hiện diện và tác động trong cuộc đời mình, để rồi sau đó, mới có thể giúp cho Chúa được hiện diện và tác động nơi người khác. Làm việc tông đồ, không phải là công việc thông tin, thông báo những hiểu biết về Chúa, về Mầu Nhiệm Nước Trời, nhưng là một thông truyền sự sống, chia sẻ kinh nghiệm sống đạo của chính mình cho anh chị em xung quanh. Chính vì thế mà người đồ đệ của Chúa cần sống những giây phút thân tình với Chúa, trước khi có thể mời gọi anh chị em đến chia sẻ cuộc sống thân tình đó.


Lạy Chúa, xin cho con biết quý trọng những giây phút sống dành riêng cho Chúa và con, để con có thể múc nơi đó ánh sáng và sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa giữa cuộc đời. Amen.


_______________________

6. (Lc 10,38-42) : Lắng nghe Chúa nói

Chúng ta đã cùng nhau suy niệm về một đặc điểm trong dung mạo người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô, đó là sống kết hiệp với Chúa, là lắng nghe Chúa nói với mình để rồi có thể rao giảng, chia sẻ điều đó ra cho anh chị em xung quanh. Người đồ đệ của Chúa, như các tông đồ xưa, cần phải dành ra thời gian đặc biệt để sống với Chúa, để cùng với Chúa đào sâu về Mầu Nhiệm Nước Trời. Nhưng đó không phải là công việc học thuộc lòng bài học những chân lý Chúa dạy, như học trò thuộc lòng bài giảng của thầy giáo, trả bài cho thầy rồi thôi không còn gì nữa. Không phải như vậy, nhưng là việc người đồ đệ sống với Chúa, để những điều Chúa dạy thấm nhập vào cuộc sống mình, rồi biến đổi cuộc sống mình, đến độ như thánh tông đồ Phaolô đã tâm sự: "Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Chúa sống trong tôi." Sống với Chúa để cuộc sống mình được biến đổi, được đồng hoá giống như chính Chúa đã sống, đó là đặc điểm căn bản nhất của người đồ đệ, của mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Lắng nghe Lời Chúa, áp dụng Lời Chúa vào trong chính cuộc sống mình, đó phải là bận tâm đầu tiên của người đồ đệ, trước khi ra rao giảng Lời Chúa cho anh em. Trước khi rao giảng bằng lời nói, cần phải rao giảng bằng đời sống.


Chúng ta hãy lắng nghe chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca câu 38-42, kể lại chuyện Chúa Giêsu đến nhà của hai chị em Martha và Maria, và khen thái độ lắng nghe của Maria như sau:


Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi cùng các môn đệ. Người ghé vào làng kia, có bà Martha đón rước Người vào nhà mình. Em gái bà tên là Maria đến ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Chúa. Còn bà Martha thì bận rộn lo việc hầu tiếp, bà đến thưa rằng: "Thưa Thầy, em tôi để tôi làm một mình, Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với." Chúa trả lời: "Hỡi Martha, con lo lắng và bối rối về nhiều sự quá. Chỉ có một điều cần thiết thôi. Em Maria đã chọn phần tốt nhất, phần chẳng ai cất lấy được."



Bà Martha lo lắng bôn chôn nhiều điều để phục vụ Chúa. Còn Maria thì đến ngồi dưới chân lắng nghe Chúa nói. Hai thái độ khác nhau đối với Chúa có thể được nhìn như là hai thái độ tiêu biểu của người Kitô mọi thời đại đối với Chúa.


Thái độ của Martha bôn chôn lo lắng những việc phục vụ Chúa, mà quên điều chính là lắng nghe Lời Chúa. Có thể chúng ta cũng rơi vào thái độ này. Chúng ta cũng có thể tạo ra nhiều công việc để làm cho Chúa, mà quên việc chính yếu cần làm trước hết là lắng nghe Chúa nói, ngồi bên chân Chúa, sống với Chúa, như Maria đã làm gương. Thái độ của Maria là một thái độ nói được là chứng tỏ mình tùy thuộc vào Chúa, sẵn sàng hoàn toàn theo lệnh Chúa truyền, chớ không lăng xăng tự tạo ra cho mình công việc. Maria ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Chúa nói, và chắc chắn sẽ làm điều Chúa muốn. Còn Martha thì tự động nghĩ ra công việc. Martha có thiện chí, có tình thương đối với Chúa, nhưng việc làm mà Martha lăng xăng thực hiện là những việc làm do chính Martha nghĩ ra chứ chưa hẳn là việc làm do lệnh Chúa truyền.


"Martha, Martha, con lo lắng nhiều điều, nhưng chỉ có một điều cần thiết thôi. Và Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị lấy mất đi?"


Lắng nghe Lời Chúa phải là điều cần thiết duy nhất của người đồ đệ Chúa. Thái độ lắng nghe này sẽ dẫn đưa mỗi người Kitô chúng ta tiến sâu vào sự kết hiệp mật thiết với Chúa và làm cho đời sống ta được biến đổi mỗi ngày nên giống Chúa nhiều hơn. Và để có thái độ lắng nghe Lời Chúa, không bị cám dỗ lo ra, chạy theo những công việc phụ thuộc mà mình nghĩ ra, thì cần phải có nhiều nghị lực quyết định và kiên trì.


Chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta noi gương Mẹ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, và lắng nghe Lời Chúa, như là điều cần thiết duy nhất của người đồ đệ Chúa. Không ai sống kết hiệp với Chúa và lắng nghe Lời Chúa cho bằng Mẹ Maria.


Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời cầu khẩn và công nghiệp của Mẹ Maria, xin thương ban cho mỗi người Kitô chúng con biết đặt ưu tiên cho việc lắng nghe Lời Chúa, đọc và suy niệm thánh kinh, để mỗi ngày đời sống con càng được biến đổi giống như cuộc sống của chính Chúa. Amen.


_______________________

7. (Lc 11,1-4) : Sống cầu nguyện

Mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ ngày xưa là gương mẫu cho mỗi người Kitô chúng ta ngày nay. Ơn gọi làm môn đệ của Chúa trước hết bao gồm khía cạnh sống với Chúa. Người đồ đệ được mời gọi sống thân mật với Chúa, càng ngày càng trở nên gần gũi Chúa nhiều hơn, chia sẻ những tâm tình, những hành động của Chúa.


Ðể đào sâu và củng cố mối tương quan thân tình giữa Chúa và người đồ đệ, thì một trong những điều căn bản cần thực hiện là sống cầu nguyện. Như Chúa Giêsu, Ðấng đã được Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện công trình cứu chuộc nhân loại, đã sống trong mối tương quan mật thiết với Cha, qua những giây phút đặc biệt dành riêng cho cuộc đối thoại giữa Ngài với Thiên Chúa Cha, mà ta gọi là cầu nguyện, thì cũng thế, các đồ đệ của Chúa Giêsu cũng được mời gọi sống cầu nguyện, sống đối thoại thân mật với Chúa. Phúc âm theo thánh Luca, chương 11, câu 1-4, đã kể lại việc các môn đệ đến xin Chúa dạy cho biết cách phải cầu nguyện như thế nào sau nhiều lần nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Phúc âm kể lại như sau:


Một hôm, Chúa cầu nguyện ở nơi kia, khi xong, một môn đệ nói với Chúa: "Thưa Thầy, xin dạy chúng tôi cầu nguyện như ông Gioan đã dạy các môn đệ ông." Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Khi anh em cầu nguyện, hãy nói rằng: Lạy Cha, xin cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến. Xin cho chúng con, hôm nay có đủ bánh ăn. Xin tha tội chúng con, như chúng con cũng tha kẻ phạm tới chúng con, và xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ."


Chúa Giêsu đã dùng lời nói và gương sáng mà huấn luyện các môn đệ Ngài đã chọn. Mặc dù mệt nhọc sau một ngày rao giảng, Chúa Giêsu dành riêng ra thời gian nhất định, để đối thoại với Thiên Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Các đồ đệ theo bên cạnh Chúa đã nhìn thấy thái độ sống này của Chúa, nhiều lần (Lc 3,21; 5,16; 6,16; 9,18.28.29). Các đồ đệ đã chứng kiến cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện nhiều lần, và giờ đây, nơi chương 11, các ngài tiến đến bên cạnh xin Chúa dạy cầu nguyện. "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện." Và Chúa Giêsu đã dạy các ngài cầu nguyện, trong tâm tình của người con đối với Cha, tin tưởng gọi Thiên Chúa là Cha.


Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ bí quyết của cuộc sống thân mật với Thiên Chúa; bí quyết đó là: Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương đối với con người. Ðây là một mạc khải quan trọng, biến đổi trọn cả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa.


Là những người Do Thái, thuộc dân riêng của Chúa, đã được huấn luyện trong truyền thống "phải kính sợ Thiên Chúa", không được kêu đích Tên Thánh của Thiên Chúa, chắc hẳn các tông đồ hết sức ngạc nhiên, khi nghe Chúa Giêsu dạy các đối thoại với Thiên Chúa, gọi Ngài là Cha và xưng mình là Con. Lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu truyền dạy cho các tông đồ, lời kinh đó có thể được gọi là lời vui mừng, là Phúc Âm ngắn gọn, nhắc các tông đồ luôn nhớ rằng Thiên Chúa là Cha, chớ không phải là một vị thần đàn áp bóc lột con người. Ðến với Ngài, con người được thông cảm, yêu thương, nâng đỡ, khuyến khích, như người con đến với Cha mình.


Trong giây phút đầu tiên mới nhận được mạc khải về Thiên Chúa là Cha, chắc các tông đồ còn bỡ ngỡ, chưa hiểu thấu đáo, nhưng sau khi Chúa đã phục sinh, với ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, các ngài hiểu rõ hơn về sự thật mới mẻ này: Thiên Chúa là Cha của con người. Con người được ơn làm con cái của Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô. Thánh Gioan khởi đầu phúc âm của mình đã mạnh mẽ tuyên xưng:


"Những ai đón nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa."


Mọi phúc lành và sự thật soi sáng cuộc đời chúng ta đến từ Thiên Chúa, là Cha mỗi người chúng ta. Chính vì thế mà thánh Phaolô nơi thư gởi giáo đoàn Côlôsê, chương 1, câu 11-14, đã mời gọi tất cả mọi tín hữu hãy vui mừng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Ước chi cuộc đời chúng ta hôm nay cũng là một sự dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.


Lạy Chúa, là Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha thương giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.


_______________________

8. (Mc 8,34-38) : Chấp nhận vận mệnh của Chúa

Mối tương quan thân tình giữa Chúa Giêsu và các đồ đệ bao gồm việc cùng chia sẻ cuộc sống, cùng chấp nhận vận mệnh mà chính Chúa là Thầy mình phải trải qua. Ðây là một điều khó thực hiện đối với người đồ đệ, nhất là khi vận mệnh đó không phù hợp với những ước mong của mình. Các môn đệ đã hồ hởi bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa, trong giây phút đầu tiên được gọi. Họ hãnh diện vì những lời giảng dạy đầy uy tín và những phép lạ Chúa đã thực hiện để chứng tỏ quyền năng cao cả của Ngài. Ðã có lần họ có cao vọng sẽ được chia sẻ quyền hành và vinh quang, một thứ quyền hành và vinh quang trần gian, theo quan niệm còn trần tục của họ. Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu mạc khải về vận mạng đau thương của Ngài, phải chịu chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc con người, thì các ngài không thể hiểu được lời loan báo đó. Chúng ta còn nhớ thánh Phêrô đã lên tiếng ngăn cản Chúa, và đã bị Chúa khiển trách: Hãy lui ra khỏi Ta, vì con không suy tưởng theo cách thức Thiên Chúa, nhưng theo cách thức loài người. Phúc âm theo thánh Marcô, chương 8, câu 34-38, đã ghi lại như sau:


Ðoạn Chúa hội dân chúng và các môn đệ lại mà phán rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình và hãy vác thập giá mình mà theo Ta. Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất sự sống, còn ai mất sự sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ được sự sống. Chiếm được cả thế gian mà lại mất linh hồn nào được ích gì? Thật vậy, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình? Kẻ nào hổ thẹn về Ta và về lời giảng dạy của Ta giữa dòng dõi gian dâm và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi Người đến trong sự vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần.


Trong thời gian huấn luyện các tông đồ, Chúa Giêsu hiểu rõ là các ngài không thể chấp nhận liền ngay sự thật về vận mệnh cuối cùng của Chúa. Họ khó lòng mà chấp nhận liền cái chết của Chúa trên thập giá. Vì thế Chúa Giêsu phải chuẩn bị các ngài. Chúa lợi dụng những giây phút thân mật riêng tư giữa Thầy và trò, để mạc khải và giải thích về cái chết có giá trị cứu rỗi của Chúa. Phúc âm đã kể lại là Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của mình ba lần. Thập giá không phải là một cái gì bất ngờ, phụ thuộc, trong cuộc đời của Chúa, nhưng là điều chính yếu cần phải thực hiện với hết lòng yêu mến và vâng phục. Ðối với người đồ đệ cũng vậy, thập giá không phải là một rủi ro không ngờ trước được, nhưng là con đường bắt buộc phải đi qua, để chứng tỏ tình yêu và cứu rỗi. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác lấy thập giá mình hàng ngày mà theo Ta. Ai muốn giữ mạng sống mình thi sẽ mất nó. Ai liều mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sống và sống đời đời."


Nhưng dù các môn đệ không hiểu, không chấp nhận mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu vẫn kiên trì giải thích.


"Con Người sẽ bị nộp trong tay con người. Nhưng sau khi chết Ngài sẽ sống lại."


Cũng thế, dù con người không hiểu và không chấp nhận mầu nhiệm thập giá, nhưng người đồ đệ, noi gương Chúa và với sức mạnh nâng đỡ của Chúa, không được phép tránh né, hay im lặng bỏ qua không nói đến. Tinh thần hưởng thụ vật chất luôn đi ngược lại tinh thần thập giá, mà người đồ đệ được kêu gọi rao giảng và nhất là được kêu gọi sống trong chính đời sống của mình, để được giống Chúa Kitô một cách hoàn toàn hơn.


Cũng như các tông đồ ngày xưa, càng tiến lên trên con đường đức tin, thì họ càng phải nhìn nhận và sống gắn bó với mầu nhiệm thập giá của Chúa Giêsu; ngày nay cũng vậy, mỗi người Kitô hữu chúng ta, càng tiến lên trên con đường đức tin, càng khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình thì càng phải chấp nhận và sống mầu nhiệm thập giá. Thánh Phaolô đã ý thức và đã sống sự thật này đến độ ngài mạnh mẽ tâm sự với các tín hữu Galata như sau:


"Tôi chỉ lấy làm hãnh diện nơi thập giá của Chúa Kitô mà thôi."


Và nơi chương 2 thư Galata, câu 19, thánh Phaolô quả quyết mạnh mẽ thêm rằng:


"Tôi chịu đóng đinh mãi mãi với Chúa Kitô trên thập giá."


Và nơi thư thứ nhất Côrintô, chương 2, câu 2, thánh Phaolô tuyên xưng:


Tôi không muốn biết ai khác ngoài Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu đóng đinh."


Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thể tuyên xưng như vậy.


Lạy Chúa, xin ban ơn soi sáng giúp con tin nhận Chúa đã chịu chết trên thập giá để cứu chuộc mỗi người chúng con. Xin cho con đừng sống trong tinh thần nghịch lại thập giá của Chúa. Và mỗi lần gặp đau khổ thử thách, xin cho con biết nhìn lên và múc lấy sức mạnh từ thập giá Chúa. Amen.


_______________________

9. (Jn 15,1-5) : Giữ chặt tình thân

Ðể sống mối tương quan mật thiết với Chúa, người đồ đệ phải biết dành ra thời giờ đối thoại với Ngài; đó là ý nghĩa của đời sống cầu nguyện nơi người muốn làm đồ đệ đích thực của Chúa. Ngoài ra, để sống mối tương quan mật thiết với Chúa, người đồ đệ còn cần phải chấp nhận vác thập giá theo Chúa, mặc dù đôi khi mình không hiểu được ý nghĩa của thập giá đó. Người đồ đệ cần chia sẻ cuộc sống của Thầy mình, một vị Thầy đã phải chết trên thập giá để cứu rỗi. Người ta đã bách hại Thầy, thì cũng sẽ bách hại các con. Nhưng, hãy tin tưởng và can đảm vì Thầy đã thắng thế gian rồi.


Chúng ta hãy đào sâu thêm đi vào mối tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Mối tương quan đó không thể nào thiếu đi được, để cuộc đời của đồ đệ được sinh hoa trái. Mối tương quan đó quan trọng đến độ Chúa Giêsu không thể nào bỏ quên được, trong những lời căn dặn cuối cùng của Ngài cho các môn đệ, trong bữa tiệc ly. Phúc âm theo thánh Gioan chương 15, câu 1-5, đã kể lại như sau:


Thầy là cây nho thật, Cha Thầy là người trồng nho. Hễ ngành nào thuộc về Thầy mà không sinh quả thì Cha Thầy sẽ chặt đi, còn hễ ngành nào sinh quả thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều quả hơn. Chúng con đã được trong sạch nhờ những lời Thầy giảng dạy. Chúng con hãy ở trong Thầy và Thầy sẽ ở trong chúng con. Cũng như ngành nho không tự mình sinh quả được, nếu không kết hợp với thân cây, chúng con cũng thế, nếu chúng con không còn ở trong Thầy. Thầy là cây nho, chúng con là ngành nho. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, thì kẻ ấy sinh quả, vì không có Thầy chúng con không thể làm gì được.


Thầy là cây nho, Cha Thầy là người trồng nho.


Khi dùng lại hình ảnh "cây nho và vườn nho", đã được các tiên tri như Ezêkiel (19,10-14) và Isaia (27,2-27) dùng để ám chỉ thời của Ðấng Messia, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ biết rằng Thời Mới được Cựu Ước loan báo, nay đã đến, đã được thực hiện nơi chính Ngài. Ðây đã đến lúc hoàn thành tất cả những gì được loan báo, tất cả những gì Thiên Chúa Cha mong muốn, trong lịch sử ơn cứu rỗi. Và chỉ có Ngài là mẫu gương duy nhất, là sức sống duy nhất, mà các môn đệ phải kết hợp với, như ngành vào thân cây nho, để sinh được nhiều hoa trái. Và Thiên Chúa Cha sẽ can thiệp vào, sẽ cắt tỉa, để nhành cây sinh hoa trái, được sinh hoa trái thêm nhiều hơn. Sống kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, đây là điều kiện không thể bỏ qua, không thể không có, để cuộc đời tông đồ của người môn đệ được sinh nhiều hoa trái. Sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô không tránh cho các môn đệ khỏi phải đau khổ, khỏi phải bị bách hại, bởi vì những đau khổ, những bách hại đó được nhìn như là những hoàn cảnh thuận lợi, để người đồ đệ được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô, Thầy của mình hơn. Người ta đã bách hại Thầy, chắc chắn sẽ bách hại chúng con? Trong thế gian chúng con sẽ gặp nhiều đau khổ nhưng hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian thù nghịch. Sống kết hợp với Chúa Kitô, người đồ đệ sẽ múc lấy tràn đầy sức mạnh chiến thắng những đau khổ thử thách.


Chúa Giêsu Kitô đã tạo ra sự kết hiệp mật thiết giữa Ngài và các môn đệ, bằng hai phương thế quý báu. Phương thế thứ nhất là bí tích Thánh Thể. Ngài vừa mới cử hành bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly với các môn đệ và yêu cầu các môn đệ hãy tiếp tục cử hành, để tưởng nhớ đến Ngài, để được sống kết hiệp liên lỉ với Ngài. Và phương thế thứ hai là Lời Ngài. Ngài mời gọi các môn đệ hãy lắng nghe Lời Ngài và sống thực hành Lời đó, để chứng tỏ tình yêu đối với Ngài và để Ngài được hiện diện trong họ. Nơi chương 14, câu 23, phúc âm thánh Gioan đã ghi lại lời mạc khải của Chúa như sau:


"Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ thực hiện Lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và Thầy cùng với Cha sẽ đến trong người ấy và chúng ta sẽ ở trong người ấy."


Mỗi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô, mỗi người Kitô, qua mọi thời đại, đều được mời gọi cử hành bí tích Thánh Thể và đón nhận Lời Chúa, để cuộc sống mình được biến đổi và thế giới chung quanh cũng được biến đổi tốt đẹp hơn. Thánh Thể và Lời Chúa là hai phương thế hữu hiệu nhất để biến đổi đời sống con người và xã hội. Chúng ta hãy quý trọng và thực hành hai phương thế này?.


Lạy Chúa, xin cho con ý thức rõ rằng không có Chúa con sẽ không làm chi được. Xin cho con biết đến với Chúa và sống kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể và trong Lời Chúa, để đời con và xã hội con sống được biến đổi tốt đẹp hơn. Amen.


_______________________

10. (Mc 6,7-12) : Ra đi còn biết trở về

Người đồ đệ có bổn phận gia tăng sự kết hiệp với Thầy mình mỗi ngày một hơn. Các tông đồ ngày xưa đã thực hiện điều này, một cách cụ thể trong chính cuộc sống theo Chúa. Phúc âm theo thánh Marcô nơi chương 6 cho ta một thí dụ cụ thể. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ và sai từng hai người một đến các nơi Chúa sắp đến? Họ ra đi chu toàn sứ mạng như đã được chỉ trước? rồi sau đó trở về với Chúa Giêsu và kể lại những gì họ đã làm được.


Các đồ đệ đã sống sự kết hiệp này với Thầy mình và gia tăng sự kết hiệp đó trong nếp sống cụ thể: nghe Lời Chúa họ ra đi thực hiện sứ mạng, rồi trở về trình bày với Chúa công việc đã làm. Ra đi rồi trở về cùng Chúa, đó có thể là hai động tác cho thấy rằng các ngài đã phát triển được một mức độ nào đó sự kết hiệp với Thầy mình.


Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại đoạn Tin Mừng như sau:


Chúa gọi mười hai môn đệ đến. Và sai họ từng hai người một, đi giảng. Chúa cũng ban cho họ quyền trừ ma quỷ. Chúa lại truyền cho họ đừng mang gì khi đi đường, trừ một chiếc gậy, đừng mang túi, mang bánh, đừng mang tiền trong thắt lưng. Hãy đi dép song đừng mặc hai áo. Chúa còn dặn rằng: "Hễ anh em đã vào nhà nào thì hãy ở nhà ấy cho đến lúc bỏ miền đó. Nơi nào người ta không tiếp nhận anh em và không nghe lời anh em thì hãy ra khỏi đó và giũ bụi chân lại để buộc tội chúng." Các môn đệ ra đi và giảng sự thống hối? (Mc 6,7-12)



Các môn đệ trở về quanh Chúa Giêsu và kể lại cho Chúa biết mọi điều họ đã làm và đã giảng. Chúa bảo họ rằng: "Anh em hãy đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Thật vậy, vì người ta đi lại đông đúc nên Chúa và các môn đệ không có giờ mà ăn.


Vâng lời Chúa, các môn đệ ra đi rao giảng?.


Việc ra đi của các ngài không phải là một việc rời xa Chúa Giêsu Kitô, mà là một việc làm vì tình thương đối với Thầy, Ðấng đã sai mình, và do tình thương đó soi sáng. Ra đi, các môn đệ ý thức rằng mình được sai đi cho một sứ mạng và sứ mạng đó là rao giảng cho dân chúng, để họ hối cải trở về với Chúa. Các đồ đệ đã không tự ý ra đi, nhưng là do theo lời dạy bảo, do theo lời sai đi của Chúa. Ðây là một sự ra đi vì sứ mạng, với tâm hồn được hâm nóng vì tình yêu Chúa thúc đẩy. Ðây chính là kinh nghiệm mà thánh Phaolô sau này đã trải qua và đã tâm sự lại cho các tín hữu của mình: "Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi phải ra đi rao giảng? Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng?" Ðó cũng là sự ra đi của tất cả người Kitô ngày nay, để mang Tin Mừng đến cho anh em xung quanh. Nhưng không phải là một sự ra đi mãi mãi. Phúc âm kể lại là sau khi đã thi hành công tác, các tông đồ trở về, kể lại cho Chúa những gì đã thực hiện. Các tông đồ đã ra đi, vừa đồng thời không quên trở về. Việc trở về với Chúa đây không được hiểu như là một cuộc chạy trốn sứ mạng, chạy trốn công việc đã lãnh nhận, nhưng là một sự trở về để kiểm điểm, để tường trình, để gia tăng thêm sức mạnh, để nhận từ Chúa những soi sáng mới. Ðây là một sự trở về để nhìn nhận rằng người được sai đi nhất quyết giữ trọn mối tương quan thân tình với Ðấng đã sai mình. Và Chúa Giêsu, ra lệnh cho các đồ đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng cùng với Chúa. Bởi việc làm này, Chúa muốn chứng tỏ cho các tông đồ biết rằng cần phải duy trì và gia tăng mối tương quan mật thiết Thầy Trò, để công tác được hữu hiệu hơn. Khi hoạt động các đồ đệ có thể bị cám dỗ bỏ quên mối liên lạc thân tình với Chúa, chính vì thế, khi trở về, các ngài cần cùng Chúa vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, để kiện cường lại mối liên lạc thân tình. Ðây là giây phút bổ dưỡng tinh thần trong sự thân mật với Chúa Giêsu Kitô Thầy mình. Không có những giây phút đặc biệt này dành riêng cho Chúa, các tông đồ sẽ bị nguy hiểm bỏ rơi Chúa và công việc sẽ không còn hiệu quả nữa.


Ngày hôm nay, mỗi người Kitô đồ đệ của Chúa cũng cần sống điều này, cần ra đi thực hiện sứ mạng với ý thức rõ ràng mình là kẻ được sai đi, nhưng rồi cũng cần trở về với Chúa, trong kinh nguyện, trong thinh lặng, trong những giây phút đối thoại giữa Chúa và người được sai đi. Chính nhờ những giây phút trở về nầy mà người đồ đệ có thể kiện cường mối liên lạc với Chúa.


Lạy Chúa, Ðấng đã sai con ra đi làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời, xin thương ban ơn soi sáng giúp con biết trở về với Chúa, thường xuyên, để múc lấy sức mạnh và on soi sáng cần thiết cho cuộc sống làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Xin cho con được lớn lên trong sự kết hiệp với Chúa, để lời rao giảng của con về Chúa được sinh hoa trái, theo ý Chúa muốn. Amen.


_______________________

11. (Lc 10,1-7) : Nhớ Lời Chúa căn dặn

Người đồ đệ của Chúa Giêsu được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng, phục vụ cho Nước Chúa được lan rộng đến mọi người cho đến mức độ trọn hảo. Người đồ đệ ra đi vì ý thức rõ ràng Chúa đã mời gọi và sai mình ra đi. Ý thức đó cần được giữ gìn sống động mãi trong suốt cuộc đời làm chứng của người đồ đệ. Phúc âm theo thánh Luca, chuơng 10, từ câu 1-7, đã ghi lại những lời sai đi và căn dặn của Chúa Giêsu như sau:


Sau đó Chúa chọn 72 môn đệ khác và sai từng hai người một đi trước vào các thành, các nơi mà Chúa sẽ đến. Chúa bảo các ông: "Mùa màng thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ mùa màng sai thợ đến gặt lúa của mình. Anh em hãy đi. Ta sai anh em như chiên vào giữa bầy sói. Ðừng mang túi, mang bị hay mang giày dép, cũng đừng chào ai dọc đường. Hễ anh em vào nhà nào thì trước hết hãy nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đó có ai đáng hưởng sự bình an thì sự bình an anh em cầu chúc cho, sẽ ở lại với người ấy, bằng không, thì sự bình an sẽ trở về với anh em. Hãy ở nhà ấy, và ăn uống những của người ta cấp cho bởi vì thợ thì đáng được lương. Ðừng bỏ nhà này sang nhà khác."


"Chúng con hãy ra đi! Này Thầy sai chúng con ra đi như chiên vào giữa muông sói?"


Sứ mạng rao giảng Lời Cứu Rỗi là một cái gì cao cả vượt trên các đồ đệ. Các ngài không thể tự phong cho mình công tác này, mà cần phải có một tiếng nói cao cả, một lời sai đi của Ðấng Cứu Rỗi. Vì là kẻ được sai đi, nên các đồ đệ luôn sống trong sự tùy thuộc vào Ðấng đã sai mình đi; đây không phải là một sự tùy thuộc nô lệ giữa chủ và tôi tớ, mặc dù sự cách biệt giữa Chúa và con người còn xa hơn sự cách biệt giữa chủ và tôi tớ vô cùng. Nhưng đây là một sự tuỳ thuộc thân tình giữa Thầy Trò như hai người bạn? "Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi chúng con là bạn hữu vì mọi điều Thầy đã nghe nơi Cha, Thầy đã tỏ cho chúng con biết." (Jn 15,15). Người đồ đệ là kẻ chấp nhận hoàn toàn trọn cả sự thật mạc khải và chấp nhận chương trình cứu rỗi mà Thiên Chúa muốn thực hiện, qua Chúa Giêsu Kitô. Người đồ đệ không phải chỉ như là một kẻ đại diện, nhưng như là sự hiện diện của Chúa, là như chính Chúa hiện diện và tác động cứu rỗi. Chính vì thế mà người đồ đệ phải hoàn toàn sẵn sàng, để tuân phục thánh ý của Thầy mình, để thực hiện chương trình Thầy mình muốn mà không một chút do dự hay thay đổi chi tiết. Ðây là một bổn phận nhưng cũng là một vinh dự, bởi vì Chúa đã nói: "Ai nghe chúng con là nghe Thầy. Ai khinh chúng con là khinh Thầy và ai khinh Thầy là khinh Ðấng đã sai Thầy!" (Lc 10,16). Việc tuân phục mệnh lệnh sai đi của Chúa sẽ tạo cho người đồ đệ một an tâm không lo lắng trước những khó khăn. "Chúng con đừng mang theo túi tiền, giầy dép?"


Người đồ đệ không nên có ảo tưởng đặt sự thành công của sứ mạng tùy thuộc vào những phương tiện vật chất, nhân loại. Tất cả những món đó có thể là một trở ngại lớn, không cho phép người đồ đệ sống hoàn toàn tự do và sẵn sàng chu toàn sứ mạng. Ðể thực hiện sứ mạng, người đồ đệ cần ơn soi sáng và sự hướng dẫn của Chúa hơn là những phương tiện vật chất. Ðể chu toàn sứ mạng mang ơn cứu rỗi đến cho con người, người đồ đệ cần nhiều ơn Chúa, cần sự khôn ngoan của Chúa hơn những phương tiện vật chất. Hơn nữa, thời giờ dành cho việc thực hiện sứ mạng là thời giờ quý giá. Người đồ đệ không nên phung phí hoặc để mình bị lo ra vì những hư từ, vì những lời nói của con người mà bỏ quên Lời Chúa? Rồi khi gặp chống đối, người đồ đệ không nên ngã lòng. Khi đã tận lực cho sứ mạng Chúa đã trao phó, người đồ đệ giữ tâm hồn mình bình thản, trước những thất bại hay chốn g đối của con người, vì biết rằng Lời Chúa mà mình rao giảng, chắc chắn sẽ sinh hoa trái một cách mầu nhiệm theo đường lối của Chúa. Ðiều quan trọng là đồ đệ đừng ngã lòng, đừng chịu thua, đừng trả sứ mạng đó lại cho Chúa mà hãy hiên ngang lên đường tiếp tục sứ mạng đó nơi khác.. Trước sự chống đối khước từ của con người, người đồ đệ có thể cảm thấy mình yếu hèn nhưng như thánh Phaolô tông đồ, người đồ đệ cần nhớ rằng: Chính khi mình xem ra yếu đuối là lúc mình có tràn đầy sức mạnh, vì quyền năng của Thiên Chúa được tỏ lộ nơi sự yếu đuối của đồ đệ (x. 1C 2,1; 2C 12,7-10).


Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, với hết lòng hăng say, nhưng tràn đầy khiêm tốn và tin tưởng vào sức mạnh ơn Chúa, nhất là trong những giây phút mệt mỏi, bị chống đối. Xin giúp con tin chắc vào điều con rao giảng và nhất là sống thực điều con tin và rao giảng. Amen.


_______________________

12. (Lc 10,1-4) : Cùng nhau làm việc Chúa

Chúng ta thường chú trọng đến khía cạnh cá nhân trong ơn gọi và sứ mạng của người đồ đệ Chúa Kitô, đến độ cả trong những khi thi hành công tác, chúng ta để ý đến khía cạnh cá nhân, nghĩa là mỗi người riêng rẽ làm việc cho Chúa mà quên khía cạnh cộng đoàn, mỗi người liên kết với nhau. Ðành rằng Chúa ban ơn gọi và sứ mạng cho từng người một; Chúa đã kêu gọi từng người một, gọi đích danh để theo Ngài. Nhưng phúc âm cũng đã ghi lại một chi tiết mà đôi khi chúng ta bỏ quên, đó là Chúa sai các ngài từng hai người một, để ra đi thi hành công tác Ngài muốn. Phúc âm theo thánh Luca chương 10, câu 1 đến câu 4, đã kể lại như sau:


Sau đó Chúa chọn 72 môn đệ khác và sai từng hai người một đi trước vào các thành, các nơi mà Chúa sẽ đến. Chúa bảo các ông: "Mùa màng thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ mùa màng sai thộ đến gặt lúa của mình. Anh em hãy đi. Ta sai anh em như chiên vào giữa bầy sói. Ðừng mang túi, mang bị hay giầy dép, cũng đừng chào ai dọc đường. Hễ anh em vào nhà nào thì trước hết hãy nói: "Bình an cho nhà này."


Chúa đã sai họ ra đi từng hai người một?


Ðây không phải là một chi tiết vô ý, phụ thuộc, nhưng là một điều cố ý, có một ý nghĩa sâu xa, nhất là nếu ta nhớ lại những chương phúc âm khác như nơi Luca 9,54; 24,13; Gioan 1,37; 20,3 là những chương trong đó có nhắc đến hai người môn đệ đi đôi với nhau. Hai khác với một, hai người đã là một cộng đoàn rồi. Chúa sai các môn đệ ra đi thực hiện công tác từng hai người một, nghĩa là Chúa sai các ngài ra đi trong tinh thần cộng đồng, cộng tác với nhau; hai người cùng hoạt động cho Chúa, cùng phải sống với nhau trong tình hiệp thông huynh đệ. Nói rộng ra, tất cả các đồ đệ được Chúa sai đi rao giảng ần phải sống tình huynh đệ với nhau và cần luôn ý thức rằng mình không làm việc riêng rẽ, nhưng cùng với cộng đồng, như là thành phần một cộng đoàn. Ðành rằng mỗi người chu toàn một công việc, một nhiệm vụ khác nhau, nhưng công việc đó phải là một khía cạnh trong toàn bộ công việc chung. Nơi phúc âm theo thánh Matthêu 18,20 Chúa Giêsu đã hứa là Ngài hiện diện bất cứ nơi nào có hai hay ba người tụ họp nhau lại nhân danh Ngài. Vậy thì càng chắc chắn hơn là có Chúa hiện diện giữa cộng đoàn các đồ đệ được chính Chúa đặc biệt sai đi làm chứng cho Ngài. Tình hiệp thông huynh đệ giữa những người làm chứng cho Chúa là kết quả của sự hiện diện của Chúa nơi cộng đoàn đồ đệ, mà cũng là nguyên nhân làm cho người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa. Chúa đã không những cho các đồ đệ hồng ân rao giảng, nghĩa là hồng ân sử dụng lời nói để làm chứng cho Chúa, nhưng còn ban cho các ngài hồng ân sống hiệp thông huynh đệ với nhau. Người đồ đệ sẽ dễ dàng chu toàn trách vụ của mình, nếu biết sống hiệp thông huynh đệ với những đồ đệ khác của Chúa. Chính vì thế mà trước khi từ giã các môn đệ, nơi bữa tiệc ly, Chúa đã căn dặn các ngài nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, là hãy sống hiệp thông với nhau, hãy sống yêu thương nhau.


Mỗi người chúng ta, vì mang nặng trong mình những khuynh hướng cá nhân ích kỷ, nên có thể đôi khi bị cám dỗ sống riêng rẽ và chỉ nghĩ đến việc làm tự một mình mình mà không màng chi, hay không để ý đến khía cạnh cộng đồng, hiệp thông. Ơn Chúa ban cho từng người nhưng trong một cộng đồng là Giáo Hội Chúa.


Lạy Chúa Giêsu, xin hãy biến đổi con người con, cho con biết sống đơn sơ, trung thành với Tin Mừng Chúa và biết mở rộng tinh thần con tim đón nhận sự cộng tác của anh em, để cùng nhau làm chứng cho Chúa. Xin giúp con sống ơn gọi làm đồ đệ của Chúa, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội Chúa, với những vị mục tử, đã được Chúa thiết lập chịu trách nhiệm về đoàn chiên được trao phó. Amen.


_______________________

13. (Lc 5,4-11) : Hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa

Ðôi khi người môn đệ của Chúa phải sống qua những hoàn cảnh trong đó việc thi hành sứ mạng, thành công hay thất bại của sứ mạng, không còn tùy thuộc vào khả năng của đương sự nữa nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa, và sức mạnh của Lời Chúa. Ðó là những lúc người môn đệ gặp phải những điều kiện không thuận lợi cho công cuộc phục vụ Lời Chúa, gặp phải những chống đối, khước từ sứ điệp của phúc âm mà mình rao giảng. Người môn đệ là kẻ hoạt động do theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, mặc dù đôi khi chính môn đệ không hiểu được. "Vâng lời Thầy con sẽ thả lưới!" Ðó là thái độ đức tin, đầy tin tưởng mà chúng ta có thể nhìn thấy nơi đoạn phúc âm sau đây theo thánh Luca, chương 5, 4-11 như sau:


Giảng xong, Chúa bảo ông Simon rằng: "Hãy ra khơi, thả lưới đánh cá." Ông Simon trả lời: "Thưa Thầy, chúng tôi khó nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được gì, song vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới." Họ thả lưới và bắt được nhiều cá, gần rách hết lưới. Họ phải gọi đồng bạn ở thuyền kia đến giúp. Các đồng bạn tới và chất lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và nói: "Thưa Thầy, xin xa ra khỏi tôi vì tôi là kẻ có tội." Thấy được nhiều cá như thế, ông Simon và các đồng bạn đều bỡ ngỡ kinh khiếp. Các ông Giacôbê và Gioan, là hai con ông Giêbêđê và là đồng bạn với ông Simon cũng sợ hãi như vậy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ gì, từ nay con sẽ chinh phục được các tâm hồn." Ðoạn họ đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa.


Con hãy ra khơi và thả lưới bắt cá!


Ðó là mệnh lệnh của Chúa cho Phêrô. Mẻ lưới thành công không phải là do sáng kiến của Phêrô, nhưng do Chúa truyền dạy. Chi tiết này thật ý nghĩa. Nó nhắc cho mỗi người đồ đệ của Chúa nhớ rằng: trong Giáo Hội, mọi công việc phục vụ, mọi tác vụ, hay sứ mạng, đều là một lời đáp trả của con người cho mệnh lệnh, cho lời kêu gọi của Chúa. Ðó là một sự cộng tác với Chúa, Ðấng luôn luôn hiện diện và tác động trong Giáo Hội. "Nầy đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế?" Người môn đệ không thể chu toàn sứ mạng tốt đẹp của mình, nếu không ý thức điều này, nếu không nhìn nhận và sống kết hiệp với Chúa? và một cách cụ thể, nếu không sống kết hiệp với Ðấng đại diện Chúa, Ðức Giáo Hoàng, các Giám Mục, những kẻ đã lãnh nhận sứ mạng đại diện Ngài duy trì tính các toàn vẹn và đúng thật của sứ điệp mạc khải được rao giảng.


"Vâng lời Thầy, con sẽ ra khơi thả lưới." Thánh Phêrô đã đáp trả mệnh lệnh của Chúa, trong tinh thần vâng phục kính tin, mặc dù lúc đó ông không hoàn toàn hiểu ý định của Chúa và mặc dù kinh nghiệm thất bại suốt đêm không bắt được con cá nào, xem ra không khuyến khích Phêrô nghe theo lệnh Chúa. Nhưng Phêrô đã thắng vượt được tất cả mọi cản trở và mau mắn thưa: "Vâng lời Thầy con sẽ ra khơi thả lưới?" Trong biến cố này, ta thấy Phêrô khi đáp trả vâng lệnh Chúa, đã không sống ỷ lại căn cứ vào kinh nghiệm riêng cá nhân, không ỷ lại vào những an toàn phàm trần, không nương tựa vào những suy tư và hành động của riêng cá nhân mình, nhất là khi mệnh lệnh Chúa xem ra nghịch lại mọi lý lẽ tự nhiên. Nhưng Phêrô đã chấp nhận tin trọn vẹn vào một mình Chúa Giêsu và Lời Ngài phán. Kết quả của mẻ lưới đầy cá là như phần thưởng cho thái độ vâng lời hoàn toàn của Phêrô, nhờ đó mà quyền năng của Chúa được thực hiện?


Trước dấu lạ, Phêrô như muốn tránh xa Chúa, vì cảm thấy mình không xứng đáng? Nhưng Chúa không chọn người tài năng xứng đáng, mà chọn người biết vâng phục tin tưởng vào Ngài. Nên Chúa trấn an Phêrô: Ðừng sợ, từ nay con sẽ trở nên kẻ lưới cá người. Những thiếu sót, thiếu khả năng của Phêrô không cản trở ngài trở nên tông đồ của Chúa. Ơn Chúa luôn đủ với ơn gọi? Ơn Chúa đã không ra vô ích nơi tôi. Nhờ ơn Chúa, tôi mới được như hôm nay, tông đồ của Chúa Giêsu Kitô?


Lạy Chúa, xin ban ơn giúp con biết lắng nghe tiếng Chúa gọi và trung thành vâng phục điều Chúa truyền dạy? Xin thương hướng dẫn cuộc đời con thực hiện thánh ý Chúa. Amen.


_______________________

14. (Lc 9,51-56) :Chuẩn bị đón nhận thất bại

Khi huấn luyện các môn đệ thi hành sứ mạng truyền giáo, Chúa Giêsu Kitô cũng để cho các ngài nếm mùi thất bại, nhìn thấy tận mắt phản ứng khước từ của con người, để có dịp huấn luyện thái độ của các ngài. Sự thất bại, thái độ khước từ của con người trước sứ điệp Tin Mừng, không phải là những gì tuỳ thuộc, bất ngờ, nhưng là vận mệnh không thể nào tách rời ra khỏi sứ mạng được. Nếu không được chuẩn bị trước, thật quả khó mà có thái độ đúng như ý Chúa muốn trước những điều tiêu cực xảy ra trong đời sống môn đệ Chúa. Phúc âm theo thánh Luca chương 9, câu 51-56 đã mô tả một biến cố có ý nghĩa trong đời sống các môn đệ, như sau:


Khi gần đến ngày Chúa từ bỏ thế gian thì Chúa quyết định đi thành Giêrusalem. Chúa sai mấy người đi trước các ông đi vào một thành thuộc xứ Samaria để tìm cho Chúa một chỗ trọ. Dân chúng ở đó không đón tiếp Chúa, vì Chúa có ý định đi Giêrusalem. Thấy vậy, các ông Giacôbê và Gioan nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?" Chúa quay lại và trách rằng: "Anh em không biết tâm địa mình thế nào. Con Người chẳng đến để giết hại loài người, một để cứu sống loài người." Ðoạn Chúa và các môn đệ đi sang làng khác.


Chúa Giêsu sai vài môn đệ vào làng của những người Samaria để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Ngài. Nhưng dân làng không muốn tiếp nhận Chúa.


Có thể nói, đây là lần đầu tiên các môn đệ được dịp chứng kiến tận mắt cảnh dân chúng khước từ Chúa Giêsu. Sự khước từ này làm cho sự hăng say và lòng tin non yếu của các môn đệ bị thử thách.


Chúa Giêsu không lạ lùng bỡ ngỡ trước thái độ khước từ của con người. Nhưng đối với các môn đệ, thì cần phải thời gian và ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, để các ngài có thể hiểu và thốt lên như tác giả sách phúc âm theo thánh Gioan, nơi chương mở đầu: "Ngài đến giữa dân Ngài nhưng dân Ngài không tiếp rước Ngài? Thế gian vũ trụ được tạo dựng nhờ Ngài, thế mà thế gian không biết Ngài?" Dường như Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ để các ngài có thể chấp nhận sự khước từ quan trọng hơn vào cuối đời của Chúa, sự khước từ đến độ giết Chúa trên thập giá? sự khước từ mầu nhiệm thập giá? trong cuộc đời của Chúa và ngay cả trong cuộc đời của các môn đệ.


"Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con xin lửa từ trời xuống tiêu diệt họ chăng?"


Vì không hiểu được mầu nhiệm thập giá, không hiểu được thái độ khước từ của dân chúng, các môn đệ lúc đó đã phản ứng một cách thái quá: họ muốn như "trả thù" sự chống đối bằng cách xin lửa từ trời xuống tiêu diệt. Các môn đệ muốn áp dụng luật "mắt đền mắt, răng thế răng", người ta chống mình thì mình chống lại, người ta ghét mình thì mình ghét lại, người ta từ chối mình thì mình từ chối lại? Nhưng thái độ này không được Chúa chấp nhận. Vì quá nồng nhiệt hăng say bảo vệ Chúa, mà các môn đệ rơi vào sự thù hận, có tâm tình muốn trả thù những kẻ không chấp nhận Chúa. Nhưng đó là một sự nồng nhiệt mù quáng, ích kỷ, muốn bênh vực lợi lộc của mình. Sự nồng nhiệt của các môn đệ cho Chúa phải là sự nồng nhiệt quên mình, rao giảng sứ điệp của Chúa mà không sợ chi những bách hại, những thù địch; đó là sự nồng nhiệt mà chính thánh Phaolô tông đồ đã sống khi ngài tâm sự: khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Và ngài đã rao giảng. Gặp thời thuận tiện hay không mặc kệ, ngài cứ một mực trung thành rao giảng, không màng chi những chống đối, khước từ. Ðáp lại những chống đối khước từ, các môn đệ Chúa càng phải sống quảng đại yêu thương, kiên trì, tha thứ? Thiên Chúa kiên trì chờ đợi con người đáp lại lời mời gọi của Ngài. Người môn đệ cần kính trọng sự kiên trì chờ đợi đó, không nên vội vã kết án. Hãy dấn thân phục vụ Tin Mừng, gặp thời thuận tiện hay không mặc kệ, thành công hay thất bại cũng kệ, miễn là ta làm trọn sứ mạng rao giảng đã được trao phó.


Lạy Chúa, xin giúp con trở thành những người trung thành phục vụ Lời Chúa, vừa đồng thời biết kính trọng tự do và lương tâm của anh chị em xung quanh. Nguyện xin tình yêu Chúa ban sức mạnh và hướng dẫn cuộc sống phục vụ của con cho Chúa và anh chị em. Amen.


_______________________

15. (Lc 8,5-11) : Bình tĩnh trước sự khước từ

Người môn đệ có thể đặt nhiều câu hỏi liên quan đến sứ mệnh được Chúa trao phó. Làm sao để rao giảng Lời Chúa? Phải rao giảng Lời Chúa như thế nào? Làm sao đối xử với những người khước từ không chấp nhận Lời Chúa, hay sống dửng dưng, không thèm màng đến? Ðó là những câu hỏi tự nhiên mà người môn đệ có thể tìm được ánh sáng cho những câu trả lời khi suy niệm đến dụ ngôn về người gieo giống, được phúc âm thánh Luca kể lại nơi chương 8, từ câu 5-11, như sau:


"Nông gia kia đi gieo hạt giống. Khi gieo, có hạt rơi bên đường người ta đi giẫm lên và chim trời xuống ăn hết. Có hạt rơi trên đất sỏi, nó có mọc lên, song vì thiếu ẩm ướt lại héo đi. Có hạt rơi vào bụi gai; gai mọc lên với hạt giống và làm nó bị nghẹn. Có hạt rơi vào đất tốt, nó mọc lên và sinh quả gấp trăm." Nói những lời ấy xong, Chúa kêu lên: "Ai có tai mà nghe, hãy nghe."


Các môn đệ hỏi Chúa về ý nghĩa thí dụ đó. Chúa bảo họ rằng: "Phần anh em thì được biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, còn các kẻ khác thì chỉ được nghe thí dụ, để họ xem mà không thấy, nghe mà không hiểu". Ðây là ý nghĩa thí dụ: Hạt giống là Lời Thiên Chúa? Người gieo giống ra đi thi hành công tác một cách hăng say. Chúng ta có thể nhìn thấy những đợi chờ và những niềm hy vọng vững chắc của anh. Anh tin tưởng hy vọng vào tương lai, nhất là tin tưởng vào chính công việc gieo giống, mặc dù đang khi gieo vãi, anh chưa nhìn thấy được mùa màng như thế nào. Niềm tin tưởng, can đảm và hy vọng, đó phải là những thái độ tinh thần đầu tiên của người môn đệ được sai đi rao giảng Lời Chúa. Anh tin tưởng vào giá trị vững chắc của công việc gieo giống, mặc dù kết quả chưa thấy trước được. Anh xem ra như không màng đến những loại đất khác nhau tiếp nhận hạt giống.


Phúc âm kể lại có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi bên vệ đường, nhưng gieo thì cứ gieo. Ðây là một điểm kỳ lạ đáng chú ý. Có bao giờ người làm ruộng ra đi gieo giống, mà có thái độ giống như thái độ được Chúa mô tả trong dụ ngôn này không. Thường tình thì người làm ruộng phải dọn nơi gieo giống thật kỹ lưỡng, và chỉ gieo xuống nơi đã chọn, chứ không phải gieo bất cứ nơi nào. Còn người gieo giống trong bài dụ ngôn thì được Chúa mô tả là không chú ý đến loại đất nhận hạt giống. Anh cứ gieo và cứ gieo. Chi tiết này nói lên thái độ tinh thần của anh là "chú ý làm công việc gieo giống với hết lòng tin tưởng vào sức mạnh của hạt giống, nghĩa là tin tưởng vào hiệu năng sinh hoa kết quả của công việc, mặc cho những khó khăn bên ngoài. Không một mẩu đất nào, dù là xấu, bị loại bỏ ra khỏi tầm hoạt động của anh. Cũng thế, người tông đồ Chúa không được loại bỏ bất cứ hạng người nào ra khỏi tầm hoạt động của mình, nhưng phải đem Lời Chúa gieo vãi khắp nơi, cho hết mọi hạng người, mặc cho những thất bại, những khước từ chống đối.


Căn cứ trên thái độ của người gieo giống được Chúa kể trong dụ ngôn, mỗi người Kitô chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi đã được đặt ra ở đầu bài suy niệm hôm nay: đó là mỗi người Kitô chúng ta đều được kêu gọi thực thi sứ mạng rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa, trước mặt mọi người không giới hạn, không loại bỏ bất cứ ai, dù người đó có thái độ tốt xấu như thế nào đi nữa đối với Lời Chúa. Như Chúa Giêsu đã không loại bỏ bất cứ ai ra khỏi quyền năng cứu rỗi, thì người Kitô đồ đệ của Chúa cũng không loại bỏ bất cứ ai ra khỏi tình yêu Chúa.


Lạy Chúa, xin dạy con sống trung thành với sứ mạng, trong thời thuận tiện cũng như trong lúc bị chống đối. Xin cho con hưởng được niềm vui nội tâm, niềm vui gieo rắc Lời Chúa, mặc dù phải gieo rắc trong nước mắt, với những hy sinh, đau khổ. Xin cho con luôn giữ vững niềm tin vào Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.


_______________________

16. (Jn 20,11-18) : Xác tín về Chúa Phục Sinh

Ðể làm môn đệ Chúa, mỗi người Kitô hữu cần phải trải qua giai đoạn quyết định cuối cùng, đó là kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Các tông đồ đã được chọn theo Chúa, sống với Ngài trong suốt thời gian Chúa rao giảng, và cuối cùng phải trải qua và sống biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu, có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa Phục Sinh. Kinh nghiệm về Chúa Phục Sinh này làm cho các tông đồ được trưởng thành trong đức tin và mở ra một viễn tượng mới, một cái nhìn mới cho sứ mạng sắp lãnh nhận và phải hoàn thành. Biến cố Chúa Phục Sinh soi sáng trọn cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa và là biến cố thị thực cho tất cả những gì đã giảng dạy: Chúa Giêsu Kitô đã Phục Sinh, Ngài là Niềm Vui, là Tin Mừng cần phải được loan báo cho mọi người; Chúa Phục Sinh đã chiến thắng sự chết và sự dữ, giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ðược gọi làm tông đồ Chúa, là được gọi phổ biến tin vui mừng này: Con người đã được Chúa cứu chuộc khỏi sự dữ và tội lỗi. Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại kinh nghiệm gặp Chúa Phục Sinh của Maria, như được mô tả nơi phúc âm theo thánh Gioan, chương 20, câu 11-18, như sau:


Bà Maria cứ đứng khóc bên mộ, vừa khóc vừa nghiêng mình nhìn vào trong mộ. Bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng, ngồi ở nơi đã táng xác Chúa, một thiên thần ở phía đầu, một thiên thần ở phía chân. Thiên thần hỏi: "Bà kia, sao khóc thế?" Bà đáp: "Người ta lấy mất Chúa tôi rồi và tôi không biết họ để đâu." Nói xong, bà quay lại đằng sau, thấy Chúa Giêsu đứng đấy nhưng bà không nhận ra. Chúa Giêsu hỏi: "Chị này sao khóc thế! Chị tìm ai?" Bà Maria tưởng đó là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu có phải ông đã đem Thầy tôi đi, thì xin ông cho biết ông để đâu, tôi sẽ đi lấy về." Chúa Giêsu gọi: "Maria!" Bà nhận ra Chúa và kêu lên bằng tiếng Hêbơrơ: "Rabôni" nghĩa là "Thầy!" Chúa Giêsu nói tiếp: "Con đừng giữ Thầy như vậy, vì Thầy chưa lên cùng Cha Thầy, con hãy đi báo tin cho anh em Thầy: Thầy lên với Cha Thầy cũng là Cha anh em, Thầy lên với Chúa Thầy cũng là Chúa anh em." Bà Maria Mađalêna vội đi báo tin cho các môn đệ biết bà đã xem thấy Chúa và Chúa đã nói với mình những lời đó.


Trong giây phút gặp gỡ đầu tiên, Maria không nhận ra Chúa Giêsu. Chúa phải có sáng kiến gọi Maria trước, để Maria được mở mắt nhận ra Chúa. Sự nhận ra Chúa này là một hồng ân của Chúa, chứ không do cố gắng trần tục của con người. Maria cần có sự hiểu biết, sự nhìn nhận này, để có thể chu toàn sứ mạng Chúa trao phó là: loan báo cho các tông đồ khác chưa tin, về việc Chúa đã phục sinh thật. Sự hiểu biết của người môn đệ, của mỗi người Kitô về Chúa Giêsu, cần phải được thanh luyện và triển nở cho đến giai đoạn cuối cùng nầy, giai đoạn nhìn nhận Chúa Phục Sinh, nhìn nhận cách thức mới mẻ của sự hiện diện và tác động của Chúa nơi chính mình và trong lịch sử con người.


Trong biến cố Phục Sinh, người môn đệ cảm nghiệm một sự hiện diện mới mẻ về Chúa Giêsu Kitô. Ðó chính thật là Chúa Giêsu trước biến cố Vượt Qua, nhưng trong một thực thể mới và một cách mới. Ðối lại, Chúa Phục Sinh cũng đã có một tương quan mới, một cái nhìn mới về các tông đồ, những kẻ Ngài đã chọn. Ngài đã gọi họ là "những người anh em", trong lời Chúa ra lệnh cho Maria: Hãy đi nói cho những anh em Thầy biết, Thầy về cùng Cha Thầy và cũng là Cha chúng con. Những tông đồ từ nay sống mối tương quan mới với Chúa Giêsu, mối tương quan là người anh em của Chúa, mối tương quan huynh đệ mật thiết, được xây dựng không phải trên nhục thể, máu huyết, cùng một gia đình, nhưng được xây dựng trên việc chia sẻ và sống Lời Chúa. Ðây là lúc hoàn thành tuyệt hảo lời nói của Chúa Giêsu trước đó trả lời cho câu hỏi: Ai là anh em Ta. Ðó là những kẻ nghe và sống Lời Ta nói ra đây. Lập lại từ ngữ này, gọi các tông đồ là anh em mình, dường như Chúa muốn nhắc lại cho các ngài nhớ rằng, từ nay, để ra đi làm tông đồ Chúa, các tông đồ hơn bao giờ hết phải lắng nghe và sống Lời Chúa. Kinh nghiệm Chúa Phục Sinh đã củng cố các tông đồ trong việc lắng nghe và sống Lời Chúa này, để có thể rao truyền cho kẻ khác.


Lạy Chúa, xin ban cho con ơn xác tín Chúa đã chết và đã sống lại thật, để đủ can đảm làm chứng cho Chúa. Amen.


_______________________

17. (Lc 24,13-32) : Với sức mạnh của Chúa Phục Sinh

Khi theo Chúa, người môn đệ cũng có những niềm hy vọng riêng tư của mình. Ðôi khi, vì là niềm hy vọng đó quá phàm trần nên không được thỏa mãn và tệ hơn nữa, đi nghịch lại với những mong ước, những mệnh lệnh, những niềm hy vọng của chính Chúa. Lúc đó, người môn đệ sẽ dễ dàng bỏ cuộc. Hơn bao giờ hết, chính lúc đó người môn đệ cần được chính Chúa Giêsu Phục Sinh soi sáng, giải thích và thêm sức mạnh, để có thể bắt đầu lại cuộc dấn thân tông đồ, sửa đổi lại những niềm hy vọng riêng tư sao cho được phù hợp với những niềm hy vọng của chính Chúa. Biến cố Chúa hiện ra để củng cố niềm tin và niềm hy vọng của hai môn đệ trên đường Eâmau, như được tường thuật nơi phúc âm theo thánh Luca chương 24, câu 13-32 có thể mang lại nhiều soi sáng cho những ai đang dấn bước theo Chúa:


Cũng ngày ấy, có hai môn đệ đi đường, định tới làng Eâmau, cách thành Giêrusalem sáu mươi dặm. Hai ông nói với nhau về các sự vừa xảy ra. Ðang lúc họ bàn cãi, Chúa Giêsu hiện đến và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ không sao mà nhận ra Chúa được. Chúa hỏi họ: "Các ông vừa đi vừa chuyện trò gì vậy? Sao các ông lại buồn bã thế?" Oâng Lêopha đáp: "Chỉ có một mình ông ở Giêrusalem là không biết câu chuyện vừa xảy ra trong mấy ngày này." Chúa hỏi: "Chuyện gì?" Hai ông trả lời: "Ðó là câu chuyện ông Giêsu Nazarét. Ông là một tiên tri, rất có uy tín về việc làm lẫn lời giảng dạy, đối với Thiên Chúa cũng như đối với dân chúng. Thế mà các trưởng tế và các lãnh tụ của chúng ta đã nộp Người, để Người bị án tử hình và bị đóng đinh vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi hy vọng Người sẽ cứu Israel, nhưng đến nay, các việc trên đã xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi. Mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, đã làm chúng tôi hoảng hốt. Họ đến viếng mộ từ sáng sớm. Họ không thấy xác Người, họ trở về cho chúng tôi hay là họ đã xem thấy thiên thần hiện ra nói với họ là Người đã sống lại. Mấy người trong chúng tôi cũng đi đến mộ, họ đã thấy mọi sự như các bà ấy nói song chính Người thì họ không thấy."


Bấy giờ, Chúa Giêsu bảo hai ông: "Hỡi những người kém tin, những tâm hồn chậm tin mọi điều các tiên tri đã nói. Há Ðấng Kitô không phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được hưởng vinh quang sao!" Rồi Chúa bắt đầu từ ông Maisen, lần lượt đến hết các tiên tri, mà giải thích cho hai ông các câu Kinh Thánh liên quan tới Ðấng Kitô. Khi tới gần làng hai ông định đến, Chúa có vẻ như muốn đi xa hơn. Nhưng các ông cố mời rằng: "Xin ông ở lại với chúng tôi vì đã chiều gần tối rồi." Chúa bằng lòng vào và ở lại với các ông. Khi ngồi ăn với các ông, Chúa cầm bánh, làm phép, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt hai ông liền mở ra và hai ông nhận ra Chúa. Nhưng Chúa biến đi. Lúc đó hai ông bảo nhau: "Lòng chúng ta đã chẳng nóng lên khi Người nói chuyện với ta và giải thích Kinh Thánh cho ta dọc đường đấy ư?"



Hai môn đệ rời Giêrusalem đi Eâmau? và dọc đường trao đổi với nhau về các biến cố đã xảy ra cho Chúa Giêsu? Ðây là một cuộc suy niệm, một cuộc "đọc lại" những biến cố cuộc đời của Chúa Giêsu, theo cái nhìn trần tục của họ, theo ánh sáng của những mong ước, những chờ đợi của họ. Họ đang chờ một Ðấng Cứu Thế uy hùng thiết lập lại Israel. Nhưng những gì đã xảy ra cho Chúa Giêsu, cái chết khổ nhục trên thập giá của Ngài, đã làm họ lung lay, muốn tách rời ra khỏi những kẻ đã quyết tâm theo Chúa? Việc hai môn đệ rời Giêrusalem có thể được hiểu như là một dấu chỉ cho thấy hai môn đệ đang gặp khủng hoảng muốn từ bỏ con đường mà họ đã dấn bước với Chúa Giêsu trong thời gian qua. Vì thế họ đang sống trong buồn phiền, thất vọng, cay đắng? Ðó là những ngày Chúa đã chết trong cuộc đời họ? Nhưng Chúa Giêsu Phục Sinh không từ bỏ ý định Ngài đã chọn họ? Chúa đến với họ, dù họ không biết gì? để giúp họ đọc lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa, không theo cái nhìn tự nhiên phàm trần nhưng theo cái nhìn của chính Chúa? Chúa giải thích Thánh Kinh và tâm hồn họ cảm thấy được hâm nóng trở lại? Và cuối cùng hai môn đệ được hướng dẫn đến việc nhìn ra Chúa Giêsu Phục Sinh, trong việc bẻ bánh, trong bí tích Thánh Thể, giây phút quan trọng, để giúp họ trở về Giêrusalem, trở về với ơn gọi, trở về với cuộc dấn thân ban đầu và sẵn sàng làm chứng cho Chúa: Quả thật, Ngài đã sống lại? Những gì đã xảy ra cho hai môn đệ trên đường Eâmau, có thể được lập lại nơi cuộc sống tông đồ của mỗi người chúng ta? Người môn đệ có thể gặp khủng hoảng, đặt lại vấn đề ơn gọi của mình, và bị cám dỗ nhìn về Chúa Giêsu, với cái nhìn phàm trần? Chính lúc đó, hơn bao giờ hết, môn đệ cần sự trợ giúp của Chúa Giêsu, để tìm lại ý nghĩa ban đầu, nhìn về Chúa Giêsu với cái nhìn của chính Chúa, suy niệm Lời Chúa, cử hành bí tích Thánh Thể, để có lại sức mạnh mới bắt đầu lại cuộc dấn thân của mình.


Thiên Chúa luôn trung thành, mặc cho những bất trung của kẻ Ngài chọn. Ngài luôn đến với người Ngài chọn, hiện diện bên cạnh, nhất là trong những khi gặp thử thách, để thêm sức mạnh dấn thân.


Lạy Chúa, xin giúp con vượt thắng những nghi ngờ; xin giải thoát con khỏi những cái nhìn phàm trần và ban sức mạnh mới cho con mỗi lần con gặp cám dỗ muốn rời xa Chúa. Xin ban cho con được trung thành với sứ mạng Chúa đã trao phó, cho đến cùng. Amen.


_______________________

18. (Mt 28,16-20) : Cao rao trên mái nhà

Sứ mạng của môn đệ được định nghĩa rõ ràng hơn sau kinh nghiệm Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Phục Sinh cho phép các tông đồ nhìn nhận Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy mình, Ðấng sai các ngài ra đi làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người. Biến cố cứu rỗi đã được hoàn tất. Giờ đây đến lúc các môn đệ phải ra đi cao rao "trên mái nhà" điều mà họ lãnh nhận nơi thanh vắng. Vào cuối phúc âm của mình, nơi chương 28, từ câu 16 đến 20, thánh Matthêu đã kể lại như sau:


Mười một môn đệ đến xứ Galilêa, lên núi mà Chúa đã chỉ cho trước. Họ được xem thấy Chúa, họ thờ lạy Chúa, song có mấy người còn hồ nghi. Chúa Giêsu phán rằng: "Ta được toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi giảng cho mọi dân, và hãy làm phép rửa cho họ: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hãy dạy họ các điều Ta đã truyền cho anh em. Phần Ta, Ta sẽ ở cùng anh em, mọi ngày cho đến tận thế."


Mọi quyền hành đã được trao ban cho Thầy? Chúa Giêsu lần cuối cùng xuất hiện trước mặt các tông đồ với trọn cả thực thể vinh quang của mình, là Chúa của vũ trụ, Ðấng bảo đảm cho sứ mạng của họ. Các tông đồ không còn phải lo sợ gì nữa, bởi vì Ðấng mà họ làm chứng cho không còn ẩn mình yếu đuối, qụy lụy con người nhưng là Ðấng toàn năng, là Chúa trời đất, là Ðấng có quyền đòi buộc con người phải tôn phục. Các tông đồ hơn ai hết đã hiểu được điều này nên khi diện kiến Chúa lần cuối cùng, họ quỳ xuống phủ phục thờ lạy Chúa?


Chúa truyền lệnh cho các tông đồ: "Chúng con hãy ra đi thu thập đồ đệ từ các dân nước, làm cho mọi người không trừ ai trở thành đồ đệ." Mệnh lệnh của Chúa xem ra như thôi thúc, phải thi hành ngay không còn chần chờ gì nữa. Nước Thiên Chúa đã đến và không ai còn có thể thờ ơ trước biến cố quan trọng đặc biệt này. Các con hãy ra đi? và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế? Trong khi thi hành sứ mạng, các tông đồ không bao giờ bị bỏ rơi một mình nhưng luôn có Chúa là Thầy mình ở bên cạnh. Các tông đồ ý thức rõ ràng rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn giáo hội qua Lời Ngài và những kỳ công Ngài thực hiện, nhờ qua trung gian họ. Chỉ với ý thức này mà các ngài - và những kẻ kế vị các ngài qua muôn thế hệ, - mới có đầy đủ sức mạnh vượt qua những thử thách, làm chứng cho Chúa, là Ðường là Sự Thật và là Sự Sống.


Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở về cùng Thiên Chúa Cha và đã trao phó sứ mạng lại cho mỗi người chúng con. Xin thương ban ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn mỗi người chúng con sống trọn ơn gọi của mình. Amen.