PHẦN II: GIÁO HỘI Ở TRONG NƯỚC TRỜI

Chúa Giải Tin Mừng Matthêu

Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

PHẦN II: GIÁO HỘI Ở TRONG NƯỚC TRỜI (Chương 16,13-28)

(Bài 30-36)

BÀI 30: LỜI TUYÊN XƯNG VÀ TỐI THƯỢNG QUYỀN CỦA PHÊRÔ 16,13-20

13Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai? " 14Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ." 15Đức Giê-su lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " 16Ông Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống." 17Đức Giê-su nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." 20Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô. 

------------------

– Trong phần Nhập đề (1-2) Mt đã giới thiệu mầu nhiệm Đức Giêsu.

– Trong phần I (3-16) Mt trình bày Đức Giêsu công bố Nước Trời và chuẩn bị GH. Ở cuối phần I này (tổng thể 3: các chương 13,1-16,12) Mt đã nêu lên ý tưởng là phải chọn lựa dứt khoát có gia nhập Nước Trời hay là không, và cho thấy có một một nhóm người đã chọn gia nhập Nước Trời và Đức Giêsu đã từng bước huấn luyện đức tin cho nhóm người này.

– Qua phần II (các chương 17-28) Mt sẽ trình bày GH như là bước đầu thực hiện cụ thể Nước Trời ấy.

– Nhưng trước khi trình bày GH đó, Mt thuật một câu chuyện trong đó Đức Giêsu quyết định “xây GH” (16,18). Đó là câu chuyện chúng ta sẽ học trong bài “chuyển tiếp này”.


c 13 “Bấy giờ Người hỏi các môn đồ”: Đây là lần đầu tiên trong Mt Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân của Ngài, và như thế tạo dịp cho Phêrô long trọng tuyên xưng tư cách Messia của Ngài. Câu hỏi này chính là cái bản lề quan trọng đánh dấu một bước ngoặc trong cách trình bày của Mt: trước đó đối tượng chính là Nước Trời, còn từ đây đối tượng chính sẽ là bản thân của Đấng Messia phải chịu khổ, chịu đóng đinh và chịu chết.

c 14 Câu trả lời của các môn đệ cho thấy những cảm nghĩ khác nhau của quần chúng về bản thân Đức Giêsu:

 – Gioan Tẩy Giả: Đây là cảm nghĩ của đám quần thần quanh Hêrôđê (x. 14,2).

 – Êlia: Nhiều người khác nhớ lời ngôn sứ Malakhi (Ml 4,5) nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiền hô cho Đấng Messia sẽ đến.

 – Gêrêmia: đây là điểm khác biệt giữa Mt với Mc và Lc là hai quyển Tin Mừng không nói tới tên Giêrêmia trong câu chuyện này (so sánh với Mc 8,28 và Lc 9,19). Hẳn khi ghi thêm tên vị ngôn sứ mang thân phận bị bắt bớ khổ đau, Mt một lần nữa nhấn mạnh Đức Giêsu là Người Tôi Tớ mà Is 42 đã tiên báo. Mt gợi ý rằng ngay trong quần chúng cũng có người đã nhận ra được điểm này. Tuy nhiên cả 3 nguồn dư luận trên đều chung nhau ở chỗ đều nghĩ Đức Giêsu là một ngôn sứ kiểu nào đó, nghĩa là dư luận chưa hiểu được đúng bản chất của Đức Giêsu. Ngài không phải là ngôn sứ theo nghĩa thông thường bởi vì ngôn sứ thì “từ dưới” (Ga 3,31) còn Ngài thì “từ trên” mà xuống; các ngôn sứ còn phải làm chng về Ngài (Cv 3,18). Trong quần chúng chẳng ai thấy được Ngài chính là Con Thiên Chúa hằng sống.

c 16 Điều mà quần chúng không thấy thì Phêrô thấy và tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng các nhà chú giải không nhất trí với nhau về ý nghĩa câu tuyên xưng này. Giả thuyết thứ nhất bảo Phêrô chỉ có ý tuyên xưng Đức Giêsu là Messia thế thôi. Giả thuyết thứ hai bảo Phêrô tuyên xưng chính thiên tính của Đức Giêsu. Giả thuyết nào cũng có nhiều lý do rất giá trị. Có lẽ ta nên theo giả thuyết thứ ba: Đối với Phêrô, ông cũng nghĩ Đức Giêsu là Messia, nhưng cũng có một cái gì đó cao siêu hơn tuy ông chưa hiểu rõ nét cao siêu ấy là gì; về sau GH đã đọc lại câu tuyên xưng ấy và GH gán cho nó ý nghĩa trọn vẹn đầy đủ về thiên tính của Đức Giêsu.

c 17 Lời tuyên xưng của Phêrô rõ ràng khác với các nguồn dư luận của quần chúng. Đức Giêsu cho rằng Phêrô tuyên xưng được như vậy là do mặc khải đặc biệt của Cha.

c 18 Lời tuyên xưng của Phêrô với tư cách đại diện cho các môn đệ đã khiến Đức Giêsu nhận định rằng nhóm 12 này chính là Phần Dư Tồn mà các ngôn sứ đã tiên báo. Do đó Ngài quyết định thành lập GH của mình trên cơ sở của phần Dư Tồn này.

 – Con là Đá: Nguyên ngữ Aram là képha có nghĩa là đá tảng chứ không phải là một viên đá vừa nhỏ vừa rời rạc có thể khiến đi đây đi đó.

 – Trong Thánh Kinh, đổi tên tức là tạo một liên hệ mới hẳn giữa người đổi tên và người được đổi tên (x. St 17,5.15  35,10; Ds 13,16; 2V 23,34  24,17)

 – Ta sẽ xây: Thì vị lai hình như nói tới thời kỳ sau khi Đức Giêsu chết và sống lại xong.

 – cửa âm ti: Âm ty tiếng hy lạp là Hades, tiếng hy bá lai là Sheol là nơi tạm giữ những kẻ chết cho tới ngày sống lại chứ không thể giữ họ lại mãi mãi được (Is 38,10; G 38,17; Tv 9,14; Kn 16,13).

c 19 Câu này rất quan trọng, ta sẽ bàn riêng ở phần dưới.

c 20 Lý do Đức Giêsu không cho môn đệ nói cho ai biết Ngài là Kitô là Đức Giêsu sợ cơn sốt nhiệt tình của quần chúng sẽ làm hỏng kế hoạch của Ngài, theo đó Ngài sẽ chỉ “lên ngôi” Messia sau khi đã chết và sống lại.


– Các giáo hội không công giáo (Chính Thống, Tin Lành) vì không nhìn nhận tối thượng quyền của Phêrô (và qua sự kế vị, là của các Giáo Hoàng) nên luôn tìm cách giải thích câu 19 này theo nghĩa hẹp. Theo họ, quyền chìa khóa Đức Giêsu chỉ ban riêng cho cá nhân ông Phêrô thôi, sau khi Phêrô chết thì mọi Giám mục cũng đều ngang quyền nhau vì cũng đều là kế vị tông đồ như nhau thôi.

– Nhưng GH Công giáo giải thích khác hơn:

 * Quyền chìa khóa này đành rằng được ban cho Phêrô, nhưng trong tương quan với GH mà Đức Giêsu sẽ lập (c 19 có tương quan với c 18)

 * Quyền này sẽ không mai một đi, vì “Cửa âm ti” (cửa sự chết) không làm hại nó được, cũng như cửa thần chết chẳng làm hại được sự trường tồn của GH.

Vì những lý do đó, GH Công giáo tin rằng Tối thượng quyền của Phêrô cũng được truyền lại cho những Giáo Hoàng kế vị Phêrô.


Qua đại diện Phêrô, các môn đệ đã nhận ra Đức Giêsu là một Messia siêu việt mà các ngôn sứ Cựu Ước đã tiên báo. Nhận định này khiến các ông tách khỏi đám người do thái cứng lòng tin và khiến Đức Giêsu nhận ra rằng các ông chính là phần Dư tồn là dự tiên báo. Do đó Đức Giêsu quyết định thành lập GH của Ngài trên cơ sở phần Dư tồn này và Ngài trao Tối thượng quyền cho Phêrô với tư cách là người lãnh đạo của GH.

 

BÀI 31: LẦN THỨ NHẤT LOAN BÁO THỤ NẠN (16,21-28)

21Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! " 23Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."

24Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

27"Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị."

------------------

c 21 – Từ khi ấy: đánh dấu một bước ngoặt: từ mặc khải về bản thân Đức Giêsu, chuyển mặc khải về Con Người thụ nạn; từ sự không hiểu và không tin của quần chúng chuyển sang sự không hiểu và không tin của chính các môn đệ (họ dù nhận Đức Giêsu là Messia nhưng không chấp nhận Ngài tử nạn). Như vậy kể từ đây có thêm một bước giáo dục thêm về đức tin. Đức Giêsu muốn môn đệ tin vào cuộc Thụ nạn.

– “Phải lên thành Giêrusalem, phải chịu đau khổ nhiều”: động từ hy lạp là dei (dịch sang tiếng pháp là il f’aut): đó là một sự bó buộc, nhưng không phải là bó buộc của một định mệnh phũ phàng, mà là bó buộc theo chương trình của Thiên Chúa. Nói cách rõ ràng hơn: Thiên Chúa muốn Đức Giêsu phải lên Giêrusalem để chịu nạn, và chính Đức Giêsu cũng ý thức mình phải thực hiện chương trình ấy của Thiên Chúa.

– “Đức Giêsu tỏ cho môn đồ biết”: so sánh câu song song trong Mc 8,31.

* Mc: Đức Giêsu bắt đầu dạy cho môn đồ biết (enseigner)

* Mt: Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho môn đồ biết (montrer)

Đây không phải chỉ đơn sơ là Đức Giêsu tiên báo cuộc thụ nạn, mà còn là chỉ cho các môn đệ hiểu ý nghĩa cuộc thụ nạn: nó cần thiết, nó có liên hệ với chương trình của Thiên Chúa (chương trình về Người Tôi Tớ đau khổ mà Is 53 đã nói từ xưa).

c 22 – “Chúa sẽ không phải thế bao giờ”: dịch cho đúng phải là “Điều ấy sẽ chẳng xảy đến cho thấy đâu”. Âm điệu giống như câu Satan nói với Evà dưới gốc cây cm ngày xưa “Các ngươi sẽ chẳng chết chóc gì đâu” (St 3,4-5)

c 23 Satan, hãy xéo đi: Lời quở trách quá nặng không phải Đức Giêsu lỡ lời, mà vì Ngài thấy Phêrô đang làm công cụ của Satan, hay đúng hơn Satan đang hiện thân trong Phêrô.

Ngươi làm cớ vấp phạm cho Ta: cần nhớ Đức Giêsu đã nghiêm khắc thế nào đối với tội làm cớ vấp phạm (18,6-9), ta mới thấy tại sao Đức Giêsu quở trách Phêrô nặng lời như vậy.

– So sánh với Mt 4,10: Ở đây Đức Giêsu quở trách Phêrô cùng những lời Ngài dùng để xua đuổi Satan ngày xưa cám dỗ Ngài. Ý nghĩa văn mạch 4,10 cũng soi sáng thêm ý nghĩa ở đây: trong cả hai trường hợp, Satan và Phêrô đu cám dỗ Đức Giêsu lạm dụng tư cách Messia để lo cho bản thân mình khỏi khổ và được sung sướng.

c 24-25 Chữ “mạng sống” có hai nghĩa: cuộc sống thể xác đời này và cuộc sống vĩnh cửu. Đức Giêsu dùng cả hai nghĩa đó nhưng mỗi vế một nghĩa, có thể dịch cho rõ như sau: Ai muốn cứu mạng sống thể xác của mình ở đời này thì sẽ đánh mất cuộc sống vĩnh cửu, nhưng ai chịu mất mạng sống đời này vì Ta thì sẽ tìm được mạng sống ấy.

c 26 – “sẽ tìm được cuộc sống vĩnh cửu”: hai chữ mạng sống trong c 26 cũng hiểu theo nghĩa mạng sống vĩnh cửu.

c 27 – Người môn đệ phải chọn cuộc sống tạm đời này hoặc cuộc sống vĩnh cửu. Lý do là sẽ có ngày Con Người vinh quang đến để thưởng phạt mỗi người về sự chọn lựa căn bản ấy.


1/ Trong Mt có 3 lần Đức Giêsu báo tin thụ nạn:

* 16,21 “Người phải lên thành Giêrusalem và phải chịu đau khổ nhiều do hang kỳ lão, thượng tế và thông giáo, rồi chịu người ta giết, nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại”.

* 17,22-23a “Con Người sắp bị nộp vào tay người thế và chịu người ta giết nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại”.

* 20,17-19 “Con Người sắp sửa bị nộp cho thượng tế và hàng thông giáo rồi bị án tử hình, và trao cho dân ngoại sỉ vả và đánh đòn rồi đóng đinh thập giá nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại”.

2/ Nhận xét: những lần sau thì báo tin càng rõ hơn lần đầu (lần một và hai chỉ nói”bị giết”, nhưng lần ba thì tả “bị lên án tử, bị sỉ vả, bị đánh đòn rồi bị đóng đinh).

Nhưng cả ba lần đều có nói tới “nhưng đến ngày thứ ba thì sẽ sống lại”

3/ Phản ứng của các môn đệ sau mỗi lần báo tin cũng khác.

* 16,22-23: Sau lần một, Phêrô cản.

* 17,23b: Sau lần hai, các môn đệ “buồn lắm”.

* 20,20-23: Sau lần ba, hai con của Dêbêđê dẫn mẹ tới vận động tìm chỗ trong chính phủ sắp tới của Đức Giêsu.

Nghĩa là ban đầu các môn đệ không chấp nhận, tiếp đó thì tuy không chấp nhận nhưng không cản mà chỉ buồn thôi, và sau cùng còn ham thích. Có tiến bộ, nhưng tiến bộ ngược với hướng Đức Giêsu muốn! Ban đầu tại sao phản đối? Vì muốn Messia thì phải sung sướng. Về sau tại sao ham thích? Vì muốn bản thân được vinh thân phì gia. Rõ ràng càng ngày các ông càng không hiểu chương trình của Thiên Chúa, mà chỉ “suy tưởng theo hướng loài người” (16,23).

4/ Phần Đức Giêsu thì ý thức rằng thụ nạn là điều cần thiết. là “phải làm” nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Hơn nữa, với những câu 24-27 Đức Giêsu còn muốn cho các môn đệ hiểu rằng con đường thụ nạn cũng chính là con đường của họ: Thầy và trò phải chia sẻ cùng một số phận như nhau.


1/ Ta cần so sánh lời quở mắng này với lời khen ngợi Đức Giêsu dành cho Phêrô ngay phía trước đó (16,17-18). Có sự tương phản rõ ràng đến từng nét:

* “Phúc cho con” (-) “Satan hãy xéo đi”.

* “Con là Đá” (-) “Ngươi làm cớ vấp phạm” (Pierre de fendement-Pierre d’achopement)

* “Không phải xác phàm đã tỏ cho con” (-) “Ngươi chỉ suy tưởng theo hướng loài người”.

2/ Với lối trình bày như thế, Mt (và các Tin Mừng khác cũng vậy) muốn nêu rõ sự tương phản giữa con người Phêrô với danh hiệu Đá Tảng mà Đức Giêsu đặt cho ông. Đây cũng là nền tảng giữa bản tính con người với quyền năng của ân sủng. Phêrô trở nên Đá Tảng xây dựng GH chẳng phải do bản tính con người của ông, mà hoàn toàn do quyền năng ơn Chúa.

3/ Chủ đề tính yếu đuối con người và ơn sủng được Mt khéo léo đưa vào ở c 17, nói rõ thêm ở c 18 và lập lại ở cc 22-23.

4/ Yếu đuối và ơn sủng trong con người Phêrô.

 

BÀI 32: BIẾN HÌNH (17,1-8 và 9)

1Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. 4Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." 5Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! " 6Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! " 8Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.

9Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy."

------------------

c 1 – Khỏi sáu ngày: tức là sau sự kiện được nói ở trước đó (16,28): Đức Giêsu hứa: “Có những kẻ đứng đây chưa chết trước khi thấy Con Người ngự đến làm Vua”. “Có những kẻ” tức là 3 môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ba ông đã được thấy trước vinh quang của Đức Giêsu. Về con số 6, có lẽ ám chỉ đến Lễ Lều bắt đầu 6 ngày sau Lễ Chuộc Tội. Lễ Chuộc Tội có màu sắc u buồn thì Lễ Lều có màu sắc vui tươi vì là mùa gặt hái.

Phêrô, Giacôbê và Gioan: ba ông này sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu hấp hối, cho nên hôm nay được chọn để chứng kiến cảnh vinh quang hẳn sau này khỏi vấp ngã. Việc Đức Giêsu chọn 3 người cũng có ý nghĩa luật pháp, vì Đnl 19,15 quy định phải có 3 hoặc 3 người làm chứng thì lời chứng ấy mới có giá trị. Ba ông này sẽ làm chứng về cuộc thụ nạn và về vinh quang của Đức Giêsu. Cần để ý thêm là ngày xưa Môsê lên núi Sinai có đem theo một số người, trong đó có 3 người được kẻ tên (Xh 24,9). Do đó chi tiết này còn ngụ ý Đức Giêsu là Môsê mới.

Một ngọn núi cao: chẳng cn tìm xem đó là núi gì, chỉ cần lưu ý tới biểu tượng “núi” mà Mt rất thích xử dụng để mô tả Đức Giêsu là Môsê mới đang lên núi Sinai mới.

– Thuật ngữ “trên một ngọn núi cao” chỉ được dùng hai lần trong Mt, lần kia là trong tường thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ (4,8). Chi tiết này cho thấy có liên hệ giữa chuyện Biến hình và chuyện cám dỗ. Thực vậy, cũng như khi trước Đức Giêsu đã gạt bỏ lời cám dỗ của Satan, thì mới đâu Ngài cũng vừa gạt bỏ lời cám dỗ của Phêrô (16,23). Để đáp lại thái độ tuân phục ý Cha của Đức Giêsu. Chúa Cha đã cho Ngài được biến hình vinh quang và hứa trước ngay từ bây giờ là Ngài sẽ được “Mọi quyền phép trên trời và dưới đất” (28,18) là điều sau khi phục sinh Ngài sẽ lãnh nhận, nhưng bây giờ thì Ngài cương quyết không nhận nó từ tay Satan (4,8).

c 2 – Ngài biến hình: Cũng như xưa kia Môsê khi nói chuyện với Thiên Chúa đã được biến hình (Xh 24,39) thì nay Môsê mới cũng biến hình. Và theo niềm hy vọng của sách Khải Huyền, khi tới ngày cánh chung thì những người công chính cũng được biến hình vinh quang (Đan 12,3). Hôm nay Đức Giêsu biến hình tức là niềm hy vọng ấy đã thành sự thật.

c 3 Môsê và Êlia: Có quan niệm xem Môsê là đại biểu của Luật, còn Êlia là đại biểu của Tiên tri. Mà Luật và Tiên tri là toàn thể Cựu Ước. Vậy sự hiện diện của Môsê và Êlia có nghĩa là Cựu Ước làm chứng cho Đức Giêsu.. Thế nhưng cũng có lối giải thích khác hợp lý hơn: Môsê là vị ngôn sứ tiêu biểu (Hs 12,14; Đnl 34,10). Còn Êlia là Tiền hô của Đấng Messia sẽ đến (Ml 3,23-24; Mt 17,10-11). Vậy thì Môsê có mặt là với tư cách một ngôn sứ đến chào kính Đấng Ngôn sứ đích thực, còn Êlia hiện diện là với tư cách của Tiền hô cho Đấng Messia. Hơn nữa hai nhân vật này đều đã từng lên núi Sinai để diện kiến Thiên Chúa. Vậy hôm nay hai ông diện kiến Đức Giêsu thì có nghĩa là thời gian đã hoàn tất và nay tới thời cánh chung.

c 4 – Cái lều: (a) Có lẽ chi tiết này ám chỉ đến Lễ Lều

(b) Trong Thánh kinh “lều” có nghĩa là nơi cư ngụ (Êd 37,27; Hs 12,10; Lc 16,9).

  Và theo Ga 1,14 khi tới thời cánh chung thì Thiên Chúa sẽ “cắm lều ở giữa chúng ta và chúng ta sẽ thấy vinh quang Ngài”. Như vậy Phêrô muốn dựng lều là vì ông nghĩ đã tới thời cánh chung và muốn an hưởng hạnh phúc thời cánh chung.

c 5 – Bỗng có đám mây rợp bóng trên họ:

a) Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho lời đề nghị của Phêrô. Lều hay đám mây đều để chở che cho kẻ ở dưới bóng chúng. Dựng lều là do tay người phàm, còn mây là do Thiên Chúa.

b) Động từ “rợp bóng” (episkiazô) chỉ được dùng hai lần trong Tân Ước, lần kia là trong Lc 1,35 khi nói về Thánh Thần “rợp bóng” trên Maria. Động từ này có nghĩa là Thiên Chúa muốn hiện diện ở nơi này.

c) Ngoài ra, đám mây “rợp bóng” không chỉ trên Đức Giêsu và hai nhân vật Cựu Ước, mà còn các môn đệ nữa. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn tập hợp cả dân Cựu Ước và dân Tân Ước thành một dân mới của Ngài.

 – Đây là chính Con lòng Ta ưu ái: Câu này mặc khải 3 điều quan trọng về Đức Giêsu:

a) Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa: Các sách Tin Mừng sử dụng tước hiệu “Con ưu ái” này với liên tưởng tới Tv 2,7 và đều hiểu về Chúa Con Tiền Hữu.

b) Đức Giêsu chính là Người Tôi Tớ đau khổ được tiên báo trong Is 42,1.

c) Đức Giêsu chính là Đấng ngôn sứ: khi tiếng từ trời bảo “hãy lắng nghe lời Ngài” tức là trích dẫn Đnl 18,15 nói về Đấng Ngôn sứ sẽ đến.

c 6 – Các ông ngã sấp mặt xuống: Đó là phản ứng của người phàm trước sự hiện diện của Thiên Chúa cao siêu (Xh 19,21  33,20; Lv 16,2; Ds 4,20; Is 6,5).

 – Đức Giêsu đụng tới các ông: cũng như xưa kia Thiên Chúa sai một thiên sứ gắp một hòn than đụng vào lưỡi Isaia để cứu ông “khỏi chết” và cho phép ông được liên hệ với Thiên Chúa cao siêu; cũng như lúc Đức Giêsu “đụng tới” đứa con gái ông Giairô đang chết để làm cho nó sống lại (9,25) thì ở đây Đức Giêsu cũng đụng tới các môn đệ để phục sinh họ.

c 9 – Đừng nói với ai: Đức Giêsu nói câu này để tránh một sự háo hức chính trị có thể khơi dậy trong dân khi họ biết quá sớm rằng Ngài là Messia. Ngài chỉ muốn cho quần chúng biết điều đó sau khi Ngài từ cõi chết sống lại


Đoạn Tin Mừng này rất đậm đặc biểu tượng Cựu Ước và rất phong phú ý nghĩa. Nói tóm gọn lại nó muốn chứng minh rằng niềm chờ mong của Israel đã được thành toàn. Môsê và Êlia đến chuẩn bị dân thành một cộng đoàn thánh. Đám mây đã thực hiện một cuộc tập hợp lớn (2M 2,7). Gương mặt sáng ngời của Con Người mà Đaniel tiên báo (Đn 7 và 10) đang ở trước mắt các môn đệ. Và các môn đệ là tượng trưng cho cộng đoàn thời cánh chung. Tóm lại tất cả những gì Cựu Ước chờ mong đều được thực thi.

Nhưng có một điểm mới là Đấng mà Cựu Ước mong chờ không phải từ trời xuống, nhưng chính trời cao “ngự xuống” trên Ngài. Ngài không nói, mà chính tiếng từ trời nói, nghĩa là kẻ mà từ nay chúng ta phải “nghe lời Ngài” không phải chỉ là Giavê, mà còn là Đấng đang biến hình trước mắt các môn đệ. Chính Ngài là Đấng mặc khải về Giavê, chính Ngài là Chúa.

 


BÀI 33: CÂU HỎI VỀ ÊLIA (17,9-13)

9Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy." 10Các môn đệ hỏi Người rằng: "Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước? " 11Người đáp: "Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." 13Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả. 

------------------

c 9 – Bí mật Messia một lần nữa được nhấn mạnh sau câu chuyện biến hình, có lẽ để trả lời thắc mắc của các Kitô hữu đầu tiên: Sau khi Đức Giêsu đã biến hình vinh quang như vậy, tại sao người ta đã không nhận ra Ngài?

c 10 – Ba ông đã giữ đúng lời Thầy căn dặn nhưng liên tưởng tới Êlia, một nhân vật mà người do thái tin rằng sẽ đến trước khi Đấng Messia đến. Dân tin như vậy vì dựa vào lời tiên tri trong Ml 3,23-24)

c 11-12 – Đức Giêsu cũng biết đến niềm tin tưởng này của dân.

 * Chỉnh đốn mọi sự: Theo Ml 3,23-24 Êlia sẽ “đem lòng các người cha quay về với con cái”, nghĩa là hòa giải con người với nhau.

 * Nhưng Ngài cho rằng không nên hiểu lời tiên tri đó theo nghĩa đen, vì nếu hiểu như thế thì không hợp với những lời tiên tri khác (của Is) về Người Tôi Tớ đau khổ,

 * Do đó Đức Giêsu đưa ra một giải thích khác về Êlia: đó chính là Gioan Tẩy Giả, kẻ đã đến trước Ngài để chuẩn bị lòng dân chúng (Gioan giảng về sự thống hối), kẻ cũng đã chịu nạn chịu chết. Cái chết của vị tiền hô báo trước cái chết của Đấng mà vị đó dọn đường.

c 13 – Khi đó 3 môn đệ đã hiểu rằng Ngài muốn nói về Gioan Tẩy Giả.

 

BÀI 34: CHỮA ĐỨA TRẺ ĐỘNG KINH (17,14-21)

14Khi thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giê-su 15và nói: "Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã xuống nước. 16Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được." 17Đức Giê-su đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi." 18Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.

19Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy? " 20Người nói với các ông: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. ( 21Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện)."

------------------

c 14 Chuyện xảy ra đang lúc Đức Giêsu và 3 môn đệ thân tín lên núi, ở đó Ngài biến hình. Có một đứa trẻ bị kinh phong được đem đến cho 9 môn đệ kia. Nhưng họ đã không trị được.

c 15 Cha đứa trẻ mô tả cho biết nó “bị kinh phong” và “bệnh tình nặng lắm” (nhiều khi ngã vào nước và vào lửa). Đó là một đứa trẻ bị quỷ câm nhập. Nhưng người ta cũng cho rằng nó bị quỷ câm nhập (c 18). Thời đó người ta cho rằng mọi bệnh tật đều do tà thần làm hại.

c 16 Các môn đệ của Đức Giêsu “không chữa được”. Lý do sẽ được Đức Giêsu giải thích phía sau.

c 17 “Ôi thế hệ cứng lòng tin”: Lời này Đức Giêsu nói về các môn đệ (lý do thứ nhất khiến họ không chữa được cho đứa bé), mà cũng nói về dân chúng, những kẻ đã từng bị các ngôn sứ kết án là cứng tin (Tv 94,7-9). Lời nói của Đức Giêsu tuy cứng cỏi khó nghe nhưng cũng là một lời kêu gọi môn đệ và dân chúng hãy tin vào Ngài.

c 18 Khi người ta nghe lời Đức Giêsu đưa đứa trẻ đến, Ngài chỉ cần quát mắng là quỷ liền xuất ra.

c 19 Đức Giêsu giải thích lý do khiến các môn đệ không thành công trong trường hợp này là các ông đã “kém tin” và “không ăn chay cầu nguyện”


 1/ Đức Giêsu là Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết.

 2/ Cần phải tuyệt đối tin vào Ngài.

 3/ Sự cầu nguyện và ăn chay là một phương thế để củng cố đức tin cũng như để có thể làm những việc phi thường.

 

BÀI 35: LẦN THỨ HAI LOAN BÁO CHỊU NẠN (17,22-23)

22Khi thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, 23họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy." Các môn đệ buồn phiền lắm. 

------------------

c 22a –“Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê”: Cảnh này diễn ra tại Galilê là nơi các môn đệ tụ họp lại lần cuối cùng trước khi đồng hành với lên Giêrusalem lần sau hết. Đây cũng chính là lộ trình “lên Giêrusalem” mà Lc thường nói tới một cách rõ ràng hơn. Hành trình của cuộc đời Đức Giêsu là “lên Giêrusalem” để chịu nạn chịu chết và sống lại.

c 22b-23 – Khi ấy Đức Giêsu báo tin cho các môn đệ biết Ngài sẽ chịu nạn chịu chết. Nội dung hầu như giống y lần thứ nhất (16,21), chỉ khác một chi tiết nhỏ là Ngài sắp bị nộp về tay “người đời” (lần thứ nhất: “chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư”).

 “Bị nộp”: Ai nộp? Sau này Tin Mừng sẽ viết rõ là Giuđa, các thượng tế và Philatô. Nhưng thể thụ động của động từ “nộp” cũng được hiểu lầm là chính Thiên Chúa. Như thế cuộc chịu nạn của Đức Giêsu không phải chủ yếu là do lòng xấu của con người, cũng không phải là do xui xẻo, mà nằm sẵn trong kế hoạch cứu độ của chính Thiên Chúa. Và Đức Giêsu “phải” thực hiện kế hoạch đó.

 – “Sống lại”: mặc dù sau những lời báo tin chịu nạn, Đức Giêsu có nói tới việc sống lại, nhưng chi tiết này các môn đệ hoàn toàn không quan tâm. Chứng tỏ các ông quá bàng hoàng vì ý tưởng một Đấng Messia mà có thể chịu nạn chịu chết.

 – Các môn đệ buồn bã đón nhận lời loan báo của Đức Giêsu: họ còn phải trải qua một hành trình dài mới hiểu được tầm nhìn của Thiên Chúa.

 

BÀI 36: NỘP THUẾ ĐỀN THỜ (17,24-27)

24Khi thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phê-rô: "Thầy các ông không nộp thuế sao? " 25Ông đáp: "Có chứ! " Ông về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: "Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài? " 26Ông Phê-rô đáp: "Thưa, người ngoài." Đức Giê-su liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn. 27Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh." 

------------------

c 24 – Mọi đàn ông do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là 2 đồng drachme, tương đương với giá của 2 ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ (sau khi Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy thì số tiền này được người Rôma dùng cho đền thờ thần Jupiter ở Rôma. Người ta bắt đầu thu thuế này vào quãng 15 ngày trước lễ Vượt Qua.

 – Vấn đề được nêu ra là Đức Giêsu có phải nộp thứ thuế này không. Vấn đề cũng có liên quan tới hoàn cảnh GH sơ khai: những người do thái sau khi trở thành Kitô hữu có còn phải nộp thuế cho Đền thờ Giêrusalem nữa không? Trong bối cảnh GH sơ khai, vai trò của Phêrô còn quan trọng hơn nữa: với tư cách là người chịu trách nhiệm về GH, ông phải đưa ra đường hướng cho các Kitô hữu theo.

c 25b-26 – Đức Giêsu trước hết đưa ra một định hướng nền tảng cho vấn đề, sau đó mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.

 – Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ ngôn: các bậc vua chúa thường không thu thuế con cái họ mà chỉ thu thuế các thần dân khác. “Vậy, con cái thì được min”: được miễn bởi vì chúng không phải nộp thù lao hay phải làm tạp dịch để được bố chúng xem chúng là con. Tương quan phụ tử phát sinh từ một sự nhưng mà không tương quan chủ tớ không hề có. Đức Giêsu đã kiên nhẫn dạy cho các môn đệ mình cư xử với Thiên Chúa như với người cha của họ là Đấng ngự trên trời và là Đấng luôn trung tín với con cái mình mà chẳng hề đòi buộc chúng phải nộp thuế (Claude Tassin)

c 27 – Một giải pháp thực tế “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ… anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh”.

 – Các Kitô hữu gốc do thái luôn tự do trong việc nộp thuế Đền thờ. Trước khi Đền thờ bị tiêu hủy, họ luôn chu toàn bổn phận nộp thuế để tránh gây hoang mang vô ích cho đồng bào mình, bởi vì nếu không nộp thuế thì họ sẽ khiến cho đám người kia có cảm tưởng họ đã ly khai khỏi dân Israel. Sai khi Đền thờ bị phá hủy, đức bác ái cũng đòi hỏi họ liên đới với cái thế giới do thái đang bị bó buộc nộp thuế cho Rôma.

TỔNG THỂ IV: NƯỚC TRỜI ĐƯỢC CHUYỂN TỪ DÂN DO THÁI SANG GIÁO HỘI (Chương 18-23)

(Bài 37-57)

Tổng thể này gồm hai phần:

– Diễn từ về nếp sống cộng đoàn (chương 18).

– Tường thuật: Từ Galilê tiến về Giêrusalem (19,23).

Riêng phần diễn từ, chúng ta sẽ học kỹ:

 – Việc anh em sửa lỗi cho nhau (18,15-20).

 – Thà cho kẻ phạm lỗi với ta (18,21-35).

 

BÀI 37: DIỄN TỪ VỀ GIÁO HỘI (18,1-35)

1Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? " 2Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông 3và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

4"Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.

Đừng làm cớ cho người ta sa ngã (Mc 9:42-48; Lc 17: 1-2)

5"Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. 6Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. 7Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã.

8"Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. 9Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục.

10"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 11Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất).

Con chiên lạc (Lc 15: 4-7)

12"Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? 13Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.

Sửa lỗi anh em

15"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

18"Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.

Hiệp lời cầu nguyện

19"Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."

Anh em tha thứ cho nhau (Lc 17: 3b-4)

21Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? " 22Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy."

Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót

23Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." 27Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao! " 29Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." 30Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? " 34Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."

------------------

Chương 18 đưa ra hai định hướng mà Đức Giêsu muốn GH phải theo:

1/ GH phải đặc biệt chú ý đến những kẻ bé mọn (cc 1-14).

2/ GH phải sống như một cộng đoàn huynh đệ luôn biết tha thứ cho nhau (cc 15-35).


Phần này gồm ba phần nhỏ: cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc 1-5); Đức Giêsu cảnh giác về gương mù (cc5-11); dụ ngôn con chiên lạc (cc 12-14).

ĐỐI THOẠI: AI LÀ NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT? (cc 1-4)

c 1 – “Lúc ấy các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”: không phải các môn đệ đặt vấn đề một cách chung theo lý thuyết, mà là các ông đang có ý tranh giành địa vị với nhau (Mc 9,34-35).

c 2-3Trước khi trả lời, Đức Giêsu gọi một em bé đến và đặt giữa các ông, như một dụ ngôn sống động. Tiếp đó Ngài bảo “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu”. Nên giống trẻ em không phải vì chúng ngây thơ vô tội hay một đức tính luân lý nào khác, nhưng ở chỗ chúng sống lệ thuộc vào người lớn. Trong Nước Trời, chính lòng tin làm cho người môn đệ gắn bó, lệ thuộc vào Đức Giêsu. Để được như vậy, cần phải hoán cải, tức là từ bỏ bản thân để đi theo Đức Giêsu. Giá trị, sự cao trọng thật của người môn đệ là ở chỗ đó. Lý tưởng, luật sống căn bản trong cộng đoàn là nên bé nhỏ như thế (CGKPV).

c 4 – Kẻ nào tự cho mình là bé mọn, không xem mình là vĩ đại, thì trước mắt Thiên Chúa cũng như trong Nước Ngài, kẻ ấy có một tầm quan trọng.

1/ CẢNH GIÁC VỀ GƯƠNG MÙ (cc 5-11)

c 5-7 – Sau khi đưa trẻ em ra làm lý tưởng sống, Đức Giêsu khuyên phải tôn trọng trẻ em vì danh Ngài. Ngài nhấn mạnh rằng dù một trẻ nhỏ cũng phải được tiếp đón, không được làm cớ cho nó sa ngã. Ở đây từ “trẻ em” có thể hiểu vừa theo nghĩa thông thường, vừa theo nghĩa bóng về bất cứ ai, trong một lãnh vực nào đó, được người ta đánh giá thấp, cách riêng trong lĩnh vực đức tin. Nghĩa là những tín hữu còn yếu kém về đạo lý. Tất cả đều phải được tôn trọng. Đó là vì danh Đức Giêsu. Đức Giêsu đồng hóa với những người nhỏ bé như thế để được tôn trọng.

 “Gây vấp phạm”: dịch sát chữ là đặt một tảng đá trên đường khiến người đi phải vấp té.

c 7-9 – Mặc dù sự xấu thì không thể nào tránh khỏi hết được, chúng ta vẫn có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc đạo đức của người khác.

c 811 – Cũng có thể hiểu “trẻ nhỏ” yếu đuối ấy chính là bản thân mỗi môn đệ. Mỗi người cũng phải tự bảo vệ mình khỏi mọi nguồn gốc gây vấp phạm. Bất cứ thứ gì có thể làm cho mình vấp phạm, dù đó là cái tay, cái chân hay con mắt của mình, thì mình cũng phải sẵn sàng từ bỏ. “Tay”, “chân”, “mắt” đó là những cơ quan để tiếp xúc. Vậy trong khi tiếp xúc, phải cẩn thận đừng làm gì hại đến đức tin non kém của mình cũng như của người khác. Chú ý :chặt tay, móc mắt…” chỉ là những hình ảnh cường điệu để nhấn mạnh điều muốn nói thôi, không nên hiểu theo nghĩa đen.

2/ DỤ NGÔN CON CHIÊN LẠC (cc 12-14)

c 12-14 Dụ ngôn nhỏ này dạy gì về cách Thiên Chúa đối xử với “những kẻ bé mọn”, được so sánh như “con chiên lạc”: Thiên Chúa không muốn một ai trong những kẻ bé mọn (ở đây nghĩa là các tín hữu) phải hư mất. Ngài trân trọng và quý chuộng từng người. Ngay cả những người lỡ lầm và tội lỗi (như con chiên lạc). Thiên Chúa cũng không nệ công đi tìm về cho bằng được.


1/ SỬA LỖI ANH EM (15-20)

c 15 – “Anh em”: Bài diễn từ về nếp sống cộng đoàn (chương 18) đặt cơ sở trên sự kiện là các Kitô hữu phải coi nhau là “anh em”. Thật vậy “anh em” không phải chỉ là những người cùng cha cùng mẹ với nhau, mà còn là những người cũng thuộc cộng đoàn tín ngưỡng với nhau. Đức Giêsu sẽ nói về sau rằng “tất cả chúng con là anh em nhau” (23,8). Bởi đó trong GH khởi thủy, các Kitô hữu quen gọi nhau là “anh em” (Cv 9,17  15,23  16,40; Rm 14,10; 1Cr 15,6; Cl 1,2).

 “Lỗi phạm” : chi tiết này chứng tỏ Đức Giêsu không ảo tưởng về nếp sống cộng đoàn của GH Ngài: không phải là luôn hoàn hảo đâu, vẫn còn có lỗi phạm. Vấn đề là: bản chất của lỗi phạm ấy thế nào; lỗi lớn hay lỗi công khai? Lỗi trực tiếp đến ta hay lỗi không trực tiếp hại ta? TOB cho rằng đây là lỗi công khai là lỗi nặng, lỗi này không nhất thiết phải đụng chạm trực tiếp tới ta (nếu Kitô hữu chỉ can thiệp khi người khác lỗi phạm trực tiếp tới mình thì không có tinh thần cộng đoàn. Ở đây đang bàn về tinh thần cộng đoàn). Bởi vậy lối dịch “phạm đến con” là không đúng.

 – Hãy đi sửa bảo: không nên hiểu là “đi xét doán” vì ở Mt 7,1-5 Đức Giêsu đã khuyên môn đệ đừng xét đoán ai. Động từ ở đây là “sửa bảo” có nghĩa là cố gắng sửa chữa trong tình bác ái để thu phục một người có lỗi. Nói cách khác, mục đích không phải để kết án mà là để thu phục.

 – “Được lợi”: không có nghĩa là đã thắng được một kẻ thù, cũng không có nghĩa là giữ được một người bạn cho ta, mà có nghĩa giáo hội: giữ được một phần tử giáo hội khỏi tách rời xa giáo hội.

c 16 – Đnl 19,15 “Theo miệng 2,3 nhân chứng thì việc mới vững”. Đức Giêsu trích dẫn câu này nhằm dạy ta kiên nhẫn và khôn ngoan: chớ vội một mình kết luận về lỗi người khác; nhờ có 2,3 người nữa thì cũng tránh được ý kiến chủ quan nhiều khi độc đoán.

c 17 “Trình với giáo hội”: không phải cho GH lên án, mà cho GH long trọng khuyên bảo một lần nữa kẻ có lỗi hay hối lỗi.

  “Kẻ ngoại hay người thu thuế”: Đức Giêsu không hề khinh chê hai hạng người này. Ngài đã từng khen đức tin của một người ngoại (Mt 8,10 15,28) đã từng ăn chung với những người thu thuế (9,11). Vậy những chữ “kẻ ngoại và thu thuế” Đức Giêsu dùng ở đây chỉ có nghĩa là những người mà Kitô hữu bất lực không hoán cải được, không còn trách nhiệm đối với họ nữa. Một người phạm lỗi mà ngoan cố không nghe lời thân tình của một người bạn, của một nhóm bạn, và của cả tập thể GH, thì không phải GH khai trừ người đó, nhưng chính người đó do tội và do sự ngoan cố của mình, đã tự lìa khỏi GH.

c 18 – Lý do giáo hội có nhiều tiếng nói sau cùng mang tính quyết định là vì GH đã được Đức Giêsu ban quyền “chìa khóa”. Vấn đề là quyền này được ban cho ai? Có người hiểu chữ “chúng con” ở đây là từng người trong GH.. Lối giải thích này đã bị công đồng Tridentinô lên án. Ở Mt 16,19 quyền chìa khóa được trao cho một mình Phêrô với tư cách thủ lãnh GH. Ở đây không phải Đức Giêsu lấy lại quyền ấy từ tay Phêrô để trao cho từng phần tử GH, những là trao cho tập thể GH trong tinh thần liên kết với vị thủ lãnh là người duy nhất nắm quyền chìa khóa.

c 19-20 – Những câu này xem ra bàn về một chuyện khác không ăn nhập gì với chuyện ở những câu trên. Nhưng thực ra có liên quan vì đều cùng chung tinh thần cộng đoàn: sửa lỗi nhau cùng trong tinh thần cộng đoàn, cầu nguyện cũng phải trong tinh thần cộng đoàn. Vì thế không nên hiểu chữ “hai người” theo nghĩa một nhóm nhỏ tách ra khỏi nhóm lớn mà được Chúa chúc lành.

Nhận định

Đoạn này soi sáng ý nghĩa của tội: tội không chỉ là một việc cá nhân ai làm nấy chịu, mà là việc của cộng đoàn; mọi phần tử trong cộng đoàn đều có trách nhiệm về tội của một người trong cộng đoàn, do đó đều phải cố gắng hoán cải để người có tội không vì tội đó mà bị xa cách khỏi cộng đoàn.

Đoạn này cũng cho ta một hình ảnh đẹp về GH: GH là một cộng đoàn “anh em” trong đó mọi phần tử đều liên kết nhau trong việc sửa lỗi nhau và trong lời cầu nguyện.

2/ ANH EM HÃY THA THỨ CHO NHAU (21-35)

Đoạn này liên hệ với đoạn trước vì cũng bàn về vấn đề tội lỗi. Nhưng khác nhau ở chỗ đoạn trước nói tới tội cách chung, còn đoạn này nói tới tội mà người khác phạm đến ta.

c 21 – Luật do thái cũng biết dạy tha thứ, nhưng đặt ra một giới hạn tối đa là 4 lần. Ở đây Phêrô đi xa hơn giới hạn đó và đề nghị con số 7 làn.

c 22 – Có nhiều thủ bản khác nhau: có bản là 77 lần, có bản là 70 lần 7. Nhưng những khác biệt đó không quan trọng, vì số 7 là số chỉ nhiều. Ý Đức Giêsu là tha mãi, tha không giới hạn.

 Nhưng Lc 17,3-4 đòi một điều kiện là “nếu nó ăn năn hối lỗi”. Lc thực tế hơn và bổ túc cho đoạn này của Mt, vì nếu tha mà không cần người ta hối lỗi thì chính việc tha trở thành một sự khuyến khích người ta cứ lỗi phạm nữa.

c 23 – “Nước Trời cũng giống như vua kia”: Ý nghĩa dụ ngôn không phải so sánh nước trời với nhà vua, mà so sánh nước trời với câu chuyện trong đó có liên quan tới nhà vua.

 “Tôi tớ”: không hẳn nô lệ, mà cũng có thể là các quan, vì các quan trong triều thường xưng mình là tôi tớ của nhà vua. Ở đây hiểu chữ “tôi tớ” là một vị quan nào đó thì đúng hơn.

c 24 –Số nợ của viên quan với vua là 10.000 talents. Theo Flavius Josephe thì một talents bằng 10.000 deniers. Cho nên 10.000 talents bằng tới 100.000 deniers, một số tiền lớn khủng khiếp (Flavius Josephe cho biết rằng số thuế thu được trong một tỉnh của đế quốc Rôma mỗi năm chỉ đạt được vài trăm talents).

c 26 – Viên qua kông xin tha nợ, chỉ dám xin cho thêm thời gian để kiếm tiền trả nợ.

c 27 – nhưng nhà vua ban hơn cả điều viên quan xin tha hết nợ. Lý do là vì “động lòng thương”.

c 28 – Số tiền người bạn nợ viên quan là 100 deniers. Nếu so với số tiền viên quan nợ nhà vua thì tỷ lệ là 1/1 triệu.

c 29 – Chú ý người bạn xin cùng những lời lẽ mà viên quan đã xin với vua. Thế nhưng kết quả thì khác hẳn!

c 33 – Chú ý chữ “như” Đức Giêsu muốn chúng ta cư xử với nhau theo gương Thiên Chúa cư xử với ta.


VẤN ĐỀ CỦA CÂU 35

 Đây là một lời khuyến khích, một lời hăm dọa, hay là một sự thật?

 Nhiều lần khác, Đức Giêsu cũng đã nói cùng một ý tưởng này:

– Khi dạy kinh Lạy Cha (6,12).

– Nhấn mạnh lại sau khi dạy kinh Lạy Cha (6,14-15).

– “Các con lấy đấu nào đong cho người ta thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu ấy đong lại cho các

 con” (7,2)

Như vậy đây không phải là một lời hăm dọa suông, mà là sự thật: Nếu ta không tha cho anh em thì sẽ không được Thiên Chúa tha cho ta. Đức công bình của Thiên Chúa đòi như vậy. Ý tưởng này khiến ta run sợ về các tội của ta, nếu ta không chịu tha cho anh em thì tất cả các tội của ta đều sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt chăng?

Tuy nhiên vẫn còn hy vọng, vì Thiên Chúa chưa thi hành đức công bình ấy ngay bây giờ. Ngài vẫn còn kiên nhẫn chờ ta biết thứ tha cho đến phút chót. Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng (13,24-30, 36-43) cho phép ta hy vọng như vậy.

Trong phần Tường thuật của Tổng thể IV, chúng ta sẽ học 7 bài

– Dụ ngôn về những thợ làm vườn nho (20,1-16a).

– Dụ ngôn về hai đứa con (21,28-32).

– Dụ ngôn về những thợ làm vườn nho sát nhân (21,33-43).

– Dụ ngôn về tiệc cưới (22,1-14).

– Thuế nộp cho Xêda (22,15-21).

– Giới răn trọng nhất (22,34-40).

– Ký lục và biệt phái giả hình (23,1-12).

 

BÀI 38: VẤN ĐỀ LY DỊ VÀ ĐỘC THÂN (19,1-12)

1Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan. 2Dân chúng lũ lượt đi theo Người, và Người đã chữa họ ở đó. 3Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? " 4Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ", 5và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt."  7Họ thưa với Người: "Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? " 8Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. 9Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình."

10Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn." 11Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu."

------------------

c 1 – “Miền Giuđê bên kia sông Giodan”: phía Đông sông Giodan, tức xứ Pêrê. Nơi có nhiều người lương.

c 3 – “Những người pharisêu đến gần Đức Giêsu để thử Ngài” vấn đề được họ đặt ra là sự ly dị. Khi đó có hai lập trường: lập trường của trường phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly dị một cách dễ dàng; lập trường của trường phái Shammai thì khắt khe hơn. Chỉ chấp nhận lý dọ trong rất ít trường hợp. Biệt phái biết vấn đề này gay go nên đem ra gài bẫy Đức Giêsu. Ngài trả lời thế nào cũng có thể bị kết án: hoặc quá rộng rãi hoặc quá hẹp.

 – “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”: hình thức câu hỏi phản ánh quan niệm do thái trọng nam khinh nữ chỉ cho phép người chồng bỏ vợ chứ không cho phép ngược lại.

C 4-6 – Trong Tin Mừng Mc, Đức Giêsu không hồ đồ đưa ý kiến trước. Nhưng mời họ xem lại Thánh Kinh. “Ông Môsê dạy thế nào?”. Còn trong Mt. Đức Giêsu trả lời ngay bằng cách trích hai đoạn trong sách Sáng Thế (St 1,27  2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được ly dị, bởi vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

c 7 – Những người pharisêu chưa chịu thua. Họ trích một câu trong Đnl 24,1, nội dung là cho phép ly dị với điều kiện phải viết chứng thư đưa cho người vơ bị ly dị.

c 8 – Đức Giêsu nhận định về câu Đnl đó: bản chất của nó không phải là lời thiết lập luật nhưng chỉ là lời cho phép chuẩn miễn trong hoàn cảnh người dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Thiên Chúa. Như thế trong quá khứ nếu có cho phép ly dị thì chỉ là chuẩn miễn thôi. Sự chuẩn miễn này không hủy bỏ được định chế hôn nhân.

c 9 – Rồi Ngài lập lại nguyên tắc hôn nhân bất khả phân ly: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.

 – Câu này rất gay go vì xem ra Đức Giêsu chấp nhận một trường hợp ly dị, là “hôn nhân bất hợp pháp”. Cụm từ này dịch bởi một từ trong nguyên bản là Porneia. Chính chữ Porneia này mới là điểm gay go, bởi vì tùy lối giải thích chữ này mà đưa đến những lập trường khác nhau.

 * Giải thích porneia là ngoại tình dẫn đến lập trường cho phép vợ chồng ly hôn nếu một trong hai người không còn chung tình nữa. Các giáo phái Tin lành và Chính thống theo lập trường này.

 * Bản dịch CGKPV đã giải thích porneia là “hôn nhân bất hợp pháp” (union illégitime: kết hợp phi pháp). Đây cũng là giải thích của Công giáo. Lv 18,6-18 kể ra những trường hợp gọi là kết hợp phi pháp (chú ý kiểu nói “lột trần chỗ kín” có nghĩa là giao hợp). Những cuộc kết hợp này tự bản chất đã là bất hợp pháp rồi cho nên đương nhiên hai người đó phải chấm dứt, phải chia ly nhau. GH Công giáo theo giải thích này, do đó Công giáo tuyệt đối không cho phép ly hôn. Còn những kiểu kết hôn phi pháp (Sách Lêvi kể ra những kiểu kết hợp giữa những người trong gia đình, bà con gần, bà con sui gia) thì GH Công giáo không nhìn nhận là hôn phối cho nên đương nhiên buộc đương sự phải chia ly.


c 10 – Những lời Đức Giêsu nói về hôn nhân bất khả ly khiến các môn đệ ngao ngán. Họ thưa “Nếu làm chống mà phải như thế đối với vợ thì đừng lấy vợ còn hơn”, nghĩa là thà sống độc thân.

c 1112 – Thực ra sự kiện sống độc thân có thể có những lý do khác nhau cho nên giá trị cũng khác nhau “Có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn; có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời”. Đức Giêsu đặc biệt nhắm đến hạng thứ ba. Đây là những người sống độc thân để trọn vẹn phục vụ Nước Trời. Lối sống này là hoàn toàn tự do tự nguyện và là một lý tưởng mà chỉ một số ít người được mời gọi sống theo. Họ chính là số ít những người mà “Ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu”.

 

BÀI 39: ĐỨC GIÊSU VÀ TRẺ EM (19,13-15)

13Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. 14Nhưng Đức Giê-su nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng." 15Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó. 

------------------

c 13: -“Trẻ em”: không phải là những em bé quá nhỏ.Theo nguyên ngữ hy lạp (paidion) thì đây là những trẻ em tuổi khoảng 7-14.

 “Để Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện”: nhiều lần người ta mang các bệnh nhân đến để được đụng chạm Ngài hầu được khỏi bệnh (Mc 3,10 5,25-28). Trường hợp này khác hơn, vì những đứa trẻ này không có bệnh. Vậy lý do người ta muốn Đức Giêsu đặt tay trên chúng và cầu nguyện chỉ vì mộ mến Ngài hoặc vì mong sao cho chúng cũng được một ơn lành nào đó.

 – “Nhưng các môn đệ la rầy chúng”: Đại từ ngôi thứ ba số nhiều này không rõ là chỉ các trẻ nhỏ hay cha mẹ chúng. Dù so cũng rõ là các môn đệ không đồng ý việc trẻ nhỏ đến gần Đức Giêsu. Đây cũng là thái độ chung của người do thái thời đó. Lý do là trẻ nhỏ ồn ào, nhất là trẻ nhỏ chưa thuộc Luật Môsê. Người ta coi rẻ chúng và xếp chúng vào số những người “sống ngoài Luật” như phụ nữ, nô lệ và ngoại kiều. Các môn đệ có thái độ “khai trừ” kẻ khác.

c 14 – Đức Giêsu không đồng ý với thái độ khai trừ đó. Ngài bảo: “Cứ để trẻ em đến với Thầy và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng”: Trẻ nhỏ (và những người giống như chúng được Người đề cao không phải vì chúng khờ dại hoặc yếu ớt mà vì 2 lý do: (1) Chúng bị xã hội “khai trừ”. Mà ai bị người đời khai trừ thì Thiên Chúa lại che chở; (2) Chúng ngoan ngoãn lệ thuộc và tín nhiệm người lớn (trẻ nhỏ dễ nghe, dễ vâng lời). Hai điểm này khiến chúng trở thành những “người nghèo” được Thiên Chúa ưu ái.

c 15 – Mà để tỏ lòng ưu ái với chúng. Đức Giêsu đã “đặt tay trên chúng “.

 – Tuy nhiên ngay sau đó Ngài “rời đi khỏi nơi đó”. Đây là động từ anachoreo (lánh đi), diễn tả tâm trạng khó chịu và không đồng ý của Đức Giêsu. Ngài không đồng ý thái độ khai trừ kẻ khác.

 

BÀI 40: NGƯỜI THANH NIÊM GIẦU (19,16-30)

16Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? " 17Đức Giê-su đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn." 18Người ấy hỏi: "Điều răn nào? " Đức Giê-su đáp: "Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." 20Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không? " 21Đức Giê-su đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." 22Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Người giàu có khó vào Nước Trời (Mc 10: 23-27; Lc 18: 24-27)

23Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. 24Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 25Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu? " 26Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."

Phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mc 10: 28 -31; Lc 18: 28 -30)

27Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? " 28Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.

30"Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."

------------------

c 16 – Xem kỹ câu hỏi của người thanh niên, ta thấy được cách suy nghĩ của anh

 a/ Anh nhấn mạnh tới điều tốt phải làm. Anh nghĩ rằng nếu làm đúng những điều tốt đó thì sẽ được hưởng sự sống đời đời. Đây cũng là suy nghĩ chung của những người pharisêu.

 b/ Anh nhắm đến “sự sống đời đời” còn Đức Giêsu nhắm đến “sự sống” (cuối câu 17: “Nấu anh muốn vào cõi sống”). Theo anh sự sống đời đời xem ra là:

* Kết quả của công lao làm được những việc lành (quan điểm này thể hiện trong câu anh hỏi “Tôi phải làm điều lành gì để được…”)

* Cũng là sự sống đời này nhưng kéo dài không bao giờ hết.

Khi dung thêm tĩnh từ “đời đời”, có lẽ người thanh niên này có quan niệm như vừa nói ở trên. Khi Đức Giêsu sửa lại thành “sự sống” thôi. Ngài cho thấy quan niệm của Ngài chú trọng đến sự sống đích thực, sự sống đích thực bắt đầu ở đời này và kéo dài sang đời sau. Nói cách khác, không phải là hai sự sống mà là một sự sống chia thành hai giai đoạn.

c 17 – Qua câu trả lời, Đức Giêsu tìm cách cho anh chú trọng tới một điểm khác. Anh đi tìm điều tốt, Ngài bảo anh chú ý tới Đấng tốt lành duy nhất là chính Thiên Chúa.

 – Sau đó Ngài đề cập đến các điều căn bản nhất trong đạo cũ là các điều răn, một phần để khích lệ anh, mặt khác cho anh hiểu rằng từ những điều căn bản đó, anh phải đi lên nữa mới tới được cõi sống thật (CGKPV).

c 19 – Khi anh hỏi “Điều răn nào?” Ngài trích bảng thứ hai trong hai bảng của Thập giới Xh 20,12-16 (Đnl 5,16-20) quy định những bổn phận đối với tha nhân.So sánh bảng liệt kê do Đức Giêsu đưa ra với phần thứ hai (7 điều sau) của bản văn 10 điều răn, ta thấy Đức Giêsu thêm “Ngươi phải yêu đồng loại như chính ngươi”. Câu thêm này tóm tắt tất cả 7 điều của bảng thứ hai. Đối với người bình thường, giữ bấy nhiêu thôi cũng tạm đủ để “được sự sống đời đời”.

c 20 – Khi nghe người thanh niên cho biết đã tuân giữ những điều ấy từ nhỏ. Đức Giêsu đề nghị anh tiến lên một bước cao hơn: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.

 * Bán của cải: không dính bén

 * Chia cho người nghèo: điều này được Đức Giêsu và GH đề cao (Cv 2,44  4,32-35)

 * Theo tôi: đây là điểm quan trọng nhất trong 3 điểm. Người do thái (và nhiều người thời nay) cho rằng giữ đạo là chỉ cần giữ đủ các điều luật. Đức Giêsu mời tiến thêm một bước quan trọng hơn nữa là theo Ngài.

c 22 – Nhưng người thanh niên đã không đáp lại lời mời gọi đó, vì anh còn tiếc của.

c 23 – Sau khi người thanh niên bỏ đi. Đức Giêsu tuyên bố “Người giàu có khó vào Nước Trời”. Tại sao người giàu có khó vào Nước Trời? Vì họ cậy dựa vào của cải (có thể đến độ làm nô lệ cho nó). Thái độ đó hoàn toàn ngược lại với thái độ “trở thành bé nhỏ” (cậy dựa vào Thiên Chúa) mà Đức Giêsu coi là quan trọng nhất để vào Nước Trời.

c 24 – Ngài còn dùng một hình ảnh để diễn tả cái khó đó.

 * Con lạc đà: một con vật to lớn. Lạc đà cũng là con vật có thể chở nhiều đồ đạc. Một hình ảnh rất khéo để so sánh với người giàu.

 * Lỗ kim: có người giải thích là cửa nhỏ dưới chân tường. Nhưng có lẽ Đức Giêsu muốn nói tới lỗ của cây kim thật, nghĩa là rất nhỏ.

 Tóm lại: Người giàu mà vào Nước Thiên Chúa là chuyện hầu như không thể.

c 25 – Bởi đó “các môn đệ sững sờ”: Thái độ này dễ hiểu, bởi vì người do thái quen nghĩ rằng giầu sang là một phước lành của Thiên Chúa. Họ lại than “Thế thì ai có thể được cứu?”.

c 26 – Đức Giêsu “nhìn thẳng vào các ông” để các ông lưu ý hơn tới bài dạy của Ngài: Điều loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được, như thế ơn cứu rỗi không phải là kết quả của sức cố gắng con người mà là một ơn Thiên Chúa cho không.

c 27 – Ý nghĩa câu nói của Phêrô: (1) Vào Nước Thiên Chúa khó như thế. Vậy việc chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy liệu có thể giúp chúng con vào được không? (2) Giàu thì khó vào Nước Trời, vậy bỏ của cải như chúng con thì vào được không?

c 1829 – Câu đáp của Đức Giêsu cho Phêrô biết là được. Nhưng ta nên chú ý thêm vài chi tiết:

 * Chẳng những họ được vào Nước Trời mà còn được thưởng gấp bội về những gì họ đã từ bỏ.

 * “Đến thời tái sinh”: theo ngôn ngữ khải huyền thì kiểu nói này có nghĩa thời tận thế sau cuộc chung thẩm. Nhưng ở đây có lẽ nó chỉ thời gian từ lúc Đức Giêsu đã sống lại, tức là thời gian của GH. Đến thời đó, họ sẽ được quyền lãnh đạo GH.

c 30 – Câu này là một “lời nói du ngoạn” của Đức Giêsu, nghĩa là ngày xưa Ngài nói nhưng các tác giả Tin mừng đã quên khung cảnh nói, do đó mỗi vị ghép nó vào một văn mạch khác nhau (Mt 19,30 20,16). Ý nghĩa nguyên thủy có lẽ là nói tới những người do thái (“những kẻ đầu tiên” được Thiên Chúa kêu gọi) và những Kitô hữu (“những kẻ rốt hết” vì được gọi vào giai đoạn chót). Khi Mt đặt nó vào đây thì nó có thể có nhiều ý nghĩa:

 a/ Đây là lời Đức Giêsu cảnh giác các tông đồ: họ là những người lãnh đạo dân Chúa, nhưng nếu không biết sống xứng đáng thì có thể trở thành những người rốt hết.

 b/ Nhận định về người thanh niên ấy: anh được Đức Giêsu ưu ái mời đi theo Ngài để vào Nước Trời. Nhưng anh đã từ chối cho nên anh mất phần.

 

BÀI 41: TIỀN LƯƠNG CHO THỢ VƯỚN NHO (20,1-16a)

1"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." 5Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? " 7Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! " 8Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." 9Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12"Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." 13Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? 14Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? " 16Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.) 

------------------

c 1 – “Về Nước Trời cũng giống như ông chủ kia” Thực ra dụ ngôn không so sánh Nước Trời với ông chủ, mà với cách cư xử của ông chủ.

 –“Công thợ mỗi ngày một đồng”: đây là đồng denier, tiền công nhật của một người thợ trung bình thời Đức Giêsu.

 – Cách tính giờ: Trên nguyên tắc ở do thái, một ngày bắt đầu từ lúc mặt trời lặn (6g chiều) và kết thúc lúc mặt trời mọc (6g sang). Nhưng khi tính giờ (từ đó tính tiền công thợ) thì người ta lại tính từ lúc mặt trời mọc (6g sang) trở đi. Như vây:

Giờ thứ ba tương đương với 9 giờ sáng bây giờ.

……… 6 ………………… 12 giờ trưa

………. 9…………………. 3 giờ chiều

……… 11…………………. 5 giờ chiều

c 12 Lời kêu trách của những người thợ làm nhiều giờ: Lý do là vừa làm lâu vừa “nắng nôi vất vả” (vì họ làm từ sáng, sang trưa nắng)

c 13 – “Này bạn”: 3 lần Mt dùng kiểu nói này (20,13  22.12  26,50) thì cả 3 lần người được gọi như thế đều là người có lỗi.

“Tôi có làm gì thiệt hại bạn đâu”: Mặc dù công lao các người thợ khác nhau nhưng tiền lương lại bằng nhau. Do đó đám thợ làm sớm cho là ông chủ bất công. Tuy nhiên, theo sự thỏa thuận lương công nhật là một denier thì ông chủ quả thật không bất công.

c 15 – “Mắt bạn ghen”: tiếng do thái nói ganh ghét là “mắt xấu”. Mt dùng kiểu nói này để chơi chữ cho thấy sự đối lập: “Hay mắt bạn xấu vì lòng tôi tốt”.

c 16 – Không ăn khớp với ý nghĩa dụ ngôn: dụ ngôn không nhắm vào chi tiết người thợ được mời cuối cùng được lãnh lương trước tiên, mà nhắm vào ý tưởng: Thiên Chúa ban ơn không theo công lao mà tùy lòng tốt của Ngài. Do vậy nhiều nguyện viên cho rằng đây là một câu được thêm vào sau.


1/ Văn chương rabbi do thái có một dụ ngôn như sau: một ông vua mướn nhiều người làm việc, trong số đó có một người làm việc rất chăm chỉ. Nhà vua rất thích anh này nên mời anh cùng Ngài đi dạo suốt ngày. Tới chiều vua gọi tất cả các thợ đến trả lương. Bắt đầu từ anh đã cùng Ngài đi dạo, anh được một đồng denier. Những thợ kia tưởng mình sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng rồi cũng chỉ được một đồng. Họ lẩm bẩm kêu trách. Nhà vua giải thích: anh này tuy làm ít giờ những làm được nhiều việc bằng một người khác làm suốt ngày.

2/ Đức Giêsu chắc chắn có biết dụ ngôn trên. Nhưng Ngài đã sửa lại chi tiết chót. Lời giải thích cho thấy quan điểm của Đức Giêsu và của các Rabbi khác nhau.

* Lời giải thích của nhà vua: Thiên Chúa ban ơn tùy theo hiệu năng, tùy theo công nghiệp của chúng ta.

* Lời giải thích của ông chủ: Thiên Chúa không ban ơn theo công nghiệp mà hoàn toàn tùy lòng tốt của Chúa.

Như vậy, khi chúng ta làm được những việc tốt thì đừng coi rằng đó là công lao của mình và đừng đòi hỏi Thiên Chúa phải trả công. Hãy phó thác tất cả vào lòng tốt của Chúa.


Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan tính toán theo lẽ công bình. Bởi vì thực ra nếu tính theo công bình sòng phẳng thì con người một đàng sẽ không đáng được Thiên Chúa ban ơn bao nhiêu, đàng khác phải bị Thiên Chúa phạt rất nhiều: “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người phải là tương quan ân sủng, cũng hơi giống ý nghĩa của dụ ngôn “con nợ bất nhân” (18,23-35). Đây chính là điểm khác biệt giữa giáo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của các rabbi do thái, và cũng là điều Đức Giêsu muốn cho các môn đệ Ngài đừng giống như những rabbi và biệt phái.


BÀI 42: TIÊN BÁO THƯƠNG KHÓ LẦN BA – BÀ DÊBÊĐÊ (20,17-28)

17Lúc sắp lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường, Người nói với các ông: 18"Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, 19sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy."

Bà mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê (Mc 10:35-40)

20Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. 21Người hỏi bà: "Bà muốn gì? " Bà thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy." 22Đức Giê-su bảo: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không? " Họ đáp: "Thưa uống nổi." 23Đức Giê-su bảo: "Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được."

Ai làm lớn phải phục vụ (Mc 10:40-45)

24Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. 25Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 26Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. 27Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. 28Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."

------------------

So với hai lần loan báo trước (16,21 và 17,22-23), lần loan báo thứ ba này có nhiều chi tiết hơn nên cũng rõ hơn. Đây ta hãy so sánh:

1/ “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ lão, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

2/ “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài và ngày thứ ba Ngài sẽ chỗi dậy”.

3/ “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình Ngài, sẽ nộp Ngài cho dân ngoại nhạo bang, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba Ngài sẽ chỗi dậy”.

Chi tiết rõ hơn cả là nói lên chính xác sự độc ác cũng như nêu rõ trách nhiệm của cả nhà cầm quyền do thái lẫn dân ngoại. Điều này có nghĩa là toàn thể nhân loại, do thái lẫn dân ngoại, đều có trách nhiệm trong việc chối từ Đức Giêsu và lên án xử tử Ngài.


20-21 – Hai người con của ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan. Trong Mc, chính hai ông này đưa ra lời thỉnh nguyện (Mc 10,35-40). Còn Mt thì muốn giảm nhẹ lỗi lầm của họ nên viết rằng mẹ của hai ông đưa ra lời thỉnh nguyện ấy.

 – Lời thính nguyện là hai người này được “Một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong Nước Thầy”: Đây không phải chỉ là những chỗ danh dự mà là thực sự thông chia quyền cai trị.

c 22 – Trước khi trả lời, Đức Giêsu nhận xét “Các ngươi không biết các ngươi xin gì”. Đúng vậy, ba mẹ con này tưởng “Nước” của Thiên Chúa cũng giống như mọi nước trên trần gian, trong đó có địa vị và quyền lợi. Họ muốn những chỗ ngồi hai bên tả hữu của Đức Giêsu nghĩa là muốn hai địa vị ưu tiên trong nước đó.

 – Rồi Đức Giêsu hỏi lại: “Các ngươi có uổng nổi chén Thầy sắp uống không?”. “Chén”: Biểu tượng của đau khổ (Tv 75,9; Is31,17-22). Chính Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu đã thốt lên “Xin cho con khỏi uống chén này” (14,36).

c 23 – Đức Giêsu hỏi hai ông có thể chịu những đau khổ và sự chết của Ngài không. Hai ông đáp bừa là có thể. Ngài hứa sẽ cho hai ông thông chia những điều đó. Thực tế sau này Gicôbê đã chịu tử đạo vào khoảng năm 44 (Cv 12,1-2); còn Gioan theo thánh truyền thì chịu bắt bớ rất đau khổ.

c 24 “Mười môn đệ kia tức tối”: có thể thấy hai ông này xin quá đáng, và cũng có thể vì ganh ghét.

c 25 – Khi ấy Đức Giêsu gọi tất cả lại để giáo dục, trước tiên Ngài nói tới cách cư xử của các thủ lãnh thế gian (cụ thể là các quan chức của đế quốc Rôma). Họ hay lộng quyền và đọc tài.

2627 – Phần các môn đệ Đức Giêsu, những lãnh tụ tương lai của GH thì phải cư xử khác hẳn. Ngài dùng một từ rất đặc biệt là “đầy tớ”: đây là hạng người thấp hèn nhất trong xã hội. Những lãnh tụ GH phải sẵn sàng phục vụ người ta trong tư thế hèn hạ nhất.

c 28 – Và Đức Giêsu đưa gương của chính Ngài: hiến cả mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.

 * Giá chuộc: đưa một cái gì có giá trị ra để thay thế cho điều mình muốn cứu thoát.

 * Muôn người: Kiểu nói muôn người ám chỉ đến Is 53,10-11 về cái chết của Người Tôi Tớ Thiên Chúa thay cho tất cả mọi người khác. Đức Giêsu muốn cứu không riêng một ai hay một nhóm người hoặc một dân tộc nào mà là tất cả mọi người.

 

BÀI 43: HAI NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ (20,29-34)

29Khi Đức Giê-su và môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người. 30Và kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi ngang qua đó, liền kêu lên rằng: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! " 31Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa: "Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi! " 32Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và nói: "Các anh muốn tôi làm gì cho các anh? " 33Họ thưa: "Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra! " 34Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người. 

------------------

c 29 – “Ra khỏi thành Giêricô”: nghĩa là Đức Giêsu và các môn đệ sắp đến Giêrusalem.

 “Đám đông dân chúng lũ lượt đi theo Ngài”: có rất đông người tháp tùng Đức Giêsu trên lộ trình lên Giêrusalem.

c 30 – “Có hai người mù”: Mc chỉ nói có một người, còn Mt thì nói có hai. Những người mù bị coi là ở bên lề xã hội. Bởi thế Mt nói họ “ngồi ở vệ đường”, hình ảnh làm nổi bật thân phận bị loại ra rìa xã hội.

 Nhưng những con người bị loại ra rìa xã hội này là một người đang tìm kiếm. Bởi đó khi nghe tin có Đức Giêsu đi ngang qua thì họ liền kêu cứu.

 – “Lạy Ngài, lạy Con Vua Đavít”: Tước hiệu bình dân của Đấng Messia, dựa theo lời của ngôn sứ Natan (2Sm 7,1-17). Điểm đáng lưu ý là hai người này tuy mù nhưng đã “thấy” rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà ngôn sứ Natan tiên báo. Như thế lời kêu cứu của anh cũng là một lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ.

c 31 Thế nhưng những người theo Đức Giêsu lại “quát nạt họ, bảo họ im đi”. Tại sao? Vì theo suy nghĩ thường tình, những kẻ ở ngoài rìa xã hội như hai người mù này không được phép quấy rầy một nhân vật quan trọng như Đức Giêsu, huống chi Ngài lại đang bận rộn với cuộc hành trình.

 – “Nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa”: thái độ khai trừ của đám đông không làm họ nản long.

c 32 – “Đức Giêsu dừng lại, gọi họ đến”: cũng như lúc trước Ngài cho gọi những trẻ nhỏ bị xua đuổi đến nay, nay Ngài cũng gọi những kẻ ở ngoài rìa xã hội đến với Ngài.

 – Ngài hỏi: “Các anh muốn tôi làm gì cho các anh”: Câu hỏi này có vẻ thừa, vì Ngài đã biết họ muốn sang mắt. Tuy nhiên Ngài hỏi để họ có dịp bày tỏ đức tin và ước muốn tự do của họ.

c 33 – Và họ đã bày tỏ: “Xin cho mắt chúng tôi được mở ra”.

c 34 – Đáp lại đức tin và ước muốn đó. Đức Giêsu đưa tay sờ vào mắt họ và lập tức họ thấy lại.

 “và đi theo Ngài”: “đi theo” cũng là một động từ tả thái độ của người môn đệ. Hai người này sau khi đã “thấy”, nhất là thấy Đức Giêsu, thì đi theo làm môn đệ Ngài, đặc biệt là đi theo hành trình lên Giêrusalem.

 

BÀI 44: VÀO THÀNH GIÊRUSALEM (21,1-11)

1Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ và 2bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. 3Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay." 4Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: 5"Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.

6Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. 7Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên. 8Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.

10Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: "Ông này là ai vậy? " 11Dân chúng trả lời: "Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy."

------------------

1/ CHUẨN BỊ (1-7)

c 1 –“Làng Bếtphagê phía núi Ôliu”: có một truyền thuyết rằng chính Thiên Chúa và Đấng Messia của Ngài sẽ theo lộ trình này để đến phán xét dân Ngài: “Trong ngày ấy, chân Ngài sẽ đặt lên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem về phía Tây” (Dcr 14,4).

c 2 – Đức Giêsu coi cuộc vào thành có tầm quan trọng nên đứng ra thu xếp mọi chi tiết. Chuyện này cũng giống việc chuẩn bị Bữa Tiệc Ly (26,17-19). Trong cả 2 việc, Đức Giêsu muốn thu xếp mọi chi tiết theo ý Ngài, vì đó là những việc quan trọng có tính cách thần thiêng. Việc Ngài tự mình chuẩn bị tất cả cũng có nghĩa là Ngài biết trước mọi việc và do đó Ngài đi vào cuộc chịu nạn một cách hoàn toàn tự nguyện.

 – Trước hết là sai 2 môn đệ vào thành để tìm một con lừa mẹ và lừa con của nó, 6 quyển Tin Mừng kia chỉ nói tới con lừa con; còn Mt thì nói tới 2 con lừa. Lý do là muốn chứng tỏ Đức Giêsu làm ứng nghiệm cách hoàn toàn lời tiên tri Dcr 9,9 mà ông sắp trích dẫn phía sau: “Ngồi trên lưng lừa con, là con của con vật chở đồ”.

 – Lừa là gia súc quen thuộc giúp người ta làm việc. Trong Thánh Kinh nó còn là vật cưỡi của các vua Israel (IV 32-35). Khi chon vật cưỡi là con lừa, Đức Giêsu thực hiện lời tiên tri Dacaria 9,9-10.

c 3 – “Chúa”: Tước hiệu vinh quang.

c 7 – Nếu ta cố gắng hình dung thì thấy cảnh này không thể thực hiện được: làm sao Đức Giêsu có thể cưỡi một lúc trên 2 con lừa! Nhưng ta có thể thông cảm cho Mt vì ông quá chú ý chứng minh Đức Giêsu thực hiện chính xác lời tiên tri Dacaria, cho nên đã không để ý tới điểm trục trặc này.

2/ CUỘC RƯỚC (8-9)

c 8-9 Những chi tiết của hai câu này giống với lễ nghi đăng quang của một vị vua:

 – Dân cũng trải áo lót đường(trường hợp của Giêhu trong 2V 9,12-13)

 – Mọi người vừa rước Ngài vào thành vừa vẫy cành lá và tung hô (Lv 23,39-40).

 – Vẫy cành lá: Giống như trong Lễ Lều.

 – Ngoài ra những lời tung hộ được trích từ Tv 118 vốn được hát trong dịp Lễ Lều.

 – Đức Giêsu được gọi là “Đấng ngự đến” theo Tv 118,2 nói về Đấng Messia.

 – Lại còn tước hiệu “Con Vua Đavít” cũng mang ý nghĩa Messia (2Sm 7,12-16).

 – Và lời tung hô sau cùng “Hoan hô trên các tầng trời” ý nghĩa chẳng khác gì “Hoan hô Thiên Chúa”.

3/ NHẬP THÀNH (10-11)

10 – “Cả thành náo động”: Tương phản với sự nồng nhiệt của đám đông dân chúng, dân thành Giêrusalem “náo động” (x. chữ Seismos). Quang cảnh Đức Giêsu vào thành thay vì dẫn họ tới đức tin thì lại khiến họ giao động. Có một cuộc chiến đang diễn ra trong lòng họ.

  “Họ hỏi nhau: ông này là ai vậy”: họ quen coi thường Đức Giêsu, cùng lắm Ngài chỉ là một ngôn sứ nhỏ xuất thân từ thành Nadarét không nổi tiếng.

11 – Nhưng đám đông rước Ngài khẳng định Ngài là một Ngôn sứ đích thực.

 – Như thế Mt gọi ý sắp có cuộc chạm trán tại thành này giữa Đức Giêsu và những kẻ không tin Ngài.

 

BÀI 45: ĐỨC GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ (21,12-17)

12Đức Giê-su vào Đền Thờ, đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. 13Rồi Người bảo họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp." 14Có những kẻ mù loà, què quặt đến với Người trong Đền Thờ, và Người đã chữa họ lành. 15Nhưng các thượng tế và kinh sư thấy những việc lạ lùng Người đã làm và thấy lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: "Hoan hô Con vua Đa-vít! ", thì tức tối 16và nói với Người rằng: "Ông có nghe chúng nói gì không? " Đức Giê-su đáp: "Có; nhưng còn lời này, các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen? " 17Rồi Người bỏ họ mà ra khỏi thành, đến Bê-ta-ni-a và qua đêm tại đó. 

------------------

c 12: HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỨC GIÊSU

  “Đức Giêsu vào Đền thờ”: Thực ra Ngài chỉ vào tới tiền đình Đến thờ thôi. Đền thờ Giêrusalem được kiến trúc với nhiều sự ngăn cách: gian cực thánh chỉ cho Thượng tế vào mỗi năm một lần, gian thánh cho các tư tế, tiền đình dành cho nam tín hữu do thái, tiền đình dành cho nữ tín hữu do thái và tiền đình dành cho người ngoai. Đặc biệt người ngoại không bao giờ được phép vượt quá ranh giới dành cho họ. Cuộc khai quật năm 1935 đã tìm thấy một bảng ghi bằng chữ hy lạp và la tinh rằng: “Cấm không cho người ngoại quốc nào vào phần trong bao quanh đền thánh. Ai vi phạm sẽ bị chết”.

 – “Những người đang mua bán trong Đền thờ”: tức là trong tiền đình dân ngoại. Việc buôn bán này cũng cần thiết vì phục vụ cho các lễ nghi: buôn bán các con vật làm lễ tế. Và khi muốn mua những lễ vật đó thì phải mua bằng tiền do Đền thờ phát hành chứ không bằng tiền khác vốn bị coi là ô uế. Mà khách lên Đền thờ thì khắp nơi xài đủ loại tiền khác nhau.

 – Đức Giêsu đã đuổi chẳng những người bán mà cả người mua, lật đổ bàn ghế của họ.

c 13 GIẢI NGHĨA HÀNH ĐỘNG ẤY

 – Chính Đức Giêsu đưa ra lời giải nghĩa. Phần đầu câu Ngài nói là Is 56,7 nói rằng Thiên Chúa muốn cho nhà của Ngài thành nơi cầu nguyện. Phần thứ hai trich Gr 7,1-11 theo đó dân Israel sống một cuộc sống như trộm cướp với biết bao tội bất công bóc lột nhau, thế nhưng họ tưởng là việc họ siêng năng thực hiện các nghi lễ ở Đền thờ thì bảo đảm ơn cứu độ của họ.

 – Như thế, điều Ngài muốn phá bỏ là thứ đạo vụ hình thức và lễ nghi của dân do thái.

14-17 PHẢN ỨNG

 – “Có những kẻ mù lòa què quặt đến với Ngài trong Đền thờ và Ngài đã chữa họ lành”;

 “Lũ trẻ reo hò trong Đền thờ: Hoan hô Con Vua Đavít”: Đây là phản ứng của quần chúng. Theo 2Sm 5,8 và Lv 21,18 thì những người mù lòa và què quặt bị cấm không cho vào Đền thờ. Còn ở đây, Đức Giêsu lại đón tiếp họ và còn chữa lành cho họ nữa. Như thế Ngài làm trọn lời tiên tri Is 35,5-6. Điều này khiến dân chúng rất phấn khởi. Sự phấn khởi được biểu lộ qua tiếng reo hò của các trẻ em “Hoan hô Con Vua Đavít”.

 – Còn các thượng tế và kinh sư thì bất bình. Nhưng họ chưa làm gì Ngài được.

 

BÀI 46: CÂY VẢ KHÔNG TRÁI (21,18-22)

18Sáng sớm, khi trở vào thành, Người cảm thấy đói. 19Trông thấy cây vả ở bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: "Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa! " Cây vả chết khô ngay lập tức. 20Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: "Sao cây vả lại chết khô ngay lập tức như thế? " 21Đức Giê-su trả lời: "Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển! ", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. 22Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được." 

------------------

18-19 Trong Thánh Kinh, cây vả (hoặc cây nho) là hình ảnh chỉ dân Israel. Dân này từ sau lưu đày đã hồi sinh dần dần như cây vả giữa mùa xuân. Nhưng bên trong cái vẻ huy hoàng tráng lệ (đền thờ Giêrusalem) là sự trống rỗng vì không có lòng tin khi được Chúa thăm viếng. Cây vả tự nhiên không thể có trái ngoài mùa vả (Mc 11,12-14 nói rõ lúc này không phải mùa vả); nhưng Israel (hay bất cứ con người nào) không thể nói rằng lúc này đây không phải là lúc ăn năn sám hối (tin) (CGKPV)

20 Đức Giêsu làm một việc xem ra nghịch lý. Thế nhưng các môn đệ không thắc mắc gì về chuyện Đức Giêsu tìm trái vả trái mùa. Họ chỉ ngạc nhiên về hiệu năng của Lời Chúa. Đó là vì đối với người do thái, cây vả chết cái chết Thiên Chúa muốn thì không có gì là nghịch lý. Chỉ có con người không sẵn trái của lòng sám hối khi Chúa đến mới là nghịch lý. Nhất là với Israel đã được vun trồng chăm sóc từ bao thế kỷ (CGKPV)

21-22 Hình ảnh quả núi: Theo Xôphônia (Xp 14,4) khi Thiên Chúa đến can thiệp thì các quả núi sẽ rung chuyển. Đức Giêsu dùng lại hình ảnh này nhằm nói với các môn đệ rằng họ cần phải gia tăng lòng tin. Khi đó họ có thể lay chuyển các ngọn núi đáng sợ này, cũng như tự bảo vệ mình khỏi hiểm nguy sẽ đến trong ngày đó.

 

BÀI 47: CHẤT VẤT VỀ QUYỀN (21,23-27)

23Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy? " 24Đức Giê-su đáp: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta? " Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy? " 26Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ." 27Họ mới trả lời Đức Giê-su: "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy." 

------------------

c 23 – “Đức Giêsu vào Đền thờ”: Mới hôm qua, Đức Giêsu đã vào Đền thờ đánh đuổi những người buôn bán (21,12-17). Hôm nay Ngài lại vào đây để “giảng dạy”.

 “Các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gặp Ngài và hỏi: Ông lấy quyền ở đâu mà làm các điều ấy?”. Các điều ấy là gì? Thứ nhất là việc Ngài đánh đuổi những người buôn bán, thứ hai là việc Ngài giảng trong Đền thờ và thứ ba là việc Ngài chữa những người đui mù què quặt cũng trong Đền thờ. Các thượng tế và kỳ mục cho rằng chỉ có họ mới có quyền quản lý Đền thờ và mới có quyền làm việc trong Đền thờ, còn Đức Giêsu không có quyền. Vậy nếu Ngài đã làm 3 việc trên trong Đền thờ tức là Ngài đã phạm pháp. Cho nên họ tới chất vấn.

24-26 – Đức Giêsu thấy chẳng cần trả lời cho họ nên Ngài vặn lại bằng một câu hỏi lắt léo: việc Gioan thanh tẩy là do Trời hay do người ta? “Do Trời” là một cách nói quanh thay vì nói thẳng là “bởi Thiên Chúa”.

 – Câu hỏi của Ngài khiến họ bối rối: nếu đáp là Thiên Chúa thì sẽ bị vặn thêm “Vậy tại sao các ông không tin Gioan?”. Đáp như thế cũng là nhìn nhận Thiên Chúa cũng ban quyền giảng dạy cho một người ngoài khung khổ của họ (Gioan không phải là thượng tế, thông giáo và kỳ mục), thế thì Thiên Chúa cũng có thể ban quyền cho Đức Giêsu (huống hồ Ngài còn là Messia) và như thế sự dành độc quyền và sự ganh tị của họ không có cơ sở vững chắc.

 – Còn nếu đáp là bởi loài người ta thì dân sẽ phản đối họ.

 – Vì thế họ tránh né trả lời bằng câu “Chúng tôi không biết”. Và Đức Giêsu cũng không thèm trả lời cho câu hỏi của họ.

 * Trong chuyện này, không phải Đức Giêsu tránh né trả lời. Việc Ngài đặt câu gỏi ngược lại là nhằm giúp các thượng tế và kỳ mục động não suy nghĩ, để may ra họ sẽ thấy Ngài nhận quyền từ Chúa Cha và từ đó mà tin vào Ngài.

 

BÀI 48: DỤ NGÔN VỀ HAI ĐỨA CON (21,28-32)

28Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." 29Nó đáp: "Con không muốn đâu! " Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây! " nhưng rồi lại không đi. 31Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? " Họ trả lời: "Người thứ nhất." Đức Giê-su nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy." 

------------------

c 28 –“Các ông nghĩ sao…”: cũng như ở 18,12 và 22,42. Lời Đức Giêsu hỏi ý kiến này không phải là hỏi các môn đệ mà là hỏi các đối thủ của Ngài.

  “Một người kia”: ám chỉ Thiên Chúa.

 – “Hai đứa con trai”: chỉ hai hạng người của dân do thái thời đó: một đứa là hạng những “kẻ tội lỗi” không quan tâm đến Luật đạo và những quy định do giới rabbi đề ra: một đứa là “những người công chính” giữ Luật rất chín chắn, tức là các thủ lãnh tôn giáo do thái thời đó.

 – “Hôm nay”: người cha không quan tâm đến cá tính của mỗi người con, ông xem hai đứa như nhau nên bảo mỗi đứa đi làm cùng một công việc của nhau.

c 29 – “Sau đó”: một số nhà chú giải coi những chữ này là ám chỉ đến những lương dân. Chú giải như vậy không đúng với diễn tiến câu chuyện dụ ngôn vì đứa con thứ nhất trước đó đã từ chối lời gọi của Người Cha, còn các lương dân thì trước đó không từ chối lời gọi của Thiên Chúa. Nếu “sau đó” họ có được vào Nước Trời thì chỉ vì trước đó Nước Trời chưa được rao giảng cho họ mà thôi.

c 30 – “Thưa ông vâng”: Bản dịch pháp văn là “Entendu, Seigneur”. Một đứa con mà thưa với Cha bằng “Ông” thì thật là lạ. Điểm lạ này chỉ có thể hiểu được nếu người cha đó là Thiên Chúa.

c 31 –Động từ “làm”: đây là động từ chủ chốt của đoạn văn. Vấn đề quan trọng ở đây không phải là lời nói, mà là việc làm.

c 31b – Nhiều bản dịch là “sẽ vào trước”. Dịch như vậy là vì động từ nguyên bản là proagein trong đó có chữ pro. Chữ pro này vừa có nghĩa “trước” vừa có nghĩa “thay thế”. Có lẽ dịch ý nghĩa “trước” thì không đúng lắm, vì những kẻ không làm theo ý Thiên Chúa thì không phải là được vào Nước Trời sau mà thực sự không được vào. Vậy phải dịch chữ pro theo nghĩa thay thế: những kẻ thu thuế và điếm đàng sẽ thế chỗ các ngươi trong Nước Trời.

c 32 – Câu này tuy nói về Gioan Tẩy Giả nhưng phải khiến ta liên tưởng tới Đức Giêsu. Vì Mt đã cho thấy Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu rao giảng cùng một sứ điệp (3,2  4,17). Chỉ khác ở chỗ Gioan chuẩn bị cho Đức Giêsu, còn Đức Giêsu thì hoàn thành Gioan. Bởi vậy ai từ chối không tin Gioan thì cũng từ chối không tin Đức Giêsu.


1/ Những lãnh tụ tôn giáo do thái dạy rất nhiều điều nhưng lại không thực hành (23,3), họ giữ những khoản luật rất là chặt chẽ nhưng điều chính yếu là “làm” theo ý Thiên Chúa thì họ không làm, cho nên cũng như không. Diễn tả theo ngôn ngữ của đoạn tin Mừng này, miệng họ nói “vâng” nhưng lòng họ lại là “không”.

Còn những kẻ thu thuế, điếm đàng chẳng hề biết Luật, chẳng giữ các hình thức lễ nghi. Bề ngoài xem như họ “không”, tuy nhiên khi Nước Trời được giới thiệu cho họ thì họ đã mau mắn đáp lại. Tiếng “không” của họ trở thành tiếng “vâng”.

Những kẻ nói “vâng” mà “không làm” thì bị thay chỗ trong Nước Trời bởi những kẻ nói “không” nhưng lại “vâng” và “làm”. Điều quan trọng không phải là lời nói mà là việc làm.

2/ So sánh với dụ ngôn “đứa con hoang đàng”. Người nghe có cảm tưởng rằng người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng còn cố ý che giấu lỗi lầm của người con cả. Còn trong dụ ngôn này, Người Cha nói thẳng ra là đứa con “không làm” ấy bị loại khỏi Nước Trời.

Như vậy, trong dụ ngôn này, Đức Giêsu tỏ ra dứt khoát hơn: những lãnh tụ tôn giáo do thái vô phương cứu chữa.

 

BÀI 49: DỤ NGÔN NHỮNG NGƯỜI THỢ VƯỜN NHO SÁT NHÂN (21,33-46)

33Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: "Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. 35Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. 36Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. 37Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: "Chúng sẽ nể con ta." 38Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó! " 39Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. 40Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia? " 41Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông." 42Đức Giê-su bảo họ: "Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.

43Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. 44Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt)."

45Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. 46Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.

------------------

Mt đặt dụ ngôn này giữa hai dụ ngôn về hai đứa con và bữa tiệc cưới, nằm trong bối cảnh cuộc xung đột ngày càng gia tang đến mức trầm trọng giữa Đức Giêsu và các lãnh tụ do thái (cc 21-22-23)

Sau khi so sánh những người thu thuế và đĩ điếm với đứa con ban đầu bất tuân nhưng sau hối hận lại làm theo người cha bảo, tượng trưng cho lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu (trong khi đó những người biệt phái và các lãnh tụ do thái đã từ chối lời rao giảng của hai Ngài). Đức Giêsu đưa thêm dụ ngôn này để nói rõ thế nào là tiếp nhận CON: đó là phải “làm”i.

 Đức Giêsu đã mượn dụ ngôn vườn nho của Isaia (Is 5,1-7) nhưng có thay đổi vài chi tiết để trình bày quan điểm của Ngài:

 * Trong dụ ngôn của Isaia, chính ông chủ tự tay chăm sóc vườn nho với hy vọng nó sẽ sinh ra trái ngọt, nhưng vì nó chỉ sinh ra trái chua nên ông chủ tàn phá nó. Ý tưởng của Isaia rõ rang: ông chủ chính là Thiên Chúa, còn vườn nho chính là dân Israel.

 * Trong dụ ngôn của Đức Giêsu, ông chủ đưa vườn nho cho những người thợ thuê mướn. Ý nghĩa so sánh của hình ảnh “ông chủ” thì đã rõ: đó cũng là Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh “vườn nho” là so sánh với ai? Không thể sánh vườn nho với dân Israel được, vì thật vô lý nếu Thiên Chúa lại trao dân Israel cho dân khác (c 41,43). Chỉ có thể hiểu được nếu xem vườn nho là Nước Trời: ban đầu Thiên Chúa trao Nước Trời cho dân Israel, thế nhưng dân này đã không làm cho Nước Trời sinh hoa lợi cho chủ, nên sau đó chủ mới giao Nước Trời cho một dân khác (chi tiết “một dân khác” sẽ được giải thích ở phần dưới).


c 33 – Việc kê khai những việc làm của ông chủ (trồng, rào giậu, đặt tháp canh, đào bồn ép) nhằm cho thấy ông chủ quý mến vườn nho của ông như thế nào. Việc kê khai tỉ mỉ đó làm nối bật nét tương phản nơi thái độ của những người thợ không chịu nộp hoa lợi từ một công trình tỉ mỉ ấy của ông chủ.

c 34 – “Gần mùa trái”: chữ “gần” là dịch từ động từ Êggisen (đến gần). Mt cũng dùng động từ này trong lời của Gioan Tẩy giả và của Đức Giêsu loan báo “Nước Trời đã đến gần” (3,2 4,17). Ngụ ý của Mt là thời kỳ nộp hoa lợi cũng trùng với thời kỳ Gioan và Đức Giêsu đến.

c 35 – Việc làm của đám thợ ngày càng trầm trọng thêm: đánh đòn, giết, ném đá.

c 37 – “Sau hết”: ngụ ý đây là cơ hội cuối cùng cho Israel hoán cải.

c 38 – Các thợ tá điền đã giết người Con của ông chủ không chút ngần ngại, cũng chẳng phải vì giết lầm. Chúng biết ngay đó là đứa con thừa tự và vẫn giết. Như vậy tội chúng càng nặng hơn.

c 39 – Ám chỉ việc Đức Giêsu bị giết chết ngoài thành Giêrusalem.

c 42 – “Đã trở nên” nguyên tắc là “đã được làm thành”. Đây là thể thụ động thần thiêng, hiểu ngầm tác nhân là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã làm cho Người Con (viên đá đã bị thợ loại bỏ) trở thành “đá góc”.

c 43 – “Trao cho một dân biết sinh hoa lợi”: chữ “dân” ở số ít, cho nên không thể được hiểu là “chư dân” mà phải hiểu đó là một dân mới, tức là GH (Rm 9,25; 1P 2,10).

 So với dụ ngôn trước đó (về hai đứa con), câu kết luận này mạnh bạo hơn: Đức Giêsu không chỉ nói úp mở (xem chú giải chữ “vào trước” của câu 31b), mà nói thật rõ ràng dứt khoát rằng một dân mới sẽ thay thế dân Israel để quản lý Nước Trời.

45-46 Các lãnh tụ tôn giáo do thái cảm thấy mình bị Đức Giêsu nhắm trực tiếp cho nên càng thù ghét Ngài. Hiện giờ họ chưa làm gì được Ngài vì ngại phản ứng của dân chúng. Nhưng sự thù ghét của họ dâng cao, hứa hẹn cái chết dành cho “Người Con” sắp diễn ra.

 

BÀI 50: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI (22,1-14)

1Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: 2"Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. 4Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! " 5Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, 6còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. 7Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới." 10Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

11"Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới? " Người ấy câm miệng không nói được gì. 13Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! 14Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."

------------------

1/ Có nhiều điểm tương đồng giữa hai dụ ngôn này:

– Hai lần sai đầy tớ đi.

– Các đầy tớ đều không thành công.

– Lý do không thành công đều là sự ác độc của những người mà các đầy tớ gặp.

– Hai dụ ngôn đều nói tới đứa Con

– Các đầy tớ đều bị ngược đãi, hành hạ và cuối cùng bị giết chết.

2/ Những điểm tương đồng ấy khiến chúng ta phải hiểu hai dụ ngôn này theo cùng một hướng:

 – Chủ vườn nho và ông vua dọn tiệc cưới chính là Thiên Chúa.

 – Người Con chính là Đức Giêsu (xem 11,27)

 – Các đầy tớ là những ngôn sứ.

 – Những kẻ được mời và những thợ bất nhân là dân do thái bất trung.

3/ Nhưng cũng có điểm khác biệt quan trọng:

 – Trong dụ ngôn thợ làm vườn nho, vấn đề là đòi hoa lợi, nghĩa là một vấn đề công bằng: còn trong dụ ngôn tiệc cưới, vấn đề là lời mời của nhà vua, nghĩa là vấn đề danh dự của nhà vua.

Ông chủ vườn nho thì cương quyết đòi hoa lợi, nhà vua thì quảng đại mời khách đến chia

 vui.

* Lỗi của đám thợ không nặng bằng lỗi của các khách từ chối dự tiệc vì những người sau này chạm tới danh dự nhà vua. Càng nặng hơn nữa khi về sau họ chuyển từ thái độ thờ ơ với lời mời sang thái độ thù nghịch dám giết đấy tớ vua.

– Bởi thế trong dụ ngôn thợ vườn nho, ông chủ phản ứng chỉ bằng một lời đe dọa; còn trong dụ ngôn này, nhà vua hành động. Nghĩa là có sự leo thang từ lời nói sang hành động.


1/ Chi tiết này thật khó hiểu: chỉ những kẻ giết đầy tớ vua mới đáng bị trừng phạt, vậy sao vua trừng phạt cả thành trong đó có nhiều người vô can khác?

2/ Thực ra đây là một cách Mt giải thích biến cố thành Giêrusalem bị tiêu hủy vào năm 70. Lúc Đức Giêsu phán dụ ngôn này thì chưa có biến cố đó, nhưng khi Mt chép Tin Mừng thì biến cố đó đã xảy ra rồi. Mt giải thích rằng đó là vì dân do thái đã từ chối lời mời của Đức Giêsu gia nhập Nước Trời, và còn giết chết Đức Giêsu.


1/ Vì dân biệt tuyển đã từ chối, cho nên Thiên Chúa mời tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. cũng như dụ ngôn lúa và cỏ dại. Nước Trời trong hoàn cảnh hiện tại gom cả kẻ tốt lẫn kẻ xấu.

2/ Nhưng nguyên sự kiện được mời như thế không có nghĩa nó là bảo đảm cho được ơn cứu rỗi. Người được mời phải có một điều kiện tối thiểu, đó là từ nay phải cố gắng có một nếp sống mới xứng đáng với Tin Mừng. Nếp sống ấy tượng trưng bằng chiếc áo cưới. Nếu ta hiểu như vậy thì mới không thấy chi tiết chiếc áo cưới là vô lý. Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ đi xem xét, nếu ai không có chiếc áo cưới của nếp sống mới ấy thì sẽ bị trừng phạt.


c 2 – Không phải so sánh Nước Trời với ông vua, mà với toàn câu chuyện này.

c 2b – Tiệc cưới là hình ảnh quen thuộc mang ý nghĩa ơn cứu rỗi được Thiên Chúa ban tặng miễnphí (Is 25,6 55,1-3; Xh 24,11; Kh 19).

c 3 – “Nhưng họ không muốn đến dự”: Mt thích dùng động từ “muốn” này (xem 11,14 16,24 18,30 19,17 23,27b). Thiên Chúa không bó buộc ai, chỉ thích người ta tự ý muốn đáp lại lời mời của Ngài.

c 4 – “Hãy đi khắp các ngõ đường”: động từ poreuestheoun cũng là động từ được Mt dùng khi thuật lời Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (28,19). Nhà vua sai các đầy tớ đi mời ai? Mời tất cả mọi người. Ở đây ta thấy ý hướng thừa sai và ý hướng đại đồng của Mt (xem thêm 2,1-12 3,9 8,5-10 8,28-34 15,21-28 21,43)

c 11 – chi tiết này ám chỉ ngày phán xét chung.

c 13 – “Anh ta câm miệng”: Người do thái nghĩ rằng mỗi một việc lành mình làm sẽ trở thành một người bàu chữa cho mình trong ngày phán xét (tài liệu Sentences des Pères 4,13 tương tự với Kh 10,4) Người này câm miệng nghĩa là anh chẳng có một việc lành nào để bàu chữa cho anh.


Dân do thái đã được Thiên Chúa ưu tiên mời vào Nước Trời nhưng đã từ chối. Thế nhưng sự từ chối của họ chẳng những không làm hỏng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trái lại còn thúc đẩy nhanh việc Thiên Chúa thành lập Nước Trời, một dân mới đã được mời vào thế chỗ cho dân do thái. Thế nhưng ai được mời vào Nước Trời thì cũng phải cố gắng có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

 

BÀI 51: THUẾ NỘP CHO XÊDA (22,15-22)

15Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy.

16Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? "

18Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế! " Họ liền đưa cho Người một quan tiền. 20Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây? " 21Họ đáp: "Của Xê-da." Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." 22Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.

------------------

1/ Khoa lý luận của trường phái Rabbi quan tâm đến 4 bọ môn sau đây

 – Hokmâh (nghĩa đen: sự khôn ngoan): thái độ phải có đối với những người quy định của luật.

 – Haggadâh (nghĩa đen: huyền thoại): phải giải thích thế nào những đoạn Thánh Kinh bề ngoài xem ra mâu thuẫn nhau.

 – Bôrut (nghĩa đen: thô thiển): cách lý luận để biến một sự tin tưởng thành một trò cười.

 – Dèrèk.’èrèts (nghĩa đen: con đường dưới đất): những nguyên tắc cơ bản của nếp sống luân lý.

2/ Từ 22,15, Mt trình bày 4 cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các đối thủ của Ngài với 4 đề tài tương ứng với 4 bộ môn trên:

 – 22,15-22 là một cuộc tranh luận về luật nộp thuế (Hokmâh).

 – 22,41-46 là một cuộc tranh luận dựa vào thánh kinh về vấn đề Đức Giêsu Kitô có phải là con cháu vua Đavít không (Haggadâh).

 – 22,23-33 là một cuộc tranh luận do việc kẻ chết sống lại, một điều mà phái Xađốc coi như là phi lý (Bôrút).

 – 22,34-40 là một cuộc tranh luận xem Luật nào quan trọng nhất (Dèrèk.’èrèts).

3/ Những cuộc tranh luận này cuốn hút tất cả những hệ phái quan trọng thời đó (và như thế có nguy cơ khiễn Đức Giêsu bị đụng chạm với tất cả những hệ phái đó):

 – Vấn đề nộp thuế cho Xêda: liên quan tới các hệ phái Pharisêu, Hêrôđê và Cuồng Nhiệt (Zélotes)

 – Vấn đề kẻ chết sống lại liên hệ tới phái Xađốc.

 – Vấn đề Luật nào trọng nhất liên hệ tới pháo Pharisêu.


1/ c 17 quả là một cái bẫy giăng ra để bắt Đức Giêsu: “Có nên nộp thuế cho Xêda không?”

2/ Những kẻ giăng bẫy là hai phái thường ngày đối nghịch nhau nhưng nay bắt tay nhau để hại Đức Giêsu “kẻ thù chung” của họ:

 * Phariseu chủ trương không được hy sinh sự tự do của dân Chúa để nhượng bộ trước uy quyền đế quốc Rôma đang đô hộ đất nước họ. Phái pharisêu coi việc nộp thuế cho Xêda là một sự hy sinh nhượng bộ làm nhục cho dân tộc do thái.

 * Phái Hêrôđê là phái nịnh bợ đế quốc Rôma để bảo vệ quyền lợi riêng của họ.

3/ Thiế phải nộp cho đế quốc Rôma gồm hai thứ: Thuế gián thu (thuế lưu thông, thuế đoan…) và thuế thân mà mọi người do thái (chỉ trừ trẻ con và người già) đều phải nộp. Và tiền nộp thuế phải là thứ tiền do Rôma phát hành. Vì cả phía Rôma và phía do thái đều coi việc nộp thuế cho Xêda là dấu chấp nhận quyền bính của Rôma, cho nên phái Cuồng nhiệt cấm các đảng viên của mình nộp thuế; phái phariseu tuy không cấm nhưng rất khó chịu khi phải nộp thuế.

4/ Như vậy c 17 là một cái bẫy mà Đức Giêsu khó thoát: nếu Ngài trả lời là không nên nộp thì phái Hêrôđê sẽ kết án Ngài chống lại Rôma; nếu Ngài trả lời phải nộp thì phái pharisêu sẽ dựa vào đó mà tuyên truyền hại uy tín của Ngài.


1/ Câu trả lời của Đức Giêsu (cc 18-21) gồm 3 yếu tố:

 – Ngài không ngây thơ mù quáng: các đối thủ đã đưa ra lới tâng bốc Ngài rất là lịch sự dịu dàng nhưng chứa đầy nọc độc trong đó. Đức Giêsu nói thẳng đó là trò “giả hình”.

 – Trước khi trả lời thẳng vào vấn đề, Ngài đặt lại cho họ một câu hỏi để lột mặt nạ giả hionhf của họ.

 – Sau cùng mới đưa ra câu trả lời vừa giải đáp ổn thỏa điều họ muốn hỏi, vừa đưa vấn đề đi xa hơn.

2/ Câu hỏi của các đối thủ: Khởi sự họ chào Ngài bằng tước hiệu Rabbi(c 16), một tước hiệu rất danh dự. Tiếp đến là cả một lô lời khen tặng: Thầy chân thật, ngay thẳng, không thiên vị ai… Và cuối cùng mới thò cái đuôi chứa đầy nọc độc ra “Có nên nộp thuế cho Xêda không?” (c 17), Đức Giêsu biết ngay sự thâm độc của họ nên ngay tức khắc Ngài nói “Đố giả hình” (c 18).

3/ Đức Giêsu hỏi lại “Hãy đưa ta xem đồng tiền”. Đương nhiên họ phải đưa đồng Denier ra, vì chỉ có thể dùng đồng tiền này để nộp thuế, bởi nó do Rôma phát hành. Trên mặt đồng Denier có khắc hình hoàng đế Tibère. Đức Giêsu hỏi tiếp “Hình và hiệu này của ai?”. Họ phải nhận là của hoàng đế, Nguyên sự kiện họ đã dùng đồng tiền do Rôma phát hành, với hình và hiệu của hoàng đế Rôma. Cũng cho thấy rằng một cách nào đó họ đã chấp nhận quyền bính của Rôma. Thế thì chẳng còn gì phải thắc mắc bối rối nữa, Đức Giêsu cho rằng vấn đề này nhỏ mọn chẳng đáng quan tâm.

 Ngài đưa vấn đề tới chỗ quan trọng đúng của nó “Của Xêda thì trả cho Xêda, của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa”. Theo Ngài điều quan trọng là bổn phận đối với Thiên Chúa. Đây là điểm mà Ngài nhiều lần nhắc đi nhắc lại (6,33 Ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa; 5,39-42 dù phải hy sinh bất cứ thứ gì cũng đáng). Câu trả lời này không nhằm đối lập hai phạm vi (Nhà Nước và GH), cũng không nhằm khuyên tùng phục thế quyền, mà chủ yếu là đặt việc nào vào đúng chỗ ấy: câu hỏi về việc nộp thuế cho hoàng đế xếp thật xa đàng sau bổn phận đối với Thiên Chúa.

4/ Kết quả là những quyền lợi của hoàng đế không hề bị xúc phạm, trái lại bổn phận đối với Thiên Chúa cũng được nâng cao. Các đối thủ chỉ hỏi về bổn phận với hoàng đế. Đức Giêsu nhắc họ một bổn phận khác cao hơn là bổn phận đối vớí Thiên Chúa. Như vậy Ngài vừa trả lời, vừa dạy thêm cho họ một bài học.


c 16 – Rabbi: Trong Mt, các môn đệ không hề gọi Đức Giêsu là Rabbi, mà gọi Ngài là “Chúa” (Kurie). Những kẻ gọi Đức Giêsu là Rabbi là Ký lục, Biệt phái, Xađốc (8,19 9,11 12,38 22,16.24.36) thu thế (17,24), người thanh niên giầu có (19,16) và Giuđa (26,25-49). Phần Đức Giêsu thì bảo các môn đệ đừng gọi mình như thế (23,7-8).

c 17 – “Có được phép… không?”: đây là câu hỏi mà những người do thái thường đặt ra và các Rabbi thường phải trả lời để giải đáp những nố lương tâm. Chú ý thể thụ động thần thiêng: ai cho phép? Chính Thiên Chúa. Vì vậy ý nghĩa rõ ràng của nó là: Theo ý Chúa, có nên nộp thuế cho Xêda? Hay nói đúng hơn: Phải chăng Thiên Chúa không cho phép nộp thuế cho Xêda?

c 21 – “Của Xêda thì trả cho Xêda”: giáo huấn do thái cũng vẫn dạy rằng quyền bính là do Thiên Chúa ban (Ds 2,21 2,37-38; Cn 8,15-16), cho nên Đức Giêsu cũng dạy phải tôn trọng những người cầm quyền(Ga 19,11) và Phaolô cũng dạy thế (Rm 13,1-7).

 

BÀI 52: VẤN ĐỀ KẺ CHẾT SỐNG LẠI (22,23-33)

c 23 – Phái Xađốc gồm những tư tế thuộc dòng tộc tư tế Xađốc. Họ chỉ nhìn nhận 5 quyển của bộ Ngũ Thư là Sách Thánh. Và bởi vì mặc khải của Thiên Chúa trong Ngũ thư chưa nói về vấn đề kẻ chết sống lại (là điều sẽ chỉ được nói trong sách Đaniên 12,2-3), cho nên phái này không nhìn nhận kẻ chết sống lại. Phần Đức Giêsu thì dạy kẻ chết sống lại (Cv 23,8).

2428 – Muốn tấn công Đức Giêsu phái Xađốc đưa ra một ví dụ tầm thường để chế giễu niềm tin vào việc sống lại, cho rằng đó là một phi lý. Họ dựa vào luật Lêvirát (Lv 25,5) để giả sử trường hợp 7 anh em sử dụng luật này để cùng cưới 1 phụ nữ làm vợ. Vậy nếu có việc kẻ chết sống lại thì hoàn cảnh sẽ rất lố bịnh: nàng sẽ là vợ của ai đây?

29 – Thực ra lập luận trên hoàn toàn sai vì lấy chuyện đời này để giải thích chuyện đời sau. Việc vợ chồng là việc đời này: vì đời này cần sinh con đẻ cái để lưu truyền nòi giống nên mới cần có vợ có chồng. Còn đời sau không cần lưu truyền nòi giống nên không cần cuộc sống vợ chồng.

 * “Sẽ giống như các thiên thần trên trời”: các thiên thần không lo việc gì khác ngoài việc phụng thờ Thiên Chúa. Trong cõi đời sau người ta cũng thế.

 

BÀI 53: GIỚI RĂN QUAN TRỌNG NHẤT (22,34-40)

34Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. - 35Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36"Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? " 37Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." 

------------------

Đây là một trong 4 cuộc tranh luận cua Đức Giêsu với các đối thủ. 4 vấn đề được tranh luận này cũng là những vấn đề mà người do thái thời Đức Giêsu hay thắc mắc nhất.


Khi các rabbi do thái kể ra nhiều khoản luật thì luôn luôn nhằm mục đích cho rằng chúng quan trọng như nhau. Sau đây là một số văn bản chứng mình điều đó.

 – Tài liệu Mekhilta chú giải Xh 6: “Ai vi phạm tất cả các giới răn, tức là quăng bỏ cái ách, bẻ gãy giao ước và lộ bộ mặt chống Luật của mình ra; cũng thế ai vi phạm chỉ một giới răn thôi cũng là quẳng ách, bẻ gãy giao ước và lộ bộ mặt chống Luật”.

 – Tài liệu Sifrê giải thích Đnl 12,28: “Ngươi hãy xem giới răn nhẹ cũng quý như giới răn trọng”.

 – Tài liệu Sifrê chú giải Đnl 13,19: “Khởi sự nghe ít thì kết thúc sẽ nghe nhiều… ngươi phải quý chuộng một giới răn nhẹ cũng như một giới răn trọng”.

 – Tài liệu Sifrê chú giải Đnl 19,11: “Nếu vi phạm luật ‘hãy yêu thương cận nhân như chính mình ngươi’ thì cuối cùng sẽ vi phạm luật ‘không được báo thù, không được ghét người, cho tới luật không được đổ máu”.

Thứ quan niệm vụ luật tỉ mỉ như thế có khi sinh ra niềm vui chân thành vì vâng phục, có khi sinh ra óc tự mãn (Lc 15,29), và có khi lại sinh ra bối rối lo âu đối với những người không giữ nổi mọi khoản luật (Mt 19,18). Theo truyền thống hội đường, luật gồm 613 khoản, trong đó 365 khoản cấm và 246 khoản buộc. Vì nhiều quá nên có nhiều cố gắng tóm chúng lại trong một số lượng ít hơn, chẳng hạn Đavít đã tóm lại trong 11 khoảng (Tv 15,2-5), Isaia tóm thành 6 (Is 33,15), Mikha thành 3 (Mi 6,8), Amos thành 2 (Am 5,4), Khabacúc thành một (Kbc 2,4). Tuy nhiien chưa ai vượt qua được cái óc phân tích tỉ mỉ ấy cả.


1/ Những ý tưởng về yêu mến Thiên Chúa và yêu mến cận nhân cũng đã có sẵn từ lâu trong Cựu Ước và trong do thái giáo. Điểm độc đáo của Đức Giêsu là liên kết hai điều đó lại, và tập trung tất cả mọi khoản luật vào đó. Trong Cựu Ước tuy có ghi hai điều này, nhưng hai điều này được ghi rời rạc cách nhau rất xa. Riêng những điều luật yêu thương cận nhân thì tuy có nhưng không được nhấn mạnh bao nhiêu (thí dụ Lv 19,18).

2/ Liên kết: Mặc dù Đức Giêsu nói đến Mến Chúa là “giới răn đầu tiên”, và yêu người là “giới răn thứ hai”, nhưng Ngài còn nói thêm chữ “Như thế”! Ta phải chú ý hiểu cho đúng: thứ nhất và thứ hai đây không phải là một cái hạng nhất và một cái hạng nhì, nhưng cả hai đều là “như nhau”. Nhưng “như nhau” cũng không phải là đồng nhất với nhau. Do đó đừng cho rằng Mến Chúa cũng là Yêu Người, cho nên chỉ cần lo Mến Chúa là đủ. Yêu Người cũng là Mến Chúa, cho nên chỉ cần Yêu Người là đỉ. Hiểu cho thật đúng phải là: Mến Chúa và Yêu Người là quan trọng như nhau. Do đó không được coi nhẹ và bỏ qua cái nào cả: phải Mến Chúa và phải Yêu Người.

3/ Tập trung: Đức Giêsu nói: “Tất cả Luật Môsê và lời các Ngôn sứ đều quy về hai giới răn ấy”. Phải chăng chỉ cần giữ hai giới răn ấy rồi có thể bỏ qua mọi giới răn khác? Không hẳn là như vậy, tuy nhiên cũng gần như vậy. Bởi vò nếu ai thật sự giữ thật tốt hai giới răn này thì đương nhiên cũng là giữ hết tất cả những giới răn khác.


c 41 – Biệt phái tụ tập với nhau: Câu này tương tự với câu “Vua chúa trần gian tụ tập với nhau… để chống lại Thiên Chúa và Đức Kitô của Ngài” trong Tv 2,2. Sau này Mt lại dùng động từ “tụ tập” này khi mô tả các lãnh tụ do thái họp nhau mưu hại Đức Giêsu (26,3).Vậy ở đây khi dùng động từ này. Mt có ý rằng cuộc tranh luận này là báo trước cuộc đối đầu quyết liệt sau này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết.

c 37 – Hết lòng, hết linh hồn, hết tâm tư: khi kể ra liên tiếp các cơ năng như vậy thì không có nghĩa là “cộng lại” (sens cumulatif) mà chỉ có nghĩa là “toàn thể” (sens total). Vả lại người do thái không có quan niệm nhị nhuyên hay tam nguyên. Do đó chỉ cần nói một cơ năng thôi (chẳng hạn “hết lòng”) thì cũng đủ là toàn thể con người rồi. Ở đây sở dĩ nói tới 3 cơ năng là để nhân mạnh thêm thôi. Tóm lại, ý nghiac câu này là phải yêu mến với toàn thể con người mình.


Thực ra Đức Giêsu không dạy điều gì mới (Giới răn mới thì sau này Đức Giêsu mới tuyên bố), mà chỉ vạch cho người ta thấy giá trị đích thực của hai giới răn Mến Chúa và Yêu Người vốn có sẵn trong Cựu Ước: chúng là quan trọng nhất, quan trọng ngang nhau và là cốt tủy mọi giới răn khác. Những ý này chưa người do thái nào dù là người thông thái đến đâu đi nữa có thể nhận ra.

 

BÀI 54: ĐỨC GIÊSU LÀ CON CỦA AI (22,41-46)

41Những người Pha-ri-sêu đang tụ tập thì Đức Giê-su hỏi họ 42rằng: "Các ông nghĩ sao về Đấng Ki-tô? Người là con của ai? " Họ thưa: "Con của vua Đa-vít." 43Người hỏi: "Vậy tại sao vua Đa-vít, được Thần Khí soi sáng, lại gọi Người là Chúa Thượng, khi nói rằng: 44Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con?

45"Vậy nếu vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được? " 46Không ai đáp lại Người được một tiếng. Và từ ngày ấy, chẳng ai còn dám chất vấn Người nữa.

------------------

41-42 – “Những người pharisêu đang tụ tập thì Đức Giêsu hỏi họ”: trong 3 cuộc tranh luận trước, các đối thủ Đức Giêsu chủ động hỏi Ngài trước. Còn trong cuộc tranh luận này chính Ngài lên tiếng hỏi.

 – Ngài hỏi ai? Đối tượng khác nhau tùy mỗi quyển Tin Mừng. Trong Lc thì hỏi giới thông giáo; trong Mc thì hỏi “đám đông dân chúng đang thích thú nghe Ngài giảng”; còn trong Mt thì hỏi biệt phái.

 – Câu hỏi là “Đức Kitô là con của ai?”

 – Họ đáp: “Con của vua Đavít”: có một truyền thống được giới pharisêu và thông giáo rao giảng là Đấng Messia là con cháu của vua Đavít. Truyền thống này dựa trên 2Sm 7,14-17. Người bình dân thường gọi như vậy (Người mù thành Giêricô 20,30; dân thành Giêrusalem 21,9). Nhưng Đức Giêsu không tự xưng mình như vậy vì tước hiệu này dễ gây hiểu lầm về một Đấng Messia chính trị và quân sự. Cho nên Ngài sẽ giải thích rõ hơn cho dân hiểu.

c 43: Đại khái lậpluận của Đức Giêsu là:

 – Người ta (cụ thể là pharisêu và thông giáo) nói Đấng messia là Con vua Đavít.

 – Nhưng Tv 110 (mà người ta vẫn tin Đavít là tác giả) lại viết rằng chính vua Đavít gọi Đấng Messia là “Chúa Thượng”.

 – Vậy thì Đấng Messia là con cháu của Đavít thế nào?

 Câu hỏi bỏ lửng không trả lời của Đức Giêsu nhằm xóa đi một cách hiệu quả đơn sơ về liên hệ giữa Messia với Đavít. Ngài muốn người ta phân biệt rõ

 – Xét về huyết thống thì Messia quả thực là cin cháu của Đavít.

 – Nhưng xét về thiên chức thì Messia trổi vượt Đavít, Ngài là “chúa” của vua Đavít.

 

BÀI 55: CHỐNG GIỚI LUẬT SĨ VÀ BIÊỴ PHÁI GIẢ HÌNH (23,1-12)

1Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2"Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi".

8"Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráp-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. 11Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.

------------------

 Chương 23 được một số chuyên viên đặt tên là “Diễn từ chống biệt phái”. Diễn từ này gồm 3 phần:

 – Phần 1 (đoạn ta đang nghiên cứu đây: 23,1-12 là những lời Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ. Bàn về lời nói và việc làm của giới luật sĩ và biệt phái.

 – Phần 2 (cc 13-36) làm thành cái nhân của bài diễn từ, trong đó Đức Giêsu đưa ra 7 lời chúc dữ hai giới đó.

 – Phần 3 (cc 37-39) Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem sắp chịu cảnh tàn phá.

 Phần 1 này cũng gồm hai đơn vị đối xứng nhau: cc 2-7 với đại từ họ, nói về hai giới luật sĩ và biệt phái; cc 8-12, với đại từ Các con nói tới cách cư xử của môn đệ và quần chúng phải có.

 Từ thời hy lạp hóa về sau (từ năm 333 tr,c,n., Alexandre đại đế chiếm miền Tiểu Á và mở nang văn hóa hy lạp khắp miền), dân do thái quen xem Môsê như một bậc thầy (Gio 9,28) được Thiên Chúa đặt ngồi trên Tòa (chaire kathedra) trên núi Sinai. Thểồi giới Rabbi đã lập ra một bảng phổ hệ thiêng liêng những kẻ làm phát ngôn viên và giải thích luật Tôrah. Bảng phổ hệ này bắt đầu từ Môsê, Giôsuê, các kỳ lão, các ngôn sứ, đến những “người của Hội đường” và đên tận các Rabbi đương thời. Thuật ngữ “ngồi trên tòa của Môsê” cho thấy tính liên tục của nhiệm vụ ấy. Như vậy vào thời Đức Giêsu, dư luận chung đều nhận quyền giảng huấn của giới Luật sĩ và biệt phái.

c 1 – Những lời này Đức Giêsu không nói thẳng với giới Luật sĩ và Biệt phái, mà nói với quần chúng và môn đệ. Nghĩa là Ngài không tấn công giáo thuyết của giới Luật sĩ và Biệt phái. Lập trường của Ngài là đứng giữa quần chúng và giới đang nắm quyền giảng huấn, mục đích là giải thóat quần chúng khỏi cái ách kông vác nổi mà giới giảng huấn đang đặt lên vai họ. Chính đâymới là lý do khiến giới giảng huấn giết Ngài (chứ không phải những điểm lẻ tẻ dị biệt về giáo thuyết). Đối với giới nắm quyền giảng huấn thời đó, Đức Giêsu không phải là một tên lạc đạo hay li giáo (như những người phái Essêni), mà là một người đấu tranh cho toàn thể dân Thiên Chúa.

c 2 –“Ngồi tòa Môsê”: Đức Giêsu không có ý nói các Luật sĩ và Biệt phái “chiếm” quyền giảng huấn một cách bất hợp pháp. Nội dung toàn thể đoạn này cho thấy Đức Giêsu không chống lại cơ chế giảng huấn, cũng không chống những người những người đang nắm quyền đó, mà là chống một điểm khác.

 – “Tòa Môsê”: là địa vị của các Rabbi, có nhiệm vụ giải thích và ứng dụng luật Môsê. Đức Giêsu nhìn nhận quyền và địa vị này của họ.

c 3 – Vì đã nhìn nhận quyền giảng huấn của họ, nên Đức Giêsu khuyên quần chúng và môn đệ phải nghe những gì họ giảng dạy. Điểm thứ nhất Đức Giêsu tố cáo là lời họ nói không đi đôi với việc họ làm. Lời tố cáo này là nhằm vào tập thể chứ không phải nhằm vào những cá nhân của tập thể giảng huấn. Vì thực ra có những cá nhân Rabbi rất mẫu mực, vừa nói vừa làm. Hơn nữa những tài liệu của giới Rabbi cũng dạy phải thực hành điều mình nói chắng hạn: Tài liệu Sifrê giải thích Lv 26,3 viết “Kẻ dạy mà không thực hành thì thà nó đừng được dựng nên còn hơn”; tài liệu Yebamot viết “Đẹp thay những lời nóí trong miệng kẻ thực hành những lời đó”.

c 4 – Ngôn ngữ do thái thường dùng chữ “gánh” để chỉ “Luật”. Thuật ngữ “gánh nặng” áp dụng cho biệt phái ở đây tương phản hẳn với thuật ngữ “gánh nhẹ” áp dụng cho luật mới của Đức Giêsu (11,30). Tuy nhiên, điều Đức Giêsu tố cáo ở đây không phải là tính nặng nề khắt khe của luật do biệt phái giải thích, mà là thái độ giả hình của họ: “họ không muốnlàm” (động từ “muốn” là một động từ Mt vẫn thường xử dụng), nghĩa là khắt khe với người khác, nhưng lại quá dễ dãi với chính mình.

c 5 – Đây là lời tố cáo thứ hai của Đức Giêsu: tính phô trương của biệt phái. Ở đây Mt chẳng những dùng lại đúng y chủ đề mà còn cả những ngữ vựng của phần thứ hai trong Bài giảng trên núi (6,1  6,16-18).

 – “Thẻ kinh”: là Phylactères, tức là những hộp nhỏ hình vuông bằng da trong đó đựng 4 đoạn Thánh Kinh: Đnl 11,13-22  6,4-9; Xh 13,11-16 và Xh 13,2-10. Những đoạn Thánh Kinh này tóm nội dung chính của Luật, một người Israel từ lúc 13 tuổi phảimang một thẻ kinh trên trán và một thẻ kinh trên cánh tay trái. Mỗi ngày thường (ngày lao động) vào buổi sáng họ phải đọc rằng: “Xin chúc tụng Giavê, Thiên Chúa, Vua vũ trụ vì Ngài đã dùng các giới răn của Ngài mà thánh hóa chúng con, và đã truyền chúng con mang những thẻ kinh”.

 “Tua áo”: Ds 15,37-39 dạy rằng người Israel phải buộc những tua vải vào 4 góc gấu áo để nhắc họ nhớ thi hành những giới răn Thiên Chúa

 – Điều Đức Giêsu tố cáo không phải là sự kiện mang thẻ kinh và tua áo, nhưng là cách họ cố tình làm cho những thẻ kinh và tua áo ấy lớn hơn, rộng hơn với dụng ý là cho người ta thấy mà khen họ đạo đức.

c 6 – “ghế nhất trong Hội đường”: những ghế này quay lưng về giảng đài và quay mặt về dân chúng. Nghĩa là ghế chủ tọa.

c 7 – “Vái chào”: Luật Rabbi buộc “phải chào kẻ cao hơn mình về phương diện hiểu biết Luật. Như vậy thích được chào có nghĩa là thích được người ta nhìn nhận mình hiểu biết Luật hơn người.

  “Thầy”: Rabbi. Thời Mt biên soạn Tin Mừng, chữ Rabbi là một tước hiệu cao quý dành cho những nhà lãnh đạo tôn giáo và những chuyên viên Luật lỗi lạc nhất.

c 8 – “Đừng muốn được xưng hô là Rabbi”: nguyên bản “đừng tìm cách cho người ta gọi mình là Rabbi”. Liên hệ với Ga 13,13-14 thì chỉ Đức Giêsu Kitô mới là Rabbi thật.

c 9 – “Cha”: Abba. Con cái vẫn gọi cha mình là Abba. Ngoài ra học trò cũng gọi người dạy mình là Abba (2V 2,12; Cn 4,1; 1Cr 4,14-17; Ga 4,19; 2 Tim 1,2; Ti 1,4; 1P 5,13; 1Ga 2,1-12…). Trong GH Công giáo tín hữu vẫn quen gọi một số vị lãnh đạo là Cha (như Abbé, Pape…). Điều Đức Giêsu tố cáo ở đây không phải là những cách xưng hô kể trên, mà là tham vọng muốn chiếm đoạt tước hiệu dành riêng cho Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô.

c 8-10 – “Vì các con chỉ có một Thầy… vì các con chỉ có một Cha… vì các con chỉ có một Tôn sư…”: nguyên tắc này vừa buộc các vị lãnh đạo trong GH phải khiêm nhường, nhưng cũng vừa tang uy tín cho các vị ấy. Các vị ấy được tín đồ gọi là Thầy, là Cha, là Tôn sư không phải do bản chất của các vị, mà chỉ vì các vị thông phần tước hiệu của Thiên Chúa và Đức Kitô.

c 11 – Nguyên tắc đề ra cho kẻ lãnh đạo là phục vụ

c 12 – Phải được hiểu trong tương quan với c 11 trên đây. Bởi vậy không hiểu được câu này nói về sự thay đổi thân phận khiến kẻ cao thành thấp và kẻ thấp thành cao, mà phải hiểu: Ai phục vụ thì được tôn lên. Những động từ “được tôn lên” và “hạ xuống” là những động từ ở thể thụ động thần thiêng, hiểu ngầm là Thiên Chúa.

1/ Trong đơn vị thứ nhất về những người đang nắm quyền giảng huấn, Đức Giêsu không đả kích quyền giảng huấn ấy, nhưng Ngài:

 – Vừa công nhận quyền giảng huấn của họ.

 – Vừa nhắc họ phải nhớ đến bổn phận thực hành điều họ dạy.

 – Vừa trách họ đã bất xứng với quyền được trao.

2/ Trong đơn vị thứ hai về các môn đệ và quần chúng. Đức Giêsu không đả kích thói quen gọi một số người là Thầy, Cha và Tôn sư. Cái Đức Giêsu đả kích là tham vọng chiếm đoạt những vinh dự thực ra chỉ dành cho Thiên Chúa và Đức Kitô, từ tham vọng đó người ta làm đủ cách để được người khác gọi một cách không chính đáng bằng những tước hiệu đó.

3/ Muốn tránh khỏi rơi vào những sai lầm kể trên, có một cách mà Đức Giêsu khuyên tín hữu mình, ấy là phải có tinh thần phục vụ, và chính Đức Giêsu đã làm gương về điều này (Mt 20,26-27; Lc 22,24-30; Ga 13,13-16).

 

BÀI 56: BẢY LỜI KHIỂN TRÁCH (23,13-26)

13"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào. ( 14Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn).

15"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.

16"Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: "Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc." 17Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? 18Các người còn nói: "Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc." 19Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? 20Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.

23"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. 24Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.

25"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.

------------------

 Đoạn này có kiểu nói “Khốn cho các ngươi” được lặp đi lặp lại nhiều lần như một điệp khúc. Kiểu nói quá nặng! Nhưng ta phải lưu ý một số điều:

1/ Đây là một văn thể mà các ngôn sứ Cựu Ước quen dùng. Khi dùng văn thể này, tác giả không có ý nguyền rủa mà chỉ nhằm 2 ý: một là diễn tả nỗi đau đớn sâu xa của lòng mình; hai là đe dọa để hối thúc người ta ăn năn hối cải.

2/ Nếu như giọng điệu của văn thể này hơi nặng lời, ta cũng cần biết rằng đó không phải là những điều chính xác của Đức Giêsu lịch sử của những năm 28-30, mà là những lời được thuật lại bởi cộng đoàn Kitô vào những năm của thập niên 80 (sau hội nghị Jamnia), khi đó kitô hữu là nạn nhân của nhiều hình thức bách hại gây ra bởi những người pharisêu.

Nếu đếm thì ta thấy có tất cả 8 lời “khốn cho các ngươi”. Tuy nhiên vì những thủ bản có uy tín không chép câu 14, cho nên các nhà nghiên cứu cho rằng tất cả chỉ có 7 lời thôi.


1/ KHÓA CỦA NƯỚC TRỜI (13)

 Claude Tassin nói rằng lời khiển trách đầu tiên này chỉ đạo tất cả những lời khác phía sau.

– “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người pharisêu giả hình”: đối tượng bị Đức Giêsu khiển trách là các kinh sư và pharisêu. Đức Giêsu trực tiếp trách thẳng họ.

Các ngươi khóa cửa Nước Trời… Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không cho vào”: các kinh sư và pharisêu là những người hiểu luật và giải thích luật nên thực sự họ là những người nắm giữ chìa khóa “Nước Trời”. “Nước Trời” ở đây có thể hiểu theo 2 nghĩa: (a) Đó là GH thập niên 80: nhiều người do thái muốn gia nhập GH những bị các kinh sư và pharisêu ngăn cấm; (b) Đó là GH cách chung: những luật lệ do các kinh sư và pharisêu đặt ra quá khắt khe tỉ mỉ làm cho người ta khó mà giữ nổi nên không thể vào GH (CGKPV). Chính họ không muốn vào GH, còn những người khác muốn vào thì họ cũng ngăn cản không cho.

2/ TRUYÊN GIÁO (15)

– “Khốn… Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các ngươi”: những người do thái, đặc biệt là các kinh sư và pharisêu, rất nhiệt thành truyền giáo. Nhưng họ không đưa người tân tòng đến với Thiên Chúa mà lại đưa vào não trạng hẹp hòi và lối sống hình thức của họ.

3/ NHỮNG KẺ DẪN ĐƯỜNG MÙ QUÁNG (16-22)

– “Khôn… những kẻ dẫn đường mù quáng…”: Những người do thái lo cho đám dân ngoại trở lại tự cho mình là “kẻ hướng dẫn những người mù” (Rm 2,19). Đức Giêsu nói chính họ cũng mù không kém gì những người ngoại mới trở lại ấy. Họ là những người mù dắt người mù! Để lấy một bằng chứng về sự dẫn đường mù quáng. Đức Giêsu đề cập đến các lời khấn hứa có kèm theo lời thề. Những kẻ hướng dẫn ấy bám lấy những lời thề. Mà những thứ lời thề này đã bị Bài giảng trên núi bác bỏ (5,33-37). Hơn nữa, do bị thúc đẩy bởi lợi nhuận của hệ thống kinh tài Đến Thờ, họ lại đưa ra nhiều cách giải thích theo ý muốn của họ. Vì thế chuyện thực hiện và giữ những lời khấn hứa trở thành một thứ đạo đức giả. Chính những người dẫn đường mà đã đi lạc như thế thì những kẻ được họ hướng dẫn cũng sẽ lạc theo.

4/ THUẾ THẬP PHÂN (23-24)

– “Khốn… các ngươi nộp thuế thập phân về… mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật…”: để tỏ ra mình thông thái và nhiệt tình với Lề Luật, các kinh sư và pharisêu buộc người ta những cái tỉ mỉ thật phụ thuộc mà Luật không hề nói đến (chẳng hạn bạc hà, thì là, rau muống… so sánh với Lv 24,30-33  Đnl 14,22tt); trong khi đó lại không quan tâm gì đến những điều căn bản và chính yếu của Luật, đó là Công Bình, lòng nhân và thành tín.

5/ RỬA SẠCH BÊN NGOÀI CHÉN ĐĨA (25-26)

– “Khốn… các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ”: các kinh sư và pharisêu rất coi trọng việc rửa tay chân chén đĩa… và đã từng tranh luận với Đức Giêsu về vấn đề này (15,10-20). Đức Giêsu nói điều quan trọng là phải tẩy rửa nội tâm khỏi sự ham hố (“trộm cắp và vô độ”) là những chướng ngại khiến người ta mất tự chủ và chỉ lo tới cái bên ngoài.

6/ NHỮNG MỒ MẢ TÔ VÔI (27-28)

– “Khốn… các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp nhưng bên trong thì đầy dãy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế…”: Đức Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ là do thói quen ở Giêrusalem hằng năm khi đến gần lễ Vượt Qua, người ta quét vôi các ngôi mộ cho khách hành hương thấy rõ mà tránh kẻo đụng vào mà bị ô uế cả tuần (Ds 19,16). Đức Giêsu so sánh cách sống đạo hình thức với những nấm mồ tô vôi ấy. Sự thối nát của thói giả hình và sư thiếu trung tín với tinh thần luật đã bị họ che đậy bằng cái vỏ xinh đẹp là “công chính trước mặt thiên hạ”.

7/ XÂY MỒ CHO CÁC NGÔN SỨ (29-32)

– “Khốn… cho các ngươi xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính… “: Một mặt họ xây mồ cho các ngôn sứ để tỏ ra phản đối chuyện tổ tiên mình đã sát hại các vị ấy, nhưng mặt khác họ căm thù chính Đức Giêsu mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, chẳng những “cha nào con nấy”, mà họ còn tệ hơn tổ tiên họ nữa. Việc làm của họ “đổ thêm cho đầy dấu tội của tổ tiên họ” vì tổ tiên họ chỉ giết các ngôn sứ, còn họ thì sẽ giết chính Đấng Messia. (CGKPV).

LỜI ĐE DỌA CUỐI CÙNG (33-36)

c 33-34 Kể ra những tổn hại mà các kinh sư và pharisêu gây ra:

 “Ta sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các ngươi”: kiểu nói này chỉ nững thừa sai kitô giáo sau này.

 – “Các ngươi sẽ giết… đóng đinh… đánh đòn… lùng bắt…”: Đức Giêsu tiên báo số phận các thừa sai của GH, cũng giống số phận các ngôn sứ Cựu Ước.

c 35-36 đưa ra lời tuyên án: máu các thừa sai ấy sẽ đổ xuống trên đầu những kẻ hữu trách do thái, tức các kinh sư và pharisêu.

 “Từ máu ông Aben… đến máu ông Dacaria… “:Đức Giêsu dùng kiểu nói bao hàm, chỉ cần kể ra tên hai người công chính đầu tiên và cuối cùng của Cựu Ước đã bị giết là Aben và Dacaria, để có ý nói chung tất cả những người công chính bị bách hại.

 

BÀI 57: TRÁCH THÀNH GIÊRUSALEM (23,37-39)

37"Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 38Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. 39Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay, từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! " 

------------------

Sau khi khiển trách các kinh sư và pharisêu. Đức Giêsu trách cứ thành Giêrusalem. “Thành Giêrusalem” ở đây phải được hiểu chẳng những là thành phố và Đền Thờ mang tên Giêrusalem, mà còn là dân thành và tất cả các dân do thái đã từ chối Đức Giêsu.

Bài khiển trách có thể chia thành 3 phần:

1/ VẠCH TỘI (37)

 – Họ đã bách hại các sứ giả của Thiên Chúa, gồm các ngôn sứ của Cựu Ước, chính Đức Giêsu và các thừa sai Tân Ước.

 – Đức Giêsu dùng lại hình ảnh của Đnl 32,11 so sánh Thiên Chúa như con đại bàng xòe cánh che chở lũ con bé nhỏ của mình.

 – Một tấm lòng yêu thương ưu ái như thế mà dân do thái đã từ chối.

2/ TUYÊN ÁN (38)

 – “Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi”: Thiên Chúa không còn coi Giêrusalem là “nhà” của Ngài nữa, nó sẽ chỉ là “nhà của các ngươi” và Thiên Chúa không che chở các ngươi nữa, để mặc họ lo số phận Giêrusalem.

 – Câu này ám chỉ đến biến cố năm 70, Giêrusalem bị tàn phá.

3/ TUYÊN BỐ ĐOẠN TUYỆT (39)

 – “Từ nay các ngươi sẽ không thấy Ta nữa”: Thiên Chúa bỏ Giêrusalem.

 – “cho đến khi các ngươi nói: chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”: Những chữ “chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” là trích Tv 118 nói đến ngày Đức Giêsu tái lâm. Tới ngày đó dân do thái sẽ đọc câu Tv này trong niềm hối hận, nhưng khi đó thì đã quá muộn rồi!


TỔNG THỂ V: PHỤC SINH, LỄ KHÁNH THÀNH NƯỚC TRỜI (Chương 24-28)

(Bài 58-66)

PHẦN DIỄN TỪ (chương 24-25)

   Đây là diễn từ thứ năm trong tất cả 5 diễn từ của tác phẩm Mt.

   Ý chính của diễn từ này là ngày tận thế và việc Đức Kitô quang lâm. Ý tưởng đi liền với ý tưởng trên là lúc những biến cố vô cùng hệ trọng này, người ta phải chọn lựa dứt khoát hoặc đón nhận hoặc từ chối Đức Kitô. Nhưng không phải chờ tới lúc đó mới chọn, mà phải chọn ngay từ bây giờ. Do đó những biến cố ấy và sự chọn lựa ấy có ảnh hưởng tới cách sống hằng ngày trong hiện tại.

   Bố cục

  Nhập đề: 24,1-3.

   Phần I: loan báo các điểm về ngày cánh chung

1.     Những cơn đau khởi đầu: 24,4-14.

2.     Tai họa khủng khiếp: 24,15-25.

3.     Con Người quang lâm: 24,26-31.

* Chuyển tiếp: Dụ ngôn cây vả: 24,32-36.

   Phần II: Trong nhãn quan phán xét ấy, phải sống thế nào?

1.     Dụ ngôn cơn hồng thủy: 24,37-42.

2.     Dụ ngôn kẻ trộm: 24,43-44.

3.     Dụ ngôn người đầy tớ trung tín: 24,45-51.

4.     Dụ ngôn 10 trinh nữ: 25,1-13.

* Để kết luận: Dụ ngôn những nén bạc: 25,14-30

   Phần III: Ngày chung thẩm: 25,31-46.

 

BÀI 58: NHỮNG CƠN ĐAU KHỞI ĐẦU (24,1-14)

1Khi Đức Giê-su từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. 2Nhưng Người nói: "Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ." 3Sau đó, lúc Người ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: "Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế? "

4Đức Giê-su đáp: "Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, 5vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính Ta đây là Đấng Ki-tô", và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. 6Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. 7Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. 8Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.

9"Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. 10Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. 11Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. 12Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. 13Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

14"Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng."

------------------

NHẬP ĐỀ (24,1-3)

c 1 – Các môn đệ chỉ cho Đức Giêsu xem công trình kiến trúc Đền Thờ, Đây là đền thờ do Hêrôđê Cả khởi công từ năm 19 tr.cn. và kéo dài mãi tới năm 64 mới hoàn tất. Như thế lúc diễn ra  chuyện này thì Đền Thờ còn đang xây cất. Dù vậy nó cũng rất đẹp vì vật liệu được dùng toàn là rất quý.

c 2 – Nhân xét này là dịp để Đức Giêsu đưa ra diễn từ thường được gọi là diễn từ chung luận (Trong Mt, diễn từ chung luận này nói tới 3 việc liên kết nhau là phá hủy Đền Thờ, ngày tận thế và việc Tái lâm.

   – Khởi đầu, Ngài tiên báo công trình xinh đẹp ấy sẽ bị phá hủy. Lời tiên tri này cũng đã ứng nghiệm vào năm 70 scn.

   – Chúng ta biết Đến Thờ Giêrusalem chính là trái tim của người do thái. Nếu nó bị phá hủy thì cũng tương tự như trời sập đối với họ. Và do đó, ai nói nó bị phá hủy cũng là nói lộng ngôn phạm thượng, gây phẫn nộ vô cùng đối với dân. Thế những trước kia ngôn sứ Êdêkien đã từng nói tiên tri điều đó (Êd 10,18-22  11,22-25) vì khi đó dân đã lạm dụng Đền Thờ, coi nó như một thứ bùa hộ mạng che chở cho họ, bất chấp họ đang sống trong đủ thứ tội lỗi, nhất là tội bất trung với  Giao ước của Chúa và tội bất công với nhau. Nay Đền Thờ đang được tu sửa lại chưa xong thì Đức Giêsu lại lên tiếng báo việc phá hủy nó. Việc này dĩ nhiên gây xúc phạm lớn.

   – Nên lưu ý những chi tiết đóng khung cho lời tiên tri của Đức Giêsu:

  * Khi ấy Ngài đang “ngồi”, tức là tư thế của một người đang giảng dạy.

  * “Trên núi Ôliu”: chính là vị trí mà lời tiên tri Êdêkien nói về việc Thiên Chúa bỏ Đền Thờ (vinh quang Giavê rời Đền Thờ và đậu lại trên ngọn núi phía Đông thành Giêrusalem trước khi theo dân sang chốn lưu đày).

c 4 – “Bấy giờ các môn đệ tới gặp riêng Ngài và thưa: Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ những sự việc ấy xảy ra, và điền gì báo trước cuộc quang lâm của Thầy, và báo trước tận thế”: Qua câu hỏi này, Mt cho thấy 3 sự kiện được ráp nối lại với nhau: Giêrusalem bị tàn phá, cuộc Quang lâm và ngày tận thế. Đây là 3 vấn đề sẽ được đề cập trong phần thân đề của diến từ chung luận.

NHỮNG CƠN ĐAU KHỞI ĐẦU (4-14)

   Đức Giêsu nói đến những điều có thể khiến các tín hữu hoang mang, như giặc giã (c 6), thiên tai (c 7), kitô hữu bị bách hại (c 9),người thân làm hại nhau (c 10).

   Những điều đó khiến các kitô hữu hoang mang lo lắng và lòng yêu mến của họ bị nguội lạnh đi (c 12). Nhiều kẻ khác mạo danh Đức Giêsu để giải thích rằng đó là dấu báo hiệu sắp tận thế và họ tự xưng là Kitô để lường gạt những kẻ nhẹ dạ (c 5).

   Nhưng Đức Giêsu nói những sự việc đó chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn chứ chưa phải là tận thế và cũng chưa tới lúc Ngài quang lâm (c 8). Do đó Ngài khuyên tín hữu phải bền chí (c 13).

   Nhìn ngược lịch sử, vào cuối những năm 40, đã có những hiện tượng tương tự như thế xảy ra. Khi đó, một mặt có một số tín hữu ngã lòng, đức tin và lòng mến yêu đi; mặt khác, có những kẻ tự nhận mình là Messia để xúi dục dân chúng nổi dậy dẫn đến cuộc chiến chống lại đế quốc Rôma, những người ấy đã bị tàn sát.

   Nhìn theo bình diện “kiểu mẫu”, những lời này của Đức Giêsu vẫn có giá trị cho mọi thời: thời nào cũng có những khốn khó khiến đức tin bị chao đảo, và cũng có những kiểu Messia giả cám dỗ tín hữu lạc xa đức tin vào Đức Kitô.

 

BÀI 59: TAI HỌA KHỦNG KHIẾP (24,15-25)

15"Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người đọc hãy lo mà hiểu! 16thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, 17ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, 18ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. 19Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 20Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. 21Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. 22ếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn.

23"Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: "Này, Đấng Ki-tô ở đây" hoặc "ở đó", thì anh em đừng tin. 24Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. 25Thầy báo trước cho anh em đấy!

------------------

– Cơn đại họa chính là sự xuất hiện của “đồ ghê tởm khốc hại” ngay tại “nơi thánh” (c 15).

– Nó gây ra hai sự khốn đốn: một là cuộc chạy trốn bi đát (cc 16-22), hai là nguy cơ phản đạo (cc 23-24).


1/ CƠN ĐẠI HỌA (15)

– “Đố ghê tởm khốc hại”: Đanien 9,27 đã dùng kiểu nói này để chỉ bàn thờ mà vua Antiôkhiô IV Êpiphanê dựng trong Đền Thờ Giêrusalem năm 168 tr.cn. để kính thần ngoại giáo. Đức Giêsu dùng lại kiểu nói này để ám chỉ việc các đạo quân Rôma, với những cờ hiệu mang hình phượng hoàng, xâm chiếm đất thánh và thành thánh cùng Đến Thờ Giêrusalem rồi đặt tượng thần của họ vào Đền Thánh.

2/ CÁC SỰ KHỐN ĐỐN NHÌN TRÊN BÌNH DIỆN LỊCH SỬ (16-25)

16-22 – Lời Đức Giêsu đã ứng nghiệm: trước khi các đạo quân Rôma vây hãm thành Giêrusalem, các kitô hữu nhớ lời Chúa nên đã bỏ thành rút lên vùng núi Galát tới lánh nạn tại Pela bên kia sông Giođan.

“Ai ở miền Giuđê hãy trốn lên núi, ai ở trên sân thượng thì đứng xuống lấy đồ đạc trong nhà, ai ở ngoài đồng thì đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình”: vì đây là nguy hiểm đe dọa chính mạng sống cho nên điều cần thiết nhất là tẩu thoát nhanh để giữ lấy mạng sống, không được chần chờ, cũng đừng tiếc đồ đạc quần áo.

Cuộc chạy trốn thật kinh hoàng đối với các phụ nữ mang thai và các bà mẹ đang nuôi con dại. Bởi đó Đức Giêsu dặn trước là phải cầu xin Thiên Chúa, mong Ngài đừng để các tín hữu phải chạy vào mùa mưa trên những con đường lấy lội, hoặc vào ngày sabát bởi vì luật đạo do thái không cho người chạy quá một cây số vào ngày đó.

“Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại thì không ai được cứu thoát; nhưng vì những kẻ được chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn”: Thiên Chúa rút ngắn những ngày khốn đốn ấy nhằm mục đích cứu những người công chính. Ngài không muốn để cho họ chịu đựng thử thách quá mức.

23—24 – Khốn đốn thứ hai là nguy cơ phản đạo: khi đó xuất hiện những người mạo nhận mình là Messia. Chúng cũng có thể làm được những phép lạ nên gạt được cả những tín hữu tốt.

25 – Trên đây là những thử thách Thiên Chúa dùng để thử các tín hữu Ngài. Tuy nhiên Đức Giêsu cho biết trước như thế để các tín hữu đề phòng đừng bị lường gạt.

3/NHÌN TRÊN BÌNH DIỆN KIỂU MẪU

   Ở mọi thời vẫn còn có thể xuất hiện”đồ ghê tởm khốc hại” và những khốn đốn mà nó gây ra. Sách Khải Huyền cảnh giác rằng các kitô hữu sẽ gặp những kẻ còn xấu xa hơn cả Nêrôn

   Trong những hoàn cảnh khốn đốn như thế, Mt khuyên các tín hữu một mặt phải tìm chỗ ẩn náu vì không nên mạo hiểm vô ích khi mình còn có thể tìm chỗ trú an toàn, mặt khác hãy cầu xin Thiên Chúa che chở mình và rút ngắn thời gian thử thách ấy. Họ cũng phải tỉnh táo đừng để đức tin mình bị lung lạc bởi những kẻ rao giảng những thứ thuyết cứu độ khác ngoài Đức Kitô

 

BÀI 60: CON NGƯỜI QUANG LÂM (24,26-31)

26"Vậy, nếu người ta bảo anh em: "Này, Người ở trong hoang địa", anh em chớ ra đó; "Kìa, Người ở trong phòng kín", anh em cũng đừng tin. 27Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. 28Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó.

29"Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 30Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. 31Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.

------------------

1/ CUỘC QUANG LÂM (26-28)

26 – “Vậy…”: Ý tưởng đoạn này tiếp nối đoạn trước nói về những kẻ mạo nhận là Messia. Khi đó sẽ có những người khoác lác chỉ cho các kitô hữu rằng Đấng Messia ở chỗ này chỗ nọ.

“Nếu người ta bảo anh em: Này Ngài ở trong hoang địa, anh em chớ ra đó”: “Hoang địa” ám chỉ vùng bờ biển Chết, nơi những người phái Êssêni đang chờ đợi thời đại mới mà họ ngĩ là Đấng Messia sẽ đến khai mạc; cũng nơi đó, vào những năm 70, những kẻ tự cho mình là cứu tinh dân tộc đã nổi dậy chống đế quốc Rôma, Đức Giêsu cảnh báo trước rằng tất cả chỉ là những Messia giả. Đừng tin và theo họ

“Kìa người ở trong phòng kín”: Có một số người khác thì cho rằng phải tìm Đấng Messia “trong đáy nhà”, nói chính xác hơn là tại các hầm trữ lương thực (tức là chỗ cất giấu thích hợp, bởi vì trong số những nơi người ta thường ra vào, đây là chỗ duy nhất có khóa gài). Đức Giêsu bảo trước là đừng tin như thế.

27 – Đấng Messia đích thực không xuất hiện từ nhóm người lánh mình trong hoang địa (Êssêni, quân du kích), hay từ một giáo phái nào đó. Vinh quang Ngài sẽ tỏa sang một cách công khai trước tất cả mọi người không khác nào tia chớp xé ngang bầu trời trong cơn giông bão.

28 – Sự giáng lâm của Con Người không thể nào thoát khỏi sự hiểu biết của loài người, cũng như xác chết không thoát khỏi đôi mắt của diều hâu.

2/ HIỆN TƯỢNG CỦA NGÀY QUANG LÂM (29-31)

   Điều cần lưu ý đầu tiên là những hiện tượng này không phải là những sự kiện chính xác cụ thể, trái lại chúng là những hình ảnh của văn thể khải huyền tượng trưng cho sự trở về tình trạng hỗn mang trước khi phát sinh một cuộc tạo dựng mới.

29 – Văn hóa hy lạp ngoại giáo hay thần thánh hóa các tinh tú. Vì thế câu này có nghĩa là khi đó các thế lực gian tà mà bấy lâu nay người ta dựa vào như là thần thánh  đều sẽ bị lung lay và sụp đổ.

30 – “Bấy giờ dấu hiệu Con Người sẽ xuất hiện trên trời”: một số giáo phụ hiểu theo nghĩa đen nên giải thích đó là dấu Thánh Giá. Thực ra, Đức Giêsu không nói rõ đó là dấu gì, nên ta cũng chỉ có thể giải thích là sẽ có dấu chỉ cho người ta biết Ngài giáng lâm.

– “mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực…”:  những kẻ gian tà phải đấm ngực than van vì họ biết giờ xét xử họ sắp đến.

“Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến”: Khi quang lâm, Đức Giêsu sẽ xuất hiện trong tư cách Thẩm phán uy nghi.

31 – “Ngài sẽ sai các thiên sứ thổi loa”: Trong Thánh Kinh, tiếng loa báo hiệu những giai đoạn khác nhau tron chương trình của Thiên Chúa. Ở đây tiếng loa báo bắt đầu thời cánh chung.

“tập hợp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương trời…”: Trong thời cánh chúng ấy, tất cả những tín hữu trung thành được quy tụ lại để mãi mãi ở với Chúa trong Nước của Ngài.


BÀI 61: DỤ NGÔN CÂY VẢ (24,32-36)

32"Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. 33Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 34Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 35Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 36Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi. 

------------------

Trong lúc loan báo các dấu chỉ về thời cánh chung, Đức Giêsu không quên câu hỏi mà các môn đệ nêu ra trước đó “Khi nào sự ấy sẽ xảy đến” (c 3). Ngài đưa ra câu trả lời gồm 3 điểm:

1/ Phải đón chờ ngày cánh chung ấy như người ta chờ đợi một vụ mùa (cc 32-33). Dụ ngôn cây vả muốn nói như sau: Các ngươi biết dựa vào những hiện tượng của cây vả để nhận ra mùa hè đang đến gần, thế thì cũng phải dựa vào những điều Ta đã nói để biết rằng Con Người đã đến rất gần rồi.

2/ Ngày cánh chung chắc chắn sẽ đến và ngày đó chắc chắn có can hệ đến mỗi người (cc 34-35).

Câu “thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi điều ấy xảy ra” gây khó khăn nhiều cho việc giải thích rằng Đức Giêsu muốn nói đến biến cố thành Giêrusalem bị sụp đổ. Biến cố này xảy xảy ra ngay trong khi các môn đệ của Ngài còn sống; Có người khác giải thích “thế hệ” là thế giới, vũ trụ, và “qua đi” là biến mất. Như vậy câu này có nghĩa: thế hệ này sẽ biến mất, giống như hình thái vũ trụ hiện tại vậy. Những lời Đức Giêsu không biến mất mà lại được xác nhận trong tương lai (Claude Tassin); Có người giải thích rằng cho dù đối với một số thế hệ loài người, ngày quang lâm và tận thế chưa xảy ra những ý nghĩa những lời Chúa nói vẫn có giá trị cho họ: dù chưa đến tận thế và quang lâm, nhưng từng thế hệ cũng sẽ qua đi và Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi thế hệ dựa trên những cơ hội giúp họ tiến bộ. Ngài sẽ xét coi họ đã xử dụng hay bpr qua những cơ hội đó (Claude Tassin).

3/ Tuy nhiên không một ai biết đích xác biến cố chung cục ấy sẽ đến vào ngày nào, giờ nào. Chính Con Người cũng không biết.

 

BÁI 62: HÃY TỈNH THỨC (24,37-44)

37"Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; 41hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

42"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.

------------------

1/ Trong phần đầu của diễn từ (cc 1-36). Đức Giêsu nói rằng việc Con Người đến là chắc chắn hiển nhiên. Sang đến cc 37-41, Ngài chuyển sang một ý tưởng khác: việc đó xảy đến bất ngờ.

2/ Việc Con Người đến được diễn tả bằng chữ Parousia. Đây là một chữ mà chỉ có Mt xử dụng (24,3.27.37.39) trong tất cả Tin Mừng. Trong thế giới hy lạp, chữ này được dùng để chỉ việc một ông vua ngự giá đến một nơi nào đó (“Thánh Thượng giá lâm”). GH khởi thủy đã dùng chữ này để chỉ việc Đức Kitô đến vào ngày tận thế, và khi Ngài đến thì Ngài mở cuộc phán xét chung. Do đó hai ý tưởng giáng lâm và chung thẩm gắn liền nhau trong biến cố tận thế.

3/ Đức Giêsu diễn tả biến cố này bằng hình ảnh một cơn lụt hồng thủy mới. Biến cố này là một thảm họa thình lình ập đến: chẳng có dấu hiệu nào báo trước, vì thế người ta vẫn sống bình thường (ăn uống, dựng vợ gả chồng) trong khi hiểm họa đang treo sẵn trên đầu họ, có thể ập xuống bất cứ lúc nào. Vì thế đừng đợi tới lúc đó mới giật mình, mà hãy lo mở mắt thức tỉnh ngay từ bây giờ.

4/ Chẳng những thình lình bất ngờ, biến cố đó còn xảy đến tức thì khiến người ta không có thì giờ và phương tiện để chuẩn bị. Khi đó sẽ có một sự chọn lọc lớn: ai có chuẩn bị sẵn thì được mang đi, ai chưa chuẩn bị thì bị bỏ lại (cc 40-41: đem đi là đem vào Nước Trời, bỏ lại là bỏ lại trong sự hủy diệt). Sự chọn lọc này được diễn tả bằng hai dụ ngôn:

– Hai người cùng làm việc ngoài đồng

– Hai phụ nữ cùng xay một cối bột

5/ Hai dụ ngôn này, Đức Giêsu mượn từ những dụ ngôn do thái. So sánh với tài liệu do thái mang tên Apocalypse de Sophonic (1,8-16) ta thấy có những chi tiết giống nhau đến nỗi đáng ngạc nhiên: “Khi ấy tôi thấy hai người đang cùng đi trên cùng một con đường, tôi nhìn họ trong lúc họ nói chuyện với nhau, tôi cũng thấy hai phụ nữ đang cùng xay một cối, tôi nhìn thấy họ trong lúc họ nói chuyện với nhau, và tôi thấy hai người đang ngủ chung trên một chiếc giường”.

  Những hình ảnh này nói lên ý tưởng những người vô tư và bề ngoài hoàn toàn giống nhau (cùng làm chung một việc, cùng nghỉ ngơi một giường) bề ngoài chẳng có gì phân biệt. Vậy mà khi biến cố ấy chụp xuống một cách bất ngờ và tức khắc thì sự chọn lọc xảy ra đưa đến những số phận khác nhau: người thì được đưa vào vùng ánh sáng, kẻ thì bị bỏ lại trong tối tăm.

6/ Vì thế, tín hữu phải luôn tỉnh thức. Đây không phải là một sự tỉnh thức thụ động ngồi đây mà chờ, cũng chẳng phải là một sự tỉnh thức nôn nóng đến nỗi không làm gì được nữa cả, mà là sự tỉnh thức tích cực hoạt động được diễn tả sau đó bằng những dụ ngôn khác: như người quản gia tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm được giao (24,45-51), như các trinh nữ cầm sẵn đèn cháy sáng trên tay để chờ chàng rể đến (25,1-13), như người biết cần cù làm cho những nén bạc sinh lời (25,14-30).

7/ Đặc biệt là hình ảnh tên trộm. Nhiều lần khác Tân Ước cũng xử dụng hình ảnh này, như 1Tx 5,2-4; 2P 3,10; Kh 3,3  16,15. Hình ảnh này rõ rang là khởi sự từ đoạn này của Mt( vì chẳng thấy nó trong bất cứ văn bản Cựu Ước nào cả). Khi Mt xử dụng hình ảnh này thì không cố ý so sánh tên trộm với Đức Giêsu, ý của Mt là nhấn mạnh đến tính bất ngờ của biến cố quang lâm thôi.

 

BÀI 63: NGƯỜI TÔI TỚ TRUNG TÍN (24,45-51)

45"Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? 46Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. 47Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 48Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: "Còn lâu chủ ta mới về", 49thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, 50chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, 51và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

------------------

Sau khi tiên báo thành Giêrusalem bị sụp đổ và ngày tận thế cùng biến cố quang lâm, rồi kêu gọi các kitô hữu tỉnh thức. Đức Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để minh họa cho thái độ tỉnh thức ấy:

– Dụ ngôn người đầy tớ trung tín: 24,45-51.

– Dụ ngôn 10 cô trinh nữ: 25,1-13.

– Dụ ngôn những nén bạc: 25,14-30.

   Sau đây ta tìm hiểu dụ ngôn người đầy tớ trung tín. Chìa khóa giúp giải thích dụ ngôn này là câu 48: Người đầy tớ ấy tự nhủ “Chủ t còn lâu mới về”. Chi tiết này ám chỉ tâm trạng các kitô hữu trước viễn ảnh xa vời của việc Chúa giáng lâm. Và như thế người đầy tớ là hình ảnh của mọi kitô hữu.

   Trước viễn ảnh không biết chính xác ngày giờ cuộc Giáng lâm, người đầy tớ có thể phản ứng 2 cách dẫn đến 2 kết quả:

a/ Trong trường hợp đầu (cc 45-47) người chủ về bất ngờ và gặp người đầy tớ đang hăng say chu toàn cách “trung tín” phận sự được giao. Bấy giờ anh ta sẽ được ủy thác những trách nhiệm lớn lao hơn.

b/ Trường hợp thứ hai (và cũng là trường hợp mà dụ ngôn này nhấn mạnh – cc 48-51). Người đầy tớ cứ đinh ninh chủ  sẽ về trễ nên quên thân phận mình, bày biện tiệc tùng như ta đây chính là chủ, rồi đánh đập bè bạn như thể họ là tôi tớ riêng của mình. Bấy giờ anh ta đáng bị trừng phạt. Đây là cám dỗ mà các kitô hữu thường gặp: họ dễ quên rằng mình là đầy tớ của Chúa và là anh em của những người khác cũng là đầy tớ Chúa như mình. Do quên thân phận như thế, ta sống như thể ta không phải trả lẽ gì cả.

 

BÀI 64: DỤ NGÔN 10 TRINH NỮ (25,1-13)

1"Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. 4Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. 5Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi! " 7Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! " 9Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." 10Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! " 12Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! " 13Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. 

------------------

   Một trong những phần lễ nghi của một đám cưới do thái là cuộc rước dâu. Diễn tiến như sau: Cô dâu và các cô phụ dâu trang điểm xinh đẹp chờ sẵn bên nhà cha mẹ cô dâu. Riêng cô dâu phải mang mạng che mặt. Bên gia đình đàng trai, chú rể và các bạn phù rể cũng trang điểm xinh đẹp. Xong xuôi phái đoàn đàng trai đi đến nhà đàng gái để rước. Rồi cả hai đoàn nhập lại thành một cuộc rước cô dâu về đàng trai. Nếu đám cưới tổ chức ban đêm thì những người tham dự phải mang đèn theo.

   Lại có một kiểu rước dâu khác như sau: Người ta rước cô dâu về chờ sẵn bên gia đình chú rể, nhưng tiệc liên hoan chưa bắt đầu. Phần chàng rể thì phải sang gia đình cha mẹ cô dâu để thỏa thuận với nhau về những điều kiện của hôn ước (chẳng hạn về số tiền Mohar). Khi chàng rể đã thỏa thuận xong thì mới trở về nhà, nơi đó đã có sẵn cô dâu và các cô phù dâu. Lúc chàng rể về tới thì mới bắt đầu tiệc liên hoan.

   Chi tiết chàng rể về muộn trong dụ ngôn này cho thấy có lẽ trường hợp này theo kiểu rước thứ hai. Sở dĩ chàng rể về muộn là vì phải mất giờ thương lượng cho xong về các điều kiện của hôn ước.


   Có một số chi tiết là ngụ ngôn: Chàng rể là Đức Kitô; 10 trinh nữ là cộng đoàn kitô đang chờ đợi ngày Parousia.

   Tuy nhiên còn một số chi tiết không thể nào cắt nghĩa theo ngụ ngôn được, như: đèn là gì, dầu là gì?

   Vậy đây là một dụ ngôn được ngụ ngôn hóa trong một vài chi tiết.


   Trong số 10 cô phù dâu, có 5 cô được đáng giá là “khờ dại” và 5 cô “khôn ngoan”. Nhưng “khờ dại” và “khôn ngoan” nghĩa là gì?

   Trong nguyên văn hy lạp, khờ dại là môros. Mt cũng dùng tĩnh từ này khi nói về người xây nhà trên cát, với ngụ ý nói tới người nghe Lời Chúa mà không dám đem ra thực hành (7,26-27). Một lần khác (23,17) Mt cũng dùng tĩnh từ này để nói tới những người biệt phái do óc tỉ mỉ vụ luật theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư nên không còn biết nhận ra cái gì là chính, cái gì là phụ trong bậc thang các giá trị. Nếu dịch chữ moros là “khùng điên” thì quá nặng. Có lẽ ta nên hiểu chữ này là: thiếu óc phán đoán (như biệt phái). Không nhìn xa trông rộng (như người xây nhà trên cát), cho nên phải đi tới hậu quả là hư hao (nhà trên cát sẽ sập) và hỏng việc (lỡ dịp nhập tiệc với chàng rể).

   Còn “khôn ngoan” trong nguyên văn là phronimos. Tính từ này Mt cũng dùng khi nói về người xây nhà trên đá với ngụ ý là biết đem Lời Chúa mnhf đã nghe ra thực hành (7,24); khi nói về người môn đệ Đức Giêsu phỉa phronimos như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu (10,16); và khi nói về nười tôi tớ “tín trung và phronimos mà chủ đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà để đến giờ thì phân phát lương thực cho họ” (24,45). Như vậy phải hiẻu chữ phronimos theo nghĩa: vừa biết nhận định chính xác về sự việc, vừa kiên quyết thi hành theo điều mình nhận định.

   Nếu hiểu theo ngụ ngôn, nghĩa là 10 trinh nữ này là hình ảnh của cộng đoàn Kitô và việc chàng rể đến là hình ảnh ngày Parousia, thì ta phải lưu ý thêm chi tiết này nữa: trong đoàn dự tiệc ban đầu có tất cả 10 cô, nhưng có 5 cô vì là môros nên không được dự tiệc. Ý nghĩa là: mặc dù mọi người trong cộng đoàn Kitô đều được mời, nhưng không phải chỉ nhờ nguyên sự kiện đang ở trong GH mà đương nhiên được cứu rỗi đâu, còn phải tỏ ra là phronimos nữa, nghĩa là phải khôn khéo và cương quyết đem Lời Chúa rat hi hành nữa.


   Chi tiết này cũng có nghĩa ngụ ngôn: Ngày Parousia sẽ đến trễ. Ban đầu các Kitô hữu tưởng Parousia đã gần kề. Nhưng càng ngày càng thấy nó đến chậm. Từ đó họ đâm ra chểnh mảng, bớt lòng sốt sắng ban đầu.

   Với chi tiết này, Mt muốn nói rằng: mặc dù Parousia đến trễ nhưng tín hữu không được nguội lạnh và chểnh mảng, trái lại chính vì nó đến trễ cho nên phải luôn luôn sẵn sàng (như đèn luôn có đủ dầu). Chữ “tỉnh thức” ở c 13 không có ý là cấm ngủ, vì thực tế cả 10 cô đều đã ngủ. Chữ này muốn nói tới một sự “tỉnh thức tích cực” như đoạn trước. Tuy 5 cô khôn ngoan cũng ngủ, nhưng họ có quyền ngủ, có thể yên tâm ngủ, vì dù ngủ mà cũng như họ tỉnh thức, bởi đã chuẩn bị sẵn mọi việc.


   Chi tiết ở câu 6 xem ra không thực: Thông thường chàng rể đến phải có những dấu hiệu báo trước, chẳng hạn tiếng nhạc, tiếng hát ca từ xa vọng tới, hay có ai đó chạy trước báo tin. Không thể đột ngột chàng rể đã đứng ngay trước cửa như từ trời rơi xuống. Do đó chi tiết này cũng có nghĩa ngụ ngôn: ngày Chúa đến sẽ rất bất ngờ, bất ngờ đến nỗi cho dù ta đang chờ đợi cũng không dè là nó lại đến vào một lúc như thế. Trước tình huống bất ngờ này, chỉ có những ai đã có dự tỉnh thức tích cực như 5 cô khôn ngoan thì mới sẵn sàng vào tiệc với chàng rể.

   Còn những cô “khờ dại” đợi tới lúc đó mới lo chuẩn bị thì đã quá muộn. Ý nghĩa là không nên chờ tới phút chót mới chuẩn bị, không được chờ nước tới trôn mới nhảy!

  5 cô khờ dại này lúc đó bối rối vay mượn dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan đã từ chối. Chi tiết này không có nghĩa là ích kỷ, mà muốn nói lên ý nghĩa này: tới giờ phút quyết định ấy, chẳng ai giúp ai được nữa, số phận mỗi người hoàn toàn tùy thuộc sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó của họ.


6.  Giải thích chi tiết

c 1 – “Mười cô trinh nữ”: tuy băn văn viết là “trinh nữ” nhưng thực ra không nhất thiết là trinh nữ, chỉ cần hiểu là “thiếu nữ” thôi cũng đủ.

c 12 – “Ta không biết các ngươi”: không phải là nói dối. Theo cách nói do thái, nói như vậy hàm ý phủ nhận không chịu nhìn.

c 13 – “Hãy tỉnh thức”: không có nghĩa là “không được ngủ”, mà có nghĩa là phải sẵn sàng.


7. Kết luận

  Kitô hữu ngay từ bây giờ phải tỉnh thức sẵn sàng, nghĩa là phải trung thành thực hành những gì đã được nghe dạy. Có như vậy đến GIỜ của Chúa, họ mới có thể  vào dự tiệc cưới với Ngài, bởi vì không thể đợi đến phút chót mới lo, cũng không thể hy vọng đến phút chót sẽ được ai tiếp cứu.

 

BÀI 65: DỤ NGÔN NHỮNG NÉN BẠC (25,14-30)

14"Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. 19Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. 20Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây." 21Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! " 22Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây." 23Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! " 24Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy! " 26Ông chủ đáp: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! 28Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. 29Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng." 

------------------

   Dụ ngôn này gồm nhiều chi tiết:

– Ông chủ đi xa.

– Trước khi đi ông giao tiền cho tôi tớ.

– Tôi tớ xử lý tiền như thế nào.

– Tôi tớ báo cáo và chủ thưởng phạt.

   Nếu tính theo số câu mà Mt dùng để mô tả các chi tiết thì chi tiết thứ nhất chỉ có ½ câu, chi tiết thứ hai 1,1/2 câu, chi tiết thứ ba 3 câu, chi tiết thứ tư 12 câu. Nhận xét này đủ cho ta thấy các chi tiết 1,2 và 3 (chủ đi xa, giao tiền, tôi tớ xử dụng tiền) chỉ làm nhập đề cho chi tiết chính là chi tiết thứ tư: báo cáo cách xử dụng tiền.

– Về việc báo cáo cách xử dụng tiền, có 3 người tôi tớ trong đó hai tôi tớ trước được Mt mô tả mỗi người chỉ bằng hai câu, tổng cộng cả hai được 4 câu; riêng tôi tớ thứ ba được mô tả tới 7 câu. Điều này lại cho thấy tác giả lại nhấn mạnh vào tôi tớ thứ ba. Hơn nữa tổng số câu nói về hai tôi tơ kia là 4 câu, số câu nói về tôi tớ thứ ba là 7 câu. Vậy có thể đoán ở đây Mt xử dụng bút pháp đối chiếu. Mà theo bút pháp này, vế thứ nhất không quan trọng, nó chỉ dùng để làm nổi bật vế thứ hai mà thôi (xem thêm các thí dụ trong Sách Quan Án chương 9, trong dụ ngôn gieo giống. dụ ngôn các thợ vườn nho, dụ ngôn đứa con đi hoang…). Như vậy điểm nòng của dụ ngôn này là báo cáo của người tôi tớ thứ ba (không làm tiền sinh lời).


– Câu mở đầu dụ ngôn này (c 14) trong nguyên bản hy lạp là: “Bởi vì về Nước Trời cũng giống như người sắp trẩy đi xa…”. Rất tiếc là hầu hết các bản dịch, kể cả bản dịch BJ, đều bỏ sót chữ “Bởi vì” này. Mà đây lại là một chữ rất quan trọng, nó nối kết dụ ngôn này với câu cuối (c 13) của dụ ngôn trước: “Vậy các con hãy tỉnh thức (c 13)… Bởi vì Nước Trời cũng giống như người sắp trẩy đi xa… (c 14)”.

– Nếu ta để ý tới chữ “bởi vì” này thì ta sẽ khám phá dụ ngôn này nối tiếp nhau. Nếu dụ ngôn trước đó (10 trinh nữ) nói về sự tỉnh thức thì dụ ngôn này (các nén bạc) cũng nói về sự tỉnh thức.

– Thêm một chi tiết củng cố cho suy nghĩ này: ở câu 19 của dụ ngôn này, Mt ghi “Sau một thời gian lâu dài”. Chi tiết này tương ứng với một chi tiết trong dụ ngôn 10 trinh nữ, đó là ở câu 5 “Vì tân lang đến trễ”. Rồi trong một dụ ngôn trước đó nữa (dụ ngôn về người quản gia) ở c 24,28. Người tôi tớ xấu nghĩ trong lòng rằng “chủ tôi về trễ”. Những chi tiết tương ứng nhau như vậy buộc ta phải nghĩ tới vấn đề mà các Kitô hữu sơ khai gặp phải, đó là sự trở lại của Đức Kitô: Ban đầu họ nghĩ là Ngài sắp sửa trở lại ngay, nhưng càng về sau càng không thấy Ngài trở lại, vì thế mà có người ngao ngán buông trôi không tỉnh thức nữa. Mt dùng một loạt dụ ngôn này để khuyên nhủ họ dù Đức Kitô chậm trở lại, nhưng cũng phải tỉnh thức.


– Trong c 26 của dụ ngôn này, người tôi tớ đào lỗ chôn tiền bị phán cho tĩnh từ “biếng nhác”. Thực ra nếu ta suy nghĩ cho kỹ, thì chưa chắc gì anh biếng nhác hơn là nếu nah làm theo gợi ý của chủ: đào lỗ chôn tiền cũng cực nhọc hơn so với cứ giao tiền cho ngân hàng: Chi tiết này khiến ta nghĩ rằng Mt xử dụng các tĩnh từ không theo nghĩa chính xác của khung cảnh câu chuyện, mà có ý giáo huấn các Kitô hữu.

– Đây là thói quen của Mt. Theo thói quen này Mt đã gọi người xây nhà trên cát là ngu, người xây nhà trên đá là khôn (7,24-26) người quản gia lơ là nhiệm vụ là xấu. So sánh với Lc cũng kể hai chuyện này, ta không thấy những tĩnh từ đó trong bản văn của Lc (Lc 6,47-49 và 22,42-46), Mt và Lc đều kể câu chuyện người bất toại, nhưng Mt bảo các luật sĩ là có những tư tưởng xấu. trong khi Mc không ghi tĩnh từ này (so sánh Mt 9,4 với Mc 2,8). Mt và Lc cũng nói một chuyện những chỉ có Mt là bảo các ký lục và biệt phái là giả hình (so sánh với Mt 23,13-29 với Lc 11,39-52). Các chi tiết vừa nêu cho thấy Mt rất quan tâm giúp các độc giả mình phán đoán các chuyện ông viết.

– Vậy Mt muôn giúp ta phán đoán thế nào về các nhân vật trong dụ ngôn này? Hai người tôi tớ đầu được Mt fán cho tĩnh từ “tốt” “trung tín” trong khi Lc chỉ có tĩnh từ “tốt”(Lc 19,17  Mt 25,21-23). Người tôi tớ thứ ba Lc bảo là “xấu” (Lc 19,22) còn Mt bảo “xấu  và lười biếng” (Mt 25,26) và “vô dụng” (c 30). Nghĩa là Mt xử dụng thêm ba tĩnh từ: trung tín, lười biếng vô dụng. Tại sao thế? Hãy xem tiếp.

– Ở đầu dụ ngôn, Mt kể những tôi tớ tốt và trung tín tức thì đem tiền nhận được đi sinh lợi, Lc không ghi chi tiết này. Ngụ ý của Mt là muốn đối chọi thái độ “mau mắn” này với thái độ “biếng nhác: của người tôi tớ thứ ba. Vậy “trung tín” là tích cực, còn “biếng nhác”là thụ động như vậy cung là vô dụng.

– Trong những lời phán quyết của ông chủ có những chi tiết vượt quá sự thật: hai tôi tớ “trung tín” được mời vào nếm “sự vui mừng”; còn tôi tớ “biếng nhác và vô dụng” dù bị đuổi vào “nơi khóc lóc nghiến rang”. Các chi tiết này mang âm điệu  cánh chung và cho thấy quan tâm của Mt muốn dạy một bài học cho tín hữu mình.

– Bài học của Mt là: dù ngày Parousia đến trễ nhưng vẫn phải tỉnh thức. Tỉnh thức cũng có nghĩa là cứ trung thành thi hành nhiệm vụ của mình. Và trung thành thi hành nhiệm vụ không phải chỉ là nghe lời thôi. Nhưng còn là phải có sáng kiến để sao nhiệm vụ được thi hành tốt nhất, bởi vì “cứ chiếu theo tài trí mỗi người” (c 15).


– Trong nguyên bản, “nén bạc” là talent, một đơn vị tiền tệ trị giá 10.000 denier (denier bằng lương một ngày của một người thợ trung bình).

– Dĩ nhiên Mt không có ý coi những talent này chỉ là những số tiền, mà là những ơn mà Thiên Chúa ban cho người ta.

– Ơn đó là ơn gì? Có nhiều lối giải thích: đó là những tài năng, những hoàn cảnh thuận tiện, những ơn siêu nhiên… Nhưng nếu ta chú ý tới quan tâm của Mt thì trước hết đây là ơn được nghe Tin Mừng, và được hiểu Tin Mừng (“mỗi người theo tài trí của mình” c 15). Người môn đệ tốt và trung tín là kẻ không nghe suông, mà còn đem ra thực hành, ứng dụng vào cách sống hằng ngày của mình.

 

BÀI 66: NGÀY CHUNG THẨM (25,31-46)

31"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." 37Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " 40Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." 41Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." 44Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu? " 45Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." 46Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời." 

------------------

Ít ra có hai lối giải thích câu này:

1/ Đây là tất cả mọi dân trên thế giới (Trilling, Feuillet, Jeremias, J.Broer…).

2/ Đây chỉ là những dân tộc nào đã được loan báo Tin Mừng và đã thành Kitô hữu. (J.R. Michaels, A.Descamps…).

   Lối giải thích 1 hợp lý hơn, vì thuật ngữ ta ethuê mà Mt quen dùng có nghĩa là tất cả mọi dân tộc. Chẳng hạn hãy xem Mt 4,15   6,32  24,9-14  28,19. Các Tin Mừng nhất lãm khác cũng dùng thuật ngữ này với ý nghĩa đó, xem Mc 13,10; Lc 24,27…

   Có phải những dân ấy đã được loan báo Tin Mừng hết chăng? Một số nhà chú giải nghĩ như vậy, vì họ đưa vào Mt 24,14 “Tin Mừng Nước Chúa sẽ được loan báo khắp thế gian… rồi khi ấy mới là ngày cung tận”. Légasse dựa vào câu trên nên cho rằng tới ngày chung thẩm thì tất cả mọi dân tộc đã được loan báo Tin Mừng. tuy nhiên Mt không có ý nói thế, Mt chỉ có ý nói rằng Tin Mừng được loan báo khắp nơi thôi. Do đó dù cho tất cả mọi dân đều đã được loan báo Tin mừng, nhưng không nhất thiết từng người được nghe Tin Mừng. Vì thế có thể là tới ngày chung thẩm, dân tộc nào cũng có những người đã nghe Tin Mừng và cũng còn nhiều người chưa nghe.

1 Nhiều nhà chú giải cho rằng “Những kẻ bé mọn” là các môn đệ của Đức Kitô, hay rỏ hơn nữa, đí là “những môn đệ có sứ mạng rao giảng Tin Mừng”; Họ nghĩ như vậy vì những lý do sau:

   a/ Trong Tin Mừng Mt mỗi lần nói tới “Những kẻ bé mọn” thì đều có nghĩa là các môn đệ

   b/ Mt (không giống như Lc) không mấy quan tâm đến những người nghèo nàn khổ sở, do đó không nên hiểu thuật ngữ trên ám chỉ giới nghèo khổ.

   c/ Giả sử thuật ngữ “hết mọi dân” có nghĩa là những dân đã được nghe Tin Mừng thì phải hiểu “những kẻ bé mọn” là những môn đệ rao giảng Tin Mừng ấy

   d/ Trong Mt 10,42, Đức Giêsu xem sự đón tiếp dành cho các môn đệ cũng là dành cho chính Ngài.

2- Nhưng nhiều nhà chú giải khác muốn hiểu “những kẻ bé mọn” là nói chung về tất cả những người lâm cảnh nghèo khổ. Họ trả lời cho những lập luận của nhóm một ở trên như sau:

a) Đành rằng Mt thường dùng thuật ngữ này đẻ chỉ các môn đệ. Nhưng tất cả đền trong những huấn từ Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ.

b) Hẳn nhiên là Mt không quan tâm như Lc đối với những người nghèo khổ. Nhưng như thế không có nghĩa là Mt hoàn toàn bỏ quên họ đến nỗi không có lần nào nói tới họ. Ngoài ra cần nhớ rằng Lc viết cho lương dân nên phải nhấn mạnh tới những việc phục vụ người nghèo khổ, cìn Mt viết cho người do thái vốn đã được chỉ dạy giúp đỡ người nghèo khổ rồi, không cần lập lại nhiều. (Hãy xem những giáo huấn của các ngôn sứ).

c) Về lập luận (c) trước tiên phải chứng minh thuật ngữ “hết mọi dân” là những dân đã nghe Tin Mừng, rồi sau đó mới suy ra “những kẻ bé mọn” là các môn đệ được. Mà như đã trình bày ở phần I, ta không thể hiểu “hết mọi dân” chỉ là những dân được nghe Tin Mừng.

   d) Trong Mt 10,42 Đức Giêsu có đồng hóa “những kẻ bé mọn” với các môn đệ Ngài, nhưng cũng có thêm “trong tư cách họ là môn đệ”. Cũng thế trong Mt 18,5 Ngài nói đến việc tiếp rước “những kẻ bé mọn” “vì Danh Thầy”. Còn trong dụ ngôn ngày chung thẩm, không có thêm những chữ như trên.

   Ngoài ra còn vấn nạn này nữa: Nếu Đức Kitô đang phán xét các dân về thái độ họ tiếp rước các môn đệ, tại sao Ngài chỉ dựa vào tiêu chuẩn vật chất, mà lại không theo các tiêu chuẩn khác hợp lý hơn, chẳng hạn có lắng nghe Lời Giảng hay không, có đức tin không, có nhận Phép Rửa không?

   Thêm một vấn nạn nữa: Nếu xem “những kẻ bé mọn” là tất cả mọi người khốn khổ, bất kỳ họ có là môn đệ Đức Giêsu hay không thì cuộc phán xét của Đức Giêsu mới hợp lý. Tất cả những ai (môn đệ Đức Giêsu hay không) nếu gặp một người khốn khổ (môn đệ hay không) mà rat ay cứu giúp thì sẽ được thưởng, còn ngược lại thì sẽ bị phạt. Có như vậy mới là chung thẩm, nghĩ là cuộc phán xét tất cả mọi người.


c 32 – “Tách chiên ra khỏi dê”: ở Palestina các mục tử dẫn một đoàn trong đó có chiên và dê lẫn lộn nhau. Đến tối họ mới tách riêng ra. Lý do là chiên thì quý hơn, tách riêng để coi chừng cẩn thận hơn; hơn nữa, chiên có nhiều lông nên để riêng, dê ít lông phải để riêng ở chỗ ấm áp hơn.

c 37 – Không phải những người lành đã quên những sự giúp đỡ đối với kẻ khốn khổ mà thực là họ không biết rằng kẻ khốn khổ là hiện thân của Đức Giêsu Kitô. Ý nghĩa trọn vẹn của việc lành họ làm chỉ được hiện rõ vào giờ cuối cùng, Tư tưởng này phù hợp với quan điểm chung của Mt (Mt 6,4: “Còn ngươi, Đấng thấu suốt cõi thầm kín sẽ trả công cho ngươi”).

40-45 – hãy chú ý động từ làm được xử dụng 4 lần. Đức Giêsu nói bằng tiếng Aram. Động từ “abad” vừa có nghĩa là làm, vừa có nghĩa phục vụ (faire – servir)

c 46 – Trong văn chương khải huyền do thái, hình phạt được dành cho những dân ngoại, những kẻ thù của Israel. Cón ở đây hình phạt khủng khiếp được dành cho những người không thể hiện lòng bác ái yêu thương. Đây cũng phù hợp với quan niệm chung của Mt (xem các chương 24-25).

PHẦN TƯỜNG THUẬT CỦA TỔNG THỂ V (26-28)

(Bài 67-70)

BÀI 67: CUỘC THỤ NẠN THEO MATTHÊU (26-27)

Chương 26  |  chương 27

------------------

Mt viết cho những Kitô hữu đã có đức tin mà còn muốn đào sâu thêm, vì thế ông tìm cách vén màn ý nghĩa cái chết của Chúa Kitô.

   Ông viết cho những người Kitô hữu gốc Do thái để chứng minh rằng Đức Giêsu, Thiên Chúa giữ lời Ngài đã hứa với dân Ngài, rằng Đức Giêsu đã thực hin sách thánh. Dân Do thái thông qua các thủ lĩnh của họ, đã từ chối Đức Giêsu nên bây giờ lời hứa được chuyển sang cho một dân mời là GH. Nhưng GH phải tỉnh thức vì cả GH cũng có thể từ chối đi theo Đức Giêsu.

    Nhất là khi trình bày những sự việc xảy ra, Mt muốn cho ta thấy được thế lực và uy quyền của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa: Ngài biết điều gì sắp xảy đến cho Ngài, Ngài chấp nhận và thậm chí những biến cố sở dĩ xảy ra là cũng vì Ngài đã thấy trước.

   Đức Giêsu là Đức Chúa được đặt lên ngự trị cả thế giới. Cha đã trao quyền cho Ngài và Ngài có thể sử dụng quyền ấy để tránh cái chết. tuy nhn Ngài không tránh, bởi vì cái chết ấy đánh dấu tận cùng của thời gian và khánh hành Nước Thiên Chúa mà bây giờ chúng ta đang sống.

   Tường thuật về cuộc mưu hại Đức Giêsu (26,1-5) muốn trả lời cho 2 cớ vấp phạm có thể nối lên. Vấp phạm thứ nhất là: Tại sao Con Thiên Chúa mà có thể bị giết chết? Khi đặt những lời tường thuật vào miệng của chính Đức Giêsu, Mt cho thấy rằng chính Ngài dẫn dắt những biến cố, còn các lãnh tụ do thái chỉ là người thừa hành mà thôi (chữ “bấy giờ” trong câu 3). Vấp phạm thứ hai là: Tại sao các lãnh tụ tôn giáo là những người có trách nhiệm phải nhận ra Đấng Messia mà lại kết án Ngài? Tại vì họ xấu xa, họ là những người theo Tv 2 “liên minh lại” để chống Đấng Messia. Vì thế Mt muốn nói rằng ngay từ bây giờ Đấng Messia ấy sắp được tấn phong làm Đức Chúa của cả thế giới. và Đức Giêsu coi việc xức dầu tại nhà ông Simon (25,6-13) là cử hành trước nghi lễ tn liệm Ngài.

   Tường thuật bữa Tiệc ly (26,26-29) được đóng khung trong lời loan báo Phêrô chối Thầy: nghĩa là Đức Giêsu hoàn toàn biết rõ Ngài trao mình và máu Ngài vào tay những ai. Và như thế cũng là Ngài thực hiện sách thánh (c 31)

   Từ trước tới giờ, Đức Giêsu đã cử hành cuộc thụ nạn một cách trang trọng như một chủ tế trên bàn thờ. Nhưng tường thuật về cơn hấp hối (26,36-46) lại cho thấy một hình ảnh rất người của Ngài: 3 lần Mt ghi thêm những chữ “với họ”, “với ta” (c 36,38,40). Cũng như bất cứ ai đang đau khổ. Đức Giêsu thấy cần sự hiện diện của bạn hữu. Nhưng điều này cũng bị chối từ: họ ngủ… tuy nhiên khi đọc kinh Lạy Cha, Ngài tìm lại được sức mạnh để thi hành ý Cha; khi người ta đến bắt Ngài (26,47-56) Ngài lên tiếng giảng dạy một lần nữa và tưd chối không sử dụng quyền lực đã được Cha ban cho.

   Trong phiên xử trước tòa án do thái (26,57-68) Đức Giêsu tuyên bố rằng “từ nay, kểbây giờ” (c 64) Ngài được Cha đưa vào quyền lực của Con-Người-được-nâng-lên của một Đấng Messia vừa đăng quang. Những tường thuật về việc Phêrô chối Thầy (26,69-75) và về cái chết của Giuđa (27,3-10) là một lời nhắc nhở bi thảm rằng cả chúng ta cũng có thể từ chối không nhìn nhận Đức Chúa bị sỉ nhục đến mức ấy. Nhất là Mt chứng minh rằng đó là ứng nghiệm lời sấm của Dacaria; dân chúng đã từ chối Thiên Chúa và sỉ nhục Ngài bng cách trả mạng Ngài bằng cái giá rẻ mạt chỉ đủ mua một tên nô lệ. Nghĩa là trong Đức Giêsu chính Thiên Chúa bị bán.

   Trong phiên xử trước tòa án Rôma (27,11-26) Mt ghi thêm cuộc can thiệp của vợ ông Philatô: ngay cả những người Rôma còn nhận thấy Đức Giêsu là công chính. Philatô đã rửa tay và dân đòi lãnh trách nhiệm về cái chết ấy: “máu của nó hãy đổ trên chúng tôi…” từ nay, mọi người dù là Do thái hay dân ngoại nếu muốn được cứu độ thì đều phải đi vào giao ước được đóng dấu bằng máu của Đức Giêsu.

   Cái chết của Đức Giêsu (17,32-54) được Mt coi là đánh dấu sự tận cùng của thế giới cũ và khánh thành thế giới mới. Như thế nó hoàn thành sách thánh mà biết bao lần Mt trích dẫn.

   Đức Giêsu chết bề ngoài như bị mọi người bỏ rơi, kể cả Thiên Chúa. Nhưng cái chết của Ngài là sự sống lại: séisme là một hình ảnh về lúc cùng tận của thời gian; ngay từ lúc đó các thánh sống lại và vào thành Giêrusalem trên trời, và những người ngoại nhận ra rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

   Các thượng tế niêm phong ngôi mồ và đặt lính canh (27,55-61) làm như vậy chỉ khiến quyền lực của Đấng Công Chính càng hiển hách thêm! Chính bọn họ loan tin Phục sinh: Xem ra tất cả đã chấm dứt, nhưng Mt cho ta biết rằng tất cả mới bắt đầu và trong đêm tối của nấm mồ đang ny mầm bình minh của sự sống lại.

(Trích Étienne Charpentỉe, Hướng dẫn đọc Tân Ước)

 

BÀI 68: NGÔI MỘ TRỐNG (28,1-10)

1Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. 2Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; 3diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. 6Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay." 8Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.

9Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: "Chào chị em! " Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."

------------------

1.     Văn mạch

Có nhiều chi tiết nối kết tường thuật này với văn mạch trước đó và sau đó:

– Các phụ nữ hôm nay đến mộ (28,1) thì trước đó cũng hiện diện trong cuộc tang xác (27,61) và dưới chân thập giá (27,56).

– Cuộc động đất hôm nay (28,2) cũng đã xảy ra lúc Đức Giêsu tắt thở (27,51).

– Nhưng lính canh hôm nay (28,4) cũng được nói tới trong suốt phân đoạn từ 27,62 tới 28,15.

   Như thế nghĩa là bài tường thuật này rõ ràng có ý biện giáo: muốn xử dụng sự kiện ngôi mộ trống để đánh tan dư luận do các người do thái tung ra để xuyên tạc việc Đức Giêsu sống lại.

   Trong ý đồ biện giáo ấy, Mt đã đưa ra hai luận đề cần bàn: các lính canh là đại biểu cho lòng cứng tin của người do thái; và các phụ nữ là đại biểu của thái độ mở lòng đón đức tin, hai luận đề này được trình bày xen kẽ nhau để làm nổi bật nhau lên:

   * 27,62-66: các người do thái đặt lính canh mồ, một cách vô tình chính họ đã tiên báo việc Đức Giêsu sẽ sống lại (27,64).

   * 28,1: Các phụ nữ đến mồ.

   * 28,2-4: lính canh hoảng hồn chết điếng khi thấy thiên thần hiện ra.

   * 28,5-10: Các phụ nữ thấy ngôi mộ trống; được thiên thần cho biết Đức Giêsu đã sống lại (chú ý: lời thiên thần giống hệt lời các người do thái ở 27,64); và tận mắt thấy Đức Giêsu phục sinh.

   * 28,11-15): lính canh báo cáo sự việc cho các thượng tế, thái độ của họ càng cho thấy sự cứng tin của họ.


2. Câu 1: Các ph nữ đến mồ

– Đó là Maria Mađalêna và “bà Maria khác” (có lẽ là mẹ của Giacôbê và Giuse) (27,56-61; Mc 16,1; Lc 24,10)

– Họ là những người đã chứng kiến cuộc liệm xác Đức Giêsu (27,61) và lúc Đức Giêsu chết (27,55-56). Và hôm nay họ lại chứng kiến việc Ngài sống lại, Mt muốn cho thấy rằng họ là những  chứng nhân đủ tư cách.

– Trong khi Mc và Lc ghi rằng họ đến mồ để khóc và tẩm thuốc thơm cho Đức Giêsu (Mc 16,1; Lc 25,56-24,1), thì Mt ghi rằng họ đến để thăm mồ, chỉ để thăm thôi chứ không phải để xức thuốc thơm vì mồ đã niêm phong và lại có lính canh. Với chút ít thay đổi này, Mt chuẩn bị độc giả nhận ra sự biểu dương uy quyền của Đấng phục sinh.


3. Câu 2a: Động đất

– Chỉ một mình Mt ghi nhận chi tiết “động đất” bằng từ ngữ đặc biệt seisme. Cũng như một mình Mt đã ghi nhận có Seisme lũ Đức Giêsu tắt thở (27,51-52). Trong Cựu Ước, động đất là dấu chỉ có Thiên Chúa hiện diện (Xh 19,18; 1V 19,11; Tv 114,7)

– Vậy với chi tiết Seismos này, Mt muốn chứng minh rằng đây là một sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.

– Cựu Ước cũng xử dụng chi tiết Seismos mô tả về “Ngày của Giavê” (Is 13,13; Gioel 2,10  4,16). Cho nên khi Mt dùng chi tiết này thì cũng còn ngụ ý rằng với biến cố Đức Giêsu phục sinh thì ngày của Giavê đã đến.

– Ngoài ra nếu đối chiếu Ed 37,12 nói về việc phục sinh của đống xương khô, ta cũng nhận ra thêm ngụ ý của Mt rằng hôm nay cũng là ngày phục sinh của dân Chúa.


4. Câu 2b: Thiên thần

– Mt hay ghi nhận chi tiết xuất hiện các thiên thần (nhất là khi viết về thời thơ ấu của Đức Giêsu: xem Mt 1,20.24  2,13.19) Chi tiết này khiến ta liên tưởng tới “Thiên thần của Thiên Chúa” trong Cựu Ước. Câu “bởi trời hiện xuống” cho thấy thiên giới có tham dự vào sự kiện phục sinh (thiên thần “lăn hòn đá ra”)

“Thiên thần ngồi lên trên”: dấu hiệu của sự chiến thắng, vì người ta sẽ không thể chôn vùi hoạt động của Đức Giêsu trong im lặng của cái chết nữa (27,66).

– C 3 mô tả hình dáng thiên thần với những nét mà Thánh Kinh thường dùng để mô tả những cuộc thần hiện: theo Đanien (10,6) thì vẻ mặt của Con Người “như sấm chớp”, và vị kỳ lão “mặc áo trắng như tuyết” (7,9). Đức Giêsu biến hình trên núi cũng được t mô tả bằng những nét tương tự (Mt 17,2).


5. Câu 4: Lính canh

– Lính canh “hoảng hồn”: động từ hy lạp là escisthêsan có cùng ngữ căn với chữ seismos. Chi tiết này chứng tỏ ở đây có tác động đặc biệt của Thiên Chúa. Vả lại “hoảng hồn” cũng là phản ứng mà Thánh Kinh quen dùng khi tả tâm trạng con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính Mt cũng ghi chi tiết này khi tả tâm trạng các môn đệ thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước (14,26).

– Vì đây là tác động đặc biệt của Thiên Chúa, nên bọn lính canh” chết điếng đi”.


6. Câu 5-6: Lời thiên thần

Những lời này cũng được thuật tương tự trong Mc và Lc, những Mt có vài sửa đổi nhỏ để có vẻ trang trọng hơn:

* “Đừng sợ, hỡi các bà”: đại từ đặt ở cuối, vừa có giọng semít, vừa làm nổi bật các bà lên.

* “Vì tôi biết…”: Mt thêm chi tiết này để chứng tỏ thiên thần nắm vững vấn đề. Cũng như ở cuối câu 7 “Đó, tôi nói cho các bà được hay”.

* “Đức Giêsu, Đấng đã bị đóng đinh”: Mt thêm chi tiết này để cho thấy rõ Đấng sống lại cũng là người khi trước chịu đóng đinh.

* “Người đã sống lại như lời đã báo trước”: (16,21  17,23  20,19) Mt muốn trả lời luận điệu của các thượng tế (27,63).

* Sau đó các bà được mời nhìn xem nơi xác Đức Giêsu đã nằm: Mt diễn tả các chi tiết theo thứ tự khác với Mc. Theo Mc 16,4-6 thì các bà đến mộ, thấy tảng đá đã được lăn ra, các bà vào mộ và thấy một người mặc áo trắng báo tin phục sinh và chỉ cho các bà thấy nơi đã đặt xác Đức Giêsu. Còn trong Mt thì ta có cảm tưởng các bà  thấy rằng đá được lăn ra trước mắt các bà, rồi thiên thần báo tin phục sinh, sau đó các bà mới vào mộ và thấy mộ trống.

   Với vài sửa đổi như vậy, Mt làm cho bài tường thuật có vẻ thánh thiêng hơn, và như vậy đây không phải là một cuộc khám phá cảm động như trong Mc, mà là một cuộc loan báo tuần tự về những khía cạnh của một biến cố lớn.


7. Câu 7: Sứ mạng

– Cũng như ở Mc 16,7 các bà được giao sứ mạng báo tin cho các môn đệ. Nhưng Mt ghi thêm là phải báo tin “mau chóng”. Trạng từ này lại được Mt dùng ở câu 8. Sử dĩ phải mau chóng như vậy là vì đây là một biến cố phi thường có thể gây đảo lộn mọi dự tính và thiết lập một trật tự mới các sự việc.

– Đức Giêsu hẹn các môn đệ tại Galilê, đúng như lời Ngài đã nói trước khi bước vào cuộc Thụ nạn (26,32).


8. Câu 8: Tâm trạng các bà

– Các bà “vừa sợ vừa hớn hở vui mừng”: Sợ là tâm trạng của những kẻ nhận thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa (các lính canh cũng sợ như vậy). Nhưng vui mừng vì hiểu rằng sự can thiệp này của Thiên Chúa là dấu chỉ ơn cứu độ. Các đạo sĩ cũng đã vui mừng khi nghe thiên thần báo tin Đức Giêsu giáng sinh (Lc 2,10). Trước biến cố phục sinh, kẻ không tin thì cảm thấy sợ, những đối với kẻ tin thì nỗi sợ biến thành niềm vui.


9. Câu 9-10: Đức Giêsu hiện ra với các bà

– Ga 20,11-18 và Mc 16,9 nói Đức Giêsu hiện ra với một mình Maria Mađalêna, còn Mt thì nói  hiện ra với “các bà”. Không biết Ga và Mc đã giản lược câu chuyện hay là Mt đã tăng số người được thấy Đức Giêsu hiện ra theo thói quen của Mt thích dùng số nhiều. Dù sao thì cũng có những chi tiết như nhau: cùng nói về một lần hiện ra của Đấng phục sinh ít lâu sau khi khám phá ngôi mộ trống, phản ứng sấp mình xuống ôm chân Đức Giêsu, và Đức Giêsu giao sứ mạng đi bái tin cho “anh em ta”.

Sấp mình ôm chân: cử chỉ vừa tôn kính vừa trìu mến

Các anh em của Ta: thay vì nói “các môn đệ ta”, Đức Giêsu đã nói “các anh em của ta”. Nghĩa là bắt đầu có một liên hệ thân mật mới với những đệ tử đã được Ngài tha thứ vì những lỗi phạm trong cuộc Ngài Thụ nạn.


Kết luận

1/ Người do thái và các kitô hữu đều nhất trí về sự kiện ngôi mộ trống. Nhưng người do thái vì không tin nên giải thích sự kiện theo hướng khác, còn các Kitô hữu thì coi đó là bằng chứng Đức Giêsu đã phục sinh. Câu chuyện này ban đầu được truyền khẩu trong các cộng đoàn, sau đó được các Tin mừng gia, đặc biệt là Mt xử dụng để chứng minh Đức Giêsu thực sự sống lại.

2/ t còn nhấn mạnh vào một số chi tiết để chứng minh rằng Phục sinh là một biến cố có tầm mức cánh chung, khai mào cho một trật tự mới về các sự việc, trật tự mới này sẽ được biểu lộ trọn vẹn trong cuộc hiện ra ở Galilê khiến cho sứ điệp của Đức Giêsu được loan truyền phổ biến khắp nơi và như thế là chuẩn bị cho ngày Tái Lâm của Ngài.

 

BÀI 69: SỰ MAN TRÁ (28,11-15)

11Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13và bảo: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." 15Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay. 

------------------

c 11 – Đang lúc các phụ nữ đi báo tin cho các môn đệ thì đám lính gác mồ trở vào thành để báo cho các thượng tế mọi việc đã xảy ra. Hãy lưu y là Mt không nói tới tên Giêrusalem. Kể từ khi Đức Giêsu trách thành này lần cuối cùng (23,37). Ngài đã tuyệt giao với nó.

cc 12-15 – Các thượng tế liền bàn bạc với các kỳ mục, họ là những thành viên của hội đồng xét xử Đức Giêsu. Họ đã xét xử cách bất công nên họ phải chịu trách nhiệm về vụ án này. Bây giờ thấy vụ án chuyển sang hướng bất lợi cho họ thì họ tìm cách  dùng tiền bịt miệng bọn lính. Họ bảo bọn lính cứ tung tin rằng xác đã bị ăn cắp, và nếu chính quyền Rôma có làm khó dễ thì hội đồng này sẽ bênh đỡ cho chúng.

 

BÀI 70: HIỆN RA Ở GALILÊ (28,16-20)

16Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. 17Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." 

------------------

Giải thích bản văn

11 tông đồ: Ta biết Đức Giêsu có tất cả 12 tông đồ. Nhưng trong biến cố thụ nạn, Giuđa đã hư mất và sau đó đã tự vẫn; các tông đồ kia thì chạy trốn tán loạn. Bây giờ, trước lúc về trời, Đức Giêsu đã tập hợp số còn lại được 11 người. Họ là hình ảnh của GH. GH là những người được Chúa tập hợp lại, đúng ý nghĩa của chữ hy lạp Ekklêsia.

Xứ Galilê: Địa điểm tập họp sao không phải là Giêrusalem, nơi từ trước tới giờ vẫn được coi là trung tâm của niềm tin, mà lại là Galilê là vùng có nhiều người lương? Hẳn Đức Giêsu có chủ ý: GH theo quan điểm của Mt phải là Gh truyền giáo, GH của thế giới.

Lên núi: Mt không quan tâm đến vị trí địa dư chính xác cho bằng quan tâm đến ý nghĩa thần học của vị trí ấy. Vì thế đừng mất công tìm hiểu xem “núi” này là núi gì. Ngày xưa Môsê đã gặp Thiên Chúa trên núi; rồi Êlia cũng đi tìm gặp Thiên Chúa trên núi; Đức Giêsu cũng biến hình trên núi; Hiến chương Nước Trời cũng được Đức Giêsu công bố trên núi. Các dữ kiện Thánh Kinh trên cho thấy “núi” là nơi Thiên Chúa công bố luật. Vậy cũng như ngày xưa Thiên Chúa gặp Môsê “trên núi” để ban luật cho dân Israel, thì nay Đức Giêsu cũng hẹn gặp 11 tông đồ trên núi để ban luật mới cho GH, Israel mới.

Thờ lạy: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng đáng thờ lạy (Mt 4,10 trích Đnl 6,13). Vậu khi các tông đồ thờ lạy Đức Giêsu phục sinh thì có nghĩa là các ông nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa.

Vẫn còn nghi nan: GH mà Đức Giêsu tập họp tuy là GH đã tin Ngài là Thiên Chúa nên đã “thờ lạy” Ngài, nhưng đức tin vẫn còn yếu kém, họ vẫn là “những kẻ hèn tin” (6,30  8,26  14,31  16,18).

Đức Giêsu tiến lại gần: Dịch sát là “Đức Giêsu đến với họ”. Nếu như Mt cố tình dùng động từ “Đến” thì ngụ ý của Mt là Đức Giêsu thực hiện đúng tước hiệu mà Cựu Ước vẫn gán cho Đấng Messia, “Đấng đang đến” (Đn 7,13; Tv 118,26; Mt 21,9  23,39). Trước tòa án xét xử Ngài. Chính Đức Giêsu đã xưng mình bằng tước hiệu đó (Mt 26,54).

Được mọi quyền: Trong Đn 7,14 “Con Người” (Đấng Messia) sẽ được Thiên Chúa ban cho mọi quyền. Như vậy, ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình chính là Con Người Messia.

Vậy các con hãy đi: Đức Giêsu sai các tông đồ (GH) đi truyền giáo. Nên chú ý rằng ở chương 10, Đức Giêsu cũng đã sai như thế, nhưng các ông chưa đi, khi đó chính Đức Giêsu đi và các ông đi theo. Bây giờ lúc Đức Giêsu sắp về trời rồi, thì chính thức tới lúc GH phải ra đi truyền giáo.

Ở khắp muôn dân: Tính đại đồng của GH. So sánh với 10,5 (“Đừng vào nhà lương dân…”), ta thấy câu nói này khó mà tưởng tượng nổi ngay buổi bình minh của Phục sinh. Sách Cv cho thấy các tông đồ đã tốn hàng chục năm trời mới mở được chân trời hướng về phía lương dân, và mãi 20 năm sau, Hội nghị Giêrusalem mới chuẩn nhận hướng truyền giáo ấy. cho nên câu nói này không phải là câu nói của Đức Giêsu lúc ấy, mà đúng hơn là câu nói của Đức Giêsu sống trong GH sau Hội nghị Giêrusalem (Cv 15,5-12).

Thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: Giáo đoàn Mt đã có một nề nếp phụng vụ đàng hoàng với phép Rửa nhân danh Ba Ngôi. Lúc ban đầu người ta chỉ biết làm phép Rửa nhân danh Đức Giêsu. Các thư của Phaolô cũng cho thấy những bước dò tìm chậm chạp của niềm tin vào Ba Ngôi.

Dạy bảo người ta: Mt tỏ ra quan tâm đến “mục vụ trí năng”: phải hiểu những gì mình tin (Mt 18,15-18) cho nên Mt nhấn mạnh lời Đức Giêsu dặn GH phải “dạy bảo”.

Thầy ở với các con: Chỗ dựa và nơi an toàn duy nhất của GH là Đức Giêsu. Ở đây Ngài tự xưng mình là Emmanuel. Lưu ý: khi hiện ra cho Giuse, Thiên sứ đã bảo tên đứa con của Maria sẽ là Emmanuel, vậy mà khi đứa trẻ ấy sinh ra thì Giuse lại đặt tên là Giêsu! Bây giờ Đức Giêsu đã phục sinh mới thực là Emmanuel. Ngài đã sống lại rồi và sẽ mãi mãi ở với GH “hết mọi ngày tới khi tận thế”.

 

Sách tham khảo

1/ Nil Guillemette, Notes exégétiques pour server à l’étude des péricopes liturgiques de l’Évan gile selon Saint Matthieu, Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt.

2/ Claude Tassin, L’Évangile de Matthieu, commentaire pastoral. Nxb Centurion Novalis, Paris 1991.

3/ W.F.Albright và C.S.Mann, The Gospel according to Matthew, Nxb The Anchor Bible, New York 1971.

4/ Các chú thích của nhóm dịch PVCGK.