83 Bài Suy Niệm

Lm. Nguyễn Tầm Thường 

1. ANH CẢ

“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì” (Lc 15:25).

Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.

Tại sao không vội vã vào ngay?

Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra. Chuyện người em đã về.

Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật. Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho chắc. Không ngờ, người đầy tớ báo tin. Trong lời báo tin này có ba sự kiện:

- Em cậu đã về !

- Cha cậu đã giết con bê béo !

- Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ! (Lc. 15:27).

Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà. Thế là hết! Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau đớn. Anh không muốn đứa em về. Không muốn người cha thịt con bê béo. Không muốn người cha nhìn đứa em mạnh khoẻ. Anh chối từ bữa tiệc. Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện ở đó. Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra? Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao? Anh không vội vã vào nhà. Anh đã tính toán khá kỹ.

Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?

Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta. Hoàn cảnh người cha rất khó xử. Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:

- Anh con đâu?

Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất ý nghĩa này. Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Ai cũng nghĩ là một ngày vui. Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những người dự tiệc. Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?

Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một tiệc vui. Có những anh em thề không nhìn mặt nhau. Họ nói:

- Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!

Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ? Ông rơi vào tình cảnh đó. Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.

Phản ứng của người con thứ

Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.

Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia. Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?

Chi tiết cho hay là nó về vì đói. Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Nhưng không ai cho.

Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”. Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng . Không phải chăn heo cho một ông chủ. Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”. Heo của nhà giàu, chắc ăn thức ăn khác của nhà nghèo. Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp. Như vậy còn gì mà ăn? Ấy thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”. Giả sử người ta cho nó thứ đồ ăn đó, nó đâu có về. Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó. Nếu không về lấy gì ăn?

Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không? Phúc Âm không nói rõ. Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc. Chúng ta không nắm chắc được tấm lòng người con thứ sau vòng tay của cha. Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương mình. Cũng có thể chưa. Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy. Luca viết đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu. Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người anh nổi giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao? Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?

Nguyên nhân của những nguyên nhân

Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi trẩy đi phương xa” (Lc. 15:13). Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa. Như thế, khi ra đi nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại. Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp nhất” ra đây mặc cho cậu.

- Áo đó ở đâu?

Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào. Người đầy tớ biết rõ “cái áo”. Có một liên hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ. Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.

- Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.

Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo. Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra. Cái áo phải là chiếc ông may sẵn. Vì con bê đã được “vỗ” béo. Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc biệt cho nó béo. Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì? Bản tường thuật cho thấy rõ. Ông thịt con bê đó trong ngày người con thứ trở về. Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn sóc con bê cho bữa tiệc. Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị. Cho nên khi công việc xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó. Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.

Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo. Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày. Từ ngày đó, lòng anh không yên tâm. Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng. Hồn anh là tháng năm rất âm u. Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra. Anh sợ ngày đó. Anh lo một ngày nào đó đữa em sẽ về. Không ngờ, hôm nay nó về thật.

Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau

Người anh cả. Câu chuyện dang dở từ đây.

“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.

Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui vậy. Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao? Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì… trời ơi! Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.

Đời anh là những tháng ngày dang dở. Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá. Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ tính toán giữa chợ. Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao. Anh sống những ngày ảm đạm của một tấm lòng khoắc khoải. Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá. Anh lo cho ngày đó, anh sợ tiếng đàn vui.

Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.

- Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.

Thì ra thế! Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị dằn vặt đau đớn. Nó thầm mong một con dê con. Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì thằng em. Lòng ghen tức làm nó khổ.

Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì? Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh hồn anh ta sâu lắm.

- Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).

Anh ta lại nhắc đến con bê. Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê con anh cũng không có. Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta nói với cha mình như vậy. Thế thì, anh ta là con ai? Đứa nào ngoại hôn? Cụm từ “thằng con của cha đó” là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy. Làm sao một người con có thể nói với cha mình như thế.

Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở. Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta sống nữa. Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê. Anh chưa hề trái lệnh. Chính vì chưa trái lệnh nên mới càng đau. Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những ngày tìm mà không gặp cái mình tìm. Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta. Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về. Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối bời, chỉ sợ ngày em nó về. Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn. Nhìn con bê, nghĩ đến cái áo, anh không một ngày vui. Cuộc sống anh ta khổ quá.

Tại sao người cha không cho?

Ông còn gì đâu mà cho! “Tất cả những gì của cha đều là của con!” Như thế, có nghĩa là nó có thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó! Trời ơi! Vậy mà nó không biết. Tại sao nó không hiểu điều này! Đời anh ta sao dang dở quá vậy? Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo, ao ước một con dê con cũng không được. Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh. Tại sao sống bên vàng bạc lại túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc. Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn. Đời anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”. Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì giết. “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18). “Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ bỏ” (Rom. 4:11).

Mà đời người cũng bi thương khôn cùng. Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình. Cha con cứ xa nhau.

Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”. Người con trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.

Không thấy người con thứ xúc phạm đến anh nó. Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó. Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.

Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ. Hoặc vì nhớ nên thương.

Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ. Không nhớ, nhưng cha có thương không? Điều này chắc chắn có. Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.

Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha. Trong tình yêu, khi không nhận ra thì cũng không nhận được.

Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương của người cha lại trở về với ông ta mà thôi. Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.

Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang. Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà không có người nhận. Của kẻ gần mà quá xa.

Cha anh ta ra năn nỉ:

- Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy (Lc. 15:32).

Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết. Nhưng với người con trưởng có là “em con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.

Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết. Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm dứt câu chuyện. Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:

- Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?

Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.

Tôi giả sử: Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.

Nếu anh ta không vào. Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra. Liệu bữa tiệc có tiếp tục? Tiếp tục thế nào? Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”. Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:

- Thưa ông, thế cậu hai đâu?

Người cha biết trả lời khách làm sao. Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình trong bữa tiệc. Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.

Câu chuyện thật dang dở. Liệu bữa tiệc có dở dang không?

Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết? Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang chừng? Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.

Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.

Tâm trạng người cha thế nào? Nó không vào, ông trả lời khách sao đây? Ông tìm cách nào để cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà? Tâm trạng người con thứ nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc? Lối xóm phản ứng ra sao? Câu chuyện trong bữa tiệc chuyển đề về đâu? Tất cả rối bời.

Giả sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn không? Vì sao Luca không viết rõ?

Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.

Một trời bơ vơ.

Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi. Phải chăng Luca muốn cho cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:

- Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không? Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?

Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi. Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.

Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ không thể hết dở dang bằng ngòi bút.


2. BÁN RUỘNG

"Chúa Yêsu lại dậy một thí dụ khác mà rằng: Nước Trời ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Nhưng lúc mọi người ngủ thì có kẻ thù đến gieo cỏ lùng lẫn với lúa rồi đi. Khi lúa lớn lên và có bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện" (Mt. 13: 24-26).

Lời Kinh Thánh trên đây nói về thửa đất đã có từ lâu. Mảnh ruộng đã mấy đời cấy cày. Một hôm, có khách qua đường dừng chân đứng ngó. Người tìm đất gian manh suy tính.

Có thửa ruộng đã 20 năm, có mảnh đất đã 40 mươi tuổi đời. Cuộc sống mỗi người là một thửa ruộng. Từ lúc chuông nhà thờ báo vui ngày tôi rửa tội, trong vườn ấy, Người trồng cây nhân ái. Từ lúc thửa đất linh hồn tôi khai sinh. Trong vườn ấy, Ngài gieo hạt giống độ lượng.

Ðã bao ngày Ngài cuốc vỡ đất bờ. Vất vả, nhưng Ngài mơ một ngày thửa vườn sai trái. Nắng có hanh nhưng lòng Ngài vẫn mát cho một chân trời hy vọng. Tôi còn nhớ ngày Ngài trao thửa vườn cho tôi. Có mát dịu bình yên đi về, có sương ẩm là những lời kinh sớm hôm phủ trên bờ đất mềm. Những hạt giống khiêm nhường, nhẫn nại, hy sinh, nhiệt thành Ngài gieo xuống hồn tôi, khoảng thời gian ấy, nhú mầm xanh đẹp làm sao. Hây hây mầu bình minh rực rỡ là lời chuông ban sáng. Êm đềm quá đỗi. Trời càng hồng, thửa vườn càng căng mầu sống. Ngài trao cho tôi, dặn dò cẩn thận, trong đôi mắt Ngài, ẩn giấu mầu hy vọng của một mùa gặt sắp tới.

* * *

Hôm nay nhớ lại thủa xa xưa đó, một hôm, có người khách lạ qua đường dừng chân đứng ngó. Hắn ta đứng nhìn thửa vườn linh hồn tôi, suy tính. Một lần, rồi một lần qua đi. Ðến một chiều hoang dại hắn ghé chơi. Tôi nghi ngại tần ngần. Hắn nhìn cây nhân ái, ướm thử cành can đảm, đo nhánh trung thành. Rồi hắn lại ghé chơi. Dần dà, đến một ngày khi bình minh và hoàng hôn đều rải nắng như nhau. Thì hắn, dường như không còn là khách lạ như xưa. Hắn ta quen thuộc ra vào thửa vườn linh hồn của tôi. Tôi chẳng còn phân biệt mầu nắng vàng đỏ của buổi chiều sắp tắt hoàng hôn và mầu cam ối khi mặt trời mọc. Khởi đầu và tận cùng dường như mù mờ lẫn lộn. Thánh thiện và tội lỗi giao thoa. Cái hiu hiu của chân trời lịm đi và cái hây hây của một bình minh đang lên nhù nhòa lẫn vào nhau.

Ngang đời, hôm nay Chúa trở về thửa vườn xưa. Ngài hỏi lại chuyện cũ, muốn thăm lại vùng đất linh hồn tôi mà Ngài đã mơ một mùa sai trái.

* * *

Cỏ cây lên như nhau mất rồi. Người khách lạ đã âm thầm làm việc, gã trồng những loại cây rừng hắn muốn. Thửa đất linh hồn tôi, không hẳn là đã bị mua vì người mua không muốn xuất đầu lộ diện. Không hẳn là bán vì tôi tiếc đất không chịu ký tên. Mơ hồ, lãng đãng. Kinh Thánh chỉ bảo "khi ngủ" thì có kẻ thù đến gieo cỏ. Hôm nay, nhìn lại, vườn không bán mà mất quyền làm chủ. Khách lạ không mua mà lại gieo được thứ nó muốn trồng. Linh hôn tôi đã một thủa bình yên. Nay dậy sóng gian nan. Cõi lòng tôi đã một thủa vườn lên màu xanh thong thả, gió về không lo âu. Tim tôi đã một thủa ươm màu hồng của nắng, màu vàng rực của trời. Giờ đây, tiếc nhìn dĩ vãng.

Ngang đời, hôm nay Chúa đến thăm linh hồn tôi, ruộng đất phai mầu chung thuỷ. Ðất nhạt muối của lòng mến. Bến bờ đợi trông một mùa lúa tốt đã bẽ bàng mất mát. Chấp nhận những ngày nắng đổ, gánh đi những sỏi đá chai cứng của một linh hồn khô cằn. Chúa đã nao nức vỡ đất nhìn về tương lai. Ngang đời, hôm nay Ngài đứng nhìn thửa ruộng mà bâng khuâng hỏi lòng. Ðất không bán, ruộng không cho thuê, sao lại loang lổ những vùng cỏ hoang dại.

* * *

Lạy Chúa, hồn con là một thửa ruộng. Chúa là người trồng. Chúa đã nhọc nhằn vỡ đất hồn con. Tại sao con lại coi thường kẻ thù phá hoại? Có sa ngã nào con vấp phạm mà đã không qua những ngày tháng mở cửa linh hồn làm quen với những dịp tội. Con có thể an ủi mình rằng làm sao mà tôi thức tỉnh được, tôi cũng thân phận yếu đuối. Tuy nhiên, con thấy khó mà chấp nhận được lời giải thích đó. Kẻ thù gieo cỏ khi con ngủ, vậy khi thức dậy con không thấy gì khác lạ sao? Từ khi cỏ mọc cho tới khi lúa trổ bông cũng cần thời gian chứ, có đam mê nào trở thành lối sống nếu con đã không cưu mang nó bằng những ngày tháng thật dài. Con không bao giờ vác cuốc thăm ruộng hồn mình để biết nắng mưa sao? Ðó là sự lười biếng của con.

Cái tinh vi của Satan là gieo cỏ lùng lẫn với lúa "rồi đi." Gieo xong, Satan không đứng đó nhưng bỏ đi. Qua đêm, thức dậy không thấy bóng dáng kẻ thù nên con tưởng rằng thửa ruộng chỉ có hạt giống tốt thôi. Trong cái thờ ơ của cuộc sống, con đã không xét mình kỹ lưỡng những công việc con làm và hồn con đã phiêu du vào những chân trời nguỵ biện. Có những việc tông đồ đã bị hương khói Satan mờ mịt mà con cứ tiếp tục đi. Nguy hiểm biết bao, xin Chúa hãy thức tỉnh con.


3. BAO DUNG

Câu chuyện người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca (Lc. 15: 11-32) nói đến trở về. Mùa chay là mùa xám hối. Ði tìm một khoảnh hồi tâm, ta hãy đọc lại đoạn Tin Mừng.


Người con hoang đàng

Từ xưa tôi vẫn nghĩ rằng hãy trở về như người con hoang đàng. Ðứa con hoang đàng như một mẫu mực trở về. Khi thấy con về, người cha vui mừng quá làm tôi thấy sự trở về của người con như một hành động anh hùng. Ðã bao năm tháng qua, tôi vẫn được nhắc nhở rằng hãy lên đường anh hùng, dứt khoát như người con ấy.

Ðọc kỹ đoạn Tin Mừng, tôi thấy man mác đó đây một mầu tím buồn. Một giải mây tím buồn rất xa. Ở một điểm nào đó, tôi thấy sự trở về của người con có làm cho cha vui, nhưng tôi vẫn không ra khỏi giải mây tím lặng lẽ. Trong sự trở về của người con hoang đàng tôi thấy có điều không ổn. Rồi chiều nay, mùa chay lại trở lại. Tôi muốn đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi hơn, lặng lẽ hơn để đi tìm cái không ổn của mầu tím đó.

Sau khi người con ra đi, thánh Luca viết về quãng đời của nó như sau:

Khi nó tiêu sạch cả rồi, thì khắp miền đó, lại sẩy ra nạn đói kém khủng khiếp và nó bắt đầu lâm phải túng thiếu. Nó đi sống bám một người dân trong vùng ấy; và người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó ước gì có thể lấy rau heo ăn mà thốn cho đầy bụng, mà cũng chẳng ai bố thí cho nó. Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy! tôi sẽ về cùng cha tôi, tôi sẽ nói với người: "Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa, xin cha xử với con như một người làm công của cha thôi".

Ðộng lực nào khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: "Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng cha tôi." Như vậy động lực khiến nó trở về chỉ vì đói. Trước khi bị đói, không bao giờ thấy nó nhớ đến cha, không thấy xám hối vì bỏ cha đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về căn nhà cũ, nơi còn có cha chẳng biết già yếu ra sao, không thấy nuối tiếc vì phá tan cả sản nghiệp của cha. Sau khi bị đói nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái tự nhủ, băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha nó là nó trót phạm tội nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như một người làm công. Trong tự nhủ này có một ngập ngừng không đơn giản. Tại sao nó muốn được đối xử như một người làm công? Người làm công có dư bánh ăn! Có phải, bây giờ muốn có bánh thì chỉ cần xin được làm người làm công? Tôi không muốn khắt khe xét đoán sự trở về của nó. Nhưng vẫn có một u uẩn trong lối hành văn của thánh sử Luca. Ban đầu, vì đói nó mới về. Khi hồi tâm nó nghĩ đến miếng bánh của người làm công được ăn. Những ý tưởng này cho tôi nghĩ lời nói "trót phạm tội nghịch đến Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa", mang một giá trị rất nhẹ của lòng xám hối.

Nếu nó được ăn rau của heo thì nó ngang hàng bằng heo. Nhưng trước mặt người ta, nó không được ăn rau của heo, nghĩa là nó không giá trị bằng heo. Cái hoang vu của mầu tím ở đây là nếu nó được ăn rau của heo thì liệu nó có trở về không? Cái dằn vặt của một mầu tím khó tìm được câu trả lời là tại sao phải đợi đến khi ngay cả rau cho heo cũng không có ăn lúc bấy giờ mới về. Ðó là cuộc lên đường về trọn vẹn sao? Ðấy là cuộc lên đường thúc đẩy từ lòng xám hối sao?

Mỗi mùa chay, nghĩ đến cuộc trở về trong Tin Mừng thánh Luca, tôi lại mơ ước một cuộc lên đường trọn vẹn. Tôi trở về trọn vẹn để xứng đáng lòng yêu thương của Chúa, hay chỉ có thể dựa vào lòng xót thương của Chúa mà tôi có thể trở về?


Thái độ của người cha

Khi nhớ thì mỗi chiều cách biệt là một quãng đời hoàng hôn xạm tím. Lần rở lại những trang đầu của câu chuyện. Ta thấy thánh sử Luca vẽ chân dung người cha bằng một sắc mầu rất đỗi chịu đựng.

Ngài còn nói: "Người kia có hai đứa con. Con thứ nói với cha: "Thưa cha, xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!" Vậy người cha đã phân chia của cải cho chúng nó. Không mấy ngày sau, đứa con thứ thâu góp tất cả của cải mà trẩy đi phương xa. Và ở đó nó sống trác táng phá tan cả sản nghiệp".

Bắt đầu câu chuyện là đã thấy mầu tím u uẩn như những giây đàn han rỉ. Nó như những giọt mưa buồn của một từ giã nặng nề. Nó như những tiếng chuông trầm, cũng rất thong thả, rơi trong một chiều cô tịch, gõ vào lòng người cha, rất đìu hiu. Khi người con từ giã, đi xa rồi, lòng người cha ở lại nghe những tiếng chuông ấy vọng về: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!"

Tôi không thấy mầu tím buồn trong hồn người cha than vãn, nuối tiếc vì số sản nghiệp bị mang đi. Nhưng có một ray rứt không buông thả trái tim người cha già tội nghiệp. Cha mẹ chia của cải cho con cái khi biết mình sắp chết. Con cái chia nhau sản nghiệp khi bố mẹ đã qua đời. Tài sản của cha mẹ, nên chỉ khi cha mẹ gọi con cái đến chia, con cái mới được nhận, không khi nào con cái được quyền đến đòi cha mẹ phải chia cho mình. Nhưng ở đây, người con không đợi nổi đến ngày cha mình chết. Nó mong sao ngày đó chóng đến. Nhưng bao giờ? Thôi! cha cứ chia cho tôi trước đi, đợi cha chết lâu quá! Cha cứ chia đi rồi ngày nào cha chết tùy cha!

Người cha không nổi giận. Ðưa cho con gói bạc mà thực ra nó chẳng có quyền đòi. Người cha không tiếc gia nghiệp, nhưng tiếc một tình nghĩa đang mất. Tiếng nói của người con: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con" như những tiếng chuông báo tử của một linh hồn sắp lìa đời đang gõ xuống lòng người cha một sự thật đau đớn không thể chối từ. Người cha nhìn về chân trời để thấy hồn mình là một nỗi sầu tím. Người cha già giữ nỗi sầu tím ấy trong im lặng.

* * *

Lạy Chúa,

Bàn thờ đã giăng lên mầu tím của mùa chay. Ngày ngày dâng lễ con thấy mầu tím nhắc nhở con trở về. Con đã được dạy hãy lấy hình ảnh người con hoang đàng trở về làm mẫu mực. Ðọc lại câu chuyện, con thấy sự trở về của nó không phải là một mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về đến từ hồi tâm của tình yêu tha thiết.

Con thấy động lực thúc đẩy người con thứ trở về là miếng ăn. Một cuộc trở về man mác buồn. Nhưng, những tối một mình trong thinh lặng, rồi, những trang Lời Chúa nói với con bằng một ngôn ngữ rất sâu. Nếu cuộc trở về của nó mà trọn vẹn đến từ nước mắt thì câu chuyện thánh sử Luca trình bầy sẽ đẹp lắm, sẽ uy hùng lắm. Câu chuyện trở nên thiên anh hùng ca, nhưng sẽ là thách đố sợ hãi cho con.

Nhìn lại những cuộc lên đường về của con, con thấy cũng giống vậy. Con lên đường về cũng vì miếng ăn. "Khi tình yêu con còn mơ, tin yêu con dệt thơ thì tình Chúa hững hờ." Con trở về khi cuộc đời dầm bập con. Nếu người cha chỉ hân hoan đón đứa con hoang đàng khi nó về với lòng xám hối ăn năn tận đáy lòng thì chắc Chúa ít có cơ hội đón con lắm. Con trở về vì con muốn thiên đàng. Con trở về vì con sợ hỏa ngục. Con trở về vì đời hắt hủi. Sự trở về của con vẫn đến từ nỗi sợ, từ sự thèm muốn, từ một cùng đường.

Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong Tin Mừng Luca không là mẫu mực lên đường về như một gương xám hối, mà con thấy là cuộc trở về dựa vào tình yêu của Chúa.

Làm sao định nghĩa được tình yêu. Người ta nói như thế. Người ta bảo không định nghĩa được tình yêu vì tình yêu phức tạp quá. Con không nghĩ vậy. Tình yêu khó hiểu không phải vì phức tạp mà vì nó quá sâu để hiểu. Khi tình yêu phức tạp là người ta đang đày đọa tình yêu mất rồi. Chỉ vì miếng ăn người con mới trở về mà cũng làm cho người cha quá đỗi vui mừng. Lòng xót thương của Chúa, con không hiểu được. Con không hiểu được chẳng phải tình yêu phức tạp mà vì tình yêu quá sâu.

Con không thấy người cha hỏi đến gia nghiệp nó mang đi. Con không thấy người cha thắc mắc bất cứ điều gì để làm cho tình yêu ra phức tạp. Con không thấy người cha hỏi lý do nào nó trở về. Con chỉ thấy người cha thương con của mình. Lạy Chúa, con chỉ trở về được vì dựa lòng thương xót quá bao dung của Chúa. Con sẽ chẳng bao giờ xám hối trọn vẹn được đâu, và như thế, bao giờ con về được nếu Chúa hỏi con bằng những câu hỏi phức tạp của một tình yêu phức tạp. Nhìn vào tình thương của Chúa con chỉ thấy một chiều sâu. Quá sâu. Dựa vào đó, lạy Chúa, con xin về.


4. BÊN HỒ TIBERIA

Tin Mừng Gioan ghi lại Chúa Giêsu hiện ra ở Biển Hồ Tibêria như sau:

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông:“Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.”Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Jn. 21:1-6).

Phêrô đã một thời tự ý ngang dọc. Ông xách gươm. Ông kéo Chúa ra riêng một chỗ rồi lên tiếng trách Người. Bên Biển Hồ Tibêria, hồ hôm nay chỉ dật dờ một rừng lau sậy. Tôi đến đây sau trưa, bóng ngả dần về chiều. Biển xanh mơ êm đềm. Ấy thế mà một thời nổi sóng với ngôn từ của Chúa. Tôi biết, bây giờ ngó ở đâu cũng chỉ là bờ đá và rừng xanh. Nhưng tôi vẫn nhìn quanh như tìm xem bóng Chúa đâu. Phêrô từng ngồi chỗ nào. Bây giờ khách hành hương có thể xin tĩnh tâm nơi những trung tâm này. Tôi có thể dâng lễ ngay tảng đá mà chỉ vài bước chân là xuống biển hồ.

Chúa hiện ra tảng sáng và bảo Phêrô thả lưới. Người đánh cá chuyên nghiệp thì biết, không ai thả lưới lúc tảng sáng. Họ đánh lưới về đêm. Ấy thế mà Phêrô không cãi lại, ông im lặng thả lưới. Một thái độ ngược bản tính của ông. Cái ngang dọc của Phêrô hôm nay biến mất. Và quả thật, cá nhiều quá kéo lên không nổi.

Trên bờ biển hồ tôi đang đi đây, Chúa hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Tôi xin dâng lễ ngoài trời, nơi bàn thờ đá cuối nhà thờ. Bàn thờ quay ra biển. Nơi này câu chuyện xảy ra hai nghìn năm trước như sau:

Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

“Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp:“Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Jn. 21:15-17).

***

HAI BIẾN CỐ MỘT MẶT HỒ

Ta phải đặt không gian nơi Chúa hiện ra với mẻ cá kéo lên không nổi và câu chuyện bánh hóa ra nhiều vào một liên hệ chung. Xét về địa lý thì cả hai biến cố xảy ra ở mạn Bắc Biển Hồ Galilê, vùng Tibêria. Chỗ Chúa làm phép bánh hóa ra nhiều nuôi mấy ngàn người ăn ở sát bên cạnh nơi Chúa hỏi Phêrô con có mến Thầy không. Cả hai xảy ra bên biển hồ. Ta chỉ cần đi bộ một quãng đường. Đặt vào chung một vùng đất, ta thấy những điểm trùng hợp như sau:


BIỂN HỒ GALILÊ TRƯỚC PHỤC SINH

Bên đồi cỏ

Bánh hóa ra nhiều trên đất

- Một ngày đói không đủ bánh ăn

- Một bên Chúa hỏi có mấy chiếc bánh

Cả hai bên đều trả lời không có. Cả hai bên đều thiếu.

Một bên Chúa bảo đem bánh lại đây

Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ.Cả hai đều có phần góp sức của con người.

Một bên đem ổ bánh

Chúa bảo các môn đệ lo cho dân ăn

- Chúa còn sống, thấy dân chúng thì Chúa thương.

Cả hai đều dùng hình ảnh chiên. Một bên là: “Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.”


BIỂN HỒ GALILÊ SAU PHỤC SINH

Bên biển hồ

Cá hóa nhiều trên nước

- Một đêm hoài công không có cá

- Một bên Chúa hỏi có gì ăn không.

Cả hai bên đều trả lời không có. Cả hai bên đều thiếu.

Một bên Chúa bảo thả lưới.

Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ. Cả hai đều có phần góp sức của con người.

Một bên thả lưới

Chúa bảo Phêrô săn Giáo Hội.

- Chúa chết rồi, Chúa bảo Phêrô tiếp tục yêu thương ấy.

Cả hai đều dùng hình ảnh chiên. Một bên là: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”

Căn bản của những trùng hợp này là kết luận ta có thể di tới:

Như thế, biến cố bánh hóa ra nhiều là tiền thân của mẻ lưới, của cuộc hiện ra sau Phục Sinh với Phêrô. Cả hai biến cố nói lên một ý nghĩa chung là lòng thương xót của Chúa đối với dân chúng và Phêrô, kẻ theo Chúa là nối tiếp lòng thương xót ấy mà săn sóc Giáo Hội. Khi Chúa bảo các môn đệ lo cho dân chúng ăn trong biến cố bánh hóa ra nhiều, là tập cho các ông cách lo mà Chúa trối cho Phêrô sẽ lo cho Giáo Hội tương lai ở biến cố hiện ra sau Phục Sinh này.

Phêrô phải lo cho Giáo Hội như Chúa săn sóc:

- Vì lòng mến. (Con có mến Thày không?)

- Không dựa vào công lao sức mình. (Hãy thả lưới bên phải)

- Không thất vọng khi thấy không có lối thoát. (Không có gì ăn ư? ông Thưa: Không)

- Phải đóng góp sức của mình, không ỷ lại vào Chúa. (Vâng lời Thày con thả lưới)

- Chúa hành động khác cách con người. (Thả lưới lúc ban sáng!)

Ba lần Chúa hỏi Phêrô để Phêrô được ba lần rửa tội. Ba lần ông chối Chúa. Trong ba lần này Chúa chỉ hỏi về lòng mến. Điều kiện Chúa trao Giáo Hội cho Phêrô là lòng mến. Chúa không hỏi về khả năng lãnh đạo, không hỏi về khả năng kiến thức, không hỏi về khả năng tài chính, không hỏi về khả năng thu phục lòng người. Lòng mến ở đây là mến Chúa, không phải mến công việc của Chúa. Chúa nói rõ: “Con có mến Ta không”. Chúa không hỏi có mến công trình của Chúa không.


Điều khác biệt

Điều khác biệt giữa hai biến cố bánh hóa ra nhiều và mẻ lưới là lời loan báo căn tính tông đồ:“Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.”Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Jn. 21:18-19). Trong biến cố bánh hóa ra nhiều, Chúa không nói với Phêrô về ơn gọi ông sẽ phải sống như thế nào. Nhưng sau khi Chúa sống lại thì Phêrô phải hiểu rất rõ về căn tính của mình là sẽ phải chết cách nào.

Điều khác biệt hơn nữa

Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp:“Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy” (Jn. 21:20-22).

Nét độc đáo trên Biển Hồ Tibêria sau khi Chúa Phục Sinh tăng theo chiều cao của một con diều no gió, phải bay vút lên. Phêrô có người bạn thân là Gioan. Chúa nói cho Phêrô biết có thể phải chết cách nào đó, rồi hỏi ông nghĩ sao. Chúa không đề cập đến Gioan.

Phêrô quyết định theo. Nhưng còn con người trần thế, một chút yếu lòng. Ông nói với Chúa:“Thưa Thầy, còn người này thì sao?” Phêrô hỏi Chúa một lời trần tình thật tuyệt vời. Nó nói lên tất cả chiều sâu nhân tính của một thân phận làm người. Ông không là thánh. Ý ông muốn nói, xin Thầy gọi anh ta nữa, cho đi cùng với con cho có bạn. Con thấy lẻ loi khi theo Thày một mình. “Còn người này thì sao?” Phêrô “nhắc khéo” với Chúa. Không ngờ, Chúa lắc đầu. Chúa không gọi Gioan! Chúa trả lời Phêrô bằng tiếng lệnh lên đường dứt khoát: “Việc gì đến anh.”

- Phần con, con hãy theo Thầy.

Phêrô im lặng. Như thế ta có thể vẽ lên màu xanh êm ả của vùng biển hồ hôm nay một bóng hình nổi sóng vô cùng siêu bạo. Một Thầy, một trò, hai bóng người nhỏ dần khuất bóng. Cái khuất bóng chỉ có hai bóng hình trộn vào nhau làm thành vùng màu sắc táo bạo chấm dứt Phúc Âm Gioan.

Tôi muốn trở lại vùng Biển Hồ Tibêria này, ở lại lâu hơn để nghe sóng vỗ vào chân bờ đá. Những bờ đá đã có dấu chân Người một thủa đi qua. Rất hào hùng.


5. BÓNG MÁT

Bóng mát cần thiết để dừng nghỉ. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt lắm. Vì bóng mát chỉ để dừng nghỉ, nên nếu ngày nào bóng mát giữ chân tôi lại không muốn tôi lên đường thì lúc đó bóng mát trở thành đánh lừa tôi. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt nên tôi cần bóng mát. Trong cái cần bóng mát ấy, dễ đưa tôi đến chỗ ôm giữ bóng mát như một nuối tiếc không muốn rời bỏ.

Có những bóng mát của một ngày hành trình dài trên đường đi bộ. Nhất là, khi mồ hôi đong vào những sợi nắng chẻ tóc. Nhất là, khi gặp một trời hạ hực nắng và gió không hiền hòa. Lúc đó, tôi cần một bóng mát làm sao!

Dù là bóng mát của một quán trọ hay bóng mát của một tàng cây, bóng mát vẫn chỉ là "bóng" chứ không phải là "thực". Vì là bóng, nên bóng mát không thể là nơi tôi nương trú. Tôi chỉ dừng chân rồi đi. Cái nguy hiểm của bóng mát là có thể làm chậm trễ hành trình tôi đi tới, có thể đánh mất đường về của tôi.

Từ bóng mát trên đường đi dẫn tôi đến "bóng mát cuộc đời".


Bóng mát cuộc đời.

Có nhiều thứ bóng mát trong cuộc đời. Một ngày nào đó với lo âu trĩu nặng, rồi có một tình thân đến chia sẻ. Một ngày nào đó bơ vơ, rồi có một tâm hồn đến cho nương tựa. Ðấy đều là những bóng mát. Trong lúc cơ cực, một tấm lòng rộng lượng đến nâng đỡ. Những bóng mát như vậy cần thiết biết bao. Trong đời ai cũng cần những bóng mát như thế. Cuộc sống không giản dị êm đềm, có những quãng vắng lặng lẽ, có những khúc đi gian nan, để rồi cuộc sống cần những bóng mát cuộc đời.

Trong những bóng mát cuộc đời ấy có những bóng mát nguy hiểm, bóng mát lừa dối. Giữa những bóng mát cần thiết có những bóng mát bất chính. Người ta lẫn lộn những bóng mát ấy với nhau. Vì đặc tính của bóng mát là cho người ta "chất mát". Ðam mê và tội lỗi cũng là một thứ bóng mát. Nhiều khi tội lỗi và đam mê càng cho người ta nhiều "chất mát" hơn.

Thí dụ trong hôn nhân, thí dụ trong đời tu, vì một lúc yếu lòng, vào một mùa thu ảm đạm. Rồi, ở một nơi nào đó trong tâm hồn mình, thấy bâng khuâng gợi nhớ, thấy man mác một nỗi sầu trống vắng thiếu thốn. Người ta dễ đi tìm "bóng mát cuộc đời" bằng lỗi chung thủy.

Ðời là con đường dài. Những lúc chớm sáng bình minh, người ta hăng hái lên đường, nhưng vào trưa oi bức, người ta muốn dừng nghỉ. Những ngày hạnh phúc êm ả người ta không cần bóng mát cuộc đời. Những ngày chán nản, bơ vơ, người ta không muốn lên đường, lúc ấy, những quán hạnh phúc bên đường dễ cám dỗ mời mọc làm sao.


Bóng mát và người chăn chiên.

Người chăn chiên nhìn về cuối chân trời. Nắng vẫn hanh, nhưng trong lòng người chăn chiên, chiều đang đổ xuống rất mau. Ðường vẫn còn dài. Người chăn chiên nhủ lòng: Phải ra khỏi cánh rừng khi chiều về!

Chúa Kitô cũng vậy, thời gian đối với Ngài là mùa màng cứu rỗi. Ngài nhìn cuộc sống của tôi với chiều đi mà nôn nao, hối hả: "Bao lâu còn sáng ngày, Ta phải làm việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm tối đến không ai còn làm việc được nữa" (Jn. 11:10).

Người chăn chiên tính toán kỹ lưỡng. Trời còn hanh nắng đó, nhưng phải lên đường cho kịp tránh hoàng hôn. Bầy chiên nào có biết, chúng chỉ thích an nghỉ dưới tàng cây rợp bóng. Cái êm dịu của bóng mát làm chúng ngại lên đường. Chúng muốn thiu thiu ngủ hơn ra đi. Chiều cứ xuống, chầm chậm không lời báo động."Trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, lấy vợ lấy chồng cho đến ngày ông Noe vào tầu. Và lúc chẳng ai để ý gì, thì lụt đến và cuốn trôi đi tất cả" (Mt. 24: 38-39). Khi giấc ngủ vừa tỉnh, muốn lên đường thì đã muộn. Hoàng hôn xuống mà chưa ra khỏi cánh rừng là bóng tối bủa vây, là nguy hiểm rình chờ, sói rừng sẽ xuất hiện. Những bóng mát ấy là cõi chết rất êm. Những bóng mát đánh lừa.

Người chăn chiên lành nghề thì biết khúc đường còn bao lâu, quãng dài cần thiết bao nhiêu thời giờ để ra khỏi cánh rừng. Cho dù trời có nắng, mồ hôi có chảy, người chăn chiên vẫn cứ hối hả thúc chiên lên đường, không cho nó nằm nghỉ dưới bóng mát tàng cây. Nỗi tâm tư của người chăn là chiên chẳng hiểu mình. Chúng trách cứ, oán than. Trong bóng mát ấy, bầy chiên than thở, tại sao một chút hạnh phúc mà Ngài cũng lấy đi. Bao lần trong đời, con người đã nhìn hình ảnh người chăn chiên như kẻ khó tính, không cảm thông. Một chút hạnh phúc mà Ngài cũng không cho. Một chút an ủi mà Ngài ngăn cấm. Người chăn chiên biết cái rình mò của bóng đêm. Nhìn đường còn xa mà lo âu thương bầy chiên, nếu trời đổ tối mà chưa ra khỏi cánh rừng thì sao. Sói đến. Chết chóc. Ðổ vỡ. Dù chiên muốn hay không, người chăn chiên vẫn nhủ lòng: Nhất định phải bắt chúng lên đường!

Chúa Kitô cũng thế. Ngài thấy những "bóng mát cuộc đời" giả tạo của tôi mà lo âu. Ngài biết bóng mát ấy đang đánh lừa tôi. Bóng mát ấy có thể là tình cảm bất chính, là tiền bạc tôi không rõ ràng trong khi có trách nhiệm cầm giữ. Bóng mát ấy có thể là quyền hành tôi được trao phó, nhưng mà để thoả mãn hơn là phục vụ. Bóng mát ấy cũng có thể là giấc ngủ dài vì ngại ngùng khi thấy hành trình xám hối đòi nhiều cố gắng. Bóng mát ấy có thể là một thứ đam mê.

Những thứ bóng mát này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cùng một địa chỉ là lừa gạt tôi.

Khi nói về bóng mát (shadow), cả bốn Phúc Âm chỉ nói đến 2 lần. Và cả hai lần tiếng bóng mát đều liên quan đến sự chết. Lần thứ 1 trong Matthêu: "Kẻ ngồi trong bóng tối sự chết" (Mt. 4: 16). Lần thứ 2 trong Luca:"Kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết" (Lc. 1: 79).

Trong khi những lời giảng dạy, nhiều biến cố quan trọng giữa Chúa và con người hầu hết đều xẩy ra trên đường đi đổ nắng chứ không ở trong bóng mát. Thí dụ:

Trên đường đi Ngài hỏi họ: Người ta nói Thầy là ai? Và Phêrô tuyên tín Thầy là Ðức Kitô (Mt. 8: 27-27).

Khi bắt đầu lên đường. Một người đến hỏi: Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (Mt. 10: 17).

Dọc đường lên Jerusalem, Ngài nói: Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, các ký lục và thượng tế... (Mc. 10: 32-34).

Trên đường đi, họ bắt ông Simon vác thánh giá đỡ cho Ðức Kitô (Lc. 23: 26).

Trên đường đi đến một làng nọ. Mười người phong cùi đến gặp Ngài (Lc. 17: 11).

Cuộc gặp gỡ sau biến cố Phục sinh cũng xẩy ra trên đường Emmaus. Hai ông kể lại chuyện xẩy ra khi các ông đi đường và các ông đã nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh (Lc. 24: 35).

Giakêu gặp Chúa cũng là gặp trong lúc đi đường (Lc. 19: 4).

Khi người chăn chiên dùng gậy đánh để bầy chiên khỏi ươn lười ngủ vùi trong bóng mát, cũng là lúc, để thức tỉnh tôi, Chúa trao cho tôi "chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ tôi sẽ không bao giờ rời bỏ tôi. Khi chân tôi xiêu bên phải, vẹo bên trái, chính tai tôi nghe tiếng từ đàng sau phán: Ðây là đường hãy đi theo đó" (Isaia 30: 18-21). Chúa biết ngày nào tôi còn nằm trong "bóng mát" giả tạo ấy, tôi chỉ ôm mơ một bóng hình hạnh phúc ảo ảnh. Những êm đềm ấy chỉ lừa dối tôi thôi.

Bóng cây mát ven đường đánh lừa bầy chiên để đêm tối ập xuống thế nào thì "bóng mát cuộc đời" đam mê cũng đánh lừa tôi để tôi mất mùa ơn sủng như thế.

* * *

Lạy Chúa,

Bao lần tâm tư Chúa buồn phiền khi thấy con dại dột nằm ẩn mình trong bóng mát. Những cảm xúc ngọt ngào của bóng mát chỉ cho con hạnh phúc giả mà thôi. Nó cản đường con về đồng cỏ quê trời. Nó làm chậm chân con ra khỏi cánh rừng nguy hiểm cho linh hồn. Những ngày con sống như thế, Chúa thấy thời gian đổ vỡ đã gần kề mà con vẫn ngủ, thì con xin Chúa, như người chăn chiên tốt lành, hãy dùng gậy mà đánh, mà lùa chiên ra khỏi bóng mát.

Xin cho con nhớ lời thánh Phaolô nhắn gởi: "Hỡi con chớ khinh chê lời sửa phạt của Chúa, chớ ngã lòng khi Chúa trách mắng con. Vì Chúa sửa trị kẻ Chúa yêu và đánh phạt kẻ Chúa nhận làm con. Chúa dùng đau khổ để dạy anh chị em. Thiên Chúa đối xử với anh chị em như đối xử với con cái. Có con nào mà cha không phải sửa phạt ư? Nếu anh chị em không nhận lời răn dạy như mọi người, anh chị em là con ngoại tình chứ không phải con thật nữa. Ðàng khác cha phần xác sửa dạy ta mà ta còn tôn kính, phương chi ta càng phải vâng phục cha phần hồn là Ðấng ban sự sống cho ta. Cha phần xác sửa trị ta theo ý riêng mình và vì lợi ích tạm thời, còn cha phần hồn thì vì lợi ích thực sự là để ta được thông phần vào sự thánh thiện của cha. Thật vậy, mọi sự sửa phạt lúc đầu chỉ gây buồn tủi, chẳng có đem lại an ủi đâu, song về sau, những kẻ vui lòng chịu thử thách như vậy, sẽ được sự bằng an và sự công chính làm phần thưởng (Hipri 12: 4-11).


6. CĂN CƯỚC

Phúc Âm thánh Yoan, phần phụ chương, chương 21:

Sau đó, Ðức Yêsu lại tỏ mình ra lần nữa cho môn đệ ở ven biển Tibêria. Ngài tỏ mình ra như thế này: Tề tựu với nhau có Simon Phêrô và Tôma, nghĩa là sinh đôi, Nathanael người Cana xứ Galilê, các con ông Zêbêđê, và hai môn đệ khác nữa, Simon Phêrô nói với họ: "Tôi đi đánh cá đây". Họ nói với ông: "Chúng tôi cũng đi với ông". Họ ra đi, lên một chiếc thuyền; nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả (Jn. 21:2-3).

* * *

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời của ông làm hai: Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.

Tôi chọn những lời Phúc Âm trên đây để vẽ căn cước cho ông vì trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này qua lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông chối từ thê thảm (Mc. 14:66-72). Nhưng phần thứ hai trong đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Yoan trên đây. Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mùng sương gió cho Nước Trời.

* * *

Trên biển hồ Tibêria, thẻ căn cước của ông được viết bằng một hàng chữ ngắn: Tôi đi đánh cá. Ông mở đầu cuộc đời anh hùng ca của ông bằng mấy chữ ấy. Với thẻ căn cước đó ông vẽ chân dung của ông bằng những mảng màu độc đáo. Ðời ông ra sao về sau này, tuỳ thuộc ở tấm căn cước mà ông xác định trên biển hồ hôm nay: Tôi đi đánh cá. Vậy chúng ta hãy "xét" căn cước của ông để tìm một chút thành tố căn bản cho thiên anh hùng ca đời ông.


Chấp nhận cô đơn sương gió

Trên biển hồ hôm đó, ta thấy Yoan kể về một nhóm bạn hữu. Ðếm ra ít nhất cũng bẩy người, nếu tính cả Phêrô, biết đâu còn nhiều hơn. Thầy của họ vừa mới chết. Cái tang chế u buồn như còn chít vòng khăn sô trong tim họ. Mất Thầy rồi, giờ này biết đi đâu? tương lai chúng ta ra sao? Chắc chắn họ vọng về những ngày quá khứ đi đâu cũng có Thầy với nỗi sầu muộn u hoài. Chắc chắn họ nhìn về tương lai với nỗi lo băn khoăn. Bởi đó, họ cần nhau. Ði đâu họ cũng muốn có nhau. Cho nên cái thường tình, họ ngồi chụm với nhau một đám đông là thế.

Trời xuống đêm nặng nề. Ngoài kia biển cứ mênh mông vô tâm. Họ hỏi nhau. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta phải làm gì? Những câu hỏi ngắn thôi mà câu trả lời sao mịt mờ quá. Trong cái bơ vơ mệt mỏi để tìm một định hướng, Phêrô lên tiếng: Tôi đi đánh cá.

Ông dại dột quá, tại sao ông không nói: Chúng ta hãy đi đánh cá. Ông lỡ lời mất rồi. Ông chỉ nói: Tôi đi đánh cá. Nếu không ai đi với ông thì sao? Khi ông nói, Tôi đi đánh cá, mà không ai đi với ông thì ông phải đi một mình. Chúng ta hãy nhìn mảng màu mà ông tự vẽ cho ông. Ông đã nhìn thấy một đêm đen mờ mịt, ngoài kia gió lạnh buông theo sương. Mênh mông một mái chèo. Lặng lẽ trong khuya khoắt một nhịp sóng cô độc, lẻ loi. Nếu không ai đi, một mình một mái chèo, một mình một biển rộng hoang vu, một mình một bão tố thăm thẳm. Nếu không ai đi, gió đưa về từng con sóng bung vạt áo, một tay đỡ nhịp, một tay chống. Chắc chắn ông đã nhìn thấy ra khơi trong đêm nay là thế. Nhưng tiếng lòng của ông là căn cước của riêng ông. Nếu không ai đi ông vẫn ra đi một mình.

Từ nay, bước đường căn cước ơn gọi làm Kitô hữu của tôi là thế. Là ngược gió mà đi, là ngược theo dòng đời mà tới. Tôi chọn hàng chữ Phêrô viết trên tấm căn cước của ông: Tôi đi đánh cá. Vì tôi thấy ông có một lựa chọn dứt khoát cho một ơn gọi. Không có ai đi, tôi vẫn đi. Trên cuộc đời, có người đi ngược, có kẻ về xuôi. Nhưng đâu là con đường của tôi. Phêrô, ông đã không để đời ông nhiễm lạnh vì cái ấm cúng của một đám đông. Ông không để đời ông sợ hãi vì không có kẻ đồng hành mà ngần ngại với ơn gọi. Tôi đang nhìn thấy một Phêrô khác cũng đang vẽ căn cước cho đời mình bằng thiên anh hùng ca của biển hồ Tiberia năm xưa, đó là Yoan-Phaolô II. Người ta chống đối Giáo Hội, vì Ngài dám nói thẳng về những tệ trạng thiếu luân lý, công bình của xã hội hôm nay.

Trong ơn gọi làm Kitô hữu của mình, tôi cần viết một hàng chữ cho căn cước của tôi.


Ðặc tính của lửa

Khi Phêrô nói: Tôi đi đánh cá. Các ông khác cùng nói: Chúng tôi cũng đi với ông. Chúng ta giả sử đêm ấy Phêrô không ra khơi, chắc hẳn chẳng có ai muốn xuống thuyền. Nhưng giờ đây, ta hãy nhìn những mảng màu táo bạo Phêrô đổ xuống biển hồ. Trong cái đêm đen mênh mông ấy, khi mà thế giới say ngủ, nhóm chài lưới bẩy người ra khơi. Họ tiến vào mù mịt gió sương, họ đập chèo vào mặt sóng không sợ hãi, họ dứt khoát đi thẳng vào mịt mùng nước mênh mông. Ðẹp làm sao trong cái u hoài sầu muộn, giờ đây bừng bừng lửa, đốt thành bẩy ngọn hải đăng thiêng liêng. Mỗi con sóng đập là toé lên từng mảng mầu dũng cảm long lanh. Mỗi ào ào gió tạt là vung tay gạt thách đố. Tôi có thể nhìn thấy Phêrô đứng ở mũi thuyền, mỗi lần sóng trào lên, mắt ông ngời sáng nhìn về phía trước. Tóc ông rối bay ẩm ướt gió sương. Không phải biển hồ đe dọa nuốt ông, mà là ông đe dọa sẽ nuốt cả biển hồ.

Lửa. Một lần Ðức Kitô đã nói: "Ta đã đem lửa xuống thế gian và ta muốn lửa ấy cháy lên" (Lc. 12:49). Ðặc tính của lửa là đốt cháy. Cái mệnh đề: "Tôi đi đánh cá" của Phêrô dẫn đến mệnh đề thứ hai: "Chúng tôi cùng đi với ông". Họ đã bị Phêrô đốt cháy.

* * *

Lạy Chúa,

Cuộc đời con có nhiều khúc đường mà kẻ đi xuôi, người về ngược, kẻ bảo dừng, người phân vân. Trong cái hoang mang đó con rất dễ đánh mất căn cước ơn gọi của con. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy đời ông có một lý tưởng. Thiên anh hùng ca đời ông đã bắt đầu bằng thái độ dứt khoát đó. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy ông đã đốt cháy đời kẻ khác chung quanh ông. Dựa vào căn cước của ông con cần xét căn cước của mình:

- Trong cuộc sống, nếu con không dám trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, nếu con tự nhủ lối sống dễ dãi của con chẳng có gì phàn nàn vì tất cả kẻ khác cũng sống như vậy. Ðấy là dấu chỉ con bỏ căn cước ơn gọi Kitô hữu của con, con đang cầm căn cước của người khác rồi.

- Lý tưởng của Phêrô đã làm thay đổi ngoại cảnh chung quanh ông. Chỉ có lửa giả mới không đốt cháy. Nếu trong bổn phận Chúa trao cho con, mà chung quanh con mọi thứ đều tà tà, chẳng có gì thay đổi, đấy là dấu hiệu con phải "xét" kỹ lại căn cước thiêng liêng của mình.


7. CHẾT

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: "Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi".

Ngài đã nói cùng họ: "Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải".

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: "Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.

Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: "Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm" (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tử nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: "Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.


8. CHIẾC ÁO

Sau khi ăn trái táo, Evà thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân (Stk. 3:1-7). T rong hình ảnh này, tội liên hệ tới áo che thân.

***


Những chiếc áo

Nhiều người tạo giá trị đời mình bằng cách sắm sửa quần áo đắt tiền. Nhiều kẻ đánh giá sai một người cũng chỉ vì áo quần người đó che thân.

Nhiều lần Chúa khó chịu vì các thầy tư tế thích trang phục cho mình những áo tua rộng, ngồi chỗ nhất trong hội đường. Có "áo tua rộng", khuynh hướng tự nhiên là `hích "ngồi chỗ nhất trong hội đường" để được chú ý. Bằng ấy năm theo Chúa, chẳng thấy Chúa may cho các môn đệ lấy bộ áo đồng phục. Chúa cứ bảo dấu hiệu người ta nhận ra các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau. Bây giờ thì khác, giáo phái nào cũng có đồng phục. Ðoàn thể nào cũng thích có áo đồng phục. Không có đồng phục, sợ rằng người ta không nhận ra mình là ai.

Bác ái vô hình quá, chứng nhân bằng bác ái khó hơn làm nhân chứng bằng manh áo. Ðối với manh áo, cứ có tiền là sắm được. Cứ mặc lên là xong, người ta nhìn thấy ngay. Có khi càng có đồng phục đẹp, càng nghĩ mình là chứng nhân trung thực. Có khi càng nghèo nhân đức càng cần tấm áo thật đẹp. Chứng nhân bằng bác ái khó lắm.

Cả đời Ðức Kitô, có một lần Phúc Âm nhắc đến áo, lại là lần mất áo. "Chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau" (Mt.27:35).

Chúa lấy nghèo khó, làm nhân chứng lòng thương xót.

Lấy can đảm, cắt nghĩa sự quý trọng chân lý.

Lấy đau khổ, diễn giải lòng trung thành.

Chúa không lấy tấm áo làm biểu hiệu chứng nhân. Biết đâu những tấm áo tôi mặc hôm nay chẳng làm tôi thành nhân chứng mà chỉ là tấm áo ẩn náu, che đi những yếu đuối vì tôi không có khả năng làm chứng nhân.

***

Có tội, Ađam - Evà mới tìm áo che thân. Như vậy, áo che thân cũng là áo che tội. Theo câu chuyện thiếu áo che thân của nguyên tổ trong địa đàng thủa xưa, áo và tội liên quan với nhau. Biết đâu, hôm nay cũng có những tấm áo chỉ để làm nổi bật sự quan trọng mà thực sự họ chẳng có. Hoặc để che đi những gì họ có mà chẳng tốt lành.

***

Người nghèo thường phải mặc áo rách. Kẻ nghèo hơn nữa thì không có áo. Hình ảnh những nô lệ, không thấy họ mặc áo. Nghèo là sự trần trụi của con người. Ai cũng cần tấm áo để che đi cái trần trụi ấy. Cái áo làm đẹp con người. Thiếu áo, khổ thật. Nó là dấu chỉ của thấp hèn, của túng thiếu. Chả ai muốn nghèo.

Ở quê hương tôi có nhiều người thiếu áo. Có những bà mẹ lam lũ mà không sắm được cho con tấm áo vào ngày đầu năm. Dì tôi ngồi ở hiên nhà nhặt những hạt đậu sâu. Bàn tay đen sậm, cáu ghét vì đồng áng lam lũ. Nắng hầm hập trên mái tôn thấp. Những sợi tóc muối tiêu vương vãi trên lưng áo im lặng. Tôi nhìn chiếc áo, áo của dì rách quá. Cái áo ấy không bằng chiếc giẻ lau ở đây. Cũng là con người, nhưng hai miền đất, hai hạnh phúc khác nhau. Tôi ở một nơi rất xa nơi dì tôi ở. Sự giàu có ở đây làm tôi khó nhớ tới những manh áo rách nơi đó.

Nếu Evà vì tội phải cần tấm áo che thân, thì mỗi manh áo tôi che trên mình đều có ý nghĩa. Manh áo ấy có nhắc tôi về tội tôi đang giấu giếm? Những tương quan của manh áo này với manh áo nọ trong cuộc đời chắc hẳn cũng có những ý nghĩa. Ðâu là ý nghĩa chiếc áo của những người nghèo như dì tôi đang mặc? Nó liên hệ thế nào với chiếc áo của tôi nơi phương trời này trong thân thể Chúa Kitô, nơi mọi người đều là anh em?

***

Chiếc áo đẹp nhất

Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca kể rằng: Anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh, hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..." Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu..." (Lc. 15:20-22).

Bỏ nhà, anh ta phải đem những áo tốt nhất đi theo. Vậy sao lại còn cái "áo đẹp nhất"? Dựa theo mạch văn của bài tường thuật, ta có thể biết được nguồn gốc của cái áo ấy.

Người cha sai đầy tớ về bắt con bê đã "vỗ béo" ăn mừng. Theo bản văn, không phải bắt con "bê béo" mà con bê đã "vỗ béo". Bê đã "vỗ béo" khác con "bê béo". Vỗ béo là con bê đã được săn sóc cách riêng cho béo. Nó là con bê được nuôi nấng từ lâu cho một mục đích chờ sẵn.

Bắt con bê béo làm tiệc cũng là quý rồi, nhưng việc ấy chỉ nói lên phần đãi ngộ khi người con trở về. Còn con bê "vỗ béo" là đãi ngộ ngay khi người con chưa trở về. Có nghĩa là khi còn trong tội lỗi, người cha đã cưu mang một lòng bao dung thương nhớ con mình. Chưa trở về đã đãi ngộ bằng sửa soạn một con bê. Hai điều đó khác nhau, diễn tả hai ý nghĩa rất khác biệt.

Nếu người cha nuôi con bê cách riêng cho béo, hy vọng là có ngày người con về, thì chiếc áo kia hẳn phải là áo ông may sẵn.

Ra đi, nó không để lại những đôi giầy quý, bỏ lại những cái áo hảo hạng. Lúc ông bảo đầy tớ về lấy áo, người đầy tớ không thắc mắc chiếc áo nào, áo của ai, không thắc mắc áo của người anh hay áo của chính ông chủ, người đầy tớ hiểu đích xác chiếc áo nào. Qua cách truyền lệnh ấy, dường như giữa người đầy tớ và ông cha già đã có những lần nói chuyện về cái áo và mục đích của nó để làm gì. Bởi thế, khi nói lấy chiếc áo đẹp nhất, người đầy tớ không cần hỏi han chi, họ biết ngay áo nào rồi.

***

Sau khi bảo đầy tớ về bắt bê đã vỗ béo ăn mừng, Phúc Âm Luca kết luận: "Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc. 15:24). Lời kết luận trên đây nói về một cuộc sống mới, về bình minh của phục sinh. Sự phục sinh là chiếc áo mới. Không phải đợi con về mới có chiếc áo mới. Chiếc áo ấy đã may sẵn. Như thế, trong lúc tôi phạm tội, khi tôi trong bóng tối sự chết, Chúa đã gieo mầm phục sinh cho tôi.

Lạy Chúa, nói chiếc "áo đẹp nhất", con muốn hiểu không phải đẹp trong ý nghĩa tơ lụa, mà là ngày tháng nối những ngày tháng, người cha cứ nghĩ đến đứa con. Ông nhớ nó trong những đường may nối những đường may. Con muốn hiểu tình thương của Chúa trong chiều sâu đó.

Ngày xưa, trưa hè vắng, mẹ ngồi vá áo cho con. Ngón tay mẹ đưa những mũi chỉ. Tuổi thơ chỉ thích nô đùa làm rách áo. Nhìn lại tháng ngày thơ bé ấy, bây giờ con biết mỗi mũi chỉ là mỗi tình thương. Với cái chết khổ nạn, Chúa may áo mới cho con. Biết công ơn của mẹ thì nay đã xa, con muốn cầu nguyện báo hiếu cho những ngày tuổi thơ ấy.

***

Lạy Chúa, con muốn gìn giữ chiếc áo cứu rỗi Chúa ban cho con. Tiếc làm sao nếu rách chiếc áo linh hồn.

Trong cuộc sống giữa đời thường, xin cho con thông cảm giá lạnh của những người thiếu áo.

Con cũng xin ơn đừng vì tấm áo mà làm hoen ố Giáo Hội, áo tu sĩ, áo trí thức, áo quan tòa, áo đoàn thể, áo chủ tịch. Những tấm áo chức vị ấy, những chiếc áo đồng phục kia có cần thiết để biến con thành nhân chứng? Hay nhiều khi chỉ làm hoen ố những chứng nhân.


9. CHÚC MỪNG

Có nhiều lời chúc mừng.

Có nhiều dịp chúc mừng.

Có nhiều người được chúc mừng.

Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.

Chẳng hạn:

Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.

Hoặc như:

Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.

Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.

Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.

***

Kỷ niệm 25 năm thành hôn

Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?

***

Kỷ niệm 25 năm linh mục

Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Mình Máu Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?

Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.

***

Vì sao có những lời chúc như thế. Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.

Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.

Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân.

Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.

Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.

Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.

Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: "Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi" (Mt.13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.

***

Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.

Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.

Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.

Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.

Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.

Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.

Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.

Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.

Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.

Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.

Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.

Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.

Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.

"Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,

Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.

Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,

Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?" (Tagore)

Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.

Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.

Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.

Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.

Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế.

Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.

Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.

Lời cầu chúc đến từ ước mơ.

Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.

Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.

Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh.

Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.

Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi.

Lời cầu chúc đến từ thực tế.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:

- Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.

***

Ôi! Lạy Chúa,

Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.

Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.

Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa.

Amen!


10. CÔ ĐƠN

Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ đợi chẳng xảy đến. Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ chồng có thể cô đơn bên nhau.

Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Đã cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn.

Người ta gần nhau mà vẫn có thể xa nhau, vì trong cuộc đời, mỗi người đều có hai thế giới. Thế giới riêng trong cõi lòng tôi và thế giới ngoài vũ trụ. Thế giới tâm hồn tôi sụp đổ thì thế giới bên ngoài thành hoang vắng, vô nghĩa. “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì thế, tôi có thể cô đơn giữa đám đông. Cả vườn hoa chẳng có nghĩa gì nếu không có loài hoa tôi kiếm tìm. Người đưa thư trở thành thừa thãi nếu không có cánh thư tôi đang chờ mong. Chỉ một cánh hoa của lòng tôi thôi cũng đủ làm cho cả khu đồi thành dễ thương. Chỉ một cánh thư thôi cũng đủ làm cho bầu trời xanh thăm thẳm. Làm gì còn cô đơn nữa nếu đã có bắt gặp.

Tôi cô đơn khi thấy quanh mình chỉ là những dòng sông lững lờ, chỉ là những con nước thờ ơ. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến được với người. Tôi cũng có thể cô đơn vì người không muốn đến với tôi. Cô đơn nào thì cũng là một hải đảo. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác hờ hững thì cay đắng hơn. Khi tự mình không bước tới thì tôi cũng có thể tự mình bước ra khỏi hàng rào cô đơn đó. Còn nỗi cô đơn bị người khác thờ ơ thì đưa tôi vào nỗi buồn mà có khi đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn tôi muốn chạy trốn mà chẳng trốn chạy được. Tôi thương, nhưng người khác có thương tôi không đấy là tự do của họ. Cho đi phần đời của mình mà không được đáp trả vì thế mới có xót xa.

Cô đơn của Chúa là nỗi cô đơn này.

Chúa đến với kẻ khác nhưng bị kẻ khác chối từ, gọi mà không có tiếng đáp trả, bởi thế, trong vườn Cây Dầu Ngài mới thấy cõi lòng trống trải. Trong cái trống trải ấy, theo Tin Mừng Máccô, Ngài tỏ lộ: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc. 14:34).

Làm gì có cô đơn nếu có lời đáp trả. Không có lời đáp trả nên mới cứ phải chờ đợi. Đợi chờ không là khởi điểm của cô đơn sao. Đợi chờ càng lâu thì nỗi cô đơn càng dài. Chờ đợi mà chẳng bao giờ xảy tới thì nỗi cô đơn càng héo hắt. Làm gì có cô đơn nếu không có kiếm tìm. Làm gì phải kiếm tìm nếu đã đầy đủ. Vì thiếu vắng nên mới phải đi tìm. Khi sự thiếu vắng quá cay đắng thì nỗi cô đơn dẫn đến sự chết.

Sự thiếu vắng không hệ tại im lặng của không gian hoặc vắng bóng người mà hệ tại sự trống vắng của con tim. Có những quãng đời cô tịch, tôi đi một mình, nhưng càng lặng lẽ tôi càng thấy niềm vui nhiệm mầu trong hồn. Có những khúc đời chung quanh tôi tấp nập bước chân, rộn rã lời cầu chúc mà tôi vẫn nghe hiu hắt. Chúa cũng vậy, những đêm dài ở sa mạc chỉ có trăng và cỏ cây, chỉ có núi đồi và gió, nhưng Chúa không cô đơn. Chiều thứ sáu ở Jêrusalem tấp nập chân người mà cõi lòng Chúa thì hoang vắng. Trong vườn Cây Dầu có các môn đệ đi theo mà Chúa vẫn thấy lẻ loi.

Kẻ cô đơn là kẻ đi tìm niềm cảm thông nhưng chẳng gặp. Vì không gặp nên họ đành trở về thế giới nội tâm cô lẻ của riêng mình. Vì thế giới nội tâm đó đang heo hút trống vắng, nên họ chỉ bắt gặp sự thiếu thốn ở đó mà thôi. Sống trong thiếu thốn để rồi nhìn kẻ khác đầy đủ vì thế mới có nước mắt xót thương cho đời mình.

Ai cũng có lúc cô đơn vì chẳng ai đầy đủ. Ai cũng phải đi tìm vì ai cũng thiếu vắng. Nhưng có những thiếu vắng dễ tìm thấy. Có những thiếu vắng như mênh mông vô hạn. Khi Chúa mất hết tình thân, Chúa tìm đến với Chúa Cha: “Ôi! Cha cũng bỏ con sao”.

Khi lòng tôi tan nát, khi đời tôi đắng cay, tôi cũng vẫn còn hy vọng là Chúa. Nếu tôi mất Chúa thì đây mới là sự thiếu vắng hoang tàn nhất. Đây là cô đơn không còn lối thoát. Trong nỗi cô đơn của tôi hôm nay, khi mà tôi không còn tìm đâu được niềm vui, tôi cũng sẽ nói với Chúa như chính Ngài đã nói với Chúa Cha: — Ôi! Cha cũng bỏ con sao.

***

Lạy chúa, con tin là Chúa hiểu cõi lòng con. “Ôi! Cha cũng bỏ con sao?”. Đấy chính là lời nguyện của Chúa, lời nguyện của kẻ cô đơn trong giờ cô đơn nhất..

Chỉ có ai đã cô đơn mới có thể hiểu nỗi buồn, mới thấy cái hoang dại trong cuộc đời của kẻ cô đơn. Chúa đã cô đơn trên thập giá.


11. CON CẦN CHÚA

Tôi chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn hiện diện. Vì Ngài là Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa thì không cần chứng minh.

Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù.

Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ.

Từ đó,

Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài.

***

Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV đọc như sau:

Lạy Cha chí thánh

là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,

chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc,

thật là chính đáng, phải đạo

và sinh ơn cứu độ cho chúng con.

Thật ra,

Cha không cần chúng con ca tụng,

nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả,

vì những lời ca tụng của chúng con

chẳng thêm gì cho Cha

nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời,

nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh

chúng con ca ngợi Cha muôn đời vinh hiển,

và đồng thanh tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Chí Thánh.

Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết bản chất Thiên Chúa như thế nào.

Một thần linh là Thượng Đế thì không cần tiếng ca tụng của người phàm. Vì là Thượng Đế nên lời ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài.

Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa để Thiên Chúa được vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Roma của Giáo Hội đã xác định như trên.

Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Roma là:

Được tạ ơn Chúa là hồng ân cao cả cho chính tôi.

Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa,

nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ.

Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là:

- Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài.

Nhiều người nghĩ rằng mình làm “vinh danh” Chúa bằng lời ca tụng của mình, nên khi bất mãn với Giáo Hội thì ngừng ca tụng Chúa.

Có người nghĩ rằng Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa thì không ca tụng để Thiên Chúa bị thiệt thòi.

Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không.

Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không.

Khi chúng ta hiểu rõ lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại thêm cho chính mình. Khi chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa lại là hồng ân cho chính mình thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề về những lời ca tụng của chúng ta.


Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng.

Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,

Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát. Chúa cho anh ta một hồng ân là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá nặng nề, sau cùng anh cúi mặt bước đi buồn rầu. Rất tội nghiệp cho anh. Tại sao Chúa không năn nỉ anh? Hình ảnh siêu bạo ở đây là Chúa không năn nỉ. Phải chăng vì theo Chúa là một hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh. Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi lễ. Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ. Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn nỉ”. Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ. Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não trạng như thế. Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng những lời ca tụng kia là cần thiết cho chính chúng con.


Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng.

Vì Chúa là thần linh không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho con được ca tụng. Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca tụng thần linh. Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi công việc tông đồ. Biết đâu có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình. Từ đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng. Tất cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu thương xót chúng con.


Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng.

Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,

Vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn, ao ước và chờ đợi được ca tụng. Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa. Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả chứ không phải Chúa thiếu thốn. Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa. Cái nghèo của chúng con là không được Chúa sai đi. Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời.

Lạy Chúa từ bi nhân hậu,

Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì con nghèo lắm nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa con lấy đâu hồng ân cho hạnh phúc của con.

***

Bạn thân mến,

Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm. Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không.

Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tùy cách nghe mà lời đó khác.

Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn. Họ không muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao. Một cuối tuần đến retreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một đầu người. Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền. Hầu hết cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh tâm để ca tụng Chúa. Đối với tôi đấy không phải là hy sinh. Hy sinh là chịu thiệt về mình cho người khác phần lợi. Vì cách nói của tôi làm họ bực bội.

- Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công việc ở nhà nếu không hy sinh làm sao bỏ được.

Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ. Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối:

- Thưa cha, con xin có đôi lời.

Người này cất tiếng. Rồi tiếp:

- Tôi xin lỗi anh chị em những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có một chút gì đó làm tôi suy nghĩ.

Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người:

- Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng đèn bớt sáng đâu.

Rồi quay nhìn ra sân tối:

- Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khóa linh thao này. Nếu tôi bỏ lò sưởi ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt sức nóng đâu. Thiên Chúa là như vậy. Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho tôi sức ấm chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được.

***

Bạn thân mến,

Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm – nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp.

Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa.

Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy nói:

- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài.

Bởi, đó là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân.


12. DANG DỞ

“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.

Đời mất vui khi vẹn câu thề”

Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?

Dường như là thế. Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?

Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?

Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong. Tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở. Đức Kitô tiếp tục yêu và tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Trong dang dở của tình yêu, cho tôi thấy trái tim Người bao dung và kiên nhẫn. Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.

Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ. Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được. Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.

Không có tình yêu thì trọn vẹn cũng là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu thì dang dở cũng là dang dở quý mến.

Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Có một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:

— Khi Ngài chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).

— Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: “Hãy múc nước đổ đầy các chum” (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.

— Làm phép cho CÓ BÁNH ĂN và làm phép cho bánh HÓA RA NHIỀU là hai thái độ rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).

— Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).

Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.

Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người mang hi vọng là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.

Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.

Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.

***

Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.

Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.

Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.

Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.


13. DREAMS AND VISIONS

Vệ Tinh Truyền Hình Công Giáo cho Á Châu đã thành sự thật!

Mỗi người mơ một ước mơ thì mơ ước khó thành. Khi nhiều người mơ chung một mơ ước thì mơ ước ấy dễ thành sự thật hơn.

Ngày 11 tháng 3 năm 1996 vừa qua, trong cuộc họp tại Thailand, ban Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu đã chấp nhận sự hoạt động của một kênh truyền hình Công Giáo Á Châu từ vệ tinh truyền xuống cho toàn miền Nam Á Châu.

Lễ Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời ngày 15 tháng 8 năm 1996 đã bắt đầu phát hình thử. Hi vọng kênh truyền hình sẽ có thể hoạt động hữu hiệu trong năm nay.

Giới truyền thông Công Giáo Á Châu, ai cũng nô nức trước biến cố rất lịch sử này. Thai Sky Cable TV đã kí với Giáo Hội Thailand cho Giáo Hội được dùng một kênh truyền hình của công ti này 24 giờ một ngày, liên tục 365 ngày một năm, trong vòng 20 năm. Lí do: vì công ti này mới hiện đại hóa dụng cụ truyền thông của họ, họ mới thiết kế một Ku-band satellite transponder. Với kĩ thuật hiện đại, hệ thống này có thể truyền đi vô vàn thông tin với một số lượng rất nhiều các channels TV. Họ nghĩ một kênh truyền hình cho tôn giáo là điều hấp dẫn cho công ti của họ nên đã ngỏ í với Giáo Hội Thailand.

Sau khi loan báo cho các Giáo Hội địa phương, từ giới truyền thông của các Giáo Hội vùng Á Châu Thái Bình Dương cho tới Roma đều phấn khởi. Tham khảo với các chuyên viên truyền thông xong, Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu đã quyết định nhận kênh truyền hình như kênh TV Công Giáo cho Giáo Hội Châu Á. Các buổi hội thảo đã nhộn nhịp liên tiếp diễn ra từ mấy tháng trước. Các Giáo Hội như Korea, Philippines, Indonesia, Taiwan, Hongkong, Singapore, Japan, Malaysia, đã chuẩn bị cùng nhau sử dụng cơ hội quý báu này trong việc truyền bá Phúc Âm, thông tin tôn giáo, giáo dục nhân bản. Satellite sẽ truyền hình xuống toàn miền Châu Á Thái Bình Dương mà Việt Nam nằm dưới địa điểm rất thuận tiện.

Giáo Hội Việt Nam chúng ta đối với kênh truyền hình này như thế nào? Giáo Hội trong nước không thể làm gì hơn là chờ đợi những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại.


Tầm mức quan trọng

Hiện nay vấn đề giáo dục nhân bản, giáo dục lương tâm, giáo dục tôn giáo là những nhu cầu cần của Giáo Hội Việt Nam. Người ta có thể xây một xa lộ siêu tốc trong vài năm là xong. Vài tháng là hoàn thành ngôi thánh đường. Nhưng xây một xa lộ lương tâm không phải dễ và mau chóng như đổ xi măng làm đường.

Chúng ta thử tưởng tượng vói những bài giáo lí, học hỏi Kinh Thánh, những khóa thần học giáo dân được đưa lên vệ tinh rồi truyền xuống khắp đất nước chúng ta từ thôn làng hẻo lánh đến thành thị, từ Nam tới Bắc. Rồi dân chúng thu lại trong video để làm bài học trong gia đình, trong các nhóm sinh hoạt thì còn lợi ích nào bằng. Chúng ta có thể đem những nghi thức phụng vụ, nghệ thuật, sinh hoạt tôn giáo ở những chân trời khác để mở ra cho Giáo Hội mình một cái nhìn rộng rãi. Ngày xưa Phanxicô phải vất vả ngược xuôi, hôm nay với kỹ thuật hiện đại, Tin Mừng có thể như những hạt giống tung gieo khắp muôn phương dễ dàng. Nó là một đại học thực tiển.


Chúng ta cùng nhau hợp tác và phục vụ

Tôi đang chuẩn bị chuyển sang tiếng Việt một số băng Video do trung tâm Truyền Hình Quang Khải Ðài Loan thực hiện để sau nầy có thể sử dụng cho chương trình tiếng Việt của Satellite Truyền Hình Công Giáo Á Châu. Tôi đã dịch xong bộ Video "In the footsteps of St. Francis Xavier". Bộ Video do trung tâm Quang Khải thực hiện, mới được tin Cha Jerry Martison từ Mỹ điện thoại báo tin, bộ phim gởi về Mỹ tham dự và được nominated hạng 3 trong những video về tôn giáo năm 1996 (trong lúc không có hạng nhất và hạng 2).

Chúng ta không thể thực hiện những công trình to lớn thì chúng ta tìm cách chuyển âm sang tiếng Việt những tài liệu nào hay để phát hình về Việt Nam. Một mình tôi không thể nào làm được, xin nhờ anh em một người một tay. Chúng ta cùng nhau hợp tác.

Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho công trình thực hiện chương trình truyền hình của chúng ta.

Ðài Loan, tháng 7 năm 1996

Lm Nguyễn Tầm Thường

Trung Tâm Truyền Hình Quang Khải, Ðài Loan


14. ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN

Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay. Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào. Nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, đúng ngày mà có bóng ngựa đi qua.

Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào. Phải chăng bóng ngựa là hồn người bạn cũ?

Ðêm đó, bên rừng am thất, bỗng có người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Quay nhìn, chính hồn người bạn cũ hiện về!

- Này, bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào.

Hồn người chết lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó:

- Ði về phía đông mươi trượng, vào đường hầm. Ði xuống trăm bước. Ði lên. Về phía nam.

Thoát chốc, hồn người bạn cũ biến mất, bất ngờ như khi hiện đến.

Mơ hồ như trong giấc ngủ mộng mị. Con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Hồn nhà đạo sĩ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi. Qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trời đổ mưa. Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn lên, bình minh xuống. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, một đời sống thanh bình. Ông hỏi tiếng vọng:

- Thiên đàng đâu?

Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường chung quanh ông trên dương thế đang diễn ra. "Ðó, ông đang đi qua thiên đàng đó." Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên như người ta nói, không có các vũ công vũ khúc nghê thường. Không có yến tiệc linh đình. Một sinh hoạt như cuộc

sống trên dương thế của ông thôi. Kì lạ quá. "Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hỏa ngục thế nào?" Ông ngạc nhiên về những hình ảnh thiên đàng, hỏa ngục mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của mình.

Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang một thế giới khác. Chập chờn, ông lạc vào một vùng như hoang tưởng. Chung quanh ông là những tòa nhà sang trọng. Có những toán người ca hát nhẩy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc bày biện tưng bừng. Chỗ nào ông cũng thấy xa hoa, phấn hương. "Có phải đây mới là thiên đàng chăng?" Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà hạnh phúc phúc thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: "Không! đây là hỏa ngục!" Qua sảnh đường, ông nhác thấy có người quen, chính hồn người bạn cũ năm xưa! Ông ta đang ngậm miệng cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhãi. Chung quanh sàn nhà cẩm thạch, đoàn vũ nữ nhẩy múa. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu đêm suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhãi oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. "Thế này nghĩa là gì? Ðâu là thiên đàng? Ðâu là hỏa ngục?"

* * *

Ðược giác ngộ, nhà đạo sĩ mới thấy những gì hiểu về thiên đàng, hỏa ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn hạ suốt ngày. Hỏa ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hệ tại là thiên đàng có tự do, hỏa ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.

Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh hoàng. Tốp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. "Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền thế kia từ thế kỉ nào?" Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, ông thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ. Môi miệng sưng lên, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống.

* * *

Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngâm hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hỏa ngục như sau:

Con thân mến,

Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hỏa ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dở dang.

Con đừng cầu xin Thượng Ðế cho con bất hạnh đời này để được hạnh phúc đời sau. Con phải nỗ lực vươn lên mà loại bớt bất hạnh. Thượng Ðế không muốn con người đau khổ. Ðến trong trần gian, Ðức Kitô cho người đói ăn, người què đi, người mù nhìn thấy, người phung hủi được sạch, người chết sống lại. Ðau khổ, tự nó là điều xấu. Ngài không muốn. Con hãy xin Thượng Ðế cho con hạnh phúc đời này, như hình ảnh báo trước một hạnh phúc thật bao trùm đời sau. Và hãy hết sức làm đẹp thế giới con đang sống chung quanh bằng con đường xây dựng hòa bình, công chính, yêu thương để con người cảm thấy vị ngọt hạnh phúc mai sau sẽ dạt dào thế nào.

Con đừng vì lười biếng không nỗ lực xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay rồi tự an ủi hứa thiên đàng là hạnh phúc tương lai.

Hỏa ngục không là hình phạt Thượng Ðế sắm sẵn như một nhà tù xây nên rồi chờ xem ai lỗi phạm thì bắt vào. Hỏa ngục cũng giống thiên đàng, cuộc sống ấy là kéo dài những dở dang của con người trong cuộc sống hôm nay. Nếu dang dở ấy là hạnh phúc thì con sẽ hạnh phúc tiếp đời sau, đó là thiên đàng. Nếu dang dở ấy là bất hạnh thì đời sau là bất hạnh tiếp cái dang dở ấy, đấy là hỏa ngục. Con hoàn toàn lựa chọn cho mình. Căn nhà hạnh phúc con đang xây dở thì khi chết rồi, con sẽ tiếp tục xây hạnh phúc ấy. Con xây ngục thất, thì khi chết rồi con sẽ phải tiếp tục xây cái ngục tù dở dang của bất hạnh đó.

Tội là con đưa một đam mê lên thành lí tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hòa của mọi thứ say mê.

Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khỏe, trí tuệ, vật chất, tinh thần... tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hòa nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem hạnh phúc cho người, cho mình. Nhưng nó phải hài hòa trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người để nhan sắc thành lí tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo. Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô khan lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn cũng thế, nó cho người ta những giây phút "đau thương êm ái." Nhưng chúng phải hài hòa.

Con thấy đó, hỏa ngục là nơi không còn hài hòa. Kẻ nhẩy múa là thâu đêm suốt sáng nhẩy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lí tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lí tưởng đó mà sống. Hỏa ngục hệ tại là đó.

Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Ðam mê độc tài này đẩy con người vào hành động. Lúc ấy, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hòa bị tan vỡ. "Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó thống trị mình" (2 Phêrô 2:19).

Hạnh phúc, đau khổ là những định nghĩa đơn sơ thôi. Thiên đàng và hỏa ngục ở khắp nơi trên cõi thế này. Bởi đó, con không cần mong người sau hiện về nói cho biết. Chính Kinh Thánh cũng chẳng cho ai từ cõi chết về để nói về thiên đàng, hỏa ngục. Ðây là thế giới riêng tư của mỗi người, thì làm sao con biết thiên đàng của kẻ khác được? và con cũng đâu cần điều ấy, phải vậy không? Cúi hỏi tâm hồn mình, nhìn xem có đam mê nào con đang đưa lên thống trị suy tư, hành động trong đời sống của con. Nơi đó con sẽ thấy thiên đàng hay hỏa ngục.

* * *

Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn. Nó trở nên độc tài. Nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có. Nghi ngờ đi với thành thật và độ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hòa ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.

Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Có mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Chính trong cái bình thường ấy mà ông đã đi tìm định nghĩa thiên đàng như một thế giới xa lạ, rực rỡ xa hoa. Ông không nhìn thấy thiên đàng hay hỏa ngục ngay dưới chân mình. Trong cuộc đời, bao người đã đi hết miền đất này tới miền đất kia tìm thiên đàng hạ giới. Nhưng họ cứ tìm mãi mà đời cứ mênh mông, không gặp.

Bây giờ ông hiểu í sâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Ông đã viết xong lời cuối, muốn gởi người môn sinh. Ông muốn nhắc cho người môn sinh hỏa ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhẩy múa sẽ suốt tháng cứ nhẩy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ. Ðọc lại những gì đã viết, ông chả thấy có gì mới cả. Kinh Thánh đã nói đến rồi. "Nếu họ không tin lời của Môsê và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu" (Lc. 16:31). Rồi, ông lặng lẽ cất đi những gì đã viết, không gởi cho người môn sinh nữa.


15. ĐẠO SĨ SADHU

Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau: Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.

Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bày chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Ðể nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.

Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.

Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.

Ðâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu.

* * *

Tôi viết những dòng này chiều ngày mồng một tháng Giêng năm 2001, tức ngày đầu năm, thiên niên kỷ thứ ba. Tôi đến Ấn Ðộ lúc 11 giờ 30 đêm ngày 29.12.2000. Bước xuống phi trường Bombay tôi thấy ngay cái nghèo của đất nước này. Ở Bombay trọn ngày 30, hôm sau lấy xe lửa đi Poona, tiếng Anh viết là Pune, một thành phố cách Bombay bốn tiếng theo đường xe lửa về hướng đông nam. Tôi sẽ ở thành phố này hai tháng. Chiều nay, vậy là tôi đã ở Ấn Ðộ được ba ngày.

Tôi dự tính sẽ ở Ấn nửa năm. Tôi viết những dòng này, chiều nay, vì nỗi trống trải, một nỗi buồn nhớ nhà. Ðất Ấn quá xa lạ, viết để mong tìm trong dòng chữ một chút lãng quên.

Từ phi trường Singapore, một trong những phi trường hiện đại nhất thế giới, những gian hàng điện tử trưng bày sản phẩm mới nhất, văn minh nhất thời đại, chỉ sau bốn tiếng rưỡi đồng hồ, tôi đến một thế giới quá khác xa, bụi bặm, nghèo đói, dơ dáy. Cảm giác đầu tiên của tôi là muốn quay về Mỹ. Tôi đã đi nhiều nơi, thích nghi với nhiều hoàn cảnh. Những ngày ở Philippines, qua những khu nhà tồi tàn, chứng kiến đám dân nghèo sống bằng núi rác của thành phố thải ra. Nhưng mới ba ngày ở đây, tôi biết nơi đây còn nhiều cảnh nghèo hơn Việt Nam và Philippines.

Ra được khỏi phi trường, đã nửa đêm, tôi kéo chiếc va ly nhỏ theo người đón, đi bộ một quãng dài, đón chiếc xe ba bánh, một loại như Lambretta ở Việt Nam. Ðường phố bụi bặm, vỉa hè tồi tàn. Về đến nhà dòng, thất vọng biết bao với chỗ ngủ đêm nay. Tôi đã từng ngủ trọ qua đêm tại nhiều nhà dòng ở Việt Nam. Tôi chưa thấy phòng khách nào ở Việt Nam nghèo nàn như thế. Một lần nữa, như tôi viết ở trên, tôi chỉ muốn quay về Mỹ.

Trong tôi lẫn lộn nhiều cảm xúc. Mệt mỏi của một hành trình xa. Chán cái nghèo nơi đây. Nhớ nhà. Nhớ những tình cảm của người quen. Tôi đã hành hương thăm căn phòng Cha sở họ Ars ở Pháp. Hôm nay, những căn phòng này tồi tàn hơn. Trên đường bay từ Mỹ qua đây, tôi dừng lại Việt Nam mấy ngày. Ở nơi ấy, tôi thấy Việt Nam nghèo, nhưng trong tôi lúc này nổi lên mơ hồ một cảm xúc trăn trở. Trăn trở vì trong cái nghèo có gương mù, thưa kiện nhau về tiền giữa những người được coi là mẫu mực trong Giáo Hội. Trăn trở vì giáo xứ nghèo tiếp tục rách nát. Chỉ chờ xin ngoại quốc. Thiếu nâng đỡ nhau giữa các họ đạo trong một địa phận, tội nghiệp cho những linh mục vất vả suốt đời ở đó. Xin tiền không còn nói là mình kém, nó trở thành như mình có quyền nhân danh cái nghèo. Cũng như hối lộ không còn là điều làm người ta ngại ngùng mà như một thủ tục bình thường. Chứng kiến cái nghèo ở đây, tôi thấy tâm tình mình lẫn lộn hoang mang. Cái nghèo cơ sở vật chất của Giáo Hội Việt Nam đang biến đổi, sẽ hết nghèo. Nhưng đàng sau cái nghèo nhà cửa đang biến đổi kia, còn nét đẹp nghèo trong tinh thần hay đang bị ám ảnh về tiền bạc.

Tối đầu tiên ở Bombay, rất nóng, chiếc quạt trần tróc sơn, bụi cáu đen, kêu cành cạnh như muốn rơi xuống. Tường vôi loang lổ, vàng ố đen đủi như những bức tường xây từ thời Pháp thuộc ở Việt Nam. Trần nhà thấm nước mốc rêu. Chiếc giường gỗ cũ kỹ. Tấm khăn trải giường, chắc chắn lâu lắm rồi. Tôi sợ không sạch, cúi xuống ngửi, không có mùi hôi. Chỉ cũ thôi.

Hôm sau, 30 tháng 12, trọn một ngày chứng kiến những cảnh chen chúc ở sân ga, khạc nhổ, dơ dáy, bụi bặm. Rời Bombay ngày 31 đi Poona, chiều nay, ngày đầu năm vắng vẻ, nhớ về Mỹ với căn phòng sạch sẽ thật nhiều. Nhớ những cú điện thoại tiện nghi. Nhớ tình bạn. Nhớ những khoảng trời tự do cá nhân. Nhớ nhân phẩm và quyền làm người được tôn trọng. Một buổi chiều quá vắng trong sân tu viện. Trong nỗi nhớ nhà, chán cái nghèo ở đây, tôi tìm vào thư viện và đọc được câu chuyện nhà đạo sĩ Sadhu ở trên.

Câu truyện trên nằm trong cuốn sách nhỏ, cũ kỹ, bụi cũng bám ở gáy sách. Nó nằm im lặng trong kệ tủ. Nó đâu biết chiều ngày đầu năm có người khách lạ từ đâu tới mở trang sách đó. Truyện vô danh, không tác giả, chỉ đề là "an Indian story".

Ðất này nghèo, sao lại có những câu chuyện đề cao cái nghèo như thế? Có phải tác giả đề cao cái nghèo, hay con người tu đạo ấy viết câu truyện trên như chính kinh nghiệm bản thân nói tới tự do của đường vào tâm linh? Có phải họ lấy cái nghèo vật chất để nói cái giàu tâm linh, lấy cái giàu của cải để cảnh tỉnh cái mất tự do tâm hồn?

Câu chuyện bắt đầu chỉ là miếng vải che thân, rồi dần dần nhu cầu sinh ra nhu cầu, sau cùng nhà đạo sĩ mất lý tưởng hạnh tu. Làm thế nào nhà đạo sĩ Sadhu bỏ cuộc, đánh mất hành trình tu giới của mình? Của lễ, tặng vật kia êm ả quá đỗi. Nó như làn gió nhẹ mơ màng, dật dờ như dòng nước không tiếng động. Thế mà đánh đổ nhà đạo sĩ. Sự đổi mới ở đất nước tôi đang mang dáng dấp có nhà Sadhu nào sắp ngã không?

Của lễ dâng cúng không là tội. Nhưng người đạo sĩ có thể bị hủ hóa không ngờ. Lòng bao dung của tín đồ cũng phải khôn ngoan biết bao, chính họ có thể đưa con người hướng dẫn tôn giáo của họ vào tà đạo bằng của lễ ngẫu tượng.

Người ta làm chủ của cải, rồi một ngày bị của cải lấy mất tự do mà họ không ngờ. Ðể lòng mình làm chủ hay bị của cải làm chủ vẫn luôn luôn là một giằng co khốn khổ. Nó vẫn là con đường hạnh tu. Thật khó để mình chiếm hữu của cải chứ không để của cải chiếm hữu mình. Nhu cầu này sinh ra nhu cầu khác. Ta không biết đâu là bến bờ. Phương tiện nào đưa ta đạt đến mục đích, khó mà nhìn thấy.

Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy.

Không ngờ Sadhu đánh mất lý tưởng. Tội nghiệp ông. Tôi nghĩ, nhà đạo sĩ nào viết câu chuyện ấy, đã đạt tới bậc tỉnh ngộ rất cao như lời dạy "hãy tỉnh thức và cầu nguyện." Sau biến cố tháng tư năm 1975, hạn chế sinh hoạt tôn giáo đã đưa các tu sĩ phải học chung với nhau. Nhờ vậy, biết nhau, làm việc chung với nhau, xóa bớt cạnh tranh cục bộ. Bây giờ tấm áo che rách đang được khoác lên. Nhu cầu đang sinh nhu cầu. Sự làm việc chung ấy sẽ tiếp tục hay dần dần lại trở về cạnh tranh cục bộ với cơ sở và thế giới riêng tư. Gần mười năm trước tôi về thăm quê hương lần đầu. Vị linh mục bảo miễn sao dạy được giáo lý. Ðiều cần là giữ đức tin. Nhà thờ chỉ mong cái microphon để làm lễ. Lần này trở về, ngài hỏi ở Mỹ có cái microphon không dây nào cỡ độ năm trăm đô la không.

Ðất Ấn vẫn nổi danh với những huyền bí và những nhà đạo sĩ hạnh tu. Tôi không biết những ngày ở đây sẽ tìm được hoa trái cho đời sống tâm linh không, chứ nói về thú vui, tôi có cảm tưởng sẽ chẳng có gì vui. Ngày đầu năm, nhớ về đất Mỹ với "của cải" của mình, nhớ về Việt Nam với những diễn biến mới đang xẩy ra, trong Giáo Hội cũng như đất nước. Con đường hạnh tu của Giáo Hội đang đẹp, sẽ đẹp, hay biết đâu miếng vải che thân của khách qua đường thương tình Giáo Hội và đất nước ấy đang rét, choàng lên cho ấm, và rồi từ đấy hủ hóa, đánh mất vẻ đẹp của mình.

Ngày 5 tháng 1 năm 2001.

Tôi đã ở nhà dòng này được gần một tuần. Vẫn chưa quen. Nơi tôi đang trọ học là một nhà dòng lớn, gần hai trăm thầy với hai phân khoa triết và thần học. Tiêu chuẩn ăn của họ chỉ như tiêu chuẩn Cao Ủy phát cho thuyền nhân trong trại tỵ nạn ngày xưa. Tôi không thể ngờ mỗi ngày chưa đầy một đô la cho một thầy, trong đó tính luôn tiền gas, điện nấu ăn, tiền lương trả đầu bếp, tiền chuyên chở, tiền dụng cụ nhà bếp, bát đĩa (1US$ = 46.10 rúppi. Mỗi thầy 42 rúppi tiền ăn một ngày). Việt Nam nghèo, nhưng mỗi năm Việt kiều gởi hàng tỷ đô la về giúp, nên nhà dòng ở Việt Nam không đến nỗi nghèo như ở đây. Tôi chỉ nói một cách tương đối.

Dân nghèo bên bãi rác lấy thùng giấy, bao nhựa trùm thành như những cái ống cống cắt đôi, sống bên lề đường rất nhiều. Chung quanh nồng nên mùi khai xú uế, xác thú vật chết, bụi đường, khói xe. Ði bộ qua những nơi đó, tôi có cảm tưởng sẽ mang bịnh vì bao nhiêu thứ như vậy trôi vào phổi mình. Bây giờ tôi hiểu hơn, tại sao Mẹ Têrêsa đã chọn Ấn Ðộ. Lớp dân nghèo ở đây, họ nghèo đến độ đi qua những khu như thế tôi ngại không dám nhìn họ, vì làm sao dám nghĩ Thiên Chúa cũng hiện diện trong họ.

Dường như các thầy trong nhà dòng này đa số đến từ thành phần cũng bình thường. Quần áo họ mặc, giầy dép họ đi, tôi có để đánh giá phần nào. Không hỏi ban giáo sư, nhưng sống giữa họ, nói chuyện với họ, quan sát đồ dùng của họ, tôi biết đường hướng giáo dục ở đây đang chuẩn bị cho các linh mục tương lai này biết sống đồng hành với dân nghèo của họ. Các cha giáo cũng vậy, ăn chung cùng phần thức ăn, chung cùng bàn. Tôi chưa quen đồ ăn ở đây vì nhiều cà ri quá. Bữa cơm chiều nọ, không hiểu vì sao có một rổ cơm và duy nhất một món khoai tây nhão trộn vàng cà ri. Một cha già người ngoại quốc qua truyền giáo từ thập niên năm mươi ngồi cùng bàn với tôi nói: There is not much to eat today. Sự thường bao giờ cũng có hai món ăn. Nói về ăn uống, họ không thiếu, cơm dư, nhưng đồ ăn chỉ đủ và không ngon miệng thôi. Thí dụ sau cơm bao giờ cũng có chuối tráng miệng. Mấy hôm đầu tôi tưởng giống chuối bên đây nhỏ hơn ở Việt Nam nhưng đi chợ mới biết chuối ở chợ lớn hơn, lành lạnh hơn chuối ăn trong nhà dòng. Họ thật sự sống tinh thần nghèo. Ngay cả điện nước, các đồ dùng khác cũng thế. Cái microphon trong nhà thờ này cũ rồi, tôi nghĩ chỉ vài chục đô la thôi.

Cứ mười hai năm, Hindu, Ấn Giáo lại có một "năm thánh". Năm 2001 này là "năm thánh" đó. Ước chừng bẩy mươi triệu người sẽ về sông Ganga miền Bắc Ấn Ðộ để tắm gội tội lỗi trong sáu tuần. Ðêm ngày những chuyến lửa đầy tràn người trên mui tiếp tục đổ về sông Hằng. Báo chí ngày nào cũng đầy rẫy hình ảnh người ta chìm mình trong dòng sông, giơ tay cầu nguyện. Tìm con đường thanh tẩy thôi mà họ tha thiết như thế sao.

Trở về câu chuyện im lặng trong trang sách bám bụi tôi viết cách đây mấy ngày. Bài học đầu tiên tôi xin cám ơn đất Ấn đã có những người con đi tìm con đường tỉnh ngộ như tác giả câu truyện đạo sĩ Sadhu trên đây.

Phải chăng nước dòng sông Hằng và những mảnh đời đi tìm con đường thanh tẩy đã kết tinh thành những áng văn chương Sadhu. Hay nhờ những áng văn chương tu đức đó nhắc nhở mà dòng sông Hằng vẫn luôn có người đi tìm con đường thanh tẩy?

Nguyễn Tầm Thường

Những ngày đầu tiên ởẤn Ðộ

(Trích Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục)


16. ĐỀN THỜ PHANXICÔ - GIO

Nghĩ lại câu chuyện 13 năm về trước thật kỳ thú. Ðường vào Macao đã nghẽn lối, thế mà sau cùng tôi vẫn có mặt cùng với nhóm người các cha dòng Don Bosco. Tôi sẽ kể tiếp cách nào tôi vào Macao được và những điều rất ngạc nhiên xẩy ra. Bây giờ tôi đang có mặt ở Goa, nơi lưu giữ xác thánh nhân. Hôm nay ngày 29 tháng 3 năm 2001.

Tôi không còn ở bờ biển Goa nữa. Tôi về thành phố, ở trọ nhà các Cha Dòng Tên. Các Cha rất hiếu khách, tôi xuống bếp bất cứ lúc nào đói, lấy đồ ăn tự nhiên như nhà mình. Từ cửa sổ phòng ăn, nhìn qua bên kia là nhà thờ... một công trình kiến trúc tuyệt vời theo lối Bồ Ðào Nha. Nhà thờ Công Giáo nhưng là thắng cảnh của thành phố nên nhà nước chịu phí tổn đèn điện. Từ chập tối đến mười giờ đêm, cả nhà thờ như một khối cẩm thạch trắng sáng rực. Từ mãi xa cũng nhìn thấy.

Goa còn nổi tiếng về rượu. Chỗ nào cũng có quán bán rượu. Bia và ruợu ở đây không có thuế, rẻ nhất nước. Ai cũng bảo đến Goa tha hồ uống rượu. Thành phố ngăn nắp, không có bò đi lại nghêng ngang. Phố xá sạch sẽ, có nhiều bóng dáng du khách Âu Châu. Tiếp tục thuê chiếc xe gắn máy Honda, ông thầy tôi quen ở Poonatên là Benedicto chở tôi đi khắp nội, ngoại thành của Goa. Từ trung tâm thành phố đi chừng nửa tiếng là tới nơi lưu giữ xác thánh Phanxicô gọi là Old Goa, thành phố Goa cổ.

Thầy Benedicto thật tốt lành, đang học thần học. Tôi hy vọng thầy sẽ là một linh mục tốt. Nước da của Benedicto chỉ ngăm ngăm đen thôi, dòng họ thầy không phải là người thổ dân Ấn, có thể mấy thế hệ trước đã lai gốc Âu Châu. Ngay tên gọi của thầy cũng thế, Benedicto là tên gọi rất Âu Châu chứ không phải tên Ấn Ðộ dài lòng thòng, khó phát âm. Thầy chở tôi đi khắp nơi, cắt nghĩa những thắng cảnh lịch sử của Goa. Thầy dẫn tôi vào gặp Cha giám đốc trung tâm của nhà thờ đang lưu giữ xác thánh Phanxicô. Dĩ nhiên cha cũng là linh mục Dòng Tên. Ðược biết tôi từ Việt Nam đến, không có nhiều thời giờ nên Cha cho tôi dâng lễ ngay sáng đó. Tôi còn giữ mấy dòng chữ Cha viết cho nhân viên coi phòng thánh dọn đồ lễ cho tôi: Father Joseph, Jesuit will say mass at Mausoleum.

Từ cuối nhà thờ đi vào, xác thánh nhân đặt bên cánh phải gần cung thánh, trên cao. Khách hành hương kính viếng có thề quỳ trước hòm đựng xác, có song sắt bảo vệ, không vào trong khu bàn thờ được. Thấy nhân viên bảo vệ dọn lễ mở cửa cho tôi vào dâng lễ bên trong mộ bia, mấy người hành hương cũng theo vào. Sau lễ họ xin chụp hình chung và cám ơi tôi nhiều lắm, họ nói rằng quá may mắn được có cha dâng lễ và được tham dự thánh lễ bên cạnh xác thánh, một đặc ân không ngờ trong chuyến du lịch của họ.

Xác thánh nhân còn nguyên nhưng khô lại như vỏ cây. Dĩ nhiên không còn lành lạnh tất cả. Một cánh tay đã bị chặt đưa về nhà thờ Giêsu ở Roma. Khi người ta cải mộ từ Trung Hoa đem về Roma, đi ngang qua Goa, dân chúng giữ xác lại không chịu cho đem đi. Ngay sau khi chết, Phanxicô Xavier đã làm phép lạ. Cùng lúc hiện ra những chỗ khác nhau cứu người bị bão biển. Lúc bốc xác, xác còn nguyên không bị hư nát. Vì Goa là vùng đất Ngài đã đặt chân tới lúc ban đầu nên dân chúng nhất định giữ lại. Ðối với Dòng Tên ở Roma thì nhất định phải có mặt Phanxicô ở thủ đô của Giáo Hội vì có thể nói Phanxicô Xavier là nhà truyền giáo rửa tội nhiều nhất trong lịch sử truyền giáo. Sau cùng không đem được xác về Roma thì đưa một cánh tay về. Hôm nay ai đến Roma sẽ thấy cánh tay của thánh Phanxicô Xavier được trưng bày tại nhà thờ Giêsu.

Ngày xưa xác thánh nhân được trưng bày cho tín hữu đến tận nơi chạm vào. Nhưng có người cứ muốn lấy xương thánh làm của riêng, để bảo toàn, hôm nay xác thánh nhân được đặt trong lồng kiếng. Vào dịp lễ hàng năm, mồng ba tháng mười hai, hàng trăm ngàn người hành hương đổ về Goa tham dự kiệu thánh. Chung quanh nhà thờ là một công trường mấy mươi mẫu đất, rộng mênh mông để tiếp đón khách hành hương thập phương. Bên cạnh không xa là nhà thờ chính tòa của Goa. Giữa vùng đất của các thần linh Ấn Giáo, về đến Goa ta có cảm tưởng như về Roma của Giáo Hội.

Tôi quỳ bên mộ xác Phanxicô, hình dung con người đầy dũng cảm này trong những ngày đầu tiên trên đất Ấn. Hơn bốn trăm năm về trước, Phanxicô Xavier chỉ là một người đàn ông mới ngoài tam thập, 36 tuổi, đến một vùng đất đầy chướng khí, âm u, muỗi độc, nước độc. Bấy giờ lên đường truyền giáo là vĩnh biệt quê hương, là ra đi không hẹn ngày trở lại. Thật sự là chết đi trong lòng cho một tiếng gọi cao cả. Hôm ở bến tầu Lisbon từ giã những thành phố Âu Châu, không biết Phanxicô có những xúc cản nghẹn ngào nào. Ngài có nhớ thương cha mẹ không, có biết mình ra đi không trở lại không? Thật sự là thế, chuyến tầu định mệnh ấy đem Phanxicô Xavier ra đi, và chàng trai này đã vĩnh biệt quê hương, một chuyến đi không bao giờ về. Bến cũ mênh mông trong tưởng nhớ. Làm sao mà không có lúc bùi ngùi nhớ về gia đình, bạn bè, con đường xưa?

Ðối với những con người truyền giáo này Hội Thánh là một gia đình bao trùm cả thế giới, là một vở kịch lịch sử lớn và các ngài muốn dự phần vào. Ðức Thánh Cha thời đó là Phaolô 3 bảo thánh Inhaxiô nên quên dự tính đi Jêrusalem, để ở lại Rôma vì không thiếu gì việc phải làm. Ðó là năm 1539, những tu sĩ Dòng Tên đầu tiên khấn đức vâng lời và tuyên hứa một lời thề đặc biệt là chấp nhận bất cứ sứ mạng nào Ðức Giáo Hoàng trao và sẵn sàng ra đi khắp nơi trên thế giới. Dần dần nhóm trở thành một trong những dòng tu truyền giáo lớn nhất trong Hội Thánh.

Chúa có cách dùng người khá kỳ lạ. Thánh Phaolô đã từng săn đuổi các Kitô hữu. Nhưng bất ngờ, Ngài đột ngột thay đổi hết. Sau khi ngã ngựa và hoán cải, Ngài đi nhiều nơi ở Trung Ðông, Hi Lạp và Rôma để chia sẻ kinh nghiệm về Ðức Kitô. Ngài trở nên khuôn mẫu sau này thánh Phanxicô Xavier và các vị thừa sai khác sẽ theo.

Lịch sử ghi lại Phanxicô Xavier không phải là thừa sai đầu tiên được thánh Inhaxiô cử đến với dân ngoại. Thoạt tiên thánh Phanxicô Xavier đang ở Rôma giảng trong các nhà thờ tại đây. Khi ngài phục hồi sau cơn bệnh, thánh Inhaxiô chỉ định ngài làm thơ kí, vì dòng Tên lúc ấy đang tăng trưởng, và thánh Inhaxiô cần người giúp để quản tự. Nhưng chưa được bao lâu thì năm 1540 vua Gioan nước Bồ Ðào Nha xin thánh Inhaxiô cho 2 tu sĩ Dòng Tên sang Ấn Ðộ, nơi người Bồ Ðào Nha đã đến làm ăn sinh sống và truyền giáo. Lúc bấy giờ mới có mười tu sĩ Dòng Tên thôi. Thánh Inhaxiô chỉ định 2 linh mục đi Ấn Ðộ. Nhưng ngay đúng hôm lên đường đi Lisbon, tầu sắp nhổ neo thì một người bị bệnh nặng. Thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier nói với ngài có thể lên đường đi Ấn Ðộ ngay hôm sau. Phanxicô Xavier vâng lời ngay, không hỏi lại một lời nào. Dù biết có thể không bao giờ gặp lại thánh Inhaxiô, không bao giờ nhìn lại Âu Châu, dù biết thời ấy cứ hai người vượt đại dương thì một người chết trên biển, ngài chỉ thưa thật ngắn gọn với thánh Inhaxiô: Vâng, con xin đi!

Chắc là nhớ nhà, những ngày xa quê hương, Phanxicô Xavier có một túi da nhỏ, lúc nào cũng đeo trên ngực. Mỗi lần nhận được thư từ quê nhà, Phanxicô cắt chữ ký bỏ vào túi da ấy và cứ đeo bên mình.

Phanxicô sinh ngày 7.4.1506, tầu nhổ neo rời Lisbon đi Ấn Ðộ ngày 7.4.1541, đúng ngày sinh nhật thứ ba mươi lăm. Ðáng nhẽ chuyến tầu ấy mang hai tu sĩ Dòng Tên, nhưng phút cuối người kia lại ở lại. Từ Roma, Phanxicô và Rodriguez đáp tầu về Lisbon để đi Ấn nhưng về đến nơi, tầu kia nhổ neo rồi. Hai người làm việc tông đồ ở Lisbon trong khi chờ tầu. Lúc có tầu cũng là lúc việc tông đồ đang phát triển. Vì thế mà người kia ở lại để tiếp tục. Sau cùng Phanxicô ra đi một mình. Chia tay nhau ở bến tầu, Phanxicô bước xuống nước. Sợ ra đi không có ngày trở lại, bấy giờ Phanxicô mới nói chuyện bí mật trong một giấc mơ mà người bạn cứ tò mò hỏi mãi.

Tôi trẩy đi xa anh em, chẳng còn ở chung nữa, vì tình nghĩa anh em, tôi chẳng muốn giấu gì, điều mà anh hỏi tôi nhiều lần trong đêm tôi đã kêu to: "Lạy Chúa, xin ban cho con thêm nữa." Ðêm ấy trong một giấc mơ, tôi thấy mình phải chịu nhiều gian nan vì Chúa, nhưng được Chúa ban ơn, tôi chẳng sợ gì. Nên tôi đã xin Chúa ban thêm những sự khó khăn ấy cho tôi.

Trời hôm nay rất trong và mây rất cao, Ấn Ðộ đã vào mùa hanh nắng. Tôi đang ngồi đây bên đền thờ trên đất Ấn hình dung lại những chặng đường xa xưa hơn bốn trăm năm về trước. Sau cuộc hành trình dài mười ba tháng trời, Phanxicô đến Goa ngày 6.5.1542. Tôi muốn hình dung trong tâm trí lúc thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier lại bảo ngày mai tầu nhổ neo, người Cha dự định gởi đi bị bệnh, con có thể đi thế được không. Và Phanxicô Xavier đã không hỏi lại lời nào chỉ nói: Vâng, con xin đi. Tôi cũng muốn hình dung giây phút cuối cùng, lúc tầu nhổ neo, người kia ở lại không đi nữa. Tâm trạng Phanxicô lúc đó thế nào, vì trên chuyến tầu ấy, Phanxicô ra đi một mình.

Nguyễn Tầm Thường

Goa 29.3.2001


17. ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi. Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi? Khi nào con từ giã cuộc sống? Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này. Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.

* * *

Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc. Hạnh phúc khi nhận được tin vui. Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm. Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng. Con vẫn lo âu. Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh. Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.

Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc. Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui. Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó. Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi. Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi. Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội. Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.

Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa. Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng. Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân. Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.

* * *

Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút "niềm vui". Nhưng tội làm con xa Chúa. Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông. Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy. Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc. Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc. Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau. Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông. Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.

Con là một tạo vật hữu hạn. Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó. Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được. Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa. Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.

Tội làm con xa Chúa. Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức. Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn. Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn. Tự Chúa đã tràn đầy tất cả. Chúa chẳng cần gì. Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.

Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa. Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác. Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con. Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con. Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.

Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình. Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa. Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng. Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó. Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.

* * *

Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con. Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con. Tội là điều xấu. Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con. Từ đó, con có hai khuôn mặt. Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để "show up", trình diễn để tha nhân nhìn vào. Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân. Con lừa dối kẻ đối diện. Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình. Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư. Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì. Con đã là nạn nhân của sự giả tạo. Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.

Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn. Bởi đấy, tội cướp mất tự do. Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.

Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục. Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được. Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do. Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do. Không có tự do sẽ là gỗ đá. Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.


18. ĐÔI MẮT

"Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em" (L.T.Lư)

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ. Nhạc sĩ cũng viết thành cung đàn. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.

Trái lại, khi Phúc Âm nói về mắt lại nói đôi mắt mù!

* * *

Mắt nhìn được ngoại vật, nhưng nó không nhìn được chính nó. Có phải đấy là điều để nhắc nhủ tôi: tôi có thể nhìn thấy nhiều thứ, nhưng sự hiểu biết quan trọng nhất là biết chính mình thì tôi lại u mê?

Mắt là để nhìn. Ðấy là bản tính của mắt. Cũng như ánh sáng là để soi tan bóng tối. Mắt không cần trang điểm, mắt vẫn nhìn thấy. Mắt không cần tô hồng, mắt vẫn là mắt. Khi người ta trang điểm cho mắt, lúc đó, mục đích không phải là để nhìn mà là để mắt được nhìn. Có khi người ta chỉ vì quá muốn mắt được nhìn, nên mắt đã không nhìn được.

Mắt là để nhìn. Nhưng cái nhìn của mắt không như chiếc máy chụp hình. Mắt nhìn để hiểu. Mắt nhìn để thông cảm. Mắt nhìn để chê bai. Nhưng để hiểu, để rung cảm, để giận ghét, để yêu thương lại là phạm vi của tâm hồn. Mắt thơ ngây, mắt bao giờ cũng vô tội. Tâm hồn là người có trách nhiệm. Vì thế, người ta không nói kẻ có đôi mắt đẹp thì tâm hồn đẹp. Nhưng là kẻ có tâm hồn đẹp thì bao giờ cũng có đôi mắt trong. Ðôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều đó.

Nhiều người đã sa ngã vì những đôi mắt biết dỗi hờn. Nhiều kẻ đã say những cặp mắt biết liếc nhìn quyến rũ. Sở dĩ có những đôi mắt ấy vì phải có người yêu những vẻ đẹp đó nên mới có kẻ làm khí giới tấn công. Và, nếu những xao xuyến rung động, những tình yêu chỉ vì đôi mắt ấy thì cũng giống như Evà, chỉ nhìn thấy mầu hồng của vỏ trái táo chứ không thấy bóng sâu ở trong.

Người có đôi mắt đẹp là người không đánh lừa kẻ khác bằng đôi mắt của mình. Kẻ có đôi mắt đẹp cũng không để mình bị đánh lừa bằng đôi mắt người khác. Mắt đẹp là mắt nhận ra giá trị thật và chỉ ngắm nhìn những giá trị đó.

Trong cuộc sống gia đình, nhiều đôi mắt không nhìn ra nét đẹp nơi người yêu của mình. Nhưng lại thấy vẻ đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Thấy thèm muốn nhưng không thấy giới hạn. Nhiều đôi mắt chẳng nhận ra đâu là hạnh phúc mình phải đem đến cho người bạn đời. Nhưng lại nhìn ra những nhu cầu của mình để bắt tha nhân mang tới. Thấy đòi hỏi nhưng không thấy bổn phận.

* * *

Mắt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi của loài người. Ngay những chương đầu của sách Khải Nguyên đã nói về mắt:

Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon.

Sau khi nhìn rồi, Kinh Thánh kể tiếp cái nhìn của Eva:

Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn.

Sau khi ăn rồi, Kinh Thánh kết luận về đôi mắt của cả hai người như sau:

Và mắt cả hai người mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng. (Kn 3,4-7).

Ðoạn Kinh Thánh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến mắt qua ba tiến trình:

- Rắn hứa là mắt Adong, Evà sẽ mở ra.

- Evà đã nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

- Mắt hai người đã mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa. Nhưng mắt đức tin của cả hai đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn nhìn sẽ đem đổ vỡ cho cuộc đời. Họ đang thấy chung quanh họ là mùa hoa rộ nở, là những đồi cỏ bình yên, là những giải nắng hiền, dòng suối êm. Nhưng chỉ vì muốn nhìn như Thiên Chúa, nên cỏ bình yên thành cỏ dại, suối hiền cạn khô, nắng thành vất vả, hoa thôi lên mầu.

Chỉ vì muốn nhìn những điều không thể nhìn được nên mắt họ đã chẳng còn nhìn thấy những điều họ đã thấy nữa.

"Mà nhìn thì đã sướng mắt". Ðó là tâm trạng của Evà. Cái nhìn ấy phải là đắm đuối. Bằng cái nhìn "sướng mắt" ấy tội lỗi đã vào thế gian. Qua một cái nhìn mà hạnh phúc thành rách nát. Lịch sử vũ trụ thay đổi. Tang thương.

Lời hứa của rắn đã hiệu nghiệm. Mắt của cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà để nhìn thấy mình trần truồng. Trần truồng là biểu tượng của hèn hạ, của nghèo đói, của nhục nhằn. "Mắt hai người đã mở ra". Câu Kinh Thánh thật ngắn ngủi, nhưng sự tinh tế và đau thương nằm ở đó. "Mắt hai người đã mở ra". Nhưng đồng thời cũng là giây phút đóng lại. Mở mắt để thấy trước mặt là tan tác, chia phôi. Mở mắt để thấy trước mắt là hệ lụy. Mở mắt để biết mình trơ trụi. Mở mắt để biết rằng mình không còn thấy những gì mình muốn thấy.

Adong-Evà đã mở mắt. Nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Chúa. Cả hai đã mở mắt. Nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Như thế, mở mắt có ích gì? Có những mở mắt nguy hiểm. Có những mở mắt gieo khổ ải. Không nhìn những điều phải nhìn là thiệt thòi. Nhìn những điều không nên nhìn cũng là mất mát như thế. Khởi đầu lịch sử nhân loại đã không phải là lịch sử có đôi mắt thơ mộng, mà là đôi mắt mù lòa.

* * *

Rồi sự mù lòa ấy chảy dọc theo thời gian. Chúa Kitô đã đến trong Tân Ước để hàn gắn sự mù lòa xẩy ra từ những trang đầu của Cựu Ước đó. Chúa không bao giờ từ chối chữa người mù. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, nếu có người mù kêu xin là Chúa động lòng xót thương và chữa họ ngay. Sự mù lòa nói đến trong Tân Ước đã có nguyên do từ sự mù lòa khởi nguyên ngay ở vườn địa đàng. Chúa đến để chữa vết thương kéo dài từ biến cố đó. Ðặt những phép lạ Chúa chữa người mù trong Tân Ước với bối cảnh mù lòa khởi nguyên của Adong-Evà ta mới thấy ý nghĩa sâu xa vì sao Chúa đã đến trong thế gian. Và nếu ý thức được rằng, từ bắt đầu, dòng suối đã mù lòa thì nước ở cuối dòng làm sao trong, ta sẽ nhận ra một ý nghĩa khác, đó là ta phải chấp nhận rằng mình mù lòa, và cần Chúa chữa sự mù lòa ấy.

Phúc Âm thánh Yoan có thuật lại phép lạ Chúa chữa một người mù. Ðặc biệt Yoan kể rõ chi tiết là "mù từ lúc mới sinh". Các Phúc Âm khác chỉ nói chữa người mù, không nói chi tiết mù như thế nào. Vì sao thánh Yoan lại nhấn mạnh điểm đó? Phải chăng "mù từ lúc mới sinh" là mù từ thủa xa xưa lắm rồi, là mù từ thủa địa đàng. Là mù gốc rễ trong tâm hồn tôi. "Từ trong tà ác tôi đã sinh ra" (Tv 51,7).

Một chi tiết quan trọng khác mà thánh Yoan đã nói đến là Chúa chữa người mù "từ thủa mới sinh" trong ngày sabath. Ngày sabath là ngày không được phép làm gì cả. Ðây là luật rất ngặt của người Do Thái. Chính vì thế Chúa đã bị kết án. Có phải Chúa đã chữa mù, cho dù là ngày sabath vì mù là một bất hạnh ghê gớm, một thiệt thòi nguy hiểm? Chúa không thể chấp nhận mù! Dù bị chống đối, Chúa vẫn chữa mù! Như vậy chẳng có lý do nào Chúa lại chậm trễ chữa sự mùa lòa của tâm hồn tôi. Sứ mạng của Chúa là: "Người đã sai Lời Người đến chữa họ, và giật sinh mạng họ ra khỏi mồ chôn" (Tv 107,20).

Trong câu chuyện chữa người mù, ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của các thầy Pharisiêu. Ðôi mắt thân xác của người này mù, nhưng mắt tâm hồn ông ta lại sáng. Ông nhận ra Chúa là người có thể chữa cho ông, nên ông đã đến suối Siloam rửa mắt như lời Chúa dạy. Các thầy Biệt Phái đã có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Họ đã nói với người mù về Chúa như sau: "Chúng ta biết tên đó là một người tội lỗi" (Yn 9,24).

Không có sự tối nào lại mù lòa hơn sự mù lòa của những đôi mắt sáng ấy. Bởi đó, thấy mặt trời vẫn có thể là sống trong bóng đêm. Trong bất hạnh của thân xác vẫn có thể nhìn ra chân lý. Ðiều ấy nói cho tôi biết trong đau khổ tật nguyền, hạnh phúc vẫn có thể nở hoa, kết trái xum xuê. Trong những hiểu biết trần thế, biết đâu là cả một cõi lòng khô héo ân sủng thiêng liêng. Rồi, vì thế, đàng sau những đôi mắt đẹp, có thể là một một đêm lạnh lẽo, một tâm hồn trống trải, buồn tênh.

Ðôi mắt dễ thương chỉ có nơi tâm hồn duyên dáng. Lo trang điểm cho mắt mà không làm đẹp tâm hồn là chỉ muốn người ta nhìn mắt mình, chứ mắt mình không nhìn được điều phải nhìn. Có người tốn rất nhiều tiền để làm đẹp mắt, nhưng tiếc xót gởi một thùng quà cho bạn bè nghèo khó ở bên nhà. Ngại ngùng bỏ tiền để sửa chữa một ngôi thánh đường đang sụp đổ. Quá muốn mắt mình được nhìn nên đã không nhìn thấy điều Chúa muốn họ thấy.

* * *

"Toàn thân mày, mày sinh ra trong đống tội, mà mày lại làm thầy dạy chúng ta ư!" Sau khi mắng người mù như thế, Pharisiêu trục xuất ông (Yn 9,34). Người mù đã bị đuổi ra khỏi hội đường vì dám chấp nhận Chúa là Thầy chữa cho mình. Chúa đã hỏi người mù: "Còn ngươi, ngươi có tin vào Con Người không?" Ông ta đáp lại: "Lạy Ngài, tôi tin" (Yn 9,35-38). Như vậy, để nhìn thấy Chúa, ông đã phải trả một giá đắt. Những đôi mắt dám nhìn sự thật nhiều khi là những đôi mắt rướm lệ.

Phúc Âm thánh Máccô cũng nói về mắt. Người mù lên tiếng: "Lạy Thầy, xin cho tôi thấy được". Ðức Kitô bảo hắn: "Hãy đi! lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Rồi, dòng chữ cuối cùng của một bầu trời mới, một tâm hồn vô cùng thênh thang:

Lập tức hắn đã thấy được

và theo Ngài lên đường (Mc 10,52).

Người mù đã không trở về để lập nghiệp làm ăn, nhưng lên đường theo Chúa. Lúc này là lúc Chúa đang trên đường về Jerusalem để chịu chết. Ông đã thấy gì mà dám lên đường theo một kẻ sắp bị đóng đinh.

* * *

Nói về đôi mắt, Chúa quở trách rằng: "Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy.tâm hồn họ ra chai đá rồi" (Mt 13,14). Như vậy, Chúa xác định tâm hồn có trách nhiệm về cái nhìn.

Hôm nay, không thiếu bao tiếng khóc. Có tiếng khóc âm thầm. Có tiếng khóc lo âu. Tiếng khóc nghèo đói. Tiếng khóc lạc lõng trong cuộc sống. Tiếng khóc lặng lẽ của cõi lòng chán chường. Tiếng khóc che kín bằng tiếng cười ở giữa đám đông. Nước mắt ở khắp nơi.

Biết bao tâm hồn chỉ vì nghèo đói mà sống mất phẩm giá con người, Những người mẹ bên Phi Châu ngồi khóc vì đói, vì đôi vú không còn sữa cho con. Những đôi mắt trẻ thơ ruồi bu quanh. Ðấy là hình ảnh Chúa Kitô. Ngài đang lang thang và chẳng có ai nhìn.

- Có đôi mắt liếc nhìn quyến rũ.

- Có đôi mắt trang điểm.

- Có đôi mắt rình mò.

- Có đôi mắt để chọn quần áo.

- Có đôi mắt để đếm tiền.

- Có đôi mắt để nhìn người yêu.

Những tiếng khóc đau khổ vẫn không ai muốn nghe. Những nghèo đói vẫn không ai muốn nhìn. Có phải chỉ đôi mắt đức tin mới nhìn thấy Chúa Kitô đang nghèo, đang túng thiếu. Chia cái nghèo, chia cái túng thiếu, chỉ có đôi mắt tình thương mới dám nhìn.

Hai ngàn năm trước Chúa đã than thở: "Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy vì tâm hồn họ ra chai đá rồi" (Mt 13,14). Hôm nay, nếu mắt không nhìn những điều phải nhìn. Nhìn mà không thấy những điều phải thấy. Thấy mà chẳng hiểu những điều phải hiểu thì Chúa cũng chỉ biết than thở như hai nghìn năm xưa: Vì tâm hồn họ ra chai đá rồi.


19. ÐƯỜNG ÐỜI

Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi. Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều. Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.

Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh. Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi. Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa. Bây giờ đã là xa cách. Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.

Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa. Mẹ hối hả đi tìm: "Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con". Chúa thưa lại: "Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con" (Lc 2,48-49). Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi. Mẹ Maria có lối của Mẹ.

Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai. Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa. Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha. Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể. Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng. Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của ngươì kia. Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình. Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình. Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.

Chúa Yêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn. Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài. Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33). Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Yêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá. Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình. Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi. Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.

***

Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?

Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.

Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.

Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn. Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn. Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: "Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi. Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David. Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hosanna trên chốn trời cao" (Mt 21,8-9). Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: "Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được. Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta". Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: "Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?" (Mc 14,34-37). Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu. Ngõ vắng ấy là ngại ngùng. Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ. "Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm" (Mc 10,28-30). "Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta" (Mc 8,34). Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước. Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.

Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha. Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích. Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận. Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích. Ðường của Yoan Tẩy Giả là "mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng" (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến. Chấp nhận đường của mình. Yoan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật. (Mc 6,17-28).

Trời sa mạc rộng quá. Yoan cất tiếng kêu. Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu. Nhưng lối đi của Yoan là thế. Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng. Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng. Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng. Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình. Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.

Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.

Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.

Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi. Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau. Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi. Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang. Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói. Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: "Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh" (Mc 4,3). Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.

Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh. Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng. Mỗi người có một lối đi. Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang. Ðiều ấy dễ gây xôn xao. Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật. Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ. Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi. Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác. Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.

Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.

Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ.

***

Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi. Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ. Có quán cho con bóng mát. Có quán bảo con đừng đi. Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc. Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi. Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm. Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự. Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không. Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu. Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban. Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con. Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: "Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi" (Mt 7,13-14).

Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con. Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp. Ðiều ấy làm con vững tâm.

***

Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan. Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết. Chúa mắng: "Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa" (Mt 8,31-33).

Phúc Âm thánh Luca nói về Yuđa như sau: "Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ" (Lc 22,3-4).

Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).

Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt. Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan. Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.

Nói về hành động Yuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Yoan kết luận: "Lập tức hắn đi ra và trời đã tối"(Yn 13,30). Khi nói trời đã tối, Yoan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn. Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Yoan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc "người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng" (Yn 3,19).

Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?

Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thăm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người. Lời thánh Yoan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: "Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu" (Yn 12,35).


***

Lạy Chúa, con đường đời của riêng con. Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.


20. ĐƯỜNG HẸP

Có lần Đức Kitô bảo muốn hạnh phúc hãy đi con đường hẹp. Đường thênh thang chỉ dẫn đến hư đi. Rồi từ đó, người ta bảo muốn theo Đức Kitô phải đi con đường gian khổ. Có người đơn giản cho rằng theo Chúa thì phải khổ. Từ đó có nhiều cái nhìn về những con đường.

Trải qua nhiều năm tháng mù mịt. Hai nghìn năm quá xa. Không biết ngày đó câu chuyện xảy thế nào. Chúa thật sự nói gì về những con đường?

Kho tàng tu đức nhà Phật có kể câu chuyện thế này.

Trải qua bao thời kỳ, cứ đến giờ tụng kinh, người ta trói một con mèo. Ngày qua ngày, tháng qua tháng. Không biết bao đời tiếp bao đời, cứ đến giờ tụng kinh, có một con mèo bị trói. Nó trở thành một nghi thức không thể thiếu trong các cuộc lễ của chùa. Đến một ngày nọ, có vị sư trẻ đến chùa, thấy sao kỳ cục quá. Nhà sư tìm về lịch sử tại sao có nghi lễ kỳ quặc thế.

Nhà sư khám phá ra. Ngày xửa ngày xưa, chùa có một con mèo. Đến giờ tụng kinh nó hay chạy nhảy lung tung. Đổ nhang, đổ nến hoa. Để khỏi chia trí, vị sư già trụ trì chùa cho đệ tử cứ đến giờ tụng kinh, trói nó lại. Rồi nhà sư già qua đời. Trải qua nhiều năm tháng. Bến mê đưa kẻ đi sau lụy hình thức mà không hiểu nghi lễ mình làm. Cứ phải tìm một con mèo trói lại mới trọn lời tụng kinh. Truyền thống dễ dãi ấy kéo dài về sau. Trong tôn giáo có những hình thức không hợp với tín điều. Có những thờ phượng lụy vào lầm lẫn. Cần có một tâm hồn để nhìn ra có những con mèo đã chết miệt từ năm tháng nào rồi mà người ta vẫn đưa vào nghi lễ.

Trở về những con đường đi.

Nhiều người cho rằng theo Chúa thì phải chấp nhận một đường đi đau khổ. Họ dễ dãi bảo đường Chúa đi là đường khổ đau. Thật sự, Chúa nói gì về những con đường?

Ta rất cần phải phân biệt, thế nào là đau khổ.

Người ta có thể đau nhưng không khổ.

Khi người mẹ sinh con thì đau đớn. Nhưng bà hạnh phúc, chứ không khổ.

Đau một lần khi sinh con, nhưng có khi khổ suốt đời vì con.

Có nhiều cuộc đau mà không khổ.

Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ.

Đau khổ không là đề tài dễ dãi để suy tư một cách biếng nhác. Nó ẩn chứa quá nhiều chiều sâu. Đấy là những đau, những khổ rất bình thường. Bởi đó, làm sao ta dám dễ dãi đơn giản nói rằng theo Chúa thì phải chấp nhận đau khổ?

Có những vợ chồng chấp nhận đau thương để vượt biên tìm nhau cho đời hết khổ. Bàn chân vướng gai nào không đau khi tìm đường đến trại cải tạo thăm chồng? Vì khổ nên người ta lấy đau để hóa giải. Như thế, đau mà có thương có thể mua được hạnh phúc. Có những kinh nghiệm rất thực, có những bàn chân hôm nay không đau vì phải buôn thúng bán bưng. Có những bàn chân hôm nay hàng tuần đi mỹ viện. Nhưng họ rất khổ. Có những đau thương tìm nhau cho đời hết khổ thì cũng có những ngày hết đau vì không phải tìm nhau mà lại rất khổ vì có nhau. Đó là kinh nghiệm từ cuộc sống.

Có nhiều cuộc đau mà không khổ, như khi bà mẹ sinh con.

Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ, như khi con lớn, khổ vì con.

Thì cũng có nhiều cuộc đau để hết khổ. Như vợ chồng tìm nhau.

Vậy đau khổ là gì trên con đường Đức Kitô nói hai nghìn năm xưa?

Nếu theo một người để đau khổ thì theo làm gì?

***

Thiên Chúa không bao giờ bảo con người theo Chúa để mà đau khổ.

Ta không muốn dễ dãi cột con mèo rồi bảo đó là nghi lễ.

Nhưng để hết khổ thì Thiên Chúa bảo có khi phải đau.

Cũng như người ta sẵn sàng chấp nhận đau cho một tình yêu hết khổ.

Đau để hết khổ thì vấn đề không phải là đau khổ nữa, mà là thế nào là khổ và thế nào là đau.

***

Một ngày nọ chú bé bẫy được bày chim. Con nào cũng gầy quá. Giữa tháng năm mất mùa, chẳng có lúa thóc, ngô khoai. Để đem ra chợ, cậu bé nuôi bầy chim cho béo nẫy. Ngày ngày lúa thóc đổ vào. Chỉ một vài tuần sau, con nào cũng béo mập. Nhìn những con chim khác say sưa mổ thóc, mổ gạo. Cánh chim kia đau lắm. Nó thèm thuồng làm sao. Giữa năm tháng mất mùa. Rừng khô nước, đồng khô cỏ. Con người cũng thế thôi, giữa cái chang chang của cuộc đời. Nhìn kẻ khác làm giầu bằng con đường lừa gạt, nhìn những hạnh phúc bằng mối tình rong chơi. Nhiều tâm hồn cũng xót xa cho thân phận. Tất cả giống nhau ở trong lồng và miếng ăn. Bầy chim và cuộc đời.

Ngày ngày con chim nọ rất đau nhìn bạn bè ăn. Cái đau dằn vặt. Cái đói thèm thuồng. Chỉ còn một ước mơ nuôi nó, bầu trời xanh thăm thẳm ngoài kia. Đợi ngày bầy chim béo mập, cậu bé sẽ đem ra chợ bán. Thật không ngờ, sáng nọ, nhìn bầy chim. Cậu bé thấy biến mất con chim gầy.

Ngày ngày nó đau nhìn bầy chim ăn no nê. Nó chấp nhận đau để thoát khổ. Quê hương nó là bầu trời ngoài kia. Hạnh phúc của nó là cánh rừng bàng bạt gió núi. Nó phải trở về quê hướng đó. Yêu bầu trời tự do quá đỗi. Nó không thể vì miếng ăn mà giam mình trong cũi lồng chật hẹp. Nó phải tung cánh đi tìm tự do. Mỗi lần nhìn bầy chim tranh nhau mổ thóc. Mỗi khi cậu bé đổ gạo vào lồng. Nó đau. Nó phải nhìn bầu trời mà khấn xin. Rồi ngày phải đến. Nó gầy, nó ốm lại để một bình minh kia, nó ép mình nhỏ lại, lách mình qua nan tre của chiếc lồng bay thẳng vào trời mênh mông. Chớ gì trong mỗi ơn gọi, ta nhìn bầu trời thênh thang, ngoài kia.

Đau không có nghĩa là khổ. Và có khi để thoát khổ cần phải đau.

Khi người ta đau để thoát khổ thì không còn đau khổ.

***

Đức Kitô là hạnh phúc.

Ngài nói rõ: Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào.

Ngài bảo Ngài dẫn chiên đi ăn,

Ngài tìm từng con thương tích mang về.

Ngài chữa lành cho kẻ bệnh tật được khỏi.

Ngài truyền cho người ta không còn bị quỷ nhập.

Ngài thương người tật nguyền.

Ngài bảo kẻ lành không cần thầy thuốc.

Ngài cứ đến nhà, ăn uống với người tội lỗi.

Đời Đức Kitô toát lên một hạnh phúc vui tươi.

Tôi không theo ai để đời tôi đau khổ.

***

Vậy đâu là con đường hẹp Đức Kitô nói đến?

ánh chim kia đã chọn con đường hẹp để tung cánh vào bầu trời.

Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy.

Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng.

Cái bắt bóng mà khi bừng tỉnh mới thấy con đường hẹp đẹp làm sao. Cũng như khi tìm đau để hết khổ thì không còn đau khổ. Cũng thế, khi tìm đường hẹp để thấy đời rộng thì đường không còn hẹp nữa. Ta cần một tỉnh thức của tâm hồn là Thiên Chúa không bao giờ bảo ta theo Ngài để đau khổ.

Theo Ngài để hạnh phúc.

Nhưng hạnh phúc ở đâu?

Con chồn nghển đầu cố nhìn qua hàng rào. Mùi hương của mùa nho chín trong vườn làm nó chảy rãi. Qua cái lỗ nhỏ của chân tường, nó chúi đầu chui vào. Mùi mật của vườn nho làm nó càng tham, sân, si. Lầm lũi, ngày ngày nó đến ướm mình vào lỗ chui ở chân tường. Không chui nổi. Nó nhịn ăn cho đến một ngày gầy đủ để lách qua, chui vào vườn nho. Rồi một ngày hân hoan. Nó tưởng như thiên đàng bất tận. Mùa nho sai chín. Nó say xưa ăn uống cho thỏa mãn dục vọng. Bất chợt ngày kia có tiếng động rất lạ. Và dường như không còn cái bất tận của thiên đàng nữa. Nó tìm trở về góc tường ngày xưa. Than ôi, cái béo phì không đẩy được thân xác ra nữa. Mùa gặt đến. Ai sẽ cứu nó? Các tá điền bắt đầu theo chủ đi hái nho. Cái bừng tỉnh của nó, bây giờ làm sao thoát thân?

Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy.

Phúc thay, trở về kinh nghiệm thiêng liêng ngày xưa. Chỉ còn con đường hạnh phúc là tìm cách chui qua lỗ chân tường. Từ ngày đó, nó lại nhịn ăn. Gầy ốm dần, tiêu đi chiếc bụng chềnh bềnh, một hừng đông kia, nó lại lách mình qua chân tường, biến ra ngoài. Hú hồn, nó thoát chết.

Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng.

Con chồn nhìn lại đời nó. Một đêm trăng vắng yên lặng, nó ngồi nhìn ánh trăng mênh mông, trong bóng đêm vằng vặc, nó nói với đời: Tất cả chỉ có thế. Nó hiểu thế nào là đường hẹp. Nó quý những con đường của riêng nó, những con đường mòn hạnh phúc.

***

Lạy Chúa, con cần một tâm hồn tỉnh thức. Con không thể biến tôn giáo của con thành tiếng kinh cầu ê a. Con không thể cứ đến ngày rằm là trói con mèo trong nghi lễ. Con cần một tâm hồn để hiểu Chúa là hạnh phúc. Con ước mong được đau như người lực sĩ chịu tập luyện chứ đau không là hình phạt. Con phải hiểu Chúa tuyệt vời trong tiến trình đi tìm hạnh phúc. Và phải hiểu rằng, để hạnh phúc, con phải biết yêu bầu trời tự do của lương tâm. Đau để lách vào vườn nho mồi chài bắt bóng của con chồn, khác với nỗi đau thoát khỏi cái lồng tre chật chội của cánh chim. Đau của con chồn tìm vào tham, sân, si khác nỗi đau sám hối tìm đường ra.

Con cần một trái tim dũng cảm để thoát khổ bằng nỗi đau.

Thì con cũng cần một tâm hồn để biết lựa chọn vì không phải cứ đau là thoát khổ. Con khổ vì không phân biệt được những nỗi đau.

Và khi con hiểu cuộc đời nhiều khi chỉ thoát khổ bằng nỗi đau thì con sẽ thấy con đường hẹp Chúa bảo con không phải là đường khổ đau nữa mà là hạnh phúc.

Chúa luôn luôn tuyệt vời vì Chúa hiểu thế nào là đau, thế nào là khổ. Chúa đã khổ, đã đau.

Còn con, con lẫn lộn đau khổ, lẫn lộn hạnh phúc.

Để bớt lẫn lộn, con xin dừng lại, xét lại những lời kinh, lối sống đạo, xét lại cách con hiểu Lời Chúa như nhà sư kia xét lại những nghi lễ của mình.


21. GIAN NAN CHO NIỀM TIN

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô và Mai Ðệ Liên là một gặp gỡ gian nan. Một bên là tiên tri, một bên là gái điếm, cả hai đều bị xã hội kết án. Nếu Mai Ðệ Liên vì niềm tin mà gian nan thì Ðức Kitô cũng sẵn sàng gian nan cho niềm tin của kẻ tin Ngài.

Vì niềm tin mà gian nan

Trên đường đời, hôm nay Mai Ðệ Liên đã đi tìm một địa chỉ rất mới: Ðó là địa chỉ cứu rỗi. Tôi gọi vì niềm tin mà gian nan vì muốn gặp Ðức Kitô mà người phụ nữ này đã phải chấp nhận những cái nhìn xỉ nhục của người đời. Hôm nay, bà phải đương đầu với cả xã hội đang kết án bà. Ði về một địa chỉ mà đám đông là dòng sông ngăn cách, một địa chỉ phải leo qua những cây cầu mà đám đông là kết án. Cho niềm tin dẫn về địa chỉ ấy, bà chấp nhận gian nan ngược theo chiều gió mà đi.

Gian nan cho niềm tin

Dẫu người phụ nữ can đảm, nhưng sự can đảm này vẫn mang một giới hạn. Bà đã mang tiếng là người tội lỗi, còn gì danh dự để mà sợ mất, bà chỉ chấp nhận gian nan mà thôi. Do đó, vì niềm tin mà người đàn bà gian nan thì gian nan đó cũng không thể so sánh với gian nan mà Ðức Kitô sẵn sàng chấp nhận cho niềm tin của bà.

Sự kiện Chúa để cho bà công khai ngồi cạnh mình là thái độ can đảm khác thường. Nó khác thường đến độ người Biệt phái mời Ngài đã phải tự nói với mình: "Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sờ đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào chứ: Một đứa tội lỗi" (Lc. 7:39).

Nhìn vào sự kiện người đàn bà tội lỗi ngồi cạnh Chúa người ta có thể đặt những nghi ngờ về Ðức Kitô như: Nếu không quen biết sao người phụ nữ này lại theo ông ấy đến đây? Ðã liên hệ từ bao lâu? Ông ấy có là tiên tri thật không? Ðức Kitô có thể bị hiểu lầm, bị mất danh dự. Ðối với kẻ tin Ngài là tiên tri thì giờ này có thể đặt nghi vấn về niềm tin của mình. Ðối với kẻ dửng dưng thì giờ này là lúc sáng tỏ cho lời xác quyết của Pharisêu: "Chúng ta biết rằng tên đó là một đứa tội lỗi" (Yn. 9:23). Ðối với kẻ chống đối thì giờ này là lúc vinh quang cho lời bảo chứng: "Nó mê ăn uống, giao du với phường thu thuế và quân tội lỗi" (Mt. 11: 19).

Trong phòng tiệc, tất cả thượng khách được mời đang ngả mình trịnh trọng trên thảm quý chằm chằm nhìn Ngài. Tại sao Ðức Kitô lại để cho một phụ nữ ngồi bên cạnh xõa tóc xức dầu thơm? Ngài không mắc cỡ trước biết bao cặp mắt nhìn về mình? Ngài không sợ mất danh dự vì gặp gỡ người đàn bà như thế? Phải chăng Ngài cũng ngượng ngùng lắm, phải chăng Ngài cũng sợ bị hiểu lầm lắm. Nhưng vì một người đã bước trong gió ngược gian nan mà gởi niềm tin thì Ngài cũng sẵn sàng gian nan đi ngược chiều gió đón nhận niềm tin ấy.

* * *

Lời con cầu nguyện

Ðã có một lần, dân chúng ùa đi theo, giữa đám người đó, có những thái độ theo dõi, có những cặp mắt tò mò, rồi họ ngỡ ngàng khi thấy Chúa dừng lại dưới gốc cây, nói vọng lên: "Giakêu, xuống mau, hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi" (Lc. 19:5). Hôm ấy, người ta cũng nói về Chúa: "Ông ấy vào ngụ nhà một người tội lỗi" (Lc. 19:7).

Bữa tiệc hôm nay nặng nề làm sao. Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn nhìn về phía Chúa. Cái ngày Chúa tắt ngang qua Yêricô, rồi gặp Giakêu cũng vậy, cả đám đông đang theo, rồi bất chợt Chúa bỏ họ, chỉ nói chuyện với một tâm hồn. Hôm nay cũng thế, các khách tiệc trang trọng, thế mà Chúa bỏ hết, chỉ nói chuyện với một tâm hồn.

Ở cả hai hoàn cảnh, cho dù giữa đám đông, giữa một rừng người nhưng Chúa cứ đi tìm một người. Giữa một khung trời nhưng Chúa cứ chờ đợi một khung trời. Ở Chúa như có một cung đàn mà đám đông là lạc giọng. Khi đám đông đi tìm nguyên tắc thì cung đàn kia lại là lòng xót thương. Khi đám đông chờ đợi phán quyết thì tiếng lòng nọ lại là nhân từ. Khi đám đông là nghiêm phạt thì trái tim ấy lại là bao dung. Cứ như thế, họ lạc nhau.

Lúc Chúa nói với người phụ nữ: "Tội lỗi con đã được tha" (Lc. 7:48). Ðám đông đã nghĩ trong lòng: "Ông này là ai mà dám tha tội" (Lc. 7:49). Nhưng Chúa chẳng quan tâm gì đến họ. Chúa không trả lời họ. Chúa chỉ nói với người phụ nữ thôi (Lc. 7:50). Thái độ của Chúa cũng giống như ngày Giakêu đến gặp Chúa.

Người phụ nữ cứ đi gặp Chúa, chẳng bận tâm với đám đông. Ðám đông cũng chẳng thể làm Giakêu ngại ngùng. Còn Chúa, Chúa cũng là người không biết mắc cỡ trước những con mắt cợt đùa với lòng thương xót. Con thấy khi động đến lòng xót thương là Chúa bỏ tất cả những tập tục nghi thức.

Lạy Chúa, niềm tin của con là tiếng gọi tìm lòng thương xót. Lòng thương xót của Chúa là địa chỉ cho niềm tin con đi về. Niềm tin và lòng thương xót giao thoa với nhau. Nếu thế, trong đời sống của con, chỉ có niềm tin mà không có lòng thương xót thì niềm tin ấy lạc lõng biết lối nào đi.


22. GIÁO HỘI

... Nó còn ở đằng xa thì cha nó đã thấy nó, và ông chạnh lòng thương: chạy lại, ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Người con mới nói với ông: Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không còn xứng đáng gọi là con cha nữa. Nhưng cha của nó đã nói cùng đầy tớ mau mau mang áo thượng hạng mà mặc cho nó... (xem Lc 15,14-32).

* * *

"Nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó". Phúc Âm không nói người cha đã thấy con trong trường hợp nào. Ngày ngày ông đứng ngóng trông trên đường? Hay vô tình ông thấy con về? Lúc gặp con, người cha chạnh lòng thương và sai gia nhân mau mau về nhà lấy áo thượng hạng mà mặc cho nó. Sai gia nhân về nhà lấy áo có nghĩa là lúc bấy giờ phải có mặt gia nhân ở đấy. Theo thứ tự thời gian, câu chuyện xẩy ra ngắn gọn như sau: --- ông ôm con --- ông truyền lệnh. Từ lúc ông gặp được con cho đến lúc ông sai gia nhân về nhà lấy áo chỉ kéo dài có khi không đầy một phút. Với thời gian ngắn như vậy, làm sao lại có thể có mặt gia nhân ở đó được? Ðiều ấy có thể tìm trong hai suy diễn:

Một là --- gia nhân đã có mặt ở đó trước khi ông tới.

Hai là --- ông thấy con rồi gọi gia nhân cùng chạy theo đón.

Nếu gia nhân thấy trước rồi về báo tin, thì vai trò của gia nhân ở đây là sứ giả đem tin vui cho chủ mình. Nếu gia nhân ghét đứa con phung phá này thì chẳng có lý do gì họ phải về báo tin cho chủ. Mặc kệ. Vì thế, hành động về báo tin là dấu chỉ họ mong chờ. Thái độ của gia nhân ở đây phản ảnh trung thực tâm hồn hiệp thông của những người thuộc về một gia đình. Hình ảnh này gợi lên trong tâm hồn tôi đây là lối sống thật của ơn gọi sống trong gia đình Chúa. Một thứ gia nhân trong gia đình Chúa có thể mang nhiều tên gọi khác nhau: giàu, nghèo, văn hóa, lập trường chính trị, Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, vô tôn giáo... Là Kitô hữu mà không sống bác ái thì không bằng không là Kitô hữu nhưng sống hiệp thông trong tình thương.

Nếu người cha thấy trước, rồi gia nhân cùng chạy theo đón người con thì vai trò của gia nhân ở đây là làm cho niềm vui của người cha thêm trọn vẹn. Không có gia nhân, người cha không sai ai về nhà lấy áo thượng hạng, lấy nhẫn và giầy cho con mình được. Từ suy diễn này, mỗi phần tử trong gia đình Chúa đều mang ơn góp niềm vui cho Chúa Kitô. Ðem niềm vui cho chủ là lời cám ơn của gia nhân đối với chủ. Bởi đó, thái độ đón tiếp nhau không phải chỉ là đón tiếp riêng lẻ. Trong ý nghĩa như thế, bí tích giải tội của cá nhân trở thành bí tích hiệp thông với toàn thể Giáo Hội.

Không có gia nhân ở đó thì người con không có áo đẹp, không có nhẫn đeo, không có giầy đi, niềm vui của người con cũng kém trọn vẹn. Thế thì, vai trò của gia nhân cũng là đem niềm vui cho người con trở về. Trong ý nghĩa ấy, người con không những phải biết ơn cha mà cũng phải cám ơn gia nhân. Ðây cũng chính là thái độ sống thích đáng của Kitô hữu. Không phải tôi chỉ cần cám ơn Chúa mà thôi, nhưng phải ghi ơn cả người đồng loại. Từ điểm này, hiệp thông càng là yếu tính của Giáo Hội.

Dù với luận cứ nào đi nữa, người cha đã thấy con mình trước, hay gia nhân đã thấy trước thì việc đón người con về với gia đình vẫn là sự đón tiếp của cả người cha và gia nhân, của đại gia đình.

* * *

Nhìn hình ảnh các gia nhân cùng đi đón người con trở về, Giáo Hội mang ý nghĩa là chỉ những ai sống hiệp thông trong bác ái, mới xứng đáng gọi là sống trong Giáo Hội. Niềm vui ở đây không chỉ là của riêng người cha, mà của cả gia đình. Ý tưởng này được làm nổi bật ở cả dụ ngôn con chiên lạc, và người đàn bà tìm thấy đồng tiền đánh mất. Khi gặp lại chiên lạc, người chăn chiên đã gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui. Khi tìm thấy đồng tiền đánh mất, bà ta mời cả chung quanh láng giềng đến ăn mừng, chứ không riêng bà.

Xét theo kỹ thuật viêt văn và trình bày của Luca trong Phúc Âm này, ta thấy trước khi kể dụ ngôn người con đi hoang trở về, Chúa kể dụ ngôn chiên lạc tìm thấy, tiếp liền sau đó là dụ ngôn đồng bạc đánh mất lại gặp. Ðặt ba dụ ngôn cùng tư tưởng thành một chùm sao rực rỡ, sống động. Luca muốn làm cháy sáng lên những ý nghĩa quan trọng mà Chúa muốn nhấn mạnh. Cả ba dụ ngôn đều nói đến niềm vui là niềm vui của toàn thể cộng đoàn, chứ khôngphải biệt lập cá nhân. Nếu niềm vui là của toàn thể, thì nỗi buồn mất mát cũng phải là nỗi buồn chung. Trong suy diễn đó, Giáo Hội không thể chỉ hệ tại lãnh thổ, văn phòng, tên gọi, mà nơi nào có hiệp thông và chia sẻ nơi đó có Giáo Hội.

* * *

Muốn tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa của danh từ Giáo Hội, thiết tưởng, khi nhìn lại câu chuyện người con hoang đàng, ta phải xét đến một khía cạnh khác: gia nhân là ai?

Trong câu chuyện người con đi hoang trở về, ta thấy gia đình này là một thảm cảnh. Cả ba người: ông chủ, người con thứ, người con trưởng đều đau khổ.

- Ông chủ đau khổ vì người con thứ mang theo tiền bạc, bỏ nhà đi. Ông mất tiền, mất con.

- Người con trưởng đau khổ vì ghen tức mà mất tình thương với em, làm đau lòng cha, không chung nổi tiệc mừng.

Lối kết cấu của câu chuyện không nói rõ tương lai gia đình này ra sao. Nhìn vào lối kết hiện tại ta có thể thấy một suy diễn khác:

- Ông chủ vừa vui mừng khi người con thứ trở về thì ông lại mất người con trưởng vì anh ta không chấp nhận đường lối của ông.

- Người con thứ trở về, cảnh làm thuê độ nhật vừa chấm dứt thì lòng ghen tức của anh lại bắt đầu. Ðau khổ cũ vừa qua thì đau khổ mới lại nẩy sinh.

Ðiểm nổi bật trong câu chuyện là ta không hề thấy những gia nhân phải đau khổ. Họ chẳng những không đau khổ mà còn là sứ giả đem tin vui:

- Họ chạy về nhà lấy áo thượng hạng, nhẫn, giầy theo lời chủ.

- Họ là người đã hạ bò tơ, mở tiệc ăn khao.

- Họ là người đưa tin xum họp cho người con trưởng lúc đi làm về.

Ðây là hình ảnh đáng suy nghĩ khi đặt vấn đề ai là người ở trong Giáo Hội, ai là người sống Tin Mừng. Trong dụ ngôn này, kẻ chống đối chính là người trong gia đình. Khi người con trưởng đi làm về, được gia nhân báo tin là đang có tiệc mừng cho cậu em, "chàng nổi giận không thèm vào nhà". Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội, có khi chống đối xẩy ra trong đoàn thể, trong giáo xứ, trong Giáo Hội nhiều hơn là do kẻ bên ngoài. "Và họ mở tiệc ăn khao", trong ngày vui như vậy thì chính người con trưởng lại là nguyên nhân đem đến những đám mây mù ảm đạm. Chính người con trong gia đình, ngày ngày ở bên cha lại không nhận ra nỗi héo hắt, u buồn của cha. Không nhận ra nỗi khổ tâm của cha đã là một ơ hờ. Ngăn cản niềm vui của cha thì không còn là thờ ơ nữa mà là xúc phạm.

Ðối với người con trở về, nó phải cám ơn ai? gia nhân hay anh nó? Ðối với người cha, ai là người đem tin vui? gia nhân hay con ruột?

* * *

Chương 13 của Phúc Âm Luca nói đến gia đình Chúa với ý nghĩa rất chua xót: "Sẽ có kẻ tự phương Ðông, phương Tây, từ phương Bắc, phương Nam đến dự tiệc với Abraham, Isaac trong Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà lại bị loại ra (Lc 13,28-29). Trong tiệc vui, các gia nhân được tham dự hân hoan, còn chính người con trưởng trong gia đình lại không biết niềm vui là gì. Ở ngoài Giáo Hội không có nghĩa là không có sự cứu rỗi. Ở trong Giáo Hội cũng không đồng nghĩa là đương nhiên được cứu rỗi. Ðược tham dự Tiệc Thiên Chúa hay không là tùy thái độ sống hiệp nhất và loan báo tình thương. Hạnh phúc của gia nhân hệ tại là đáp lời gọi của chủ, là sứ nhân mang tin vui. Từ đó, đi tìm đặc tính của người là con Chúa, không thể căn cứ trên giấy rửa tội. Ðặc tính của người là con Chúa là lối sống trong xã hội, với ấn dấu được đóng là tình thương đồng loại.

Gia tài của Giáo Hội là các bí tích chứ không phải đền đài, dòng tu, tiền bạc. Nhìn lại dụ ngôn người con đi hoang trở về, gia tài của người cha đã bị hoang phí bởi chính người con. Gia tài của cha giàu có, nhưng bao năm anh ta phải ăn bám dân trong vùng, phải đi chăn heo, thèm ngốn rau heo cho đầy bụng mà chẳng có ai cho. Bởi đó, tôi ở trong Giáo Hội, chưa chắc tôi đã sống nhịp sống phong phú của Giáo Hội. Có thể tôi còn nghèo ân sủng thiêng liêng hơn những kẻ ở ngoài Giáo Hội.

Nếu định nghĩa Giáo Hội là những người rửa tội, nhận Chúa Kitô là thủ lãnh, sống trong xứ đạo, đi lễ, đọc kinh, kính phục Ðức Giáo Hoàng thì tôi đang ở trong Giáo Hội. Nếu hiểu Giáo Hội là nơi sống trong tình thương, là nơi không kỳ thị, là nơi nối kết nên một, là nơi những bông hoa biết cám ơn nhau vì sự khác biệt của mình đã làm đẹp vũ trụ, chứ không phải ghen tức vì duyên sắc, thì rất có thể tôi đang sống ngoài Giáo Hội.

* * *

Lạy Chúa, yếu tính của gia đình Chúa là hiệp thông trong tình thương. Nếu con hiểu Giáo Hội chỉ là nhà thờ, là xứ đạo, thì con có thể đấu tranh để bảo vệ nhà thờ, để có xứ đạo, con có thể xóa bỏ hiệp thông và bác ái để đạt mục đích. Nếu con hiểu Giáo Hội là sống trong tình thương thì con có thể hy sinh danh từ Công Giáo mà vẫn giữ được căn tính làm con Chúa. Con có thể hy sinh nhà thờ mà vẫn có chỗ cầu nguyện.

Xin Thánh Thần Chúa

- Ðổi mới tâm trí con hiểu biết sự phong phú của Giáo Hội.

- Ðổi mới lối sống đạo khô cằn, thụ động thành sáng tạo.

- Thanh tẩy những hẹp hòi, nhỏ nhen của một tâm hồn giữ luật hơn giữ tình thương.

- Xin cho con nhìn thấy mọi người đều là con Chúa. Nhà thờ là nơi hiệp thông của tình thương, không còn biên giới của văn hóa, chủng tộc và ngay cả tôn giáo.


23. GIỚI THIỆU

Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó. Tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy. Trong cuộc sống xã giao hàng ngày, giới thiệu là điều rất thường tình. Có khi nào Phúc Âm cũng đề cập đến vấn đề giới thiệu?

Có ba lời giới thiệu tiêu biểu trong Phúc Âm:

- Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô (Mt 4,17).

- Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha (Yn 14,8-9).

- Thánh Yoan giới thiệu Chúa Kitô (Yn 1,19-34).

Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô. Bên bờ sông Jordan, khi Ðức Kitô nhận phép rửa, có tiếng nói từ trời: "Ðây là con Ta yêu dấu, kẻ làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 4,17). Lời giới thiệu của Chúa Cha về Chúa Kitô rất ngắn gọn, đó là Chúa Kitô làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Ðức Kitô đã làm đẹp lòng Cha như thế nào?

Toàn bộ Phúc Âm là tiếng nói trả lời cho câu hỏi này. Ðó là cuộc sống, cái chết của Chúa Kitô trên thập giá. Chúa Kitô làm đẹp lòng Cha bằng thái độ kết hợp với Cha, vâng lời, và vâng lời trọn vẹn. "Ðể cho thế gian biết Ta yêu mến Cha, Cha truyền sao, Ta làm vậy" (Yn 14,31). Mức độ tình yêu của Chúa Kitô đối với Chúa Cha được xác định bởi việc Ngài thi hành ý của Cha. Từ đó, cũng tùy mức độ tôi làm theo ý muốn của Chúa mà thẩm định tình yêu của tôi đối với Ngài.

Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha. Người Do Thái thắc mắc, muốn biết về Chúa Cha. Họ đã đến hỏi Chúa Kitô: "Cha ông ở đâu?" Ðức Kitô đáp lại: "Nếu các ngươi biết Ta, các ngươi biết Cha Ta" (Yn 8,19). Philip cũng hỏi Chúa cùng một thắc mắc: "Xin Ngài tỏ cho chúng tôi thấy Cha, thế là đủ cho chúng tôi". Ðức Kitô nói với ông: "Ðã bao lâu rồi Ta ở với các ngươi, thế mà Philip, ngươi không biết Ta ư. Ai thấy Ta là thấy Cha" (Yn 14,8-9). Trong cách giới thiệu này, Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói đến chính mình. Xác định mình là hình ảnh của Chúa Cha.

Thánh Yoan giới thiệu Chúa Kitô. Ngược lại với cách giới thiệu trên. Yoan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách từ chối chính mình. "Ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để hối cải, còn kẻ đến sau ta quyền thế hơn ta, và ta không đáng xách dép cho Ngài, Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và Lửa" (Mt 3,12). Nhiều người đã xin theo làm môn đệ Yoan. "Cả xứ Judea và dân thành Jerusalem trẩy đến với ông. Người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong dòng Jordan mà xưng thú tội lỗi" (Mc 1,15). Hiện tượng cả xứ Judea đến với Yoan, nói lên tính cách nổi danh của ngài. Dưới mắt quần chúng, Ðức Kitô là một khuôn mặt lu mờ. Ở đây, Yoan đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách so sánh với vai trò của mình.

- Vai trò của Yoan

+ Khuôn mặt Ðức Kitô

- Thanh tẩy bằng nước

+ Thanh tẩy trong Thánh Thần

- Thanh tẩy để hối cải

+ Thanh tẩy để tha tội

- Không đáng xách dép

+ Người là Ðấng quyền thế

- Tôi phải nhỏ đi

+ Người sẽ lớn lên

- Kẻ dọn đường

+ Người sẽ đến

- Tôi không phải là Ðức Kitô

+ Này là Chiên Thiên Chúa

Trong khi toàn miền Jerusalem và Judea đang coi Yoan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Yoan giã từ sự nổi danh của mình, lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Yoan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Ðây là cách giới thiệu chính xác nhất khi con người muốn giới thiệu với con người về Thiên Chúa.

* * *

Con người giới thiệu Thiên Chúa cho con người.

Trong Phúc Âm ta chỉ thấy Thiên Chúa mặc khải, tức là Ngài giới thiệu Ngài cho con người. Không bao giờ thấy con người giới thiệu cho Thiên Chúa. Ðiều ấy hàm ý, Thiên Chúa đã biết rõ con người. Bởi thế, thái độ của con người khi nói về Thiên Chúa phải luôn luôn là thái độ khiêm tốn. Những gì tôi biết về Ngài chỉ là những gì Ngài cho tôi biết.

Chúa Cha đã giới thiệu Chúa Kitô. Chúa Kitô cũng giới thiệu Chúa Cha cho loài người. Trong cả hai cách này, con người không thể bắt chước được. Tôi không hiểu biết Chúa Kitô như Chúa Cha. Tôi không làm đẹp lòng Chúa Cha như Chúa Kitô. Thiên Chúa là Chúa vô biên. Tôi chỉ là loài thụ tạo giới hạn, nhỏ bé. Tôi không thể biết Ngài nếu Ngài không cho tôi biết.

Ðể giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Nhưng bằng cách nào tôi có thể biết Chúa?

Ðể tìm câu trả lời, tôi phải hỏi ngược lại: Bằng cách nào Chúa đã cho tôi biết Ngài? - Chúa Kitô đã cho tôi biết về Ngài bằng cách Ngài sống với tôi. Ngài đến trong trần gian. "Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình, lãnh phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm" (Phil 2,6-7).

Vì thế, để biết Ngài, tôi cũng phải đi cùng con đường Ngài đã chỉ lối. Ðó là sống với Ngài. Cách Chúa gọi các môn đệ tiên khởi là Chúa gọi để sống với Chúa. Phúc Âm Yoan thuật lại: "Ðức Yêsu hỏi họ: Các ngươi tìm gì? Họ thưa Ngài: Thưa Thầy, Thầy lưu lại nơi đâu? Ngài bảo họ: Ðến mà xem. Vậy họ đã đến và thấy nơi Ngài ở. Họ đã lưu lại với Ngài ngày hôm ấy" (Yn 1,38-39). Bài học đầu tiên của các môn đệ là lưu lại với Ngài. Chỉ khi sống với Ngài mới biết Ngài. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa, để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa.

Sự hiểu biết về một người tùy theo mức độ liên hệ với người ấy. Mức độ liên hệ của con người với Chúa không bao giờ thắm thiết và thông hiểu như liên hệ của Chúa Kitô với Chúa Cha. Do vậy, con người, không ai có đủ tư cách để giới thiệu đủ về Thiên Chúa. Nếu thế, tại sao Yoan Tẩy Giả đã giới thiệu Ðức Kitô cho nhân loại? Tại sao Ðức Kitô cũng đã gọi tôi: "Hãy theo Ta" (Mc 1,17). Hơn nữa, tại sao Ngài lại sai tôi đi giới thiệu Ngài cho muôn dân: "Ngài kêu nhóm Mười Hai lại để Ngài sai đi rao giảng Tin Mừng" (Mc 3,13-14). Tôi không biết về Ngài đủ. Vậy mà Ngài cũng cho tôi quyền giới thiệu vè Ngài. Ðiều đó chỉ có thể hiểu được: đấy là hồng ân Ngài ban tặng.

Ai cũng sợ người khác giới thiệu sai về mình. Giới thiệu sai về một người là xúc phạm đến người đó, và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Tôi là người bất toàn trong biết bao phương diện, nhất là phương diện đức tin, và tình yêu đối với Chúa. Vì thế, khi Chúa chấp nhận và kêu gọi tôi đi giới thiệu cho người khác về Ngài, là Chúa đã chấp nhận phần nào thua thiệt về phần Chúa rồi.

Sự không hiểu đủ về Thiên Chúa làm tôi ngại ngùng khi nói với người khác về Ngài. Nhưng ngại ngùng không có nghĩa là làm tôi sợ hãi và chối từ. Làm con của Chúa là ân sủng, thì nói với người khác về Cha mình phải là một niềm vui. Ðó là yếu tính của ơn gọi Kitô hữu. Chối từ nói về cha của mình là chối từ ân sủng làm con. Sự ngại ngùng chỉ mang ý nghĩa là tôi phải cẩn thận, phải cầu nguyện với Ngài khi tôi nói về Ngài.

Quyền được giới thiệu Chúa cho nhân loại, tự nó là một ân sủng, thì không vì một lý do gì Chúa lại ngần ngại cho tôi ân sủng để tôi thực hiện được ân sủng giới thiệu về Chúa. Dựa vào ân sủng của Chúa để giới thiệu Ngài, thì chính khi giới thiệu Chúa là lúc tôi được thánh hóa. Chỉ ở điểm này mà giới thiệu về Chúa khác tất cả các hình thức giới thiệu khác. Người giới thiệu phải lắng nghe chính lời mình giới thiệu.

Như Yoan Tẩy Giả tự nhận mình phải nhỏ đi để Ðức Kitô lớn lên. Vì thế, bất cứ lời giới thiệu nào nói về Chúa mà trong đó vẫn thầm mong người nghe đến với mình thì đấy không phải nói về Chúa mà chỉ mong xây dựng liên hệ cho riêng mình.

Ðâu là khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô để tôi giới thiệu?

Phúc Âm Yoan định nghĩa: "Chúa là tình yêu" (1Yn 4,16). Bởi vậy, bất cứ lời giới thiệu nào về Chúa Kitô mà không diễn tả lòng thương xót của Ngài, đấy là dấu hiệu nói cho tôi biết tôi đang giới thiệu sai về khuôn mặt của Chúa. Những hình ảnh: Chúa phạt! Chúa định cho tôi phải sự dữ! Chúa là quan tòa nghiêm khắc! là những hình ảnh mà con người đã làm vỡ vụn khuôn mặt thật của Chúa. Chúa của tình thương thì không thể là Chúa của sợ hãi. Chúa của tôi là Thiên Chúa trẻ trung, "chậm bất bình và hết sức khoan nhân" (Joel 2,13). Chúa của hy vọng vì "chung quanh tôi, bóng tối đã thành ánh sáng" (Is 42,16). Chúa yêu cuộc đời. Dọc theo Phúc Âm, chính Chúa Kitô đã tự bày tỏ khuôn mặt của Ngài rõ ràng:

- Chúa khóc trước mộ Lazaro (Yn 11,35).

- Chúa chạnh lòng khi thấy người ta đói (Mc 8,1-10).

- Chúa chữa người phung hủi, tật nguyền (Mc 8,22-36).

- Chúa ngồi cùng bàn với người tội lỗi (Mt 9,10-13).

- Chúa bênh vực người bị xã hội kết án (Yn 8,1-11).

- Chúa thích nói chuyện với con nít (Mt 19,14).

- Chúa là người chăn chiên đi tìm chiên lạc (Lc 15,4-7).

- Chúa là người cha đợi con hoang trở về (Lc 15,11-31).

"Chúa là tình yêu". Từ định nghĩa đó, lời giới thiệu trung thực về Chúa Kitô phải là lời ca ngợi về một Chúa của tình thương. Ðể nói về tình thương, tôi phải có kinh nghiệm vè tình thương. Ðể có kinh nghiệm về tình thương của Chúa, tôi phải đến với Ngài, mở rộng cõi lòng trước bàn tay giầu lòng nhân từ của Ngài. Nếu người con đi hoang không trở về thì chẳng bao giờ anh ta kinh nghiệm được tình thương của cha. Sám hối, trở về là thay đổi nội tâm khởi đầu mở đến cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa. Không sám hối, không cảm nhận được xót thương. Không trở về không có gặp gỡ. Từ đó, lời giới thiệu về Chúa sẽ là một Thiên Chúa xa lạ, khô cằn.

Cách tôi có thể làm được để giới thiệu với người khác về tình thương của Chúa, là tôi chuyển thông kinh nghiệm tình thương của Chúa đối với tôi cho tha nhân. Cách chuyển thông chính xác nhất là tôi yêu tha nhân bằng lòng thành của tôi: "Nơi điều này ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, cũng phải thí mạng vì anh em" (1Yn 3,16).

* * *

Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được lòng giàu xót thương của Chúa để con có thể giới thiệu với người khác về Chúa là một người Cha hay thương xót. Xin cho con làm chứng được tình thương ấy bằng thái độ, cách suy tư, lối sống biết chia sẻ của con với người đồng loại.

Chúa Cha là người nói rất ít. Lời giới thiệu của Chúa Cha quá ngắn. Ðiều đó nhắn nhủ con, để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không nói đúng thì chỉ làm người nghe thêm lạc lối. Ðể giới thiệu về Chúa, Chúa chỉ muốn con nói đúng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là Thiên Chúa của lòng hay thương xót.


24. HÁI LỘC

Khi làm một điều sai vào ngày Tết, người ta thường nói: "Thế này thì xúi quẩy cả năm!". Tại sao lại kiêng kỵ vào ngày đầu năm? Cái gì khởi đầu bao giờ cũng linh thiêng. Vì đầu năm quan trọng nên ai cũng chúc cho nhau những điều tốt, hy vọng cả năm được may. Tránh điều xấu để cả năm khỏi xui. Người ta cầu chúc cho nhau đầu năm hái được nhiều lộc.

Không phải bây giờ người ta mới hái lộc. Từ nghìn xưa đã có chuyện "đầu xuân người con gái đi hái lộc" rồi. Không phải bây giờ mới có chuyện đầu năm xúi quẩy sẽ xui cả năm. Từ nghìn xưa chuyện người con gái hái lộc đã chứng minh cái xúi quẩy đó rồi.

Tết đầu tiên

Tết là những ngày đầu tiên của năm. Lần trở về cái Tết đầu tiên của lịch sử con người. Những tháng ngày khai sinh của vũ trụ. Ta thấy chuyện người con gái đi hái lộc đầu năm buồn như một pho sách cổ bụi mờ.

Cái Tết lịch sử ấy đã đi vào sách Sáng Thế Ký từ nghìn xưa Cựu Ước. Nhưng cái xúi quẩy của nó đã chảy dài đến hôm nay, và, sẽ xuôi dòng mãi mãi cho đến hút thẳm của thời gian.

Ngày đầu năm ấy đã huy hoàng. Chúa xuân đã rực rỡ. Tờ khai sinh của vũ trụ đã được Kinh Thánh kể:

Trời đất trống không mông quạnh và tối tăm bao phủ.

Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng.

Và ánh sáng đã có.

Thiên Chúa thấy ánh sáng thật tốt lành.

Thiên Chúa phán: Ðất hãy xanh um thảo vật tốt tươi.

Và đã xẩy ra như vậy.

Ðất lên màu xanh.

Cây có quả đã sinh qủa.

Cây có hoa đã nở hoa.

Thiên Chúa thấy màu xanh thật tốt lành.

Thiên Chúa đã làm hai cái đèn.

Cái lớn cai quản ban ngày.

Cái nhỏ cai quản ban đêm.

Thêm vào, Ngài trang điểm bầu trời bằng các vì sao.

Thiên Chúa thấy thế thật tốt lành.

Như vậy, lại thêm một buổi chiều và một buổi mai.

(Xem Sáng Thế Ký 1,2:1-4a)

Vũ trụ chào đời. Mùa xuân về trải gió. Nắng đã vỗ cho xanh rừng lá. Ðịa đàng bắt đầu rạo rực vì bước chân người thiếu nữ đi hái lộc. Kinh Thánh kể về chuyện người thiếu nữ hái lộc như sau:

- Con hãy tránh cây "sự biết tốt xấu."

Nhưng, đầu xuân em đi hái lộc. Vết chân người xưa hái lộc còn in nguyên hình trên từng trang Kinh Thánh. Mãi về sau nghìn năm lịch sử, bụi chẳng thể phủ mờ và cát chẳng lấp đi. Thế nhân vẫn nhớ về lời nói của Satan những ngày ấy:

- Chẳng chết chóc đâu. Quả nhiên Thiên Chúa biết ngày nào ngươi hái lộc ấy mà ăn. Ngươi sẽ nên đẹp, ngươi sẽ nên duyên.

Người thiếu nữ đã hái và trao cho cả chồng mình nữa. "Mắt họ mở ra và thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân" (Stk. 3:7). Từ ngày đó, một giải mây buồn về giăng qua phố núi.

Evà, người thiếu nữ trong dáng lộc đầu xuân đã trở thành câu chuyện buồn của một vùng trời úa nắng hoàng hôn. Vì mầu hồng của trái táo nên nàng đã hái lầm. Vì thấy đẹp mắt nên bàn tay đã gọi tới (Stk. 3:1-24). Sự sai lầm ấy đã làm Adong ngồi buồn cúi mặt than thở: "Thế này thì xúi quẩy cả năm!" Lời thở than nhẹ nhàng thôi, mà sóng biển chẳng làm im tiếng được. Mãi đến hôm nay, con cháu vẫn thở dài vì cái "xúi quẩy" ấy. Mãi đến hôm nay, đã ngàn trùng thời gian mà hoàng hôn vẫn cứ úa nắng khi xuân về.

* * *

Sau ngày hái lộc. Mùa xuân trở thành những giải mây tím về với trần thế, lãng đãng đi tìm một thủa đã mất. Kinh Thánh viết về một nỗi nhớ, đau thương làm sao: "Những gai cùng góc, nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất" (Stk. 3:18-19).

Ðó là sự tích hái lộc đầu năm. Mùa xuân êm đềm thành chìm vắng lặng lẽ. Cũng chỉ vì câu chuyện hái lộc, mùa xuân thảo mộc xanh um đã thành những gai cùng góc. Một lần hái lộc lầm hướng là bây giờ khổ ải mồ hôi.

Thái độ chọn lộc

Những ngày đầu tiên khai sinh của vũ trụ là thế. Hôm nay, tôi mừng Tết bằng cách tránh những lầm lỗi đầu năm để khỏi xui. Tôi kiêng kỵ ngày Tết không làm phiền lòng ai để cả năm được bình an. Như vậy mùa xuân hệ tại ở thái độ lựa chọn. Lựa chọn sai lầm hay lựa chọn đúng sẽ xác định mùa xuân hồng hay mùa xuân buồn.

Hôm nay tôi đi hái lộc. Cũng thế, sự lựa chọn hướng nào tôi đi sẽ quyết định mùa xuân của đời tôi, bình minh hay hoàng hôn.

Chỉ có hai loại cây. Chỉ có hai thứ lộc. Lộc của cây táo hồng và lộc của thánh giá gỗ. Chỉ có hai lựa chọn, lộc bóng tối và lộc ánh sáng. Tôi chỉ có hai hướng đi. Lối vào mời mọc địa đàng hôm qua và đường lên Golgotha hôm nay.

Lộc của táo hồng thì quyến rũ. Tôi nhìn thấy màu xanh của lá, màu hồng của da. Tôi cảm thấy mặn mà. Vì "cây biết lành, biết dữ mọc lên ở giữa vườn" (Stk. 2:8), nên gần gũi tôi lắm. Dễ dàng.

Lộc của thánh giá là tiếng mời gọi bằng đức tin. Tôi không thấy màu sắc. Muốn hái lộc của thánh giá tôi phải đi từ Jêrusalem lên núi sọ. Ðường khá dài. Dốc khá cao. Ðồi Golgotha chiều ấy đã chỉ có một mình ông Simon vác thánh giá đỡ Chúa mà thôi.

Lộc cây ơn sủng

Cũng từ nghìn năm đã có lời kinh cầu: Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Ðấng Cứu Chuộc tôi. Ðã từ lâu lắm rồi con người đã biết mình thiếu thốn lộc gì. Họ đã muốn giơ tay hái lộc trời cao. Trong u minh, vắng lặng, Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Lộc trời cao đã gởi xuống đất thấp mong chờ: Lộc Ðấng Cứu Thế.

Ngài vào đời trồng cây Thập Giá. Lộc Thập Giá của Ngài là nối lại tình người với tình thánh. Ðể rồi với tình thánh, tình người có thể đến được với tình người. Tôi đã xa tình thánh. Tôi cũng xa tình người với người. Thánh giá Chúa là nhịp cầu nối lại tôi với Chúa, giữa tôi với anh em. Sự giao hòa ấy nẩy lộc Bình An.

Trước ngày chia ly, tặng vật cao quý Chúa lưu lại cho môn sinh của mình chính là bình an: "Ta để lại bình an cho các ngươi, Ta ban bình an của Ta cho các ngươi. Bình an mà thế gian không thể ban được" (Yn. 14:27). Khi sống lại, mới gặp nhau, Chúa đã chào các môn đệ: "Bình an cho các ngươi" (Yn. 20:19). Tám ngày sau, trở lại thăm họ, Chúa vẫn chỉ có một lời chào: "Bình an cho các ngươi" (Yn. 20:26). Lúc các môn đệ lên đường truyền đạo, Chúa căn dặn: "Khi vào nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này"(Lc. 10:5). Chúa dặn rõ, trước tiên hãy chúc bình an đã, rồi mới nói chuyện khác. Chính Chúa cũng làm như vậy trong đời Chúa.

Theo sự quan trọng mà Chúa đã nhấn mạnh và xử sự, thì bình an không là lời để cầu chúc, nhưng là sự sống để ban tặng. Nói cách khác, lộc bình an là chính Chúa.

Thiếu vắng Chúa là hiện diện của lo âu. Nếu lòng tôi không có bình an, tôi chẳng thể có lời nói nhẫn nại cho nhau. Nếu hồn tôi sóng động, tôi chẳng thể đem hạnh phúc cho gia đình.

Mùa xuân của đất trời không thay đổi được "xúi quẩy" của đời tôi. Mùa xuân hồng hay mùa xuân buồn là do lộc tôi hái, là do thái độ tôi chọn lộc. Như thế, giữa tiếng pháo nổ của ngày Tết, lòng tôi vẫn có thể là một mùa xuân lặng lẽ. Ngược lại, trong cái lặng lẽ của đất trời, lòng tôi có thể đang là mùa xuân tươi.

* * *

Lạy Chúa, xin nghe lời con cầu nguyện,

Chúa là lộc đầu xuân của con. Mỗi lần con chọn Chúa là một ngày con có mùa xuân. Qua bí tích Hòa Giải sau mỗi lần con phạm tội là một ngày con mừng Tết. Có hai lối rẽ để đi. Lối vào vườn táo, dấu chân người xưa hái lộc đầu năm vẫn còn in nét mời gọi. Lối lên Golgotha với lời chúc bình an cũng vẫn vang vọng. Chúa ơi, đầu năm hái lộc, con phải chọn lựa, lối nào con đi?


25. KHÔNG PHẢI BÁNH VỤN

"Anh em hãy thu lấy những mẩu bánh thừa, đừng để hư phí" (Yn. 6:12).

Với năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và con nít (Mt. 14:21). Vậy số người phải là đông lắm. Rừng người như thế thì phải cả ngàn ổ bánh chiều đó được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những mẩu bánh vụn còn dư? Từ những mẩu bánh thừa mà Chúa quý hóa muốn giữ lại. Từ thái độ Chúa tiếc những miếng bánh dư. Chúng ta hãy đi tìm ý nghĩa những mẩu bánh vụn để suy niệm về thứ bánh vụn thiêng liêng.

1. Nguyên nhân của những mẩu bánh vụn

"Chúa Yêsu gọi các môn đệ đến mà bảo rằng: Ta thương đoàn dân này, vì đã ba ngày họ luôn ở với ta và họ không có gì ăn, Ta không muốn để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ mệt lả dọc đường" (Mt. 15:32). Phép lạ này kéo chú ý đặc biệt của cả bốn thánh sử vì được ghi lại trong cả bốn Phúc Âm (Mt. 14:13-21; Mc. 6:31-44; Lc. 9:10-17; Yn. 6:1-13). Mátthêu và Máccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ bánh lần thứ hai nữa (Mt. 15:32-38; Mc. 8:1-10).

"Ta thương đoàn dân này", đó là nguyên nhân của câu chuyện bánh hóa ra nhiều. Tình thương của Chúa đã để đời mình rơi xuống, hạt lúa mạch rữa ra và lên bông, rồi cho thành thỏi bột. Vì "Ta không muốn để họ đói", trái tim thương xót của Chúa như một bó đuốc đốt lên trong đêm mù đặc đói khổ để ta thấy mầu vàng thơm ngát của mùi bánh. Vì "Ta sợ rằng họ lả dọc đường", lòng trắc ẩn của Chúa là lò lửa rực than hồng đẩy những thỏi bột chết im nở thành sự sống, rải xuống để ta đi trọn đường trần.

2. Tập nhìn ra những mẩu bánh vụn

Gọi là bánh vụn vì nó nhỏ. Bánh vụn là những miếng bánh bị bẻ ra rồi nên người ta không muốn. Vì không muốn nên thân phận những miếng bánh vụn thường là hẩm hiu. Vì nhỏ, vì vụn, vì bị coi thường nên người ta không nhìn ra những miếng bánh đó trong cuộc đời.

Nếu không có những cây cành nhỏ thì chẳng thể có rừng già. Sa mạc chỉ là nhìn những hạt cát rời trong cái nhìn chung những hạt cát. Nhìn toàn thể thì dễ hơn nhìn những phần tử trong toàn thể. Ði tìm những cái vụn, những cái bé đòi một nghệ thuật trầm lặng sâu sắc, một suy tư không thể lười biếng dễ dãi. Người ta không thể thưởng lãm được vẻ đẹp của bức tranh khi chối từ ý nghĩa của những mảng mầu lất phất một vài nét, nó nhỏ, có khi nhỏ lắm.

Bạn ước mơ một cuộc hành hương vượt núi qua đồi, đó là chiếc bánh rực vàng thơm ngát bạn mong. Nhưng làm sao cuộc hành hương chín lên màu vàng nếu đôi chân bạn đang mang thương tích. Ấy thế mà, bạn chẳng mấy khi hài lòng trong cuộc đời vì bạn đang có đôi chân mạnh khoẻ. Bạn coi đó chỉ là mẩu bánh vụn tầm thường.

Hạt sương se tròn trên nhánh lúa non. Cánh bướm dập dờn bình an. Tiếng ve sầu dệt lụa trên những tàng me đang lưa thưa buông lá thả xuống trưa hè. Bạn coi đó là những mẩu bánh vụn không muốn nhặt. Một ngày nào đó trong bốn bức tường trắng toát của bệnh viện, rồi bạn thèm một sợi nắng của tháng hạ rơi qua những chùm hoa phượng, bạn nghĩ đến thơ thẩn dưới hàng dừa, bạn muốn thả chân bên cầu ao gỗ, bạn ước ao ném một nắm cơm cho bầy vịt tranh nhau ăn. Khi mất rồi, bạn mới thấy những mẩu bánh bị coi thường rẻ rúng có hương thơm ngọt ngào. Vậy bao giờ bạn mới chấp nhận một sợi nắng, một bóng dừa, một cầu ao gỗ không phải là những mẩu bánh vụn vô ích. Từ sáng tới tối có biết bao hạnh phúc nhỏ chung quanh mà bạn không nhìn ra nên bạn coi thường. Và có khi vì coi thường nên không nhìn ra.

Có người lữ khách tò mò, muốn đến xem một vườn hoa rất lạ. Ðược tin ấy, người làm vườn nhà quê vội chặt hết vườn hoa. Khi tới, lữ khách ngỡ ngàng vì chẳng còn gì ngoài một cành hoa duy nhất. Người làm vườn trả lời cho người lữ khách ngàn dặm rằng nếu ông không chặt hết vườn hoa thì lữ khách chỉ thấy vườn hoa chứ chưa chắc đã thấy hoa.

Nhiều khi chúng ta ngang qua cánh đồng hoa mà chỉ thấy một cánh đồng màu sắc chứ không thấy hoa. Ði tìm cành hoa sót lại, chúng ta sẽ biết hoa như thế nào.

3. Không phải là bánh vụn

Chúng ta thấy Chúa quý những mẩu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa. Nói cách khác, nó là ơn sủng, là sự cứu độ đến từ lòng xót thương, là tình yêu của Chúa. Ơn sủng, lòng thương xót, tình yêu là lửa. Giá trị của nó hệ tại phẩm chất hơn là số lượng. Lửa giả không đốt cháy. Lửa thật thì chỉ một ngọn đuốc cũng có thể biến thành rừng lửa bừng bừng trên đầu núi. Những vụn lửa nhỏ là những vì sao trời lấp lánh. Nhiều khi ta cần những vụn sao nhỏ hơn là mặt trời gay gắt. Cũng có khi những vì sao nhỏ không phải là những vụn lửa nhỏ mà chỉ vì ta không thể tới gần. Nó nhỏ vì nó ở xa.

Chính các môn đệ cũng nói với Thày: "Chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi" (Mt. 14:17). Nhưng trong số nhỏ bé khiêm tốn ấy đã ngầm chứa hàng ngàn ổ bánh khác. Họ không nhìn thấy chỉ vì họ còn ở quá xa lộ trình hiểu biết Thày.

Có khi một lời trăn trối mà cho nhau cả một lý tưởng. Có khi chỉ là dòng nước mắt tha thứ mà nâng nhau dậy khỏi vực sâu hun hút thất vọng. Nó là những mẩu vụn hôm nay, nhưng là sức sống mãnh liệt ngày mai. Khi những cành cây bị chặt ra, trồng xuống, nó là mẩu vụn bây giờ nhưng là cánh rừng của thời gian đang tới. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẩu vụn bé nhỏ tầm thường. Tình yêu và ơn sủng là ngọn pháo bông. Khi nó tung vỡ thành trăm ngàn vụn nhỏ nó càng rực rỡ huy hoàng. Những ơn sủng hàng ngày, ở đây, ở kia, có thể là một ngày khoẻ mạnh, có thể là mâm cơm chiều có mặt cha mẹ con cái, đấy là những đốm lửa của ngọn pháo bông. Nó không bé nhỏ dư thừa. Vụn bánh không có nghĩa là bánh vụn, vì nó chứa một giá trị lớn lao trong dáng điệu nhỏ bé ấy.

Khi tấm bánh bị bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé mỏng manh, nhưng không có nghĩa tấm bánh mất đi quyền năng và ơn thánh. Nó nhỏ vì đức tin của tôi quá xa, lòng cảm nghiệm của tôi quá chật.

Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Ðức Kitô trên Núi Sọ tan ra, vóc dáng Người sụp xuống, tấm bánh hy tế ấy nhỏ lại trong dáng nhỏ nhưng như nắng vỡ, lan ra, chảy trùm kín vũ trụ.

4. Hạnh phúc

Có người tự chọn suốt đời là khắc khoải khổ đau vì đi tìm những hạnh phúc lớn. Có tâm hồn đau khổ không làm gì được họ vì họ cứ đi nhặt những hạnh phúc nhỏ. Họ đi nhặt những hạnh phúc nhỏ để trải xuống thành hạnh phúc không lớn nhưng thật dài, dài trọn cuộc đời, và đời họ là hạnh phúc.


26. KHI NÀO NGÀY BẮT ĐẦU

Lúc nào đêm bắt đầu? Khi nào ngày chấm dứt?

Vị đạo sĩ hỏi người học trò:

- Ðâu là lằn mức giữa đêm và ngày? Lúc nào ngày bắt đầu? Lúc nào đêm chấm dứt?

Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới lúc nào là hết đêm.

Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: "Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?"

Khi viết dòng này, tôi cũng mới chợt tỉnh câu hỏi của nhà đạo sĩ. Mấy mươi năm làm người, chưa bao giờ nhìn buổi sáng hỏi chân trời lúc nào gọi là ngày, hỏi lòng mình lúc mặt trời mọc đến đâu là hết đêm. Câu hỏi không dễ trả lời.

* * *

Tôi đang ở Kanniyakumari, cực nam của miền đất Ấn Ðộ, cũng gọi là Cape Comorin. Nơi gặp nhau của ba dòng nước lớn, vịnh Bengal, Ấn Ðộ dương và biển Arabian.

Tôi muốn đến đây vì mỏm đá sau cùng của Ấn Ðộ để nhìn ba dòng biển ấy gặp nhau và nhìn mặt trời. Nhiều du khách tìm đến đây cũng vì lý do ấy. Ðứng quay lưng lại lục địa, trước mặt là Ấn Ðộ dương, phía trái là vịnh Bengal, phía phải là biển Arabian. Ðiều đặc biệt nơi đây, khi trăng lên phía Ðông ở vịnh Bangal, mặt trời xuống phía tây bên biển Arabian, cả hai đều tròng trành trên biển đối diện nhau. Ðây là nét đẹp của biển, của trăng, của mặt trời trên trái đất mà du khách gặp mặt cùng một lúc. Sóng nước dạt dào vô cùng tận. Bên đông trăng lên. Bên tây mặt trời xuống. Dang hai cánh tay, ta sẽ hứng cả trăng và trời.

Lung linh, một quả cầu tròn đỏ ối rực xuống biển cả. Du khách đến đây chiêm ngưỡng mặt trời lặn. Tôi có mặt trong đám người đó chiều ngày mồng 5 tháng 4, năm 2001.

* * *

Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư:

- Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày.

Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò:

- Phân biệt con chó khác con mèo, nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không?

Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp:

- Ðấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Ðủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo.

Sau cùng, người học trò tự thú:

- Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm.

- Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy?

Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ:

- Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không?

- Ðúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Ðiều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Ðiều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lui dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia...

Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe.

* * *

Bạn thân mến, có khi nào bạn nhìn mặt trời buổi sáng với câu hỏi của nhà đạo sĩ kia chưa? Mặt trời chưa mọc mà hừng sáng, ta chưa gọi là ngày được, vẫn còn bóng tối, ta bảo đó là hừng đông. Hừng đông là đã có chút áng sáng nên cũng không thể gọi là đêm được nữa. Từ cái mềm mại như ngọn chuối non đến mầu xanh biếc của tàu chuối già, từ cái xanh nhẹ của ngọn mạ đến màu già dặn của lúa, đâu là lằn mức phân biệt? Mặt trời lên dần, vũ trụ ngái ngủ trở mình. Ta chưa gọi là ngày cho đến khi cái ngái ngủ kia thành thức tỉnh. Ánh sáng làm cho cái mềm ẻo của thời gian mơ hồ thành ngày. Nhưng đâu là biên cương giữa ngày và đêm?

Ta thấy trong cuộc đời dường như cũng thế. Ðâu là tiếp nối giữa hạnh phúc và đổ vỡ? Bao nhiêu hạnh phúc hôn nhân lúc ban đầu đẹp vậy mà ít năm sau, ta nghe những chuyện buồn, ta ngỡ ngàng thở dài nghe bạn bè cho hay tin, họ ly dị rồi. Ðời mỗi người cũng thế. Có khi mình đang đặt sai về những giá trị cuộc sống mà chẳng biết. Ðến khi hối tiếc, đã quá muộn màng. Ðâu là biên giới của sắp sa ngã và sa ngã?

Không phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, khi nào đêm chấm dứt, làm sao phân biệt được lúc nào ngày chấm dứt và đêm sắp bắt đầu? Thứ đêm và ngày trong ý nghĩa thiêng liêng. Làm sao phân biệt được khi nào hạnh phúc đang phai mờ và đổ vỡ đang đến? Làm sao phân biệt lúc nào giá trị thiêng liêng đang chấm dứt và giá trị trần thế đang lấn chiếm?

Có khi ngày đang hết, đêm xuống dần mà không hay. Ta chần chừ, tưởng đời mình còn dài, trước ngưỡng cửa hoàng hôn mà cứ gọi là ngày.

Có khi trước bóng đêm mà ta thản nhiên không phải ngày còn dài mà chỉ vì không phân được khi nào đêm bắt đầu.

Ðường thiêng liêng của linh hồn hay những chuyện tình cũng thế thôi. Họ không biết lúc nào vào bóng đêm, vì không biết tâm tình mình đang đi về đâu. Hòang hôn mà ta cứ tưởng là ngày.

* * *

Ðợi người học trò thật yên tĩnh, nhà đạo sĩ nói với môn sinh ông ta:

- Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt!

Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò:

- Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ!

Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò mình:

- Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Ðế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Ðế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Ðế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi.

Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?

Không trả lời được con ạ. Ðâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Ðế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Ðời quá đẹp.

Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe.

- Con ạ, Thượng Ðế nói trong linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Ðế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày! Lúc nào Thầy nhìn người tức giận, ghét bỏ, tham lam, thù hận đấy là đêm!

Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu.

Ði giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.

Ông nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia.

Ông đã chết.

Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu.

* * *

Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.

Ngày đó anh ta vui mừng vì được câu trả lời không phải vất vả tìm kiếm cả một đời như tôn sư anh. Xa Thầy, người học trò cắp sách vào đời. Chả bao lâu sau khi tôn sư chết, một chiều nọ nhìn mặt trời xuống biển, một sáng kia thấy mặt trời mọc trên đầu núi, nhìn lại câu trả lời của Thầy, anh bất giác nhận thấy đấy chỉ là tìm kiếm của riêng Thầy.

- Ðâu là câu trả lời của riêng ta?

Anh tự hỏi vậy. Nếu lòng nhân ái bao dung là ánh sáng phân biệt đêm và ngày, ta có lòng nhân ái không? Câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Nhìn ánh bình minh sắp lên, trên triền núi đá sương đêm đang mờ mờ tan. Lúc nào ngày tâm linh bắt đầu, lúc nào đêm thiêng liêng chấm dứt?

Nghĩ đến câu trả lời của tôn sư: "Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu hay óan thù nhỏ nhen. Ði giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung." Anh ta phân vân hỏi lòng:

- Ðó là câu trả lời của Thầy. Thầy đã đem một đời tìm câu trả lời ấy. Còn câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Anh tưởng rằng Thầy đã trả lời giùm. Không thể phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt bằng ánh mặt trời, mà bằng bao dung của con tim. Ngày ấy anh chợt vui vì câu trả lời không cần tìm kiếm. Nhưng nỗi nhẹ nhàng của tấm lòng lịm tắt ngay. Thầy hiểu thế trong trái tim và cuộc sống của Thầy. Còn chính ta, lòng ta có bao dung và ngày có bắt đầu? Câu trả lời của Thầy chỉ là gợi ý cho trí hiểu, còn chính ta, đời ta là ngày bắt đầu hay ngày đang chấm dứt? Ta phải tìm câu trả lời cho riêng ta.

Anh lại trăn trở, câu hỏi ấy không đơn giản, và biết mình sẽ phải đem theo cả đời để trả lời câu hỏi ấy.

Vị đạo sĩ đã bỏ những ngày thách đố chính mình ngồi nhìn hoàng hôn, bỏ những ngày dõi theo ánh bình minh. Ông quay về tìm ánh sáng trong cõi lòng. Tìm được rồi, ông bình an bỏ luôn cõi đời bước vào ngày ngàn thu vĩnh cửu. Nơi chỉ còn ánh sáng không còn đêm.

Rồi tôi cũng từ giã vùng biển Comorin. Trên chuyến xe đò về hướng Bắc tôi sẽ bỏ lại biển cả và mặt trời. Tôi biết ngày mai, rồi tiếp tục ngày mai nữa, thế kỷ nữa và nhiều thế kỷ nữa du khách sẽ kéo nhau ra mỏm đá này nhìn mặt trời. Trong trái tim mỗi đời người, trong chuyện tình cuộc sống của họ, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?

Ngày mai tôi lên đường. Ðến lúc tôi phải bỏ lại biển cả và mặt trời, bỏ lại ghềnh đá và dòng nước, giữ lại trong tâm tư thôi vì nếu không, làm sao tiếp tục cuộc hành trình.

(Trích Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục)


27. KHI NGƯỜI KHÔNG ÐÁP TRẢ

Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói: Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi. Người kia ở trong trả lời: Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được. Nhưng nếu họ cứ gõ hoài. Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ. Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).

Chúa bảo tôi đến gõ cửa, ở đấy có chờ đợi. Ðó là lời xác định của Chúa. Như vậy, chắc chắn tôi sẽ bắt gặp nếu tôi kiếm tìm, tôi sẽ tìm thấy nếu tôi van xin.

* * *

Nhưng trong đời, tôi đã kinh nghiệm một nỗi bận tâm khó hiểu. Tôi gọi mà Chúa không đáp trả. Tôi xin mà Chúa không cho. Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp. Tôi không ước mơ những ước mơ lớn. Tôi chẳng xin sang giàu. Tôi chỉ xin cho tôi nhẹ bớt khổ đau tâm hồn. Tôi chỉ xin cho đỡ kéo dài bệnh tật của thân xác. Tôi chỉ xin Chúa soi cho tôi một ánh đèn khi tôi phải quyết định những vấn đề quan trọng. Tôi chỉ xin Chúa giữ tôi lại trước đêm đen mịt mùng cám dỗ. Nhưng tiếng tôi từ vực sâu lại vọng về với tôi trong nỗi vắng. Những lúc tôi cần Chúa nhất thì Ngài lại bỏ tôi đi xa. Vì sao Người im tiếng?

* * *

* Ngài im tiếng. Hay có phải Ngài đang nói mà tôi không nghe? Ngài chối từ. Hay có phải cánh cửa đã mở mà tôi không vào vì có vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh? Ngài im lặng. Hay có phải Ngài bảo tôi: Hãy vào sa mạc, hãy ra bờ đá lặng thinh, hãy khép lại bớt cửa lòng rồi con sẽ nghe thấy tiếng Cha. Nhưng tôi chán những bờ đá vắng vẻ, và tôi đã yêu những vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh. Làm sao tim tôi nghe được tiếng con họa mi đang hót khi mà bày ve sầu đam mê đang kêu inh ỏi trong hồn?

* Ngài thờ ơ. Hay có phải Ngài không đáp trả vì tôi bất xứng với ân sủng của Ngài. Chẳng ai có thể trách vì sao không có mặt trời nếu họ cứ sống dưới hầm tối, vực sâu. Chẳng ai có thể trách vì sao không có bình an nở giữa khu vườn tham lam. Người cha tốt là người cha đóng cửa nhà mình để đứa con khỏi ngày ngày về lấy gia tài đi hoang đàng, phung phí.

* Vì sao Chúa không cho tôi điều tôi xin? Ðã bao lần Chúa bắt tôi đi. Gian nan. Mỏi. Tôi muốn ghé tạm xuống đường ngồi nghỉ. Nhưng Chúa biết để tôi ngồi nghỉ, dần dà tôi sẽ nghe theo tiếng nói của đất thấp, tôi sẽ lười biếng đối với tiếng gọi của trời cao. Tôi trách vì sao Người không cho tôi lập nghiệp trên những ước mơ của tôi, xin làm quê hương trên những ý nghĩ riêng tư của tôi. Ngài chẳng đáp trả, vì Ngài biết đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi. Trong những đêm đen như mù mịt, tôi gõ nhưng cánh cửa chẳng mở. Phải chăng chỉ có Ngài, Ngài mới biết những gì là tốt nhất cho phần rỗi của tôi. Như vậy, không đáp trả có là dấu chỉ của tình thương?

* * *

Khi không đáp trả, đấy cũng là một cách trả lời. Trả lời bằng lặng im nhiều khi lại là câu trả lời thâm sâu và hàm chứa nhiều ý nghĩa.

Tôi không đến với ai mà tôi biết chắc rằng tôi không thể tin cậy. Khi đến xin Chúa trợ giúp là tôi đặt niềm tin nơi Ngài. Nếu đã đặt niềm tin thì sao lại có thể phân vân. Khi Ngài im lặng như không đáp trả, tôi lo âu, thì đấy là dấu hiệu niềm tin đó không vững vàng.

Niềm tin là lời cầu nguyện để xin được biến đổi. Như thỏi đất sét tin mình nằm trong tay người thợ lành nghề. Người thợ gốm biết loại đất sét nào có sức chịu đựng để đúc gạch lót đường, loại nào có thể tạc tượng. Niềm tin vững vàng là phó thác trong tay người thợ gốm vì tin rằng mình được yêu thương và săn sóc. Tin vững vàng hệ tại phó thác rằng Chúa là người thợ gốm khôn ngoan và không lầm lẫn trong công trình sáng tạo. Chứ tin vững vàng không có nghĩa là tin mình sẽ biến đổi được ý định của Chúa để đạt được điều mình xin. Có những lời xin chẳng bao giờ được đáp trả nhưng lại là một ân sủng thật lớn lao.

* * *

Ngày còn bé tôi không biết cầu nguyện thế nào. Những ngày bom nổ nhiều là những ngày mẹ tôi càng lo. Mỗi tối, mẹ tôi bảo tôi ngồi lần hạt cầu nguyện cho cha ngoài trận tuyến. Trong trí óc non dại, tôi cầu nguyện cho cha tôi được bình yên. Một lằn đạn hiểm nghèo. Một trái mìn kín đáo. Ðời sống bếp bênh như treo bằng sợi chỉ. Chỉ một giấy báo tin thôi, tôi sẽ là đứa mồ côi. Mẹ tôi sẽ là góa phụ. Tôi đã thấy nhiều lá cờ trải lên mộ đất. Tôi đã thấy nhiều chuyến xe nhà binh chở đơn độc một quan tài, người thiếu phụ đội nón trắng ngồi lặng lẽ không còn nước mắt để khóc.

Rồi chuyện một đêm đã đến. Chiến tranh đổ xuống trên mảnh đất quê tôi. Tôi còn bé, nhưng tôi hiểu những nghẹn ngào của người có thân nhân vừa mới vĩnh biệt. Mưa ướt lẹp xẹp, tôi nghển cổ nhìn qua cửa sổ đông chật người. Một chiều mưa ảm đạm, lạnh lẽo làm sao. Mái lá thấp đổ những dòng mưa thảm não. Tôi vẫn còn nhớ cái buổi chiều xám nặng nề ấy cho tới hôm nay. Ðôi chân của cậu X. chết nằm sóng sượt trên cái phản gỗ. Bùn dính lem luốc. Mợ X. khóc thảm thiết bên xác chồng mới chết trận. Ai đã bắn chết cậu? Có phải kẻ mà cậu chưa kịp bắn?

Tò mò, tôi theo những đứa trẻ khác ra ven rừng xem xác chết. Những hố bom cày tung đất còn mới nguyên. Vải băng trắng còn lẫn với xác người chưa kịp thu. Giữa những xác người ấy, tôi thấy một người nằm chết cong queo, cụt chân vì bom nổ, máu bầm khô bết vào áo đầm đìa. Mặt cháy đen. Nhìn kỹ trên khuôn mặt ấy, tôi không quên được là chuỗi tràng hạt vẫn quàng vòng quanh cổ. Kẻ chết là một bộ đội miền Bắc. Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là bộ đội cộng sản cũng tin vào Chúa như tôi sao?

Từ ngày đó, mỗi lần giúp lễ, nhìn lên thánh giá mà hồn tôi bâng khuâng. Tôi thấy Chúa buồn. Quỳ đây, tôi cầu nguyện xin Chúa chở che cha tôi ngoài chiến trận. Nhưng người cán binh bộ độ ấy, có thể cũng có một đứa con trai bằng tuổi tôi ở ngoài miền Bắc. Nó cũng là cậu bé giúp lễ. Cứ mỗi sáng, mẹ nó cũng đánh thức nó dậy thật sớm để giúp lễ, cầu nguyện cho cha đang ở mãi trong miền Nam heo hút. Năm tháng bặt tin, chắc chiều chiều, tối tối, mẹ nó cũng rối bời lòng trí, thẫn thờ nhìn về phương Nam, dục nó đọc kinh. Chúa nghe lời tôi để cha tôi giết họ? Chúa nghe lời cậu bé kia để cha cậu giết cha tôi? Cả hai cậu bé đều cầu nguyện, Chúa biết nghe lời ai?

Tôi không tin là Chúa có câu trả lời. Tôi chỉ cảm thấy rằng Chúa khó xử ghê gớm lắm. Chúa trên thập giá như càng thêm đau đớn. Mỗi lời cầu của tôi là một vết thương cho Ngài. Mỗi nỗi lo âu của cậu bé ngoài miền Bắc kia làm Ngài thêm khổ tâm.

Tôi hình dung Chúa như một người cha. Ðứa con thứ nhất chạy đến: Cha ơi, đưa con dao cho con để con chém nó. Ðứa con kia chạy lại, sợ hãi: Cha ơi, đừng đưa! Cha có biết rằng con cũng là con của cha sao? Và người cha chỉ còn biết đớn đau mà thôi, vì cả hai con đều là con của mình.

Từ đó, mỗi buổi sáng giúp lễ, tôi thấy Chúa trên thập giá như ngậm ngùi. Tay giang rộng cứ thêm mãi khổ thương. Từ ngày đó, trong cái trí óc non nhỏ của tôi, tôi hiểu mơ màng rằng bất cứ hành động nào gây thương tích cho nhau cũng là làm khổ cho Cha trên trời.

* * *

Lạy Chúa,

Mỗi khi con cầu nguyện thì cho con biết xin được biến đổi, chứ đừng biến đổi Chúa. Làm sao con có thể biến đổi sự khôn ngoan của Chúa thành sự vụng về của con. Khi con nài Chúa làm theo ý con là con muốn đem sự hoàn hảo của Chúa thành những bất toàn giống như của con.

Con ngỡ tiếng sói sủa là vui tai. Con ngỡ lời mời của Satan là tha thiết. Con ngỡ trái táo hồng có hương thơm, nào ngờ đâu con có biết sâu độc làm tổ ở bên trong. Những lời con xin nhiều khi rất đẹp, nhưng chỉ là đẹp theo cái nhìn của con mà thôi.

Lạy Chúa,

Xin cho con hiểu rằng có những lời xin mà Chúa chẳng thể đáp trả được. Và chính lúc Chúa im lặng lại là lúc Chúa đang nói với con bằng ngôn ngữ nhiệm mầu nhất.


28. KỶ NIỆM: HẠNH PHÚC HAY VẾT THƯƠNG

Những bài ca nói về ngọt ngào của tình yêu hay nhắc đến kỷ niệm. Những bài thơ viết về hạnh phúc cũng thường mang hình ảnh của quá khứ. Những tìm về con đường cũ vết chân xưa. Sân ga thủa nào hẹn hò. Chiều Giáng Sinh lần đầu gặp gỡ. Tất cả là kỷ niệm. Kỷ niệm là hành ảnh ghi lại những yêu dấu đã buông cánh đậu xuống đời mình. Nhưng, cũng có những bài thơ buồn nhắc nhở một dòng nước mắt. Cũng có những nốt nhạc sầu âm vang một dang dở. Những nước mắt, những dang dở cũng là kỷ niệm. Như thế, kỷ niệm là con đường hai chiều: một lối xuôi hạnh phúc, một nẻo ngược đau thương.

Tờ thư cũ. Tấm hình năm xưa. Kỷ niệm và kỷ niệm. Tuổi học trò có kỷ niệm của sân trường. Tình yêu vợ chồng có kỷ niệm của hôn nhân. Kỷ niệm ở khắp nơi. Ai cũng có kỷ niệm. Ai cũng có lúc sống với kỷ niệm. Ðã như thế, nơi nào có con người là có kỷ niệm.

Kỷ niệm không bao giờ nhắc đến con người nhưng con người lại hay nhắc đến kỷ niệm. Chính con người tạo nên kỷ niệm, chứ kỷ niệm không bao giờ hiện hữu độc lập. Mặc dù con người tạo nên kỷ niệm, nhưng sự yếu đuối của con người trước kỷ niệm là khi sinh ra kỷ niệm rồi thì con người lại bị kỷ niệm chi phối. Một khi kỷ niệm ra đời rồi thì khó mà chối bỏ được sự có mặt của chúng. Và kỷ niệm lại có quyền năng không ngờ: con người không giết được kỷ niệm, nhưng kỷ niệm lại có thể giết được con người.

Kỷ niệm là một gạch nối. Kỷ niệm là một lối đi về để tôi có thể đến được với người và người đến với tôi trong không gian xa cách, trong thời gian chảy xuôi. Kỷ niệm là lối đi về, là sự nhắc nhở giữa hai người. Ðã là nhắc nhở thì tùy sợi giây liên hệ ấy thơ mộng hay vụng về, thân ái hay oán trách mà hai người có kỷ niệm đẹp hay đau buồn.

Cái kỳ diệu và cũng là bi đát của con người là con người sống trong hiện tại nhưng lại có thể mơ ước tương lai và kéo cả quá khứ tới. Chính vì thế mà sống hiện tại, nhưng đau nỗi đau của quá khứ và lo nỗi lo của tương lai. Chính cái khả năng vượt thời gian này mà mới có kỷ niệm. Nếu không sống lại được quá khứ thì sẽ không có kỷ niệm. Do đấy, kỷ niệm có thể là hồng ân mà cũng là ngục tù.

Vì khả năng có thể kéo quá khứ tới hiện tại nên người ta có thể đem những kỷ niệm đẹp năm xưa làm hành trang cho hôm nay. Và cũng có thể là ngục tù nếu kỷ niệm đó là những kỷ niệm buồn. Con người không thể chỉ sống hướng tới tương lai. Quá khứ đã làm nên đời họ, luôn luôn nhắc nhở họ. Cánh cửa thời gian vật lý đã đóng kín, nhưng cánh cửa tâm lý của con tim chẳng chịu im lìm. Nó không ồn ào nhưng vẫn thăm thẳm sâu. Khi quay về quá khứ, họ sẽ không sáng tạo được kỷ niệm nữa, mà chỉ nhìn ngắm kỷ niệm và để kỷ niệm tham dự vào đời mình mà thôi. Con người bất lực trước quá khứ. Nhưng quá khứ không hẳn là bất lực trước con người. Chẳng thể lẩn tránh được kỷ niệm thì chỉ còn lối đi đẹp nhất là hãy xây dựng những kỷ niệm đẹp.

Một cánh thư viết thăm mẹ. Một món quà tặng nhau. Một dòng chữ cám ơn thầy, cô dạy cũ. Ðơn sơ nhưng đều là những kỷ niệm hồng có giá trị hạnh phúc dọc theo thời gian của một cõi lòng. Có những kỷ niệm êm đềm cho nhau bóng mát thì cũng có nhiều kỷ niệm đã giết chết bao tâm hồn. Ðưa dằn vặt câm nín đến đời nhau. Hối tiếc phũ phàng. Dọc theo thời gian còn lại của họ là nỗi đắng. Kỷ niệm là những hạt mầm đã gieo xuống hôm nay sẽ trổ sinh ngày mai. Có thể là quả ngọt, có khi là trái đắng.

Khó mà xóa nhòa được kỷ niệm. Nó có thể hằn sâu đời đời. Bởi đó, gieo kỷ niệm đau buồn cho nhau là có thể hành hạ nhau cả một tương lai. Tặng nhau những kỷ niệm đẹp là sắm sẵn cho nhau bóng mát hạnh phúc trong những ngày sắp tới. Vì kỷ niệm có quyền năng như vậy, nên khi trao tặng nhau kỷ niệm, những kỷ niệm đó phải là những kỷ niệm hồng.

* * *

Thánh Kinh có nói đến kỷ niệm. Con người mong muốn những kỷ niệm đẹp. Nhưng Chúa lại là người yêu thích kỷ niệm hơn ai hết. Trước khi chia ly, bữa cơm chiều hôm ấy Chúa đã trao kỷ niệm cho các môn đệ của Ngài. "Này là mình Ta, các con hãy lãnh nhận ... để nhớ đến Ta" (Lc 22,19). Cho kỷ niệm để nhớ nhau. Kỷ niệm là một nhắc nhở để tình thân ấy đẹp mãi, đẹp thêm. Chúa cũng yêu quý kỷ niệm thì con người cũng cần kỷ niệm để giữ ấm đời nhau.

Chúa đã chuẩn bị bao nhiêu năm trời để trao tặng kỷ vật cho con người. Chúa đã coi tặng vật như một giá trị vô cùng thiêng liêng nên đã dành vào giờ quan trọng nhất là giờ trước khi Chúa chết. Chúa cũng đã chọn một tặng vật cao quý nhất để tặng con người, đó là bữa Tiệc Ly, Chúa lập phép Thánh Thể.

Sự việc Chúa lập phép Thánh Thể được coi như một trong những cao điểm quan trọng của Phúc Âm. So sánh bốn Phúc Âm, ta thấy một sự khác biệt rất lớn. Cả ba Phúc Âm Máccô, Mátthêu, Luca đều nói tới bữa Tiệc Ly, nhưng lại không đề cập đến việc Chúa rửa chân. Còn Phúc Âm Yoan, trái lại, chỉ nói đến việc Chúa rửa chân cho môn đệ, nhưng lại không đề cập tới biến cố Chúa lập phép Thánh Thể.

Yoan muốn làm nổi bật một tư tưởng khác. Không đề cập đến bữa Tiệc Ly, nhưng người môn đệ này mở đầu cuộc loan báo Thương Khó bằng kỷ niệm Chúa rửa chân cho các môn đệ. Yoan dùng biến cố rửa chân để chuẩn bị cho giây phút trao tặng kỷ vật xẩy ra kế tiếp. Ngay khi rửa chân xong, Chúa long trọng tuyên bố gởi gắm lại di sản cuối cùng trước khi chết: "Cha chỉ ở lại với các con một ít nữa... nơi Cha đi các con chẳng thể đến được, thì này Cha nói với các con, Cha trao cho các con một kỷ vật mới là: các con hãy thương mến nhau" (Yn 13,33). Ðối với Yoan, kỷ vật là tình yêu.

Yoan đã bỏ qua, không nói đến bữa Tiệc Ly để hết sức thâm thúy diễn tả ý nghĩa liên hệ giữa tình yêu và kỷ vật. Không có tình yêu, bữa Tiệc Ly không còn ý nghĩa. Bữa Tiệc Ly chỉ là kết quả của tình yêu. Không có tình yêu kỷ vật trở nên tội nợ. (Cor 11,26-29).

Trong ý nghĩa đó, tình yêu phải luôn luôn đi với kỷ vật. Chính vì có tình yêu nên kỷ vật trở thành kỷ niệm của quá khứ vẫn còn sức sáng tạo cho hạnh phúc hiện tại và nối tiếp đi vào tương lai. Cũng trong ý nghĩa đó, không có tình yêu, kỷ vật chỉ là nợ nần, kỷ niệm sẽ là gánh nặng, là ngột ngạt khó thở. Người nhận kỷ niệm mà không có tình yêu là vô ơn. Kẻ tặng kỷ vật mà không có lòng mến thì kỷ niệm là thừa, hoặc đánh lừa.

* * *

Vì thực tế lắm lúc nghèo nàn nên con người muốn tìm về kỷ niệm, mong gặp được bóng hình hạnh phúc để xóa bớt đi nỗi khô cằn hiện tại. Nhưng đã có biết bao tâm hồn thở dài vì một quá khứ chỉ toàn kỷ niệm u uẩn. Có biết bao cõi lòng phải chạy trốn kỷ niệm, mỗi lần nhớ về kỷ niệm là vết thương càng sâu và bước chân vào tương lai càng ngần ngại. Sống trong hiện tại, con người không thể trở về quá khứ để thay đổi những gì đã xảy ra. Ðó là sự yếu đuối của con người trước quá khứ. Trái lại những gì đã xẩy ra ở quá khứ vẫn tiếp tục cắn rứt hay an ủi con người trong hiện tại. Ðó là sự yếu đuối của con người trước quá khứ. Trái lại những gì đã xẩy ra ở quá khứ vẫn tiếp tục cắn rứt hay an ủi con người trong hiện tại. Ðó là sức mạnh của quá khứ. Tuy nhiên, đây chỉ là định luật tương đối để con người ý thức thái độ sống của mình hầu cẩn trọng gieo trồng kỷ niệm đẹp, tránh những kỷ niệm đau thương. Trong cuộc sống, nhiều trường hợp đã xẩy ra, tôi không gieo kỷ niệm gai góc nhưng nó vẫn xẩy tới do sai lầm của tha nhân, hay sự khờ dại của chính tôi.

Như vậy, tôi bất lực trước tàn phá của kỷ niệm u buồn?

* * *

Trong thực tế, có phần đúng, nhiều người đã bất lực trước kỷ niệm đau đớn. Vì không trốn nổi, kỷ niệm đã giết chết họ bằng con đường tự tử. Yuđa hôn Chúa. Nụ hôn phản bội đã là kỷ niệm bất hạnh dẫn đến cõi chết. Con người không thay đổi được sự kiện của quá khứ. Một mùa thu qua rồi là một mùa thu không thể thêm một cánh lá rơi. Kỷ niệm là kỷ niệm. Trọn vẹn. Dứt khoát. Kỷ niệm trong quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại của tôi. Nhưng, tự nó, kỷ niệm không hiện hữu độc lập mà phải có con người dựng nên nó. Thì cũng vậy, nó không thể ảnh hưởng đến tôi như một sức mạnh toàn năng, mà vẫn chịu sự chi phối của suy tư và tự do của tôi đối với nó. Ðời sống tội lỗi của Augustino trong những ngày ăn chơi ở kinh thành Paris không phải là những kỷ niệm đẹp. Nhưng Augustino đã thành thánh nhân. Trong thực tế, nhiều người không chịu đựng nổi sự tàn phá của kỷ niệm buồn. Nhưng, cũng trong thực tế, nhiều tâm hồn đã vượt thắng.

Làm sao để xóa nhòa những kỷ niệm buồn?

* * *

Sự khác nhau giữa một tâm hồn đã vượt thắng được những kỷ niệm thương tích về kẻ để cho thương tích dằn vặt là một cõi lòng đi tìm những kỷ niệm đẹp hơn, là một cõi lòng mở rộng cho một kỷ niệm mới. Tôi không thể tránh được những kỷ niệm đau buồn. Nhưng mầu nhiệm trong cuộc đời là tôi có khả năng để mơ những kỷ niệm đẹp hơn và khả năng sáng tạo những kỷ niệm mới. Khi đạt được những kỷ niệm đẹp hơn rồi thì những kỷ niệm buồn trong quá khứ, không hẳn là mất, nhưng phai mờ. Khi chưa đạt được thì tôi cũng đã trên đường đi tìm kỷ niệm đẹp, điều đó cũng có nghĩa tôi đang trên đường từ giã những quá khứ u uẩn. Trên con đường từ giã những kỷ niệm u uẩn cũng hàm ý là tôi không hoàn toàn bị nô lệ quá khứ.

Kỷ niệm đẹp không phải là thành công vật chất mà là sự tươi mát của tâm hồn. Nói về hy vọng và đi sáng tạo những kỷ niệm đẹp hơn, thì con người, một là đạt được, hai là chưa đạt được, chứ không bao giờ có nghĩa là không bao giờ đạt được.

Tại sao?

* * *

Vì thời gian là tình yêu của Chúa cư ngụ. Chúa không bao giờ rải gai trong tương lai cho tôi vấp ngã. Một tâm hồn mở rộng cõi lòng để tìm kỷ niệm mới, họ sẽ gặp: "Ai tìm thì sẽ thấy. Ai gõ, cửa sẽ mở cho" (Lc 11,9-10). Thời gian là Nước Chúa. Trong Nước ấy: "Kẻ mù nhìn thấy, kẻ què đi được, người phong hủi được chữa lành, kẻ điếc nghe thấy, người chết sống lại và người nghèo khổ được nghe rao giảng Tin Mừng" (Lc 7,22-23). Vì thế, trong Nước Chúa, tôi còn cả một vũ trụ mênh mông để sáng tạo những giấc mơ đẹp, xóa đi những kỷ niệm buồn. Biết tôi một khi đau khổ vì kỷ niệm đen tối rồi sẽ sợ hãi và nghi ngờ tương lai, nên Chúa đã bảo đảm: "Cha ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).

Lời hứa trên đây phải hiểu trong toàn mạch văn của thánh Mátthêu. Trong chương mở đầu Phúc Âm, thánh sử giới thiệu bản tính của Thiên Chúa là làm người để ở với nhân loại: "Một người nữ sẽ sinh con và người ta đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng tôi" (Mt 1,23). Rồi những dòng chữ sau cùng, thánh sử đã kết thúc Phúc Âm cũng bằng tư tưởng đó: "Cha ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Tư tưởng mở đầu và kết thúc của một quyển sách nói lên tính cách quan trọng độc nhất mà toàn bộ cuốn sách nhắm tới. Thánh sử muốn làm nổi bật chân lý Chúa đi song hành với con người.

Bởi đó, tương lai là sự chờ đợi của Chúa. Nơi Ngài là một vũ trụ mênh mông để tôi mở lòng cho những kỷ niệm tươi đẹp hơn.

* * *

Chúa đã đề cao giá trị của tặng vật và kỷ niệm. Chúa đã cho con tặng vật đẹp nhất là chính Chúa. Xin giúp con cố gắng đem kỷ niệm đẹp đến cho người. Một hy sinh trao tặng nhau hôm nay là một kỷ niệm có thể nẩy sinh nhiều an ủi cần thiết cho một lúc trống trải nào đó của một tâm hồn.

Và, xin Chúa cũng hãy nhắc nhở con luôn luôn khôn ngoan gieo xuống đời mình những kỷ niệm đẹp hôm nay để ngày mai con khỏi dằn vặt hối tiếc.


29. LÊN ĐƯỜNG

Ðường là để đi. Ðường là để đi nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó. Bản tính của đường là để đi, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú. Như vậy, kẻ dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình. Tôi phải xác định với lòng tôi: cuộc sống hôm nay là đường đến một quê hương khác? Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà tôi lại chọn làm nơi cư trú, tức là tôi chẳng lên đường để đến nơi tôi phải đến. Lối đi hôm nay của tôi có là đáp trả tiếng gọi của Chúa? Nếu không, mà tôi chẳng lên đường theo tiếng gọi là tôi đang làm ngơ, đang cố quên đường về.

Phải rẽ lối khai quang mới thành đường đi. Sở dĩ có người rẽ lối khai quang để làm đường đi vì họ muốn đến một nơi nào đó. Nghĩa là họ muốn tìm kiếm. Như thế, trước hết, trái tim họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải mở rộng cho một chân trời bước tới. Sẽ không có đường đối với kẻ không muốn tìm kiếm. Và ước mơ lên đường mà không lên đường thì cũng không thành đường đi.

- Có ai không cần tìm kiếm vì đã dư thừa?

- Có ai không cần lên đường vì đã gặp gỡ?

Ước mơ hạnh phúc là dấu hiệu hạnh phúc đang vắng mặt. Nguyện cầu cho hết phân ly là nói một cách khác họ đang khao khát được xum họp. Khổ tâm khi thấy người thương mến của mình gặp bất hạnh nghĩa là kẻ đó đang thiếu thốn, và mình cũng chẳng đủ quyền năng cho họ hạnh phúc. Khi tôi lo âu là lúc tôi có vấn đề. Ai trong cuộc sống mà lại chẳng có lúc âu lo? Tất cả đấy là những dấu hiệu giới hạn của con người, những thiếu thốn mà con người đang đi tìm.

Và như thế, ai cũng cần phải lên đường, ai cũng phải tiếp tục tìm kiếm. Ðời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Mục đích là gặp điều tôi mong mỏi.

Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?

Chắc chắn không thể là tôi. Vì tôi có thể ban tặng cho mình được những gì tôi thiếu thốn thì tôi đã chẳng còn bao giờ ước mơ nữa. Nếu tôi không thể đến một nơi nào đó để lấy được những gì tôi mong mỏi, như vậy, cũng có nghĩa là tôi không thể tự làm đường đi cho mình được. Chắc chắn cũng không thể là người chung quanh tôi vì họ cũng thiếu thốn như tôi.

Vậy, ai có thể giúp tôi đạt được những điều thiếu thốn đó?

"Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống" (Yn 14,6). Ðường của cuộc đời tôi đi là Chúa. Những gì tôi thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của tôi. Khi Chúa nói Chúa là sự sống, có nghĩa Chúa là hạnh phúc tôi đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là đường, có nghĩa là để dẫn tôi tới hạnh phúc đó.

Kinh nghiệm cho thấy hạnh phúc có thể thỏa mãn những thao thức sâu kín nhất trong tâm hồn tôi không hệ tại sự giàu có, người yêu, những gì trong phạm vi trần thế. Nếu vậy thì phương cách để đạt được hạnh phúc có thể thỏa mãn tâm hồn tôi cũng không thể đến được từ trần gian. Hạnh phúc ấy thuộc về phạm vi siêu nhiên, vượt tầm sáng tạo của nhân loại. Cho nên, con đường dẫn tới hạnh phúc đó cũng phải là siêu nhiên, không thể là sản phẩm của con người. Trong ý nghĩa này, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc.

* * *

Lạy Cha, Cha đã tỏ cho con biết Cha là đường của con. Ðường đã có rồi. Sự thật và sự sống đã có rồi. Nhưng con cần Cha dọn cỏ, mở lối cho con. Cỏ tối tăm và cỏ nguội lạnh là những giây leo rừng chằng chịt che kín lối. Và con đã không thấy đường. Cha là sự thật, nên không có loại cỏ tối tăm nào có thể che kín. Cha là sự sống nên không loại gai nào có thể làm nghẽn lối. Giây gai làm nghẽn lối, cỏ dại che kín đường không mọc ở đường đi, nhưng mọc trong chính trái tim con. "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy" (Mc 10,51). Cha đã mở mắt và người mù đã thấy đường đi. Một lần nữa, hành động của người mù cũng lại khởi đầu bằng ước mơ: ước mơ được sáng mắt. Ðiều ấy cũng hàm nghĩa là anh ta luôn luôn muốn tìm kiếm ánh sáng. Nếu anh ta không muốn lên đường. Nếu anh ta chọn thế giới mù làm quê hương. Nếu anh ta cư trú trong thế giới bóng đêm ấy và chẳng muốn bước tới nữa thì chắc chắn anh sẽ chẳng bao giờ thấy mặt trời. Ðời anh sẽ tẻ nhạt biết bao. Ðời con cũng vậy. Con phải lên đường. Ngày nào con cũng có lầm lỗi. Ngày nào cũng có bóng đen của ghen tương, bóng đen của thèm muốn bất chính, bóng đen của lo âu thiếu tin tưởng. Ngày nào con cũng có mù lòa. Vì thế, con cần Cha mở mắt cho con hàng ngày. Và, con phải lên đường mỗi sớm mai.

* * *

Mơ ước lên đường thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng để thực hiện lên đường lại không dễ. Những hạnh phúc đẹp chỉ dành cho những tâm hồn dám lên đường tìm kiếm. Muốn nhìn vũ trụ mênh mông phải giã từ mặt đất, cất cánh theo chim trời. Nếu con sâu cứ lặng lẽ sống dưới măt đất với loài trùng, thì nó chẳng có lý do để oán trách sao cuộc đời chung quanh chỉ là mùi ẩm của đất, mùi mốc của cỏ. Nó phải hóa thân thành cánh bướm. Và, lúc đó người ta sẽ ngước mắt nhìn theo. Tất cả vũ trụ là của nó. "Trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi từ khi mới là thai nhi trong lòng mẹ" (Tv 51,7). Ðó là hình ảnh tôi sinh ra trong thân phận sâu. Sinh ra trong thân phận sâu, nhưng lại không để làm sâu, mà được kêu gọi hóa thân làm bướm. "Ta đã chọn các ngươi từ giữa thế gian" (Yn 15,19; 17,16).

* * *

Lên đường nào cũng có giã từ, vì thế mới có ngần ngại. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Những rung cảm bất chính đã ở trong dòng máu của tôi. Bây giờ tôi phải từ bỏ. Những liên hệ không ngay lành, nhưng cho tôi thú vui trần thế. Bây giờ tôi phải cắt đứt. Lười biếng là một thứ quyến dũ như bếp lửa trong chiều đông, nó giữ chân tôi lại. Bởi, lên đường là mở cửa đi ra, ngoài kia có gió lạnh làm tôi ngại ngùng. Muốn được người ngưỡng mộ, tôi tạo ra khuôn mặt đẹp mà tâm hồn tôi không có. Bây giờ, lên đường, nghĩa là tôi phải sống thật với tôi. Trở về chấp nhận khuôn mặt nghèo nàn của mình là điều tôi không muốn. Ðể người biết khuôn mặt thật của mình là điều tôi không dám. Bước tới để thay đổi tâm hồn là một giá tôi phải trả. Là một lên đường đòi nhiều can đảm.

Những biến cố thay đổi cuộc sống của một tâm hồn trong Phúc Âm đều là những biến cố lên đường. Chúa đã dùng những hình ảnh lên đường cụ thể, lên đường bằng đôi chân bước trên cát bụi để diễn tả cuộc lên đường nội tâm. "Ði dọc theo bờ biển Galilêa, Ngài thấy Simon và Anrê dang quăng chài dưới biển. Ðức Yêsu nói với họ: Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi là ngư phủ bắt người. Tức khắc, họ đã bỏ chài lưới mà theo Ngài. Ði xa một ít, Ngài thấy Yacôbê và Yoan em ông, cả hai đang vá lưới dưới đò. Ngài gọi họ. Và họ đã bỏ cha họ và những người làm công mà theo Ngài" (Mc 1,16-20). Phúc Âm thuật lại, sau khi theo Chúa rồi, nhiều lần Phêrô vẫn còn thả lưới. Như vậy, đáng lẽ Chúa phải bảo Phêrô mang lươí theo kẻo mai mốt lại tốn tiền mua lưới khác. Nhiều lần Chúa phải dùng thuyền mà đi. Sao Chúa không dặn Phêrô giữ lấy thuyền vì mai mốt cả Thầy trò vẫn còn cần tới.

Họ đã bỏ lại tất cả.

Họ đã bỏ lại tất cả, phải chăng lưới mà Yacôbê đang vá lưới của những toan tính thiếu niềm tin vào Chúa, là mạng nhện đam mê gắn liền với tâm hồn tôi như áo tôi mặc. Tôi chẳng muốn bỏ. Mỗi mũi kim vá là một lần tôi níu kéo, bám theo. Phải chăng thuyền của Phêrô là những nét xấu như một thứ quê hương tôi đang sống ở trong. Tôi đang an phận với quê hương ấy?

Lạy Cha, Simon và Anrê, Yacôbê và Yoan đã lên đường. Khi nghe Cha gọi, họ đã tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Không lưỡng lự. Dứt khoát. Hình ảnh của những cuộc lên đường đẹp quá. Lên đường của những kẻ muốn tung cánh trong tự do bát ngát như thập giá không chịu khuất phục sự chết. Lên đường của những bàn chân không biết mỏi khắp cánh đồng Galilêa. Lên đường không phân vân như mặt trời bình thản đẩy bóng tối lại đàng sau.

* * *

Lạy Cha, nếu không lên đường, chắc hẳn Phêrô chẳng gặp Cha, đã không được Cha huấn luyện và tâm hồn Phêrô đã nghèo nàn lắm. Trong cuộc sống của con, Cha đã gọi. Con cũng đã lên đường, nhưng con không can đảm như Anrê, như Yacôbê. Lưới đời của con dầy mắt, những mắt lưới mà con nghĩ là sẽ bắt được nhiều cá: cá bằng cấp, cá danh vọng, cá sắc đẹp, cá giàu có, cá tình yêu. Mỗi lần bắt hụt vì lưới bị rách là con lại cặm cụi ngồi vá. Có bao giờ con đã quá chú ý cúi mặt vá lưới đến nỗi Cha đi qua, Cha gọi mà con chẳng nghe gì?


30. LINH MỤC

Người ta có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không nhà nào có thể thiếu thùng rác. Nó chẳng có gì đẹp, nhưng lại cần thiết biết bao!

Rác càng nhiều càng cần thùng rác. Rác càng dơ càng cần thùng rác tốt. Chỗ nào cũng có rác. Nơi nào thiếu thùng rác, nơi đó dơ. Một ngày không có thùng rác, nhà bếp của tôi sẽ ra sao. Rác gây mùi tanh tưởi, rác đem ruồi nhặng bu tới, rác sinh dòi bọ, rác đưa bệnh tật về. Rác làm dơ bẩn cuộc đời.

Lời nguyện linh mục

Có nhiều hình ảnh nói về thiên chức linh mục. Nhưng nếu gọi Chúa là Ðấng gánh tội trần gian thì hình ảnh thùng rác cũng là một hình ảnh có thể diễn tả thiên chức linh mục của Chúa. Tội lỗi là rác rưởi. Mà linh mục, nơi tòa giải tội, con nhận biết bao nhiêu thứ rác.

Lạy Chúa, nhà ai cũng cần thùng rác, thế hệ nào cũng vậy, nhưng không có ai đặt thùng rác ở chỗ trang trọng. Người ta dấu kín nó. Nó phải lặng lẽ chiếm một vị trí khiêm tốn trong căn phòng. Cái ẩn dật của nó không làm nó mất giá trị, trái lại nó càng dễ giấu kín bao nhiêu thì nó lại càng là thùng rác có giá trị bấy nhiêu. Nếu ngày nào dựa nào sự cần thiết của mình để đòi hỏi một chỗ đứng trang trọng thì nó trở thành một thứ rác làm dơ căn phòng. Nó phải biết vị trí của mình.

* * *

Giá trị của thùng rác là có thể chứa được rác. Ngày nào thùng rác hư thì người ta sẽ sa thải nó như một thứ rác. Chúa đã căn dặn con: "Nếu muối ra lạt thì lấy gì ướp nó mặn lại? Không còn ích gì, chỉ còn đổ ra ngoài cho người ta dẵm đạp mà thôi" (Mc. 5: 13). Ðôi khi nghĩ đến điều ấy mà con ngại ngùng.

* * *

Cái siêu bạo của thùng rác là chứa rác nhưng không để đời mình thành rác. Ðiều ấy khó lắm Chúa ạ. Ngày ngày người ta thẩy biết bao nhiêu thứ rác vào, nó phải ôm chịu, nhưng không được phép để cho đời mình lây rác. Nơi tòa giải tội, hàng ngày, hàng chiều con nhận biết bao nhiêu thứ rác của cuộc sống. Có những hoàn cảnh đáng thương làm con cũng muốn oán than cuộc đời. Có những chiến đấu mệt mỏi làm con như cũng mệt mỏi lây. Chúa bảo con tiếp tục làm thùng rác nhưng lại nghiêm trị cảnh giác con không được để mình bén rác.

* * *

Con đã thấy những thùng rác bỏ ngang đời mình, có thể vì chính họ tự ý, hoặc có thể vì đã bị cuộc đời chối bỏ. Những thùng rác không còn chứa rác được nữa thì sẽ bị loại đi như những cành cây khô gẫy. Làm sao sống với rác mà không để nhiễm lạnh của rác. Ðiều ấy, con phải cẩn thận biết bao nhiêu.

* * *

Lạy Chúa, vì tiếp cận với rác nên thùng rác cần được thanh tẩy. Nó chỉ là nơi nhận rác thôi chứ không thể giữ rác. Nếu nó không được thanh tẩy, dần dà rác sẽ biến nó thành rác. Có những thứ rác sẽ bám vào thùng rác, sẽ giữ con lại cũng như những liên hệ trong cuộc sống của con. Trong những rác rưởi ấy biết đâu chẳng có những đồng tiền han rỉ mà con ham thích, biết đâu chẳng có những liên hệ tình cảm mà con thầm mong. Thùng rác, nó cần người đổ rác biết bao. Con cần tâm sự với Chúa. Con phải đem trút đổ vào Chúa mỗi khi chiều về hoàng hôn tắt nắng. Khi cửa nhà thờ khép lại, không gian chìm vào yên tĩnh cô mặc là lúc con phải tâm sự nhiều hơn với Chúa.

Người đổ rác thường đi vào những giờ còn vắng vẻ. Xin cho con biết yêu mến sự thinh lặng. Có khi tối trời còn ngái ngủ, có khi đêm về muộn không muốn thức là lúc người đổ rác trút bỏ rác nặng cả một ngày. Con cần những giây phút tĩnh mịch hồi tâm với Chúa. Ngoài sự thinh lặng con khó mà gặp được Chúa, nhất là trong xã hội hôm nay với bao nhiêu tiếng gọi ồn ào, những tiếng gọi như bao trùm nhiều vẻ đẹp, nào là văn hóa, nào là chính trị, nào là nghệ thuật, nào là cứu trợ, nào là hòa bình....

* * *

Người ta quý những thùng rác tốt vì người ta cần nó. Khi người ta khó chịu là dấu chỉ thùng rác đã không trút đổ hết rác. Những dấu chỉ ấy con phải tinh tế để nhận ra. Con cần tâm sự với Chúa biết bao, xin chỉ bảo con.

* * *

Con xin Chúa băng bó những vết thương của con như người hốt rác chữa lành những sứt mẻ của thùng rác. Những giờ chầu bên Mình Thánh Chúa, những lúc tối trời bên Nhà Tạm yên tịnh của Cha là lúc Cha muốn gặp con.

* * *

Thùng rác cần người đổ rác thì người đổ rác cũng cần thùng rác lắm chứ. Con cứ nghĩ nếu không có thùng rác thì người đổ rác vất vả lắm. Ðiều đó cũng có nghĩa là người đổ rác sẽ gìn giữ thùng rác lành lặn, săn sóc nó. Con tin rằng Chúa thương con, thương những cuộc đời linh mục, vì là kẻ đồng hành với Chúa mà. Chẳng thế sao Chúa đã gọi con: "Hãy theo Ta" (Mc. 1: 17). Mỗi sáng người đổ rác tới thăm, nhìn xem thùng rác còn lành lặn không, đấy là niềm an ủi của con.

Nếu có những rác độc làm con sây sứt, xin Chúa chữa lành con. Cứ nghĩ đến mảnh đời hiu quạnh khi thùng rác không còn dùng vào việc gì được nữa, khi rác đã biến nó thành rác rồi người ta liệng đi, con thấy chua xót.

* * *

Thánh Phaolô đã có những băn khoăn về yếu đuối của mình, con cũng muốn lấy lời cầu nguyện của Ngài làm của con: "Ðã ba lần tôi nài xin Chúa cất đi. Nhưng Chúa đã Phán bảo tôi: Ơn của Ta đủ cho ngươi. Vì chưng quyền năng chỉ biểu hiện trong yếu đuối" (2 Cor. 12: 8-9). Dựa vào lòng thương xót của Chúa mà con chấp nhận ơn gọi. Trong âu lo con phó thác đời con, vì con biết Cha thương con.

* * *

Những hình ảnh đẹp vẽ về một chân trời, những lời ca viết về một chuyện tình sử, những lời thơ dệt một mơ ước, con không thấy hình ảnh nào đẹp như thùng rác. Ðẹp, vì ở nơi nó, tầm thường mà dũng cảm. An ủi làm sao khi người đổ rác cúi xuống nói với thùng rác: "Ta không chọn những con đường đẹp, Ta sẽ làm đẹp tất cả nơi nào Ta đi tới." Chúa cũng muốn con đừng tìm kiếm để đi trên những quãng đời có cỏ hoa nhưng làm nở hoa bất cứ nơi nào con đi tới.

Con có một mơ ước, lạy Chúa, con xin gởi ước mơ là linh mục đời đời đó nơi Chúa, hãy dìu con. Amen.


31. LỜI CỦA CHIẾC DÂY THỪNG

Tôi là chiếc dây thừng.

Tôi thắt cổ Giuđa. Tôi nghe rõ tiếng khò khè nơi cuống họng nhân vật này.

Nhớ lại đi, ngày Ðức Kitô vào đền thờ Jêrusalem, tôi cũng là chiếc dây thừng.

Ngài lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ. Tôi nghe rõ những gì xảy ra ở đền thờ ngày hôm đó. Chuyện không đơn giản như nhiều người nghĩ.

Mọi người cứ nghĩ như thế là xong, cứ nghĩ Ðức Kitô ra khỏi đền thờ là xong. Ai là người buôn bán trong đền thờ? Còn ai nữa, nếu không được phép của các thầy tư tế. Ai lọt được vào đền thờ, nếu không có thế lực bảo chứng? Còn chỗ nào kiếm tiền tốt nhất trong những ngày đại lễ, nếu không là đền thờ?

Tiền bạc là thế lực âm thầm mà cuồn cuộn như dòng sông. Tôi là chiếc dây thừng trong ngày đó. Tôi nghe rõ những gì xảy ra:

- Nhóm tư tế ít thế lực ghen tức với nhóm thày cả có đông tín đồ.

- Nhóm tư tế quyên tiền gây quỹ được ít, nói xấu nhóm đổi tiền.

- Các tiền tiêu ngoài chợ phải đổi thành tiền riêng mới được bỏ vào hòm thánh. Vì thế, nhóm đổi tiền cho công việc của mình mới là chính đáng.

- Nhóm bán chiên cừu tố cáo nhóm đổi tiền là giả hình.

- Nhóm tư tế phục vụ bàn thánh bất mãn vì đền thánh chỉ là đền thánh, gây chiến với nhóm chủ trương phải kinh tài.

- Nhóm nào cũng cho mình mới là đáng tin, họ cạnh tranh nhau.

- Nhóm tín đồ từ vùng Galilê chủ trương vai trò ngôn sứ là công bố Lời Thánh, tư tế phải trở về bục giảng. Tín đồ chống đối tư tế.

Giữa lúc xôi đậu như thế Ðức Kitô xuất hiện.

Ngài chẳng thuộc nhóm nào.

Vì không thuộc nhóm nào nên càng dễ chết.

* * *

Tôi là chiếc dây thừng.

Tôi nghe nhiều bí mật của cuộc đời. Tôi theo những người nghèo không có tiền. Họ dắt con bê từ mấy mùa mưa nắng, cắt cỏ chăn nuôi. Họ vất vả kiếm nước cho nó uống dọc đường dài. Nắng sa mạc hiếm cỏ. Những của lễ như thế, quý lắm. Tôi là chiếc dây thừng, tôi biết rõ lắm về lòng chân thành. Họ nuôi chúng cả năm trời.

Tôi cũng là chiếc dây thừng người ta vừa mua tôi về cột vào con bê bệnh. Rất nhiều con vật bệnh hoạn, họ mua về tắm rửa, đem vào đền thờ bán vội cho những người lười không muốn vất vả dắt chiên theo đường dài. Nhiều kẻ hành hương mua lầm của lễ. Họ dâng hiến Giavê những chiên cừu bệnh hoạn. Trong đền thờ ngày đó, đủ thứ của lễ, trong sạch có, què quặt có, lười biếng có, thánh thiện có.

Tôi là chiếc dây thừng, tôi biết rõ về của lễ. Những ai múc nước, đem cỏ, dắt của lễ theo thì biết rõ của lễ của mình trong sạch. Còn những người đến đền thờ mới mua, ôi, nhiều của lễ quá bệnh hoạn. Làm thân dây thừng, tôi khám phá nhiều chân lý về cuộc đời và của lễ. Tôi thấy rất nhiều của lễ được bao bọc bằng lòng lười biếng. Những của lễ trong sạch bao giờ cũng phải trả một giá về sự thanh tẩy, lòng cố gắng và nhiệt thành.

* * *

Không phải Ðức Kitô vào đền thờ đơn giản đâu. Ngài cũng thấy quyết định này có thể đưa Ngài đến cái chết. Quả thật, sau này, cái chết của Ngài đã chứng minh điều đó. Cái chiều nắng quái kinh hồn đó, lũ người này có mặt trên đường Núi Sọ. Làm sao mà họ không reo mừng, nhớ lại cái ngày bị đuổi khỏi đền thờ, mất chỗ làm ăn.

- Thưa Thầy, chuyện Thầy tính làm nguy hiểm quá.

Phêrô, người môn đệ thân cận lại can ngăn Thầy mình như mọi khi.

- Thưa Thầy, con đã thăm dò tình hình. Có cả một ủy ban gây quỹ. Bao nhiêu năm nay, truyền thống này như lời kinh rồi.

Những ngọn ô liu không gió, đứng im lặng, không thản nhiên vô tư, nhưng chúng cũng không biết phải phản ứng thế nào. Thỉnh thoảng dăm ba chiếc lá già lìa đời. Một chút xào xạc bước chân con chồn nhỏ chạy qua. Ðức Kitô nhìn người môn đệ thân cận. Không trả lời. Trong tâm tư Ðức Kitô cũng biết, đó là sự thật. Người môn đệ này thương mình. Ðã qua mấy đêm rồi, Thầy trò nói với nhau về đền thờ.

Ðức Kitô hỏi người môn đệ:

- Bây giờ phải làm sao?

Người môn đệ ấy trả lời:

- Thưa Thầy, cứ kệ họ.

Ðức Kitô nói tiếp:

- Nhưng đây là đền thờ.

Người môn đệ đáp trả:

- Mình cứ lên đền thờ tế lễ theo luật là đủ rồi.

Ðức Kitô không nói gì thêm, nhìn bầu trời đêm không ánh sao. Những tàng ôliu không gió phẳng lì như những tấm chiếu dán trên khung trời. Phêrô tựa lưng, ngả đầu vào thân già của cây ôliu đã gẫy, cũng thinh lặng.

Tôi là chiếc dây thừng trong ngày kinh hoàng đó. Lúc Ðức Kitô cầm tôi quật xuống chiếc bàn của thầy tư tế đang đổi tiền, không ai ngờ, họ hét lên. Toàn thể kinh hoàng. Họ không thể ngờ, có người điên mới dám hành động như vậy. Nhưng điên làm sao được, họ biết rõ người này là ai.

Họ không tin sự việc có thể xảy ra. Nơi này, người ta đã được phép buôn bán từ xa xưa rồi. Ai là người dám thay đổi cục diện. Nhưng Đức Kitô nói:

"Ðừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Khi Người lật nhào bàn ghế, đổ tung hòm tiền thì người ta biết đây không phải chuyện nói cho qua.

Các kẻ thuê đất, các hội trưởng nhốn nháo chạy báo tin cho các thầy thượng phẩm. Không phải họ xách bàn chạy dễ dàng đâu. Tôi là chiếc dây thừng. Tôi bị bọn họ chặt tôi đứt nhiều khúc. Thân tôi bị giật xé cũng đau đớn tan tác.

- Giết nó đi. Ðóng đinh nó đi.

Tiếng kèn báo động như tù và rú trên tháp canh. Ðám đông xúm lại hét to:

- Ai cho ông có quyền làm như thế?

Họ không dám đến gần Ðức Kitô. Tôi là chiếc dây thừng trong tay Ngài. Họ nhìn tôi chằm chằm.

* * *

Làm thân dây thừng, tôi ở trong tay Chúa, cũng như thắt cổ Giuđa. Tôi dắt những con chiên trong sạch từ vườn nhà, vượt qua đồi, qua suối lên đền thờ. Tôi cũng bị người ta mua vội thắt vào cổ con bê bệnh hoạn bán cho nhau làm của lễ. Họ lấy của lễ lừa dối nhau, họ lầm lẫn về của dâng cúng. Tôi nghe những tay lưu manh đứng rình mò trong đền thờ. Tôi nghe bày thú tranh nhau ăn, cắn nhau đổ máu dính lên người tôi. Chúng là tiếng sủa thương đau của nhiều loài thú khác nhau. Những vết máu dính lên người tôi cũng chẳng khác gì những vết thương mà con người mang trong hồn do chính họ tạo nên bởi đam mê tội lụy. Nơi nào có súc vật mà không có mùi hôi. Vậy mà tôi thấy những con buôn ngồi thản nhiên hít thở hàng ngày. Tôi thấy không biết bao nhiêu ý nghĩ về con đường lên đền thờ.

Khi thầy tư tế bán của lễ thì thiên thần đứng khóc.

Khi tín đồ mua của lễ thì quỷ dữ đứng cười.

Khi linh hồn không được thanh tẩy thì của lễ là lười biếng.

Khi của lễ thành buôn bán thì tình nghĩa anh em, bạn hữu chỉ là tính toán.

Khi tâm hồn không siêu thoát thì của lễ thành cạnh tranh.

Khi của lễ là đơn vị kinh tế thì lòng thật thà thành rình mò.

Khi lười biếng che đậy thì của lễ thành trình diễn.

Làm thân dây thừng tôi mới hiểu hơn về con đường tu đức thiêng liêng. Tôi chỉ kể chuyện đời tôi hai nghìn năm trước. Hai nghìn năm trước, kể chuyện đời mình cho hai nghìn năm sau. Thời gian nào cũng có những của lễ, có những chiếc dây thừng.

Chuyện đời tôi hai nghìn năm trước đã qua. Tháng ngày còn lại, tâm sự tôi đang dang dở. Hôm nay, tôi cũng vẫn là chiếc dây thừng. Nhưng Ðức Kitô không có mặt ở đây, nên tôi không rõ có gì đang xảy ra ở đền thờ không.

(Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)


32. LỜI CỦA DÒNG SÔNG

Cũng có lúc dòng sông cạn nhưng chẳng vì thế mà dòng sông lo âu, rồi toan tính tích lũy nước cho mình. Từ quá khứ, xuôi nguồn vào tương lai, nước làm thành dòng sông chứ không phải dòng sông làm nên nước. Từ ý nghĩ đó, dòng sông vào đời tự do theo ơn gọi của mình.

Đặt cuộc đời trước dòng sông. Ta xin dòng sông cho cuộc đời một lần nhìn rõ mặt mình trong ý nghĩ ấy.

Vào mùa nước lũ, dòng sông cuồn cuộn đưa nước xuôi đồng bằng. Mênh mông chân trời khi bình minh rải ánh sáng. Lấp lánh rừng bạc vào mùa trăng thượng tuần huyền ảo. Thế nhưng, tháng hạ nắng hanh, dòng sông vơi dần. Nước cạn cho phơi bờ cát lở. Trong cuộc đời, có những khúc sông mà ngày tháng sóng nước chơi vơi. Cũng trong cuộc đời, không vắng những mùa khô cạn nước. Cuộc sống của ai cũng vậy thôi, hễ có ngày sai mùa trái chín, thì cũng có những ngày khô khan lá rơi. Có những mảnh đời nghèo khó và cũng có những khúc đường đầy đủ. Lúc vơi bờ cát lở là khi túng thiếu đưa mùa gian nan chín tới, là lúc buồn bã gọi lòng trống trải đi về.

— Xin Thượng Đế cho con hiểu rằng nếu dòng sông vì âu lo mùa nắng mà dừng lại tích nước mùa mưa thì dòng sông hết là dòng sông mất rồi. Nó chỉ là dòng sông khi chảy xuôi nguồn. Ngày nào con băn khoăn bắt dòng sông cuộc đời ngưng trôi chảy trong hồn, ngày đó cuộc đời thành ao tù. Buồn làm sao những mảnh đời ứ đọng, không còn niềm vui xuôi nguồn nhân gian. Dòng sông trở nên hoang vu trong cái ứ đầy của mình. Xin Thượng Đế cho con biết nhận thì cũng biết cho đi. Chính lúc nghèo túng là lúc con biết rõ tâm hồn mình có độ lượng, bao dung hay không.

Dòng sông không gian tham. Nó biết nó chỉ là dòng sông khi trời cho nước. Nó không băn khoăn vào mùa nắng hạn. Nó chẳng tự phụ khi dòng nước dâng. Nước làm nên dòng sông. Biết mình tùy thuộc vào dòng nước, con sông bình an xuôi dọc thời gian. Như nước đưa dòng sông thành nguồn, ơn sủng trời cao đưa con người vào đời. Dòng sông không bao giờ gian tham lấy nước của dòng sông khác. Nó dâng vui khi nước nguồn đổ tới. Nó thong thả khi nguồn nước nghỉ ngơi. Nếu con người biết những gì mình có trong đời là do ơn sủng trời cao, như dòng sông biết nước đưa mình vào đời chứ không phải tự mình, thì con người sẽ nhận sự sống từ trời bằng bàn tay an nhiên. Con người phải vào đời bình an như dòng sông, không so sánh nhỏ nhen, ghen tức.

— Xin Thượng Đế cho con biết con tùy thuộc vào Ngài, con sống bởi ơn sủng của Ngài. Khi con hiểu ơn sủng Ngài đưa con vào đời như nước làm thành dòng sông thì con hiểu tình yêu là sức mạnh chứ không phải lấy sức mạnh tạo dựng tình yêu. Vì ngỡ sức mạnh tạo dựng giá trị nên con mới tích lũy để chiếm đoạt. Có những tích lũy bằng uy thế, bằng sắc đẹp, bằng địa vị, bằng đam mê. Giá trị đời con là sống như dòng sông, xuôi nguồn mùa nước lớn, thong thả mùa nước khô. Bởi, con biết giá trị cuộc sống là sống trọn ơn gọi trong hoàn cảnh Ngài ban tặng riêng con.

Dòng sông không ngừng lại nên sự sống của dòng sông chính là từ giã không ngừng. Cuộc đời cũng thế thôi, là trôi chảy. Nhưng con người không chấp nhận biệt ly. Bởi đó, sự bám giữ của con người đã đưa dòng sông cuộc đời mình thành sóng đổ. Một ngày nào rồi cũng giã từ tuổi thơ vào đời. Bờ đê nhỏ. Mái nhà xưa. Rồi cũng bỏ đi xa. Cho dù tuổi thơ có là êm đềm. Rồi lớn lên ta cũng buông cánh theo gió mà ra khơi. Cứ như thế cho đến ngày ta gặp gỡ tình yêu đầu đời. Thoáng hương có mật ong say, có hơi thở ấm. Rồi cũng đến ngày hơi thở thì dài và mật ong thì phai. Sống là chấp nhận chia ly không ngừng. Ngày nào ta bám víu lại không cho dòng sông chảy xuôi là ngày hồn ta quằn quại.

— Xin Thượng Đế cho con đừng bị ràng buộc vào những bờ đất. Bởi dòng sông phải buông bờ mà đi. Ngày nào dòng nước dừng lại, lưu luyến một bến bờ nào đó, nó chỉ tàn phá nhau thôi. Nước thành sóng và bờ tan hoang. Chẳng nói chi vật chất, ngay cả những giá trị tinh thần như tình yêu, tình bạn, lòng nhiệt thành, con cũng phải buông cánh cho trôi theo dòng đời. Những giá trị ấy không phải là cùng đích của cuộc sống, nó phải dẫn con đến cuộc sống cùng đích sau cùng là gặp Chúa. Vì thế, con phải biết lúc nào buông cánh để đời nhẹ nhàng xuôi dòng.

Dòng sông luân chuyển không bao giờ ngừng nghỉ, nhưng có ngày chấm dứt. Đó là ngày dòng sông về tới biển cả. Nó xuôi nguồn để tới cùng đích. Nó luôn luôn chảy, luôn luôn giã từ để tới nơi không còn từ giã. Và cuộc đời cũng thế thôi. Ta vào đời là xuôi dòng về với trùng khơi. Bởi đó, ta phải chấp nhận sự chết như một chờ mong. Bất cứ ràng buộc nào cũng gây khổ đau vì nó dồn sóng lại trên đường mà đáng lẽ phải là êm ả buông rơi. Chết như một định luật tất yếu thì bám víu vào bờ cát trên dòng sông cuộc đời chỉ là cấu chặt vào một hư vô. Người yêu cũng là từ giã. Những thành quách ta xây cũng là giã từ. Bởi đó, như dòng sông ta phải sẵn lòng nói lời ly biệt.

— Xin Thượng Đế cho con can đảm nhìn cuộc đời bao dung để con bao dung với chính mình. Nếu con không bao dung với đời, lòng thèm muốn bảo con giữ chặt lại cho mình, của cải, quyền bính, danh vọng thì con chẳng bao dung với chính mình đâu. Con mất tự do mất rồi.

Dòng sông tự nó là chia ly đôi bờ. Những tình yêu phải xa nhau đã chẳng có tiếng thở dài về dòng sông đó sao. Ôi! những dòng sông xa cách! Như dòng sông tự nó là chia ly, là trắc trở, con người cũng thế, ai cũng là gai nhọn cho nhau. Tự mình ai cũng là nghịch cảnh cho nhau. Bởi trong ta, ai không yếu đuối? Dòng nước làm chia ly, nhưng bên bờ sông cũng có những bến hẹn, bến mong cho con đò một chiều có nhau. Chia ly đôi bờ đã có những gặp gỡ. Cuộc đời cũng vậy thôi.

— Xin Thượng Đế cho đời con là bến hẹn cho người hội ngộ để dòng sông nhìn hạnh phúc gặp nhau trên bến đê. Người ta nhớ về những bến sông có kỷ niệm ngọt ngào. Tự con có thể là nghịch cảnh ngăn cách người với người, nhưng như bờ sông, tự con cũng có thể là bến hẹn hòa giải gặp gỡ. Như dòng sông hương hoa biết bao khi nghe tình yêu đi trên bờ đê của mình, thì đời con cũng thế thôi, cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi là bến cho niềm vui của thế nhân đỗ chân.

Khi dòng sông có cây cầu nối xa về gần thì bến sông có tình yêu về trên lối cỏ. Khi cây cầu đưa vắng mặt về xum họp thì bến sông có kỷ niệm hương hoa. Đời người cũng thế thôi. Và cây cầu ấy chính là Thượng Đế. Xin dòng sông dạy tôi biết không có cây cầu Thượng Đế thì đời tôi có thể là chia ly cách biệt người với người. Nhưng có Ngài, ôi! dòng sông đời sống sẽ đẹp biết bao.

Dòng sông đời ai có bến đỗ đem kỷ niệm êm đềm cho người khác, thì bến đỗ ấy cũng được ban tặng lại hạnh phúc do kỷ niệm êm đềm kia để lại. Vì khi hạnh phúc đậu trên bờ sông nào thì dấu thơm hạnh phúc ấy cũng lưu lại với chính bờ sông đó nữa.


33. LỐI ĐI CỦA CON KIẾN

Một đàn kiến đông đảo vô cùng, không biết cơ man nào mà kể. Ấy thế mà chết cũng không biết bao nhiêu. Làm sao chúng bị chết? Trong đoàn kiến sống sót, có con kiến suốt đời u uẩn một mùa tang chế trong hồn nó. Ðoản bi ca ấy nó viết về sự sống đi bên cõi chết. Ðoản ca bắt đầu như thế này:


Phần một: Tiếng lòng u uẩn của con kiến

Tiếng kèn hối hả ban hành. Ðoàn đoàn, lũ lũ bước chân kiến chúng tôi réo gọi nhau lên đường. Một cuộc ra đi tìm đất sống mới. Dấp dáng biển đỏ và sa mạc, thấp thoáng mênh mông nắng đá trong ngày con cái Maisen tìm về đất hứa, chúng tôi cũng vậy. Cuộc ra đi thật ý nghĩa làm sao.

Trên hành trình ấy, sống và chết dựa lưng nhau như đau khổ và hạnh phúc của những chuyện tình. Hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng có thể như con sóng xô bờ, bất chợt đến. Chúng tôi băng qua ghềnh đá cheo leo. Chúng tôi chìm xuống vực sâu hiểm nghèo. Ðêm và ngày đều tắm đẫm bằng thách đố gian nan. Nhưng trong tim, chúng tôi cố giữ cho nhau lời ca và tiếng nhạc. Chúng tôi thổi xuống chân mình gió của tiếng kèn mơ ước. Chúng tôi đẩy gót chân nhau bằng nốt nhạc kiên nhẫn. Vì thế, chân chúng tôi bớt mỏi, lòng chúng tôi bớt ủ ê.

Qua bờ lau, đá cuội, qua rừng gai gian khổ, chúng tôi thấy ý nghĩa một cuộc lên đường đẹp như thế nào. Hành trình đi tìm đất sống, ngàn ngàn, lớp lớp chúng tôi đi tới như rừng sao chuyển mình. Băng qua những vùng tối tăm của rừng gai, trèo lên những khe nứt của đá cheo leo, mù mịt, thế mà không ai trong chúng tôi chết cả. Càng gần thách đố, chúng tôi càng thêm dũng cảm. Càng qua tăm tối, chúng tôi càng giăng mình dưới nhẫn nại.

Cuộc đời có những không ngờ của nó. Có ai ngờ, chúng tôi không chết ở rừng sâu núi đá, chúng tôi bị chết trước cửa đền thờ! Ðền thờ là nơi nhân ái, bao dung, thánh thiện, thế mà là mồ chôn đời chúng tôi.

Ngày đó, chúng tôi bị nghiền nát, không biết cơ may nào mà kể. Cho đến bao giờ loài kiến chúng tôi mới biết những bí ẩn của đền thờ và sự chết ấy.

Tôi viết bài ca này như tiếng thơ băn khoăn của lòng để hỏi cuộc đời về những huyền bí của cửa đền thờ và sự chết ở đó. Chúng tôi băng mình qua gian truân, qua góc tối xó nhà, qua khe nứt tường vôi, qua cheo leo vách ván, qua ẩm mốc chân cột, chúng tôi không chết. Ấy thế mà, thấy bóng lời kinh, thấy hương đạo hạnh, chúng tôi lại chết tức tưởi, chết ngay lối vào giáo đường.

Ðền thờ là gì?

- Tiếng thầm thì u uẩn trong hồn tôi là: Có khi nào cõi thánh là nghĩa trang buồn?

- Có khi nào cổng đền thờ là lối ra mất tâm đạo?

Từ bài ca của tâm, tôi muốn gọi vào cõi đời để hỏi những vì sao trên trời, để hỏi những bóng tối dưới vực sâu, đâu là ranh giới huyền bí giữa sống và chết, vì sao sự chết đã nắm bắt chúng tôi giữa những bậc thềm vào cõi thánh?


Phần hai: Một lối đi, một con đường.

Hạnh phúc có lối ngã riêng. Ðường vào cõi chết có tên gọi khác. "Hãy vào cửa hẹp vì đường rộng sẽ dẫn đên hư vong." Bầy kiến đến bậc cửa đền thờ, ôi! những bờ đá mênh mông, êm như dòng sông không gợn sóng. Buồn làm sao! định mệnh của những con đường thênh thang. Chúng đâu ngờ con đường thênh thang ấy dẫn vào cõi chết. Nhìn con đường thênh thang, bầy kiến quên rằng mỗi người có một lối đi, mỗi lối đi có một con đường. Và, mỗi con đường dẫn đến một khung trời khác nhau: Sự sống hay cõi chết.

Nhìn thấy thềm đá vào đền thờ rộng mênh mông, phẳng phiu, cứ thế chúng tôi ùa lên mà đi. Cứ mỗi bước chân con người dẫm lên bậc thềm, hàng trăm nhà kiến chúng tôi bi nghiền nát. Nhìn bậc cửa đền thờ mênh mông, bầy kiến chúng tôi quên rằng con đường an toàn của kiến là bờ vách, là góc đá, không phải mặt phẳng của các bậc thềm, không phải con đường thênh thang.

Con kiến viết những tiếng lòng u uẩn trên đây là con kiến đã chọn cho mình một lối đi rất hẹp, nó không bước trên thềm đá rộng của các bậc tam cấp mà cứ men theo kẽ góc mà đi. Con kiến nào bò sát trong góc của bậc thềm là băng qua được sự chết. Người ta cứ bậc thềm rộng mà giẫm chân lên, nên không biết cơ man nào là kiến đã bị giết chết.

Cũng vậy thôi, con đường hẹp sẽ dẫn vào Nước Trời, còn con đường thênh thang sẽ dẫn tới hư vong.

***

Con kiến hỏi tại sao, giữa cửa vào đền thờ mà cũng có sự chết. Nó muốn hỏi bóng tối dưới vực sâu, tại sao lối vào cõi thánh mà có u buồn nghĩa trang. Tiếng băn khoăn cõi lòng của nó, cũng có thể là tiếng Chúa vọng lên một âm vang đã lặng lẽ trong hồn con người từ lâu.

Người ta có thể bước vào đền thờ mà lối ấy không dẫn đến cõi tâm của Ðạo.

Người ta có thể từ đền thờ bước ra mà tâm vẫn không có hồn đạo.

Bởi, con đường dẫn tới cõi tâm vẫn là con đường Chúa đã căn dặn: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối này" (Mt. 7:13-14).

Xa giới luật Chúa, thì có bước vào đền thờ vẫn là bước ngoài tâm đạo. Cái chật chội của con đường hẹp là đưa mình vào giới luật. Với con đường hẹp ấy thì đi đâu cũng gặp Ðạo, vì cõi tâm lúc ấy chính là Ðường rồi.

Cứ hỏi lòng mình chứ đừng nhìn bước chân mình đang ở đâu. Có thể trong đền thờ mà hồn Ðạo không có trong tâm. Có thể trong đền thờ mà tính toán chuyện không thánh. Con đường hẹp ở trong cõi lòng.

***

Lạy Chúa,

Không phải cứ bước vào đền thờ là tìm thấy Ðạo. Không phải cứ bước ra khỏi đền thờ là có Ðạo.

Qua tiếng u uẩn trong lòng con kiến nhỏ, phải chăng Chúa nhắc nhở con về sự chết nguy hiểm của đường rộng dễ dãi ngay trong đền thờ.

Chúa muốn con hồi tâm, muốn con nhìn lại lối sống hôm nay và vẽ lại cho mình một lối đi.


34. MẤY CÁI BÁNH NHỎ

Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem. Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời. Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương. Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng. Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.

Saigon cũng có những quán kem. Một lần về với những kỷ niệm cũ. Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên. Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương. Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời. Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng. Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ. Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống. Vai áo bạc vì mồ hôi. Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.

Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở. Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn? Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?

Tôi đã đi qua những quán kem tây phương. Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây. Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng. Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật. Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.

* * *

Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: "Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí" (Yn. 6:12).

Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa. Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng. Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.

"Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí". Chúa muốn nói gì với chúng ta về "mấy cái bánh và vài con cá nhỏ"trong tương quan giữa con người với nhau? Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn.

Có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ. Các ông đã nói với Chúa: "Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn" (Mt. 14:15). Ðó là thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: "Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn" (Mt. 14:16). Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc. Chính các con phải lo cho họ ăn!

* * *

Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:

- Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).

- Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).

- Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).

- Yoan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Yn. 6:7-8).

Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì "chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi". Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai. Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào. Họ bế tắc. Theo Phúc Âm Yoan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ dám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm. Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu giọn dẹp từ đâu. Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, "ngần ấy thì có thấm vào đâu". Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi. Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, "ngần ấy thì có thấm vào đâu". Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin. Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về. Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài. Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.

Khi Chúa giơ "năm chiếc bánh và hai con cá" lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ. Ðám đông ăn no và còn dư thừa. Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.

* * *

Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết? Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa. Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa? Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh.

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu. Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời. Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo. Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao. Ông hỏi cậu bé:

- Khi lớn con muốn làm gì?

- Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

- Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

- Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

- Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

- Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị. Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh penicillin. Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng. Rồi Fleming là bác sĩ. Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây. Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa. Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình. Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

* * *

"Chính các con hãy lo cho họ ăn". Chúa bảo các môn đệ vậy. Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối. Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là "năm cái bánh nhỏ và hai con cá". Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.

Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người. Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.

Những buổi chiều tây phương và những quán kem. Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi. Những buổi chiều đông phương và những quán kem. Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.

Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi "chỉ có năm cái bánh và hai con cá", Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai. Vấn đề không phải là "chỉ có năm cái bánh và hai con cá", nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.

Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.


35. MẸ THIÊN CHÚA

Anh Chị em thân mến,

Khi xa nhau, chúng ta hay đem hình của nhau ra xem. Cái truyền thống ở trại tỵ nạn là mỗi dịp lễ, ai cũng muốn chụp vài "pô" hình, gọi là để kỷ niệm. Chúng ta chụp hình gởi cho mẹ cha, cho bạn bè, cho người yêu. Hôm nay, mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, tôi sẽ không giảng, tôi muốn chúng ta cùng trở lại những tấm hình Mẹ Maria đã chụp năm xưa để chúng ta nhìn về những ngày ấy, khuôn mặt Mẹ thế nào.

Mẹ Maria có nhiều danh hiệu. Từ trong âm nhạc, thi hứng, văn chương, Mẹ được xưng tụng là bình minh. Mẹ như sao mai rạng. Mẹ như chính cửa thiên đàng. Danh hiệu nào của Mẹ cũng đẹp. Trong các danh hiệu của Mẹ, có một danh hiệu mà chúng ta mừng lễ hôm nay: Mẹ Thiên Chúa.

Với cảm hứng từ văn chương đã được kén chọn từ ý nghĩa sâu sắc của thần học, Mẹ có quá nhiều tên gọi. Tên của Mẹ như một vườn hoa mầu nhiệm rực rỡ các loại hoa. Giữa những lung linh rực rỡ ấy, tên gọi Mẹ Thiên Chúa, đối với tôi, là tên gọi mầu nhiệm nhất.

Thật ý nghĩa khi Giáo Hội đặt ngày kính Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm, ngày thứ nhất của một khởi đầu mới. Giáo Hội muốn đặt trong tay Mẹ Maria cái khởi đầu mới cho một chuỗi thời gian huyền nhiệm trong đời của mỗi người chúng ta.

Anh chị em thân mến, để thấy liên hệ giữa Mẹ và ơn cứu độ cho nhân loại, Anh chị em hãy lần rở những hình ảnh của Mẹ chúng ta trong cuốn album Phúc Âm.


1. Tấm ảnh Mẹ chụp ở Nazareth.

Hình ảnh đầu tiên Mẹ đem ơn cứu độ cho chúng ta là tấm ảnh thiên thần chụp cho Mẹ lúc Mẹ được Truyền Tin.

Lúc đó vào tháng Sáu. Sứ thần Grabiel được sai đến báo tin Cho Mẹ: "Hãy vui lên! Hỡi người đầy ơn Chúa". Lúc ấy, Mẹ là một thiếu nữ mới lớn. Một thiếu nữ chỉ mơ về một chân trời bình dị là được gọi là nữ tỳ của Thiên Chúa thôi. Người thiếu nữ ấy không mơ một quân vương làm chồng. Maria giản đơn trong lối sống, đơn sơ trong mộng ước mai sau. Bất chợt, sứ thần làm Mẹ bàng hoàng. Mẹ băn khoăn hỏi: "Lời chào này có nghĩa gì đây?"

- Maria, đừng sợ vì người đã được ơn sủng nơi Thiên Chúa. Nơi lòng dạ người sẽ thụ thai và sinh con trai, và người sẽ gọi tên Ngài là Yêsu (Lc. 1: 30-31).

Chúng ta hãy hình dung, làm sao Mẹ không bối rối, hoang mang. Chân trời của Mẹ là thế, một sáng dịu hiền bên khóm huệ trắng với lời kinh khiêm tốn, êm như một tơ trời. Mộng ước của Mẹ là thế, một chiều hoàng hôn êm ả, với lời kinh bé nhỏ thôi, chỉ xin được là nữ tì của Thiên Chúa. Trong âm thầm, trong im lặng, trong sương ngả chiều hôm, trong sáng mai hồng, chỉ là thế, mộng ước có bấy nhiêu. Giờ đây, như có tiếng nhạc rộn ràng của minh quân. Như khung trời miền quê Nazareth thôi êm ả, vang vang lời thông báo của vì vua quyền quý đi tìm Nữ Vương. Và Nữ Vương đó lại chính là Mẹ. Làm sao Mẹ không bàng hoàng trước tiếng nhạc, vó câu hối hả, điều mà Mẹ chẳng bao giờ ủ trong hồn giấc mơ.

* Maria, đừng sợ, Thánh Thần sẽ đến trên cô, bởi thế mà trẻ sắp sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa. Vì với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể (Lc. 1 :35).

Anh chị em thân mến,

Cái làm tôi ngạc nhiên là Mẹ Maria tin ngay lời của sứ thần. Mẹ chỉ thưa một lời rất ngắn: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền." (Lc. 1: 26-38). Tại sao một thụ tạo mà dám nhận làm Mẹ Thiên Chúa? Tôi không hiểu nổi, và tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi niềm tin hun hút đó, nó là sự phó thác vô lượng của Mẹ, ngoài tầm trí tôi.

Và, từ giây phút ấy, Mẹ đem ơn cứu độ cho tôi. Giữa thân phận tôi, định mệnh tôi, ơn cứu độ tôi và Mẹ Maria là một liên hệ nhiệm mầu. Giây phút lịch sử uy hùng nhất đã đến với tôi: Thiên Chúa Nhập Thể.

Thế mà, tấm ảnh thiên thần chụp cho Mẹ gắn trong những trang đầu cuốn album của thánh Luca lại rất lặng lẽ. Một ngôi nhà nhỏ miền quê Nazareth. Căn nhà đơn sơ không có rèm cửa thêu hoa. Có thể thoang thoảng loài hương của một nhánh oliu. Có thể thoang thoảng loài hương của một cành huệ trắng. Lúc đó, nhà của Mẹ thanh thịnh làm sao, không có ai, một mình Mẹ thôi. Rất vắng. Rất lặng lẽ. Nhưng mà, vắng là vắng rất êm. Lặng lẽ là lặng lẽ rất thơ. Cái êm của duyên tình thánh. Cái thơ của ân lộc trời.

Tuy nhiên, cho dù có là thơ, có là mơ, chúng ta cũng vẫn phải để ý đến khía cạnh nổi bật của tấm hình Mẹ là: Mẹ thích lặng lẽ. Mẹ yêu âm thầm.


2. Tấm ảnh Mẹ chụp ở Cana.

Rồi đời Mẹ cứ âm thầm, cứ vắng. Cho đến một ngày, ngày Mẹ can thiệp vào biến cố tiệc cưới Cana. Cái vinh quang của Mẹ là Con Mẹ, cũng là Thiên Chúa đã làm phép lạ đầu tiên vì lời nói của Mẹ. Nhưng trong cái vinh quang đó, tấm hình Mẹ chụp cũng vẫn phảng phất cái âm thầm cố điệu thủa xưa ở Nazareth. Chân dung Mẹ vẫn là nét mầu cố điệu của một thiếu nữ miền quê yêu lặng lẽ. Phúc Âm Thánh Yoan chụp ảnh Mẹ như sau: "Bởi hết rượu nên Mẹ Ðức Yêsu mới nói với Ngài: Họ không còn rượu nữa" (Yn. 2: 3).

Vì lời nói của Mẹ mà tiệc cưới tiếp tục những đêm hoa đăng. Vì lời nói của Mẹ mà tiệc cưới tiếp tục vui. Ðó là cái vinh quang của một người có thể dùng lời nói mà thay đổi ơn cứu độ. Nhưng cái vinh quang đó không phải là vinh quang uy quyền. Lời nói của Mẹ không là lời nói biểu lộ quyền uy. Nơi Mẹ, lời nói với Chúa Kitô là lời kinh. Cái vinh quang của Mẹ nơi tiệc cưới Cana là lòng khiêm tốn thưa với Thiên Chúa đến từ lòng xót thương của Mẹ đối với đôi tân hôn. Cũng như vinh quang của Mẹ được làm Mẹ Thiên Chúa ở buổi Truyền Tin là do lòng khiêm hạ của Mẹ đến từ sự vâng lời.

Các gia nhân giúp việc biết rõ Mẹ Maria căn dặn họ như thế nào. Nhưng khi nước biến thành rượu xong, không thấy các gia nhân nói chuyện gì với Mẹ. Các môn đệ thấy vinh quang của Ðức Kitô thì tin vào Ngài, chúng ta cũng không thấy các môn đệ nói gì với Mẹ (Jn. 2: 11). Sau khi Mẹ Maria dặn các gia nhân xong, chúng ta thấy hình bóng Mẹ chìm liền.

Sự hiện diện của Mẹ có thể làm thay đổi một kỷ niệm buồn của ngày cưới, chữa lành vết thương tâm hồn vì thiếu ơn sủng. Trong cái vinh quang của Mẹ, chúng ta vẫn thấy hình ảnh nơi Mẹ là thế. Rất lặng lẽ. Rất âm thầm.


3. Tấm ảnh Mẹ chụp ở Golgotha

Xem lại những tấm hình cũ, đã hai lần tôi thấy Mẹ tham dự vào ơn cứu độ của Chúa cho nhân loại:

Tấm ảnh đầu đời của Mẹ ở Nazareth. Ảnh chụp lúc Mẹ đem ơn cứu độ cho nhân loại bằng lời xin vâng, nhận Chúa xuống trần. Nhưng nhìn vào nét ảnh chụp của Luca, trong biến cố Truyền Tin, đó chỉ là liên hệ giữa Mẹ và Chúa, ngoài ra không có nhân vật thứ ba.

Tấm ảnh thứ hai ở Cana chụp rõ nét hơn. Ảnh chụp sự hiện diện của Mẹ lúc Chúa bắt đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng. Rõ nét ở chỗ là chính Mẹ đã can thiệp: "Họ hết rượu rồi" (Jn. 2:3). Mẹ là trung gian cho đôi tân hôn gặp ơn cứu độ của Chúa. Ở đây không chỉ là giữa Thiên Chúa và Mẹ như tấm ảnh chụp ở Nazareth mà là có nhân vật thứ ba.

Tấm ảnh cuối đời của Mẹ chụp ở núi sọ rất khác so với hai tấm kia. Trong tấm ảnh thứ ba này có cả chân dung của tôi nữa, rõ mồn một. Mẹ không còn chỉ là liên hệ mình Mẹ với Chúa như tấm hình thứ nhất. Mẹ không còn chỉ là trung gian giữa Chúa và nhân loại như ở tiệc cưới Cana nữa, nơi tấm hình thứ hai. Bây giờ, tôi là con của Mẹ. Tôi ở trong tay Mẹ. Này nhé, tấm ảnh ở chân thánh giá là đây:

- Ðức Yêsu nói với Mẹ: "Hỡi bà, này là con bà." Ðoạn lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con." Và từ giờ đó, môn đệ đã nhận lấy bà về nhà mình" (Jn. 19: 26-27).

Nhìn kỹ trong tấm hình Mẹ chụp bên đồi tử nạn, tôi thấy cái rực đỏ u ẩn trong hồn Mẹ. Cái bão tố quằn quại mang mầu tím thẫm của một người Mẹ thấy con mình chết. Cát bụi bên một chiều đổ nắng. Maria đứng đó. Tôi thấy ở nơi Mẹ, vẫn là một kỳ diệu nhiệm mầu. Mẹ mệt mỏi trong thân xác của một con người, nhưng Mẹ không xé nỗi đau thành lời. Mẹ vẫn là im lặng thôi. Ở nơi Mẹ, vẫn là cái cố điệu âm thầm của ngày Mẹ được Truyền Tin. Cái đau đớn trong bình an. Cái rực rỡ của niềm tin trong cơn bão bùng. Cái sóng đổ trong bình thản, vì: Lòng Mẹ có Chúa.

Giữa đất trời mênh mông, ơn cứu độ đã hoàn tất, ngày rung động đất trời. Nhưng chẳng ai hiểu cả, mình Mẹ thôi. Cũng như ngày Truyền Tin, ngày mà vũ trụ xôn xao, ngày mà tinh tú ngỡ ngàng hoang mang, vẫn chỉ mình Mẹ hiểu thôi. Bên đồi thánh giá, Mẹ thầm lặng, nhưng là cái thầm lặng uy hùng như kẻ đi giữa mặt trời, giang tay ngửa đời đón cả nhân loại vào vòng tay: "Này là con bà." Chiều tâm tư ấy, đau thương, nhưng trái tim Mẹ như bình minh rực rỡ cao sang của người chỉ một mình hiểu rõ thế nào là ân điển.

Tuy nhiên, cho dù có là uy hùng, có là cao sang, chúng ta cũng vẫn phải để ý đến khía cạnh nổi bật của tấm hình Mẹ, dưới chân thánh giá, Mẹ vẫn luôn luôn là: Rất lặng lẽ. Âm thầm.

* * *

Và từ giờ đó....

Thưa Mẹ, Ở tấm ảnh thứ ba này, nó lung linh kỳ diệu làm sao. Thánh Yoan nói rằng "từ giờ đó môn đệ nhận lấy bà về nhà mình." Ở lúc trước, Mẹ là trung gian cho con và Chúa. Nhưng bây giờ, lúc Chúa chết trên thập tự. Lúc Ngài sắp xa con, Ngài kéo mọi sự lên cùng Ngài. Con là con Mẹ, Mẹ là Mẹ con và Chúa Kitô là Anh em con. Tất cả quấn quýt trong hồn Mẹ bao la. Bởi thế, hôm nay, khi chúng con mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng con có thể sửa tên ngày lễ, thêm vào là Lễ Mẹ Thiên Chúa, cũng là lễ Mẹ của con.

Thưa Mẹ,

Vâng, con hiểu, từ giờ đó, giờ mà Chúa trối lại chúng con là con Mẹ, thì nơi nào con ra đi Mẹ cũng đi với con. Những chiều dài bóng đổ bên đời lữ hành. Những thao thức cho một quãng đời vô định. Những khổ đau của tháng ngày cháy nắng. Những tâm tư khắc khoải của mảnh đời tỵ nạn. Vâng, từ giờ đó, Mẹ ở bên con. Và con hiểu, Mẹ sẽ mãi mãi ở bên con.

* * *

Anh Chị em thân mến,

Trong thánh lễ này tôi chỉ trình bày những tấm ảnh Mẹ chụp qua diễn tiến theo thời gian, từ Truyền Tin đến Ðồi Tử Nạn, để Anh Chị em thấy mầu sắc đã từ từ, đậm nét như thế nào. Chân dung Mẹ trong tình mẫu tử săn sóc chúng ta đã đi từ xa xa như thuỷ triều nhẹ nhàng trong ngày Truyền Tin, đến dâng cao sóng đổ khi cuối đời tử nạn.

Chớ gì chúng ta hãy suy niệm tấm ảnh Mẹ chụp sau khi Chúa về trời, với Thánh Thần Chúa hiện xuống, Mẹ ở giữa các môn đệ tiên khởi để chúng ta thấy mầu sắc ảnh Mẹ còn rực rỡ như thế nào giữa lòng Giáo Hội, trong chương trình Mẹ đem ơn cứu độ cho chúng ta.

Niềm tin và lòng sốt mến của người Công Giáo đối với Mẹ Maria không phải là một lòng sốt mến dựa trên cảm xúc. Nhìn vào những tấm hình Mẹ chụp ở Nazareth, ở Cana, ở Golgotha, chúng ta thấy rõ niềm tin và lòng sốt mến này như một dòng suối thơm ngát hương Kinh Thánh. Bởi đến từ Kinh Thánh, vì thế lòng cậy trông đối với Mẹ và sự chở che của Mẹ đối với các con của Mẹ sẽ chảy dài trong Giáo Hội như một nền thần học căn bản, vĩnh cửu.

Ngày đầu năm, Lễ Mẹ Thiên Chúa 1.1.1993,

Palawan, Philippines.


36. MÙA XUÂN IM LẶNG TRONG ĐÔI GUỐC

Con cái đã quên, không còn ai nhớ đến đôi guốc mộc. Sau đám tang của mẹ, mấy người con gom quần áo của bà đốt hết. Riêng đôi guốc gỗ nằm nơi xó tường nên chả người con nào để ý. Mấy tháng, kể từ ngày bà nằm trên giường bệnh, đôi guốc lúc bị đá vào xó tường này, lúc bị đẩy sang góc tối kia, đến độ người nhà không còn để ý nó là đôi guốc của ai.

Từ ngày theo người mẹ đó về nhà, đôi guốc giã từ những tháng ngày thong thả, mơ mộng trên quầy hàng.

* * *

Thủa xưa, khách vào ra, ngắm nghía, nâng niu, chủ hàng chẳng bao giờ để đôi guốc bám bụi. Ðôi guốc chả phải làm gì, sống như thế thật nhàn hạ. Nhưng nếu nghĩ cho cùng, cũng không thiếu nhàm chán, chả có gì mới mẻ trong cuộc sống cả. Ðôi lúc, đôi guốc nghe như có hai tiếng nói thì thầm trong hồn nó. Một là bảo nó cứ nằm yên ở đây cho nhàn hạ, hai là bảo nó hãy bỏ đây xuống đời tìm cho cuộc sống một ý nghĩa.

- Chả nhẽ cứ tiếp tục là đôi guốc nằm trên quầy hàng như thế này mãi sao?

Nó không phải là đồ trang sức, không phải là bức tranh cho người ta ngắm. Có nhàn hạ, nhưng nằm mãi ở đây thế này nó bắt đầu thấy chán, càng ngày càng thấm thía những suy nghĩ về một cõi sống trên những nẻo đường của cuộc đời. Nhưng mỗi khi nhìn đôi guốc dưới chân các bà mẹ, nó lại nghe tiếng nói khác thì thầm: "Vất vả quá!" Có đôi guốc sứt mẻ. Có đôi guốc mòn xác xơ. Ðiều đó làm nó nghĩ ngợi.

Ðời là một chọn lựa. Cứ tiếp tục suốt đời giam mình ở đây hay bước xuống đường để ra đi đây đó? Sau cùng nó quyết định ra đi.

Một trưa xế nắng kia, có người thiếu phụ vào tìm mua đôi guốc. Chủ hàng đem nó ra giới thiệu. Nhìn dáng người thiếu phụ, đôi guốc biết người đàn bà ấy thật thà, nhưng thấy dáng bà có vẻ nghèo. Những người nghèo thường vất vả. Bước chân của người nghèo là bước chân khổ. Làm thân guốc cho một người nghèo vất vả lắm. Thật thà mà nghèo chắc cũng chả hạnh phúc. Cuộc sống bây giờ chẳng ai quý người nghèo. Càng suy nghĩ, đôi guốc càng lưỡng lự, cứ sợ người đàn bà ấy chọn mua mình.

Nó phân vân không biết có nên theo chân bà ta hay không. Ðời luôn là phải chọn lựa như thế. Vất vả, nghèo mà thật thà, đặc tính của người muốn mua nó có vậy thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Ðến lúc muốn ra đi, lại gặp phải người đàn bà nghèo thế này. Hay ta chờ một người đàn bà khác giàu có. Theo chân người giàu sẽ sung sướng hơn?"

Trong lúc nó phân vân, người đàn bà cầm đôi guốc ngắm nghía, cho xuống chân ướm thử. Một làn hương thơm huyền nhiệm toát ra từ đôi chân bụi đường. Ðôi guốc vô cùng kinh ngạc, làm sao điều ấy có thể xảy ra được. Nó đã được nhiều đôi chân đẹp ướm thử mà chưa bao giờ có hiện tượng lạ lùng như thế. Phải là đôi chân dịu dàng mới toát ra vị thanh tao được chứ. Ðôi chân trần của người đàn bà nhà quê mốc thếch. Làm sao đôi chân lấm lem lại có thể toát ra một hương nhân đức kỳ bí được. Nó không ngờ. Ðiều huyền diệu ấy, tiếng lương tâm đôi guốc bảo cho nó biết rõ là đến từ lòng thật thà, bao dung, vất vả hy sinh của người mẹ kia. Bấy giờ, nó hối hận vì quá vội nghi ngờ đánh giá khi nhìn sự nghèo khó bên ngoài. Lòng hối hận ấy làm nó bừng lên một ước ao mãnh liệt là được theo chân bà. Linh tính cho nó biết nơi dấu chân người mẹ này có một thế giới huyền diệu. Nhưng người mẹ băn khoăn đặt nó vào kệ gỗ vì bà không đủ tiền.

Ðôi guốc gỗ mím môi tiếc xót vì từng bị thử dưới bao đôi chân, chưa thấy bước chân nào kỳ lạ như bước chân của người mẹ này. Giữa lúc nó muốn theo chân người đàn bà để khám phá thế giới linh thiêng kỳ bí đó, bà lại không đủ tiền mua nó. Bà tần ngần đặt đôi guốc lại kệ gỗ.

Người chủ hàng chỉ bán rẻ những đôi guốc bị nứt thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Hay là ta đánh đổi đời mình thành đôi guốc nứt?" Nếy vậy, còn gì dáng vẻ, vì cả một đời sẽ mang dấu vết nứt đó. Ðôi guốc suy nghĩ quay quắt về một chuyến đi trong đời.

Người đàn bà lại cầm nó trên tay, tiếc vì không đủ tiền. Ðôi guốc giật mình nghĩ rằng đời không có nhiều cơ hội. Nếu bà không đủ tiền mua nó, bao giờ bà sẽ quay lại? Có thể sẽ không bao giờ. Nếu bà đặt nó trở lại quày hàng, biết đâu nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại bà? Nó lấy hết can đảm theo tiếng gọi thâm sâu của linh hồn, chấp nhận một thương đau cho khởi đầu một chân trời kỳ bí kia đang chờ đón. Nó quyết định chấp nhận đời mình thành đôi guốc nứt. Tức khắc, ngay khi quết định xong, nó nghe như trong linh thiêng có một trận chiến vô hình. Tiếng nói của Bóng Tối gục xuống. Tiếng nói của Ánh Sáng bừng lên. Cũng trong lúc ấy, như chiều cao thập giá đổ xuống, một vết thương xước ra, chạy dài toàn thân. Nó ngất lịm. Thế là nó thành một đôi guốc nứt.

Người đàn bà giơ lên nhìn kỹ. Bà ồ lên một tiếng thở nhẹ, vui mừng vì một khám phá:

- Ông chủ tiệm ơi, nhìn kỹ đi, đôi guốc có vết nứt đầy này.

Người chủ tiệm tiếc rẻ. Ngần ngừ, ông đành bán tống nó đi.

Lúc tỉnh dậy, đôi guốc đã về đến nhà người đàn bà. Bà xoa xoa vết nứt, tìm mũi đinh đóng lại. Một lần nữa, nó đau buốt thân mình. Nhưng trong mỗi nhát búa, nó thấy mùa xuân đang về trên những nhánh gai. Nó bắt đầu cảm thấy ý nghĩa của nước mắt và hạnh phúc. "Tôi sẽ theo chân bà ta đi đâu bây giờ?" Trời đang vào hạ hanh nắng hay cúc vàng nhuộm xuân. Nó hồi hộp tự hỏi.

Ngày hôm sau, ngay chuyến đi đầu tiên nó đã mệt rã rời. Trời xuống tối, bà vẫn chưa về đến nhà. Quẩy gánh nặng trên vai. Con đường cứ dài thăm thẳm, toàn thân mình đau ê ẩm. Ðường đất miền quê sỏi đá gồ ghề, ngay chân bà cũng trượt té trầy da huống chi đôi guốc. Nó bị nện xuống gập ghềnh. Như vậy mà đã từ bao lâu nay người mẹ này cứ bước chân không, nghĩ đến nỗi đau, nó thấy xót xa cho bà. Nhìn xuống nỗi đau của mình, nó muốn chia sẻ với bà nỗi đau kia. Lạ lùng quá, khi mới chợt có ý nghĩ ấy, nó thấy toàn thân nóng bừng, và trên nỗi đau nó thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh.

Qua một buổi chiều mà đôi guốc đã khám phá bao nhiêu bí mật đời sống dưới bàn chân một người mẹ:

- Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm có thể bay ngược chiều gió.

- Chịu đựng bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng.

- Gánh nặng vì tình yêu luôn luôn đi đôi với sức mạnh.

- Thật thà là mật ngọt nuôi dưỡng bình an.

- Nhẫn nại là những đường may nối dài tình thương.

Quá mệt, đôi guốc ngủ thiêm thiếp lúc nào không hay. Lúc ướt lạnh, nó co người rùng mình thì người mẹ đã đang ở bờ giếng kéo nước đổ vào nồi cám nấu cho heo. Ðôi guốc bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng. Chung quanh chỉ là đêm tối lần mò. Nó lắng nghe bước chân. Người mẹ hết quanh quẩn trong góc bếp lại ra cầu ao. Khuya thế này rồi sao bà không nghỉ ngơi? Ðôi guốc mệt đừ.

* * *

Thời gian thấm thoát thoi đưa. Thoát chốc đã đến ngày đôi guốc mòn quá rồi. Bây giờ nó không còn là hình dạng đôi guốc ngày xưa trong cửa hàng nữa. Xấu xí, lem luốc, nứt nẻ. Nhìn lại quãng đời, đôi guốc không thể biết được nó đã bước bao nhiêu đường dài. Nếu mỗi ngày bà mẹ quẩy gánh 10 cây số, thì 365 ngày một năm, đã trên 3 ngàn cây số rồi. Trời ơi! Ðôi guốc không ngờ nó đã đồng hành với bà trên một dặm đường dài hơn cả đất nước của người đàn bà như thế.

Ðôi guốc không hiểu sao nó có sức chịu đựng trung thành theo chân bà. Nó còn nhớ ngày xưa nằm trên quầy tủ cửa hàng, mới chỉ nghĩ đến ra đi đã ngao ngán quá rồi. Vậy đâu là sức mạnh? Gần đến cuối đời, đôi guốc nhìn lại những bến bờ đã đi qua, nó thấy cộng lại những cây số ngàn ấy, không bước chân nào của bà mẹ không có tình thương. Từ sớm tinh mơ đến tan chợ chiều, bà vất vả cũng vì các con mà thôi. Từ đó, đôi guốc khám phá ra khi nó được chia sẻ đời nó trong tình yêu, tình yêu cho nó sức mạnh. Bất cứ nơi nào có tình yêu thì có sức sống. Bất cứ gỗ đá nào chạm vào tình yêu cũng thành trái tim mềm mại thiết tha. Và nó hiểu, nó không đi tìm mùa xuân vì chính nó đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.

* * *

Thưa mẹ, con còn nhớ một đêm kia, khuya quá khuya, mẹ ngồi bên con, nhìn con trong cơn sốt. Làm sao mẹ có đôi đũa thần của bà tiên quyền phép làm cho con hết cơn đau. Mẹ cứ ngồi bên con vậy thôi. Mẹ không an lòng rời xa con. Me đặt tay lên trán con chờ mong từng giây cho con hết bệnh. Muốn uống một ly sữa, con chỉ cần đưa chiếc ly lên miệng uống là xong. Bây giờ nhìn lại, con thấy đêm đó, khi chợt nghe con muốn một ly sữa, mẹ vội thắp thêm đèn, chiếc đèn dầu con tù mù, lệch kệch ra sau vườn kéo gầu nước, nhóm bếp củi mù than đun nước. Mẹ hối hả không ngại ngùng gõ cửa hàng vào những giờ người ta không muốn thức giấc để mua, hòa cho con một ly sữa.

* * *

Sau khi bà mẹ chết, đôi guốc nằm im lặng nơi góc tường tối. Không người con nào để ý. Nó âm thầm một đời theo chân người mẹ, hy sinh, vất vả, chịu đựng. Lúc người mẹ còn sống, đôi guốc đã âm thầm như thế. Bây giờ bà chết rồi, nó vẫn tiếp tục cái âm thầm của bao tháng ngày về trước. Chẳng lẽ bất cứ điều gì liên quan tới mẹ đều lặng lẽ như thế sao?

Tình yêu của những người mẹ dường như bao giờ cũng âm thầm. Xin những người con hãy khuya động tình yêu âm thầm ấy của mẹ bằng một cánh hoa linh hồn.

Kìa, ngoài kia đất trời đã đang chuyển mình tìm mùa xuân.

Lạy Chúa, con cũng đang đi tìm mùa xuân cho cuộc đời. Chân đi trong đời để tìm mùa xuân nhiều khi rất đau. Và bây giờ con hiểu, con nhớ tới đôi guốc của mẹ con.


37. MŨI TÊN VÀ TIẾNG HÓT CỦA CON SƠN CA

Cành cây.

Trên ngọn cây sầu đông, con sơn ca nhìn xuống cuộc đời bằng bài ca hy lễ. Tiếng hót véo von trước ngưỡng cửa căn nhà nhân loại đang bàng bạc phiền muộn ủ ê. Cuộc đời cần hòa điệu biết bao và con sơn ca vào đời trong tiếng gọi thâm sâu ấy: Ðem âm nhạc vào cõi quạnh hiu.

Mỗi bước chân nó chuyền qua, trên nhánh cây rừng, trên cành trúc sau hè, bên khóm tre, là chuyền trên nỗi chết đang chờ. Bởi cành tre ấy có thể thành mũi tên, nhánh cây rừng kia có thể thành cánh cung giương lên bắn nó.

Trên cành tre ấy, nó vẫn cho đậu xuống những âm giai hòa bình và trên nhánh cây nọ, nó vẫn không ngại ngùng buông lời thanh thót cho rải vào cõi vắng chiều đang xuống.

Biết trên những cành cây đưa bước chân mình đậu hôm nay có thể ngày mai là khung thập tự sầu thương kết thúc đời mình, tiếng con sơn ca vẫn hồn nhiên líu lo với cuộc đời, nó không băn khoăn, không cúi mặt rũ bã để hoàng hôn phủ bóng tiếng ca.

Rừng cây địa đàng thủa xưa xanh ngát màu lá. Hương của gỗ trầm vẫn chưa hết bay khỏi không gian. Thiên Chúa cho con người rừng cây như bài thơ đẹp của vũ trụ để rì rào lời ru cho vũ trụ dài thêm mùa xuân, tiếp thêm mùa thu. Ðức Yêsu đã biết ngày mai con người lấy rừng cây ấy làm thập tự đóng đinh đời mình. Vì quá yêu trần gian, Ðức Yêsu đã đến trong căn nhà nhân loại bất chấp cánh cung có gương lên chờ đợi. Cho dù rừng cây có thành cánh cung, tiếng hát sơn ca trong trái tim Yêsu không bao giờ là tiếng hót phẫn nộ. Vẫn là:

Bình an cho các con! Binh an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Xin Thượng Ðế cho con tiếng hót của loài chim sơn ca, nhìn xuống cành tre mình đang đậu hôm nay và cất lời ca hòa bình. Xin cho con trái tim con sơn ca bình an nhìn cành cây mình đang dừng chân mà ngày mai có thể thành cánh cung vẫn không chối từ buông lời ca cho bóng chiều bớt hoang sợ.

* * *


Mũi tên.

Rồi cành tre vót nhọn thành mũi tên. Rừng xanh địa đàng bồi hồi khi thân cây bên đồi rớt mất vùng trời mùa xuân thành cây cung lạnh lùng.

Hoa của mùa xuân không còn nữa, nhựa không dâng thành trái. Khung trời sương mai êm ả với bình minh hoa nắng giờ đây có gắt gỏng đi về, nắng rịn mồ hôi và bình minh là chát chúa.

Trên cành trúc sau hè bắt đầu có tiếng gió xạc xào chứ không dặt dìu như thủa xưa. Con sơn ca cúi xuống đời mình nhìn mũi tên nhọn. Tiếng ca bây giờ không là tiếng vỡ lòng ngày đầu tập hót với me, mà là tiếng hót chọn lựa của tự do và lòng mến. Tiếng hót tập tành bằng cung điệu rất đỗi riêng.

Con sơn ca nhìn trời cao, đôi cánh rung theo nhịp vót của mũi tên. Người ta vẫn nghe tiếng lanh lảnh trong đêm tối khi mặt trời chưa kịp lên, người ta vẫn nghe tiếng thiết tha trong đêm tối khi mặt trời đã rơi chìm xuống bên kia đồi chiều. Con sơn ca vẫn hót. Cành tre cứ thành mũi tên. Cành cây cứ thành cánh cung. Và đời con sơn ca cứ là bài hát gieo trên cành tre, rải xuống rừng cây:

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Tấm áo dài mẹ may cho thủa nào bắt đầu vương bụi vất vả. Ðức Yêsu lau mồ hôi trên vùng trán bằng tà áo ấy. Áo không còn ngây thơ, không còn mộng mơ ngày theo mẹ lên đền thánh dâng lễ nữa. Khi thời giờ đã điểm thì không phải nước thành rượu ngon nữa mà rượu ngon thành giấm chua. Trên cánh đồng Galilêa chiều hôm nao, những thúng bánh mì thơm mùi gạo mới nướng không còn hương bài ca biết ơn. Ðức Yêsu đang đi trên những tấm bánh hóa thành đá cứng có thể ném chết người. Những tấm bánh hóa đá và bước chân trệu trạo mà hoa vẫn nở trên đường đi, hoa trong linh hồn, hoa trong lời ca, hoa rất đỗi thiết tha.

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Xin Thượng Ðế cho con nghe thấy tiếng hót sơn ca trong những tấm bánh hóa đá và rượu ngon thành giấm chua trước cuộc đời Ðức Yêsu. Trong những lo lắng dật dờ hồn con dễ biến niềm tin thành giấm, tương lai thành đá cứng. Xin cho con như bóng sơn ca hót trong màn đêm của trời chưa sáng và trong màn đêm khi mặt trời đã đi rồi, để đời cứ là một bài ca gieo trên mũi tên và rải xuống rừng cây.

* * *

Săn đuổi.

Cành tre thành mũi tên và thân cây thành cánh cung thì cuộc tìm kiếm bắt đầu.

Cành tre thành gian dối. thân cây thành giấu giếm.

Con sơn ca bị săn đuổi. Bên dòng suối tĩnh mịch, con sơn ca soi đời mình để tìm một giai điệu đẹp nhất cho tiếng hót. Vút lên cao nữa, lanh lảnh lên cao nữa cho tiếng mình rẽ lối gọi rõ vào cuộc đời một tiếng hót vô thường.

Ngửa mặt nhìn trời cao, qua biết bao núi đồi, biết bao thung lũng, qua bao nhiêu rừng gai, bao nhiêu bến chợ chiều, bây giờ mới thành tiếng hót độc đáo của riêng mình, làm sao mà nó im tiếng được.

Gió về bay trong bão lốc, người ta vẫn nghe tiếng nó dạt theo chiều sóng thành bài ca. Mưa hối hả, người ta vẫn nghe tiếng nó nhịp vào tiếng rơi của mưa thành hòa âm. Mưa không đuổi được lời ca bão không giam được tiếng hót.

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

"Hàng ngày ta vẫn ở trong đền thờ". Ðức Yêsu trả lời như thế khi người ta tìm cách bắt Người. Con sơn ca biết khi cành gai nhọn ghim vào tim, bài ca sẽ thành bất tử. Nó đón chờ cành gai vì biết bài ca bây giờ mới thành tuyệt đối.

Vì bài ca nó vào đời, nó muốn để lại bài ca ấy cho đời, và bài ca chỉ để lại bằng cành gai ghim thâu qua con tim. Nó yêu bài ca hơn sự sống, yêu tiếng hót hơn thời gian. Ðức Yêsu vẫn ở tong đền thờ. Cánh cung và mũi tên đã giương bắn, Không cần là tay thiện xạ bắn giỏi vì hàng ngày Ðức Yêsu vẫn ở trong đền thờ. Một bài ca thôi. Một cung đàn thôi. Ðời Ðức Kitô vẫn là:

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Lạy Thượng Ðế, có nhiều thứ săn đuổi con trong cuộc sống lắm, săn đuổi của lười biếng, săn đuổi của sợ hãi, săn đuổi của sự chết. Xin cho con biết con vào đời làm gì, sẽ đi về đâu khi hoàng hôn buông xuống để con không nhát đảm, cứ đưa đời mình xuôi dòng về với trùng khơi.

* * *

Sự chết.

Cây cung giương lên tìm con sơn ca bắn tới. Trên ngọn cây sầu đông, tiếng hót con sơn ca theo gió bay về cõi trời mênh mông.

Mũi tên ghim qua lồng ngực và cuộc tập tành trong cung hưởng bản trường ca hoàn tất.

Cuộc đời là bản trường ca thì khi mũi tên bắn qua con tim là lúc nốt nhạc đẹp nhất rung lên kết thúc làm thành trọn vẹn một bài hòa âm. Giã từ trong tiếng hót đi về trời cao thăm thẳm. Con sơn ca rũ cánh gói trọn tiếng gọi thâm sâu nhất của tâm hồn là đem cho núi rừng âm nhạc bằng chính đời mình.

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Trên ngọn cây sầu đông nở mùa hoa nhân ái. Con sơn ca không phẫn nộ nhưng gởi lại bài ca cho chính cành trúc sắc nhọn đã ghim vào tim mình. Phải chăng vì thế trong khúc rẽ rỗng im lặng kia mới chứa ngàn vạn tiếng gió thiên thai. Chỉ có tiếng sáo của loài tre sắc mới hứng đọng được một chút tiếng lanh lảnh vi vút của con sơn ca mà thôi.

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

Lúc Ðức Yêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Rừng cây không bị trừng phạt vì đã đóng đinh Ngài vào tấm thân gỗ. Lá cứ xanh và rừng cây cứ thì thầm với mưa hiền hòa, với nắng thênh thang. Trên cây thập tự, Ðức Yêsu không phẫn nộ với vũ trụ mà tiếp tục tiếng hót bao dung của con sơn ca trong trái tim vô cùng độ lượng: "Xin Cha tha cho tất cả". Từ lời cầu xin ấy, mây cứ thong thả bay, dòng suối cứ thong thả buông tiếng thơ. Và, bài ca tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời:

Bình an cho các con! Bình an cho các con!

- Hãy yêu thương và hãy yêu thương!

* * *

Lạy Thượng Ðế, bao dung là con đường Ðức Yêsu đã đi, là tiếng con sơn ca hót trước giờ chết:

- Con chưa bao dung được với đời thì xin cho con được nghe tiếng bao dung từ Ðức Yêsu.

- Trái tim con chưa bình an được như con sơn ca hót bài ca yêu mến khi nhìn mũi tên nhọn, thì xin cho đời con đừng là mũi tên.

- Con lỗi phạm thì xin cho con phổ được nhạc sám hối trong khúc tre sắc để tiếng hót của con sơn ca đọng lại hồn con đôi chút.

- Và, nếu hồn con không bình an như con sơn ca cứ cất tiếng hót trong bóng đêm, thì xin cho con biết lánh xa bóng đêm.


38. MƯỢN XÁC

Có một loài ốc mang tên ốc "mượn hồn". Nó là con ốc đã chết từ lâu, sóng biển trôi nó dật dờ. Rồi có kẻ đi mượn nó để sống. Kẻ mượn nó là một con cua nhỏ. Gặp chiếc vỏ ốc lăn lóc này, con cua nhỏ chui vào nương thân, lấy vỏ ốc làm nhà. Từ đó, nó lê đi trong đời. Không biết câu chuyện có thật vậy không. Nghe như có vẻ hoang đường. Tuy nhiên có điều chắc chắn, vỏ ngoài là ốc nhưng bên trong lại là con cua nhỏ có còng cứng.

Không biết gốc tích nó từ đâu. Ai mượn hồn ai, ai mượn xác ai. Chuyện chắc là không thật. Nhưng lối đặt tên cho loài ốc nhỏ đó: Ốc "mượn hồn", tự cái tên ấy có phần mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa là hồn xác ấy thuộc về nhau, sống với nhau. Nghe như đâu đây, trong Kinh Thánh cũng có câu chuyện mượn hồn, mượn xác na ná: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà chính Ðức Kitô sống trong tôi"(Gal. 2:20). Xác thì xác Phaolô, mà hồn lại là hồn Kitô.

* * *

Ðã là cuối mùa. Ðức Kitô đứng trên đê nhìn trời chiều mênh mông. Nắng hoàng hôn nhuộm đỏ ối cả một đồi dâu. Tóc Người bay rối trên trời chiều cô tịch. Cánh đồng vẫn mông mênh ngát vàng. Dạt dào. Một không gian lúa đến mùa rũ chín vào nhau. Người vung tay hái, nhưng kỳ lạ thay, Người chỉ là hồn. Cánh tay Người chỉ là vô hình với vào thinh không hụt hẫng. Lúa cứ là lúa. Thời gian từ từ xuôi mùa. Rồi đi buổi chiều. Rồi về buổi sáng. Gió xạc xào đưa lúa chín mùa quá độ rơi trên đồng vắng. Người xôn xao lòng dạ. Nhìn đồng lúa không người gặt mà bối rối khôn nguôi.

Có người nông phu bước qua. Ðức Kitô vội vã vui mừng bảo anh ta dừng chân. Nói chuyện về đồng lúa thiếu thợ gặt rồi hồn Người muốn mượn đôi tay anh ta để bước xuống cánh đồng. Lưỡng lự, người thanh niên chối từ cúi đầu bước. Thế là, Ðức Kitô bùi ngùi khoé mắt băn khoăn. Cứ nhìn đồng lúa không thợ gặt mà xót xa. Người muốn mượn đôi tay để cho hồn Người ký thác.

* * *

Sau khi Ðức Kitô đặt nền tảng Giáo Hội của Ngài trên Phêrô, về trời rồi, Ngài tiếp tục xây dựng Giáo Hội. Nhưng Ngài xây dựng Giáo Hội của Ngài bằng cách nào? Hai khuôn mặt tông đồ cột trụ, Phêrô và Phaolô đã sống xác của mình nhưng với hồn của Ðức Kitô. Nói cách khác, Ðức Kitô xây dựng Giáo Hội bằng cách lấy hồn mình rồi đi "mượn" xác thân con người.

Phaolô nổi tiếng với các tông thư mục vụ, chúng ta sẽ dựa vào Thánh Kinh Thư này để khai triển đề tài. Rồi lấy việc làm của Phêrô để soi sáng thêm cho căn bản trong Thánh Kinh Thư của Phaolô.

Xác Phaolô nhưng hồn Kitô

Trong văn viết, nhiều lần Phaolô kêu gọi tín hữu của mình hãy mặc lấy hồn Kitô. Hoặc diễn tả cách khác là để hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình. "Anh em hãy bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy con người mới" (Col. 3: 10). Nhưng rõ hơn là chính lời trực tiếp thú nhận mình đã để cho hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình.

·  "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi" (Gal. 2:20).

·  "Tôi sẽ không dám nói đến điều gì Ðức Kitô đã không dùng tôi để thi thố ra" (Rom. 15: 18).

·  "Chính Người làm bật sáng nơi lòng chúng tôi, để chúng tôi làm cho thiên hạ nhìn biết, trong ánh sáng ấy, vinh quang của Thiên Chúa chói lòa nơi Ðức Kitô" (2 Cor. 4: 6).

Xác Phêrô nhưng hồn Kitô

"Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tùy ý" (Yn. 21: 18). Ðây là lúc xác Phêrô mà hồn cũng Phêrô, xác ông đi đâu thì hồn ông đi đấy. "Khi về già, ngươi sẽ giang tay ra và NGƯỜI KHÁC sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn" (Yn. 20: 18). Lúc này, xác thì xác Phêrô mà hồn là hồn NGƯỜI KHÁC, hồn Ðức Kitô.

Sách Tông Ðồ Công Vụ kể lại chuyện Phêrô chữa người què như sau:

Có người què từ khi lọt lòng mẹ sinh ra, được người ta khiêng đến đặt thường ngày bên cửa Ðền thờ để xin của bố thí với khách Ðền thờ. Nó thấy Phêrô và Yoan sắp vào thì xin của bố thí. Phêrô nhìn thẳng vào nó, Yoan cũng thế, và nói: "Nhìn lên chúng tôi!" Nó chú ý vào các ông, hy vọng cũng được chút gì. Nhưng Phêrô nói: "Bạc vàng tôi không có, song điều tôi có là Ðức Kitô người Nazareth, nhân Danh Ngài anh hãy chỗi dậy mà bước đi!". Nó nhẩy vùng lên, đứng dậy vào Ðền thờ cùng các ông, vừa đi vừa nhẩy, và ngợi khen Thiên Chúa.

Sau đó, người què níu lấy Phêrô và Yoan, còn toàn dân, theo lời tường thuật kể tiếp, "họ chạy ùa tới các ông ở hành lang Salômôn, họ rất kinh ngạc." Bấy giờ, Phêrô lên tiếng khẳng định không phải ông, mà chính hồn Ðức Kitô đã dùng ông mà thực hiện ơn sủng:

Các ông, người Israel, tại sao lại đăm đăm nhìn chúng tôi, như thể bởi quyền phép riêng gì, hay lòng đạo đức của chúng tôi mà chúng tôi làm cho người què này bước đi được? - Ðức Yêsu, kẻ các ông đã nộp. Vị khơi nguồn sự sống, các ông đã giết đi, Ðấng mà Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết. Chúng tôi xin làm chứng. Chính nhờ tin vào Danh Ngài, chính danh Ngài làm cho anh ta lành mạnh (Tđcv. 3: 1-16).

Rồi một lần khác nữa, trên đường xuống Lyđa, ông gặp Ênê, một người đã tám năm trời liệt giường vì bất toại. Ông nói: "Ðức Kitô chữa lành anh. Hãy chỗi dậy, dẹp chõng đi!" Lập tức người ấy chỗi dậy (Tđcv. 9: 32).

Phêrô chối không phải ông chữa lành những người tật nguyền này, nhưng là chính Ðức Kitô. Nói cách khác, vì tin vào Danh Ngài mà hồn Ðức Kitô, qua lời nói của Phêrô đã chữa họ. Khi nói Phêrô xây dựng Giáo Hội bằng những việc làm cả thể, đó chỉ là cách diễn tả ông đã để hồn Kitô mượn xác mình mà xây dựng nhiệm thể ấy. Ông luôn luôn khẳng định rằng không phải ông hành động. Khi nói "mượn hồn", điều ấy không hàm ý loại bỏ sự tự do chấp nhận lời mời gọi, là sống trọn vẹn trong tự do đích thực là Ðức Kitô.

* * *

Lạy Chúa,

Hôm nay có những việc Chúa muốn làm mà Chúa không làm được nữa vì Chúa không còn xác thân như con. Ngay trên quê hương của con vì nghèo đói mà nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá con người. Vì nghèo đói mà bao nhiêu tuổi thơ phải lầm than không được học hành. "Trong tâm tư biết bao người ngày đêm cô đơn buồn không nói. Nhưng ai đâu đến với họ để hát tiếng hát của niềm vui". Chúa muốn mượn bàn tay con để xoa dịu một nỗi bất hạnh. Chúa muốn mượn đôi chân của con để dìu em đến trường. Con có dám để Chúa mượn đời con cho hồn Chúa sống không.

Con xin lấy lời ca của Nguyễn Duy như kinh chiều phụng vụ mơ ước dâng Chúa đêm nay. "Xin cho con suốt một đời tình yêu cho đi là lẽ sống. Xin cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp xinh. Nguyện một đời con tìm đến, đến với hết những ai chân tình để tình người vẫn còn xanh ngát hương như hoa xuân trên cành."


39. NỖI LÒNG CHA

Trong Phúc Âm thánh Luca, dụ ngôn Chúa bỏ chín mươi chín con chiên trong hoang địa để tìm một con chiên lạc có lối kết luận nghịch với tiền đề. Chúng ta hãy đọc toàn bản văn:

Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín mươi chín con ngay nơi hoang địa, để ruổi theo con chiên lạc, cho đến khi tìm được nó ư? Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó trên vai mình, và về đến nhà, mà lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, nay tôi đã tìm thấy con chiên lạc của tôi!?

Tiếp đó dụ ngôn được kết luận như sau:

Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn (Lc. 15: 4-7).

Bản văn được chia làm 2 phần. Ta có thể vẽ thành họa đồ sau đây

- Phần một diễn tả câu chuyện, có bốn chi tiết:

- nói về con chiên đi lạc,

- người chăn chiên đi tìm,

- tìm thấy rồi ôm trên vai,

- vui mừng khoe với bà con,

- Phần hai kết luận:

- Nước Trời vui mừng vì một người sám hối.

Xét qua bản văn ta thấy kết luận rất lạ với tiền đề câu chuyện, vì cả câu chuyện không hề nói tới lòng sám hối. Có một con chiên lạc, rồi Chúa đi tìm. Người chăn chiên đi tìm chứ đâu có phải con chiên tìm lối trở về, như thế làm sao mà gọi là lòng sám hối được?

Xem ra lối kết luận trên đây không hợp luận lý. Tuy nhiên, thinh lặng một chút ta sẽ thấy có điều phải suy nghĩ lại trong lối viết văn của Luca. Luca không trình bày rõ lòng sám hối của con người nhưng làm nổi bật lòng xót thương của Chúa. Ở Luca tôi thấy dựa vào lòng xót thương của Chúa mà ta có thể về chứ không phải sự tốt lành của ta. Lối kết luận này vẫn hợp lý, và chỉ hợp lý khi ta giả sử là người chăn chiên tìm thấy, rồi con chiên đồng ý trở về. Sự đồng ý trở về ấy Chúa coi như lòng sám hối.

Một đêm dừng chân trên lưng núi, Chúa thao thức vì một tâm hồn. Giờ này con tôi ở đâu? Tiếng lòng vọng về đáp trả giữa đêm đen vẫn chỉ là một khoảng không cô tịch. Cũng trong tiếng lòng ấy, vọng về nỗi thương, Người phải đi tìm vì đó là con của Ngài. Ruổi rong cho đến khi gặp, nhưng vì còn tự do của nó, Ngài chỉ có thể thương yêu hỏi:

- Cha muốn con về.

Ánh mắt người chăn chiên có nỗi đau thương vì Satan đã lừa gạt con của Ngài. Nhưng khổ tâm, Satan cũng đã không cưỡng bách được sự tự do của con cái Ngài. Ra đi vẫn là một lựa chọn tuỳ ý. Trở về cũng thế, Ngài chỉ có thể hỏi đứa con ấy:

- Con có muốn trở về?

Trong cái gật đầu mệt mỏi của con chiên lạc, Ngài mừng rỡ vác lên vai mà đem về. Chỉ ở điểm này, gọi đó là lòng sám hối, ta mới có thể chấp nhận kết luận kia hợp lý.

* * *

Lạy Chúa,

một lần ra đi, một quãng đời nào của con vương trong bụi gai chẳng còn lối thoát. Chúa thương tìm con về. Bụi đất làm con xơ xác. Chúa chẳng ngại, Chúa bế con rồi ôm trên vai. Chúa không sợ dơ áo của Chúa vì những vết thương của con lâu ngày mưng mủ.

Lối trình bầy Tin Mừng của thánh sử Luca cho con thấy rực lên lòng thương xót của Chúa đi tìm con hơn là con sám hối ăn năn.


40. NGÀY ĐÃ NÓI GÌ TRÊN ĐƯỜNG

Theo Phúc Âm thánh Máccô, những lời giảng hệ trọng mà Chúa mạc khải cho các môn đệ của Ngài đều xảy ra trong lúc đi đường. Chỉ khi bắt đầu lên đường về Jerusalem chịu tử nạn, Chúa mới nói rõ cho môn đệ biết sứ mạng của Ngài như thế nào. Ðây là sơ đồ những gì đã xẩy ra trên đường Jerusalem những ngày đó:

- Phêrô tuyên tín Ðức Kitô là Con Thiên Chúa (8,27-30).

Báo Thương Khó 1:

- Con Người phải chịu nhiều đau khổ (8,31).

- Môn đệ chậm hiểu: Phêrô kéo Ngài lại mà cản ngăn Ngài (8,32).

- Chúa giảng dạy: Kẻ nào cứu mạng sống mình sẽ mất mạng sống (8,34).


Báo Thương Khó 2:

- Con Người bị nộp trong tay người đời (9,30-32).

- Môn đệ chậm hiểu: Họ tranh luận với nhau ai lớn hơn ai (9,34).

- Chúa giảng dạy: Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ (9,35).


Báo Thương Khó 3:

- Chúng ta lên Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp (10,32-34).

- Môn đệ chậm hiểu: Xin cho chúng tôi một người ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong vinh quang của nước Ngài (10,37).

- Chúa giảng dạy: Con Người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ (10,41-45).

Ba lần báo thương khó đều xảy ra giống nhau, qua ba giai đoạn: Trước hết, Chúa loan báo về cuộc tử nạn. Nhưng các môn đệ chẳng hiểu gì. Rồi Chúa giảng dạy cho họ thái độ phải theo Chúa.

Các môn đệ không phải là những người thông minh. Trong cuộc loan báo thương khó lần thứ nhất, Phêrô cản ngăn Chúa đừng về Jerusalem kẻo bị chết. Chúa đã mắng Phêrô đó là ý nghĩ của Satan. Nhưng rồi sau lần loan báo thương khó thứ hai, trên đường đi, họ lại tranh luận với nhau là ai lớn hơn ai. Một lần nữa, Chúa phải cắt nghĩa cho họ về Nước Thiên Chúa. Ai ngờ đâu, sau cuộc loan báo thương khó thứ ba, họ lại xin được ngồi bên hữu và bên tả khi Ngài chiến thắng trong vinh quang! Họ chẳng hiểu lối đi của thập giá là gì.

Lạy Chúa, Chúa không phải là người khó tính. Chúa nhẫn nại. Cho dù môn đệ của Chúa chậm hiểu, Chúa chẳng đuổi họ về. Một điều duy nhất mà Chúa đòi hỏi là có muốn theo Chúa hay không. Kẻ nào theo Chúa sẽ dạy dỗ. Ðể tuyển lựa một người, người ta có nhiều cuộc thi. Chúa chẳng trắc nghiệm gì cả. Chúa gọi. Ai theo Chúa cũng được. Chúa khởi công giáo dục họ từ những bước lầm lỡ tệ hại nhất. Ðiều ấy nói với con rằng, không vì con lầm lỡ tệ hại nhất. Ðiều ấy nói với con rằng, không vì con yếu đuối mà Chúa chê. Chúa không chờ con nên thánh thiện Chúa mới nhận, nhưng nhờ Chúa nhận mà con mới có hy vọng trở nên thánh thiện.

Hình ảnh các môn đệ chậm hiểu đi theo Chúa cho con nhiều can đảm. Chúa đã chẳng chối từ vì sự kém cỏi của họ. Chúa chẳng chê bai lòng muốn địa vị của Yacôbê và Yoan, lòng nhát đảm của Phêrô. Con cũng chậm hiểu như vậy. Con cũng muốn danh vọng như thế. Các môn đệ đã được Chúa trực tiếp giáo dục mà còn như thế, thì huống gì con. Lòng nhẫn nại của Chúa cho con niềm trông cậy. Con tin Chúa sẽ chỉ dậy con nếu con lên đường với Chúa.


Báo Thương Khó

Tuyên tín của Phêrô và Báo Thương Khó 1. Ðức Kitô ra đi với các môn đệ đến những làng mạc giáp Caisaria. Trên đường đi Ngài hỏi môn đệ: "Theo như người ta nói, thì ta là ai?" Họ thưa Ngài rằng: "Yoan Tẩy Giả; nhóm khác là Elia; nhóm khác nữa: là một vị tiên tri nào đó". Rồi Ngài hỏi họ: "Còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai?" Ðáp lại Phêrô nói: "Thầy là Ðức Kitô!" Và Ngài bắt đầu giảng dạy họ: "Con người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng cùng các thượng tế và ký lục phế thải, bị giết đi và sau ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,27-31).

Báo Thương Khó 2. Ra khỏi đó, họ đi băng qua Galilêa... Ngài nói với các môn đệ: "Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, họ sẽ giết Ngài, và bị giết rồi, sau ba ngày Ngài sẽ sống lại" (Mc 9,30-31).

Báo Thương Khó 3. Họ đang đi dọc đàng để lên Jerusalem và Ngài nói với họ những điều sắp xảy đến cho Ngài: "Này chúng ta lên Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp... người ta sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ trên Ngài, đánh đòn Ngài và giết đi, và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại" (Mc 10,32-34).

Tuyên tín Ðức Kitô là ai tức là xác định đường mình đi. Ý nghĩa việc tuyên tín của Phêrô là Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. "Còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai?" Chúa không hỏi môn đệ câu ấy trong lúc nghỉ ngơi, nhưng trong lúc đi đường! Biết Ðức Kitô và theo Ðức Kitô là hai chuyện khác nhau. Những ngày đó, ở Jerusalem, ở Galilêa, ở Nazareth, người ta nói về Ðức Kitô, người ta xem Ðức Kitô làm phép lạ, họ gọi Ngài là Elia, là Yoan Tẩy Giả, là một vị tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Con Thiên Chúa. Ðể biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài. Cùng đi với Ngài trên mọi lối nẻo. Chính vậy, Chúa mạc khải cho các môn đệ trong lúc lên đường, đi với Chúa mà thôi. Ðất đã xới, sẵn sàng cho hạt gieo, bấy giờ Lời Chúa mới đến. Như Phêrô đã chỉ có thể biết Ngài khi tâm hồn mở ra cho lý tưởng cùng chung một nhịp tim đập với Ngài.

Còn Chúa, xác nhận mình là ai, cuộc đời và sứ mạng mình là gì tức là xác định con đường của mình như thế nào. Ðường dẫn tới đâu. Cả ba lần nói cho môn đệ biết mình là ai đều xẩy ra trên đường đi. Chỉ có lên đường về Jerusalem, nơi ấy mới có Khổ Nạn và Phục Sinh. Cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu rỗi hệ tại Thập Giá và Phục Sinh. Ngài phải lên đường về Jerusalem để thực hiện. Trong cuộc báo thương khó lần thứ ba, Chúa không nói: "Ta lên đường về Jerusalem". Nhưng Ngài nói: "Chúng ta lên Jerusalem". Chữ "chúng ta" Chúa dùng ở đây có thầm nhắn nhủ với tôi: có tôi ở trong đó, tôi cũng phải lên đường, Lên đường về đâu? Về Jerusalem. Ðể làm gì? Ðể thực hiện Thập Giá và Phục Sinh.

Lạy Chúa, Chúa không dối lòng người. Cả ba lần báo thương khó, Chúa nói rõ ngay từ ban đầu là Chúa sẽ bị nộp và bị đóng đinh, nhưng Chúa sẽ sống lại. Chúa nói thẳng chứ không dùng những hình ảnh ngọt ngào, những danh từ khéo léo để kéo nhiều người theo. Chúa dứt khoát chứ không nhượng bộ. Nếu Phêrô bỏ Chúa, Chúa sẽ đi một mình. Nét đẹp và oai hùng của Chúa là người nghệ sĩ đi tìm sáng tạo. Người nghệ sĩ chân chính không sáng tác theo nhu cầu lười biếng của quần chúng. Kẻ yêu nghệ thuật sẽ mãi mãi đi tìm cái đẹp và chẳng chịu buông tâm hồn xuống những mảnh đất tầm thường.

Chúa dạy con rằng người nghệ sĩ phải hướng tâm hồn lên cao mới có hương trời thanh khiết. Không có tác phẩm nào đẹp nếu cưu mang trong con tim u ám. Chính thế, người nghệ sĩ phải trả giá cho tác phẩm của mình. Cánh vạc chỉ đẹp khi cất cánh bay mãi vào trời cao thăm thẳm. Tiếng vạc kêu trong sương mai chỉ thanh thót trong không gian đó. Cánh vạc sẽ mất đẹp khi lần mò bên bò ao, dưới bụi lau sậy.


Môn Ðệ Chậm Hiểu

Phêrô muốn theo Chúa, nhưng không muốn về Jerusalem, vì nơi đó sẽ có thập giá. Người nghệ sĩ sẽ chết. Nhưng tác phẩm của họ trường tồn. Tác phẩm là vẻ đẹp. Ngày nào nhân loại còn cần đến vẻ đẹp đó để làm êm dịu cuộc đời thì ngày đó vẫn có mặt của người nghệ sĩ. Bởi thế, người nghệ sĩ chỉ thực sự chết khi tác phẩm của mình chết. Thập Giá và Phục Sinh là tác phẩm của người nghệ sĩ Yêsu. Ngày nào nhân loại còn cần Thập Giá và Phục Sinh thì ngày đó người nghệ sĩ Yêsu chưa chết. Nếu không có tác phẩm Thập Giá và Phục Sinh thì con người nghệ sĩ Yêsu đã mờ nhạt trong muôn ngàn nấm mộ im lặng. Chỉ là nghệ sĩ khi có sáng tạo. Trong ý nghĩa đó, tác phẩm làm nên nghệ sĩ chứ không hẳn nghệ sĩ làm nên tác phẩm. Theo Chúa là đi làm sáng tạo, là đi xây dựng tác phẩm. Satan biết rõ nếu không có tác phẩm, con người nghệ sĩ Yêsu sẽ chết trong lòng nhân loại. Do đấy, qua bóng tối của tâm hồn Phêrô, Satan đã cản ngăn Chúa đi sáng tạo tác phẩm của mình. Chúa đã mắng Phêrô: "Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! vì ý tưởng của ngươi không là ý tưởng của Thiên Chúa mà là ý tưởng của loài người" (Mc 8,33). Người nghệ sĩ có tâm hồn đẹp sẽ nhìn thấy vẻ đẹp và muốn chết trong vẻ đẹp.


Chúa Giảng Dạy

Sau khi mắng Phêrô rồi, Chúa giảng giải cho các môn đệ về ý nghĩa của tác phẩm: "Kẻ nào muốn cứu lấy mạng sống mình, sẽ mất; còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, và Tin Mừng, thì nó sẽ được cứu" (Mc 8,35). Không có tác phẩmkhông ai biết đến người nghệ sĩ. Ðó là cái chết thật. Vì thế, chết mà tác phẩm sống thì người nghệ sĩ vẫn sống. Tác phẩm Phục Sinh phải sáng tạo bằng Thập Giá. Thập Giá phải sáng tạo bằng cái chết. Mà chết bằng Thập Giá là đi vào Phục Sinh. Chối từ Thập Giá và Phục Sinh là mất tác phẩm. Im lặng. Ðó là cõi vắng. Không là nghệ sĩ nữa. Chết.

Nhưng nếu người nghệ sĩ Yêsu chỉ vì muốn cho tác phẩm của mình sống mà chấp nhận chết, thì thực sự, người nghệ sĩ đó cũng chẳng có gì đáng nhớ. Người nghệ sĩ đó cũng chẳng có gì đáng nhớ. Người nghệ sĩ có tâm hồn thanh thoát không mơ tưởng danh vọng. Giá trị của tác phẩm là nó nẩy sinh vẻ đẹp cần thiết cho đời. Nét đẹp nơi Thập Giá và Phục Sinh của Chúa Kitô là sức sống của Thập Giá và Phục Sinh đem tới cho nhân loại. Chính vì sự sống đó mà Chúa chấp nhận chết để xây dựng tác phẩm. Chứ không phải vì muốn có tác phẩm để được sống trong lòng người mà Chúa chấp nhận chết. Do đó, tác phẩm có giá trị là tác phẩm vì yêu thương mà sáng tạo.

Thánh Máccô kể rằng: "Họ đã đến Caphanaum. Vào nhà, Ngài hỏi họ: Dọc đàng các ngươi đã tranh luận gì với nhau? Họ làm thinh, vì dọc đàng họ đã tranh luận với nhau ai lớn hơn ai. Ngồi xuống, Ngài gọi nhóm Mười Hai lại và nói với họ: Ai muốn làm đầu thì ở cuối hết mọi người, và làm tôi tớ mọi người" (Mc 9,33-35).

Phục vụ, đó là con đường sáng tạo của kẻ theo Ngài. Người nghệ sĩ của Chúa Kitô là kẻ yêu thương đời mà xây dựng tác phẩm chứ không xây dựng tác phẩm để đời nhớ đến mình. Quên mình vì người khác là lối đi của thập giá. Con đường của trần gian là xây dựng tác phẩm để đời nhớ đến mình. Bởi đó, có khi là tranh giành, là ghen tương, là sợ người khác nổi danh hơn mình, là hạ thấp nhau. Còn kẻ thương đời mà sáng tạo tác phẩm thì không ước ao phải là tiếng chuông vang xa, nhưng bình an là tấm ván im lặng trong lầu chuông gỗ. "Các ngươi biết, thủ lãnh các dân tộc thì làm chúa trên họ, và những người làm lớn thì phủ uy quyền trên đầu họ. Nơi các ngươi thì không không như thế, ai muốn cầm đầu trong các ngươi thì hãy làm tôi tớ cho các ngươi. Cũng như Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người" (Mt 20,24-28).

* * *

Lạy Chúa, Chúa đã mạc khải cho các môn đệ biết Ðường là gì trong lúc đi đường. Vì chỉ có ai lên đường thì mới gặp Ðường. Ðường là để dẫn tới, nhưng nếu không lên đường thì chẳng bao giờ tới. Con cũng vậy, muốn có tác phẩm, con phải lên đường thực hiện. Từ ý nghĩ đến tác phẩm là một đoạn đường. Tùy giá trị của tác phẩm mà đoạn đường đó ngắn hay dài, dễ dàng hay phải cố gắng nhiều.

Lên đường thực hiện tác phẩm, con lại phải có tâm hồn nghệ sĩ như Chúa. Yêu sự đẹp, sống cho sự đẹp và chết cho sự đẹp. Sự thật không còn là sự thật nếu vì dư luận, lo âu mà thay đổi bản chất của mình. Vẻ đẹp cũng thế, nếu mở cửa cho sự xấu òa vào, nó sẽ trở thành xấu. Chúa đã chọn vẻ đẹp để sáng tạo bằng tất cả hơi thở. Chúa cũng muốn con trung thành với ơn gọi như vậy. Dù đất bùn nhưng sen vẫn phải mang hương thơm của sen. Dù cuộc đời có xô đẩy tới đâu, trồng ở phương bắc hay phương nam thì hoa hướng dương vẫn xoay mặt nhìn theo mặt trời.

Lên đường thực hiện tác phẩm, con lại phải có tâm hồn nghệ sĩ như Chúa. Con phải hỏi lòng, tác phẩm có làm đẹp cho đời, hay chỉ mong làm đẹp cho mình.

Muốn là nghệ sĩ phải học sáng tác nghệ thuật. Ai sẽ là thầy dạy con? Chúa sẽ dạy, với điều kiện con phải lên đường. Tác phẩm không bao giờ thành hình chỉ bằng ý nghĩ.

Sau Phục Sinh, thánh sử Máccô ghi lại: "Ngài đã tỏ mình ra cho hai người trong nhóm họ đi đường" (Mc 16,12). Và thánh Luca đã viết những dòng thật đẹp về tâm sự của hai môn đệ trên đường Emmau chiều hôm ấy: "Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng, lúc dọc đường Ngài ngỏ lời với chúng ta, và giải nghĩa Kinh Thánh cho ta đó sao?" (Lc 24,32).

Một lần nữa, Chúa lại chọn lúc hai môn đệ đang đi đường để tỏ mình là ai. Con cũng có hy vọng lòng con sẽ cháy bừng bừng vì Chúa sẽ giải nghĩa Kinh Thánh cho con, sẽ dạy con xây dựng tác phẩm nghệ thuật. Ngày đó sẽ đến nếu con lên đường.


41. NGÀY LỄ BẠC

Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.

Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong tập sách Cô Ðơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.

Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Ðợi 25 năm sau. Một kỷ niệm đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.

Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây hơn 20 năm về trước.

Tên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ hoắc.

Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.

Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Ðất sập kín lẫn với xương. Ðất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc, rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả những xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel số 5 hay 8?

Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.

Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.

Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Ðấy cũng là hình hài tôi 25 năm về trước.

Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc, mà bây giờ thế ư?

Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối.

Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.

Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không còn manh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.

Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin.” Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.

Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.

Cái sọ kia ngày xưa đã bao nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra.

Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.

Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng những con bọ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.

Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.

***

Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó nhưng chỗ này mới hơn thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều tòa nhà bỏ trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Ðất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Ðời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những tháng ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.

Những tờ thư cũ, tấm hình năm xưa sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Ðến lúc họ chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi không còn dấu vết là bao.

Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc. Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.

Ðã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa tôi đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.

Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?

Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau có ba năm tôi chết. Ðứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ thư tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.

Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.

Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Ðời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.

Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.

***

Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tùy đó. Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về Ðức Kitô mới tồn tại.

Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai phần trăm mang theo là tình yêu Chúa và bao dung với người đời.

Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được. Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ sống như thế nào?

Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.

Ðường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ lòng: Ðường đi một mình.


42. NGÀY TẢO MỘ

Tôi đến đây thăm ngôi mộ của tôi. Ba năm trước người ta đưa tôi ra nghĩa trang này. Hôm ấy có người khóc. Chung quanh mộ bia tôi có hoa. Bốn năm ngày sau hoa mới tàn. Sau trận mưa, hoa mới rữa. Người coi nghĩa trang hốt hết đổ vào thùng rác. Rồi, thỉnh thoảng mộ tôi vẫn có hoa. Những cánh hoa lẻ tẻ trong lòng một vài người nhớ tôi. Không nhiều.

Hôm nay không còn thế nữa. Tôi đến đây khá sớm. Tôi hồi hộp không biết hôm nay thế nào. Tôi không biết mình sẽ gặp lại những ai. Hôm nay kỷ niệm ba năm ngày người ta chôn tôi. Tôi còn nhớ ba năm trước, cũng vào ngày này, có linh mục mặc áo lễ, có ca đoàn hát. Trước khi đến đây, tôi nôn nao không biết ngày hôm nay có những gì. Tôi hồi hộp.

Bây giờ rõ rồi, không ai đến cả vì đã quá giờ. Bằng giờ này ba năm xưa người ta đứng chung quanh xác mới chết của tôi. Hôm nay không ai đến. Tôi đợi thêm cho tới ngang chiều thì biết rõ những gì tôi hồi hộp chờ đợi không xảy ra. Tôi đợi mãi, bây giờ xế chiều, sắp tối. Sắp tối thì chắc chắn sẽ không có ai ra đây nữa.

Tôi đứng bên cạnh mộ bia của tôi. Tên tôi còn kia. Ngày sinh, ngày chết. Chung quanh vắng quá. Càng về chiều càng vắng.

* * *

Tôi đứng đây một mình trong ngày tảo mộ. Nhớ về kỷ niệm ba năm trước. Ngày đó xác tôi còn tươi. Ngay trong nhà quàn, có người cũng chỉ đứng nhìn rồi rảy nước phép lên mặt tôi chứ không dám đến gần. Mới đó mà đã xa cách. Người ta sợ con người khi chết. Ngay người thân sống với nhau hằng ngày, khi chết người ta cũng sợ. Người ta không sợ con trâu, con bò chết, người ta sợ con người. Không biết vì sao lại thế. Khi có người chết, người ta bảo nhà ấy có đám ma.

Có đám ma. Vâng. Có đám ma.

Người ta sợ nghĩa trang.người ta bảo ngoài nghĩa trang có ma. Sống với nhau mà vừa chết người ta đã sợ xác nhau rồi. Cũng thân xác đó cho nhau say đắm mà sao người ta sợ nó. Người ta bảo nhà có đám ma.

Rất nhiều người sợ đứng trong phòng một mình với xác chết.

Hôm tôi chết, tôi nhìn xác tôi, nhà quàn cố gắng trang sức mà da tôi vẫn xanh, lạnh cứng. Có người đứng nhìn, họ giữ một khoảng cách. Tôi biết họ sợ. Vừa mới nói chuyện, vừa mới ăn cơm chung, vừa mới đi phố, vừa mới gặp nhau thế mà giờ nhìn xác tôi, họ sợ. Tại sao người ta không sợ con vật chết, mà lại sợ xác người?

Chỉ người mới có hồn. Hồn thiêng liêng đi về một cõi vô hình. Không kẻ nào có kinh nghiệm về cõi vô hình như tôi là kẻ chết bây giờ. Hồn ấy có thể vất vưởng điêu linh. Hồn ấy có thể an vui trong cõi hằng sống. Hồn ấy có thể thành ma. Hồn ấy có thể thành thánh. Hồn ấy có thể bình an. Hồn ấy có thể trăn trở khắc khoải. Thế giới này sau khi chết mới thấy rõ. Tùy thuộc lúc còn sống mà hồn ấy quyết định nơi chốn cho mình ra đi khi chết, và hồn ấy sẽ thành hồn gì.

Người ta sợ xác người vì cái hồn đó.

Xác ấy thành hồn thánh hay hồn ma?

Xác ấy an nghỉ hay là oan hồn khắc khoải?

Hồn ấy sẽ về gặp người sống trong thứ hồn nào?

Phải chăng vì thế mà người ta sợ? Phải chăng lúc sinh thời người ta chưa gặp hồn thánh trong xác thân kia nên bây giờ sợ không biết hồn thánh trong xác thân nào.

Bây giờ trời đang vào tối. Càng không ai dám ra nghĩa trang. Vì thế tôi càng biết chắc là kỷ niệm ba năm ngày tôi chết, vắng quá, nơi ngôi mộ của tôi.

Tôi không muốn đứng trong nghĩa trang này như thế mãi làm gì. Tôi đi tìm một vài kỷ niệm cũ của tôi lúc đương thời. Mặt trời xuống phía sau rặng cây rồi. Mây không còn hồng. Một khoảng trời xám phủ xuống nghĩa trang.

Ðầu tiên, tôi trở về ngôi nhà thờ cũ năm xưa. Bậc thềm vẫn như nguyên. Mấy chân nến đồng lâu năm lắm rồi vẫn nằm trong xó tối góc nhà. Cây thánh giá cũ. Tượng chịu nạn một năm mới sử dụng một lần dịp tuần thánh. Chả có gì thay đổi. Chỉ có tôi đã ra đi. Tám giờ tối có thánh lễ. Nhà thờ đông và vui. Tiếng đàn vẫn như xưa. Người vẫn tấp nập. Trong thánh lễ không có lời kinh nào cầu nguyện cho tôi. Ai cũng bận rộn với bao nhiêu công việc, bao nhiêu chương trình.

Tôi gặp một vài khuôn mặt quen ngày xưa. Nhưng hôm nay làm sao họ nhìn thấy tôi được. Tôi nhìn họ thôi. Họ cũng bận rộn như bao nhiêu người. Tôi cố nói với họ: "Hôm nay tôi đi tảo mộ! Hôm nay kỷ niệm ngày chết của tôi!" Tiếng tôi như gió bay trong trời rộng, chả ai nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo sau họ. Tôi cố nói mà không ai nghe. Tôi đi như thế một quãng đường rồi tôi chán. Tôi phải trả họ về cho đời sống của họ. Rồi một ngày nào họ cũng giống như tôi thôi.

Tôi đi tìm một vài cánh thư đã viết. Tôi bắt gặp mấy lá thư cũ trong căn nhà của người này. Chúng còn đó, nhưng người ta cũng quên rồi. Mấy tấm hình năm xưa. Một chút dư âm còn lại trên cõi đời. Bây giờ nhìn lại, vậy mà ngày đó tôi mất bao thời giờ cho cánh thư ấy. Tôi muốn được lòng người này, tôi muốn tình cảm của người kia. Bây giờ chả còn gì.

Tôi đi tìm một vài đồ dùng của tôi. Bao nhiêu công trình tôi sưu tầm, sách vở, hình ảnh, nghệ thuật. Vì người sống không cùng ý nghĩ với tôi, nên sau khi chết không ai còn gìn giữ chúng cả, chúng đã tan tác và đang dần dần biến đi. Thế mà lúc sống tôi bận tâm săn sóc từng ly từng tí. Có khi tôi tiếc xót về những thứ này. Bây giờ tôi đứng nhìn những thứ ấy sao xa lạ quá.

Một thời để nhớ, một thời thấy là hư vô.

Một thời thu góp, một thời thấy là hoang vu.

Một thời ôm giữ, một ngày thấy là cách xa.

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa không thích tôi. Họ ghen tương chuyện này, chuyện kia, họ thử thách tôi điều này điều nọ. Tôi đứng ngay cạnh họ, họ chả biết gì. Có điều trong thế giới siêu hình người chết thấy nhiều điều người sống không thấy. Tôi thấy họ cũng giả hình nhiều lắm. Họ cũng bon chen nhiều lắm. Sự thành thật thường che đậy bằng những hảo ý tinh vi. Tôi thấy họ cũng thường quá. Vậy mà ngày còn sống tôi cứ băn khoăn về lời phê bình này, lời phê bình kia của họ. Chết rồi mới thấy nhiều cái trên cõi đời quá phù vân.

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa tôi không thích. Bây giờ tôi đứng ngay bên cạnh, mà họ cũng chẳng biết gì. Lúc còn sống tôi không thích họ chứ không phải họ không thích tôi. Chết rồi tôi mới biết mình sai. Những người chỉ trích tôi làm tôi bận tâm. Những người tôi không thích thì tôi quên họ. Bây giờ mới thấy mình lầm nhiều. Họ chả là gì trong xã hội quý trọng danh vọng. Trong thế giới siêu hình tôi thấy cuộc đời họ cô đơn. Vậy mà ngày đó tôi không thích họ. Bây giờ tôi nói với họ: "Tôi xin lỗi nhé. Tôi muốn yêu thương và chân thành." Họ chả nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo họ một quãng đường rồi tôi thất vọng. Họ chả biết gì. Trong trái tim họ, đôi khi nhớ đến tôi, họ chỉ buồn. Ðó, tôi cũng còn lại một chút dư âm.

Tôi đi lang thang chỗ này chốn kia. Tôi tìm người này người nọ. Tôi đứng bên cạnh bàn ăn và ngửi thấy hương thơm café. Tôi ngồi trong xe và nghe họ nói chuyện. Tôi ở bãi biển nghe họ nhắc về những kỷ niệm, trong đó có bóng hình tôi. Tôi đi tìm và cũng còn một chút dư âm trên cõi đời. Cuộc sống là tiếp tục. Tôi chả còn là bao nữa trong cái dư âm kia.

Hôm nay tôi về tảo mộ sau ba năm. Tôi sẽ trở lại nghĩa trang này hơn hai mươi năm sau xem tôi như thế nào. Ngày đó là kỷ niệm 25 năm. Người ta gọi là silver jubilee. Ngày lễ bạc.

* * *

Lạy Chúa,

Con về nhìn lại ngôi mộ mình sau cái chết. Có những điều ngày xưa phải coi thường, con lại bận tâm, như lời phê bình của người này, kẻ kia, như nỗi sợ này, nỗi lo nọ. Cái bận tâm ấy làm cuộc sống mất bao nhiêu buổi bình minh đẹp, mất bao nhiêu tối trăng mơ màng thơ mộng.

Con đã không biết rong chơi trên cõi đời. Hồn con thiếu tự do vì quá bận rộn với biết bao dự tính. Bây giờ con làm gì với những dự tính đó? Còn người ta, có ai tiếp tục cái dự tính ấy đâu. Có con hay không, cuộc đời vẫn là cuộc đời. Con tưởng ngày con chết sẽ là thiếu vắng. Như dòng sông, vừa múc đi một vốc nước, nó lại đầy ngay chả còn dấu vết gì. Vậy mà ngày con sống, tưởng mình là cần thiết. Con phải dành cho mình lẽ đúng. Con đã không biết rong chơi trên cõi đời để mất biết bao mùa xuân lá xanh non, mất biết bao mùa hạ nắng thênh thang. Ngày còn sống sao lòng con chật chội quá.

Lạy Chúa,

Có biết bao điều con coi thường ngày xưa, bây giờ con tiếc nuối. Như sự thương mến chân thành. Như trái tim không chật hẹp. Như biết quý sự tự do của con tim hơn. Như sự từ bỏ cho cõi lòng thênh thang hơn. Nếu những ngày đó con biết quý nó, đời sống của con đẹp thêm biết bao, có thêm bao nhiêu con suối hiền hòa, có thêm bao nhiêu thung lũng xanh tươi. Bây giờ con biết quá trễ.

Có những kỷ niệm như, nhìn lại ngày đó, con bực bội vì họ chần chừ để hết hạn mới mua chiếc vé tầu, làm con phải trả thêm tiền. Con bực bội mãi vì họ không nghe lời. Thực ra họ cũng bận rộn, luôn luôn bận rộn. Bây giờ con mới thấy tiếc vì những ngày tháng cứ bận rộn là bận rộn, không biết rong chơi. Những thứ bực bội đó làm con mất vui, làm mất những ngày đẹp. Bây giờ nhìn lại nó chả đáng gì.

* * *

Tôi ngang qua nghĩa trang. Nhìn ngôi mộ tôi lần nữa. Có mình tôi tảo mộ tôi. Kẻ sống đã chôn và cho tôi một ngôi mộ rồi. Bây giờ là phần tôi. Một mình tôi với ngôi mộ của tôi.

Chiều nay đứng bên ngôi mộ của riêng mình nghĩ lại cuộc đời năm xưa. Bây giờ, tôi biết rõ cuộc đời rồi, nếu được trở lại kiếp làm người nữa, tôi sẽ sống như thế nào?


* * *


(Ngày Tảo Mộ, là bài thứ nhất trong loạt gồm ba đề tài. Tảo mộ lần thứ hai xảy ra 25 năm sau, tức Ngày Lễ Bạc. Tảo mộ sau cùng xảy ra năm mươi năm sau, tức Ngày Lễ Vàng.

Năm mươi năm sau ngày chết, lúc ấy mọi người cùng sinh thời, quen biết đã chết hết. Nếu hồn bạn trở lại, bạn thấy còn lại dấu tích gì của bạn? Hai đề tài sau sẽ in trong tập suy niệm kế tiếp: Ðường Ði Một Mình.)


43. NGOẠI ÐẠO

Lạy Chúa, con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

Là người ngoại đạo sao lại tin có Chúa ngự trên cao? Ðã tin Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn ngoại đạo chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo thôi.

Nhiều người có đạo nhưng không vào đạo. Cũng như nhiều ngườivào đạo nhưng không có đạo. Thơ Nguyên Sa bảo rằng nắng Saigon tôi đi mà chợt mát vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Cũng nắng Saigon tôi đi, nhưng sẽ chẳng chợt mát khi lòng tôi không có áo-lụa-em bay. Áo lụa cũng phơi bên sân hiền nhà ai. Dưới ngõ trúc cũng là áo lụa ai đi về. Cũng là áo lụa đó, nhưng vẫn là khác. Phải là áo-lụa-em bay lòng anh mới chợt mát.

Như thế, xem ra, cái gần gũi không gian có là gần mà vẫn là xa. Cái lòng mình chợt mát phải là cái gì thiêng liêng hơn, nó ở trong hồn ta chứ không ở ngoài ta. Nếu nó ở ngoài ta thì bất cứ áo lụa nào lòng tôi cũng chợt mát, bất cứ nắng nào cũng được chứ không phải nắng Saigon. Cái nắng Saigon, con đường Duy Tân lá đổ, hàng me già công viên, tự nó chỉ là me, là nắng, là lá đổ mà thôi cho những ai đi giữa Saigon mà không có Saigon với áo-lụa-em trong hồn mình. Còn ai có áo-lụa-em thì nắng là chợt mát, lá đổ là muôn chiều dư âm. Ðạo cũng thế, chỉ khi nào đạo ở trong tôi mới là có đạo, mới là "chợt mát", là ơn cứu độ.

Thủa xưa cũng đã có một chuyện tình. Ngày đó, sau khi phạm tội, Ađam cùng Evà đi "trong địa đàng" nhưng vẫn là rũ úa giữa địa đàng. Như thế, "tôi ở trong địa đàng" vẫn là thống khổ, chỉ khi "địa đàng ở trong tôi", lúc đó tôi mới "có địa đàng", bấy giờ mới là gió lụa, mới là nắng hoa, mới là lòng mình chợt mát.

Nói về có đạovào đạo thì Phúc Âm có nhiều biến cố tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.

Một người ngoại đạo

Kết thúc cuộc đời rao giảng của Chúa là khúc đường vác thập giá lên Núi Sọ. Nếu Chúa vác không nổi mà chết trên đường đi thì hành trình cứu chuộc có dang dở không? Ðó là câu hỏi giả sử mà thôi. Thực tế, hành trình cứu chuộc đã không dang dở. Chúa đã không kiệt sức mà chết trên đường đi vì đã có người vác đỡ. Kẻ vác đỡ thánh giá là ông Simon, người xứ Kyrênê, ông là một người ngoại giáo (Lc. 23:26).

Một người ngoại giáo nữa

Trong quãng đời mục vụ của Chúa, Tin Mừng thánh Matthêu có kể câu chuyện đức tin của một người như thế này:

Khi Ngài vào Carphanaum, thì một viên bách quản đến gặp Ngài, van xin: "Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà, phải đau đớn dữ dằn." Ngài nói: "Ta phải đến chữa nó?" Viên bách quản thưa lại: "Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào mái nhà tôi. Song Ngài hãy phán một lời mà thôi, thì tên hầu tôi sẽ khỏi, vì tôi đây tuy là thuộc hạ, thế mà có lính tráng dưới quyền tôi, tôi bảo người này: "Ði đi!" là nó đi; và bảo người khác: "Ðến!" là nó đến; tôi bảo tôi tớ của tôi: "Làm cái này" là nó làm". Nghe vậy Ðức Kitô ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel" (Mt. 8:5-10).

Lại một người ngoại giáo nữa

Câu chuyện trên là chứng nhân của niềm tin. Câu chuyện dưới đây nói về tâm tình biết ơn, cũng lại là một người ngoài.

Nhằm lúc Ngài vào một làng kia, thì mười người phung hủi đón gặp Ngài. Ðứng đàng xa, họ gióng tiếng lên mà rằng: "Lạy Thầy Yêsu, xin thương xót chúng tôi!" Thấy vậy, Ngài bảo họ: "Hãy đi trình diện với hàng tư tế." Và xẩy ra là trong lúc họ đi, thì họ đã được sạch. Một người trong bọn thấy mình được lành thì quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari. Ðức Yêsu cất tiếng nói: "Không phải là cả mười người được sạch cả sao? Chín người kia đâu? Không thấy họ quay lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại bang này?" (Lc. 17:11-18).

Rồi lại một người nữa ngoại giáo

Thánh Luca thuật lại câu chuyện như sau: "Một người ở thành Yêrusalem xuống Jêrico, giữa đường bị kẻ cướp bóc lột hết và đánh nhừ tử, đoạn chúng bỏ người ấy nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một trưởng tế đi qua đấy, ông thấy người ấy song tránh một bên mà đi. Lại có một thầy Lêvi cũng qua lối ấy, thầy thấy người ấy song cũng tránh một bên mà đi. Một người Samari nọ, nhân đi đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, tiến lại đổ dầu và rượu, ràng buộc thương tích người ấy, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy (Lc. 10:29-37).

Thầy tư tế và Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa, họ là kẻ giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng lại không có đạo. Kẻ sống đạo lại là người ngoại đạo.

Rồi những người ngoại giáo nữa

Vào đêm Chúa sinh ra, trên bầu trời Belem năm ấy có một vì sao lạ. Cả triều đình và bao nhiêu pho Kinh Thánh, với những kinh sư chuyên môn cắt nghĩa ngôn sứ, mà họ chẳng biết gì, họ phải đợi cho tới khi những kẻ ngoại giáo từ phương xa tới hỏi: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra ở đâu? (Mt. 2:1-12). Trên bầu trời Belem năm ấy, vâng: Con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

* * *

Lạy Chúa,

- Nói về niềm tin thì các môn đệ khẳng định Thầy đâu có sống lại (Mc. 16:11, Yn. 20:25). Trong khi người có niềm tin mà tìm hết dòng dõi nhà Israel cũng không thấy lại là một người bên ngoài.

- Kẻ vác đỡ thánh giá cho Chúa trên những bước chân xiêu té cuối đời cũng lại là người ngoại.

- Nói về lòng biết ơn thì ít quá. Trong cái ít ỏi ấy lại cũng là một người bên ngoài.

- Nói về lòng bác ái thương người thì cũng không phải là tư tế hay các vị chức sắc trong đạo mà lại là người Samari, một kẻ ngoại giáo.

Băn khoăn một chút thế nào là "người bên ngoài", thế nào là "người bên trong", thế nào là "ngoại đạo" và "có đạo", con thấy một lần Chúa nói: "Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tự phương Ðông, phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Yacob trong Nước Trời, còn chính con dân trong Nước lại sẽ bị đuổi ra bên ngoài tối tăm" (Mt. 8:11-12).

Con không muốn là con dân trong Nước nhưng bị loại ra ngoài. Làm kẻ từ mười phương mà được Nước Trời thì vẫn tốt hơn. Nếu thế thì con phải hiểu ÐẠO là gì. Con phải băn khoăn thế nào là "vào đạo" và thế nào là "có đạo". Trời chiều nay rộng quá, mênh mông như ÐẠO không bến bờ. ÐẠO mênh mông lắm, làm sao con có thể đem ÐẠO vào một định nghĩa chật hẹp được. Làm sao con có thể nhốt ÐẠO vào nhà thờ, vẽ chân dung ÐẠO bằng tờ giấy rửa tội. Ðã nhiều lần con loại bỏ những ai không cùng tôn giáo với con là người "ngoại đạo".

Bỏ cái chật hẹp của lòng mình, con thấy ý nghĩa lời kinh kia quá đỗi thênh thang. Nếu những giải mây ngang đời trôi về vùng trời bao la không biết đâu là bờ bến thì ý nghĩa của lời kinh ấy cũng mênh mông không biết đâu là bến bờ. Lời kinh đó là:

Lạy Chúa, con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.


44. NGƯỜI ÐỔ RÁC

Một ngày tôi thải biết bao nhiêu rác. Cái mùi tanh, cái mùi chua, không có thùng rác tôi không sống nổi. Nếu không thể thiếu thùng rác thì người đổ rác cũng là cần thiết.

"Hỡi Anh em, tôi viết các điều này để anh em đừng phạm tội. Nhưng ai trót phạm tội, thì này, ta có Ðấng bầu chữa nơi Cha, Ðức Yêsu Kitô, Ðấng công chính. Ngài là hy vật đền tạ các tội lỗi ta, không những các tội lỗi ta mà thôi, mà của tất cả thế gian nữa" (1 Jn. 2: 1-2).

Ðấng gánh tội trần gian

Có những bài hát ca ngợi Ðức Kitô là vua trên vua. Có nhiều nhà thần học đi tìm mầu nhiệm về con người Ðức Kitô, Ngài được gọi là Ðấng quyền năng, vô hình. Có nhiều sách tu đức đi tìm những chiều sâu suy niệm về Ðức Kitô, Ngài được gọi là Bánh Hằng Sống. Trong bao nhiêu tước hiệu, tôi thích tên gọi Ngài là Ðấng Gánh Tội trần gian.

Nói về vua thì cao sang quá. Nói về tư tế thượng phẩm thì thánh thiện quá. Nói Ngài là Ðấng Gánh Tội, lối gọi đó cho tôi hình dung Ngài thương xót và gần gũi hơn.

Chúa bảo cái dơ bên ngoài không làm người ta xấu mà là tâm địa tồi bại trong lòng (Mt. 15: 11). Như thế rác chỉ có thể làm bẩn cuộc đời, còn tội làm cuộc đời thành rác. Không muốn đời mình là rác thì tôi cần Ðấng Gánh Tội tôi biết bao nhiêu. Vì tội làm cuộc đời tôi thành rác, nên khi gọi Chúa là Ðấng Gánh Tội trần gian, có thể nói đấy chỉ là một lối phiên dịch của kiểu nói mộc mạc: Chúa là người đổ rác.

Tâm trạng người đổ rác

Người đi qua căn nhà tôi, ngõ thềm im lỉm. Ðã mấy mùa nắng mưa trôi qua. Có những chiều tàn hoàng hôn rủ xuống rất muộn, Người Ðổ Rác vẫn thờ thẩn đi ngang qua ngõ. Có những ngày ủ dột mưa nhỏ giọt lê thê, vẫn bóng Người Ðổ Rác ấy đi lặng lẽ trong cái lạnh cô độc qua căn nhà của tôi. Nhìn vào, chờ đợi, rồi lại đi.

* * *

Từ thủa xa xưa, Người không phải là kẻ đổ rác. Có một thời vũ trụ đẹp lắm. Người là nghệ sĩ. Óc sáng tạo đưa Người đến những bến bờ mênh mông của nghệ thuật. Một giải mây vàng. Một đóa ánh sáng. Một hồ thu biển lặng. Một rừng xuân trầm trầm. Tất cả công trình Người tạo dựng đã đưa vũ trụ thành tác phẩm tuyệt vời. Người là nghệ sĩ. Nhưng sau khi tạo dựng nên con người, Ngài trở thành Người Ðổ Rác.

* * *

Chiều nay, lại một lần nữa Ngài đi qua căn nhà của tôi. Vẫn dáng điệu suy nghĩ mênh mông. Ðôi vai Ngài mỏi lắm vì thập giá quá nặng phải vác hôm nào. Vẫn chiếc áo dài Mẹ Ngài may cho từ thủa vào đời gánh tội trần gian. Chiếc áo bụi đường sương đất, Ngài vẫn mang theo như tình Mẹ gởi cho con. Và chiều nay, căn nhà tôi vẫn đóng cửa, im lìm.

* * *

Không nhà ai mà không có rác. "Kẻ nói mình không có tội là kẻ tự lừa dối mình" (1 Jn. 1: 8). Lời Kinh Thánh đã nói như thế. Bởi đó, Ngài cứ băn khoăn về căn nhà của tôi.

* * *

Có những lần Người gõ cửa. Tôi biết bước chân Người đi qua. Bàn tay khô sần, gõ lên cánh cửa linh hồn tôi. Trong ngái ngủ ủ dột, tôi lặng lẽ trong hơi thở đã quen, rất quen trong căn nhà cũ.

* * *

Hồn Người là vùng trời nghệ thuật không bến bờ. Người thao thức mãi để xóa đi một mảng mầu tanh tưởi. Trong căn nhà tôi, Người biết, có mùi tanh của rác. Người băn khoăn. Sự tự do Người cho tôi đã giữ chân Người ngoài hiên thềm nhà tôi. Người chỉ là kẻ đổ rác khi có người cho rác để đổ.

* * *

Ðèn vàng ở cuối phố đã lên, chiều nay Người về chậm, những bước chân mệt mỏi. Người nhìn vào căn nhà tôi kiên nhẫn chờ đợi.


45. NHÀ THỜ

Phúc Âm Thánh Matthêu thuật lại Chúa vào đền thờ như sau: "Ðức kitô vào đền thờ, Ngài xua đuổi kẻ buôn bán, và những kẻ mua. Ngài lật nhào bàn ghế của người đổi bạc, và của kẻ bán bồ câu. Ngài nói với họ: Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" (Mt 21,12-13). Phúc Âm thánh Yoan thêm chi tiết nữa là Chúa "lấy giây thừng làm roi mà xua đuổi họ". Và nói với họ là đừng biến nhà Cha Ta "thành cái chợ" (Yn 2,13-17).

Phúc Âm muốn nói gì về hành động của Chúa ở đây? Lời văn mô tả rất ngắn nhưng mỗi chữ mang một ý nghĩa thật sâu. Những gì đã thực sự xẩy ra ở Jerusalem vào ngày hôm ấy? Theo lời mô tả của Phúc Âm, điều làm tôi chú ý là trong suốt cuộc đời của Chúa, không khi nào Chúa đối lập rắn rỏi với dân chúng như lúc này. Chúa lật nhào bàn ghế. Chúa lấy giây thừng làm roi, xua đuổi các tín hữu. Chúa đã dùng những danh từ rất nặng. Ðây là bảng so sánh:

-   Ðền thờ - - - - - - - - -    Hang trộm cướp.

-   Nhà cầu nguyện - - - - - cái chợ.

-   Người trong đền thờ - - - kẻ buôn bán.

-   Của lễ - - - - - - - - - - - - tiền bạc và súc vật.

-   Hành động của Chúa - - lật nhào bàn ghế, lấy giây thừng quấn roi, xua đuổi dân chúng.

-   Kết luận của Chúa - - - Nhà Ta là nhà cầu nguyện.

Có buôn bán thì khó mà tránh được gian dối. Có tiền bạc thì làm sao tránh được rình mò. Ở đâu có súc vật, ở đó có mùi ô uế. Ðã là chợ thì có người trả giá, có người đôi co, có ồn ào. Có trộm thì có mất cắp. Gian dối sinh cãi nhau. Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện! Chúa thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.

Hôm nay, nếu Chúa vào nhà thờ, Chúa có còn phải lập lại lời nói 2,000 năm xưa: Nhà Ta là nhà cầu nguyện?

* * *

Hôm nay, có nhà thờ đã bỏ hoang. Có nhà thờ đã được bán lại để làm khách sạn, làm tiệm buôn. Thánh giá ngày nào trên tháp cao đã bị hạ xuống. Những cửa sổ kính mầu rực rỡ mầu nhiệm cứu rỗi không còn nữa. Bây giờ là hình vẽ quảng cáo. Chúa mất nhà thờ.

Bù lại, nhiều nơi lại xây nhà thờ. Muốn xây nhà thờ thì phải có tiền. Không có tiền thì tìm cách kiếm tiền. Tiền có thể làm mất sự trong sáng của tâm hồn, làm của lễ vương khói trần gian. Lịch sử Giáo Hội đã trải qua những đoạn đường tăm tối vì nhà thờ. Không thời kỳ nào Giáo Hội xây nhiều nhà thờ, xây huy hoàng như thời trung cổ. Cần tiền xây nhà thờ, nhiều nơi trong Giáo Hội đã bán ân xá lấy tiền. Ai càng mua nhiều thì càng được bảo đảm phần rỗi linh hồn. Luther nhận thấy đường lối sai lầm ấy, đã chống lại, đã tranh luận, đã chia rẽ. Có nhiều lý do để Luther ly khai khỏi Giáo Hội, nhưng một trong những lý do lớn đó cũng chỉ vì cần tiền để xây nhà thờ.

* * *

Có rất nhiều loại nhà thờ. Nhà thờ của những nước giàu thì nguy nga. Nhà thờ của những dân tộc nghèo thì lợp lá, vách đất, mưa dột. Có nhà thờ Công Giáo, có nhà thờ Tin Lành. Thế giới hôm nay vẫn ngưỡng mộ Ganhdhi vì tinh thần bất bạo động của ông. Tinh thần hòa bình này chẳng xa gì tinh thần của Chúa Kitô. Gandhi đã suy tư rất nhiều về Kitô giáo. Tiểu sử viết về đời ông kể lại là có một lần kia Gandhi đến nhà thờ. Khi ông đến cửa thì người đứng chào ở cuối nhà thờ lịch sự chào ông, rồi nói với ông rằng, ông đến nhà thờ là điều chúng tôi rất mừng, nhưng xin ông đến nhà thờ dành cho người da đen. Gandhi âm thầm, cúi đầu đi và không bao giờ trở lại nhà thờ nữa. Hôm nay, biết đâu cũng có những người đang mất niềm tin vào Chúa cũng chỉ vì nhà thờ.

* * *

Nếu nhà thờ là nơi đông người tụ họp nhất thì cũng là nơi nhiều ma qủy nhất. Ở chợ búa thì ma qủy thường chỉ cám dỗ người ta gian dối thôi. Nhưng nhà thờ là nơi ma qủy có thể cám dỗ đủ mọi thứ. Có thể đến nhà thờ để làm đẹp lòng người khác. Có thể đến nhà thờ vì sợ bị chê là thiếu đạo đức. Nhà thờ là nhà cầu nguyện. Nhưng cũng có thể xây nhà thờ để nổi danh. Có thể xây nhà thờ vì tự ái, giáo xứ bên cạnh xây được thì mình cũng phải xây cho xong. Nhà thờ là nơi nghe Lời Chúa: "Các ngươi đừng xét đoán nhau" (Yc 4,11-12). Nhưng chính nhà thờ lại trở nên tiêu chuẩn xét đoán. Nhìn kẻ này, trông kẻ kia có đi nhà thờ không để đánh giá lòng đạo đức của họ. Có người đến nhà thờ để chú ý đến mình, có thể là nhan sắc, tài năng, chức vụ trong xã hội. Ngày lễ là lúc nhà thờ nhộn nhịp đàn ca, quần áo. Nhưng có mấy ai nghe thấy nỗi vắng, nhìn thấy cái nghèo của Chúa trên thập giá.

Cái nghèo của Chúa có khi vẫn dễ thấy. Nghe nỗi vắng, thấy cái nghèo nơi con người mới khó. Không ai mặc áo rách đến nhà thờ. Vì thế, để thấy cái nỗi khổ, cái nghèo nơi con người, phải ra khỏi nhà thờ, đi vào nhà thờ trong cuộc sống lầm than của họ. Lúc đó, phải xây nhà thờ là cuộc đời.

* * *

Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện. Nhưng nhà thờ cũng là những vết thương đau đớn nơi thân thể Chúa Kitô. Nhà thờ là nơi mọi người chung một bữa tiệc, ăn cùng một bánh, chia sẻ cùng một chén thánh. Nhà thờ là nơi nối kết mọi phần tử trong một thân thể. Nhưng nhà thờ đã trở thành chia rẽ.

Bên bờ giếng, người đàn bà Samari hỏi Chúa: "Lạy Ngài, tôi thấy Ngài là tiên tri... cha ông chúng tôi thờ phượng trên núi này, còn các ông thì lại bảo Jerusalem mới là nơi thờ phượng" (Yn 4,19). Ðức Kitô nói với bà ấy: "Này bà, hãy tin Ta, sẽ đến giờ không phải trên núi này hay tại Jerusalem mà các ngươi thờ phượng Cha" (Yn 4,21). Người đàn bà băn khoăn không biết phải thờ Chúa ở đâu. Chúa nói với bà: "Giờ sẽ đến, và là ngay bây giờ, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Cha chỉ muốn gặp những kẻ thờ phượng Ngài như thế" (Yn 4,23). Người Do Thái có đền thờ trên đồi Jerusalem. Người Samari có đền thờ ở núi Gerizim. Họ không được phép vào nhà thờ của nhau. Hai bên đã thành thù địch cũng vì nhà thờ.

Chúa không cần nhà thờ. Chỉ có con người cần nhà thờ. Con người cũng không cần nhà thờ nếu sống riêng lẻ. Ðiều ấy hàm ý, nhà thờ chỉ là nhà thờ khi nhà thờ là trung tâm điểm để dân Chúa hiệp thông. Ðánh mất sự hiệp thông, nhà thờ không còn ý nghĩa. Lịch sử hôm qua là thế, hôm nay cũng vậy, nhiều nhà thờ đã làm mất bình an trong gia đình. Nhà thờ gây đổ vỡ trong Giáo Hội. Nhà thờ đem đến phân ly. Chúa Kitô vẫn giang tay trên thập giá. Mỗi phe cầm một tay để kéo Chúa về phe mình thì Chúa sẽ bị rách đôi. Ðau đớn, nhưng Chúa biết làm sao, Chúa phải thương cả hai, vì tất cả đều là con của mình.

* * *

Lạy Chúa, không có nhà thờ nào đẹp bằng đền thờ của tổ phụ chúng con xây cho Chúa ở Jerusalem. Ôi Jerusalem đền thánh thành vàng. Công trình ròng rã xây cất trrong bốn mươi sáu năm (Yn 2,20). Chúa đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của đền thờ, sao Chúa lại nói: "Nhìn ngắm công trình ấy ư? Ở đó, sẽ không còn hòn đá nào trên đá nào, tất cả sẽ bị phá tan tành" (Mt 24,1-2).

Chúa bị các đạo sĩ kết án vì Chúa bảo phá đền thờ ấy đi, Chúa sẽ dựng lại trong ba ngày. Sợ chúng con không hiểu, nên thánh Yoan đã phải viết rõ: "Còn Ngài, Ngài nói về đền thờ Thân Mình Ngài" (Yn 2,21). Lạy Chúa, nếu vậy thì con phải hết sức cẩn thận. Vì chỉ lo xây nhà thờ cho Chúa mà quên đi rằng Chúa là nhà thờ của con. Khi xây nhà thờ thì ma quỷ cũng có thể vào trú ngụ và gây nên biết bao gương xấu. Nhưng nếu lấy Thân Thể Chúa làm nhà thờ thì không ma quỷ nào vào được. Và, trong nhà thờ ấy con sẽ sống bình an.

Nếu hôm nay Chúa hỏi: "Shopping center ở đâu?" Con có thể chỉ lối cho Chúa. Nếu Chúa hỏi: "Làm sao đến hý viện?" Con cũng có thể biết đường. Nếu Chúa hỏi: "Ðường nào đến nhà thờ? " Thì con bắt đầu phân vân, vì có quá nhiều nhà thờ, nhà thờ Tin Lành, nhà thờ Công Giáo, nhà thờ da đen, nhà thờ da trắng, nhà thờ Do Thái, nhà thờ của nhóm này, nhóm kia, con không biết Chúa chọn nhà thờ nào. Tuy nhiên, con vẫn có thể chỉ liều cho Chúa một ngôi. Nhưng nếu Chúa hỏi: "Nơi nào Cha có thể ngủ trọ đêm nay?" Thì con thực sự phân vân. Chính trong trái tim mình, con cũng không biết chắc đã sẵn sàng cho Chúa ở chưa. Trái tim mình là nơi gần mình nhất mà còn không biết thì làm sao biết những gì ở xa mình.

Nơi nào Cha có thể ngủ trọ đêm nay?

Câu hỏi của Chúa ngắn ngủi, mà câu trả lời thì nghe xa xôi, hiu hắt quá.


46. NHẶT CÁ

Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi, vỏ dừa. Người ngư phủ nào cũng cần ngồi nhặt cá. Ðời tôi quá bận rộn, tôi không có giờ. Tôi cần gấp gáp thả lưới. Tôi chỉ muốn kéo lên. Ðổ cá đó, xuống chợ đời tiếp tục thả. Vì đời quá nhiều người thả lưới. Tôi sợ sẽ đi về đâu cuối ngày khi chung quanh tôi có kẻ thả ưới suốt đêm.

Tôi phải hối hả. Tôi cần gấp gáp. Tôi không có giờ ngồi bên bờ nhặt cá. Tôi để đó, lẫn lộn những gì kéo lên từ cuộc đời.

“Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.

Tôi vẫn thường để lại những lời yêu thương như thế. Rồi con tôi lớn dần. Chúng lớn không ngờ. Những đêm về trễ, tôi nhìn con ngủ. Cúi xuống hôn con. Mẹ ước ao có giờ cho con, nhưng mẹ quá bận rộn. Lòng tôi chùng xuống một chút se sắt. Con ngủ, con không biết mẹ mình sau một ngày thả lưới quá mệt, đang hôn con trong khoảnh thời gian, mà đối với con chẳng ý nghĩa gì, vì con đang ngủ. Tôi gắn tên cửa tủ lạnh, tôi gài trên tay cầm phôn những lời căn dặn yêu thương.“Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.”

Rồi con tôi cứ lớn lên, không ngờ.

***

Chồng tôi cũng thế. Anh phải thả lưới cuộc đời. Như tâm sự của anh viết trong ánh mắt, một lần tôi đọc. Tôi thấy trong ánh mắt anh, như nói trong tâm trạng băn khoăn. Cũng chùng xuống một chút se sắt như tôi đối với con.

Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project đang dang dở. Em yêu dấu.

Ai cũng bận rộn, hối hả thả lưới cuộc đời. Tôi chỉ hơi buồn mỗi khi vắng anh như thế. Có buồn, nhưng tôi im lặng chịu đựng vì tôi cũng bận rộn như anh. Cuộc đời là những rượt bắt không ngừng. Chung quanh tôi là những bàn chân hối hả.

>“Con của ba! Ba tặng con món quà ngày sinh nhật.”

Ðã có lần chúng tôi nói với nhau. Mình chẳng có thời giờ cho con. Thôi thì bù trừ cho chúng, chúng muốn gì em cứ mua. Chúng tôi mua quà cho con như một yêu thương đền bù. Chúng tôi lấy đồ chơi thay cho nụ hôn ôm con, lúc chúng còn bé. Chúng tôi lấy tiền bạc, quà tặng thay cho những bữa cơm chiều vắng bố, vắng mẹ, khi chúng đã lớn. Chúng tôi cũng đối xử với nhau như thế. Anh vội vã tạt vào shop mua cho tôi chiếc ví da, thay vì những phút phải đi bên nhau tâm sự. hời gian cứ trôi xuôi lạnh lùng. Tôi cứ thả lưới và nặng nề kéo lên.

Người ngư phủ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ. Sau mỗi mẻ lưới kéo lên, ông ngồi kiên nhẫn, chậm rãi vứt cá xấu đi.

Tôi không giống người ngư phủ. Tôi có nghe mùi tanh của một loài cá ươn. Tôi biết có có đỉa, có củi mục trong mẻ cá vừa kéo. Nhưng tôi không có giờ.

Năm tháng qua đi không ngờ. Con tôi bây giờ cũng như bày cá đến tuổi lớn. Chúng dần dần bỏ bến ao, tìm đường ra sông cái. Vào đại học rồi đi xa. Ðôi khi tôi thẫn thờ lần về quá khứ. Những tấm ảnh con tôi lúc lên năm, lên ba. Chỉ nhớ và thương.

Rồi một ngày chồng tôi cũng như tôi, không biết những tấm hình năm xưa chụp chung bây giờ ở đâu. Trong mẻ lưới cuộc đời, anh cũng chẳng có giờ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu quăng đi. Ðến một ngày tôi linh cảm bơ vơ một nỗi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Ðó là ngày tôi vô tình nghe mẩu đối thoại:

- I love you.

- I love you too.

Chồng tôi bảo em không nên lo. Không phải chuyện tình cảm. Chỉ là công việc làm ăn của anh. Anh tiếp tục thả lưới và cứ hì hục kéo lên. Tất cả, cá tốt lẫn cá xấu. Tôi không biết rõ mình. Nhưng trong tôi dường như thấy một chút hoang vu nào đó đi về. Nỗi hoang vu khó định nghĩa. Về phía mẻ lưới của tôi, lần cuối tôi nói với người đàn ông không phải chồng tôi:

- Anh gởi cho em về hộp thư này.

Tôi không muốn chuyện gì xảy ra cho gia đình. Tôi muốn gìn giữ hạnh phúc. Không muốn chồng tôi hiểu lầm. Tôi có hộp thư riêng, một P.O. Box. Tất cả chỉ là công việc làm ăn. Những gì tôi lý luận cũng giống chồng tôi. Và tôi tiếp tục thả lưới. Tiếp tục kéo lên tất cả. Chúng tôi giống nhau là không ai có giờ ngồi bên bờ nhặt cá xấu vứt đi. Mơ hồ lãng đãng, tôi không phân biệt được cá nào lành. Tôi yêu mầu sắc của những con cá độc. Tôi không hiểu tình yêu hôn nhân chúng tôi có tiếng thở dài từ bao giờ. Chỉ biết hôm nay, tiếng thở dài quá mệt mỏi.

Thời gian cứ trôi, rồi đến một ngày. Những con cá ươn sình lên mùi hôi. Rác chung với cá. Mảnh chai, vỏ dừa. Những con đỉa và những càng cua gẫy nát. Tốt và xấu lẫn lộn. Những con cá lành bị nhiễm độc.

Khi chiều tàn mệt mỏi. Lúc hoàng hôn rủ nắng xuôi mùa. Những cơn mưa lộp độp kéo về, cũng là lúc chúng tôi mất nhau.

Chồng tôi ra đi với người ấy.

Tôi quay về tấm lưới cuộc đời xuôi theo loài cá khác.

Nhìn lại những bến bờ. Lời Kinh Thánh như một nốt nhạc thăng trầm:

“Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng xảy ra như vậy. Các thiên thần cũng sẽ xuất hiện, và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt. 13: 47-50).

Hạnh phúc không chỉ giống như chiếc lưới thả xuống biển rồi kéo lên tất cả. Hạnh phúc hệ tại ngồi bên bờ, nhặt cá xấu vứt đi. Tôi để con tôi vào đời giống tôi. Chúng đã lớn lên, học nơi tôi những mẻ lưới hối hả. Tôi đã từng dạy chúng phải nhanh chân kẻo thua trễ người ta. Tôi không chỉ cho chúng ngồi bên bờ, sau mỗi mẻ lưới, nhìn kỹ, nhặt cá xấu vất đi.

Chúng đang thả lưới. Ðời đang hối hả. Con tôi có sẽ tự ngồi bên bờ lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vất đi? Hay chúng cũng sẽ như tôi, hối hả kéo lưới, tiếp tục gắn trên cửa tủ lời nhắn với các con của chúng: “Con ơi, má thương con thật nhiều. Má phải về trễ đêm nay.”

Người ta bận rộn thả lưới. Chẳng mấy ai có giờ ngồi bên bờ xem mẻ lưới đời mình.

Biết đâu ngày nào, người chồng của con gái tôi cũng có những lời tương tự với nó: Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project anh đang dang dở.

***

Bạn thân mến,

Ðoản khúc trên đây thật buồn. Nhưng dường như đang xảy ra. Bạn cứ ngồi bên bờ, với Chúa trong những ngày tĩnh tâm, bạn sẽ thấy những gì bạn đang không thấy. Và rồi, biết đâu bạn lại chẳng hạnh phúc nuối tiếc vì đã không sớm ngồi bên bờ cuộc đời nhặt cá.


47. NHỮNG ĐÔI CHÂN ĐAU

Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu. Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người:

- Thầy mà lại rửa chân cho con sao?

Ðức Giêsu trả lời:

- Việc Thầy làm bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.

Ông Phêrô lại thưa:

- Thầy mà lại rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu.

Ðức Giêsu đáp:

- Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh không được chung phần với Thầy.

Ông Simon Phêrô liền thưa:

- Vậy, thưa Thầy xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và cả đầu con nữa.

Ðức Giêsu bảo ông:

- Ai đã tắm rồi không cần phải rửa nữa, toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!

Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói không phải tất cả anh em đều sạch. Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ðức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói:

- Anh em có hỏi việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là "Thầy" là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em (Yn 13:1-15).

* * *

Phân tích toàn chương 13, ta thấy trong chương này có 3 bài tường thuật:

- Thứ nhất: Chúa rửa chân các môn đệ (câu 1-20).

- Thứ hai: Giuđa phản bội (câu 21-30).

- Thứ ba: Loan báo Phêrô chối Thầy (câu 31-38).

Nhìn chung cả chương 13, sự kiện Chúa rửa chân các môn đệ được đặt trước sự kiện Giuđa phản Thầy và Phêrô chối Thầy. Bước chân của cả hai người này đều đi sai.

Xét riêng bài tường thuật Chúa rửa chân các môn đệ, ta thấy những sự kiện rửa chân được vây bọc chung quanh bằng những hình ảnh như sau:

- Giuđa phản bội, nhắc lần thứ nhất (câu 2)

- Rửa Chân (câu 6)

- Giuđa phản bội, nhắc lần thứ hai (câu 11)

- Gương Phục Vụ (câu 14)

- Giusđa phản bội, nhắc lần thứ ba (câu 18)

Dựa vào toàn mạch văn, sự kiện Chúa rửa chân các môn đệ bị vây bọc chằng chịt ba lần bằng sự phản bội của Giuđa và bàn chân đi sai của Phêrô. Ngay sau đó, nửa chương 13 dành nói về tiệc ly là nhúng miếng bánh trao cho Giuđa. Bầu không khí ở đây toàn là những bước chân đi sai của môn đệ và tình bao dung của Ðức Kitô. Vậy, đâu là chiều sâu trong ý nghĩa Chúa rửa chân các môn đệ?

Chúa rửa chân các môn đệ có là hành vi khiêm nhường để các môn đệ bắt chước, phục vụ nhau không? Chắc chắn là có, vì Phúc Âm nói đến. Nhưng xét theo mạch văn, chỉ vỏn vẹn có câu 14 và 15 nói về vấn đề phục vụ: "Nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Yn 13:14-15).

Hai câu này dễ kéo sự chú ý của người đọc. Nhưng xét theo toàn bài, sự nổi bật này mang tính cách lạc lõng, chưa chắc là tư tưởng chính. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và phêrô cho thấy sự kiện rửa chân không liên quan đến vấn đề Chúa hạ mình phục vụ, nêu gương cho các môn đệ noi theo.

Chúa tiến đến Phêrô, ông co chân lại từ chối. Ông không thể hình dung Thầy lại cúi xuống rửa chân học trò. Ðiều ấy đối với Phêrô là xúc phạm. Trò không thể để Thầy lại rửa chân trò! Chính thế ông kêu lên: "Không đời nào con chịu để Thầy rửa chân cho con đâu" (Yn 13:8). Phêrô nhìn hành động rửa chân là phục vụ. Ông không thấy chiều sâu khác là chân ông cần được thanh tẩy vì chân ông bước sai.

Câu trả lời của Chúa cho thấy việc rửa chân Phêrô mang một chiều kích sâu xa khác, không là phục vụ như Phêrô nghĩ: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh không được chung phần với Thầy" (Yn 13:8).


Ðôi chân Phêrô:

Tại sao Ðức Kitô không rửa chân Phêrô, thì ông không được "chung phần" với Ngài?

Ðây là chìa khóa mở ý nghĩa đoạn Phúc Âm Chúa rửa chân này vào chiều kích sâu hơn. Phêrô phải được Chúa rửa chân để được thông phần cứu độ. Trong ý nghĩa này, Chúa không rửa chân Phêrô để nêu gương khiêm nhường phục vụ, mà rửa chân để Phêrô được chung phần ơn cứu rỗi. tại sao?

Phêrô đã đi với Chúa một hành trình rất dài, bao nhiêu lần ngang dọc theo biển hồ Galilê, bao nhiêu đêm dưới ánh trăng. Trò đã theo Thầy bước ngang qua những vườn ô liu im lặng. Chân đi bên chân, chân vào sa mạc, chân lên núi. Thầy trò có nhau. Nhưng khi Ðức Kitô tỏ cho Phêrô mầu nhiệm cứu độ, Ngài phải về Jêrusalem chịu tử nạn thì Phêrô không chấp nhận đi cùng bước chân ấy nữa. Ông kéo Chúa ra, lên tiếng trách Ngài (Mc 8:32).

Bây giờ mới rõ những bước chân!

Ôi! Những bước chân đi sai!

Từ giây phút loan báo cuộc tử nạn này, bước chân Phêrô rất khác. Ông bước những bước xiêu vẹo. Ông nghiêng đổ vì đôi chân đau. Ông ngủ li bì trong lúc Chúa cầu nguyện thống khổ như Tin Mừng ghi lại. "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?" (Mc 14:37). Lời cầu nguyện của Chúa như thương chính mình, xót xa cho một liên hệ mà những bước chân kia thờ ơ. Phêrô không cầu nguyện dù Chúa đã cảnh giác tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ. Ông sắm sẵn một thanh gươm và vung tay chém (Yn 18:10).

Ông có bước chân riêng của ông!

Ôi! những bước chân đi sai!

Cái nghiêng ngả bi đát nhất trên đôi chân ông là đã chối Chúa. Chối lần thứ nhất xong, bỏ đống lửa đó đi ra phía tiền đường (Mc 14:68). Bước ra phía tiền đường là bước ra phía ngoài, như thế bước chân ấy lại đưa ông xa Chúa hơn một đoạn nữa.

Ông tìm bước chân chạy trốn.

Ôi! những bước chân đi sai!

Trong đời, bước chân tôi cũng nghiêng ngả vậy thôi. Ðường về thánh thiện nhiều gian nan. Lối đến nhân đức lắm bụi sương. Linh hồn hay mệt mỏi hoang vu. Chân đi sẽ đau. Lối đi có thương tích và ngày tháng nhiều khi thất vọng.

Ôi! những bước chân thân phận làm người!

Ðức Kitô biết bước chân những người học trò mình. Bước chân của chúng là đợi trông Thầy có vương quốc vinh quang, với đất đai, với thành quách. Những bước chân ấy sai nhiều lắm. Những bước chân ấy cần phải được thanh tẩy, nếu không làm sao bước theo đường lối của Thầy được. Nó phải được rửa.

Chính Maisen cũng phải bỏ dép mới được bước đến gần Yavê. Thấy lửa bừn cháy trong bụi gai, gai không hề bị thiêu hủy, ông muốn lại gần xem. Thiên Chúa đã gọi ông từ bụi gai mà rằng: "Maisen! chớ lại gần, cởi dép khỏi chân đi vì chỗ ngươi đang đứng là thánh địa đó" (Xh 3:5).

* * *

Lạy Chúa, bước theo Chúa vào tuần thánh, vào tuần tử nạn làm Phêrô nghiêng ngả. Chỉ có những đôi chân thánh mới bước vào chốn thánh được. Các môn đệ chạy trốn. Có kẻ chạy vung áo tìm đường thoát thân. Chống đối đường về Jêrusalem. Vì thế, Chúa mới nói: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ không được chung phần với Thầy". Bước chân Phêrô yếu đuối, nếu Chúa không nâng đỡ làm sao ông đi được.

Ðôi chân con tê dại vì yếu đuối của tội.

Ê ẩm lười biếng không muốn lên đường.

Ðôi chân con bước vào những vùng hoang dại của ảo ảnh. Nếu Chúa không rửa chân, làm sao con bước vào tuần thương khó Chúa đi qua.

Ðôi chân con đau vì thất vọng trong đời sống. Nếu Chúa không rửa chân cho con, làm sao con còn nghị lực bước đi.

Ðôi chân con tật nguyền vì lầm đường.nếu Chúa không rửa chân con, làm sao con sạch dấu ấn vì đã bước vào lãnh địa tà thần.

Cuộc sống cần bước đi. Bước vào nơi thánh. Bước chân ấy đưa con đến hạnh phúc, nhưng làm sao con bước vững được trên cõi đời này.

Cũng như vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Nếu không lấy yêu thương mà rửa chân cho nhau, làm sao đi với nhau nổi trong hôn nhân.

Lạy Chúa, bước chân con mang nhiều thương khó của cuộc đời, mang nhiều tội lỗi của thân phận con.

Xin Chúa lấy lòng xót thương rửa chân con. Ðôi chân con xa cách, nếu Chúa không lấy tha thứ rửa chân con làm sao con đi về.


48. NỖI LÒNG CHA

Trong Phúc Âm thánh Luca, dụ ngôn Chúa bỏ chín mươi chín con chiên trong hoang địa để tìm một con chiên lạc có lối kết luận nghịch với tiền đề. Chúng ta hãy đọc toàn bản văn:

Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín mươi chín con ngay nơi hoang địa, để đuổi theo một con chiên lạc, cho đến khi tìm được nó ư? Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó trên vai mình, và về đến nhà, mà lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, nay tôi đã tìm thấy con chiên lạc của tôi!

Tiếp đó dụ ngôn được kết luận như sau:

Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn (Lc. 15: 4-7).

Bản văn được chia làm 2 phần. Ta có thể vẽ thành họa đồ sau đây

Phần một diễn tả câu chuyện, có bốn chi tiết:

- Nói về con chiên đi lạc,

- Người chăn chiên đi tìm,

- Tìm thấy rồi ôm trên vai,

- Vui mừng khoe với bà con,

Phần hai kết luận:

- Nước Trời vui mừng vì một người sám hối.

Xét qua bản văn ta thấy kết luận rất lạ với tiền đề câu chuyện, vì cả câu chuyện không hề nói tới lòng sám hối. Có một con chiên lạc, rồi Chúa đi tìm. Người chăn chiên đi tìm chứ đâu có phải con chiên tìm lối trở về, như thế làm sao mà gọi là lòng sám hối được?

Xem ra lối kết luận trên đây không hợp luận lý. Tuy nhiên, thinh lặng một chút ta sẽ thấy có điều phải suy nghĩ lại trong lối viết văn của Luca. Luca không trình bày rõ lòng sám hối của con người nhưng làm nổi bật lòng xót thương của Chúa. Ở Luca tôi thấy dựa vào lòng xót thương của Chúa mà ta có thể về chứ không phải sự tốt lành của ta. Lối kết luận này vẫn hợp lý, và chỉ hợp lý khi ta giả sử là người chăn chiên tìm thấy, rồi con chiên đồng ý trở về. Sự đồng ý trở về ấy Chúa coi như lòng sám hối.

Một đêm dừng chân trên lưng núi, Chúa thao thức vì một tâm hồn. Giờ này con tôi ở đâu? Tiếng lòng vọng về đáp trả giữa đêm đen vẫn chỉ là một khoảng không cô tịch. Cũng trong tiếng lòng ấy, vọng về nỗi thương, Người phải đi tìm vì đó là con của Ngài. Ruổi rong cho đến khi gặp, nhưng vì còn tự do của nó, Ngài chỉ có thể thương yêu hỏi:

- Cha muốn con về.

Ánh mắt người chăn chiên có nỗi đau thương vì Satan đã lừa gạt con của Ngài. Nhưng khổ tâm, Satan cũng đã không cưỡng bách được sự tự do của con cái Ngài. Ra đi vẫn là một lựa chọn tuỳ ý. Trở về cũng thế, Ngài chỉ có thể hỏi đứa con ấy:

- Con có muốn trở về?

Trong cái gật đầu mệt mỏi của con chiên lạc, Ngài mừng rỡ vác lên vai mà đem về. Chỉ ở điểm này, gọi đó là lòng sám hối, ta mới có thể chấp nhận kết luận kia hợp lý.

***

Lạy Chúa,

Một lần ra đi, một quãng đời nào của con vương trong bụi gai chẳng còn lối thoát. Chúa thương tìm con về. Bụi đất làm con xơ xác. Chúa chẳng ngại, Chúa bế con rồi ôm trên vai. Chúa không sợ dơ áo của Chúa vì những vết thương của con lâu ngày mưng mủ.

Lối trình bầy Tin Mừng của thánh sử Luca cho con thấy rực lên lòng thương xót của Chúa đi tìm con hơn là con sám hối ăn năn.


49. NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN

Tình thương thúc đẩy, chàng chuẩn bị lương thực, với cây gậy gỗ, chàng dẫn chiên lên đường. Ðường lên núi chỉ có mình chàng. Trên trườn núi mênh mông, chàng tiếp tục đi, can đảm. Chàng chỉ có một niềm vui: tình thương cho bầy chiên. Bầy chiên gặp cỏ non thì hớn hở. Chúng ham ăn, quên người chăn. Chàng ngồi đó, trên bờ đá. Ánh nắng làm bóng chàng đổ dài trên nền cỏ.

Nghĩ đến những ngày sắp tới dài dằng dặc. Có thể là mưa. Có thể là gai góc. Và có thể là mệt mỏi. Chàng ngần ngại cho cuộc sống. Nhưng còn bầy chiên thì sao? Tình thương dành cho bầy chiên lại níu kéo chàng về với bổn phận. Cõi lòng chàng, can đảm, trìu mến lại trải rộng theo bầu trời.

Chàng chấp nhận tất cả sương gió, nguy hiểm, vì bầy chiên. Chàng chấp nhận hy sinh, nỗi vắng và nỗi đắng vì bầy chiên. Nhưng bầy chiên chẳng biết nỗi lòng chủ mình. Chúng cứ thản nhiên như lạnh lùng với chủ.

***

Sau những ngày đầu bình yên. Chàng đã nghe tiếng sói rừng sủa văng vẳng đâu đó. Bây giờ là chiến đấu với giao tranh. Ðêm đêm, chàng thức giấc một mình nhìn núi lặng lẽ mà nghe xao xuyến. Riêng chiên cứ ngủ yên vô tư. Mỗi khi gió trời chuyển mưa là chàng ướt lạnh. Lạnh cả thân xác và lạnh cả tâm hồn vì yêu thương chiên.

Sói đã đến vào một tối.

Chiến đấu nào mà không cam go. Bởi thế, chẳng mấy ai là người chấp nhận gian nan vì kẻ khác. "Kẻ làm công thì không màng đến chiên, khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy trốn. Chỉ có người chăn chiên thương chiên mình thì mới thí mạng sống vì chiên" (Yn 10,1-14). Chàng chiến đấu bảo vệ chiên. Chân rướm máu vì núi đá. Tay ê ẩm vì phải chống cự. Trận chiến nào cũng có phần thua thiệt. Lời Kinh Thánh đã loan báo: "Cứ chủ chiên mà giết thì đàn chiên sẽ tan tác" (Mt 26,31). Biết thế, sói tấn công chàng, sói muốn ăn thịt chiên. Nỗi đau của chàng không phải là thương tích chàng phải mang, mà là những tiếng kêu của chiên con bị thương. Nhìn vài con chiên nhỏ phải đi tập tễnh, lòng chàng như tơ chiều chùng xuống. Thương yêu quá đỗi. Chiên thì chẳng biết tâm sự chủ mình. Chúng cứ vô tư.

Ðó có là tâm tình của Chúa đối với con người?

***

Người chăn chiên biết đâu là cỏ non. Nơi nào có suối trong lành. Chiên chẳng biết gì. Nhưng làm sao để chiên nghe lời chủ. Ðấy là nỗi khổ tâm của người chăn chiên. Ðó là nỗi khổ tâm của Chúa đối với nhân loại.

Khi chợt thấy bãi cỏ xanh trước mắt, mầu xanh quyến rũ. Bầy chiên nôn nao ùa tới. Cũng như con người trong lúc hoang vu, buồn chán, chợt thấy bóng hạnh phúc mờ ảo, cứ ngỡ là cơn mưa tươi mát, đã sa ngã. Người chăn chiên thì biết đám cỏ xanh kia tuy có đẹp nhưng nó mọc trên đám bùn, nơi đó đầy đỉa độc và rắn xanh. Nếu chiên đến ăn sẽ sa lầy, sẽ bị đỉa cắn, sẽ bị rắn độc giết chết. Ðằng sau mầu xanh đẹp mắt là thuốc độc. Nhưng chiên đâu biết thế. Chiên cứ muốn xuống. Chiên chẳng nghe lời chủ. Và người chăn chiên se sắt cõi lòng khi thấy chiên mình chết.

Chúa cũng vậy, bao lần con người đã đi tìm hạnh phúc giả trong tội lỗi. Những hạnh phúc giả vì bất trung trong tình nghĩa vợ chồng. Những hạnh phúc giả vì gian tham bất chính, vì những rung cảm trái phép. Chẳng ai muốn hạnh phúc giả. Chỉ vì lười biếng đi tìm hạnh phúc thật nên thấy bất cứ đám cỏ xanh nào cũng chạy lại. Chúa biết rõ đâu là hạnh phúc đem bình an. Chúa cản ngăn và con người đã than trách. Chúa đau lòng. Nhưng biết làm sao. Vì thương chiên mình nên vẫn phải ngăn cấm. "Chúa thương ai Người mới sửa dạy, Người nhận ai làm con, Người mới cho đòn. Vì còn gì là con nếu người cha không dạy" (Hr 11,5-10). Sửa dạy thì có đau đớn. Nhưng nếu không sửa dạy thì người cha không còn là cha nữa.

***

Trên đường dẫn chiên đi, bao lần chiên kêu gào oán than chủ. Chiên cứ muốn dừng nghỉ, nhưng chủ biết phải đi nữa mới có cỏ tốt, suối lành. Chủ cũng biết chẳng mấy chốc nữa mùa đông lại về. Phải vội vã mà lên đường. Chiên nào có hiểu vậy. Chúng mỏi chân. Chúng chán nản. Nhìn lịch sử cứu độ, khi Maisen dẫn dân qua sa mạc về Ðất Hứa, đã chứng minh rõ ràng điều đó.

Cũng trên đường đi ấy, có những liên hoan của bầy chồn, bầy heo đứng ca múa bên đường. Có những con chiên nghe tiếng cười đùa của bầy chồn, vui tai, xuôi lòng muốn ở lại. Nhưng chủ biết rằng nếu con chiên nào ở lại với bầy chồn, bầy cáo, chúng sẽ suốt đời cô đơn. Bầy chồn sẽ chẳng bao giờ săn sóc chúng, mà chúng phải nô lệ bầy chồn. Trên đường đời của con người cũng thế. Bao lần đi với Chúa, những tông đồ của Chúa đã muốn rẽ lối, phân vân ở ngã ba đường. Họ thấy con đường theo Chúa sao mà dài. Họ chẳng thể nhìn thấy đồi cỏ ở xa xa. Họ muốn theo lối rẽ để ở lại vui chơi theo tiếng mời gọi của thần tượng ảo ảnh. Trên đường về Ðất Hứa, dân Chúa đã bao lần than trách Maisen, họ đã dừng lại để thờ các tượng thần mà họ nghĩ là sẽ cho họ khoái lạc.

Sói rừng bao giờ cũng khôn ngoan. Chúng mang bộ mặt của những con thỏ hiền từ. Chờ chiên đến gần, chúng sẽ vồ bằng răng nhọn. Chúng đứng bên đường nhởn nhơ nô đùa. Bầy chiên phải theo chủ hoài thì nản lòng, muốn bỏ đồi cỏ xanh ở đàng kia. Chúng muốn đến làm bạn với bầy sói. Riêng chủ thì biết đằng sau tiếng cười là nước mắt. Bên này là nỗi vui, bên kia là chết chóc. Người chăn chiên thương chiên mình thì phải ngăn cản. Nhưng bầy chiên đâu hiểu thế. Không nghe lời thì người chăn chiên phải dùng roi mà đánh. Mỗi vết roi là lòng chủ lại thêm đau. Tâm hồn chủ chiên thì tan tác mà chiên cứ oán than.

Ðời người cũng vậy. Có người cha nào không lo âu khi thấy con mình đùa với vực thẳm. Chúa biết con người nghèo đói hạnh phúc. Chúa biết trong thực tế, cuộc sống của con người có nhiều nỗi đắng, con người dễ bị cám dỗ ăn những đám cỏ dại. Chúa biết con người không muốn bị sửa trị vì có đau đớn. Biết vậy, Chúa đã căn dặn: "Bị sửa phạt thì chẳng có vui, chỉ có buồn, nhưng nhờ đó mà được luyện tập và về sau mới thấy sinh lợi: tức hoa quả của bình an" (Hr 11,11).

***

Tuy nhiên vẫn có những con chiên bỏ đàn, ở lại với bầy chồn, bầy cáo và nhận quê hương đó làm của mình. Ðã bao lần Chúa ngậm ngùi xót thương mà chẳng làm gì được. Khi một tâm hồn muốn bỏ chiên đàn mà đi, Chúa xót thương cho Chúa vì đã mất một người con. Ðể cứu vãn, Chúa dùng gậy mà đe dọa. Nhưng Chúa không thể đánh chết chiên mình được. Nó quyết định đi thì Chúa chỉ biết đứng nhìn, nuối tiếc mà thôi. Người chăn chiên thật thì thương chiên của mình.

Người chăn chiên bao giờ cũng khôn ngoan. Biết nơi nào có thể cho chiên dừng nghỉ, uống nước. Người chăn chiên biết từng con suối: "Ta đến để chiên Ta có sự sống và có một cách dồi dào" (Yn 10,10). Khi bất hạnh làm con người khổ thì bất cứ an ủi nào cũng như suối trong. Người ta dễ bị cám dỗ bỏ đời sống đức tin, muốn bám víu vào thú vui của trần thế. Chỉ có Chúa thấy rõ, đấy không phải là bóng mát hạnh phúc, suối trong bình an. Ðấy chỉ là bóng đen của những cơn mưa sắp đổ xuống. Thay vì phải đi nhanh, phải chạy trốn, con người lại muốn ẩn trú trong những bóng đen ấy. Rồi từ đó, bất hạnh lại nẩy sinh bất hạnh. Túng thiếu lại nẩy sinh túng thiếu.

Vì bản tính của chiên là chiên, nên những con chiên bỏ đàn đi, nó sẽ chẳng bao giờ tìm được căn tính của mình. Từ đó, cuộc đời sẽ trôi dạt, hạnh phúc sẽ là những bóng mây chợt qua. Khi tôi lìa xa Giáo Hội là đàn chiên Chúa, tôi sẽ thao thức, bất an.

***

Trên đường đi đến đồng cỏ, chắc chắn sói sẽ đến. Chắc chắn có giao tranh, Nhưng hạnh phúc của bầy chiên là chủ chiên không bao giờ bỏ bê. "Chiên của mình, Ta gọi tên từng con một" (Yn 10,3). Sói rừng chỉ bắt được những con chiên bỏ đàn đi rong chơi một mình. Giáo Hội là nhiệm thể có lửa của Chúa Thánh Thần sưởi ấm. Những viên than nằm riêng rẽ chẳng bao lâu gió sẽ làm nguội tắt. Nó tự làm cho đời sống mình nên khô cằn và cũng làm cho bếp than kém hồng vì mất đi một phần tử.

Cũng trên đường đi đến đồng cỏ, núi đá có thể làm đau chân chiên con. Nó có thể mang thương tích và chẳng thể kịp với đàn chiên. Nhưng chỉ cần cất tiếng kêu là chủ sẽ đến và bồng nó trên vai mà dẫn đi. Người chủ thương chiên mình thì chẳng bao giờ vì chiên con yếu đuối không đi kịp đàn chiên mà bỏ rơi nó. Chủ chiên hãnh diện vì những con chiên khỏe mạnh nhưng lại thương những con chiên bé bỏng, yếu sức. Chúa cũng vậy, một tâm hồn mang nhiều thương tích là tâm hồn được Chúa yêu thương đặc biệt: "Có cần lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là người đau ốm" (Lc 5,13). Khi người ta trách Chúa tại sao lại ngồi chung bàn ăn với người tội lỗi. Chúa đã trả lời như thế. Câu trả lời ấy cho tôi nhiều an ủi.

Trong cuộc sống, Chúa chẳng bao giờ quên những tâm hồn lạc lõng. "Ai trong các ông giả sử có một trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ 99 con còn lại mà ruổi theo con lạc cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó sao?" (Lc 15,4-7). Chính vì thế mà Chúa đã đến. Chỉ cần cất tiếng kêu, Chúa sẽ đến như người chăn chiên bồng chiên mình trên vai mà đi. Trong vòng tay chủ chiên, con chiên đã mang thương tích sẽ được ngủ bình yên vì người chăn chiên quá thương nó.

Người chăn chiên mừng vui biết bao khi tìm thấy chiên mình. Nhưng nếu chiên không về thì sao?

- Nỗi nhớ thương sẽ hằn sâu trong tim và người chăn chiên sẽ mãi mãi thao thức. Sợ nó chết trên đường cô độc, người chăn chiên sẽ dõi theo vết chân nó, vì nó vẫn thuộc đàn chiên mình.

Ðó là nỗi lòng của Chúa, người chăn chiên tốt lành.


50. NỖI MONG

Sống mong đợi là sống trong thương nhớ. Nỗi nhớ càng nhiều thì nỗi mong càng ray rứt. Mong đợi là gởi tâm hồn mình đi để tìm một tâm hồn. Là sống ở đây, nhưng vẫn không là sống thực. Một phần đời nào đó đã mất. Ở rất xa.

Lịch sử cứu rỗi là lịch sử mong đợi. "Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa vị cứu tinh" . Dân Chúa đã mong đợi ân tình cứu rỗi. Ðấng Thiên Sai đã đến. Con người không chấp nhận. Ðóng đinh Ngài trên thập giá. Con người đã bỏ đường đến cứu độ. Ði xa. Và bây giờ, đến lượt Thiên Chúa mong chờ, Ngài đợi tôi trở về. Một phần đời nào đó đã mất. Ở rất xa.

Câu chuyện "Người Con Hoang Ðàng" trong Tin Mừng Luca đã diễn tả trung thực hình ảnh mong đợi của Cha. Người con đi hoang nhưng người con đã trở về. Như thế, có thể gọi dụ ngôn là câu chuyện "Người Con Trở Về". Dù người con trở về hay người con đi hoang thì tình thương của Cha vẫn không thay đổi. Bởi đó, tôi thích đặt tên cho dụ ngôn là "Nỗi Mong Của Cha". Vì nói đến mong đợi là nói đến tình thương.

Người con đến nói với cha mình: "Xin cha ban cho con phần gia sản thuộc về con!" Nhìn con ra đi. Nhìn trời cao. Sợ có mây đen đem mưa gió. Cha nguyện xin cho mưa bão đừng đến. Cha mong cho bầu trời cứ nắng bình yên để đời con mình có một tương lai. Ra đi rồi, cha ở lại thao thức không biết con mình ra sao. Một phần đời đã mất. Ở rất xa.

"Ðã bao lần Ta như gà mẹ muốn tụ họp con cái lại dưới cánh nhưng chúng chẳng nghe" (Mt 23,37). Ðây là tình thương của Chúa muốn tâm sự với con người. Càng thương bao nhiêu, khi mất càng buồn. Càng thương bao nhiêu, khi xa càng nhớ. Càng nhớ thì tâm hồn người nhớ càng gần người mình nhớ. Chỉ có kẻ ra đi là ơ hờ. "Cho dù mẹ có quên con thì Ta vẫn chẳng nguôi lòng nhớ thương ngươi" (Is 49,15). Ðây là trái tim của Chúa đối với tôi.

Mong đợi là dấu âm thầm nói: tôi nhớ. Có thương thì mới nhớ. Khi Chúa muốn tôi trở về là dấu chỉ Chúa nói: cha thương con. Câu chuyện "Người Cha Mong Con Trở Về" (Lc 15,11-31), diễn tả tuyệt vời tình thương này:

Nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó, và ông chạnh lòng thương: chạy lại ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Người con mới nói với ông: Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không còn xứng đáng gọi là con cha nữa! Nhưng cha nó đã nói cùng đầy tớ: Mau mau! đem áo thượng hạng mà mặc cho nó; hãy xỏ nhẫn vào tay nó; và giầy vào chân nó; rồi đem con bò tơ này mà hạ đi! Ta phải ăn mừng mới được vì nay con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất mà lại tìm thấy được. Và người ta mở tiệc ăn khao.

***

Phân tích đoạn văn trên đây ta sẽ thấy tình thương của Chúa ướp vào từng lời, từng chữ, là tha thiết vô cùng.

- ... nó còn đàng xa thì cha nó đã thấy nó. Câu chuyện không nói rõ là bao nhiêu năm trời người con đã xa nhà. Nhưng cho dù năm tháng có lâu, cho dù phương trời có xa. Cho dù thân xác có đổi thay. Khi thấy bóng con là nhận ra ngay. Lời văn nhấn mạnh là "nó còn ở đàng xa". Còn xa thì bóng hình còn mờ. Mờ thì khó nhận diện. Nhưng thấy con là cha nhận ra ngay!

- ... và ông chạnh lòng thương. Mong đợi là ngôn ngữ của thương nhớ. Tiếng "chạnh lòng thương" ở đây là lời phiên dịch tình thương thành xúc động. Là cụ thể hóa tình thương thành tiếng khóc. Là muốn kéo vô hình thành hữu hình. Là một thứ vỡ òa của thương mến nội tại trong tâm hồn ra bên ngoài. Xúc động vì gặp lại con, hay chạnh lòng trắc ẩn khi thấy con tiều tụy vì con "phải ăn bám dân trong vùng, và người ta đã sai nó ra đồng chăn heo", thì cũng là động lực đến từ trái tim giàu lòng thương xót, thì cũng là tình thương bật nở sau bao ngày cưu mang ẩn kín.

- ... ông chạy lại. Người ta chỉ chạy khi vội vàng. Chạy khi không có thì giờ. Chạy là muốn rút ngắn. Chạy là bị thúc đẩy bởi một động lực rất mạnh. Chạy thì ít an toàn hơn đi thong thả. Biết ít an toàn mà cha già vẫn chạy là liều chấp nhận một thiệt thòi có thể xẩy đến cho mình. Không ai có thể suy nghĩ, tính toán, sáng tác trong lúc chạy. Càng chạy nhanh thì càng mất đi hình ảnh bên cạnh. Chạy thì quên hết những gì chung quanh để chỉ còn một mục tiêu duy nhất đang nhắm tới. Cha già đã quên hết mọi sự, trước mặt chỉ thấy con. Chạy là muốn rút ngắn thời gian mong nhớ.

- ... ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Cái hôn của Yuđa lạnh lùng bao nhiêu, thì cái hôn của người cha già tha thiết bấy nhiêu. Ít khi nào Phúc Âm kể chi tiết như ở đây. Cái hôn của người cha như vội vàng, hối hả, như sợ sắp mất, như một trông đợi vô cùng.

- người con nói: trước mặt cha con không xứng đáng gọi là con cha nữa. Nhưng cha nói cùng đầy tớ... Nói nhưng có nghĩa là muốn nói ngược lại. Nói nhưng có nghĩa là bảo người nghe đừng theo ý riêng mình mà hãy theo ý của người nói. Trong kinh nghiệm sống, ta hãy thấy hạnh phúc hay đau khổ nhiều khi hệ tại có một chữ nhưng. Người con muốn nhắc cho cha cái quá khứ lầm lỗi của mình. Nhưng cha chẳng quan tâm. Vì trong mong đợi là có tha thứ rồi.

Trong câu chuyện này, người cha không hề nhắc đến tội của con. Chính lúc người con muốn cha nhận lời xin lỗi của mình, cha cũng không muốn nhận. Ông gạt đi. Ông muốn quên hẳn. Ðây là thái độ của Chúa đối với tôi. Trong trái tim Chúa chỉ có tình thương chứ không có trí nhớ về tội. Những đau khổ gây ra bởi tội của tôi chỉ là tôi tự xa cách tình thương. Người con đi hoang phải chăn heo và "ước gì có thể lấy rau heo mà ăn cho đầy bụng nhưng cũng chẳng có ai cho". Ðau khổ này không phải là hình phạt của cha, mà chỉ là người con không muốn ở với sự giàu có của cha mình.

- ... ông nói cùng đầy tớ: mau mau đem áo. Nói mau mau là nói đến gấp rút. Khi truyền cho một người làm việc mau mau có nghĩa là việc đó rất quan trọng, rất cần. Một việc phải làm mau mau là việc muốn có kết quả ngay. Mau mau là hành động đang bị hối dục. Toàn thể mạch văn của câu truyện đều diễn tả sự nóng lòng mong con trở về. Thấy con về thì cha già chạy vội vàng. Thấy con rách rưới thì sai gia nhân mau mau lấy áo.

- mau mau lên đem áo thượng hạng mà mặc cho nó. Áo thượng hạng là áo quý. Những gì quý thì gìn giữ cẩn thận. Không ai mặc áo thượng hạng để đi làm. Người ta mặc áo thượng hạng trong tiệc mời, trong nghi lễ. Bởi đó, nếu ông chỉ bảo gia nhân về nhà lấy áo, chắc chắn họ không lấy áo quý. Mặc áo thượng hạng ở khung cảnh này hoàn toàn không thích hợp. Người con mới ở phương xa về, phải chăn heo mà sống, đói rách, đau ốm, tóc tai dơ bẩn vì bụi đường. Mặc áo thượng hạng ở đây coi như dị đời. Theo thường tình, ông phải đợi con về nhà, tắm rửa, chuẩn bị kỹ càng cho bữa tiệc ăn khao đã, rồi bấy giờ mới mặc áo quý. Nhưng cha già quá lính quýnh, ông không biết làm sao giữ được hạnh phúc trong tim ông. Ông nghĩ gì nói vậy chứ không cần xét rằng mặc áo thượng hạng lúc này chẳng thích hợp với hoàn cảnh. Ông không dùng lý trí để phân tích hoàn cảnh, nhưng chỉ nghe tiếng nói của tình thương. Tất cả hành đông ở đây đều là hành động muốn đốt cháy thời gian vì đã mong nhớ quá lâu. Ðã chờ đợi quá dài. Ông "chạy hối hả", ông "bá lấy cổ", ông "hôn lấy hôn để", ông truyền lệnh "mau mau".

- ... hãy xỏ nhẫn vào tay nó. Có thể cần áo lành để thay áo đã dơ bẩn, nhưng nhẫn, thực sự chưa cần để đeo. Người ta đeo nhẫn trong ngày cưới, trong ngày giao ước. Tất cả đều xẩy ra trong nghi thức trang trọng, có trầm hương, nhạc khúc. Vì sao cha già không đợi cho con về nhà rồi hãy đeo nhẫn, có muộn màng gì? Nếu nhẫn là biểu tượng của quyền thừa hưởng gia tài, thì chỉ còn một khúc đường ngắn nữa, có muộn màng gì mà không đợi?

- ... và xỏ giầy vào chân nó. Ðã bao năm dong duổi tha phương cầu thực. Ðã bao đoạn đường đi qua trong đời. Người con đã đi chân trần. Chỉ còn một khúc đường ngắn là tới nơi. Có cần thiết gì phải đi giầy? Nếu chân trần là biểu tượng của kẻ nghèo thì chỉ còn một khúc đường ngắn là tới nhà, là có gia nghiệp của cha. Có lâu lắc gì mà không chờ?

Ta phải ăn mừng mới được!

Và người ta mở tiệc ăn khao!

***

Lạy Chúa, con đã được nghe rất nhiều là Chúa phạt những người tội lỗi, hơn là được nghe nói về tình thương của Chúa. Ðể rồi, nói đến Chúa là con nghĩ đến một vị quan tòa. Nhìn Chúa kính sợ hơn là dám đến gần. Có ngờ đâu, Chúa mong con đến bên để kể cho con nghe những câu chuyện về lòng thương xót của Chúa, để chữa lành vết thương của tâm hồn, để nói cho con nghe về hạnh phúc, để chỉ cho con thấy vẻ đẹp của cuộc sống.

Xin cho con được nhìn Chúa với tình thương.

Trong câu chuyện dụ ngôn Chúa kể, khi thấy đứa con trở về, cha già chạy vội vã đón con. Cha tha thứ lỗi lầm trước khi con tự thú. Giữa cha mẹ với con cái, muốn được tha thì phải xin lỗi. Có khi xin lỗi cũng chẳng được tha. Chúa thì lại tha trước khi xin lỗi. Xin cho con biết hối hận vì đã bao lần con chẳng để ý đến lòng nhân từ của Chúa.

Lạy Chúa, người con trở về đã được mặc áo quý, đeo nhẫn với quyền thừa hưởng gia nghiệp. Cha già đã giết bò tơ ăn mừng. Hình ảnh mô tả như một đại tiệc để mừng sự thành công, vinh quang của một người con đã học hành thành tài, đỗ đạt vinh hiển, nay về quê làm rạng danh công ơn của cha mẹ.

Lạy Chúa, chỉ có việc con lên đường trở về mà Chúa hạnh phúc như vậy sao?


51. NƯỚC MẮT

Nói về nước mắt cũng khó như nói về tình yêu. Nói về nước mắt cũng khó như nói về đau khổ.

Tình yêu và đau khổ là những ngôn ngữ phải hiểu bằng con tim hơn bằng lời. Và nước mắt cũng thế.

Làm sao có thể tả được nỗi khổ của người vợ trẻ nghe tin chồng tử trận từ miền xa. Làm sao có thể nói được nỗi đau của cuộc tình phản bội. Làm thế nào để diễn tả được nỗi đắng của người con gái gặp trầm luân trên biển cả. Ðó là nước mắt và đau khổ. Không có ngôn ngữ nào nói về những dòng nước mắt đó cho đủ.

Nước mắt của đau khổ tự nó là một ngôn ngữ. Một thứ ngôn ngữ không có văn phạm. Vì nước mắt là ngôn ngữ không có văn phạm nên ai cũng có thể đọc được. Người giàu khóc. Kẻ nghèo cũng thế. Người trí thức, kẻ quê mùa, ai cũng có lúc khóc. Nước mắt và đau khổ là ngôn ngữ chung. Người từ phương đông cũng có thể gặp kẻ từ phương tây, trong ngôn ngữ ấy. Mình có nước mắt và thấy người khác có nước mắt.

Nước mắt là ngôn ngữ chung. Nhưng đọc được không có nghĩa là hiểu được. Từ đọc được đến hiểu được vẫn còn là chặng đường dài. Dòng nước mắt này không có văn phạm để đọc, nhưng lại có văn phạm để hiểu. Văn phạm để hiểu những dòng nước mắt của đau khổ là con tim. Nhìn một người khóc, tôi biết đó là nước mắt. Tôi đã đọc được. Nhưng tôi có hiểu dòng nước mắt đó không lại là một chuyện khác. Ðã bao lần tôi thấy người khóc, nhưng tôi vẫn bình thản. Ðã bao lần tôi thấy nước mắt chảy, nhưng chẳng có nghĩa gì đối với tôi. Cũng có những lần tôi không muốn nhìn nước mắt. Nước mắt đau khổ là ngôn ngữ chẳng cần học cũng nhìn thấy, nhưng chẳng bao giờ hiểu được nếu không học. Ðể hiểu dòng nước mắt đó phải học bằng con tim của yêu thương và tâm hồn của chia sẻ.

Nỗi đau đã nói bằng nước mắt, thì để hiểu cũng cần trả lời bằng nước mắt. Nhưng người ta chẳng trả lời được bằng nước mắt nếu người ta không học yêu thương và chia sẻ. Ðây là bài học khó nhất trong đời. Nhận ra nước mắt đau thương ở chung quanh mình đã là điều khó. Học để chấp nhận dòng nước mắt ấy và để dòng nước mắt ấy hòa vào cuộc sống của mình lại càng khó hơn. "Nơi điều này mà ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em" (1Yn 3,16). Khi Thiên Chúa yêu, Ngài yêu đến cùng. Bởi đó, yêu thương là bài học không có ngày ra trường, nó giai giẳng cả đời. Bài học này không có chứng chỉ xác nhận, vì có ai chỉ yêu thương một lần là xong?

Một người khóc với nỗi đau của tôi, tôi thấy bớt khổ hơn khi họ chỉ nói về nỗi đau của tôi. Họ chẳng nói gì, chỉ im lặng thôi, nhưng nhìn trong đôi mắt cảm thông của họ, tôi có can đảm. Họ không cho tôi gì cả, nhưng tôi thấy mình lãnh nhận. Dòng nước mắt của tôi là yếu đuối thì dòng nước mắt của họ lại là sức mạnh cho tôi. Ðó là sự nhiệm mầu của nước mắt, và ở chỗ đó, nước mắt là ơn thánh. Trong thơ gởi tín hữu Roma, Thánh Phaolô viết: "Vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu" (Rom 12,15). Lời nói thì dễ, quà tặng cũng có thể mua. Khóc thì thật khó, vì nước mắt là mức độ rung cảm sâu xa nhất của con tim, và cũng chính vì chỗ đó, nước mắt là hồng ân. Ðể hiểu được nước mắt của người khác và nói với họ bằng nước mắt của mình là một con đường tử nạn Jerusalem. Người đứng xem thì nhiều, nhưng kẻ khóc thì chẳng có bao nhiêu.

Nước mắt ở đâu?

Trong trại tị nạn, tôi thấy có những tâm hồn lạc lõng, không người thân, không tiền bạc. Biển chiều là những nỗi vắng khôn nguôi. Họ ngồi một mình, im lặng, nhìn về biển mà khóc. Trong khi đó, có người mang theo được vàng bạc, có thân nhân, họ bình thản bên quán cà phê, mơ ngày đi sắm đồ ở Hong Kong, Bangkok. Họ chẳng thể hiểu được những dòng nước mắt kia. Vì muốn hiểu, họ phải mời dòng nước mắt đó một ly cà phê, một tấm áo mặc. "Kẻ nào có của đời này và thấy anh em nó lâm phải túng thiếu, lại khóa lòng dạ lại đối với anh em nó thì làm sao lòng mến của Thiên Chúa lưu lại được trong nó? (1Yn 3,17). Hai ngàn năm trước, họ đã chẳng hiểu mồ hôi và nước mắt Chúa Kitô trên đường tử nạn vì họ là kẻ đứng bên lề để xem.

Nước mắt ở đâu?

Ở trong những tâm hồn tan nát. Có những vết thương đau đớn của một đời người. Những người thiếu nữ gặp trầm luân trên biển cả. Họ đau khổ. Trong khi đó, có người đem những chuyện đó để mua vui. Họ chẳng thể hiểu được dòng nước mắt kia. Vì hai ngàn năm trước họ cũng đã lột trần Ðức Kitô và cười với nhau. "Khi chế diễu Ngài rồi, thì họ cởi chiếc nhung y đi, cho Ngài mặc lại áo của Ngài, rồi họ điệu Ngài đi mà đóng đinh trên thập giá" (Mt 27,31). Ðóng đinh kẻ khác cũng là thú vui của một số người.

Nước mắt ở đâu?

Có những tâm hồn lầm lỡ, chỉ vì yếu đuối mà chua xót. Họ muốn quên đi cái quá khứ bất hạnh ấy. Nhưng có kẻ biết chuyện lại đem nói cho người khác hay để tỏ ra sự hiểu biết của mình. Họ chẳng thể hiểu được nỗi đắng cay kia. Vì, hai ngàn năm trước họ đã muốn ném đá người đàn bà ngoại tình (Yn 8,5). Ðối với một số người, nói những khuyết điểm của kẻ khác là hình thức để nói mình trong sạch. Họ chỉ thua cuộc khi bị phơi trần trước mặt Ðức Kitô.

Hai ngàn năm trước là thế, hôm nay cũng vậy, tôi thấy nhiều người khóc, nhưng tâm hồn tôi chẳng rung cảm. Làm sao có thể rung cảm, làm sao có thể hiểu được khi tôi chỉ đứng xem người vác thập giá chứ tôi không vác thập giá.

***

Trong tình yêu cũng có nước mắt. Mai Ðệ Liên đã khóc: "Ðứng đàng sau phía chân Ngài, bà khóc nức nở" (Lc 7,38). Phêrô đã khóc vì chối Thầy: "Và Phêrô nhớ lại lời Ðức Kitô đã báo: Trước khi gà gáy, ngươi đã chối Ta ba lần. Và ra ngoài ông khóc lóc thảm thiết" (Mt 26,75). Phêrô không nói gì với Chúa khi Chúa nhìn, nhưng chỉ khóc. Mai Ðệ Liên cũng vậy. Họ chẳng nói nhưng nước mắt đã nói tất cả. Ðó là những giọt nước mắt sám hối. Những giọt nước mắt khi biết mình lỗi lầm bao giờ cũng có giá trị cứu rỗi.

Eva đã lỗi phạm. Khi Chúa hỏi thì Eva đổ lỗi cho con rắn. Bà đã không khóc.

Adong đã lỗi phạm, Khi Chúa hỏi thì Adong đổ tội cho Eva. Ông đã không khóc.

Tội kế đến xẩy ra trong gia đình đầu tiên của nhân loại là Cain giết em mình. Khi Chúa hỏi em mình đâu, Cain trả lời: "Tôi không biết! Tôi là người giữ nó à?" (Kn 4,9). Chàng đã không khóc.

Ôi! Những dòng nước mắt đã hiếm hoi làm sao. Vì thuở ban đầu đã thiếu nước mắt ăn năn, nên bây giờ nước mắt gian truân ở khắp chốn.

Nước mắt đã làm động lòng Thiên Chúa. Nước mắt xóa nhòa quá khứ. Nước mắt mở cửa tương lai. Nước mắt làm hạnh phúc phục sinh.

Có những dòng nước mắt hiếm hoi bao nhiêu, thì dường như, cũng có những dòng nước mắt dư thừa bấy nhiêu. Có người khóc vì mất một số của cải, nhưng lại chẳng khóc khi mất Chúa. Có người khóc vì bị ngăn cản một ước mơ không chính đáng, nhưng lại chẳng khóc khi bỏ lỡ một giấc mơ chính đáng đã đi qua mà không thực hiện.

Lạy Chúa, để hiểu dòng nước mắt đau khổ, con phải học thứ văn phạm của ngôn ngữ đó, đó là một trái tim yêu thương, một cõi lòng có Chúa ngự, một tâm hồn không đứng xem Chúa vác thập giá mà xuống đường vác thập giá với Chúa.

Nước mắt có cần không?

Khóc là một ân huệ. Những trái tim bằng gỗ không thể khóc. Những tâm hồn lạnh lùng cũng chẳng thể rung cảm. Xin hãy dạy con biết khóc như Phêrô, đừng chai đá như Cain. Nước mắt có thể tha thứ mọi lỗi lầm của con. Và, Nước Trời đã mở cửa cho con cả hai lối. Con có thể vào một cách anh hùng như các thánh tử đạo, con cũng có thể vào bằng tiếng khóc như Mai Ðệ Liên.


52. NƯỚC MẮT VÀ HẠNH PHÚC

Tôi cười khi tôi vui. Tôi khóc lúc khổ đau. Nụ cười biểu hiệu cho hạnh phúc. Nước mắt tượng trưng cho nỗi buồn. Như thế, trong hạnh phúc không có nước mắt. Nhưng nước mắt có thể mời gọi hạnh phúc trở về. Nước mắt là những lời giải thích về đau khổ. Tôi có đau khổ tuyệt vọng, tôi có đau khổ ăn năn. Bởi đấy, nước mắt cũng có hai dòng, một dòng tuyệt vọng, một dòng sám hối.

Nước mắt tuyệt vọng là nước mắt của con tim oán than chối từ một niềm tin. Càng chối từ niềm tin bao nhiêu thì nỗi đắng cay càng oan nghiệt bấy nhiêu. Nước mắt tuyệt vọng là ngọn than hồng thắp lửa thêm cho đau khổ và khi đau khổ bùng cháy sẽ tiêu diệt đời mình.

Nước mắt ăn năn là nỗi nhớ thương của một tâm hồn gởi một tâm hồn. Nước mắt ăn năn sẽ lôi kéo tình yêu trở về và nước mắt ăn năn là mời gọi duy nhất tình yêu không thể chối từ.

Lầm lẫn và yếu đuối giăng mắc đó đây, do đó tình yêu hoen ố, bởi đấy hạnh phúc chông chênh. Vì lầm lẫn, tôi có thể làm người yêu tôi buồn. Vì yếu đuối, tôi có thể phản bội người yêu tôi. Yếu đuối và lầm lẫn như những thành tố làm nên cuộc đời. Tôi chẳng thể tránh được yếu đuối. Tôi không thể thoát khỏi lầm lẫn. Dù không muốn, chúng vẫn chẳng thiếu vắng trong đời tôi. Có yếu đuối là có bất toàn, có lầm lẫn là không trọn vẹn. Vì thế không có tình yêu tuyệt hảo và hạnh phúc vô song trên cõi đời này. Chỉ có hạnh phúc tương đối nên hạnh phúc ấy có thể nhạt nhòa. Không có hạnh phúc tuyệt hảo thì cũng không có đau khổ vô cùng. Bởi đó, trong dại dột tôi có thể học được khôn ngoan. Trong đau đớn tôi vẫn có hy vọng tìm về niềm vui.

Lầm lẫn và yếu đuối gây thương tích cho hạnh phúc. Thương tích nơi hạnh phúc chỉ được xoa dịu và tái sinh bằng nước mắt ăn năn. Xin cho tôi biết khóc, biết chua xót ăn năn. Bởi nếu tôi không biết khóc, biết xót xa hối hận thì tôi chẳng bao giờ mời gọi được hạnh phúc tôi đã đánh mất trở về. Và như thế, đời tôi nghèo nàn, cơ cực.

Tình yêu là giây đàn rung lên hạnh phúc. Chỉ cần sẽ chạm tay cũng đủ làm giây đàn im tiếng. Chỉ cần một tư tưởng phản bội cũng làm cho tình yêu hoen ố. Chỉ cần một chút oán thù cũng đủ làm cho mặt hồ bình an thành mờ đục. Nhưng cái mầu nhiệm của tình yêu là chỉ cần một giọt nước mắt ăn năn cũng đủ để tình yêu tha thứ gọi hạnh phúc trở về. Tình yêu nào khi nghe nước mắt sám hối nhớ thương mời gọi mà không trở về thì đấy không còn là tình yêu nữa.

Nước mắt rơi trong im lặng nhưng tiếng nói của nước mắt lại sâu như lòng biển, lại dài như chiều cao của trời.

Nhìn khóe mắt Phêrô, nước mắt đã chảy, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là yêu thương bằng một tình yêu rộng lớn hơn.

Nhìn khóe mắt Mai Ðệ Liên, nỗi u buồn đọng đó, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là để nỗi buồn đó thấm vào tim mình bằng những dòng máu tha thứ và yêu thương vô bờ.

Tội và đau khổ là định mệnh trong cuộc đời. Tôi phải khiêm tốn nhìn nhận mình chẳng thể tránh khỏi. Nhưng tội và đau khổ không có toàn năng lực chế ngự vĩnh cửu cuộc sống, chúng bị phá đổ bởi nước mắt.

Lạy Cha, xin cho con biết khóc mỗi khi tội trần con phạm.

Xin cho con được rửa tội hồn con bằng nước mắt ăn năn.

Và lạy Cha,

Ðừng bao giờ để con tuyệt vọng vì mất niềm tin là mất cả cuộc đời.


53. PHÊRÔ CHỐI THẦY

Phêrô đang ở dưới sân, một người đầy tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói:

- Cả bác nữa, bác cũng ở với cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!

Ông liền chối:

- Tôi chẳng biết, chẳng hay cô muốn nói chi!

***


Chối lần thứ nhất:

Nhìn kỹ đoạn văn trên, ta thấy những chi tiết sau:

Một - Chỉ có một, không phải hai.

Ðứa tớ - Ðầy tớ, không phải người địa vị.

Gái - Tớ gái, không phải trai.

Như vậy, kẻ Phêrô gặp mặt tối đó là người mang địa vị thấp nhất trong xã hội bấy giờ. Chỉ một đứa, lại là đứa đầy tớ, mà lại là tớ gái! Thế mà Phêrô hoảng sợ. Làm sao lại có thể sợ hãi trước một người không quyền hành, không địa vị gì như thế? Chỉ là một tớ gái!

Cung cách của Phêrô chối nữa, ông chối bằng ngôn ngữ rất đặc biệt:

Tôi chẳng hay chẳng biết chị muốn nói chi!

Chợt nghe câu đó, người nghe xem ra như ông đâu có chối. Ông chối rất nhẹ nhàng. Ông làm bộ như không rõ chuyện gì. Ngôn ngữ hôm nay, người ta bảo là kiểu nói đánh trống lảng.


Chối lần thứ hai:

Tin Mừng kể tiếp:

Rôì ông bỏ đi ra phía tiền đường. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó:

- Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.

Ông Phêrô lại chối.

Qua đoạn văn trên, người đọc thấy sau khi chối lần thứ nhất xong, ông không còn ngồi chỗ đó nữa. Ông đi ra phía ngoài cổng. Như vậy, đối với khoảng cách trong không gian là ông xa Chúa thêm một khúc đường rồi. Chối lần thứ nhất ông còn ở giữa sân, còn gần Chúa. Bây giờ bỏ đi ra ngoài. Cái xa cách không gian ấy diễn tả một khoảng xa hơn trong tâm hồn. Nó là một khoảng tội nặng hơn.

Lúc nẫy ông chỉ đối diện với một đứa tớ gái thôi. Bây giờ đứa tớ gái nói với "những người có mặt". Như thế, ông đối diện với nhiều người. Chối Chúa lúc nẫy trước mặt một người, tội nhẹ hơn trước mặt nhiều người chứ. Hai lần chối không mang mức độ giống nhau. Lần này xa hơn, nặng hơn. Ông chối Chúa công khai hơn.


Chối lần thứ ba:

Lần thứ ba này Tin Mừng Máccô cho biết những chi tiết cuộc chối bằng ngôn ngữ rất tinh vi, rất chính xác. Chính xác trong chi tiết để diễn đạt cái tang thương của Phêrô. Tin Mừng kể:

Một lát sau những người đứng đó lại nói với ông:

- Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!

Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa mà thề:

- Tôi thề là không hề biết người các ông nói đó. (Mc 14:70-71).

Ở đây có bốn điểm chú ý, người đọc cần ghi nhận trong lần chối thứ ba này:

1.

2.3..

4.

Như thế, ông quyết liệt công khai chối bỏ liên hệ với Ðức Kitô để cứu lấy mạng sống. Bây giờ ông không cần biết con người ấy là ai nữa. Ông chỉ biết làm sao thoát thân trong lúc này.

Xét trong ba lần chối, người đọc thấy rõ tiến triển của ba lần khác nhau. Mỗi lần nặng thêm chứ không phải ba lần giống nhau. Ba lần chối như ba nấc thang của một con dốc xuống vực sâu. Mỗi lần là một bực sa xuống sâu hơn, sâu hơn nữa.

Giờ đây nhìn lại đời Phêrô, ta thấy thảm cảnh bi đát của thân phận một con người. Con người này làm được gì? Cả đời ông toàn là lỗi lầm. Cứ mỗi lúc ông lại lỗi nặng hơn. Lầm lỗi ngay khi theo Chúa ba năm trước ở biển hồ Galilê cho đến ba năm sau, giây phút sau cùng trước khi Chúa chết vẫn cứ lầm lỗi.

***

Bi kịch trên là thảm cảnh não nề cho đời Phêrô. Bi kịch ấy cũng là thảm cảnh não nề cho Ðức Kitô, một Rabbi mà có một môn đệ kém như thế. Nhưng đàng sau bi kịch này, đâu là mối dây liên hệ của hai người? Ta hãy tìm hiểu.

Chắc chắn Phêrô thương Thầy. Sau khi Chúa bị bắt, các môn đệ khác bỏ chạy. Phêrô cũng thế, nhưng không chạy xa. Không biết Thầy mình ra sao, ông trở lại, lẻn vào dinh thượng tế nghe ngóng. Nếu ông bỏ Ðức Kitô chạy xa thì đâu xảy ra nông nỗi này. Tội nghiệp cho ông vì ông thương Chúa.

Chiều sâu phía bên kia lỗi phạm của Phêrô vẫn có tình thương. Nói về tình thương sâu kín này, ta hãy ngoảnh lại nhìn một chút về chuyện Phêrô bị mắng lần thứ hai xem sao. Lần đó, Chúa mắng Phêrô "ngu tối". Giả sử hôm đó Phêrô lặng im đừng hỏi thì đâu bị mắng. Lời xin của Phêrô: "Thưa Thầy xin giải thích dụ ngôn đó cho chúng con" đã đưa Phêrô vào tròng. Lời xin ấy nói rằng Phêrô chậm hiểu. Vì lời xin đó, ông bị mắng. Ðàng sau lời xin, cho ta thấy chiều sâu trong trái tim, ông quý lời của Chúa. Không hiểu, ông hỏi chứ không im lặng bỏ qua. Có thể vài môn đệ khác cũng không hiểu. Nhưng đối với Phêrô, ông quý lời của Chúa. Ông không để lời đó trôi đi. Bằng chứng khi có người bỏ Chúa, Chúa hỏi các môn đệ có bỏ Chúa không. Phêrô là người thưa trước tiên: "Thưa Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy có Lời ban sự sống" (Yn 6:68). Ta thấy tội nghiệp Phêrô. Ông có yếu đuối, lỗi phạm nhưng luôn có trái tim.

Ðối với Chúa, Chúa phải mang cái bi thảm của một môn đệ chậm hiểu, kém tin, hành động lung tung. Nhưng Chúa không bỏ môn đệ này trong yếu đuối, người môn đệ này có một tâm hồn.

Phêrô chối Ðức Kitô vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường trốn. Nhưng trước yếu đuối ấy Phêrô đã khóc. Nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông òa khóc nức nở.

Ðời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mạnh, giữa trọn vẹn và dang đở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Ðời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại, có lên cao gặp vực sâu.

Theo sát lời tường thuật của Phúc Âm, ông lầm lỗi và bị mắng nhiều quá. Tuy nhiên, có điều trong trái tim ông, Chúa có một chỗ đặc biệt. Trong tất cả trăn trở ấy, tim ông có một ước mơ. Cho dù yếu đuối, ông vẫn có một ước mơ. Cho dù chơi vơi giữa dòng nước, ông vẫn có một ước mơ. Ông thương Thầy mình.

Ðức Kitô không đếm chân ông đã bước được những bước thánh thiện nào. Ngài cũng không chối từ vì ông đã bước sai bao nhiêu bước. Ngài chỉ nhìn vào ước mơ trong trái tim ông. Và ở ước mơ đó, Thầy trò họ gặp nhau.

***

Lạy Chúa, Chúa không lầm khi chọn người môn sinh yếu đuối.

Chúa không sa thải lúc người môn sinh lỗi phạm.

Chúa lấy kiên nhẫn dẫn đi.

Chúa là Thầy dạy lấy tình thương chịu đựng.

Chúa nhận thập giá về phía mình để người môn sinh được nâng lên cao.

Chúa không lầm khi gọi Phêrô.

Lúc nào trong tim con có mơ ước theo Chúa, Chúa sẽ không nhìn đến yếu đuối của con, chỉ nhìn vào ước mơ ấy trong tim con thôi.


54. PHÊRÔ LỖI PHẠM

Thảm kịch Phêrô vấp ngã được Phúc Âm tường thuật lại như sau:

Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông:

- Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.

Ông Phêrô liền thưa:

- Dẫu tất cả có vấp ngã đi nữa, con nhất định là không.

Ðức Giêsu nói với ông:

- Thầy bảo thật anh: Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy ba lần.

Nhưng ông Phêrô lại quả quyết:

- Dẫu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy" (Mc 14:26-31).

Ðoạn Kinh Thánh trên đưa thời điểm đau thương của Ðức Kitô vào cuộc đời các tông đồ. Biến cố ấy sắp xảy đến. Thực sự sẽ như thế nào, các môn đệ không thể hình dung được. Họ chỉ thấy bàn bạc một bầu khí u buồn, hoang mang và căng thẳng. Cứ mỗi lúc thời gian ngắn dần, thái độ của Chúa làm các ông thêm biến sắc. Chúa đã nói đến những lời trăn trối. Thầy đã rửa chân vĩnh biệt học trò. Kẻ dạy dỗ đã căn dặn môn sinh ở lại yêu thương nhau. Chúa sắp ra đi. Linh hồn các môn đệ có thể đang dấy lên những thao thức băn khoăn. Thầy sẽ chết sao? Ai phản bội Thầy? Tương lai chúng ta đi về đâu? Bao nhiêu ngày theo Thầy bây giờ như thế sao? Rồi đây nhóm chúng ta còn không? Tất cả vấp ngã nghĩa là gì, tôi cũng vấp ngã à? Vấp ngã ra sao?

Trong cái căng thẳng ấy, mọi người im lặng hoang mang. Người lên tiếng trong đám đông này, tối đó, là Phêrô.

Nhìn Phêrô trong đoạn Kinh Thánh trên đây, ta thấy ông khẳng khái một quyết định dứt khoát là ông biết rõ ông hơn ai hết. Ông hiểu khả năng của ông. Ông biết ý chí ông. Ông làm chủ tình hình. Ông đã nói không là không. Chúa đừng quan tâm. Phiên dịch một cách khác, ta có thể hình dung được tiếng nói của Phêrô với Chúa:

- Không chuyện gì phải lo. Có tôi đây, Thầy biết tôi mà!

Qua hành động Phêrô, ta có thể nói bằng ngôn ngữ thế tục, Phêrô đã "vô lễ" khi dám đưa tất cả mọi người ra so sánh. Ông khẳng khái là không vấp ngã, cũng quá đủ rồi. Ðó là chuyện của ông. Nhưng ông bảo cho dù "tất cả" vấp ngã, tôi cũng không. Làm sao ông dám hạ thấp mọi người xuống để so sánh với chính mình như vậy?

Sau khi ông so sánh mọi người xong, Ðức Kitô không nói với "các ông" nữa mà nói riêng với ông. Lối hành văn của Máccô chỗ này rất là ý nghĩa trong lối dùng chữ chính xác từng chi tiết như sau:

- Thầy bảo thật anh - (Ám chỉ rõ, riêng cá nhân Phêrô).

- Hôm nay - (Xác định thời gian là hôm nay chứ không phải ngày mai).

- Nội đêm nay - (Chi tiết hơn, hôm nay, nhưng là đêm chứ không phải ngày).

- Gà chưa kịp gáy hai lần - (Biết là đêm rồi, nhưng rõ hơn là lúc gà chưa gáy hai lần).

- Thì chính anh - (Quả quyết rõ là Phêrô, không phải người khác).

- Anh chối Thầy ba lần - (Nói cho biết trước sẽ chối, chi tiết là ba lần).

Ðoạn văn tiên tri trên về Phêrô, đề cập những chi tiết chính xác như chuyện đã xảy ra chứ không phải chuyện tương lai. Ðáng nhẽ Phêrô phải giật mình sợ hãi, nhưng ông không thắc mắc những chi tiết. Vẫn trong cách xử dụng ngôn ngữ tài tình, Máccô nhấn mạnh là Phêrô càng "nói quả quyết" hơn nữa. Phải chết tôi cũng không chối Thầy. Lúc đó, Chúa chỉ còn một cách duy nhất là im lặng, vì hết lời rồi.

Trong cung cách đó, còn gì để nói về con người Phêrô? Chính Chúa đành lặng thinh.

***

Thảm kịch đáng thương trên được Phúc Âm tả tiếp:

Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô:

- Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?

Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông:

- Lúc này mà còn ngủ sao?

Từ chiều, từ lúc hát thánh vịnh xong và Thầy trò lên núi Ôliu đến giờ, từ lúc quả quyết không chối Thầy đến giờ chắc mới vài tiếng đồng hồ. Ba lần Chúa đến tìm các ông, các ông vẫn ngủ. Ngôn ngữ chúng ta để ý ở đây mà Máccô cho một chi tiết đặc biệt là các ông ngủ đến độ mắt họ "nặng trĩu" (Mc 14:40). Ngủ đến độ mắt "nặng trĩu" là như thế nào? Có thể đây là chi tiết sẽ cắt nghĩa một sự cố lát nữa đây về con người Phêrô.

Lần thứ ba Chúa đến, lúc mắt họ "nặng trĩu" thì Giuđa và thượng tế cùng giáo mác, gậy gộc của đám cơ binh ụp đến bắt Chúa. Lúc này một "anh hùng" xuất hiện: Ðó lại là Phêrô. Ông rút gươm!

Tin Mừng tường thuật, ông chém đứt tai người đầy tớ (Yn 18:10). Nếu ông anh hùng sao không đượng đầu với bọn lính? Tội lỗi là đám thượng tế cùng cơ binh chứ đầy tớ, nó làm gì mà chém nó? Ðứa có khí giới trong tay sao không chém, chém thằng đầy tớ? Và ngay cả nhát chém cũng vậy, chỉ chém đứt được có cái tai. Không chém được vào đầu, vào cổ mà chỉ có cái tai thôi sao.

Chi tiết Máccô cho biết lúc nẫy là các ông ngủ đến độ mắt các ông "nặng trĩu". Phải chăng vì "nặng trĩu" nên đâu còn nhìn thấy gì? Phải chăng vì "nặng trĩu" cho nên vùng mình dậy thấy nguy cơ thì hốt hoảng chém mà thôi? Chém trong đôi mắt ngủ "nặng trĩu!"

Chúa bị bắt. tất cả bỏ chạy.

***

Bây giờ thì rõ, ai ở lại, ai chạy trốn.

Bây giờ thì rõ ai cứu ai.

Vừa trước đây thề chết với Thầy, giờ bỏ chạy.

Vừa trước đây lên tiếng thách đố, giờ cúi mặt.

Vừa trước đây tự tin, giờ mất tất cả.

Vừa trước đây tưởng mình dũng mạnh, giờ yếu đuối quá đỗi.

Vừa trước đây làm chủ tình hình, giờ nhục nhã.

Vừa trước đây tưởng mình cứu Thầy, giờ Thầy cứu mình.

Vừa trước đây tưởng mình là người lãnh đạo anh em, bây giờ người ta biết rõ sự thật.

***

Lạy Chúa, cuộc đời sao quá hoang vu.

Con tưởng mình là thánh nhân mà không phải.

Con tưởng mình có kế hoạch nhưng sao quá vụng về.

Con tưởng ý kiến con thông minh mà sao nông cạn.

Con tưởng người khác kém hơn mình nhưng thật sự họ biết suy nghĩ chín chắn.

Con tưởng không có con là chuyện không thành mà thực sự vì con nên mới hỏng chuyện.

Ôi! nào đâu con có ngờ.


55. PHÊRÔ, MÔN ĐỆ BỊ MẮN

Gom nhặt những đoạn Phúc Âm nói về phêrô, ta thấy một mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin! (Mt 14:31). Lần thứ hai: Ngu tối! (Mt 15:16). Lần thứ ba: Satan! (Mc 8:33).

Không biết sau khi Phêrô được Chúa gọi ở biển hồ (Mt 4:18) bao lâu, mấy tuần, mấy tháng thì chuyện xảy ra. Chuyện đầu tiên được Phúc Âm ghi nhận là Phêrô bị mắng.


Mắng lần thứ nhất:

Ðêm đó, Chúa hiện đến, đi trên biển. Chưa ai đi trên biển bao giờ. Các môn đệ hoảng hốt la lớn: "Ma! Ma!" Chúa bảo không phải ma, là Chúa. Nghe thì biết vậy chứ làm sao tin được? Các môn đệ bán tín bán nghi, không biết Chúa thật hay ma. Phêrô là kẻ thách đố bóng người đi trên biển ấy:

- Nếu là Chúa thật, truyền cho tôi đi trên mặt nước xem sao!

Bóng người ấy truyền cho Phêrô:

- Hãy đến!

Phêrô liền bước xuống biển, đi. Giả sử không phải Chúa, ma đánh lừa thì cái gì xảy đến cho ông? Chắc chắn ông bị chìm xuống biển ngay. Theo thói thường của kẻ cân nhắc trước sau, ông không nên làm thế. Nên xin một dấu lạ nào khác không nguy hiểm đến mình có phải là khôn ngoan hơn không.

Nghe bóng người ấy nói: "Hãy đến!" Sao ông không dè dặt đặt vấn đề: "Chúa thật hay ma?" Giơ chân đạp thử xem nước cứng không đã. Chả biết lúc đó ông nghĩ thế nào, ông nhảy xuống nước ngay. Theo Tin Mừng thuật, ông đã đi được trên biển. Ði được rồi, lúc ấy ông phải xác quyết đây không phải là ma, là Thầy chứ. Sự thật đã rõ, ông phải chắc ăn chứ. Nhưng chung cuộc cho thấy ông đã chìm. Cách hành xử ấy cho ta cảm tưởng ông hành động ào ào, không suy nghĩ là bao. Thấy mình đang lênh đênh trên nước ông mới giật mình kinh hoàng. Và rất rõ, Chúa mắng: Quân yếu tin.

Sau khi bỏ chài lưới theo Chúa, hình ảnh đầu tiên ghi nhận được mối liên hệ giữa Chúa và Phêrô là trận mắng trên đây. Trận mắng thứ nhất vừa xảy ra, hình ảnh thứ hai lại một trận mắng khác: Ngu tối!


Mắng lần thứ hai:

Thầy trò đang đi thì gặp nhóm Pharisiêu. Hai bên tranh luận với nhau. Pharisiêu trách sao các môn đệ không rửa tay theo tập tục truyền thống trước khi ăn. Pharisiêu đã nhiều lần dựa vào lề luật tìm cách bắt bẻ các môn đệ. Họ lấy cớ trọng lề luật chứ lòng họ có một ý đồ khác. Chúa không chấp nhận lối giả dối đó. Ngài nói: "Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế" (Mt 15:11). Chúa ám chỉ tâm địa trong lòng xác định tốt xấu chứ không phải hình thức tập tục ăn uống bên ngoài. Các môn đệ hiểu ý Chúa muốn nói gì nên mới nói với Chúa:

- Thưa Thầy, Thầy có biết, Thầy nói vậy làm những người Pharisiêu khó chịu lắm đó.

Các môn đệ hiểu Chúa có ý ám chỉ gì nên mới nói với Chúa như vậy. Nhưng trong nhóm có người hỏi:

- Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn kia cho chúng con!

Không hiểu, mới xin như vậy chứ. Và Chúa đã mắng:

- Ðến bây giờ rồi anh em còn ngu tối vậy sao! (Mt 15:15-16). Người bị mắng đó là Phêrô! Một chi tiết trong lời mắng này, Chúa mắng "đến bây giờ rồi mà còn ngu tối vậy sao". Cụm từ "đến bây giờ rồi" cho ta cảm tưởng là đã hoài công dạy dỗ mà vẫn không khá. Nghĩa là chậm hiểu lắm, cho đến bây giờ rồi mà vẫn còn chậm như thế.


Mắng lần thứ ba:

Về đức tin, lần thư nhất Chúa mắng quân yếu tin! Lần thứ hai bị mắng trí khôn chậm hiểu. Cả hai lần mắng đều xảy ra công khai. Chúa mắng Phêrô trước mặt mọi người. Bây giờ Chúa mắng tiếp lần thứ ba. Lần này mắng một cách thê thảm. Chúa bảo Phêrô là Satan!

Lần mắng thứ ba này xảy ra trên đường về Jêrusalem. Xét theo thời gian, lúc này vào năm thứ ba, khoảng cuối đời rao giảng của Chúa. Như vậy là Phêrô theo Chúa đã được ba năm. Theo ba năm rồi mà chưa thấy khấm khá gì.

Cuộc đời rao giảng Nước Trời của Chúa rất khác quan niệm người đương thời. Chúa không mua đất lập đền thờ. Không tổ chức bầu ban chấp hành trong cộng đoàn tông đồ. Các môn đệ không có huy hiệu. Họ không có áo đồng phục. Không thấy gì là dấu hiệu sắp có vương quốc.

Theo Chúa gần ba năm rồi, ghe thuyền đã bán, đất đai bỏ lại sau lưng. Ai mà không sốt ruột băn khoăn. Các môn đệ đôi khi cũng nghĩ tới giấc mơ ngày Thầy mình lập vương quốc. Nhưng bao giờ? Theo mãi thế này ư? Có đám đông đã bỏ. Băn khoăn trong giấc mơ ấy, các ông hỏi nhau:

- Ai là người lớn nhất trong vương quốc này?

Bằng chứng là Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến xin Chúa một ghế bên tả, một ghế bên hữu (Mc 10:37). Như vậy họ đã để ý đến các chức tước. Họ hy vọng bổng lộc quyền thế. Theo ngôn ngữ hôm nay thì ai chủ tịch? Ai phó chủ tịch?

Có điều ta thấy, họ chỉ nói riêng với nhau. Không ai dám đến hỏi Chúa. Riêng Phêrô, ông nhìn lại đã theo ba năm rồi mà chưa thấy gì. Ông là người duy nhất dám trực tiếp chất vấn Chúa:

- Thưa Thầy, chúng tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy thì được cái gì? (Mt 19:27).

Ðức Kitô trả lời:

- Phàm ai bỏ cha mẹ anh em, vì danh Ta thì được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp" (Mt 19:29).

Câu trả lời thật rõ. Thế là Phêrô chắc ăn! sẽ được gấp bội! Nói cách khác, câu trả lời ấy như lời khuyến khích đừng nản, cứ theo đi!

Vừa trả lời thế được ít bữa, bất ngờ một hôm trên đường chiều, Tin Mừng Máccô tường thuật bằng ngôn ngữ chính xác, lần này Chúa "nói rõ" điều đó. Chúa không dùng dụ ngôn, nhưng nói rõ cho dễ hiểu. Máccô viết: "Rồi Ngài dạy cho các ông biết về Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Ngài nói rõ điều đó không úp mở" (Mc 8:31-32).

Ơ hay! Thầy vừa mới hứa ai theo Thầy sẽ được gấp trăm ngay đời này cơ mà! Sao bây giờ lại có chuyện Thầy bị chết là làm sao? Như vậy chúng tôi mất hết à? Phêrô không thể hiểu. Lần này không thắc mắc, không hỏi Chúa nữa, ông "kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Người" (Mc 8:32).

Máccô tường thuật chính xác trong ngôn ngữ rất ý nghĩa là Phêrô "kéo" Chúa ra và "trách" Chúa! Ta hãy tìm ý nghĩa trong hai động từ "kéo" và "trách" này. Kéo là hành động bắt người khác về phía mình. Trách là hành vi diễn tả người khác sai, mình đúng. Mạnh hơn nữa, động từ trách diễn tả một uy quyền. Ðộng từ kéo diễn tả một thái độ không cho người đối diện tự do chọn lựa. Hai động từ ấy phiên dịch thái độ của Phêrô là ý của ông đúng. Chúa hãy làm theo ý ông.

Trong vai chủ động đó, Phêrô cho rằng suy nghĩ của ông là đúng. Chúa không nên suy nghĩ kiểu đó. Như thế, Phêrô đã đổi hướng con đường Ðức Kitô phải đi sang một hướng khác. Cái ý nghĩa sâu xa của hành động kéo và trách nằm ở chỗ này. Nằm ở chỗ là thay đổi lý tưởng, thay đổi đường đi của Ðức Kitô.

Hành động của Phêrô không phải là lời cám dỗ mà là nhảy vào cuộc một cách tàn bạo. Nó không nhẹ như lúc ma quỷ cám dỗ Chúa trong sa mạc. Lúc đó ma quỷ chỉ cám dỗ chứ không dàm cản ngăn. Phêrô không cám dỗ mà Phêrô cản ngăn. Vì thế, lời mắng của Ðức Kitô là một lời kháng cự rất mạnh: Satan!

Ðọc Phúc Âm đến đây, ta thấy càng ngày Chúa càng mắng Phêrô nặng hơn. Ðến cuối đời còn mắng thêm một lần nữa.

Chuyện xảy ra, lúc các thượng tế, binh lính cùng gậy gộc đến bắt Chúa trong vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm. Nhưng Chúa trả lời hành động ấy:

- Hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay ngươi tưởng Ta không thể cầu cứu với Cha Ta cấp cho Ta ngay mười hai cơ binh thiên thần sao? (Mt 26:52).

Nhìn lại đời Phêrô, Chúa mắng nhiều hơn khen. Dường như chẳng khen lần nào. Có lần Chúa hỏi các môn đệ nghĩ Chúa là ai. Ngày đó Phêrô tuyên tín rất hay: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Nhưng ngay sau đó Chúa nói: "Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời" (Mt 16:16-17). Như vậy là Thần Khí Chúa nói, nếu không do Thần Khí mà để tự mình Phêrô thì không biết ông sẽ nói Chúa là ai!

Cũng có lần ông nói lung tung. Lần Chúa biến hình trên núi Tabor. Thấy quyền uy sáng láng, ông vội nói với Chúa:

- Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môisê một cái, và ông Êlia một cái.

Ngay sau câu nói ấy, Máccô viết tiếp, cũng bằng một ngôn ngữ chính xác rất ý nghĩa. Ngài tường thuật chi tiết như sau: "Thực ra ông không biết phải nói gì vì ông kinh hoàng" (Mc 9:6). Như thế, chỉ vì kinh hoàng mà nói, chứ chẳng biết mình nói gì! Nước không có, gạo củi cũng không, tự dưng dựng ba cái lều trên đỉnh núi, lấy gì ăn!

Kẻ theo Ðức Kitô bị mắng nhiều hơn khen. Lần nào Chúa cũng mắng Phêrô trước đám đông. Có hai điều đáng lưu tâm về những lời Kinh Thánh tường thuật con người Phêrô qua một đời bị mắng này:

- Thứ nhất, Phêrô kém như thế tại sao Chúa không sa thải?

- Thứ hai, bị mắng nhiều như thế, tại sao Phêrô không giận mà bỏ Ðức Kitô?


56. QUÊ HƯƠNG VÀ TINH MỪNG

Lá thư cuối cùng của Anh tôi nhận được vào khoảng tháng Mười năm 1983. Tháng Mười ở quê nhà thì thường hay có những trận mưa lớn. Mưa bất chợt. Thư của Anh đã làm tôi nhớ về những trận mưa đó. Thư của Anh cũng đem đến cho tôi những sợi mưa buồn. Buồn vì biết Anh không còn ở căn nhà đó nữa. Tôi đã mất liên lạc với Anh từ độ ấy. Sau những ngày thăm hỏi, hôm nay tôi được biết Anh đã qua đời ở một họ đạo nhỏ rất xa xôi, mãi tận miệt rừng Tràm.

Hôm nay tôi muốn viết cho Anh nhưng tôi biết Anh chẳng bao giờ đọc được những dòng này. Vậy có lẽ tôi viết cho chính tôi, cho kẻ ra đi hơn là cho người ở lại.


Anh mến, Chiều nay nhớ về Anh, tôi lật lại những tờ thư cũ. Lá thứ đầu tiên Anh viết cho tôi ngày 2.2.1978:

... tháng Bảy này ra trường. Ðời phục vụ bắt đầu. Hãy là ánh mắt dõi theo nhau. Bây giờ học hành và lao động. Trong con người có một khả năng thích nghi vô giới hạn mà bây giờ mình mới nhận ra. Dĩ nhiên cũng phải phấn đấu. Có lúc mình phải đặt lại cả cuộc đời mình. Có một điều mình tự nhủ là không chịu sống tầm thường. Hãy chia sẻ với mình nỗi lo lắng đó. Ra trường rồi chờ đợi. Mười năm. Hai mươi năm. Một đời. Biết mình có còn nhiệt tâm. Sợ xuống đời rồi cũng xuống dốc luôn.

Có bao giờ Anh thấm mệt? Chia sẻ niềm lo của mình nhé. Những lúc suy nghĩ về đoạn đường trước mặt. Hiến dâng rồi mà vẫn còn nghi ngại. Hãy cầu cho mình đủ nghị lực.


Ngày 12.8.1978, Anh viết:

... giờ này chắc Anh đang đi làm ở nơi nào dó. Phương trời vò võ. Mình đã xa trường rồi. Ngày 27 tháng 7 chia tay nhau, mỗi người đi một phương trời phục vụ. Có một lần nào mình đã viết cho Anh: "Tin Mừng không chọn lựa đất sống. Tình yêu chẳng chối từ gian nan". Mình vẫn mong được phục vụ ở một nơi xa xôi, quê mùa. Ngày đi dân công hỏa tuyến mình đã ghi vào tập suy niệm: "Thân xác và khả năng con có không bởi con thì việc xử dụng tùy thuộc vào Chúa". Rời trường, chấm dứt một đoạn đường. Tương lai là một huyền nhiệm Anh nhỉ. Cứ nghĩ đến tương lai mình lại nghĩ đến Anh, đến mình. Thấy bùi ngùi khôn tả. Những tâm hồn tế nhị rồi có vượt qua được bão tố phong ba? Mỗi buổi chiều nhìn tháp chuông. Mình thầm nghĩ, rồi đời ta cũng vươn lên như thế. Vươn lên không mỏi. Ðợi chờ không sờn.

Chẳng bao giờ mình có cái nhìn ảo tưởng. Mình không cho phép đời mình đi xuống. Mỗi biến cố phải là điểm mốc đi lên. Hãy là điểm tựa cho nhau mà đi. Mình chẳng phải là vĩ nhân nên luôn luôn phải quyết định lại. Chẳng bao giờ người ta chọn lựa được một lần cho tất cả. Nhưng cứ mỗi khoảng thời gian lại phải chọn lựa lại, làm mới lại những gì mình đã chọn. Niềm tin chẳng đốt một lần rồi sáng mãi, nhưng phải vun bồi. Biện chứng Ðã-Chưa nói lên sự thao thức của cuộc đời lý tưởng. Có rồi đó. Nhưng chưa phải hoàn toàn, đích thực. Nên luôn phải thanh luyện. Nên luôn phải tranh thủ.


Ðọc đến đây tôi muốn dừng lại và nhớ về Anh. Giờ này Giáo Hội và Quê Hương ra sao? Tôi liên tưởng đến Anh, đến những người chọn ở lại để làm môn sinh của Chúa Kitô gặp gỡ môn sinh của Karl Marx, không phải bằng hận thù mà bằng đối thoại trong tình thương. Chiều nay tôi nhớ về nơi ấy, nhớ về Anh, những dòng chữ của Anh đã cho tôi niềm tin. Bóng Thánh Giá Anh đang vác là hy vọng trong đời tôi.


Việtnam Ngày 5.9.1982

... Anh thân ái, chia sẻ với Anh những suy tư của mình trong dịp lễ khổ nạn thánh Gioan Thánh Giá và lễ Thánh Tử Ðạo. Thánh Gioan là mẫu gương của mọi chứng nhân. Còn gì bi đát hơn, cao cả hơn tiếng kêu trong sa mạc. Bổn phận của chứng nhân là phải nói. Cho dù đời có thành sa mạc hoang vu. Sa mạc thật kinh hoàng. Nơi đó người ta chẳng gặp một tiếng nói nào chống đối. Nhưng người ta đối đầu với cái hoang lạnh rợn người. Nếu có gặp chống đối thì vai trò của Sứ Ngôn cũng không có quyền để cho mình nhiễm lạnh. Ngài phải cất tiếng lên. Ðó là bổn phận của Lectorat đó. Châm ngôn của Gioan là: "Ngài cần phải lớn lên. Tôi cần phải nhỏ đi". Ngài lớn lên bằng cách nào tôi chẳng biết. Nhưng cảm nghiệm được sự nhỏ bé hao mòn có là niềm hãnh diện, an ủi? cho tôi? Ðó là con đường bi tráng, nhưng dầu sao thì cũng phải chọn lựa như các Nhân Chứng Ðức Tin. Ðời mình sẽ chẳng có cái diễm phúc có quyết định chọn lựa tối hậu và mau lẹ như các ngài. Chọn lựa của mình nhỏ nhoi nhưng lại dai đằng đẵng. Không phải một lúc nhưng một đời.

Anh quý mến, Anh bảo đời mình đang đi vào tuổi ba mươi. Tam thập nhi lập. Con đường trước mặt dường như đã rõ. Hết đời học trò có nghĩa là bắt đầu lo âu về bổn phận. Nợ nhà, nợ nước. Mỗi ngày mình dậy các em nhỏ, cả hai buổi. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ để bảo mình hãy vui sống và tin tưởng. Các em bây giờ rất tội nghiệp. Nghèo túng làm nẩy sinh những tật xấu, bần tiện, gian tham. Có lẽ vì đã quen tranh sống nên chúng chẳng chịu ngồi yên. Các em cũng phải làm đầu tắt mặt tối để phụ giúp gia đình. Mình thương chúng vô cùng. Mình đang tập cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại. Ở đâu và làm gì thì cũng là làm cho Cha trên trời, phải không Anh.

Mình đã nhìn rõ con đường trước mặt. Nhưng không sao khỏi cảm thấy cô đơn. Bạn bè dần dần bỏ đi hết cả. Thời gian đợi chờ còn lâu quá. Vô hạn. Năm nay mình suy ngẫm nhiều hơn về cảm giác đó. Hãy cầu nguyện cho mình đi trọn con đường âm thầm, lặng lẽ. Gởi về Anh những lời nguyện của mùa tử nạn, mùa xám hối. Biết rõ con đường mình đi nhưng vẫn yếu lòng khi nghe cô đơn. Ai mà muốn độc hành trên "cõi đời buồn hiu hắt" này Anh nhỉ. Nhưng mình không cô đơn đâu. Mình còn thập Tự. Chúng mình sẽ là hai bông hoa đua nở nhé.


Việtnam ngày 28.9.1983

... "Hãy lạc quan về thời đại" Công Ðồng Vatican II ở một nơi nào đó nói như vậy. Nhớ lần trước Anh viết cho mình: "Ðiều quan trọng là hãy lớn mạnh". Ðúng vậy Anh ạ. Và theo mình, những đau khổ đã giúp mình lớn mạnh hơn. Cũng như người học trò sẽ học bài kỹ lưỡng hơn khi cuộc thi sắp tới. Tâm tình của mình bây giờ là không lo âu gì về tương lai. Sống trọn giây phút hiện tại. Cách chuẩn bị hay nhất cho tương lai đó. Bây giờ thì mình sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ công việc gì: nông trường, bộ đội, công nhân. Còn gì vui bằng khi nghĩ đến những bước chân cứu chuộc đang rảo khắp miền xa hẻo lánh nhất trên địa cầu. Và vui hơn nữa khi biết rằng ở bên trời xa ấy cũng có những ngọn đèn đang thắp sáng lên. Hãy cùng nhau nuôi cho ngọn đèn đó cháy hoài nhé.

Hãy cầu sao cho mình biết bỏ hết những gì phụ thuộc. Cứ mãi dõi tìm ánh sáng như bông hoa hướng dương mãi hướng về mặt trời, bất chấp mọi bóng tối vây bọc. Mình luôn luôn nhìn thấy rõ con đường vắng vẻ mà mình bước chân vào, thấy rõ nỗi cô đơn mênh mông đằng trước mặt. Nhưng mình không có đủ can đảm chùn bước. Mình không dám cho mình vinh dự làm viên sĩ quan đẹp đẽ trên chiếc tầu đắm. Chúng mình đọc ở đâu nhỉ. Hình như trong Grangs Coeurs của E. de Amicis thì phải. Tầu dần chìm xuống. Ðoàn canô tỵ nạn xa dần. Viên thuyền trưởng khoanh tay trước ngực, trang nghiêm như cử hành một nghi lễ thiêng liêng. Mái tóc phất phơ trong gió.trung thành ở lại với con tầu... Ðẹp lắm. Oai hùng lắm. Làm sao có được can đảm ấy. Dù đôi lần có dám ước mơ.

Anh thân mến, Mình cảm thấy có trách nhiệm phải thắp lên một cây đèn nhỏ. Ở nơi hoang vu vắng vẻ, một ngọn đèn cũng có đôi chút ích lợi chứ hả Anh...

Khởi đầu viết thư cho Anh vào tháng 9 bây giờ sang tháng 10 rồi. Mình đang sống trong thiên ân dào dạt. Những quyết định lớn đã thành hình. Mình cảm thấy lý tưởng càng hiện rõ nét. Những chọn lựa lớn hầu như đã dứt khoát. Hãy cầu cho mình vững chí can trường. Những người có tâm hồn là những người biết sống. Không bao giờ có bình an tự tại. Sự yên tĩnh là kết quả của một cuộc chinh phục.

Cuộc vật lộn ấy ai cũng có. Narzis đã thú nhận với Goldmund như thế phải không Anh. Như vậy chúng mình có thể cảm thông với nhau dù xa xăm diệu vợi. Sao Anh chưa chịu chức mà còn phân vân? Những suy tư chín chắn thì bao giờ cũng tốt. Nhưng e ngại, rụt rè khiến người ta hay bỏ lỡ cơ hội. Hy vọng mình cảm thông được những ưu tư của Anh. Chọn lựa nào cũng đau đớn. Mình tin rằng Anh cũng phải chiến đấu. Mảnh đất nào thì cũng thế. Ở đây mình cũng phải gắng bước từng ngày. Mỗi ngày mỗi cố gắng vươn lên. Chính khi cố gắng mình thấy phát sinh sức sống. Ðó là năng lực của mình. Nếu mất ý nghĩa để cố gắng chắc mình không sống được. Cầu cho nhau luôn để "sống trong đời sống cần có một tâm hồn". Chẳng có hoàn cảnh nào đáng ngại, chỉ ngại ở lòng mình. Mình đã thấy càng khó khăn càng phát hiện nhiều tâm hồn thiện chí.

Mình luôn xác tín rằng Thiên Chúa không bao giờ lầm lẫn trong công việc của Ngài. Chỉ có con người hư hỏng làm sai. Và thanh luyện là điều cần thiết.

Mình yêu mảnh đất này vô cùng. Anh ạ, mình đã chọn ở lại. Ðã dứt khoát. Thanh luyện thì cần thiết. Thanh luyện là khí cụ nhưng cũng gây đau khổ lắm. Mình cầu xin để được sống dù ở đâu thì cũng là làm cho Cha trên trời.

Ngày nào mình được bước lên bàn thờ? Có thể là 10 năm, 20 năm, hoặc có thể chẳng bao giờ. Thời gian có sức soi mòn những tảng đá vững chãi nhất. Nghĩ tới đó đôi lúc mình cảm thấy e sợ. Hãy cầu cho mình. Có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ được bước lên một bàn thờ nhỏ trong một thánh đường nào đó, nhưng như vậy đâu ngăn cản mình bước lên một bàn thờ rộng lớn của cả vũ trụ để dâng thánh lễ trên địa cầu. Có thể sẽ chẳng bao giờ dâng bánh rượu, nhưng như vậy đâu cản ngăn mình dâng lao công cả cuộc đời thay thế cho bánh rượu. Có lẽ mình chẳng bao giờ được bước lên bàn thờ đâu. Nhưng tình yêu thì đâu có giới hạn. "Linh mục không phải là đích diểm mình phải đạt tới, nhưng chính là tình yêu mình dành cho Chúa". Anh đã chẳng viết cho mình như thế sao. Với tình yêu người ta có thể làm bất cứ việc gì, bất cứ ở nơi đâu.

Ý tưởng được làm tấm bánh cho mọi người khiến mình thảnh thơi nhẹ nhàng. Nhưng khi thực sự bị nghiền tán mình mới cảm thấy đớn đau.

Cầu cho mình được niềm vui chia sẻ trong thân phận Chúa Giêsu. Bây giờ thì mình hiểu thánh Phaolô hơn: "Chúa đã để trong da thịt tôi một mũi gai. Nhiều lần tôi xin Chúa cất đi. Nhưng Chúa không chịu vì Chúa nói: Ơn của Ta đủ cho con rồi".

* * *

Hoa Kỳ ngày 3.9.1985

Anh thân mến,

Những lá thư đầu tiên Anh viết trên trang giấy trắng đẹp. Những lá thư sau cùng Anh viết trên giấy vở học trò, loại giấy xấu, vàng ố, nhòe vết mực. Quê hương mình đang đi vào nghèo túng. Tôi nhìn xuống thùng rác của tôi bên bàn viết. Ôi, nếu trong giấc mơ mà Anh nhìn thấy, Anh sẽ ước ao được những mảnh giấy trắng mà tôi vứt đi. Ở đây người ta dư thừa như vậy đó Anh ạ. Tôi không muốn đọc tiếp thư Anh nữa. Tôi thấy trong tôi một băn khoăn nào đó làm tôi phải đặt lại câu hỏi cho đời mình.

Có lẽ tôi không nên hỏi những gì đang xẩy ra cho Giáo Hội ở quê nhà, mà tôi phải hỏi những gì đang xẩy ra cho Giáo Hội nơi đây. Tôi không nên hỏi những gì đã xẩy ra cho Anh nhưng tôi phải hỏi cuộc sống của tôi hôm nay thế nào.

Anh đã cắm Thánh Giá xuống lòng đất quê hương, xuống cuộc đời Anh. Anh đã chọn ở lại để thắp lên một ngọn đèn. Anh đã nguyện xin cho được đi trọn cuộc sống chứng nhân âm thầm. Và tôi tin chắc cũng còn nhiều ngọn đèn đang lặng lẽ thắp lên từ những miền xa xôi vì yêu quê hương và dân tộc. Còn nhiều đôi chân gầy yếu đang cuốc đất trên cánh đồng nước mặn mà trái tim thì rực rỡ yêu thương. Biết bao hoa hồng đang nở trên những nhánh gai nhẫn nại. Là con người, chúng mình yếu đuối như nhau. Nhưng một lần chúng mình đã tâm sự. Chứng nhân giỏi không phải là chứng nhân không bao giờ biết mỏi, nhưng là chứng nhân dù mỏi mệt vẫn trung thành theo tiếng gọi.

Anh đã lấy lời của Teilhard de Chardin viết cho tôi: "Vùng nước xoáy, vật gì rơi vào sẽ bị hoặc cuốn xuống đáy sâu âm u, hoặc văng tít lên cao, tùy cách mà mình phóng vào". Trong vùng nước xoáy, Anh đã chẳng để đời mình chìm xuống. Anh đã hướng về Thập Giá như hoa hướng dương mãi mãi dõi theo mặt trời. Trong vùng nước xoáy của xã hội ở đây, tôi sẽ phóng đời mình vào như thế nào?

Anh bảo rằng chúng ta là những dòng sông. Mỗi dòng sông chẩy theo một ngã rẽ nhưng cùng một dòng nước. Ðời Anh đã là một dòng sông chảy theo bóng Thập Giá cho đến tận cùng cuộc đời. Còn tôi? tôi có đem đời mình làm dòng sông hay để cho đam mê, lười biếng thành đập đá ngăn chận dòng sông, trở thành dòng sông cạn buồn hiu.

Tôi thấy lo âu vì những lời Anh viết trong thư: "Thiên Chúa không bao giờ lầm lẫn trong công việc của Ngài, chỉ có con người hư hỏng làm sai".


57. RÁC

Tuyết rơi từ bao giờ không biết, cứ mưa trong lặng lẽ một trời đêm. Tôi vén màn nhìn qua khuông cửa kính phòng ngủ. Ðường vắng tanh. Nghe ngoài trời gió tuyết rì rào đập xuống vuông kính cửa sổ. Có tiếng xe nặng nề. Tiếng cần trục cẩu chiếc thùng sắt ở đầu ngõ. Tôi đoán trời đã gần về sáng vì xe đổ rác đang đi thu rác. Vào mùa đông ở những tiểu bang miền Bắc Mỹ 6 giờ sáng trời vẫn tối mù sương.

Phòng tôi có một thùng rác. Trong nhà tắm và vệ sinh có một thùng nữa. Xuống khỏi cầu thang là phòng khách, cũng có một thùng rác. Từ phòng khách nếu đi thẳng xuống nhà bếp, đó mới lại là thùng rác lớn. Nếu rẽ mặt là phòng làm việc của cha xứ, cũng có một thùng rác. Cạnh đó là phòng làm việc của cha phó, dĩ nhiên cũng phải có một thùng. Bên cạnh phòng cha phó là văn phòng của nhà xứ, văn phòng chính, làm sao mà thiếu thùng rác được. Tính ra đã là 7 thùng rác. Chưa tính những phòng khác và ngoài đầu nhà. Người ta cần nhiều thùng rác vì cuộc đời, đâu cũng có rác.

Sáng nay, trời mù sương tuyết phủ. Gió lạnh bay về se sắt những nhánh cây khô. Từ đường phố còn vắng hoe, người phu đã đi dọn rác.

* * *

Chỉ mấy ngày, thùng rác trong căn bếp đã đầy. Ðặc tính của rác là rác gọi ruồi nhặng tới. Rác sinh dòi bọ.

Trong những thứ làm bẩn cuộc đời có hai loại rác. Rác bên ngoài và rác trong tâm hồn. Các Biệt phái và ký lục chất vấn Chúa:

Vì lẽ gì mà môn đệ Ngài lại không noi theo lệ truyền của tiền nhân, không rửa tay khi dùng bữa? (Mt. 15: 2). Chúa gọi dân chúng lại mà trả lời họ: Không có gì ở ngoài miệng vào có thể làm cho người ta ra dơ uế được. Nhưng chính các điều bởi miệng ra là những điều làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 11).

Sau đó Chúa giải thích thêm cho các môn đệ:

Ðiều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra dơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa: Những dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra, và làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 17-20).

Con người đề cập đến rác rưởi bên ngoài thì Chúa lại soi dọi đến rác rưởi tâm hồn. Chúa đem nó ra ánh sáng vì loại rác này khó thấy, hoặc người ta không muốn thấy. Từ thái độ của Chúa về rác, có lẽ ta cũng cần có đôi chút thời giờ để gợi một vài ý:

* Gia đình tôi không thể sống mà thiếu thùng rác, vậy đâu là thùng rác thiêng liêng của gia đình tôi?

* Bao đựng rác cũng mất tiền, tại sao tôi không tiết kiệm tiền mua bao bằng cách cứ chứa rác trong nhà? Lý do nào làm tôi không nhạy cảm với rác tội lỗi?

* Khi đổ rác, người ta đổ tất cả rác trong nhà. Một thùng có mùi hôi, cả nhà vẫn hôi. Người ta không thể để cho rác của mình gây tanh tưởi và lập luận đó là rác của tôi, tôi có tự do giữ nó trong phòng tôi! Tôi có bao giờ cho những băn khoăn về tội riêng của tôi có liên hệ tới người chung quanh trong gia đình là một băn khoăn chính đáng?

* Người ta không đổ rác từ thùng này qua thùng phòng bên kia. Nhưng là đổ tất cả ra ngoài. Tôi có thái độ nào với rác thiêng liêng trong gia đình tôi?

* Khi phát mùi tanh, khi có dòi bọ mà bao rác hãy còn vơi, người ta vẫn đem đi đổ, sao không cứ đợi cho đầy? sao không cứ đợi đúng thời khóa biểu? Tôi hiểu thế nào trong đời sống thiêng liêng với các thứ rác tinh thần và bí tích giải tội?

Tất cả sang trọng trong căn nhà của tôi chẳng có gì là quyến rũ để Chúa vào. Rác tâm hồn đã biến nó thành ngôi mộ. "Các ông giống như những mồ mả quét vôi trắng, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy hài cốt và mọi mùi hôi thối" (Mt. 23: 27).

* * *

Lạy Chúa,

Ai cũng có rác. Nhà nào cũng có rác. Trong hai thứ rác, Chúa sợ rác rưởi trong tim con người. "Khốn cho các ngươi, vì các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, còn bên trong thì chứa đầy cướp bóc và ô uế" (Mt. 23: 25). Căn nhà của con dù có trang trí mỹ thuật đến đâu mà đầy rác, thì đấy cũng chẳng thể là nơi sống được. Gia đình con có khi nào nhạy cảm với rác rưởi vô hình?

Dù đời đẹp đến đâu, nói đến đời cũng vẫn phải nói đến rác. Cuộc sống của con cũng có biết bao nhiêu sợi chỉ thêu bạc, nhưng cũng chẳng thể tránh được những đường may tội lỗi. Như vậy, xin cho con hàng ngày khi đổ rác biết suy tư về rác cũng là đủ cho con lắm rồi.


58. SA MẠC

Này Ta sai sứ ta đi trước mặt ngươi kẻ sẽ dọn đàng cho ngươi. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. (Mc. 1: 2-3)

Máccô bắt đầu Tin Mừng bằng hình ảnh tiếng kêu với sa mạc. Nếu kêu thì phải kêu ai chứ, mà kêu ai thì sao lại kêu trong sa mạc, vắng như vậy có ai đâu mà kêu. Nếu lên tiếng thì phải lên tiếng ở chỗ đông người chứ. Nhưng Yoan lại lên tiếng trong cõi tịch liêu lặng lẽ.


Lên tiếng gọi đời

"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Ðó có là tiếng gọi của Yoan gởi vào cuộc đời? Ðó có là tiếng gọi của Yoan truyền đến người nghe? Nói đến gọi là gọi ai. Người ta chỉ truyền đi khi có đối tượng nhận. Ở đây, tôi thấy chung quanh là sa mạc, chỉ có đất với trời, có mây và gió. Mây bay đi, gió không dừng lại, vậy Yoan gọi ai?

"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Nếu tiếng kêu ấy chỉ là tiếng kêu Yoan gọi đời thì tôi hiểu thế nào về Nước Trời trong đời sống của tôi. Trong đời, có những quãng trống không ai song hành với tôi. Có những quãng vắng tôi không gặp ai. Có phải vì không có người nghe mà tôi không cất tiếng gọi ấy lên? Nếu tiếng kêu trong sa mạc của Yoan chỉ là tiếng ông gọi người, thì khi không có người, ông không có động lực để cất tiếng kêu. Tin Mừng Máccô cũng nói về Nước Trời "như người kia gieo giống xuống đất, dù người ấy ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm lớn lên mà người ấy không biết" (Mc. 4: 26-27). Như thế, lời công bố Nước Trời không tuỳ thuộc vào có mặt của người nghe. Ngay cả khi tôi im lặng thì Nước Trời cũng cứ âm thầm lớn lên. Như vậy, tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu của ai gởi cho ai?

Tiếng gọi lòng mình.

Mùa vọng khởi đầu bằng lời ngôn sứ trong hoang địa: "Hãy dọn đường cho Chúa đi! Hãy bạt lối cho Chúa đi!" Tôi nghe như tiếng kêu ấy vang lên rất lẻ loi. Trong sa mạc tịch liêu, tiếng ấy vang lên, vang lên, cứ một mình. Giữa cái hoang vu của đất trời, Yoan mình trần trong manh áo da thú, đầu tóc bụi mù đất rừng. Ông ngửa cổ nhìn trời mênh mông cất tiếng: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Ông nói với ai giữa đất trời hoang vu ấy. Cái dáng ông lẻ loi như quay cuồng với lời vọng của mình. Giữa đất trời ấy, ông đã nghe thấy tiếng lòng ông thúc bảo.

Yoan không giữ tiếng lòng ấy trong thinh lặng. Ông không chờ tiếng lòng ấy khi đến dòng sông Jordan rồi mới cất tiếng. Ông không để dành tiếng lòng ấy khi thấy có kẻ lắng nghe rồi mới nói ra lời. Trong hoang vu lạnh lùng, ông cất tiếng. Trong sa mạc đìu hiu, ông nói lên lời. Như vậy, trong lẻ loi với bóng, ông nói với chính mình: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!"

"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Tiếng hô ấy Yoan đã hô to cho lòng của chính ông. Ông đựng lại cơn lốc của âm vang ấy cho chính ông. Rồi từ âm vọng đó ông đến bờ sông Jordan cho âm vang ấy xuôi dòng thế kỷ chảy vào thế giới, đến ngày hôm nay. Tiếng gọi đời của Yoan chỉ là nối dài tiếng gọi cho lòng mình. Nghĩa là nếu không có người nghe thì tiếng gọi ấy vẫn đi vào không gian.

Chỉ trong sa mạc tiếng vọng mới âm vang cho cõi lòng. Hễ nói trong hoang vu không bóng người là nói với mình thôi. Khi có người tôi mới nói là để nói cho người chứ không phải cho tôi, vì mục đích chỉ để nói cho người cho nên chưa chắc điều tôi nói đã là niềm thao thức trong tôi. Khi không có ai mà tôi vẫn nói, khi tôi nói cho chính mình nghe, điều tôi nói đó mới là băn khoăn tự tình. Trong sa mạc chỉ có bóng, nhưng Yoan đã nói với bóng của mình: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Tiếng mời gọi dọn đường cho Chúa phải là tiếng lòng mình trước đã. Tiếng ấy chỉ trở nên si mê khi hình băn khoăn với bóng, và bóng khắc khoải với hình.

* * *

Khi thấy con người được tạo dựng, các thần dữ đã ghen tức với con người. Sợ rằng con người biết đâu cũng lại là một vị thần, họ bàn tính phải hành động sao đây. Vì không muốn có thêm vị thần nào khác nữa, các thần dữ gian ác này quá đỗi băn khoăn về con người mới được tạo dựng. Lúc đó con người chỉ là pho tượng đất sét còn ẩm ướt, đang chờ thành hình. Các thần gian manh đề nghị với nhau là pho tượng đất đang còn mềm, chúng ta hãy ngắt đầu con người rồi giấu đi, để rồi mai sau con người sẽ mãi mãi bận tâm đi tìm cái đầu của nó. Một số thần được sai đi, và quả thật, tượng đất sét còn mềm, họ đã ngắt đứt được đầu con người đem về, nhưng vấn đề nan giải là giấu cái đầu đó ở đâu bây giờ. Con người cứ đi tìm mãi, rồi cũng có lúc nó tìm ra.

Trong lúc tất cả bối rối về cái đầu, một vị thần già quỷ quyệt nhất thủng thẳng bước ra an ủi các thần khác rằng đừng sợ. Vị thần phù thuỷ này nhặt cái đầu lúc đó là một cục ánh sáng xanh nhợt nhạt đang run rẩy. Lão thần già rực mắt hung đỏ quỷ quyệt, trong nháy mắt đập đầu con người xuống nền đá. Chiếc đầu con người vụt biến mất, để lại ngơ ngác cho lũ thần đang bối rối.

Lão thần già gian ác cất tiếng cười man rợ nói với lũ thần trẻ còn khờ khạo. Các ngươi giấu ở đâu rồi con người cũng tìm ra đầu của nó. Nó sẽ lục lọi khắp cả vũ trụ này. Tuy có chỗ nó chẳng để ý, nó sẽ không tìm đâu là chính con người của nó. Ta đã giấu cái đầu của nó trong chính nó! (Theo Rudyard Kipling)

* * *

Lạy Chúa,

Hàng năm, cứ khi gió se se lạnh đem Mùa Vọng tới, tiếng kêu trong hoang địa của Yoan lại đưa con về một nhắc nhở. Con cần những khoảnh khắc sa mạc để âm vang khi con gọi đời là gọi chính lòng mình đó thôi: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Khi con gọi người dọn đường cho Chúa mà thôi thì khi không có người con sẽ không gọi, mà con không lên tiếng gọi thì con mất ơn gọi làm ngôn sứ. Khi con gọi người thì âm vang của con ra đi mà không về với con. Con cần những sa mạc thinh lặng, để khi con cất tiếng gọi thì tiếng gọi ấy vọng về với con ngay. Trong hoang vu một mình, Yoan an cứ ngẩng đầu gọi để ông nghe tiếng lòng ấy, để dù nếu không gặp ai, không ai gặp, ông vẫn mãi mãi là sứ ngôn. Hình ảnh đẹp của Yoan là ông không để mình nhiễm lạnh cái hoang vu độc thoại.

Con những tưởng rằng con cần đối thoại với đời, phải lên tiếng gọi đời, nhưng, lạy Chúa, con cần độc thoại biết bao về tiếng gọi ấy: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!". Nếu con không độc thoại tiếng gọi này với lòng mình thì con cũng chẳng thể có đối thoại với đời về tiếng gọi đó.


59. SAO CON LẠI KHÓC

Trong đời, ai cũng có lúc khóc. Khóc thầm lặng. Khóc cho vơi niềm đau. Kinh cầu tuyệt vọng là kinh cầu trong nước mắt. Kinh cầu mong hy vọng cũng là lời kinh khao khát đẫm lệ.

Vũ trụ dường như đã có dan díu với tiếng khóc trước khi hình thành hay sao mà bây giờ ở đâu cũng thấy có nước mắt. Có tiếng thở dài trên đường, có tiếng thở muộn phiền lúc nghỉ ngơi. Tiếng than bên đời là buồn nhiều hơn vui.

Những trang Kinh Thánh thưở xưa cũng đong dài nhiều dòng nước mắt. Nhưng câu chuyện nước mắt của Mađalena thật đặc biệt. Bà khóc hai lần, hai lần khác nhau.

Ngày đó, Mađalena khóc bên chân Chúa, nước mắt và hương thơm. Trong buổi chiều ấy, Chúa không nói gì. Chúa cứ để Mađalena khóc. Chúa nhận nước mắt như nhận quà tặng ân tình. Còn Mađalena muốn đem nước mắt hòa vào hạnh phúc dầu quý cho bay đi những cơn mưa phùn của linh hồn rêu phong năm xưa. Chiều đó, người đàn bà ấy không nòi gì. Thinh lặng và nước mắt thôi.

Thế rồi, cũng người đàn bà ấy, một sáng nọ bà khóc, buổi sáng đến mộ đá tìm xác Chúa. Nhưng tiếng khóc lần này không như tiếng khóc thuở xưa.

Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc, vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt xác của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, lền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Yn 20:11-15).

Một Mađalena, mà hai khung trời, hai dòng nước mắt khác nhau. Một con tim mà hai nhịp đập, hai thổn thức khác biệt.

- Ở nhà Biệt phái: Ngày ở nhà ông Simon Biệt Phái, nước mắt bà Mađalena rơi xuống chân Chúa, nhưng chảy ngược vào tâm hồn. Mađalena khóc thầm lặng không tiếng nói. Bên mộ đá: Hôm nay, bên mộ đá Mađalena oà vỡ khóc thành lời nói. Bà thổn thức báo tin cho Phêrô và Yoan. Bà vội vã hỏi “Người làm vườn”. Bà quả quyết với thiên thần: “Người ta lấy mất Chúa tôi rồi” (Yn 20:13).

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Simon, Mađalena kín đáo tìm cách vào tận phòng tiệc cho nước mắt rơi trên sàn nhà. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena đứng ở ngoài mộ mà thôi, tiếng khóc vang bên phía ngoài.

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, nước mắt Mađalena rơi trước mọi người, rơi trên chân Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, nước mắt rơi trong cát bụi.

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa để Mađalena ngồi cạnh mình lấy tóc cùng nước mắt mà lau chân. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa không cho nước mắt kia chạm tới Ngài.

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong tiếng khóc, Mađalena bị người ta kết án. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena kết án người khác trong tiếng khóc của mình. Không bằng chứng mà Mađalena dám báo tin cho Phêrô bằng cách đổ tội cho người khác rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Yn 20:2).

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong dòng nước mắt, Mađalena nhìn rõ Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, cũng là nước mắt, Mađalena nhìn Chúa nhưng ngỡ là ông làm vườn. “Thưa ông, nếu ông đem Người đi thì cho tôi biết ông để Người ở đâu?” (Yn 20:15).

- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa thương dòng nước mắt ấy thiết tha. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa chất vấn: “Bà kia, sao lại khóc?”.

***

Lạy Chúa, cũng một con người được Chúa yêu, mà sao một lần khóc thì Chúa như bùi ngùi, một lần khóc thì Chúa nhìn dòng nước mắt mà hỏi: “Bà kia, sao bà lại khóc?”. Câu trả lời của Chúa như ngạc nhiên về dòng nước mắt ấy. Câu hỏi như từ chối, như nói rằng dòng nước mắt ấy không cần thiết. Tại sao vậy Chúa?

Tiếng khóc nào cũng có ý nghĩa. Nước mắt nào mà không chứa đựng nghẹn ngào. Càng nguyện vọng, nước mắt càng mặn cay, nước mắt ấy phải quý lắm chứ. Vậy tại sao Chúa lại hỏi: “Bà kia, sao bà khóc?”

Chỉ có một lần Chúa khóc, đó là trước cái chết của Lazarô. Cái chết nào mà không mất mát, nghẹn ngào, chính Chúa mà còn khóc. Vậy tại sao hôm nay Chúa lại bảo Mađalena đừng khóc nữa. Nhờ Chúa khóc trước cái chết của Lazarô, nên hôm nay, con phải suy nghĩ về nước mắt, tiếng khóc, nỗi đau của Mađalena trước mộ đá.

Khi Chúa khóc trước cái chết của Lazarô thì người chung quanh nói với nhau rằng: “Kìa, nhìn xem Ngài thương Lazarô dường bao” (Yn 11:36). Như vậy, nước mắt của Chúa hôm Lazarô chết không phải là nước mắt tiêu điều. Cái khóc của Chúa không là tuyệt vọng mà là tình thương.

Còn nước mắt của Mađalena bên mộ Chúa, có thương đó mà cũng có xót xa. Chúa sống lại, nhưng Mađalena phao tin rằng người ta lấy xác Chúa. Bà không nhìn thấy, nhưng bà nghi ngờ và đổ lỗi cho việc Chúa không còn trong mộ đá là xác Chúa đã bị đánh cắp! Nước mắt chúng con trước cái chết của người thân yêu có lẽ cũng mang dáng dấp cả hai. Có thương nhưng lại thương trong xót xa, và nỗi xót xa ấy nhuốm màu đau tuyệt vọng như của Mađalena. Vì chưa hiểu niềm tin Phục Sinh, nên không thấy xác Chúa thì Mađalena cảm thấy ngày một mất mát lớn lao. Nỗi mất mát ấy là của Mađalena, cho nên thương Chúa mà xót xa cho mình. Xót xa và tuyệt vọng làm Mađalena nghi ngờ và đổ lỗi cho nhiều người.

Vì xót thương trước cái chết của người thương yêu, nhiều khi chúng con cũng không tránh khỏi những phàn nàn, trách nhiều nguyên nhân, có khi trách cả Chúa. Xin Chúa cho chúng con hiểu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh trong sự chết.

Nước mắt bên mộ đá đã đưa Mađalena vào những vùng mây mờ không chứng cớ. Đấy là nước mắt thiếu ánh sáng Phục Sinh. Trong nước mắt xúc cảm nhạt nhoà, bà không nhìn rõ Chúa đứng ngay bên cạnh. Chính Chúa đó mà bà lại hỏi ông để xác Chúa tôi ở đâu.

Chúng con cũng thế thôi, vào những giờ đau đớn quá, chúng con không bình tâm nhìn thấy Chúa bên cạnh mình nữa. Nước mắt đau đớn làm nhoà cái nhìn về sự sống đời sau. Mađalena đã bừng tỉnh khi Chúa gọi tên bà. Vậy con xin Chúa cũng gọi tên con trong những giờ chán nản tuyệt vọng để hồn con được an ủi.

Chúa khóc trước cái chết của Lazarô chỉ vì thương. Xin cho nước mắt chúng con trước nỗi biệt ly cũng chỉ có một tình cảm ấy mà thôi, là chúng con hãy thương mến nhau. Người chung quanh nhìn trước mắt Chúa mà nói: “kìa Ngài thương Lazarô biết bao”. Chớ gì nước mắt chúng con hôm nay cũng như vậy, để một người ra đi là đem yêu thương về đầy giữa chúng con, những kẻ ở lại.

Tình thương thì đem chúng con gần lại, còn nỗi tuyệt vọng sẽ làm đời sống chúng con rã rời. Con hiểu, cũng trước cái chết, Chúa đã khóc. Mà cũng trước cái chết, Chúa không muốn Mađalena khóc. Chúa muốn tiếng khóc của tình thương thôi chứ không muốn tiếng khóc tuyệt vọng. Vì Chúa là Phục Sinh.

“Vì sao con lại khóc?” Con mong lời Chúa hỏi Mađalena thưở xưa cũng là lời Chúa hỏi con hôm nay trong nỗi buồn này. Con hiểu lời ấy như một an ủi nhắc con về niềm tin Phục Sinh đằng sau nỗi chia ly vĩnh biệt. Con hiểu vì sao Chúa đặt câu hỏi ấy, vì trước giờ từ biệt Chúa đã căn dặn con:“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Yn 14:3). Chúa mong chúng con ở bên Chúa như vậy thì khi người thân yêu của chúng con ra đi là giây phút Chúa chờ đón.

Mađalena chỉ nhìn vào mộ đá, vì thế nước mắt chỉ là trời sương buồn nản phủ xuống hồn. Chúa đã không muốn nước mắt ấy. Xin cho nước mắt của chúng con hôm nay không bám víu vào nỗi mất mát cho vơi niềm đau. Nhưng qua nước mắt, chúng con cho rơi đi những gì thiếu sót chúng con đã đối xử với nhau những ngày còn sống, để nước mắt hôm nay rửa tâm hồn chúng con cho đẹp hơn.

Xin Chúa cho nước mắt của chúng con hôm nay không kéo về những chiều hoàng hôn tuyệt vọng, mà rửa niềm tin chúng con sáng hơn để chúng con thấy người thân yêu đang ở bên Chúa và đang cầu bầu cho chính chúng con. Amen.


60. SỰ SỐNG TRONG CĂN NHÀ CHỜ CHẾT

Ai muốn làm thiện nguyện chỉ việc gặp sơ phụ trách, sơ viết mấy chữ chứng nhận vào miếng giấy. Không có văn phòng, không thủ tục rườm rà gì cả. Rồi, đi làm. Đã hỏi đường, nhưng tôi cũng hồi hộp, xe buýt trong thành phố lèn đầy người. Chạy nửa tiếng mới tới chỗ tôi xuống, phải chú ý lắm theo dõi nơi ngã ba nào có cái chợ như thế, cây xăng như vậy mà định chỗ xuống xe. Đây là ngày thứ nhất tôi đi làm. Mọi người đều phải tự do lấy phương tiện di chuyển.

Từ cuối xe, tôi thấy một cô người Nhật đứng phía trên, cầm chiếc túi ni lon thấy rõ bên trong mấy hộp thuốc. Trong xe không có người ngoại quốc nào. Tôi đoán chừng phải là một trong các cô thiện nguyện của nhà Mẹ Têrêsa. Qủa thế, lúc cô xuống xe cũng là nơi tôi thấy ngã ba, có khu chợ như đã được dặn trước. Vội theo chân cô để khỏi phải tìm nhà. Cô rất vui kho biết tôi cũng là thiện nguyện viên đi làm. Cô không nói được tiếng Anh nhiều, chỉ lõm bõm, thế mà dám đi.

Trong những ngày tháng gần đây, tôi hay suy niệm về sự chết. Có khi bất chợt trong lúc đi đường, có khi trong giờ cầu nguyện, có khi kéo dài trong những dịp tĩnh tâm. Tư tưởng sống chết, ý niệm đời sau của thế giới bên kia cứ như chờn vờn. Tôi không bỏ qua được. Nó như một hố sâu nhìn thấy đáy. Tìm đâu câu trả lời? Không ai có kinh nghiệm sự chết. Không ai chết rồi hiện về nói cho biết sự chết. Người nào chết rồi cũng mất tích trong thế giới siêu hình. Giáo Hội dạy về sự chết nhưng không có kinh nghiệm sự chết. Tất cả là niềm tin vô hình thôi. Tôi xin Chúa cho tôi cảm nghiệm chứ không phải cứ dục lòng tin những điều không thể chứng minh. Tôi tìm đến nơi đây cũng là vậy.

Trong thành phố Calcutta có nhiều nhà của các sơ. Nhà cho người già bệnh, nhà cho các em bị tâm thần, nghễng ngãng, nhà cho trẻ mồ côi. Tôi chọn nơi “khủng khiếp” nhất. Nhà cho những người chờ chết. Tôi đã nghe nói về căn nhà này, ai không thân nhân sắp chết ngoài đường, các sơ đem về săn sóc cho chết bình an, chết xứng đáng phẩm giá con người. Tôi cứ tưởng tượng nơi ấy đầy bi thương thống khổ. Máu me, dơ dáy.

Qua chiếc cổng có bảng đề không chấp nhận khách tham quan, chụp hình, tôi vào trong nhà. Hai dẫy giường dài trước mặt tôi. Điều trái ý nghĩ của tôi là không máu me, không tiếng kêu la, không dơ dáy, không “khủng khiếp” như tôi nghĩ. Êm đềm, các bệnh nhân nằm im. Sạch chưa từng thấy. Sau này tôi được biết, chính phủ Ấn phải thừa nhận các nhà săn sóc người bệnh của Mẹ Têrêsa sạch hơn tất cả các bệnh viện ở Ấn. Lý do đơn giản là có biết bao thiện nguyện đến làm, họ làm việc với con tim, làm hết mình chứ không vì đồng lương nền nhà cửa gìn giữ rất sạch sẽ.

- Đây là công việc anh sẽ làm.

Một người làm thiện nguyện ở đó lâu rồi phân công các việc cần làm. Anh gọi và phân công cho tôi. Chưa rõ tôi hỏi lại anh:

- Tôi sẽ làm gì?

- Anh lựa những chiếc quần áo, khăn giường “dơ” để riêng ra.

Tôi nghĩ bụng, cái nào mà không dơ. Hỏi lại:

- Tôi phải làm gì?

Bằng một ngôn ngữ hơi ngại, nhưng anh ta phải nói rõ:

- Những quần áo, khăn giường nào dính phân người!

Bấy giờ tôi hiểu. Ghê quá. Nhiều người nằm liệt giường, họ đi tiêu bừa bãi ra quần áo. Công việc của tôi là lựa riêng ra những thứ ấy. Tôi thấy lợm giọng vì chưa bao giờ làm công việc này. Họ là những người đủ thứ bệnh, biết đâu có cả HIV, Sida. Nghĩ tới đó tôi thấy hỏng rồi, sao mình lại chui đầu vào đây.

Trong đám thiện nguyện đang giặt quần áo, anh người Nhật là toát mồ hôi. Tôi thấy anh ta làm hùng hục. Anh ở đấy tám tháng rồi. Tôi hỏi thăm mấy người chung quanh nên biết vậy. Anh ta ít nói. Mới gặp nhau rất khó nói chuyện riêng tư, như vì sao anh tới đây làm công việc này? Cảm nghiệm anh ra sao trước những cái chết đơn côi không người thân? Những tâm tư ấy không biết được. Chỉ vui với nhau và làm việc thôi. Tất cả đều giặt bằng tay. Không máy móc. Đồ giặt to thì bỏ vào bể ximăng, lấy chân đạp như ta đạp nhồi đất sét làm gạch. Sau một ngày tay ngâm nước lâu, vắt quá nhiều vải thô cứng, da tay tôi mềm ra và đau.

Thánh Inhaxiô ngày xưa cùng với nhóm mới thành lập dòng của ngài đều đi bộ hành hương. Họ xin ăn dọc đường để cảm nghiệm sự cơ cực của con người. Họ chỉ tín thác vào Chúa. Có lần săn sóc chân máu mủ một bịnh nhân, ngài rất ngại lây bệnh. Để chiến thắng, ngài đút bàn tay dính máu sau khi săn sóc bệnh nhân của ngài vào miệng. Hôm nay không ai làm thế, nhưng thế nào là tin tưởng vào Chúa, thế nào là có khi nguỵ biện cho sự lười biếng của mình?

Trong nhà, bên này bức tường chúng tôi giặt đồ. Bên kia là giường bệnh. Anh thanh niên người Đức đang săn sóc một người đàn ông không thể đoán được tuổi. Có lẽ là ông già. Người đàn ông nằm lồi hai mắt. Người chỉ còn da bọc xương. Lồi lên hai hàm răng. Gò má như cánh gà xương xẩu. Tôi hình dung có thể ông bị nhiễm HIV, bệnh Aids chăng. Ông sắp chết. Đầu gối, cánh tay chỉ còn xương. Hai tròng mắt lồi cao như hai quả cau. Tôi biết chắc ông sẽ chết nay mai.

Các thiện nguyện chia nhau, một bên sắc sóc nữ, một bên nam. Lây đồ ăn rồi cho bệnh nhân ăn. Tắm cho họ. Cho họ uống thuốc. Lau nhà. Giờ nghỉ trưa ngồi uống trà lại cười giỡn. Tay thanh niên Canada lúc nào cũng thích hát. Lâu lắm tôi mới lại nghe những bài ca tiếng Pháp. Lõm bõm mấy câu: L’amour. L’amour. Tình yêu. Ôi! Tình Yêu. À thì ra anh ta đang hát một bài chuyện tình.

Cô bé người Nhật thấy tôi mới đến ngày đầu, tới gợi chuyện:

- Ông là người Việt Nam hả?

- Đúng vậy, tôi người Việt Nam.

- Ở đây cũng có một cô Việt Nam.

- Vậy à? Cô ta đâu?

Nghe vậy, tôi rất ngạc nhiên, không ngờ cũng có người trẻ Việt Nam lần mò đến đây. Sau này tôi gặp hai cô bé, Tuyết Anh và Lan. Cả hai cùng đạo, đang học trường thuốc, mới hai mươi hai tuổi. Tuyết Anh và Lan sống ở Na Uy.

Ý định ban đầu của tôi đến đây là để suy niệm về sự chết. Tôi muốn nhìn khi người ta chết sẽ ra sao. Tôi đang trăn trở về sự chết và mầu nhiệm thế giới bên kia. Chết là đề tài bận tâm trí tôi. Mục đích thứ hai là quan sát, như người đi tìm tài liệu viết bài. Mới sau một ngày, tôi thấy mình thay đổi. Tôi không thể là người quan sát được.

Làm việc với các bạn trẻ, bên những tâm hồn giàu quảng đại tươi vui. Tôi thấy họ tràn đầy sức sống. Nhìn anh thanh niên người Đức săn sóc ông già, tôi thấy mình phải viết về sự sống chứ không thể tập trung về sự chết. Sự sống quá đẹp. Hãy nói về những người đang sống, những người đang săn sóc sự sống. Tôi thấy những người nằm chết không là đề tài gợi sự đau khổ cho tôi viết, mà là sự sống của những trái tim quảng đại kia.

Điều thứ hai tôi thấy mình thay đổi là không thể chỉ đứng ngoài làm người quan sát. Tôi không thể xem họ chết rồi viết bài. Như vậy tôi sẽ lạc lỏng ở đây. Chỉ khi nào tôi hoà vào cuộc sống nơi này, với kẻ chết, với niềm vui của các thiện nguyện kia tôi mới thực sự hiểu điều tôi “quan sát”.

Ngày thứ nhất trong ngôi nhà cho người chờ chết đã làm thay đổi hai thái độ của tôi, một là nhìn vào sự sống thay vì sự chết, hai là tôi phải sống thật chứ không thể chỉ quan sát. Với hai thái độ trên, tôi lưu lại Calcutta một tuần.

Lạy chúa, sống chết là thân phận con người. Trong cái mỏng dòn của thân phận ấy, nhiều lần tâm trí con hoang mang khắc khoải. Con dùng trí tuệ con tìm biết về Chúa và con đã khắc khoải vô cùng. Chỉ khi nào con xin lòng thương xót Chúa con mới được an bình thôi.

Trước cái chết, con không thể dùng trí tuệ phân tách được. Con đi về đâu trong cõi vô hình kia? Chắc chắn rồi con sẽ chết. Sự hiểu biết nào đỡ nâng con? Ai là người cho con can đảm, bình an, niềm vui? Chỉ có Chúa mà thôi. Con cần Chúa hôm nay để con hiểu mầu nhiệm chết là tập sống trọn vẹn. Xin giúp con sống và sống fully alive, sống từng biến cố buồn vui, khó khăn, sống trọn vẹn trong Chúa để thấy đời luôn luôn đẹp. Amen!


61. TẠ ƠN LÀ MỘT TÂM TÌNH

Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, Thanksgiving, người ta hay nhắc đến chuyện người phung cùi trở lại cám ơn Ðức Kitô trong Phúc Âm Luca.

Trên đường lên Jêrusalem, Ðức Giêsu đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phung cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đàng xa, và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi."  Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ:   "Hãy đi trình diện với các tư tế.”  Ðang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được khỏi liền quay trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao?  Thế thì chín người kia đâu?  Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc. 17: 11-19).

Tôi nghĩ câu chuyện tạ ơn của người phung cùi không dừng lại ở đây. Không dừng lại ở lời tạ ơn Chúa mà thôi. Nó gọi ta đến một đường cong sâu hơn và xa xôi hơn. Tạ ơn là tâm tình đòi hỏi một tấm lòng.  Tâm tình này là bản phiên dịch của một nội tâm. Chính bản phiên dịch nội tâm này nói trung thực cho ta biết mình là ai.

Tôi muốn nhìn vào nội tâm người phung cùi, để đi tìm chiều kích lời tạ ơn của anh ta với Ðức Kitô. Nó đến từ một đường cong sâu xa nào?

Bối cảnh văn hóa, tôn giáo, lịch sử.

Người Do Thái trong thời Chúa Giêsu không chấp nhận những người phung cùi sống trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Khi gặp Ðức Giêsu, họ cũng đứng "từ đàng xa” chứ không dám lại gần. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, bị Thiên Chúa giáng án phạt. Hiểu như thế mới thấy nỗi cô đơn của kẻ mang bệnh tật này. Trong thời đại ấy, người Do Thái cũng không chấp nhận chung sống với người ngoại giáo. Họ đối nghịch đến độ thù hận nhau.

Cộng đoàn những người cùi.

Theo mạch văn của đoạn Kinh Thánh, Chúa hỏi: "Còn chín người kia đâu.”  Như vậy chín người kia cộng với anh cùi đến tạ ơn Chúa, tất cả mười người. Tại sao có mặt người cùi ngoại giáo trong cộng đoàn những người cùi Do Thái?  Tại sao những người cùi Do Thái lại để người cùi xứ Samaria theo mình nhập bọn?  Ðoạn Kinh Thánh trên tường thuật là "một người trong bọn họ.” Cụm từ "một người trong bọn họ.” Cho thấy chín người Do Thái Giáo và một người Samaria đã sống chung, đi chung một con đường, là một cộng đoàn.

Chuyện này dường như cũng không xa lạ giữa hoàn cảnh xã hội hôm nay. Trong những hành trình gian khổ, dường như người ta vượt qua mọi biên giới để sống với nhau. Có những tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo khó, họ sống đời đùm bọc nhau. Cùng nhau đẩy chiếc xe đạp chở ngô khoai.  Cùng nhau chèo một con đò, buôn thúng bán bưng nuôi con.  Rồi có thể họ mất nhau khi mỗi người có một địa vị, một công ty riêng. Lúc lâm nạn, người ta vượt qua biên giới chủng tộc, tôn giáo, để cứu nhau. Rồi người ta xây nên những thành trì, những bức tường tôn giáo khi người ta có đền thờ riêng.

Tại sao trong cộng đoàn mười người cùi này lại có một người ngoại giáo. Tại sao họ chung sống với nhau? Khổ đau dường như có một giá trị rất sâu trong câu chuyện này. Rất nhiều trường hợp, khi hết yếu đuối, hết nghèo khó, họ xa nhau. Trên đường đi tạ ơn này, chín người kia đi về một phía, người Samaria đi về một phía. Không còn một cộng đoàn những người cùi khác tôn giáo.

Với chín người cùi, họ có thể liên kết lại để cô lập người cùi Samaria. Nhưng ở đây, họ chung sống, chấp nhận người cùi khác tôn giáo này. Dường như trong cô đơn tận cùng vì bị xã hội chối bỏ, họ được đốt cháy hết những địa vị, tên gọi, và khi được bóc trần đến phẩm giá sau cùng, họ thấy họ giống nhau ở một tên gọi duy nhất là làm người.

Giá trị cùng đích sau hết vẫn là: Làm người.

Dường như tôn giáo cũng rất cần luôn luôn được thanh tẩy để khỏi bám bụi. Những giá trị ngoài nhân đức như đền thờ, tổ chức, ảnh hưởng, rất có thể đưa con người xa cách nhau.

Mọi tôn giáo đều tìm cách dạy con người ý nghĩa của cô đơn, đau khổ. Nhưng ý nghĩa đẹp nhất của đau khổ và cô đơn lại là vượt qua mọi tôn giáo để đùm bọc nhau cho con người bớt cô đơn và đỡ khổ đau.

Rồi tình yêu cũng thế. Tình yêu cũng cần thanh tẩy.  Những giá trị ngoài nhân đức như nhan sắc, địa vị, vàng bạc, rất có thể sẽ đưa con người xa cách nhau. Trong đời sống, ai cũng cần chịu ơn nhau.

Phải nghèo một chút để biết xin.

Phải yếu một chút để biết nương tựa.

Nhìn lại, người cùi xứ Samaria, trong "bọn họ", anh ta là thiểu số, anh chỉ có một thân, một mình.

Tôi nghĩ anh ta trở lại tạ ơn Thiên Chúa vì đời anh quen tâm tình tạ ơn rồi. Ngay những ngày sống chung với chín người kia, biết mình thiểu số mà được chấp nhận, anh ta đã sống lòng biết ơn đó. Tạ ơn là một bản phiên dịch nội tâm của anh.

Câu chuyện cộng đoàn mười người cùi được chữa lành rất đẹp vì họ đã sống với nhau. Nếu sau khi được chữa lành, tất cả đều trở lại tạ ơn Thiên Chúa thì câu chuyện kết thúc quá lý tưởng. Tại sao chín người kia không trở lại? Rất có thể chín người kia không quen tâm tình tạ ơn. Rất có thể họ chấp nhận người cùi Samaria như là cho ơn hơn là lãnh nhận.

***

Tôi thụ phong linh mục năm 1989. Cũng năm này tôi được gởi qua trại Palawan, Philippines giúp đồng bào tỵ nạn. Những ngày đó, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp, tôi đã viết bài "Palawan Mùa Phật Ðản", năm 1992, đăng trong báo Ðường Sống.

Năm 1995 tôi rời trại tỵ nạn. Tôi xa khúc đường trong trại, một bên có hương trầm nhà Chùa, một bên có tiếng chuông nhà Chúa.  Rồi một hôm, mười năm sau, kỷ niệm lại về như nghe tiếng mõ tụng kinh quen thuộc ngày nào đó, bên Chùa. Ðó là vào ngày 28 tháng 12 năm 2004.  Sau lễ Giáng Sinh, tôi đang giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn các Sơ Ðaminh Việt Nam ở Houston. Tôi nhận được một lời nhắn trong chiếc phôn cầm tay:

Dạ, kính linh mục Nguyễn Trọng Tước.

Ðây tôi là Thích Thông Ðạt từ San Jose gọi chúc mừng trong mùa Giáng Sinh với New Year. Chúc mừng linh mục dồi dào sức khỏe.  Happy Merry Christmas. Happy New Year. Dạ, kính linh mục.  Khi nhận được message xin cho gặp số phôn 408-926-1998. Kính chúc mừng linh mục trong mùa Chúa Giáng Sinh cũng như đầu năm mới.

Kính linh mục.

Tôi hết sức ngạc nhiên. Một Thầy bên Chùa đã mười năm xa cách. Từ ngày Thầy rời trại tỵ nạn Palawan, bằng ấy năm không hề gặp lại nhau. Mười năm không liên lạc. Bỗng dưng Thầy tìm phôn gọi tôi, vì Thầy muốn chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Những kỷ niệm xa xưa.

Kính Thầy Thông Ðạt,

Những ngày ở trại tỵ nan, những ngày ấy chúng ta có nhiều kỷ niệm quá nhỉ. Vào mùa Phật Ðản và Giáng Sinh, năm nào chúng ta cũng có những món nợ. Chúng ta cho nhau mượn cái trống, mấy sợi giây đèn.  Các em Thiếu Nhi cho nhau mượn mấy mét vải, cái đầu lân để làm văn nghệ.  Chúng ta đã nợ nhau tình thương mến.

Thời gian đã xa xôi quá, như đang xóa nhòa dần đi. Bỗng dưng mười năm sau, Thầy tìm điện thoại, gọi chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh.  Mười năm là thời gian dài lắm đó Thầy ạ. Thế là tôi lại "nợ" Thầy.

Thánh Phaolô đã căn dặn các tín hữu của ngài: "Các con hãy nợ nhau tình thương mến"(Rom. 13: 8). Bây giờ chúng ta đã xa những ngày tỵ nạn cho nhau mượn cái bát, tô cơm. Thầy Thông Ðạt có thể nay đã có chùa riêng, có đoàn Phật Tử đông đảo. Chả ai phải mượn ai.  Chùa của Thầy chăng rợp hoa đèn ngày lễ. Chả ai cần ai. Thầy gọi điện không là để mượn gì cả, cũng chẳng hỏi tôi có mượn cái đầu múa lân không, chỉ để chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Thầy gọi điện vì nhớ về khung trời tỵ nạn có những kỷ niệm bên bờ đời sống. Tình thương mến. Có những cặp vợ chồng nay mỗi người là một giám đốc. Chẳng ai phải nhờ ai.  Có những anh em, không ai phải cậy ai. Xa những ngày nghèo túng rồi. Không ai phải dựa ai. Ðầy đủ. Mà sao cứ như có nỗi vắng trong lòng. Hay là người ta thiếu nhau món nợ tình thương mến?


62. TẤM HÌNH CỦA MẸ

- Con ạ! Anh chị em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm hỏi nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa.

Lời khuyên không làm đứa con gái xuôi lòng. Sống xa cộng đoàn người Việt, mãi vùng xứ lạnh Bắc Âu. Tâm tư bà thường nhớ về quê cũ, mảnh vườn xưa, dăm ba tầu chuối trưa hè. Nhưng con bà đã gần như là người Âu.  Đối với bà, tiếng chuông nhà thờ còn là nỗi nhớ người, nhớ cảnh.  Nhưng những đứa con lớn lên ở đây, chúng không có kỷ niệm những tối trăng sao vằng vặc, tiếng ếch kêu trong đêm mưa. Bởi đó, những lời khuyên như trên của bà chỉ là ước mơ hững hờ.

Ngày bà chết, người con gái năm xưa để tấm hình bà trên tủ thờ tổ tiên. Người con gái năm xưa ấy bây giờ đã có một lũ con. Chúng lớn mau không ngờ, nếu bà còn sống, nay chúng là lũ cháu của bà. Giống như bài luận văn ngày cũ: "Cứ tối tối ngoại quây quần kể chuyện cổ tích cho các cháu nghe". Người con gái năm xưa ấy kể:

- Mỗi lần nhìn tấm hình của mẹ, lòng tôi se sắt một tiếng thương và một nỗi nhớ. Đã bao năm về trước, bà đã một lần nói với đứa con gái lớn: “Con ạ! Anh chị em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm hỏi nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa”. Đứa con gái không nghe lời.

Lời khuyên có vẻ dễ dàng, nhưng đời có những chuyện chưa kịp nghĩ tới. Lời bà khuyên con gái, không ngờ một ngày kia lại trở về với chính bà.

Câu chuyện là bà có cửa tiệm bán quần áo, chung với một người đồng hương. Sau những ngày làm ăn, nghi ngờ nhau. Bà đánh dấu mực vào cổ áo. Hôm sau người partner đến bán đi, không muốn chia lời. Người này lấy áo mới thay vào, giả bộ cứ như là đến phiên mình bán, không bán được bao nhiêu. Hai bên đưa nhau ra tòa, hết tình hết nghĩa, cửa tiệm bán quần áo không còn.

Bà kiếm một việc mới: Bán chợ phiên ngày Chúa Nhật. Thế là lời khuyên con gái năm xưa trở thành lời khuyên cho chính mình. Chỉ cần một buổi chợ phiên Chúa Nhật, bà kiếm mấy trăm đô la. Câu chuyện “bình an” cho đến một ngày, người con gái năm xưa, có chuyện giữa mẹ con, đã nói với bà:

- Ngày xưa mẹ bảo con đừng đi làm ngày Chúa Nhật, bây giờ thì…

Người con gái không nói hết câu. Nhưng ý phải hiểu: “Bây giờ thấy tiền thì mẹ cũng làm ngày Chúa Nhật như con thôi”.

Đi làm ngày Chúa Nhật có tội hay không?

Đôi lúc bà cũng phân vân. Nhưng nỗi trăn trở nhất trong tâm hồn bà là tấm ảnh người mẹ sau khi chết. Bà biết nếu ngày nào bà chết trước người con gái, con bà sẽ để hình bà trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh chồng bà.  Mỗi lần đến thăm nhà đứa con gái, bà âm thầm nhìn lên tấm ảnh đen trắng, chồng bà. Tấm ảnh đứa con đã để trên bàn thờ tổ tiên, ảnh bố nó. Bà lại như thở nhẹ một nghĩ ngợi, chắc nó cũng để hình bà ở góc kia, trên điện thờ ngày bà chết. Bà kín đáo nhìn tấm ảnh vô hình của bà. Bà hình dung ánh mắt bà trong tấm ảnh đang nhìn xuống.

Vào một đêm không ngờ, đêm đen của đất trời, nhưng sáng trong linh hồn. Trong đêm đó, thinh lặng, các con yên ngủ, trước tượng Chúa, người mẹ đau khổ lâm râm cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin giúp con, con đã một lần khuyên con gái đừng đi làm ngày Chúa Nhật, dành thời gian cho anh chị em, cho chồng, cho các con.  Nhưng nay thì con lại đi làm. Ngày con chết đi, mỗi khi nhìn ảnh con trên điện thờ, chắc con của con sẽ đau khổ vì có người mẹ như thế, chỉ biết khuyên con mà không dám sống lời mình khuyên. Nhìn ảnh con chắc nó cũng thương một người mẹ, nhưng chắc nó cũng đau vì có người mẹ như thế. Con muốn ngày nào con chết đi, nhìn ảnh con trên bàn thờ vào những ngày giỗ kỵ, nó dám nói với các con của nó là: “Các con nhìn cuộc đời ngoại của các con, ngày còn sống, ngoại chúng con dám sống cuộc đời can đảm như thế.”

- Lạy Chúa, cuộc đời con còn được bao lâu? Con muốn để lại tấm ảnh thờ không phải chỉ cho đứa con gái mà còn cho các cháu của con nữa.

Đêm đó tĩnh mịch, căn phòng ngủ im như tờ, se sẽ tiếng thở của lòng người mẹ thương con, thương cháu. Bà im lặng khấn vái trước tượng Chúa, cầu nguyện cho tương lai con cháu. Một đêm rất đỗi không ngờ, im lặng trong lòng bà thôi mà lời kinh thấu đến trời cao.

Rồi một ngày, bà bỏ chợ phiên, bà bỏ những sáng Chúa Nhật đi buôn.

Người con gái bà sau này kể tiếp:

- Một hôm tôi hỏi mẹ: “Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà!”  Mẹ tôi không trả lời. Tôi tiếc là bà bỏ mất mấy trăm đô la.

Hôm nay mẹ tôi không còn. Chỉ còn tấm hình bà trên bàn thờ tổ tiên.

Một tối thinh lặng, các con tôi đã ngủ. Một mình tôi ngồi nhìn ảnh mẹ. Bây giờ làm mẹ mới hiểu những đoạn đời mà một người mẹ đi qua.  Người ta bảo có qua cầu mới hay. Nhìn các con tôi ngủ, chúng đang lớn dần. Lo cho con, bấy giờ mới thấm thía những ngày mẹ tôi lo cho tôi.  Ảnh mẹ trên bàn thờ tổ tiên, hương khói không có. Trong căn nhà tôi ra vào hàng ngày, ảnh mẹ tôi âm thầm treo đó, im lặng, nhưng đêm nay nhớ về kỷ niệm năm xưa, tôi nhìn ảnh mẹ lại hỏi: “Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà!”

Và hôm nay, lạ thật, trong ánh mắt chịu đựng của mẹ. Mẹ tôi trong tấm hình kia âm thầm trả lời:

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Con sẽ đau khổ khi đến ngày giỗ mẹ. Con nhìn ảnh thấy mẹ rồi nói: “Ngày xưa bà này bảo tôi đừng đi làm ngày Chúa Nhật, thấy tiền thì bà cũng như tôi”. Con thương mẹ, nhưng nghĩ đến lời khuyên và lối sống của mẹ như thế. Con sẽ khổ đau, không vui.

Bỗng quá lạ. Tôi thấy tấm ảnh mẹ tôi như sáng lên, âm thầm mà mạnh mẽ vô cùng. Các con tôi vẫn ngủ, chúng không biết hôm nay là ngày giỗ ngoại chúng. Tôi một mình ngồi trước ảnh mẹ, ảnh mẹ lại như nói với tôi:

- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Đến ngày giỗ kỵ, nếu con có thắp nén hương cho mẹ, con sẽ vui vì mẹ đã dám sống những gì mẹ khuyên con. Biết đâu con cái của con khó dạy, con có thể nói với chúng rằng: “Nhìn ảnh ngoại chúng con đây, ngày còn sống, ngoại đã dám sống một đời can đảm như thế.” Tôi chợt ứa nước mắt.  Hình ảnh năm xưa hiện về. Mẹ tôi đã can đảm bỏ làm ngày Chúa Nhật chỉ vì lời khuyên tôi. Nghĩ tới đó, tôi òa khóc hơn nữa. Mẹ tôi không chỉ muốn giáo dục tôi mà cả với các con của tôi nữa.

Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết tối nay là ngày giỗ ngoại chúng. Mẹ tôi đã có tấm ảnh để lại cho tôi. Mẹ tôi đã đi con đường của riêng mẹ. Còn tôi, khi chết, tôi có bức hình nào để lại cho các con tôi không?


63. TẶNG PHẨM

Tôi đã vất vả rong ruổi đi tìm, nhưng chẳng gặp. Miệng đã khô và bụi sương làm tóc tôi bay rối. Ngày lại ngày, tôi lục lọi những pho sách quý giá trong tủ sách loài người, nhưng tôi vẫn thất vọng. Tôi rũ mỏi đi khắp phố chợ, ngày, đêm. Tôi hỏi bạn bè cùng các triết nhân và họ đã trả lời: Ðó là cuộc đời!

Thân tôi tội lỗi, trước Ngài, Thượng Ðế, tôi sợ đâu dám hỏi. Nhưng đau thương cứ dâng cao và nỗi lo lắng càng ngày càng lênh láng.

Một chiều, tôi vào cuối giáo đường ngồi khóc. Tôi khóc như một đứa nhỏ và than thở với Người như một đứa con:

- Cha ơi, con đã vất vả đi theo Cha dọc chuỗi thời gian. Con đã vấp ngã vô vàn, và mặt mày nhơ nhớp như bây giờ Cha thấy đây.

- Cha! Sao Cha đặt con trong vòng Bóng-Tối rồi bảo con tìm về Ánh-Sáng.

- Sao Cha đặt con trong vùng Sự-Ác rồi bảo con tìm về Thiện-Hảo.

- Cha ban cho con Trí-Tuệ nhưng sao Cha lại đặt trong lòng con Trái-Tim trùng trùng, điệp điệp những Man-Mác, Lấp-Lửng.

- Trong khu vườn Già-Nua, khô cằn, Cha bảo con hãy mọc lên Xanh-Tươi và trổ sinh hoa trái!

- Cha ơi, Cha cho con Lương-Tâm, nhưng sao Cha không đem con ra khỏi căn hầm của Gian-Dối và lâu đài của Tham-Lam.

Từ tâm điểm Cha đã thắp sáng trong con Ánh-Lửa-Tình-Yêu nhưng xa xa sao Cha lại vây bọc con bằng Chu-Vi-Căm-Thù. Rồi Cha bảo: Hãy vượt qua!

Cha ơi, Cha có yêu con?

- Bao lần con lầm lũi trốn tránh vì tha nhân là vấp phạm. Nhưng từ hút thẳm ý nghĩ Cha lại thôi thúc vang vang: Tha-Nhân là Cây-Cầu và bên kia bờ sông là chính Cha!

- Ôi, Cha đã mở cửa cung vườn tình yêu cho con bước vào. Con đã hái Bông-Hồng và tay con đã nắm vào Gai.

Cha ơi, Cha có yêu con?

Con đã vất vả gian nan theo Cha. Bờ vai đã lạnh và Gió-Sương vẫn nghìn dặm dõi theo. Hai chân đã mỏi mà đường đi thì cứ mù khơi, tít tắp.

Trong vườn hạnh phúc Cha ban, con bứt giật đóa Bạch-Huệ bằng tay trái, thì tay phải đã vướng vào Sâu.

Giáo đường chẳng có ai. Những hàng ghế dài mút mút, im lặng thẹn thùng vì những lời tôi nói. Nhưng mặc kệ, tôi cứ kể lể. Vì tôi lo lắng và đã biết rằng đường tôi đi còn dài mà không gian là những đây đó vấp ngã, còn thời gian là những cám dỗ tiếp nối mênh mông.

Tôi kể lể cho tới khi lời tôi nhỏ lại mất hút, cho tới khi những làn sương xuống dầy đặc xóa nhòa đôi mắt, cho tới khi giáo đường tan loãng biến vào hư không. Bấy giờ, tôi thấy một đồi cao và rừng cây trầm lặng bát ngát. Những gió và suối tiên vang lên lời ru. Tôi nghe như có tiếng người nói:

- Trong vùng thăm thẳm, Thẫm-Tối của Cuộc-Ðời, Cha đã ban cho con Ðức-Tin để đi. Ðó là tặng phẩm qúy nhất.

- Trong những miên trường của giằng co giữa Con-Tim và Lý-Trí, Cha đã cho con Tự-Do để lựa chọn. Ðó là tặng phẩm quý nhất.

Rồi, những cung điệu rất lạ đã say sưa lá của rừng, những lời ngọt ngào của suối đã ru êm bờ đá cuội trắng. Tôi nghe như có tiếng nhạc dạt dào, và cũng trong tiếng nhạc ấy dường như có tiếng Người nói nữa:

- Ðó, tất cả là Tặng-Phẩm của Mùa-Xuân. Ðó, tất cả là Dấu-Chỉ của Tình-Yêu.

Niềm vui và hơi ấm nhen nhúm đâu đây. Tôi lập lại: Ðó, tất cả là dấu chỉ của Tình-Yêu.


64. TẶNG VẬT CHO CUỘC ÐI TÌM

Có người Biệt phái kia mời Ngài tới dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Biệt phái và lên giường ăn. Và này: Một phụ nữ, một người tội lỗi trong châu thành. Biết Ngài dùng bữa tại nhà người Biệt phái, người phụ nữ ấy xách theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Ðứng phía đằng sau chân Ngài, khóc nức nở, sa nước mắt đẫm ướt chân Ngài. Xõa tóc trên đầu, cố lau sạch. Và tha thiết hôn chân Ngài và xức dầu thơm (Lc. 7: 36-38).

Mai Ðệ Liên đã tìm gặp Chúa. Tìm là giai đoạn sôi bỏng nhất của tình yêu. Gặp mặt nhau nhưng chưa chắc biết tên nhau. Biết là một chuyện nhưng có để ý nhau không lại là một chuyện khác. Cho dù có để ý nhau nhưng chưa chắc đã tìm nhau. Bởi đó, những chuyện tình đi tìm nhau bao giờ cũng là những chuyện tình không quên. Tìm nhau là giai đoạn đồng cảm nhất trong tiến trình của yêu thương. Nói đến phải đi tìm là nói đến vất vả, nên những chuyện tình tìm nhau thường là những chuyện tình gian nan.

Tặng vật là niềm tin

Ðến với Ðức Kitô, người đàn bà này đã mang theo ba tặng vật: Niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Tìm là xác định một điều có trong khi chưa có. Tin là có để rồi miệt mài theo đuổi điều chưa có là một thứ gian nan không dễ. Niềm xác định có càng nhiều thì mới càng có nỗ lực. Những đêm bâng khuâng gọi hồn, tiếng con tim ngập ngừng đếm từng khoảnh khắc. Và bữa tiệc chiều nay, đôi khi nghe cõi lòng chùng xuống khi hình dung ra những cái nhìn soi mói, nhưng người đàn bà này vẫn chuẩn bị cho một cuộc đi tìm rất nhiệm mầu trong linh hồn. Bà cần gặp Ðức Kitô.

Xét theo khung cảnh thì đây không phải là bữa ăn thường mà là bữa tiệc. Tôi không nghĩ rằng người phụ nữ này được mời, vì Biệt phái kết án "gái điếm và thu thuế". Người phụ nữ này đã nổi tiếng tội lỗi trong châu thành vì ai cũng biết. Nếu vậy, càng không thể là khách mời của Biệt phái. Khách được mời sẽ được lấy nước rửa chân, xức dầu và hôn chào. Vậy làm sao người phụ nữ tội lỗi này lọt được vào? Ðối với một kẻ tội lỗi bị xã hội kết án thì đi tới đâu cũng phải đương đầu với những con mắt tò mò. Có thể người phụ nữ này phải giả dạng để vào được phòng khách. Có thể cô ta lẩn đi vào ngõ sau. Có thể cô ta bất chấp mọi ngịch cảnh xông đại vào. Trong bao nhiêu giả thuyết, ta không biết cách nào là đúng. Hoặc cho dù có được vào tự do, thì điều ta biết chắc là người phụ nữ này đã phải chấp nhận những lời kết án cho một lần gặp gỡ.

Chợt đọc qua đoạn Tin Mừng, tôi thấy hình ảnh người phụ nữ ngồi khóc bên chân Chúa là một hình ảnh êm đềm. Thoáng qua, tôi thấy người phụ nữ có thể gặp Chúa một cách nhẹ nhàng. Nhưng nhìn kỹ lại, tôi thấy gặp gỡ với Chúa, cô ta phải lên đường vô cùng quyết liệt. Mình không phải là khách. Người ta dòm ngó xầm xì. Bao nhiêu người chỉ trỏ. Có khi phải bẽ mặt vì bị đuổi đi.

Trong quá khứ, không biết có khi nào tôi liều thân đi gặp Chúa như thế chưa. Những kỷ niệm tìm nhau trong gian nan là những kỷ niệm khó quên. Nếu tôi không nhớ có khi nào tôi vất vả đi tìm Chúa như thế chưa, điều đó có nghĩa là tôi chưa có những "chuyện tình gian nan", dù có đôi ba lần liều thân tìm gặp Chúa, sự liều thân ấy cũng chắc là nhạt nhẽo lắm.

Dầu thơm của khổ đau

Cho cuộc đi tìm này người phụ nữ đã mua một bình bạch ngọc, tìm loại dầu thơm quý. Tặng nhau một cành hồng, gởi nhau một lọ nước hoa là chuyện thường. Nhưng dầu thơm ở đây là hương thơm có thể bay ngược chiều gió. Bởi, nó là hương thơm của trắc ẩn, là đóa hoa lòng. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vãi trên giường. Ðời là hoang vu. Cúi mặt đi trong phố vắng khi đèn chiều cứ ảm đạm. Người khách ra về, cánh cửa sập lại, cúi nhặt những đồng bạc trong cơn mệt mỏi chán chường. Người gái điếm ấy gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực. Xuống phố, không tiếc lòng, mua một bình ngọc quý, một cân dầu thơm. Rồi, từ từ, đổ hết cho phí đi cân dầu hảo hạng, cho phí đi những đồng tiền khổ đau.

Trọn vẹn mái tóc xám hối

Tặng vật thứ ba là mái tóc của cô ta. Người con gái nào không thương mái tóc. Ở Mai Ðệ Liên chắc hẳn cũng có những ngày mới lớn như những nàng thiếu nữ Jêrusalem. Cô cũng cũng có những áng mây hồng của tuổi bâng khuâng, có cánh bướm nhỏ trong giấc mơ về đậu trên bờ tóc. Tóc mai cũng đã thương những sợi vắn sợi dài. Hôm nay, thương yêu có thể là muộn màng. Thương nhớ có khi đã mất mát. Bây giờ, thương đau là gương soi. Những sợi tóc ấy, giờ đây thả xuống cho xuôi dòng. Những sợi tóc đó nếu có một thủa mây bay tà đạo, thì hôm nay ngoan ngoãn theo lời xin xám hối. Cài vào những sợi tóc ấy là niềm tin để chải xuống một dòng đời lỗi lầm.

* * *

Lạy Chúa,

Người phụ nữ ấy đã lấy tất cả thương đau đời mình để mua cân dầu rồi đổ đi, đổ cho cạn đến giọt sau cùng. Con chỉ nhìn vào hình ảnh Chúa tha thứ tội lỗi một cách nhẹ nhàng, mà ít nhìn vào thái độ ao ước tận cùng của niềm tin, của sự quyết liệt trọn vẹn trong trái tim người phụ nữ.

Ở trong con, nhiều lần cũng tìm gặp Chúa, nhưng không bao giờ đổ tất cả cho một cuộc gặp gỡ. Bởi đó, gặp gỡ nào giữa con với Chúa cũng cứ là những gặp gỡ dang dở.


65. THA NỠ

Một hôm các môn đệ đến phân bì với Chúa là Yoan dậy môn đệ của ông ta cầu nguyện, còn Thày, xin Thày cũng dạy chúng con cầu nguyện đi. Từ ngày đó kinh Lạy Cha đã ra đời. Ðó là kinh mà chính Chúa đã dạy các môn đệ (Lc. 11:1-3). Chẳng biết lúc đó các môn đệ có hiểu lời kinh ấy không mà chẳng thấy các môn đệ thắc mắc gì cả. Rồi từ đó dọc theo lịch sử hai nghìn năm, người ta cứ đọc kinh ấy mãi cho đến hôm nay. Vì tính cách quan trọng nên kinh ấy được đưa vào thánh lễ. Mỗi lần dâng lễ, tôi lại trịnh trọng giang tay nói với toàn thể cộng đồng: "Theo lời Người dạy chúng ta hãy nguyện rằng." Rồi cả nhà thờ vang lên lời kinh đó. Trong lời kinh có một câu thế này: "Xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con" (Mt. 6: 12).

Thế là chết tôi rồi! Tôi ký với Chúa một giao kèo hay sao. Tại sao tôi không xin Chúa tha cho tôi theo lòng thương xót của Chúa chứ đừng giống như sự hẹp hòi của tôi. Rõ ràng tôi bảo Chúa cứ tha cho tôi giống như là tôi tha cho người khác. Chúa cứ việc nhìn vào tôi như mẫu mực mà thi hành.

* * *

Ðâu là mẫu mực của tôi? Thánh Matthêu kể:

Nước Trời giống như một vua kia tính sổ với bầy tôi. Nhà vua vừa khởi sự tính sổ thì người ta điệu đến một người nợ một ngàn nén vàng. Y không có gì để trả nợ nên nhà vua ra chỉ thị bán y và vợ con sản nghiệp thay thảy để trả nợ. Vậy người bầy tôi phục xuống bái lạy mà rằng: "Xin Ngài nán lại cho tôi với, thần sẽ trả hết." Nhưng tôn chủ của bầy tôi ấy chạnh lòng thương, đã thả y về và tha bổng cả món nợ. Ði ra, người bầy tôi ấy gặp một người bạn đồng nghiệp mắc nợ y một trăm đồng bạc. Y liền bóp cổ chận họng mà rằng: "Nợ đâu, trả đây." Người bạn đồng nghiệp phục xuống nài van y rằng: "Xin ông nán lại cho tôi với, tôi sẽ trả!" Nhưng y không chịu, lại đi bỏ tù, cho đến khi nào nó trả nợ xong. Vậy các bạn đồng nghiệp thấy sự xảy ra thì rất đỗi buồn phiền mà đi phân trần đầu đuôi mọi sự xảy ra với tôn chủ họ. Bấy giờ, tôn chủ cho điệu y đến bảo rằng: "Tôi tớ bất lương, ta đã tha bổng cho người tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi đã nài xin ta! Há ngươi không phải thương xót bạn đồng nghiệp ngươi sao, như chính ta đã thương xót ngươi?" Thịnh nộ, tôn chủ của y đã trao y cho lý hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì mắc nợ với ông. Cha Ta, Ðấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình" (Mt. 18: 23-35).

Nếu mẫu mực của tôi như thế thì chết tôi rồi. Tôi chỉ xin Chúa tha cho tôi giống như tôi tha cho người khác.

* * *

Sau kinh Lạy Cha. Phúc Âm Matthêu kết luận như sau: "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ điều các ngươi sai lỗi"(Mt. 6: 14-15).

Như vậy là rõ lắm, Chúa tha thứ cho tôi theo mức độ tôi tha thứ cho người khác. Như thế lời kinh Lạy Cha có thể là lời tôi kết án cho tôi. Tôi xin với Chúa rằng chỉ tha cho tôi giống như tôi tha cho người ta thôi. Hằng ngày tôi đọc kinh ấy, đã mấy mươi năm trong đời rồi. Ðã bao nhiêu ngàn lần tôi khắc sâu vào tâm trí Chúa để Chúa nhớ là: Xin tha nợ cho tôi giống như tôi tha nợ kẻ khác, đừng tha nhiều hơn! Nếu tôi không tha cho người khác được là tôi xin Chúa cũng đừng tha cho tôi. Ôi! lời kinh nguy hiểm biết bao nhiêu!

* * *

Ở đây, giữa tôi và Chúa có phải là ký với nhau một giao kèo không? Nếu là giao kèo thì hợp lý trong lối lý luận, nhưng thiếu tự do trong thái độ tha thứ. Bấy giờ, tha thứ trở nên như một mặc cả đôi bên. Có khi tôi không muốn tha cho người ta, nhưng để Chúa tha cho mình thì thôi cũng đành cố tha cho người khác vậy. Còn phía của Chúa thì lấy sự tha thứ cho tôi như một áp lực để tôi phải tha cho người khác. Tôi thấy có điều không ổn theo lối đặt điều kiện như thế này. Tha thứ đến từ những điều kiện là trả nợ theo luật pháp chứ không phải là rung động bằng con tim. Tha thứ áp lực là tiếc nuối của một đổi chác. Chúa không thể hành xử như thế. Vậy tôi phải hiểu tha thứ như thế nào?

* * *

Trong thân thể Ðức Kitô mà tôi là chi thể thì dòng máu luân hoán chỉ có một màu đỏ, nghĩa là tôi đến với Chúa rồi qua tha nhân, hay qua tha nhân rồi đến với Chúa, ngả nào cũng là một thái độ. Tôi không thể có hai thái độ, đến với Chúa là dòng máu đỏ, ngả qua tha nhân là dòng máu đen. Bánh xe luân chuyển tương quan giữa ba chủ thể; Tôi - Tha nhân - Chúa là thông cảm của một thứ tình. Bởi đó khi một bánh xe bị gẫy sẽ làm con đường nối kết ba chủ thể ấy gián đoạn. Tôi và tha nhân bị cách đoạn thì tôi và Chúa cũng không thể nối kết. Không nối kết với tha nhân thì nối kết với Chúa là ảo tưởng, lúc đó Chúa chỉ là ngẫu tượng: "Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với anh em ngươi đã, rồi hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi" (Mt. 5: 23-24).

* * *

Tha thứ không phải là tri thức để hiểu mà là cảm nghiệm rung động. Khi tôi không tha thứ được cho người là lúc con tim tôi đã khô cứng. Nếu sự khô cứng làm tôi không rung cảm trước xót thương của người khác thì cũng chính sự khô cứng ấy làm tôi không cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa cho tôi. Sự tha thứ của Chúa luôn luôn vô điều kiện, nhưng điều kiện cảm nghiệm được sự tha thứ ấy lại hệ tại khả năng mềm mại nơi trái tim tôi để tôi có thể rung động mà tha thứ cho người. Chỉ khi trái tim mềm mại tha thứ thì khả năng mềm mại của nó mới có thể lãnh nhận được thứ tha của Chúa.

Có cảm nghiệm được Chúa tha thứ thì mới có thể thứ tha cho người. Bởi đó, khi tôi không tha thứ là vì có thể tôi chưa cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa. Như thế, khi tôi khó tha thứ cho người đấy là dấu chỉ cho tôi biết tôi chưa thực sự xin Chúa thứ tha cho tôi.


66. THA THỨ

Có hai thứ mùa xuân, mùa xuân của đất trời và mùa xuân của tâm hồn. Mùa xuân nào thì cũng cần đổi mới. Mới của mùa xuân đất trời là mầm non nẩy lộc. Mới của mùa xuân tâm hồn là sự tha thứ. Tha thứ làm cho mối giây liên hệ đã khô héo hồi sinh, nẩy mầm. Từ đó, cuộc sống thành tươi mát.

Trong khi đi tìm mùa xuân, tôi nghe chung quanh tôi có nhiều tiếng than. Khổ cực của nghèo túng. Dằn vặt của hận thù. Có nhiều loại cay đắng. Ðắng cay vì thất bại làm ăn, vì chuyện gia đình, vì chuyện tình duyên. Ai cũng muốn tránh né nghịch cảnh. Muốn có cuộc sống êm đềm, muốn có một mùa xuân.

Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng đó là thiếu vắng niềm thông cảm, là một trái tim phải mang hận thù, hận thù người và lo âu người thù hận lại. Khi tôi ghét ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng nữa. Khi tôi bị người khác ghét, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an. Người ta đã chẳng thường nói: Thà nghèo nhưng yêu thương nhau thì vẫn hạnh phúc. Vì thế, yêu thương là con đường duy nhất tạo nên bình an và làm cho cuộc sống tươi mát. "Này đây Ta ban cho các con một giới răn mới: các con hãy thương mến nhau" (Yn 13,33).

Có nhiều yếu tố để duy trì một mối liên hệ nhưng yếu tố căn bản vẫn là tha thứ. Người ta chẳng thể yêu nếu không tha thứ, vì tha thứ là ngưỡng cửa mời gọi và tái sinh tình yêu khi mối liên hệ giữa hai người bị sứt mẻ.

Ðã nhiều lần tôi đoan hứa với Chúa, nhưng mỗi lần tôi đoan hứa thì lại như một lời báo trước một sự vấp ngã. Tôi đoan hứa hoài, tôi lỗi lời thề mãi. Nhưng cái lạ lùng trong mối liên hệ giữa tôi và Chúa là Chúa chẳng bao giờ nói rằng Ngài quá mệt mỏi vì tha thứ cho tôi. Nếu Chúa không tha thứ cho tôi được thì tôi cũng chẳng thể yêu Ngài được, bởi tha thứ là lời mời gọi dẫn vào khung trời yêu mến.

Nhìn vào cách đối xử của Chúa, tôi có phải tha thứ cho ai xúc phạm đến tôi không? Câu trả lời có thể là không. Tôi lý luận rằng bởi Chúa là tình yêu vô biên nên Ngài mới tha thứ được. Tôi là con người làm sao có thể tha thứ như Chúa. Xem ra câu nói có vẻ lý luận. Nhưng nếu lắng nghe cõi lòng thì câu trả lời chẳng có vẻ lý luận chút nào cả.

Lý do đơn giản mà tôi phải tha thứ là vì tôi cần được thứ tha.

Chính trong tôi cũng có hai con người: một con người lỗi phạm và một con người công chính. Tôi là một người có nhiều khuyết điểm. Tôi không thể chối từ được điều đó. Tôi được cưu mang trong ảnh hưởng của bao khiếm khuyết. Cuộc đời là nối tiếp những những ý nghĩ bất chính, những hành động sai lạc. Tôi phải chấp nhận thực tại tôi là thế. Chối từ thực tại này là từ chối chính tôi. Chẳng ai có thể từ chối được chính mình, vì sống là nhìn nhận sự hiện hữu của họ. Sự hiện hữu của tôi là tất cả những gì tôi là: sự yếu đuối cũng như con tim biết yêu mến điều thiện hảo. Nếu tôi oán ghét tôi tức là tôi hủy diệt mình. Vì thế, tôi phải tha thứ cho tôi, phải rộng lượng và khoan nhân với mình. Tôi phải cho tôi có cơ hội để làm lại cuộc đời sau khi đã lầm lỗi, chứ không tạo nên trong tôi một bãi chiến trường.

Từ chính tôi, tôi đã hiểu rằng tôi cần được tha thứ. Tôi thương tôi mà tôi vẫn xử dụng tự do cách sai lạc để xúc phạm đến chính tôi, để làm tàn úa mùa xuân bình an trong hồn mình. Như vậy, đối với tha nhân, kẻ mà tôi thường không thông cảm đủ, không hiểu rõ họ thì làm sao tránh xúc phạm đến họ được?

Tôi xúc phạm đến họ thì tôi cần được tha thứ. Có khi tôi cần được tha thứ hơn là họ cần sự tha thứ của tôi.

Khi chối từ tha thứ cho người khác là bảo rằng tôi không cần sự thứ tha. Chỉ có kẻ nào không bao giờ lầm lỗi thì mới không cần được tha thứ. Nếu tôi tự cho mình chẳng bao giờ làm điều sai, khi nào cũng công chính, tôi chẳng cần ai tha thứ, thì tôi đã kiêu ngạo một cách đáng thương hại.

Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để cho tôi, cho người tôi ghét có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy.

Không tha thứ là tôi đóng chặt cửa ngõ đó để kẻ tôi giận không còn có cơ hội nói rằng họ cũng cùng thân phận yếu đuối, họ cũng cần sự nâng đỡ của tôi. Cái gian nan của con người là sự bất toàn của họ. Tôi bất toàn. Cha mẹ tôi có khuyết điểm. Người yêu tôi không hoàn hảo. Cha xứ bất toàn. Người trong họ đạo bất toàn. Thầy dạy của tôi bất toàn. Bởi bất toàn nên mới có lầm lỗi. Nếu tôi khẳng định chối từ tha thứ cho họ. Tôi đóng chặt tâm hồn mình thì tôi thiệt thòi bởi vì tôi chối từ một tình mến kẻ khác trao tặng, và tôi lại gây thêm một sứt mẻ vì kẻ muốn làm hòa với tôi phải đau khổ vì bị tôi chối từ. Lúc đó, tôi chối từ sự kiên kết trong cùng một thân thể Ðức Kitô. Khi tôi đóng chặt cõi lòng, không chấp nhận tha nhân để họ không đến với tôi được, là tôi tự xây nên một bức tường cao. Ánh nắng thông cảm chẳng thể lọt qua. Tôi sẽ chẳng bao giờ có mùa xuân ấm và hồn tôi sẽ lên rêu ẩm mốc.

Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ. Những tình yêu, những mối giây liên hệ tái sinh sau khi được tha thứ thì thường bao giờ cũng rất khác biệt, cũng rực rỡ vô cùng. Nếu Chúa Yêsu không tha thứ cho Phêrô thì họ đã chẳng gắn bó với nhau và Phêrô chắc cũng chẳng sống chết với sứ mạng của Chúa. Sau khi lỗi phạm và được tha thứ, tình yêu của Phêrô đã bừng cháy. Phaolô cũng thế, bởi vì hận thù tôn giáo của Ðức Kitô quá nhiều nên khi được ơn gọi, được tha thứ, Phaolô đã trở nên điên dại trong sứ vụ rao truyền danh Ðức Kitô cho thế giới. Mai Ðệ Liên đã là người tình muôn thuở của Yêsu vì nàng đã cảm nghiệm được yêu thương trong khoan dung.

***

Tôi gặp X một cô bé 15 tuổi học lớp 8 trong lớp giáo lý của tôi. X qua Mỹ với mẹ cách đây mấy năm về trước. Ba của X kẹt lại, nhưng bây giờ đã tới trại tỵ nạn Thailand, tuy nhiên ông lại sống với một người đàn ba khác. Ðiều đó làm X vô cùng đau khổ. Em nói với tôi là em thấy xấu hổ nếu bạn bè của em biết được. Trong buổi nói chuyện đó, X đã khóc. Khi nói với X rằng mùa này là mùa Giáng Sinh, mùa của yêu thương, của biết ơn và tha thứ. Tôi tiếp tục tâm sự với X. Tôi càng nói về yêu thương thì X càng khóc. Chủ nhật sau, X đưa cho tôi một lá thư nhờ tôi xem. Em hỏi tôi nên viết như thế nào. Tôi đọc lá thư và tôi không cầm được nước mắt. Và X cũng khóc theo. Ðây là một đoạn trong lá thư của em.

... con thương Ba. Con mong muốn Ba về với con. Dù Ba đi đâu, nếu Ba bỏ con, thì con cũng vẫn thương Ba. Xin Ba đừng nghĩ rằng con không thích Ba. Nếu Ba chẳng bao giờ gặp con nữa thì con cũng vẫn là con của Ba. Ba đã vất vả để nuôi con từ khi con còn bé. Nên con muốn biết ơn Ba. Con đau khổ vì con chưa bao giờ express cho ba biết là how much con care cho Ba...

Trong lá thư đó, X không viết, nhưng X nói với tôi là có thể Ba của X cũng không hạnh phúc gì ở bên trại, có thể Ba của X cũng có những đau khổ dày vò khác, nên nghĩ tới đó X lại càng thương Ba chứ không oán trách Ba. Ðọc thư, tôi bùi ngùi khôn tả. Tôi không thể góp ý kiến gì với X được nữa, vì đó là tình yêu tuyệt vời rồi.

Ban tối, khi ngồi trong nhà nguyện một mình với Chúa, tôi thấy Chúa đã cho tôi gặp X, để X chỉ cho tôi con đường về yêu thương. Tình loài người bát ngát quá. Tôi thấy mình gần gũi với mọi người chung quanh hơn sau khi tôi gặp X. Bé X đã gặp gỡ Ba của bé trong yêu thương tha thứ, trong nhận thức được sự yếu đuối của con người.

Tôi nghĩ chính trong những yếu đuối, những lầm lỗi của nhau mà tôi gặp gỡ và gần tha nhân hơn là trong sức mạnh, tài năng và ngay cả trong lý tưởng.

Tối hôm đó, trong buổi cầu kinh, tôi nghe như Chúa nói với tôi giống như lời của X viết cho Ba: Cha thương con. Cha mong muốn con về với Cha. Cha không cần biết là bao nhiêu tội con đã phạm. Cha không cần biết con đã làm gì. Dù con bỏ Cha đơn côi một mình trên thập giá, Cha cũng vẫn yêu con. Dù con đẩy Cha vào góc tường và muốn giết Cha thì Cha cũng đành để con giết, chứ Cha sẽ không chiến đấu chống lại con vì Cha thương con.

Tôi thấy mình hạnh phúc quá vì có một Thiên Chúa nhân từ, luôn tha thứ. Trong tha thứ, tình yêu giữa tôi và Chúa rực rỡ hơn. Tôi băn khoăn tự hỏi mình: Làm sao tôi có thể chối từ một tình yêu bao la như thế? Ðây là động lực thúc đẩy tôi đi tới, tôi muốn bước lên cao hơn, muốn thuộc về Ngài nhiều hơn.


67. THÁNH GIÁ

Thánh Giá là gì?

Tôi nhìn thấy thánh giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về thánh giá rất thường. Thánh giá trên tháp chuông. Thánh giá trên bàn thờ. Thánh giá bán trong tiệm. Thánh giá ngoài nghĩa trang. Thánh giá trên tường đá. Thánh giá trong nghệ thuật. Thánh giá trong thi ca. Thánh giá ở khắp nơi. Nhưng thánh giá là gì? Ðể tìm câu trả lời không phải là vấn đề đơn giản. Có nhiều ýnghĩ khác nhau về thánh giá. Tùy theo mỗi người mà thánh giá có giá trị khác biệt.

* * *

Thánh giá bằng vàng thì giá trị hơn bằng gỗ. Thánh giá vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ. Người mua trả giá để được bớt. Người bán thì lại mong giá cao. Người có tiền thì mua thánh giá vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng dở. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải thánh giá vàng giả. Ai cũng muốn thánh giá vàng. Họ vất vả, đam mê kiếm tiền để tích trữ loại thánh giá này. Khi mất thì đau khổ tiếc xót. Thánh giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh giá xác định sự giàu có.

* * *

Thánh giá cũng được dùng để trang điểm. Họ đeo từng chùm thánh giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh, đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo thánh giá bị khinh bỉ. Có người thích trang điểm bằng thánh giá trên giây chuyền vàng. Họ đeo thánh giá ở dạ hội, ở tiệc cưới, ở các buổi tiếp tân. Lúc đó, ý nghĩa của thánh giá để kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những thánh giá trên vùng ngực hở hang. Lúc ấy, thánh giá nằm trong duyên cớ của những rung cảm cám dỗ. Người có thánh giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh giá lúc này là xúi đẩy của lòng tham.

* * *

Thánh giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh giá bị mưa lạnh, bị nắng gay gắt. Thánh giá vàng thì được săn sóc, giữ gìn cẩn thận. Thánh giá ở ngoài nghĩa trang có thể gẫy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên thánh giá đó thì được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Có thể là sương rơi, là gió bão, nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những thánh giá vàng trên ngực, trên cổ của con người. Thánh giá ngoài nghĩa trang thì không được săn sóc, nhưng Chúa có tự do để thảnh thơi nhìn hoa nở, nhìn nắng bay. Thánh giá trên giây chuyền để trang điểm thì Chúa bị người ta nhìn, và nhiều khi nhìn bằng những ánh mắt thiếu trong sạch.

* * *

Cũng có nơi thánh giá được dùng để xuống đường. Họ vác thánh giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đóng đinh kẻ khác. Thánh giá với khẩu hiệu. Thánh giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh giá để đánh nhau. Thánh giá bây giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên thánh giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời, Ngài chỉ dậy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dậy cách chiến đấu.

Các nhà lãnh tụ thì dậy kẻ theo họ chiến thuật tranh giành ảnh hưởng. Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ phải học cách tiêu diệt đối phương. Thày Giêsu chỉ dậy môn sinh của mình phải chuẩn bị chết (Mt 21,12-13). Vì thế, khi thánh giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì.

* * *

Có thánh giá trên lầu chuông gỗ, có thánh giá trong bảo tàng viện. Thánh giá trên lầu chuông thì có khi phủ bụi mờ, mạng nhện che kín. Thánh giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc. Sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa phủ bụi nhưng có đàn bồ câu bay về, đậu xuống chuyện trò. Thánh giá trong bảo tàng viện là thánh giá qúy. Họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận thì Chúa trên thánh giá đó có nhiều lo âu. Người ta rình mò ăn cắp. Thánh giá bị đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì bị giam hãm. Ngày ngày, hàng ngàn con mắt đi qua dòm ngó. Nếu Chúa ở đó chắc Chúa bối rối lắm. Chúa trên thánh giá gỗ xấu xí thì lại được tự do. Chúa trên thánh giá mà được loài người giữ gìn quý hóa lại là một cõi tù đầy.

* * *

Người Kitô hữu nhận thánh giá để phân biệt mình khỏi tôn giáo khác. Giữa những người Kitô hữu, tu sĩ lại đeo thánh giá để phân biệt họ không là giáo dân. Giữa tu sĩ, thánh giá cũng được để phân biệt trên nhẫn bạc, trên gậy cầm để nói ai là thầy thượng phẩm chức vị, ai là tu sĩ thường. Như vậy, thánh giá cũng được dùng để là dấu hiệu phân biệt. Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng không phải để xây đền thờ. Chúa vất vả đi mòn lối trên bụi đường Galilêa nhưng không phải để may cờ, dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người. "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các con là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng thương mến lẫn nhau" (Yoan 13,35). Tình yêu vô hình, không nhìn thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dấu hiệu cho người ta nhìn. Còn thánh giá hữu hình, ai cũng nhìn được thì Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu.

Trên đường từ Jerusalem lên núi sọ có rất nhiều người nhìn Chúa vác thánh giá. Có nhiều kẻ đã được thừa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn nhưng họ không vác thánh giá đỡ Ngài. Không một môn đệ nào ghé vai gánh cho Thầy mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần qụy ngã vì yếu sức. Kẻ vác thánh giá đỡ Ngài là Simon, người xứ Kyrene (Lc 23,26). Phúc Âm không hề nói là ông Simon đã được thừa hưởng đặc ân gì của Chúa cả. Và có thể ông ta là một người ngoại giáo. Ðời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác thánh giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa nhưng lại nhờ họ mà Chúa đỡ khổ.

* * *

Thánh giá là gì?

Có quá nhiều loại thánh giá:

- Thánh giá để trang điểm. Ðiều đó đúng.

- Thánh giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc. Ðiều đó đúng.

- Thánh giá là phương tiện tranh đấu.

- Thánh giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam.

- Thánh giá có thể để lôi cuốn, quyến dũ người khác.

- Thánh giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng.

- Thánh giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ sắt khóa kín.

- Thánh giá để phân biệt chức vị trong xã hội.

Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng thì câu trả lời thường là sai. Vì câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất cũng như chẳng bao giờ có hai điều đúng nhất.

Người ta không thể tranh luận về thánh giá. Kẻ dùng thánh giá làm phương tiện tranh đấu thì không thể chấp nhận thánh giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn lấy thánh giá để làm dáng thì đối với họ thánh giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang điểm. Ai chọn thánh giá để phân biệt mình với kẻ khác tôn giáo thì thánh giá mang mầu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn thánh giá một cách khác nhau. Giá trị của thánh giá tùy thuộc cái nhìn của họ.

* * *

Ðức Kitô nói về thánh giá như sau: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá của mình mỗi ngày mà theo Ta" (Lc 9,23). Vác thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo Ngài thì không cần tìm định nghĩa cho thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết thánh giá là gì rồi. "Về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi nơi thập giá của Chúa chúng ta" (Gal 6,14).

Tôi nói với người ta về thánh giá. Tôi cũng nghe kẻ khác nói với tôi về thánh giá. Tôi nhìn thánh giá mỗi ngày mà tôi đâu thấy vinh quang. Cuộc sống vẫn đầy rẫy trầm luân của nó. Như vậy thánh giá nào mới cho tôi hy vọng?

Giữa bao nhiêu loại thập giá, thánh Phaolô chọn có một. Ðó là thập giá của Chúa chúng ta.

Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Ðiều ấy cũng hàm ý là có nhiều thánh giá giả. Nếu phân biệt được thánh giá thật giữa thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây.

Vấn đề là người ta phàn nàn về thánh giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Ðời tôi khổ quá! Chúa gửi thánh giá cho tôi!

Phúc Âm kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị nhổ vào mặt, bị xỉ nhục, bị tát, bị đội vòng gai, bị cười. Người ta làm thập giá, bắt Ngài vác đi rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó (Mc 15,16-20; Mt 27,27-31; Yn 19,1-3). Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa. Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa, chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?


68. THỜI GIAN

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Ngài là khởi nguyên và tận cùng (Kn. 22: 13). Ðiều ấy có thể diễn tả cách khác, Thiên Chúa là thời gian. Nhưng Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Thiên Chúa làm chủ thời gian chứ không phải thời gian là Thiên Chúa. Thời gian chỉ hiện hữu trong sự hiện hữu của Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa hiện hữu trong thời gian. Hiểu như vậy, thì ai sống trong Thiên Chúa mới thật sự sống trong thời gian. Còn sống trong thời gian chưa phải là sống trong Thiên Chúa.

* * *

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Yoan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Jn. 4: 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế, thời gian và tình yêu song hành là một. Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu. Và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ thành lạnh lùng nghĩa trang, là củi mục buồn nản. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đắp đầy niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc. Và kẻ sống trong Thiên Chúa là người phải biết quý thời gian.

* * *

Chúa dựng nên tôi bằng thời gian. Chúa cứu rỗi tôi bằng thời gian. Tôi sẽ gặp Chúa bằng thời gian. Thời gian là tất cả, bởi đó tôi nên dành cho thời gian một suy tư của tôi về cuộc sống.

Nói về thời gian thì sách Giảng Viên trong Kinh Thánh viết như sau:

Có thời để sinh - có thời để chết

Có thời để trồng - có thời để nhổ

Có thời để giết chết - có thời để chữa lành

Có thời để phá - có thời để xây

Có thời để khóc - có thời để cười

Có thời để than van - có thời để múa nhảy

Có thời để quăng - có thời để lượm

Có thời để ôm - có thời để xa nhau

Có thời để tìm kiếm - có thời để thất lạc

Có thời để gìn giữ - có thời để vất đi

Có thời để xé - có thời để khâu

Có thời để nín thinh - có thời để lên tiếng

Có thời để yêu - có thời để ghét

Có thời giặc giã - có thời bình an

(Giảng viên 3: 2-8)

Có thời quăng đi, có thời lượm lại. Có thời than van, có thời nhảy múa. Ðó là những lời hứa, thế nhưng khi nào được lượm lại, khi nào được nhảy múa. Thực tế trong cuộc sống có quá nhiều chịu đựng gian nan. Có những cơn bệnh kéo dài của thân xác, có những nặng nề năm tháng của tâm hồn. Nó là những đường hầm dài hun hút khổ đau. Tiếng thở dài của con người vẫn là: Khi nào tôi mới qua khỏi tháng ngày bất hạnh này.

Những lời nói về thời gian của sách Giảng Viên trong Cựu Ước có lẽ đã được Chúa Yêsu cắt nghĩa trong bài giảng trên núi. Tin Mừng thánh Luca ghi như sau: "Phúc cho các ngươi, khi thiên hạ oán ghét các ngươi, khi họ loại các ngươi đi cùng sỉ mạ, khi họ khử trừ tên các ngươi như đồ xấu xa vì cớ Con Người. Hãy vui sướng trong ngày ấy, hãy nhảy mừng, vì này: phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lao"(Lc. 6: 20-26).

Nếu tôi phải quăng đi vì đức tin, sẽ có ngày tôi được Ngài đưa về với triều thiên. Nếu có thời tôi bị xé rách vì đức tin, sẽ có thời tôi được Ngài khâu lành bằng ơn sủng. Nếu có ngày tôi bị khóc than vì đức tin, sẽ có ngày Ngài đưa tôi vào dự tiệc Nước Trời.

Nếu lấy thời gian để xây đắp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị vứt sạch khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để kiếm tìm cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị lạc lõng khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để ôm ấp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi phải xa nhau khi Nước Trời đến.

Mầu nhiệm của thời gian và biến cố trong cuộc sống

Ðêm Giáng Sinh nối kết với đêm tử nạn trong mộ đá sâu. Ðể rồi một thời trong mộ đá sâu dẫn tới một thời Phục Sinh bừng sống. Có ngày than van vì đức tin thì hãy trông ở đằng trước, sẽ có ngày ủi an. Và cũng để nhắc nhở, nếu có thời chỉ yêu riêng đời mình thì hãy thận trọng vì có ngày chua cay. Ðau thương của tháng ngày bị xé rách ẩn trong tháng ngày được khâu lành. Ðó là huyền nhiệm của thời gian.

Con người không làm chủ được thời gian. Tôi chẳng thể biết những gì sắp xẩy ra ở tương lai. Ðiều này ảnh hưởng đến niềm tin của tôi. Vì không nắm chắc nên có lo âu, nghi ngờ. Nhưng làm sao tôi hiểu được ý định của Thiên Chúa từ alpha đến omega, từ khi chưa có mặt trời đến vô cùng mờ mịt hư vô. Phải chăng vì thế, thánh Yoan đã củng cố niềm tin của tôi khi Ngài bảo tôi rằng hãy nhớ từ nguyên thuỷ đến tận cùng Thiên Chúa mãi mãi là yêu thương (1 Yn. 4: 16).

Tôi không biết được thời gian. Ðời là những biến cố. Có những biến cố hôm nay mới trả lời cho biến cố mà tôi đã chẳng hiểu trong quá khứ. Ðiều ấy cũng hàm ý, biến cố hôm nay có thể chỉ trọn nghĩa khi tôi chờ sống trọn biến cố ngày mai. Nếu biết được thời gian, tôi chẳng còn niềm tin nữa. Ðã biết rồi, còn gì để tin. Tâm sự của một người thao thức lo âu về tương lai, có lẽ cũng là tâm sự của một cây hồng.

Câu chuyện bắt đầu thế này:

Có một cây hồng được trồng trong thửa vườn, tôi tạm gọi đó là khu vườn cuộc đời. Ngày ngày người làm vườn vun sới. Ông nhổ cỏ, chăm sóc từng cánh lá. Cây hồng dần dần vươn lên trong dáng thèm muốn của khóm cúc, buồn tủi của đám lau sậy.

Chẳng bao lâu, cây hồng trổ bông. Hôm nay, mảnh vườn rực sắc vì cái thẫm đỏ của một loại hồng quý. Khách qua đường ai cũng trầm trồ khen ngợi. Cây hồng hãnh diện làm sao.

Năm tháng đong đưa chảy theo đời. Rồi đến một ngày, ngày mà lời Kinh Thánh nói: Có thời để khoe sắc, cũng có thời để tang thương. Người làm vườn đã từ lâu lắm rồi suy nghĩ. Ông biết nhân gian sẽ tiếc mầu thẫm đỏ. Ông biết nhân gian sẽ nhớ những giọt sương sáng long lanh trên cánh hồng. Nhưng ông đã quyết định chặt gốc hồng!

Sau cùng, những nhát dao định mệnh đã bổ xuống. Chỉ ngày hôm sau thôi, khách qua đường không còn thấy dập dờn trong gió một loài hồng qúy nữa. Một con nắng mùa hạ trôi qua. Những cánh hồng, hôm qua rực rỡ, hôm nay còn đâu. Nhân gian thương tiếc dáng hồng thủa xưa, và có lời than trách: Hỡi người làm vườn kia ơi, sao lại chặt một loài hồng quý?

Riêng người làm vườn hiểu rằng có một thời để xanh, thì cũng có một thời để khô héo. Có một thời để giết chết, cũng có thời để chữa lành.

Trước nhát dìu, cây hồng chẳng hiểu được đời mình.

Ông làm vườn đoan hứa rằng tất cả vì quý mến mà ông ta săn sóc cây hồng, tại sao ông lại chặt nó? Cây hồng nằm khô như những khúc củi khác. Giống như cái vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô trong ngày biến hình trên núi đã hết rồi. Bây giờ là cây khổ giá buồn hiu. Và kẻ qua đường không muốn ngó nhìn.

Người làm vườn đem khúc gỗ hồng về treo trên gác bếp. Từ đó, khúc gỗ nằm lặng lẽ lãng quên trong gác bếp tối tăm. Bụi khói bám vào làm nghẹt thở đời nó. Nhớ về mảnh đời đã qua, còn đâu những buổi sáng long lanh. Khúc gỗ hồng lặng im thương nhớ đời mình.

Không biết bao lâu trong cái lặng lẽ ấy. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Rồi đến một ngày. Lửa nóng đã làm hong khô, người nghệ sĩ đem khúc gỗ hồng khô ra đẽo gọt. Khúc gỗ đau đớn oán than. Ðã chết rồi thân xác cũng chẳng được nghỉ yên.

Có lẽ đau đớn hơn cả là khi người làm vườn hì hục nung đỏ mũi khoan rồi dùi thủng từng chiếc lỗ trên thân khúc gỗ. Mỗi lần mũi khoan đỏ cắm vào sớ thịt, khói xẹt bay lên cay mắt. Ðúng như có ngày bình yên thì cũng có ngày tan tác.

Rồi cũng đến một ngày. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Những lát dao đã xong, khúc gỗ khô biến hình dần dần thành cây sáo trong tay người nghệ sĩ.

Và rồi cũng lại đến một ngày, lại một ngày nữa huyền nhiệm trong đời. Một ngày vô cùng trang trọng của người nghệ sĩ. Ngày đó, người nghệ sĩ đứng giữa trời đất bao la, nâng cây sáo hồng lên môi hôn. Cây sáo run lên xúc cảm, nó thấy đôi môi bát ngát của người nghệ sĩ đưa nó vào một thế giới vô cùng mênh mông. Với cả hồn người nghệ sĩ, một hơi ấm từ đôi môi người nghệ sĩ ấy kề bên khúc sáo hồng, để rồi một bài ca huyền diệu nhè nhẹ đẩy gió vươn vào thinh không.

Bấy giờ cây hồng mới hiểu vì sao nó đã bị chặt gẫy. Nó mất đi cái dáng hoa tuy có lời khen của khách qua đường nhưng sớm nở tối tàn. Giờ đây nó luôn luôn trong bàn tay người nghệ sĩ đi khắp vũ trụ. Từ nó, hôm qua, hôm nay, rồi mãi mãi ngàn sau, cứ đẩy gió đi vào thinh không để ru đời bằng ngàn bài ca vô tận.

* * *

Lạy Chúa,

Không thể coi thường thời gian thì con phải có thái độ nào đối với thời gian?

Thái độ đúng nhất là hãy yêu thời gian. Không có thời gian con không hiện hữu. Bởi đó, tất cả mục đích mà thời gian ban tặng là gọi con đi tới, là hãy sống, hãy quý trọn vẹn từng mẩu thời gian.

Ðặc tính của thời gian là không bao giờ chết. Thời gian vĩnh cửu. Bởi thế, con không giết được thời gian nhưng là thời gian giết con. Khi người ta "giết thời giờ" là lúc thời giờ đang giết họ. Nếu bản tính của thời gian đối với con là sự sống thì bất cứ hành vi nào làm phí phạm thời gian là hành vi xúc phạm đến sự sống, một tặng phẩm cao quý mà Chúa đã ban tặng con.

Cánh hoa làm cho cây hồng đẹp đấy, nhưng sớm nở tối tàn. Nó chỉ lẩn quẩn trong góc vườn chật hẹp. Nó có ngờ đâu khi rũ sắc đó để người nghệ sĩ biến mình thành cây sáo tre, nó đã thênh thang vũ trụ và ru đời.

Con chẳng nhìn rõ được tương lai. Xin cho con hiểu những quãng thời gian huyền nhiệm là sự khôn ngoan và quan phòng của Chúa săn sóc cho con. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc sống của con đều đến từ định nghĩa: Chúa là Tình Thương (1 Jn. 4:16) từ khởi nguyên cho đến tận cùng (Kn. 22: 13).


69. THƯƠNG YÊU LÀ TRUNG THÀNH

Tình yêu vô hình, không nhìn thấy. Nhưng tình yêu lại hiện hữu trong những gì hữu hình. Gạt bỏ những gì hữu hình thì tình yêu cũng không còn chỗ đứng. Tôi không thể yêu bông hoa nếu không có bông hoa. Nhớ người nào là đã gặp người đó. Thương là thương ai. Vì thế, tình yêu là tổng hợp của cả tinh thần và thể xác.

Yêu bằng ý nghĩ mà thôi là tình yêu không có thật. Không ai có thể chỉ yêu bằng tư tưởng và cũng không ai cần tình yêu chỉ bằng câu ca dao. Chúa Kitô cũng chối từ thứ tình yêu ấy: "Ðừng yêu Ta bằng lời" (Mt 7,21). Ðã yêu là có rung động của con tim, có bâng khuâng của toàn vẹn con người, có tình cảm cao thượng của hy sinh. Ðấy là tình yêu một lần Chúa đã nói: "Ta sẵn lòng chết vì chiên của Ta" (Yn 10,12). Có thổn thức của xác thân dạt dào, Chúa cũng cảm thấy tâm hồn chất ngất buồn thương (Mt 26,38). Và, trong cái rung động của toàn vẹn con người ấy cũng có thao thức đòi đáp trả: "Con có yêu Ta không?" Chúa đã không hỏi Phêrô một nhưng đến ba lần (Yn 21,15-17). Tất cả xúc cảm đó làm nên cung điệu yêu đương của đời người.

Bông hoa đang khoe sắc ngoài kia nên tôi mới yêu được. Như thế, làm sao tôi có thể chỉ yêu tinh thần của bông hoa mà lại không có xác thân? Có con tim nên tôi mới biết thương mến. Bởi đó, làm sao tôi có thể chỉ yêu bằng tinh thần thôi mà lại không có rung cảm của môi, mắt? Yêu là có cả hai; linh hồn và thân xác. Chỉ yêu bằng thân xác là tình yêu tật nguyền. Chỉ yêu bằng tinh thần là tình yêu đánh lừa. Cái dạt dào của thân xác là một yếu tố sáng tạo. Sáng tạo ấy đưa đến nhiều chân trời tươi đẹp. Khả năng rạo rực của con tim là ngôn ngữ của yêu thương. Ánh nhìn. Một khuôn mặt xinh. Ngôn ngữ của thân xác là ngôn ngữ tuyệt vời của tình yêu, nó là dòng suối tươi mát cho cánh đồng. Gạt bỏ dòng suối đó cỏ cây sẽ héo úa.

Thân xác là ngôn ngữ của tình yêu nhưng không là tất cả tình yêu.

Nó chỉ là một nốt nhạc mà thôi. Nếu chỉ dùng một ngôn ngữ đó cho một hòa âm thì cùng đàn không còn là cung điệu hòa hợp nữa, nó chỉ là tiếng re ré của một đơn điệu nhạt thếch. Dòng suối phải được chảy theo nhánh nhỏ tưới cho cánh đồng. Nếu suối tụ lại thì tình yêu sẽ chết vì dòng suối thay vì tưới mát sẽ làm lụt lội dâng đầy bùn phù sa.

Không có gì buồn tẻ bằng bức họa chỉ có một mầu. Ðấy không phải là tác phẩm nghệ thuật và tác giả không là nghệ sĩ.

Thân xác là ngôn ngữ diễn tả và tiếp nhận tình yêu. Nhưng một đốm lửa thì là ánh đèn cần thiết cho đêm đen, nếu cả đêm đen là lửa thì đấy không còn là đèn nữa mà là hỏa ngục bừng bừng. Những ánh mắt, mùi thơm của hương tóc cũng vậy.

Qua đối tượng hữu hình, tình yêu như cánh vườn mở ngõ, mời vào. Tuy nhiên, lý trí thẩm định, hướng dẫn và ban tặng cho tình yêu giá trị. Trí tuệ con người có lúc bừng sáng, trong như hạt nước mưa, nhưng cũng không vắng những ngày đục mù sương. Rung cảm của thân xác có những lúc rì rào như lúa chiều gợn sóng, ên đềm. Có ngày nức nở níu kéo, ì ầm sóng vỗ. Vì tội lỗi nên bản đàn đã lệch cung, sai giọng. Ði tìm một trật tự để nối chắp lại, gạn lọc, để so cho bằng, để giữ đúng nhịp là một vất vả gian truân. Dù cố gắng đến đâu người nghệ sĩ cũng có lúc vẩy sai nét mực, tô đậm một mầu.

Trung thành là mọi người phải đi con đường của mình. Khi nói mọi người phải đi con đường của mình, không có nghĩa là họ không nhìn thấy những lối rẽ ngang. Kẻ cho thập giá như lời mời gọi, chẳng có nghĩa là họ không nghe thấy tiếng gọi của một giọng nói dịu dàng bên nương dâu, bờ trúc. Kẻ nhìn thập giá như trời cao để bước tới không có nghĩa là họ không thấy bờ tóc bay như một ngôn ngữ rất nôn nao. Trong hôn nhân có ai tuyệt đối thương yêu bạn đời của mình đến nỗi không bao giờ có một ngăn nhỏ nghĩ đến những bóng hình lãng mạn khác?

Lối rẽ bên đường đi có làm tôi âu lo. Ðôi lúc tình cảm dịu dàng có làm tôi bâng khuâng. Nhưng không vì thế mà lý tưởng của tôi hao mòn. Lối rẽ bên đường, tình cảm dịu dàng ấy làm tăng khả năng tự do lựa chọn của người trong cuộc. Nếu không có những ngã rẽ, những ánh nhìn khác thì tình yêu trong hôn nhân cũng như lý tưởng của người tu sĩ không còn cố gắng nữa, vì còn gì lựa chọn nữa để mà tiếp tục chọn lựa. Có những ngã rẽ nên tôi phải dừng lại hỏi lòng mình, tôi phải cố gắng giữ gìn con đường của tôi, tôi phải phấn đấu trung thành, Lúc hỏi lại lòng, lúc phấn đấu là lúc tình yêu dành cho người yêu, dành cho lý tưởng sâu đậm hơn.

Người bạn đời trong hôn nhân là những con đường của nhau đi. Nếu người bạn đời hoàn hảo thì con đường hoàn hảo. Chẳng ai muốn rẽ sang một lối mòn nếu con đường đang đi đẹp ngát hương về lối mộng. Nhưng vì tội lỗi nên người yêu không hoàn hảo, rồi, do vậy, đường đi của họ có gai. Ðây là lý do không trung thành. Nếu người tu sĩ bước trên đường lý tưởng toàn những ngọt ngào thì làm gì có lỗi lời thề. Nhưng thập giá là lý tưởng chỉ đủ hé ánh sáng cho họ bước và giữ lại bóng tối để họ phải tin. Trầm luân và vinh quang của họ nằm ở đó.

Người yêu tôi không hoàn hảo nên đường tôi đi gập ghềnh. Có thể vì đường đi gập ghềnh, không toại nguyện, tôi cắt bỏ lời cam kết để đi tìm một con đường hạnh phúc khác hoàn hảo hơn? Nếu tôi hủy bỏ lời thủy chung để tìm một người có khả năng làm tôi thỏa mãn thì tôi trả lời làm sao cho vấn nạn: Tôi không hoàn hảo. Chính tôi cũng không là con đường thẳng cho tôi đi. Tôi không thỏa mãn được tôi. Tôi muốn giàu mà thực tại tôi cứ nghèo. Tôi muốn có nhan sắc mà thực tại tôi cứ tầm thường. Tôi muốn người khác phải để ý đến tôi mà thực tại tôi cứ khổ sở vì thương nhớ người ta. Khi chính tôi không thỏa mãn tôi được thì tôi có thể từ giã mình để đi tìm cái tôi khác được không? Tôi có thể xây dựng cho đời tôi thêm phong phú chứ không chối từ được chính mình.

Không chối từ được chính mình thì làm sao có thể biện minh vì bất toàn của người bạn đời mà đi tìm người yêu mới? Mỗi người có một khả năng khác biệt, khi nào thì tôi có thể đi tìm được có tất cả khả năng để thỏa mãn tôi hoàn toàn?

Kiếm tìm là tự thú rõ ràng tôi là người thiếu thốn, vì nếu hoàn hảo thì làm gì phải cậy nhờ đến ai. Mà tôi có khuyết điểm thì tôi cũng chẳng thể đem hạnh phúc vô bờ cho người tôi đang sống. Tôi cũng là nguyên nhân khổ đau, là gai nhọn trên đường đi của người yêu tôi.

Hạnh phúc hệ tại luôn luôn được thỏa mãn hay là cố gắng làm thỏa mãn người?

Cuộc sống chỉ là tương đối. Tôi không thể làm người bạn đời trọn vẹn hạnh phúc. Người bạn đời cũng chẳng thể cho tôi mọi ước mơ. Vì cả hai đều yếu đuối và mắc nhiều lỗi lầm, cả hai không là thiên thần mà là người. Là người nên tôi không thể làm thỏa mãn người được. Không làm thỏa mãn người được cũng có nghĩa là người cũng chẳng thể làm thỏa mãn được tôi. Như thế, hạnh phúc là cùng nhau lắng nghe tiếng hót của con họa mi. Cùng chịu gió lạnh của mưa. Chịu khổ của bão. Hạnh phúc trong hôn nhân là cùng nhau góp một ước mơ. Cùng nhau gánh nỗi đau của đời.

Cái chua của chanh, cái ngọt của đường làm nên ly nước mát chứ không riêng có đường, không hẳn chỉ là chanh.

* * *

Chúa biết rằng cứ để con trong thế gian thì tốt cho con hơn là đem con khỏi thế gian. Chúa chỉ xin Chúa Cha đừng để con thuộc về thế gian mà thôi.

Lạy Chúa, nếu vậy, con không xin Chúa cắt mọi ngã rẽ trên đường con đi. Vì như thế, con đường của con sẽ nhạt nhẽo. Con cũng không xin cho con trở thành vô cảm trước những vẻ đẹp mà Chúa đã tạo dựng. Con chỉ xin ơn can đảm để ngắm bông hoa trên đồi nhưng thương bông hoa trong vườn. Con không sợ hãi những giọt chanh chua vì con biết Chúa cũng cho con những muỗng đường. Con chỉ xin được khôn ngoan để biết hòa hợp sao cho đúng hương vị ly nước mát mà Chúa đã ban tặng con trong trưa hè oi nóng.

* * *

Phêrô ra sức rủa mình mà thề: "Tôi không hề biết người các ông nói đó là ai" (Mc 14,71). Như thế, tình yêu của Phêrô là tình phản bội.

Chúa quay lại nhìn Phêrô, và Phêrô nhớ lại lời Chúa khi Ngài bảo ông: "Hôm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối Ta ba lần. Và ra ngoài, ông khóc lóc thảm thiết" (Lc 22,61-62). Như thế, lỗi lời thề lại trở nên yêu thương sâu đậm. Lỗi lời thề lại trở nên trung thành, gắn bó thiết tha.

* * *

Trung thành là cố gắng gìn giữ mối giây liên hệ, là không cắt đứt. Nhưng nếu làm đứt mà tha thiết nối chắp lại thì đấy mới càng chứng tỏ ý nghĩa sâu xa của trung thành. Nếu không gặp thử thách thì sao quả quyết được là không bao giờ vấp ngã? Nếu tôi không dám chắc tôi không bao giờ vấp ngã thì tôi làm gì có quyền bắt kẻ khác hoàn hảo?

Trung thành không hẳn chỉ có nghĩa là không bao giờ lỗi phạm, mà là từ lỗi phạm, tôi trở về với người tôi yêu, với kẻ yêu tôi.

* * *

Có hai thứ trung thành. Trung thành bằng tình yêu và trung thành bằng sợ hãi. Trung thành trong hôn nhân, trung thành của đời tu cũng vậy.

Sợ hãi cũng có trung thành, nhưng trong trung thành có mầm phản loạn, vì trung thành của sợ hãi là nô lệ. Kẻ đòi buộc trung thành bằng sự sợ hãi thì trả thù kẻ bội phản. Người lấy tình yêu làm sợi giây trung thành thì tha thứ cho kẻ phản bội. Chúa Kitô đã chọn con đường thứ hai.


70. TIẾNG GỌI

Ít nhất phải có một chút hy vọng nào đó thì người gọi mới cất tiếng gọi. Mong được người đáp trả, đấy là niềm vui của người gọi. Trong tiếng gọi bao hàm sự có mặt của hai người. Nếu chỉ có một người lẻ loi thì không có tiếng gọi, vì tiếng gọi không có đối tượng để gửi tới.

Tiếng gọi là một lời mời. Lời mời là một cử chỉ biểu lộ lòng mến yêu. Không mến thương ai thì chẳng bao giờ gọi người đó.

Thà rằng tôi lẻ loi, cô độc còn hơn là tôi quen biết, còn hơn là tôi có những mối giây liên hệ tình cảm để rồi những quen biết, những mối liên hệ ấy chối từ tôi. Khi sống một mình thì tôi chỉ đơn độc, còn khi tôi quen biết mà bị từ chối thì tôi sẽ cô đơn. Bị thờ ơ bao nhiêu thì nỗi cô đơn càng hiu hắt bấy nhiêu. Và nỗi cô đơn này có thể hoang vu hơn sa mạc. Chúa không buồn khi chưa có con người. Khi con người chối từ tình yêu mà Ngài ban tặng, bấy giờ Ngài mới cô đơn (Kn. 6:6). Chúa không tủi lòng khi chưa quen biết Phêrô, khi chưa gặp mặt Yuđa. Khi đã gọi tên, khi đã cùng nhau xây đắp mối liên hệ, bấy giờ nỗi cô đơn của Ngài mới thấm thía lúc bị phản bội, bị chối từ.

Khi tôi gởi một cánh thư đi là tôi gởi lòng tôi ở đó. Gởi nỗi lòng mình đi thì bao giờ cũng có nhớ nhung và hồi hộp, âu lo. Tôi không viết thư cho gió vì gió không biết tiếng người. Tôi chẳng gửi thư cho mây vì mây không bao giờ đáp trả. Tôi chỉ gởi cho người vì chỉ người mới có thể đáp trả lại nỗi lòng tôi. Nhưng người có tự do nên tôi cũng có thể bị chối từ. Tiếng gọi của tôi có thể vang lên khô khan rồi hiu hắt trở về với cõi lòng tôi.

Khi Chúa cất tiếng gọi thì Chúa cũng thầm nuôi hy vọng được đáp trả. Chắc hẳn Ngài cũng ngậm ngùi khi bị khước từ. Bởi trong tiếng gọi là thầm cho đi tình yêu. Bởi trong tiếng gọi là thầm nói lên nỗi nhớ thương.

Gọi là dấu hiệu đang còn xa nhau. Gọi là muốn lại gần.

Trong cuộc đời, tôi có hai tiếng gọi, hai mẫu người lý tưởng để theo. Tiếng gọi thứ nhất là Chúa Kitô. Tiếng gọi thứ hai là chính tôi. Tôi có thể tạo nên cho tôi những tiếng gọi, những giấc mơ và tôi có thể theo đuổi để trở thành mẫu người như tiếng gọi tôi ước mong. Tôi cũng có thể trở thành mẫu người như Chúa Kitô mong muốn. Cái khác nhau là một đàng tôi sống ước mơ của tôi, một đàng tôi phải sống tiếng gọi của Chúa. "Thức ăn của Ta là làm theo ý Ðấng đã sai Ta và hoàn tất công việc của Ngài" (Yn. 4:34). Chúa Kitô đã sống trọn vẹn tiếng gọi của Cha Ngài.

Tôi có thể lầm lẫn thì tiếng gọi của tôi cũng có thể không trung thực. Nếu tiếng gọi của tôi không trung thực thì lo âu để trở nên mẫu người như tôi mơ ước sẽ là dại dột.

Nếu tôi tin rằng Chúa không thể sai lầm thì tôi cũng phải xác tín rằng tiếng gọi của Ngài phải tuyệt hảo. Không thể có hai sự tuyệt hảo. Như thế, khi tôi chối từ sự tuyệt hảo là tôi nhận sự bất hảo.

Có nhiều thứ tiếng gọi. Gọi để cho một tặng vật. Gọi để chung một niềm vui. Gọi để gởi gấm một niềm tin cậy. Nhưng tiếng gọi cao cả nhất, sâu xa nhất là gọi để theo một người. Gọi để cho một tặng vật mới chỉ là cho một phần yêu thương. Còn gọi để theo một người là tiếng gọi cho tất cả. Vì muốn người khác trở nên giống mình thì phải cho họ biết rõ về mình. Cách cho họ biết rõ về mình tốt nhất là cho chính mình. Tôi không thể trở nên mẫu người như Chúa muốn, tôi không thể theo Ngài nếu Ngài không tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai. Ngài chẳng thể tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai nếu Ngài không cho tôi chính Ngài. Và thực sự, Thập Giá đã minh chứng sự cho đi trọn vẹn ấy.

Chúa đã viết một cánh thư. Ở nơi nào đó, Chúa đang mong chờ hồi âm. Ngài không viết thư cho lá rừng, vì lá rừng và bụi cát chỉ phủ mờ thập giá. Ngài viết thư cho người vì chỉ có người mới biết quét mạng nhện trong đền thờ, mới biết xóa dịu một nỗi khổ đau.

Có xa nhau thì người ta mới phải gọi. Khi tôi nghe tiếng Chúa gọi là dấu hiệu tôi còn đang xa Ngài. Khi Ngài gọi là dấu hiệu Ngài muốn tôi lại gần.


71. TÌM NHAU

Ngài vào và đi tắt ngang qua Jêricô. Và này, có người tên gọi Giakêu, ông trưởng ty quan thuế, và là người giàu có. Ông tìm cách để coi cho biết Ðức Kitô là ai, nhưng bởi có đám đông nên không thể được, vì ông vóc dáng thì thấp bé. Vậy ông chạy đón đằng trước, trèo lên một cây sung để thấy được Ngài, vì Ngài sắp ngang qua đó. Khi Ngài vừa đến chỗ ấy, Ðức Yêsu ngẩng lên nhìn và nói cùng ông: Giakêu, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi". Ông vội vàng xuống và mừng rỡ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy thì kêu trách rằng: "Ông ấy vào ngụ nhà một người tội lỗi!" Ðứng lại, Giakêu thưa cùng Chúa: "Này, nửa phần của cải tôi, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó, và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn". Ðức Yêsu nói cùng ông: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi chưng người này cũng là con của Abraham, vì Con Người đến để tìm cứu sự hư đi" (Lc. 19: 1-10).

* * *

Cả đám đông tuôn đến, tại sao Ðức Kitô lại để ý có mình Giakêu? Làm gì mà Giakêu phải vất vả tìm Ðức Kitô? Sự kiện hai người muốn gặp nhau có thể gợi ý để ta đặt vấn đề và tìm hiểu về cuộc tìm nhau này.

Con người Giakêu

Luca nói một điểm quan trọng về thân thế của Giakêu. Ông ta không phải là người đi thu thuế mà là "thủ lãnh" những người thu thuế. Jêricô bấy giờ là hải cảng. Thu thuế ở nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Chức vụ lớn này do người Roma bán đấu giá cho những tay có nhiều tiền, trả cao. Kẻ thu thuế phải nộp đủ thuế. Roma cho họ quyền tìm mọi phương tiện, dù là siêu cao thuế nặng trên cuộc sống của dân. Dựa vào quyền của ngoại xâm, lại được tự do đánh thuế, họ có thể làm giầu một cách vô lương tâm. Trước mặt người Do Thái, người ta ghê tởm và miệt thị hạng người thu thuế. Giakêu bị liệt vào "những người tội lỗi, và gái điếm" (Mt. 11:19; 21:31).

-   Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông chắc là những người thu thuế, các sĩ quan Roma. Vậy, tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Yêsu kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông. Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Ðức Yêsu?

-   Người Do Thái thời Chúa Yêsu quan niệm rằng tật nguyền là kết quả của tội lỗi. Thí dụ, kẻ mắc bệnh cùi bị loại xa khỏi cộng đoàn. Ai chạm vào những người này đều ra nhơ bẩn. Chúa Yêsu đã chuyện trò, giao tiếp với họ, nên đã ra nhơ bẩn. Chúa Yêsu đã tiếp xúc với ngay cả những người bị thần ô uế ám. Vậy, tại sao Giakêu lại dám đón Chúa vào nhà mà không sợ gia đình phê bình chỉ trích, không sợ sẽ ra nhơ bẩn khi tiếp xúc với Chúa?

- Thu thuế là người tội lỗi. Kẻ đạo đức không bao giờ chấp nhận ngồi chung bàn. Bị dân chúng thù ghét, điều đó có nghĩa ông có thể bị nguy hiểm đến tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Ðiều ấy cho thấy ông đã phải liều, và bỏ ra ngoài mọi phê bình. Ðể gặp Ðức Kitô, người ta phải trả một giá nào đó. Gặp gỡ Ðức Kitô bao giờ cũng là một thách đố. Theo Ngài luôn luôn hàm ý một cuộc thay đổi đi ngược quan niệm đương thời.

- "Này nửa phần của cải tôi, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó, và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn" (19: 8). Trong các sách Lêvi (5: 20-26), Xuất Hành (21: 37), Dân Số (5: 6f.) đều nói đến phải trả lại, đền bù cho người nghèo, người bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Khi gặp Chúa, ông trình bày ngay. Việc ông trình bày ngay vấn đề cho thấy ông đã nghiên cứu Kinh Thánh, biết các lề luật đó. Như vậy, có phải hồn ông đã có một thao thức?

- Giakêu đã trình bày lòng sám hối với Chúa Kitô ngay dưới gốc cây chứ không phải ở nhà riêng của ông. Làm vậy, nhiều người nghe thấy. Tại sao không để về nhà, nói chuyện kín đáo, đây đâu có phải là chuyện tốt của đời ông để nói giữa đám đông?

- Phúc Âm kể tiếp: "Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Yêsu là người như thế nào, nhưng không thể được vì người ta đông quá" (Lc. 19: 3). Ðám đông đã là nguyên nhân nghẽn trở. Trong cuộc sống Kitô hữu, nhiều bước đời đã chìm vào bóng đêm, lạc lối ánh sáng vì cuộc sống trần tục của đám đông đã cản họ đường về với chính lộ. Ðám đông này đã kết án Chúa khi biết Ngài lưu nghỉ ở nhà của Giakêu. Mọi người kêu trách rằng: "Ông ấy vào ngụ nhờ một người tội lỗi" (Lc. 19: 7). Như thế, đám đông chẳng những cản đường Giakêu gặp Chúa mà còn cản lối Chúa gặp Giakêu. Ðó là sức mạnh của dư luận, của trào lưu.

- Biết mình nhỏ bé không chen vào đám đông được. "Vậy ông chạy đón đằng trước, trèo lên một cây sung để thấy được Ngài, vì biết Ngài sắp đi ngang đó" (Lc. 19: 4). Sự thôi thúc đến từ một ước vọng bao giờ cũng có sáng kiến. Có những sáng kiến nhẹ nhàng, êm ái. Nhưng cũng không thiếu những sáng kiến phải chấp nhận nặng nề đau đớn như sáng kiến yêu bằng tình thập giá.

* * *

Phải chăng trong cuộc sống dư giả vật chất, bận rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư. Một mảnh đời lẻ loi nào đó vẫn lạc lõng. Rồi trong đêm thinh lặng, lần rở vài trang Cựu Ước, tiếng lòng hồi sinh, gọi ông trả lại của cải thế trần cho trần thế. Trả lại ngay thẳng cho lương tâm. Hồn ông như có một thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi, đã mong. Ðiểm mang nhiều ý nghĩa là cuộc gặp gỡ này xẩy ra ngay trước khi Ðức Kitô vào Jêrusalem. Ngài sắp chết. Ðiều ấy có nghĩa rằng nếu không gặp được lần này, có lẽ Giakêu sẽ chẳng bao giờ gặp được Ðức Kitô nữa. Vì thế, ông nhất định đi tìm Ngài.


Thái độ của Chúa

Vì sự kiện Giakêu gặp Chúa xẩy ra ngay sau khi Chúa chữa người mù, trước khi vào thành Jêrusalem chịu tử nạn. Ðể tìm hiểu con người Ðức Kitô trong thái độ đi tìm nhân loại, mà điển hình là Giakêu, ta hãy liên kết hai câu chuyện trong một cái nhìn so sánh để thấy cả hai khung cảnh đều có những liên quan ý nghĩa mật thiết. Những tương quan giống nhau thật thú vị của những cuộc tìm nhau.

Người mù (Lc. 18: 35-43) - - - Giakêu (Lc. 19: 1-10)

Ngài đến gần Yêricô - - - - - - Ngài đi tắt ngang Yêricô

Có người mù ăn xin ở vệ đường - - - Có người thu thuế tên Giakêu

Hắn hỏi xem có chuyện gì thế  - - - Ông tìm cách để biết Ðức Yêsu là ai

Ðám đông quát bảo hắn im đi  - - -   Vì đám đông, ông không tới được

Hỡi con vua Ðavit, thương xót tôi  - - -   Leo lên một cây chờ Chúa đi qua

Ðức Kitô dừng lại - - - - - - - - - - - - - - Ðức Kitô nhìn lên

Ngài truyền cho dẫn hắn lại - - - - Ngài truyền cho ông xuống

Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi - - - Ơn cứu độ đã đến cho nhà này

Hắn thấy được và đi theo Ngài - - - Nửa phần của cải, tôi xin bố thí cho người nghèo. Nếu tôi gian lận, tôi xin đền gấp bốn.

Người mù gặp Ðức Kitô trước. Tiếp liền là Giakêu. Cả hai trường hợp đều xẩy ra ở cổng thành Yêricô. Nghĩa là Chúa sắp tới Jêrusalem để nhận thánh giá. Hai biến cố đều là những cơ hội sau cùng.

Cả hai trường hợp đều có đám đông. Nhưng đặc biệt, hai người nhận được ơn cứu rỗi là người đến từ đám đông, chứ không thuộc về đám đông.

Trong cái đám đông rừng người ấy, Ðức Kitô như vẫn lạc lõng. Cung đàn chưa bắt được độ rung. Trong cái đám đông rừng người ấy, có hai vì sao lạc: Người mù ngồi bên vệ đường, và kẻ thu thuế náu trên cây.

Cả hai trường hợp, đám đông đều là nguyên nhân cản trở. Người mù bị đám đông quát bảo: Im đi! Giakêu bị đám đông thù ghét.

Cả hai can đảm như nhau, người mù cứ la lên: Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi. Còn Giakêu thì liều mạng đi gặp Ngài. Với hai cái liều mạng ấy, xẩy cái liều mạng thứ ba: Liều mạng của Ðức Kitô.

Mọi người kêu trách: "Ông ấy vào ngụ tại nhà một người tội lỗi" (Lc. 19: 7). Một thân phận mù lòa, một kẻ thu thuế, một người bị kết án giao tiếp với hạng tội lỗi. Cả ba tâm hồn, họ bỏ lại đám đông, thản nhiên đi tìm nhau. Ðấy là hình ảnh của Nước Trời. Nước Trời như một cơn bão lốc, xoáy lên, làm ngơ ngác con người vì đi ngược lại dòng đời. Nét đẹp của Ðức Kitô là bất chấp cuộc đời dị nghị. Ngài trung thành với ơn gọi từ thủa ban đầu: "Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa phiêu bạt thế nào, cũng vậy, Ta sẽ chăm nom chiên Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi chỗ chúng tán loạn, và ngày mây mù đen tối" (Ezek. 34: 11-12).

* * *

Lạy Chúa,

Lời nguyện của con hôm nay là xin nhìn rõ cái liều mạng của Chúa dám đi ngược lại lời kết án của đám đông. Ðối với Chúa, không có gì cản được lòng xót thương của Chúa. Chỉ có lòng ước ao gặp Chúa thôi, mà Chúa dám bỏ tất cả để tìm gặp con. Con muốn hiểu lời diễn tả về Chúa trong thư thánh Phaolô gởi cho Timôthê:

"Ðức Kitô đã đến trong thế gian để cứu các kẻ tội lỗi, mà trong số đó, tôi là người thứ nhất" (1 Tim. 1: 15).


72. TÌM Ý CHÚA

Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh. Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.

Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình. Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy. Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.

Nghe là một nghệ thuật không dễ. Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian. Phải nghe nhiều lần mới quen. Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai. Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ. Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị. Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này. Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.

Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó. Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi. Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình. Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt. Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó. Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.

Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này. Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.” Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).

Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi. Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu. Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư. Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo. Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều. Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.

Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được. Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ. Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa. Họ nói bằng ánh mắt. Họ hiểu bằng tâm tư. Họ ngỏ ý bằng một chút hờn. Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận. Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh. Như vậy, ngôn ngữ của Chua cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu. Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở. Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.

Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu tố quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy. Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài. Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.


Không Quen Ngôn Ngữ

Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan. Không biết ai gọi. Không biết từ đâu đến. Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình. Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy. Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn. Tên trộm nào cũng ưa bóng tối. Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi. Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ. Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn. Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ dựa vào đàn chiên để sống nhờ. Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.

Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy. Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm. Hạng chiên không bao giờ gần chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa. Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm. Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.


Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn

Loại thứ hai này khá hơn. Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi. Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định. Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không. Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi. Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi. Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường. Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.

Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy. Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm. Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi. Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng. Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường. Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.


Nhận Ra Tiếng Chủ

Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này. Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm. Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an. Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối. Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi. Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được. Một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.

Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta. Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi. Họ có những quyết định chính xác, đúng. Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.

Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội. Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi. Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã. Giữ một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.

Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trọng, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm. Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm. Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn. Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lần tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện. Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an. Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.

Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng, vì thế ai cũng cần. Nhiều người không nhận định rõ nên đếm xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác, và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.

Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.

Tĩnh tâm không phải chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe. Tiếng Chúa có sức mạnh. Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.

Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện. Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện. “Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23). “Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12). Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện. “Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)

Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen. Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu. Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.

Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?


73. TINH HOA KINH THÁNH

Thôi trăng ạ trăng ơi đừng quyến luyến

Lệnh ban rồi giã từ thôi trăng ơi

Tình của ta là tình đất tình trời

Ta ôm mộng giang tay vòng thế giới


Hỡi trăng ơi, trăng ơi đừng chờ đợi

Một chuyến đi chuyến định mệnh cuộc đời

Giơ tay vẫy không bao giờ trở lại

Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng chờ đợi


Nếu tình trăng tình mênh mông vời vợi

Hãy chấp tay mỉm cuời với muôn sao

Chuông giáo đường sẽ ru em ngọt ngào

Tình sẽ đẹp sẽ nghìn thu óng ánh


Ðã chấp nhận thì phong ba gió lạnh

Ta cũng đi, ta sẽ đi miệt mài

Tay vẫn gọi ta hướng trọn tương lai

Về vùng đất có máu trời loang đổ


Trăng dịu hiền nhưng là hoa cám dỗ

Trăng không đến Adam đâu đau khổ

Cửa thiên đàng đâu đóng gõ cài then

Lời sám hối có bao giờ em tự thú?


Ta gối mộng giang tay tròn vũ trụ

Thì trăng ơi trong ánh mắt đưa duyên

Sao không biến thành tình yêu diệu huyền

Ðể hai đứa hân hoan tình cao cả


Ta muốn chết trên đồi cao thánh giá

Ta yêu lắm, yêu thiết tha vô cùng

Chiều Do thái có đau khổ lao lung

Có máu đổ cho tình sầu nhân thế


Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng kể lể

Dẫu vườn mơ đang phơi phới tầm xanh

Nhưng nụ hồng vẫn yếu đuối mỏng manh

Hãy tặng nhau mùa tình hoa kinh thánh


74. TÌNH YÊU và ĐAU KHỔ

Ðau khổ thường bắt đầu bởi yêu thương. Cũng như thường hiểu thế nào là chia ly khi đã có xum họp. Cho đi rồi đợi chờ, chờ đợi nhưng chẳng thấy vì thế mới có niềm đau. Yêu rồi khổ. Khổ đau đưa tới chân trời của nước mắt và mầu tím của cô đơn.

Nếu không có tình yêu. Nếu không có người yêu. Nếu tôi không yêu thì làm gì có khổ đau. Bởi đó, kẻ vì yêu mà đau khổ thì oán trách tình yêu, oán trách người yêu và oán trách chính mình. Nếu tình yêu tạo nên đau khổ thì muốn tránh đau khổ phải tránh yêu đương. Nhưng nếu lẩn tránh yêu thương thì đâu là ý nghĩa của cuộc sống?

***

Con sâu có thể làm cho cánh hoa mang thương tích. Nhưng nếu giết bầy sâu bằng cách cày nát cả vườn hoa thì là thảm cảnh đáng buốn. Vết cắn của sâu có làm cánh hoa đau đớn, nhưng nếu nhổ sạch vườn hoa thì khu đất sẽ thành hoang vắng, buồn tênh. Ðời tôi cũng vậy, có đau khổ vì một tình yêu nhưng tôi vẫn có hạnh phúc vì còn tình yêu. Ðau khổ của một tình yêu chỉ là một bông hoa bị sâu cắn trong khu vườn khả năng yêu thương của tôi. Chẳng có năng lực nào cản ngăn một bông hoa khác thắm tươi sẽ trổ sinh.

Tình yêu bàng bạc như thời gian nên tình yêu và cuộc đời là một. Không có sự sống nào mà không liên hệ tới yêu thương. Không muốn yêu để tránh đau khổ là không muốn có yêu thương. Mà không có yêu thương thì tự nó đã là một đau thương rồi. Không có khả năng yêu thương thì là gỗ đá, củi mục. Có khả năng yêu thương mà không được yêu thì sự bất hạnh còn đắng cay hơn là đau khổ của tình yêu. Lẩn tránh đau khổ bằng cách oán trách tình yêu và chối từ yêu thương là đi tìm một khổ đau lớn hơn.

Có một con đường, tuy có vất vả nhưng vô cùng bát ngát, mênh mông là hướng về Ngài, Thượng Ðế, tình yêu trọn hảo để đem những khổ đau của mình hòa vào biển rộng yêu thương ấy. Nếu tình yêu có gây đau khổ thì biến đau khổ thành sáng tạo để rồi tiếp tục yêu. Chỉ có tình yêu tuyệt hảo là không nhuốm màu đau khổ. Ðau khổ của tình yêu đến từ yếu đuối và lầm lẫn. Bởi vậy, chỉ có tình yêu không lầm lẫn và yếu đuối của Thượng Ðế mới trọn vẹn vô biên.

Vì yêu mà tôi đau khổ thì có thể vì đau khổ mà tôi biết yêu thương?

***

Kẻ chạy trốn tình yêu, thực ra, là kẻ đang tìm tình yêu mãnh liệt. Kẻ oán trách tình yêu, thực ra, là kẻ đang yêu vũ bão. Không ai trốn tình yêu để rồi không yêu mà chỉ trốn tình yêu này để đi yêu một tình yêu khác.

Tình yêu vô hình nên không oán trách tình yêu được mà chỉ có thể oán trách người yêu thôi, nhưng khó mà chỉ oán trách người yêu mà lại không gây thương tích cho mình. Liên hệ giữa người yêu và kẻ yêu là liên hệ gắn bó, phức tạp. Khi yêu thì kẻ yêu và người yêu đi chung một con đường. Bởi đó, không có sự lạc lối nào mà không ảnh hưởng cả hai. Không có mất mát nào mà chỉ có một người gánh chịu.

Khi nói rằng mối liên hệ ấy bị cắt đứt chỉ có nghĩa là họ không còn đi chung đường. Không đi chung một đường không có nghĩa là đã thoát được mọi ràng buộc. Nhiều khi càng cay nghiến thì lại càng nhớ thương mà càng nhớ thương thì lại càng cay nghiến. Vì thế, khi mối liên hệ bị dập gẫy, bị cắt đứt cũng chưa hẳn là kẻ yêu và người yêu xa cách được nhau.

Khi nào chưa quên được vết thương thì lúc đó vẫn còn là gần gũi. Khi nào còn thao thức thì vẫn còn liên hệ. Nếu còn liên hệ thì oán trách người yêu cũng vẫn là oán trách chính mình. Càng oán trách bao nhiêu thì nỗi đau càng sâu.

Tuy còn ràng buộc, còn thao thức, nhưng vì không đi chung một đường nữa nên cũng có nghĩa là ly biệt. Khi đã tạ từ, khi người yêu đã đi xa thì chỉ còn mình là gần mình thôi. Chỉ còn mình biết rõ nỗi đau của mình thôi. Vì người yêu đã cách xa nên oán trách người yêu cũng chẳng làm cho người yêu đau khổ. Chỉ riêng mình chịu. Vì thế, người yêu có thể gây gây đau khổ, nhưng sau đó chính mình lại là kẻ nuôi dưỡng vết thương khổ đau ấy cho thêm lớn và thêm sâu.

Giã từ. Xin để cho cánh chim muốn bay hãy bay xa. Nó chẳng thuộc về mình và cũng chẳng xứng đáng với tình yêu mình ban tặng.

***

Tình yêu của chủ thể yêu có thể biến đổi khách thể yêu. Ánh mắt khổ đau nhưng khoan dung và tha thứ của Chúa đã biến đổi đời Phêrô. Thái độ của khách thể khi đón nhận tình yêu cũng tác động con tim của chủ thể yêu. Chúa đợi chờ Mai Ðệ Liên. Nàng đã đáp lại bằng những sợi tóc ăn năn. Chính vì sự đáp lại ấy mà Chúa đã nói: Kẻ yêu nhiều thì được tha nhiều.

Chẳng ai sống mà lại không yêu thương. Nếu không muốn yêu thì họ phải có khả năng yêu để yêu cái không muốn yêu. Như vậy thì cũng đã là yêu rồi. Yêu là yêu ai. Thương là thương người nào. Không có tình yêu trống không . Như vậy tình yêu cần đối tượng. Ðối tượng là cảm hứng cho tình yêu. Tuy nhiên, nếu không có chủ thể yêu thì đối tượng cũng là vô nghĩa.

Cả chủ thể yêu và đối tượng yêu đều là con người bất toàn vì tội lỗi. Bởi tội, con người không còn tuyệt hảo, họ sống trong thiếu vắng. Không có hạnh phúc vô cùng thì họ không thể chỉ cho đi mà không hao mòn. Bởi thiếu vắng nên họ cần được đáp lại để đỡ mòn mỏi, khát khao. Khi yêu, tôi cần được tình yêu đáp trả. Nếu tôi cần tình yêu của người để sống thì yêu người cũng chính là yêu tôi. Và nhiều khi tôi yêu tôi hơn là yêu người. Tôi yêu người, muốn chiếm người để khỏa lấp nỗi cô đơn trống vắng trong tôi. Như vậy thì tình yêu của con người dù đẹp đến đâu, thơ mộng đến đâu cũng vẫn thường mang mầm ích kỷ. Nếu có ích kỷ thì làm sao tránh được gây khổ đau cho nhau.

Càng xa ánh sáng càng nhiều lạnh lẽo, càng lắm bóng đêm. Cũng vậy, càng xa Chúa là tình yêu tuyệt hảo thì tình yêu của con người càng lắm bất hảo.

***

Con người được dựng nên bằng tình yêu nên đau khổ không có năng lực giết chết được khả năng yêu thương. Và cái kỳ diệu của cuộc sống là yêu thương có thể nẩy sinh từ đau khổ. Nhiều nhánh hoa tình yêu đã rộ nở sau những đêm dài của khổ đau. Sau đau khổ, cây tình yêu có thể tái sinh và tình yêu nào khi đã đi qua lăng kính của đau khổ thì thường bao giờ cũng sâu thẳm, khác biệt.

Nếu chỉ có tình yêu không có đau khổ thì tình yêu không có đối tượng để trang điểm. Tôi hiểu thế nào là yêu thương bởi trong tôi đã có sẵn khả năng để hiểu thế nào là đau khổ. Làm sao xác định được ánh sáng nếu không có bóng đêm. Chối từ khả năng đau khổ thì cũng chẳng còn khả năng yêu thương nữa. Nếu gọi tình yêu là bông hoa. Nếu bảo cánh bướm là khổ đau vì bướm chỉ hút mật của hoa. Nếu bông hoa chối từ cánh bướm thì vườn hoa cũng cô đơn vì chẳng còn ai để đỏm dáng. Nếu cánh bướm đã làm cho vườn hoa thêm tươi thì có thể bảo đau khổ cũng làm cho tình yêu thêm sâu?

Càng đau khổ tôi càng biết giá trị của yêu thương. Ðau khổ dạy cho tôi thế nào là lầm lẫn, thế nào là mất mát, thế nào là yếu đuối. Nhận thức được sự yếu đuối của mình để hiểu sự yếu đuối của người. Có cay đắng của mất mát để đừng làm kẻ khác mất mát. Khi hiểu sự lầm lẫn của người gây đau khổ cho tôi để biết rằng sự lầm lẫn của tôi cũng gây đau khổ cho người thì đấy là con đường thức tỉnh, là lối đi dẫn tới yêu thương. Như vậy, đau khổ có là tặng vật trong cuộc đời?

***

Khi yêu, tôi không chờ đợi một suối đời ngát trong. Tôi không ước mong một dòng sông thời gian không gợn sóng. Yêu là tôi biết rằng sẽ có khổ đau. Ðau khổ có thể làm cây tình yêu rụng lá. Nhưng sau đó, cây tình yêu có thể trổ sinh mầm non ngọc bạc lấp lánh. Giá trị đời tôi được xác định do thái độ của tôi đối với đau khổ và tình yêu, chứ tình yêu, đau khổ, tự nó chẳng có ý nghĩa gì.


75. TÌNH YÊU và HÔN NHÂN

Ý nghĩa sâu thẳm của tình yêu được minh chứng bởi xa cách, vắng mặt hơn là xum họp?

Khi con tàu chuyển bánh thì bến ga cũng nhạt nhòa, bởi đấy, xa nhau, người ta thường quên nhau. Tàu đi rồi, bến ga có thể chơ vơ trong sương bụi chiều hôm, nhưng đường tàu vẫn còn đó. Nếu xa nhau mà vẫn nối dài mến thương, như đường tàu trung thành làm dòng máu luân hoán yêu thương giữa con tàu cách xa và bến đỗ mong chờ, thì đấy mới là yêu thương đích thực.

Chia ly, tình yêu dễ bụi mờ, bởi trong xa cách là lúc tình yêu lên cao vút trên quãng đời mênh mông những lựa chọn, là lúc tình yêu xuống thẳm sâu dưới lũng đồi cám dỗ.

Hạnh phúc tạm dung thì bắt buộc phải gần gũi, vì hạnh phúc ấy không được thụ thai bởi tình yêu vượt núi đồi mà là hoa trái của khu vườn gần gũi. Hạnh phúc ấy bị vây bọc bởi bến ga chật hẹp. Do đó, vắng mặt người này, xa cách người kia, tình yêu biến dạng và phai màu. Ðấy là hạnh phúc của con tàu khi cập bến đỗ chứ không phải yêu thương của đường tàu nối dài viên miễn.

Nếu tình yêu được sinh bởi chọn lựa trong tự do, thì có thể mịt mùng xa cách, có thể thăm thẳm chia xa mà vẫn rực rỡ trong không gian. Chọn lựa là bao hàm từ chối. Chối từ là dứt bỏ. Dứt bỏ nào cũng thường có phần xót xa. Chính vậy, tình yêu trong tự do là tình yêu có ray rứt giữa những giằng co của lựa chọn, là tình yêu có đau khổ của một chối từ. Chính Thượng Ðế cũng đã đớn đau trước giờ chọn lựa:"Lạy Cha, nếu được, xin Cha cất chén đắng này cho con" (Mk. 14:36). Người yêu cần tự do để xác định tình yêu của mình. Ðau khổ của chối từ, ray rứt của chọn lựa minh chứng sự cao cả của tình yêu mình dành cho người yêu.

Tình yêu không tách rời khỏi thời gian, mà thời gian thì luôn luôn đổi mới, bởi thế, tình yêu không thể chọn lựa một lần là xong, cưới nhau một lần là đủ, mà tình yêu cần được rửa tội mỗi ngày, cưới nhau mỗi sáng. Chính mặt trời còn lột xác, khai sinh sau mỗi đêm đen, cho nên hôn nhân là tái xác nhận chọn lựa không ngừng.

Vì sự bất toàn của mình, con người không thể có một lựa chọn hoàn hảo tuyệt đối. Hôn nhân là chọn một người tình và chối từ những người tình khác. Nhưng bởi sự bất toàn, nên chọn lựa đó chẳng thể trọn vẹn, cho nên từ sâu thẳm trong căn hầm tham lam, đôi lúc họ khổ tâm vì mất mát do những mối tình khác mà họ phải chối từ. Họ bất toàn nên không thể cho nhau sự hoàn hảo. Từ đấy, họ mơ màng một tình yêu nào đó ngoài tình yêu mà họ đã lựa chọn, cho nên sự trung thành là thử thách lớn lao của tình yêu hôn nhân.

Yếu tính của trung thành là khả năng có thể vượt qua rừng sâu, trèo qua núi đá, có thể song hành với thời gian, và thế, tình yêu phát sinh từ sự trung thành sẽ bát ngát như vũ trụ và thênh thang như núi đồi.

Trong tình yêu, ràng buộc chính đáng nhất là hãy để nhau lớn lên trong tự do. Ý nghĩa cao cả của tự do là thành thực với chính mình và ngay thẳng với người tình. Hãy cho nhau tự do nhìn khuôn mặt thật của nhau. Ðừng tạo nên giá trị của mình bằng cách để người tình ngưỡng mộ những điều mình không có.

Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta mới nói đến chinh phục. Có khó thì mới phải chinh phục, nên khi chinh phục người ta dùng mọi tài năng. Trong những tài năng tích cực, có một thứ tiêu cực là tạo ra một hình ảnh đẹp, nhưng không đúng với con người thật của mình.

Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta nói đến tiếng sét ái tình. Ðã mê hoặc thì phải chiếm đoạt, nên chiếm đoạt trong tình yêu bao giờ cũng pha trộn mù quáng. Cần phải chiếm đoạt, nên người tình thường biện minh, rồi gán cho người yêu những đặc tính mà người yêu không có.

Tạo ra giá trị mình không có là lừa tha nhân. Gán cho tha nhân giá trị họ không có là lừa mình. Cả hai thái độ đều nguy hiểm như nhau. Cả hai thái độ đều là xây dựng giá trị trong thiếu tự do, lầm lẫn. Lầm lẫn không biến đổi bụi than thành kim cương, đá cuội thành ngọc qúy. Sớm muộn gì rồi cũng khám phá ra con người thực của nhau. Ngỡ người tình là kim cương, nhưng thực tế là đá cuội. Thất vọng, ở đó, bắt đầu nẩy sinh. Trung thành, từ đấy, bắt đầu lung lay. Tình yêu sống bởi sự thực, thiếu vắng sự thực tình yêu sẽ u buồn, ủ dột. Thiếu sự thực, tình yêu không còn là cây leo hạnh phúc trong mùa xuân, mà là bủng vàng xanh xao.

Hôn nhân là loài tằm chất phác và kiên nhẫn. Là loài dâu thật thà biết hy sinh. Là tằm, là dâu, chúng chung khúc yêu thương, âm thầm, gắn bó với nhau, góp nhặt hạnh phúc, chúng nhả tơ, dệt lụa óng ả cho đời.

Còn tình yêu của bầy ong với đám hoa cải, cho dù dẫu dễ thương đến đâu chăng nữa, trên da mặt chúng vẫn là mơ màng quyến rũ tình yêu bằng đỏm dáng, và thèm muốn tình yêu qua mật ngọt. Bởi đấy, chỉ là hạnh phúc bấp bênh.

Luống cải kia, cánh ong đó đã nghèo nàn hóa tình yêu của nhau bằng chiếm hữu. Chúng hạn chế hạnh phúc của nhau vì đánh giá tình yêu qua duyên sắc bên ngoài mà thôi. Tình yêu của cả hai đã thai nghén trong thiếu tự do vì sự hiểu biết bị lừa gạt, lòng thật thà bị lãng quên.

Như thế, khi mùa cưới đến, lúc tình yêu của chúng sáp lại. Khi thèm muốn và chiếm đoạt đã theo dòng thời gian thiếu thật thà ấy mà trưởng thành thì cũng là lúc buồn chán đã sẵn chờ đàng sau môi hôn.

Chúng nô lệ hóa nhau mà gọi là tự nguyện.

Chúng mang thương tích nhưng phải gọi là nỗi thương đau dịu dàng.

Chúng trao nhau tình yêu thể nào thì tình yêu cũng dầm bập chúng thể ấy. Bởi, chúng đã dệt tổ yêu thương bằng tơ lụa gấm vóc hơn là sự hiểu biết. Chúng nhìn tình yêu qua nhan sắc hơn là tâm hồn.

Có người hỏi: Sao các đôi tình nhân lại nhắm mắt mỗi khi hôn nhau?

·  Có phải, dẫu trong tha thiết thế nào, họ vẫn yêu một phần bóng tối?

·  Có phải, dẫu trong hạnh phúc sóng sánh đến đâu, cũng vẫn có một phần thiếu thật thà?

Nếu họ bất tòan, nếu họ chẳng thể trọn vẹn trao nhau thì sao họ lại mơ ước "tôi hóa" tha nhân? "Tôi hóa" tha nhân là bắt tha nhân nên giống như mình. Ðấy là tình yêu ích kỷ, là tàng tật hóa người yêu. Người yêu là của mình, nên khi tàng tật hóa người yêu thì cũng là tàng tật hóa chính hạnh phúc của tôi.

Kẻ muốn đồng hóa tha nhân trong tình yêu là những đôi tình nhân yêu nhau hơi gặp hơi, thở gặp thở mà vẫn như mênh mông xa cách, vẫn như khắc khoải kiếm tìm. Họ khắc khoải kiếm tìm vì chẳng bao giờ con người có thể "tôi hóa" được nhau. Bắt người khác giống mình là hủy diệt tự do và bản tính của người đó, càng bắt họ giống mình bao nhiêu thì sự hiện hữu của họ càng mất đi bấy nhiêu. Tôi muôn đời vẫn là tôi. Tha nhân nghìn đời vẫn là tha nhân.

Nếu tha nhân là tha nhân, tôi là tôi, thì làm sao có thể nên một trong tình yêu như lời Kinh Thánh mong mỏi?

Kẻ nên một trong tình yêu là những đôi hôn nhân đem sự khác biệt của nhau làm nên phong phú của một kết hợp. Khi nói nên một thì phải chấp nhận là đã có hai. Làm sao có kết hợp nếu không có khác biệt. Như thế, khác biệt đã là điều kiện cần thiết cho kết hợp. Trong ý nghĩa đó, khác biệt phải có một giá trị tự nó. Kết hợp không biến hóa nguyên thể của các khác biệt mà là một luân vũ nhịp nhàng. Ðó là một hoà âm trầm bổng của các đơn thể khác nhau chứ không phải là đơn điệu. Ðó là kết hợp của âm nhạc, của vũ trụ, của tình yêu. Kẻ lớn lên trong tình yêu hợp nhất là những đôi uyên ương nửa bên bờ đại dương, nửa trên "cánh đồng nước mặn" Việt Nam mà tình yêu của họ vẫn chập chùng qua biển cả, bàng bạc qua không gian.

Con tàu chỉ tới bến trên tuyến đường sắt song hành. Sự nên một của tuyến đường là cùng sóng đôi chứ không phải là cùng chạm nhau. Mất sự sóng đôi, con đường đánh mất bản tính của mình. Mất sự song hành thì tuyến đường không còn là tuyến đường nữa, bởi, sự hợp nhất căn tính của nó hệ tại cùng sóng đôi đi về một hướng.

Hôn nhân là nên một trong tình yêu. Nên một trong tình yêu là nên một trong hòa đồng chứ không phải nên một bằng đồng hóa.

Kinh Thánh bảo: Phải nên một!

Ôi! đâu là ý muốn thâm sâu của Thượng Ðế.

Cẩn thận! Nếu không đấy chỉ là những lời lừa dối mà thôi. Bởi, chính trên bàn thờ mà hai cây nến cũng có bao giờ dám cháy cạnh nhau đâu.


76. TRANG HỒI KỲ CỦA TÒA GIẢI TỘI

Ngày 10 tháng 6 năm...

Tôi là một tòa giải tội bằng gỗ. Tôi đứng ở đây lâu lắm rồi. Năm tháng đi qua với dòng đời đổi thay, tôi đứng đây nhìn cuộc đời. Trải qua mấy thế hệ, những người cùng thời với tôi đã từ giã cõi đời từ lâu. Thế hệ này sang thế hệ khác, tôi chứng kiến những đổi thay trong cái họ đạo này. Ðời tôi là vô vàn những trang hồi ký.

Cuộc gặp gỡ nào cũng là một lịch sử. Biến cố nào cũng có ý nghĩa. Dòng chữ tôi đang viết đây là một mẩu ngắn trong dòng thời gian đó. Chuyện hai con chuột nhắt nói với nhau. Câu chuyện của chúng nó có liên quan về tôi.

Con chuột cạnh bờ tường lên tiếng:

- Kỳ này mày có khỏe không?

Con kia trả lời:

- Nhức đầu quá!

Chúng tiếp tục câu chuyện. Tôi là tòa giải tội, tôi lắng nghe. Con cạnh bờ tường nói:

- Tao cũng nhức đầu quá.

- Tại sao vậy?

- Nhà tao ở, suốt đêm lúc nào cũng karao ôkê!

- Khu chung cư của tao thì chúng ồn ào, ôi thôi là ồn ào. Hết đám con nít khóc, lại đến người lớn cãi nhau. Chán mớ đời!

- Thế trước đó mày ở đâu?

- Tao đổi nhà bao nhiêu lần rồi, chỗ nào cũng chỉ được vài hôm.

Con chuột phía bên kia cúi xuống gặm chân. Miếng báo cũ nó tha về đã trải gọn gàng. Nó thở dài rồi lại tiếp tục câu chuyện:

- Cuộc sống hôm nay phức tạp quá, suốt ngày ồn ào. Người lớn cũng vậy, con nít cũng thế, chúng không bao giờ biết thinh lặng. Tao tìm hết nhà này đến nhà kia, chỗ nào cũng rứa. Khó ngủ quá. Tao từng ở ngoài chợ, rồi kho hàng, nhà chùa, rồi nhà thờ, bây giờ thì ở gầm cái tòa giải tội này.

- Mày nghĩ chúng ta sẽ được yên thân nơi này không hay cũng bị mất ngủ?

Tôi chưa viết về sự cố vì sao hai con chuột nhắt này lại gặp nhau ở đây. Bắt đầu là thế này. Ngày xửa ngày xưa ở cái tòa giải tội này, tôi lúc nào cũng bận rộn đón người qua lại. Sáng, chiều, có một cha già, chẳng mấy khi không ngồi ở đây đón tín đồ. Lúc ấy khác bây giờ lắm, nhà thờ vang câu kinh, người lớn, con nít, ôi thôi đủ là hát xướng, vui ơi là vui! Hồi ấy người ta sốt sắng đạo đức, chiều kinh tối, sáng thánh lễ, lúc nào cũng có người ra vào tòa giải tội. Thế rồi từ từ lòng người thay đổi, cha già chết đi. Những người cùng thế hệ tôi cũng vậy. Sau cùng, tôi là chiếc tòa giải tội vắng khách. Mạng nhện giăng đầy. Bụi bắt đầu mờ. Chả thấy ai quét bụi nữa. Tôi là tòa giải tội đứng buồn hiu như một chợ chiều không còn người. Nghĩ mà nhớ những ngày tháng xa xưa. Tôi chả quên được dĩ vãng nhiều kỷ niệm ấy.

Rồi một con chuột già đi ngang qua, thấy yên tĩnh lạ thường, nó dừng lại đôi ngày rồi khám phá ra cái không gian chẳng bóng người qua lại này. Sau cùng, nó vô cùng thích thú chọn nơi đây làm quê hương dưỡng già, ngủ ngon giấc. Yên tĩnh lắm. Con chuột ấy thế mà tinh khôn. Nó chui vào đây ở thảnh thơi cho đến ngày biết sắp qua đời, nó nhường lại khu vực êm ả cho hai con chuột nhắt.

Hai con chuột nhắt nói chuyện lúc nãy mới dọn vào đây đấy. Chúng còn ngỡ ngàng lắm. Thôi, bây giờ tôi kể tiếp về hai con chuột nhắt nói với nhau:

- Ừa, tao nghĩ nơi đây sẽ yên tĩnh và chúng ta sẽ ngủ ngon!

- Sẽ không bị bước chân người quấy phá như ở ngoài đời!

Hai con chuột nhắt cười đùa khoái chí. Chúng đố nhau:

- Ðố mày chúng ta sẽ được yên tĩnh bao lâu? Một tuần? Một tháng? Hay một năm thì lại có người vào đây?

Con chuột nhỏ hơn trầm ngâm một chút rồi gục gặc cái đầu. Nó không trả lời mà đối lại con kia bằng câu đố khác:

- Ðố mày ai là kẻ đầu tiên vào đây phá giấc ngủ chúng ta? Người hay lại là gã mèo già tìm nơi yên để ngủ?

* * *

Ngày... tháng....năm....

Ðã lâu không có ai vào đây, nhưng một mùa Chay nọ, câu chuyện xảy ra.

Người thanh niên ngồi dưới cuối nhà thờ lâu lắm. Người ấy đến đây mấy lần, chỉ ngồi trong nhà thờ thôi, không vào đây. Tôi là tòa giải tội lâu ngày không có người vào. Tôi cầu nguyện, tôi xin cho có một người vào đây với Chúa đi. Cây thánh giá treo trên tường cũng bụi bám, vắng thật vắng. Tôi cầu nguyện nhiều, và sau cùng, tôi thấy anh ta từ từ bỏ ghế ngồi đi lên. Lòng tôi hồi hộp cầu nguyện thêm, tôi xin cho anh đừng bỏ cuộc. Rồi, người thanh niên đến gần, ngó vào tòa giải tội, ngại ngùng. Tôi lại lấy hết tâm hồn cầu nguyện cho anh. Dáng đi của người thanh niên vất vả, có ai kéo anh lại? Tôi cầu nguyện thêm, cầu nguyện thêm. Sau cùng, người thanh niên giơ tay đẩy nhẹ cánh cửa, bước vào.

Tôi là tòa giải tội ở đây qua bao nhiêu thế hệ, gần trăm năm nay rồi còn gì, từ thế hệ cha ông của những người trong họ đạo này cơ mà. Như tôi viết ở trên, tôi chứng kiến rất nhiều thăng trầm của cuộc đời. Nhất là nhìn thấy không biết bao nhiêu biến cố lạ lùng đã xảy ra. Trong góc nhỏ nhà thờ này mà chứa không biết bao nhiêu phép lạ. Vì những phép lạ ấy rất hạnh phúc, rất riêng tư nên người ta muốn giữ kỷ niệm đó cho riêng mình, ít người nói ra.

Người thanh niên nói với Chúa:

- Lạy Chúa, mỗi lần đến với Chúa qua tòa giải tội này là đời con được tái sinh, con hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, sao con vẫn cứ ngại ngùng hả Chúa?

Trên bóng thánh giá, Chúa nhìn người thanh niên trả lời:

- Con ạ, ma quỷ rất sợ tòa giải tội. Nơi đây là trận chiến thảm bại nhất của nó. Con có kinh nghiệm mỗi lần đến với Cha rồi ra về, lòng con vui hơn, cuộc đời nhẹ thênh thang, nhưng con vẫn ngại vì ma quỷ không muốn buông tha một người đang trên đường thuộc về nó. Lúc nào con ngại tòa giải tội là lúc ma quỷ gần con nhất. Nó đang giữ chân con lại. Chính lúc đó là lúc con lại cần tòa giải tội hơn lúc nào hết.

- Thưa Chúa, Chúa biết mọi tội con rồi sao con lại còn phải đến đây, sao Chúa không tha cho con đi?

- Con rất yêu quý của Cha, con hiểu lầm tình yêu của Cha trong tòa giải tội này rồi. Lòng của Cha luôn bao dung. Con không nhớ trước khi người con hoang đàng trong Phúc Âm trở về thì cha nó đã mong chờ nó rồi sao? Mong nó về là tha thứ hết rồi. Cha nó có hỏi tội nó đâu? Trước khi con đến đây, ngay khi con phạm tội, hôm đó lòng Cha buồn khôn tả. Con phạm tội xong, con bước đi u buồn lững thững, con giấu diếm Cha, con giấu diếm người chung quanh. Cha thấy thương con quá đỗi. Cha tha cho con ngay hôm đó rồi.

Người thanh niên im lặng lắng nghe. Anh trầm ngâm suy nghĩ. Một phút tĩnh mịch trôi qua. Lòng nhà thờ có con chim sẻ kêu chim chíp. Chúa thấy người thanh niên im lặng, Ngài nói tiếp:

- Cha chán tội, Cha không muốn nghĩ đến tội. Cha chỉ nghĩ đến tình thương và sự đau khổ. Cha thấy con lầm lũi đi, con không dám nhìn trời, con giấu diếm Cha. Con rước lễ mà lòng con chán ngán. Cha biết con đau khổ. Cha nghĩ đến khổ đau trong con. Con ạ, con là con của Cha.

Chúa mới nói tới đó thì người thanh niên cúi xuống tay ghế quỳ chảy nước mắt. Con chim sẻ bay ngơ ngác với tiếng kêu nhiêm nhiếp. Trong dòng nước mắt, người thanh niên cố nói như muốn trách Chúa thêm:

- Thế sao con lại phải đến đây?

- Con yêu quý, như con thấy, chỉ khi nào người con hoang đàng trở về nhà thì nó mới có ăn. Nếu không về, nó chết đói bên bầy heo. Cho dù người cha tha lâu rồi, nhưng không về nó vẫn chết vì đói. Sự tha thứ đã được ban ra, nhưng để lãnh nhận con phải giơ tay. Nhà cha có cơm gạo nhưng con sẽ đói nếu không ăn. Con hiểu ý của Cha không?

Cũng như chiều nay, khi con ngồi trầm ngâm trong nhà thờ, Cha thấy con, Cha thấy rõ con. Cha tha cho con lâu rồi. Cha tha cho con ngay khi con bước đi buồn bã vì tội trong con. Cha thương và Cha tha ngay.

Trong tiếng xót xa, người thanh niên hỏi Chúa:

- Cha tha mà sao lòng con cứ bối rối hoang vu?

- Con ạ, con không thể cảm nghiệm được tình thương của Cha cho đến khi con giơ tay lãnh nhận. Huyền diệu của tình yêu là chỉ khi nào người kia lãnh nhận thì tình yêu ấy mới thật sự thành tình yêu. Sự cao cả của tình yêu là tự do nên tình yêu không bao giờ đến từ một chiều. Khác biệt huyền diệu của tình yêu và sự thù ghét là sự tự do ấy. Khi thù ghét, người ta dùng bạo lực bắt người kia đau khổ. Tình yêu thì không, phải có người nhận tình yêu mới là tình yêu. Tình yêu cho đi mà không người nhận, tình yêu lại trở về với người đã trao ban. Người con hoang đàng không trở về sẽ không cảm nghiệm được sự tha thứ, không cảm nghiệm được tình thương của cha. Cho dù người cha có đẩy tình thương và sự tha thứ đi tìm kiếm nó, cũng sẽ không gặp nó.

Người thanh niên lắng nghe, quỳ im lặng. Tôi là tòa giải tội. Mỗi lần xảy ra như thế, lòng tôi hạnh phúc xót xa. Trong tôi có vui lẫn bùi ngùi. Trong xót xa có cái tiếc nuối, có thương tội nghiệp, có thật thà. Tôi mong có người đến với tòa giải tội là thế. Nơi ấy giữa Chúa và người ta gặp nhau cách kỳ diệu nhiệm mầu. Rồi người ta ra về với một trời mới, đất mới. Cỏ cây xanh tươi. Nắng chan hòa ấm cúng trong lòng người. Cứ mỗi lần chứng kiến như thế, đời tôi cũng hạnh phúc vô cùng. Vì thế, tôi cứ muốn làm tòa giải tội ở đây, dù cả tháng chỉ có vài người tới, tôi vẫn cứ muốn ở đây. Tôi lắng nghe tiếp Chúa và người thanh niên đang nói chuyện:

- Con đến tòa giải tội không phải tìm sự tha thứ mà để cảm nghiệm sự tha thứ. Cũng như người con hoang đàng, không phải về để cha tha, mà để cảm nghiệm sự tha thứ và được sống.

Ngày con phạm tội, con ơi, con bước đi u buồn, con không dám nhìn Cha. Trên thập giá, Cha nhìn xuống tội nghiệp con. Về phần Cha, Cha luôn tha thứ cho con. Cha đẩy sự tha thứ đi kiếm tìm con. Nhưng để cảm nghiệm tình yêu ấy vào trong hồn con, lại tùy ở con có về để lãnh nhận hay không.

Con yêu dấu, khi con đến tòa giải tội giơ tay lãnh nhận, tình yêu là ơn cứu độ trên bàn tay mang dấu đinh ở cây thánh giá này đổ xuống tay con.

Cha quý ơn sủng của Cha vì bàn tay Cha rất đau, nên khi cho ai ơn sủng ấy Cha nhớ người đó mãi. Con có thể quên ngày hôm nay, cũng như con đã quên những lần xưng tội trước vì khi lãnh nhận con chỉ giơ tay. Tay con không đau như tay Cha. Còn Cha, Cha không thể quên con vì tay Cha đã rất đau đớn với ân sủng này.

Con ơi, khi cho người nào ân sủng ấy, Cha nhớ người đó.

Con chim sẻ lại bay. Nó ngơ ngác như muốn tìm một đường bay nào đó mà không rõ. Tiếng kêu chim chíp vang trong lòng nhà thờ vắng. Người thanh niên vẫn cúi đầu, nói với Chúa:

- Lạy Cha, xin thương xót con. Xin cho con cảm nghiệm được tình thương của Cha.

Chúa nhìn người thanh niên, chậm rãi nâng bàn tay rất đau đớn, ôm người thanh niên. Người thanh niên cúi đầu lãnh nhận. Tôi thấy mắt người thanh niên rướm lệ. Còn tôi, chiếc tòa giải tội gỗ, tôi lại chứng kiến một trời mới và một mùa xuân thiêng liêng mới đang nở trong lòng nhà thờ.


77. TRÊN ÐƯỜNG VỀ

Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.

Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn.

Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.

Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.

* * *

Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.

Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.

Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.

Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.

Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.

Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.

* * *

Lạy Cha,

Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian. Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê. Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm. Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối. Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh. Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới. Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn. Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa. Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.

Lạy Cha,

Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về.

Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau? Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách? Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã? Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu. Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi. Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi. Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới. Và Ngài đã nói với tôi: "Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28: 20).

Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.

Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.

Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.


78. TRỞ VỀ

Nói trở về là nói tới mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Cái khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.

Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.

Ðọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Tin Mừng, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho chính những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.

Bản văn không nói rõ lý do nào làm con chiên đã lạc đàn. Dụ ngôn chỉ nói "Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con" (Lc. 15: 4). Nguyên do nào làm nó lạc? Ta thấy có hai nguyên nhân. Một là nó bỏ đàn đi vì lầm lỡ đồi cỏ dại là hạnh phúc. Có thể nó bỏ đàn đi vì theo chủ thì dài và vắng vẻ, nó thích tiếng ca của bầy chồn hơn. Có thể trên những quãng đời nắng khát hạnh phúc nó đã bị giọng nói tinh vi của Satan lừa gạt. Lý do thứ nhất này nó sa ngã vì những cám dỗ.

Giữa những nguyên nhân lạc xa đàn, có khi nào nó bỏ đàn vì những con chiên khác trong đàn? Nghĩa là vì sự kết án, chia rẽ, phe nhóm ngay trong xứ đạo. Từ những nguyên nhân này làm con chiên tách xa đàn, rồi mới đi tới lạc đàn. Lý do thứ hai này là điều ta thử tìm hiểu.

Nhìn vào lịch sử, vết thương buồn vẫn còn là dấu chứng: Ðã bao lần chúng ta kết án nhau! Trong tiến trình ý thức về tội, Adam bảo tại Evà mà ông ta phạm tội. Evà bảo tại con rắn mà bà sa ngã (Stk. 3: 12-13). Không ai có nước mắt ăn năn. Không ai nhận rằng tôi phải trở về. Chỉ có kẻ khác phải trở về.

Hôm nay, trong đời sống thiêng liêng, có những linh hồn cũng đã phải xa xứ đạo của mình vì sự mất bình an giữa cộng đoàn tín hữu của họ. Nơi đây không phải là nhà. Nơi đây chẳng có lý tưởng. Có người phải sống mặc cảm dưới cái nhìn rẻ rúng của những kẻ chung quanh. Những tiếng xầm xì về một lỗi lầm của quá khứ. Những nghi kỵ về một xét đoán mù mờ, những thêu dệt về một sự thật không đúng sự thật. Có những góp ý xây dựng những đổ vỡ, nhưng lại đề cập đến khuyết điểm của kẻ khác để vì cái khuyết điểm ấy mà mình được nổi hơn. Có những cạnh tranh vì tháp nhà thờ mình phải cao hơn tháp nhà thờ bên cạnh. Có nhiều cuộc phải lên đường trở về vì có nhiều thứ xa Chúa. Mà xa Chúa nhất là xa Chúa ở trong đền thờ.

* * *

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm (Yn. 8:1-11) cũng là câu chuyện của bao nhiêu cánh cửa tâm hồn khắc nghiệt với nhau hôm nay. Lạc lối buồn bã nhất là ảo tưởng tiên tri thấy mình phải chỉ lối cho người lạc lối. Vì phải đi tìm chiên lạc nên không thấy mình lạc. Ðó là thái độ của các Biệt Phái. Chúa rộng lượng thứ tha. Ngài nâng lên cây sậy bị dập. Ngài che đậy ngọn đèn sắp tắt. Nhưng con người đối với nhau lại khắc nghiệt. Người thiếu nữ ngoại tình ấy đi tìm một miền đất để sống. Chẳng còn vùng trời nào khác ngoài sự đau khổ. Vì gian truân nên muốn đến với Chúa, cửa nhà thờ mở ngõ nhưng cửa tâm hồn người coi nhà thờ khắc nghiệt.

Có những tâm hồn vì yếu đuối đã sa ngã, Chúa thương băng bó vết thương, nhưng người chung quanh không để cho lành. Người phụ nữ ấy bơ vơ, muốn đến giáo đường tìm Chúa mà phải đến lén sợ người trong Giáo Hội trông thấy. Câu chuyện của Tin Mừng năm xưa cũng chưa phải là phai nhòa trong đời sống chúng ta hôm nay.

Có cha mẹ hắt hủi con mình, người trong gia tộc miệt thị nhau, giai cấp trong đạo lên án chỉ vì cây sậy đã bị dập, ngọn đèn đã leo lét. Ra đi tìm một miền đất sống, nhưng im lặng của các tâm hồn đó đã dọn đường trở về với Chúa rồi. Những đau khổ họ phải chịu vì người anh em mình đã nặng hơn lỗi lầm họ phạm. Vì thế, khi họ phải bỏ xứ đạo ra đi, trốn khỏi gia đình, quãng đường xa ấy biết đâu lại rất gần Chúa.

Vào một giã từ không tiếng nói. Thất vọng vì bị kết án. Chán nản trong một họ đạo đố kỵ. Lặng lẽ, một tín hữu nào đó bỏ nhà thờ. Trong đêm mờ tối ấy, đời họ chìm sâu hơn trong tội lỗi có khi chỉ vì muốn tránh những nhánh gai trong vườn gia đình, xứ đạo mình quá sắc.

Có những lỗi chung thủy đến từ người mà mình đã rất thuỷ chung. Có những đau khổ mình phải chịu đến từ người mà mình đã chịu khổ đau cho. Có những hố thẳm mà người cùng một lý tưởng tông đồ đào cho nhau. Có những vực sâu trước nhà thờ.

Khi Ðức Kitô hỏi các Ký Lục và Biệt Phái ai là người trong họ vô tội mà đòi ném đá người phụ nữ. Tất cả họ từ từ rút lui (Yn. 8:7-9). Kẻ cần phải trở về là chính người không đi xa, đang ở ngay trong đền thờ.

* * *

Lạy Chúa, nếu con không phải là con chiên lạc, là kẻ trong đàn nhưng đã là nguyên cớ làm cho tâm hồn khác xa đàn, thì, lạy Chúa, sự có mặt của con trong đàn có khi còn nguy hiểm hơn là vắng mặt. Vì sự có mặt ấy mà bao nhiêu người phải vắng mặt. Nếu vậy, lạc lối trong hồn con còn xa xôi hơn nữa. Con cần phải trở về biết bao. Con đã xa cách Giáo Hội khi con ở trong đền thờ.

Khi con bỏ đền thờ thì con biết mình xa nơi thánh. Khi con ở trong đền thờ mà làm cho người khác phải ra đi thì khó mà nhận ra là sự thánh thiện đã xa mình.

Khi phạm tội thì có thể con biết mình xa Chúa, nhưng khi làm cho người khác xa Chúa thì khó mà biết mình phạm tội.


79. TRONG ÐẠO

Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca cho ta thấy cần suy nghĩ nhiều về những người con "không" hoang đàng.

Chuyện kể về người cha có hai đứa con, đứa con thứ ra đi sống trác táng phá tan cả sản nghiệp. Ta kết tội nó là đứa con hoang đàng. Còn người con trưởng ở lại thì sao? Nó không bỏ nhà đi hoang, như thế là một mẫu mực rồi chăng?


Người cha lạc lõng

Người cha chỉ có hai đứa con. Khi con thứ bỏ nhà ra đi, ông còn lại người con trưởng. Trong câu chuyện ta không thấy nhân vật con trưởng này xuất hiện trong cuộc đời liên hệ với cha nó, không thấy liên hệ với em nó. Mãi đến cuối câu chuyện mới thấy xuất hiện, sự xuất hiện này là một bùng nổ đã âm ỉ từ lâu, nó chống lại cha nó và em nó.

Thật ra, người cha mất cả hai đứa con chứ không phải một. Ðứa con thứ bỏ nhà đi. Ðứa con trưởng ở lại nhưng không sống với thái độ là con. Nó đã rõ ràng xác nhận như thế: "Tôi làm tôi cho ông" (Lc. 15: 29).

Lạc lõng không phải là một mình mà là không gặp cái mình tìm. Cái mình không cần mà vẫn có thì là dư, bởi thế, lạc lõng là đi giữa đoàn người mà vẫn thấy vắng, đi giữa cuộc đời mà cứ lẻ loi. Người cha có hai nỗi khổ tâm. Khổ tâm thứ nhất là vắng mặt của người con thứ. Khổ tâm thứ hai là có mặt mà như là thừa của người con trưởng.

Vắng mặt một người là mất mát, nhưng có nhớ. Nhớ và thương làm giây liên hệ tình cảm gần lại. Vắng mặt nên ta có nhiều chân trời tưởng tượng để sống với những cảm tình ấp ủ, với hy vọng. Do đó, có thể niềm an ủi của đau khổ vì mất mát là không đau khổ bằng có mặt mà thừa. Nếu có mặt mà thừa thì không còn chân trời nào để thoát nữa. Thực tế là phũ phàng phải đối diện mặt gặp mặt. Bởi đó, có mặt mà thừa thì dằn vặt hơn là vắng mặt mà nhớ.

Vào vị thế của người cha trong câu chuyện, Ðức Kitô mang cả hai tâm trạng đau khổ. Ðau khổ vì một đứa ra đi và khổ đau vì đứa ở lại trong nhà nhưng cõi lòng vẫn là cách xa.


Một cõi lòng xa cách

Xét về bản văn thì phần nói về người con trưởng cũng dài gần một nửa. Chiếm khá nhiều lời, bởi đó, ta có thể lưu tâm, tìm hiểu thái độ người con trưởng dựa vào trình thuật này.

·  Thái độ đối với cha: Ở trong nhà cha, nhưng anh ta sợ cha và vâng phục trong thái độ của kẻ làm tôi tớ. "Ðã bao năm trời tôi làm tôi ông." Như thế gần cha mà vẫn xa. Mỗi lần bỏ lễ Chúa Nhật, tôi bối rối vì tội. Nếu bối rối này đến vì sợ Chúa phạt chứ không phải tiếc nuối đến từ lòng mến thì Chúa chưa phải là cha. Ðôi khi nhìn vào lề luật, đã chẳng có những lúc thầm nghĩ: "Giả sử mình không có đạo thì đỡ hơn, bây giờ lỡ biết Chúa rồi không dám bỏ." Nếu đời sống đạo của tôi là thế thì tôi phải xin Chúa cho tôi gặp gỡ Ngài vì tôi ở trong nhà Ngài nhưng rất xa Ngài.

·  Thái độ với tha nhân. Anh ta gọi đứa em của mình là "thằng con của ông" (Lc. 15: 30). Anh ta gạt nó ra khỏi tình nghĩa liên hệ với mình. Làm sao trong Giáo Hội mà tôi có thể tách rời khỏi tha nhân. Khi hai xứ đạo bên cạnh nhau mà một xứ xây nhà thờ nguy nga, một xứ nghèo nàn. Lý luận thông thường là tuỳ ngoại giao của cha xứ, nếu ngài quen biết nhiều thì có nhiều tiền. Dĩ nhiên không thể có sự phân chia đồng đều tuyệt đối, nhưng cứ nhìn vào thực trạng, ta có nhiều dấu chỉ phải suy nghĩ về những mối liên hệ trong cộng đồng nhân loại và Giáo Hội.

* * *

Chúa Kitô đợi chờ những tấm lòng thao thức của con cái trong nhà đối với công việc của Người. Người làm công thì không thao thức, và họ chẳng có bổn phận phải thao thức. Tôi nghĩ, một phần vì nền giáo lý lúc còn trẻ, ta không được dạy cho ý thức sâu sa sự thao thức về Giáo Hội. Bởi đó, công việc truyền giáo, người giáo dân Việt Nam không đặt vấn đề suy niệm là bao. Ít khi ta băn khoăn nhìn một ngày mới và hỏi lòng, tôi sẽ làm gì cho Giáo Hội. Ít khi chiều về ta đặt thao thức Giáo Hội của tôi hôm nay thế nào. Có khi nào tôi cảm thấy niềm đau chung với Giáo Hội và hân hoan niềm vui với Giáo Hội không. Sự ít ý thức đó cũng là nguyên nhân phần nào đưa đến cạnh tranh nhau trong công việc tông đồ. Việc tông đồ của mình phải thành công hơn người khác, thậm chí có khi còn hạ người khác xuống. Ngày nào tôi không nghĩ tới Giáo Hội, ngày đó tôi chỉ là khách trọ trong Giáo Hội, hoặc là người làm công mà thôi. Giáo Hội đã bị giáo dục như là một cơ chế quyền bính hơn là nhà của tôi.

* * *

Tôi nghĩ thái độ làm công trong nhà của người con trưởng là đề tài rất quan trọng. Tại sao?

Ta hãy nhìn lại đoạn văn tả về thái độ "làm tôi tớ trong nhà" của người con trưởng với đoạn văn mà người con thứ nói với cha nó khi nó trở về. Trong các lớp Kinh Thánh, khi tôi đặt câu hỏi: Sau những ngày hoang đàng trở về, người con thứ thưa với cha mình như thế nào? Hầu hết các bạn đã trả lời thế này:

·  "Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời và trước mặt cha con không còn đáng gọi là con cha nữa. Xin xử với con như một người làm công của cha thôi" (Lc. 15: 18-19).

Câu trả lời này sai. Ðiều đáng buồn là có người đọc, nghe đoạn Tin Mừng này nhiều lần rồi mà không không biết sai ở chỗ nào. Câu trên đây là dự tính sẽ nói của nó khi nó còn đang phải chăn heo. Nó suy tính phải nói gì đây khi về gặp cha. Và nó đã sáng tác ra câu này. Ðộng lực thúc đẩy nó về là vì đói. Thánh Luca kể rằng "nó hồi tâm lại thấy biết bao người làm công có dư thừa bánh ăn mà nó phải chết đói ở đây. Thôi dậy, tôi về cùng cha tôi" (Lc. 15: 17-18). Vì thế, nó xin cha xử với nó như một người làm công. Ðối với nó câu này mang nhiều ý nghĩa.

Nhưng thật tuyệt vời là câu này lại bị người cha gạt bỏ. Ðối với nó, câu này là sống còn, phải xin cho bằng được làm công. Nếu không, lấy gì mà ăn. Khi gặp cha, nó lặp lại y chang những gì nó đã suy tính lúc còn chăn heo. Nhưng nó vừa nói tới câu "con không còn đáng gọi là con cha nữa", thì cha nó cắt ngang. Ông vội nói với gia nhân:"Mau mau đem áo thượng hạng mà mặc cho nó" (Lc. 15: 21-22). Như vậy là lúc nó thực sự nói với cha thì không có câu "xin xử với con như một người làm công."

Cái ý nhị và sâu thẳm trong đoạn văn, cái tinh tế trong lối viết của Luca là đó. Chúa không muốn nghe ta xin làm tôi tớ trong nhà. Dù có lỗi phạm, ta vẫn là con. Dù có phiêu bạt chân trời nào thì Chúa vẫn là cha. Chúa không đổi bản tính làm con xuống hạng tôi tớ. Im lặng mà lung linh tuyệt vời khi dừng chân nhìn vào ý nghĩa của đoạn văn ấy.

* * *

Nhìn thế, ta thấy đoạn văn đó liên hệ chặt chẽ với lời tự thú của người con trưởng: "Ðã bao năm tôi làm tôi ông." Lời này đã bị cha dìm đi, ông không muốn nghe, ông gạt đi khỏi miệng người con thứ, thì nó lại được người con trưởng công bố. Người cha không muốn nghe người con thứ trở về nhà mà xin làm tôi tớ, hẳn ông khổ tâm thế nào khi người con trưởng xử sự với ông như chủ ông và gia nhân. Ðặt hình ảnh người con trưởng liên hệ trong toàn mạch câu chuyện ta thấy rõ hơn chiều sâu trong lối hành văn và nền thần học của Luca, và cái ý nhị của nền tu đức nữa là ta phải đặt một chiều sâu suy niệm với hình ảnh người con trưởng "không đi hoang" cần trở về như thế nào.

* * *

Lạy Chúa,

so sánh mình với người khác có khi con thấy người khác cần trở về hơn con. Dấu chỉ con không cần trở về là con còn trong Giáo Hội, còn đi lễ, còn giữ các giới răn, có khi còn giữ chức vụ này nọ trong Giáo Hội. Không biết những lề thói con giữ đó có bảo đảm cho con rằng con gần Chúa không hay chỉ là tâm tình nô lệ. Biết đâu sự trở về của kẻ ở nhà lại cấp bách hơn kẻ đi xa. Nỗi đau khổ của cha vì đứa con thứ bỏ nhà đi chưa chắc đã nặng hơn nỗi khổ tâm do sự có mặt của người con trưởng. Biết đâu kẻ ra đi có nhớ, có thương.

Ðau khổ của nhớ thương là đau khổ buông theo chiều gió. Ðau khổ của có mặt mà thừa là đau khổ không có gió mà buông.


80. TỰ DO

Tôi cầu mong cho tôi được bình yên. Cuộc sống có nhiều khi vất vả, nên tôi muốn gạn lọc những giây phút muộn phiền để được thảnh thơi. Tôi muốn quên những đau buồn của ngày tháng cũ. Tôi không muốn nhớ những chua xót của một lầm lỡ, những tiếc nuối của một vụng về. Nhưng, vết thương lòng, khi tôi muốn quên lại là khi tôi càng nhớ thêm. Tôi muốn quá khứ rơi vào vùng biệt tích hư vô, nhưng quá khứ vẫn buông cánh đậu xuống đời tôi những đám mưa buồn.

Tôi cầu mong cho tôi được bình yên. Nhưng cuộc sống hôm nay xô đẩy tôi vào nỗi lo âu của ngày mai. Những công danh chưa toại nguyện. Những mộng đời đang dệt dở dang. Những tình yêu có khi đang nhen nhúm hé nụ, có khi đang mong manh. Hồi hộp và băn khoăn, đợi chờ và bấp bênh là những đám mây đen phủ đi vùng trời thảnh thơi. Tương lai là một vòng kẽm gai vô hình làm héo úa nỗi vui của tôi.

Tôi sống trong hiện tại mà bị giăng mắc bởi lo âu về tương lai. Bị ràng buộc vì ám ảnh của quá khứ. Như thế, tôi có tự do của thân xác cũng chưa hẳn đã có tự do của tâm hồn.

***

Trở về với tôn giáo. Tôi nghe tiếng vọng từ nghìn năm trước và vẫn là lời kinh cầu hôm nay. "Trời cao ơi, hãy đổ sương xuống. Ngàn mây hỡi, hãy mưa vị cứu tinh". Nói đến vị cứu tinh là nói đến nô lệ. Ðề cập đến giải thoát là hàm chứa tù đày. Như vậy, mục đích đạo của tôi là đi tìm tự do?

Tự do của thân xác không đồng nghĩa với tự do của tâm hồn. Xét như vậy thì tự do cao cả quá. Tự do là yếu tố xác định tình yêu. Tự do là giấc mơ hạnh phúc. Tự do đi vào mức độ sâu xa căn bản của đạo. Tôi biết, những gì càng cao cả thì càng khó khi nói tới. Tự do liên hệ đến tình yêu, tự do là chiều sâu thẳm của tôn giáo. Tôn giáo và tình yêu là những vấn đề mênh mông. Mà những gì càng mênh mông thì khi nói đến lại càng hay có nhiều thiếu sót.

Bởi vậy, những gì tôi viết ở đây chỉ là những suy tư của một người đang đi tìm con đường giải thoát. Có thể là tìm thấy rồi nhưng chưa đủ nghị lực lên đường. Có thể là lên đường nhưng chưa trọn vẹn tìm được tự do. Vì thế, những gì tôi viết ở đây, suy tư cũng là ưu tư.

Tự do có phải là thoát mọi ràng buộc, có phải là không để cho một năng lực nào ảnh hưởng trên những quyết định chọn lựa của tôi? Nếu hiểu như thế thì tôi không bao giờ có thứ tự do này. Là một hữu thể giới hạn được đặt vào trong một thế giới chằng chịt những liên hệ với những hữu thể khác. Liên hệ giữa tôi với người chung quanh. Giữa tôi với vũ trụ. Giữa tôi với chính tôi. Tôi không hiện hữu độc lập nên tôi không bao giờ có tự do tuyệt đối độc lập. Sự sống của tôi đến từ một sự sống khác. Vì thế, có cùng liên hệ tới sự sống khác. Nếu chỉ vì một lầm lỡ của tha nhân gây bất bình cho tôi mà tôi chối từ tất cả, gọi là "để sống tự do một mình". Thì tôi chỉ nghèo nàn hóa đời tôi chứ tôi cũng chẳng thể thoát khỏi được những ràng buộc vô hình. Tôi muốn có sức khỏe nhưng làm sao tôi tránh được cảm lạnh của mùa đông, chiều sương ảm đạm của mùa thu? Tôi không thể tránh được mọi ảnh hưởng của vũ trụ, để gọi là "sống tự do một mình". Tôi bị chi phối và luôn luôn bị chi phối. Rồi còn chính tôi. Ðã bao lần không đồng ý với mình, mà nào tôi có thoát được chính mình. Như vậy, chối từ mọi ràng buộc để đi tìm tự do tuyệt đối là trở thành hư vô.

Chỉ Thiên Chúa, Ngài là hữu thể vô giới hạn, Ngài không sống trong tự do nhưng Ngài là tự do. Ngài không bị ràng buộc, nên Ngài mới có tự do tuyệt đối này.

Tôi là hữu thể bất toàn nên tôi chỉ có tự do tương đối. Thứ tự do trong đó có những ràng buộc liên hệ. Thứ tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà chỉ có nghĩa làm những gì xây dựng thêm giá trị cho sự hiện hữu của tôi và những hiện hữu chung quanh tôi.

***

Nói đến tự do, người ta thường nghĩ ngay đến khả năng chọn lựa. Chọn thì có thể chọn đúng, có thể chọn sai. Sai, lại có nhiều thứ sai khác nhau. Có thứ sai ít, có thứ sai nhiều. Có thứ sai người ta có thể làm lại được. Có thứ sai một lần là mãi mãi mang niềm tủi hận. Ði lộn một khúc đường thì mất giờ đi lại. Nhưng đi lộn lý tưởng cuộc sống là mất cả cuộc đời. Mua lầm cái áo thì tôi có thể mua cái khác. Cưới lầm một tình yêu thì vấn đề lại khác rồi. Nhưng cái sai lầm lớn nhất là chối từ Chúa. Nếu trước giờ chết mà tôi vẫn xa Ngài thì tôi sẽ vĩnh viễn đi về cô đơn mà chẳng bao giờ có thể làm lại được. Ðấy là thảm cảnh của tự do trong vấn đề chọn lựa.

Sống là đi tìm hạnh phúc. Chọn lựa sai lầm là làm hao mòn hạnh phúc đó. Vì thế, khi biết giữa cái sai và cái đúng thì người ta không còn tự do để chọn cái sai mà phải chọn cái đúng. "Ngài chính là Thần Khí, nơi đâu có Thần Khí của Chúa thì có tự do" (2Cor 3,17). Bởi đó, tự do chân chính là định hướng cuộc sống đi tìm sự thật, tìm Chúa.

***

Tội và đam mê đối nghịch với Thần Khí của Chúa nên nơi nào có tội thì không có tự do. "Tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rom 6,23). Con đường của đam mê dẫn tới băn khoăn và lo âu. Tôi nhớ tới Yuđa. Có lẽ Yuđa là con người cô đơn nhất. Yuđa không bị bắt như Phêrô. Yuđa có tự do, nhưng tâm hồn Yuđa là một cõi vắng mênh mông, là lo âu chập chùng. "Tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rom 6,23). Câu chuyện người thanh niên giàu có cũng nói rõ giá trị chọn lựa của tự do.

- Thưa Thầy, tôi phải làm gì để nên trọn lành?

- Hãy cho hết những gì ngươi đang có, rồi đến theo Ta.

Nghe xong, người thanh niên buồn bã, lặng lẽ bỏ đi (Mt 18,21-22).

Anh có một giấc mơ nhưng anh chẳng bao giờ đạt được. Anh có một chân trời để đi tới, nhưng anh không bao giờ lên đường nổi. Có lựa chọn là có từ bỏ. Từ bỏ nào cũng có chiến đấu. Vì thế, tự do không phải là sự giải thoát tự nhiên mà có. Bình an của tự do là một cuộc chiến đớn đau. "Xác thịt có đam mê chống lại thần khí. Thần khí chống lại xác thịt. Khiến anh em không thể hễ muốn gì là làm được" (Gal 5,17).

Ðam mê và tội lỗi là một thứ mật ngọt ngào. Ðam mê đẹp như lời mời êm ái. Trong đời có nhiều vất vả, có lắm lúc thiếu vắng hạnh phúc, nên tôi bước xuống, gặm những đám cỏ xanh mà không nhìn thấy đám cỏ mọc trên vũng bùn. Khi đam mê đã trở thành căn nhà rồi thì ngại ngùng từ bỏ nó. Bởi, nếu tôi nêu lên vấn đề là chạm tới cả một cuộc chiến. Cuộc chiến của lựa chọn. Nhiều khi biết mình phải chọn gì. Tìm con đường mình phải đi không phải là điều khó. Nhưng có lên đường về chân trời mơ ước của lý tưởng không, đấy mới là thảm cảnh bi đát và hùng tráng của một tâm hồn. Mới là lằn mức xác định giá trị. Mới là hoa trái của tự do hay là bất hạnh của tự do. Ðức Kitô đã chỉ cho người thanh niên con đường của tự do là theo Ngài. Nhưng người thanh niên buồn bã, lặng lẽ bỏ đi.

"Tội ngự trong thân xác chết dở của tôi khiến tôi phải theo nó" (Rom 6,2). Như vậy, làm sao tôi có thể cất bước lên đường. Trong cái đêm tối của yếu đuối, giữa niềm thao thức đi về một nẻo sớm mai có nắng reo vui, có an hòa của cõi lòng. Trong cái chán nản của linh hồn giữ bóng tối. Phaolô đã tự hỏi như một lời kinh thầm lặng tự thú nỗi đau thương bất lực của mình: "Vô phúc thay con người tôi, ai sẽ giải cứu tôi khỏi cái xác chết này?"

Tôi không đi tìm tự do chỉ vì tự do. Trong tự do tôi kiếm tìm bình an. Bình an của tự do là được đi về vùng trời mơ ước, không bị đam mê bắt quay về mảnh vườn mà tôi không muốn. "Tội ngự trong thân xác chết dở của tôi khiến tôi phải nghe nó". Vậy, "ai sẽ giải cứu tôi khỏi cái chết này?" Qua Phúc Âm thánh Yoan, Chúa đã trả lời cho Phaolô, và cũng cho ta: "Nếu ta cho ngươi tự do thì các ngươi mới đích thực tự do" (Yn 8,36). Như vậy, hạnh phúc của tôi là sống trong tự do mà Chúa ban.

***

Tự do của Chúa là gì?

Thực sự Chúa không có tự do, nhưng Ngài là tự do. Vì Ngài là tự do nên tôi không thể có tự do mà lại không có Ngài. Chúa không có tình yêu nhưng Ngài là tình yêu. Khi nói có là nói ai có và có cái gì. Nói đến liên hệ giữa hữu chủ và vật sở hữu. Thiên Chúa là tất cả, không có gì hiện hữu độc lập ngoài ơn sủng của Ngài. Thiên Chúa không Có, nhưng Thiên Chúa Là. Vì chính Ngài là hạnh phúc nên tôi không thể có hạnh phúc mà lại không thuộc về Ngài.

Nếu Chúa chỉ cho tôi một món quà thì tình yêu ấy chưa phải là tình yêu tuyệt hảo. Cho một món quà chưa phải là cho tất cả. Ngài là tình yêu, nên khi cho tôi tình yêu thì Ngài cho tôi chính Ngài. Nếu Ngài cho tôi một món quà thì tôi cũng có thể đáp lại bằng một món quà khác. Nhưng Ngài cho tôi chính Ngài thì tôi không thể lấy gì đại diện để cám ơn Ngài. Tình yêu sâu thẳm hay hờ hững hệ tại cho đi nhiều hay ít. Những gì đại diện thì không thể nói được là tất cả. Chính vì thế, tôi không thể nói: Lạy Chúa, con xin dâng hiến tất cả, trừ điều này. Con xin hiến dâng tất cả, ngoại trừ điều kia.

"Thành quả thu lượm được nơi Ngài là tự do, có sức thánh hóa" (Rom 6,22). Những gì tôi giữ lại cho riêng tôi, chẳng làm tôi nên giàu có mà chỉ cản tôi về với tự do có sức thánh hóa đó.

Tôi biết thế, nhưng đường về tự do không dễ. Lời vẫy gọi của đam mê thì gợi cảm, ngay bên tôi, ở trong tôi. Tiếng gọi của niềm tin thì vô hình. Vất vả để lắng nghe, nhưng còn gian nan hơn nếu chấp nhận theo tiếng gọi, vì niềm tin không bao giờ nhượng bộ. Ðã hơn một lần trong đời, tôi hỏi Ngài:

- Thưa Thầy, con phải làm gì để được tự do?

Ngài cũng chỉ đáp:

- Hãy bỏ tất cả những gì thuộc về ngươi rồi theo Ta.

Tôi thấy bâng khuâng và thao thức vì bóng hình người thanh niên thuở xưa. Chàng thông minh. Chàng đã nhìn thấy một vùng trời biển rộng. Chàng mơ ước đi về vùng biển rộng có gió ngàn tự do đó. Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi.


81. ƯỚC MƠ

Nơi nào có ước mơ, nơi ấy trở thành kỳ diệu. Không có ước mơ thì không có đi tới, không có nảy sinh. Người ta có thể không thực hiện được điều mình mơ ước. Nhưng bất cứ một điều gì người ta thực hiện được thì trước đó họ đã phải xây dựng trên ước mơ. "Ta ước ao được ăn lễ Vượt Qua này với các ngươi trước khi Ta chịu khổ nạn" (Lc. 22:15). Ước mơ đó đã thôi thúc Chúa lập phép Thánh Thể để ở lại với tôi. Ước mơ, rồi bảo lòng mình bước tới. Bởi đó, nơi nào có ước mơ thì có hy vọng. Nơi nào có hy vọng thì có khơi mầm sáng tạo.

Một ngày không nuôi hoài bão là một ngày ủ dột, ngủ dài. Hoài bão là cánh buồm gọi gió, đưa tôi ra khơi. Một ngày không ấp ủ ước mơ là một ngày trống vắng, lặng lẽ. Lý tưởng nào cũng được ôm ấp bằng những mơ ước. Ước mơ định hướng cho tôi đi tới. Sống không ước mơ là một cánh bèo trôi dạt buồn tênh.

Người ta nói tiếc thương quá khứ chứ không nói tiếc thương tương lai. Vì tương lai chưa tới thì làm gì có phàn nàn, hối hận, thương tiếc. Cũng vậy, người ta nói mơ ước tương lai chứ không nói ước mơ quá khứ. Vì quá khứ đã ở sau lưng thì còn gì mà mơ ước. Như thế, lối đi của mơ ước là nẻo hướng tới trước mặt, là nhìn về tương lai. Quá khứ có thể là sứt mẻ, nhưng tương lai thì nguyên vẹn. Lối đi trước mặt của đồi non là những chùm lá dâu xanh cho tằm dệt lụa, nhả tơ. Lối đi trước mặt của bầy sâu xấu xí là lớn lên thành cánh bướm cho đẹp khóm hoa. Cỏ cây cũng còn cần lối đi trước mặt để hướng tới, để kiện toàn, huống gì con người. Tôi cần tương lai để thăng hoa. Nẻo đi trước mặt hàm chứa hy vọng, là nối dài những ước mơ. Vì thế, tôi sống là tôi mơ ước.

Làm gì có bắt gặp nếu không có kiếm tìm. Làm gì có kiếm tìm nếu không có mơ ước. Bởi vậy, mơ ước là mở lối đi vào mênh mông, là phá ngõ cho sáng tạo đi về. Có sáng tạo, có triển nở thì vì thế mà đời tôi có thể phong phú thêm.

***

Ước mơ xác định tôi là ai. Tôi mơ ước điều gì là tôi muốn có điều đó. Ðiều tôi muốn có ấy nói cho tôi biết tôi như thế nào. "Kẻ gian ác thì mơ ước điều dữ" (Cách Ngôn 21:10). Vì thế, tôi có thể hướng dẫn đời tôi bằng cách hỏi xem mình đang mơ ước gì. Nếu dân tộc tôi mơ ước đoàn kết, đấy là dấu hiệu chúng tôi đang chia rẽ. Nếu tôi mơ ước đi về, đấy là lời thầm nói tôi đang ở xa. Khi có đau khổ thì mơ ước yêu thương. Khi thấy người khác mơ ước nụ cười, thì đấy là lời gián tiếp nói cho tôi họ đang buồn. Xem vậy, những điều tôi mơ ước là những điều tôi thiếu vắng, hoặc có mà còn quá ít ỏi. Nhưng chính cái thiếu vắng này nói cho tôi biết tình trạng hiện tại con người của tôi ra sao và tôi muốn trở nên như thế nào.

Mơ ước là đi tìm cái thiếu vắng, nhưng cũng có nghĩa là đang bắt gặp. Mơ ước nên thánh thiện là tôi đã bắt đầu băn khoăn về tội lỗi của mình. Mơ ước thuận hòa là khởi điểm đi đến thứ tha. Vì thế, cái thiếu vắng của mơ ước có gieo mầm gặp gỡ.

Nếu tôi có những ước mơ ngàu đục thì chắc chắn đời tôi không thể là dòng suối trong. Khô cằn không nảy sinh hoa lá xanh tươi, và chẳng có sự sống nào đến từ tro than. Truyện Kinh Thánh kể:"Một buổi chiều nọ, David dậy khỏi giường và đi tản bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, ông thấy một phụ nữ đang tắm; người phụ nữ dáng vẻ rất xinh đẹp" (2 Samuel 11:2). Rồi David ước mơ chiếm lấy nàng làm vợ. Ước mơ ấy đã đưa David đến chỗ âm mưu giết Uriya, chồng người phụ nữ:"Hãy đặt Uriya ở chỗ mặt trận ác liệt nhất, đoạn bỏ nó mà rút lui, cho nó bị đánh mà chết đi" (2 Samuel 11:15). Mỉa mai thay, Uriya lại là một sĩ quan cương trực, tài ba và trung thành của vua.

Cứ hỏi lòng mình và xem điều mình mơ ước đề xác định mình đang đi về đâu, lý tưởng cuộc sống là gì. Không có lý tưởng nào thoát khỏi vòng cưu mang của ước mơ. Tội lỗi nào cũng thường đã được thai nghén từ những ý nghĩ thầm kín. Những xác chết đã được che phủ trong những ngôi mộ bằng đá hoa cương (Mt. 23:28). Những gì người ta ca tụng tôi, chưa hẳn là đúng. Những gì tôi làm bên ngoài, chưa hẳn đã là phản ảnh trung thực cõi lòng bên trong. Cứ hỏi kỹ hồn tôi xem mình đang thầm mơ ước gì để xác định mình là ai. Nếu tôi mơ ước cho đi thì cánh tay tôi sẽ cố gắng giang rộng. Nếu tôi ước mơ thu vào thì bàn tay tôi sẽ nắm chặt. Lúc mà mơ ước của tôi là những hạt nước mưa đầu mùa cho khu vườn thì tôi có hy vọng đợi chờ những chùm bông sẽ rộ nở. Lúc tôi ước mơ chiếm đoạt tình yêu, của cải của người khác là lúc tôi gieo tang tóc. Tang tóc đến từ hành động. Mà hành động là kết quả của mơ ước.

Ước mơ đúng cũng có thể hành động sai. Nhưng đã ước mơ sai thì không bao giờ có hành động đúng.

***

Tôi chỉ mơ ước những gì tôi không có. Bởi vậy, tự nó, mơ ước là những điều không có trong hiện tại. Chính thế, tự nó, mơ ước không là kết quả. Nếu tôi chỉ mơ ước để sống trong mơ ước thì đời là giấc ngủ buồn vì tôi hoài hoài sống trong điều không có thực. Bấy giờ, ước mong chỉ là ảo mộng. Sống trong mộng ảo là lừa dối mình, cho dù lừa dối ấy có đẹp đến đâu thì cũng vẫn là lừa dối mà thôi.

Ước mơ vẽ ra một vùng trời lý tưởng, ước mơ cất tiếng gọi cho tôi đi về vùng trời đẹp đó. Thách đố của ước mơ, vòng bạc lấp lánh của vương miện ước mơ là người ấp ủ mơ ước có lên đường về vùng trời đẹp mà giấc mơ kêu mời. Mơ ước sẽ nở thành chùm hoa sao rực rỡ hay sẽ âm thầm chết lặng lẽ tùy thuộc ở thái độ của người ước mơ. Ước mơ là thầy, là đạo, nếu tôi muốn tìm thầy học đạo thì tôi phải lên đường, chứ đạo không tìm đến tôi.

Tôi lại nhớ đến chuyện người thanh niên giàu có:

- Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ?

- Hãy từ bỏ hết những gì ngươi có, rồi đi cùng Ta.

Nghe xong, người thanh niên buồn bã bỏ đi (Mt. 19:21-22). Và từ đó, ước mơ của chàng héo úa theo dòng đời.

***

Tội lỗi nào thì cũng thai nghén từ những ước mơ. Cũng thế, chẳng có việc kỳ diệu nào mà không sinh nở từ những giấc mộng được ấp ủ bằng thời gian. Có một người thiếu nữ chết lúc tuổi mới 24 mà nàng đã làm cả bầu trời nở rợp hoa hồng: Têrêsa Hài Ðồng Yêsu. Người thiếu nữ đã tự thú trong truyện Một Tâm Hồn: "Một lần cả nhà về quê thăm bà con thân thích. Mẹ bảo chị Marie lấy áo đẹp nhất vận cho em nhưng đừng vận thứ áo hở cánh. Khi ấy con không nói gì và làm ra chuyện dửng dưng như các trẻ nhỏ khác, song trong lòng đã lủng bủng: - Giá cho vận áo hở cánh, có xinh hơn không?" Sau này, khi lớn lên, Têrêsa viết tiếp: "Với tính nết ấy, con trộm nghĩ, nếu phải tay cha mẹ không có nhân đức, không biết dạy con, có lẽ con đã là đứa xấu nết dữ tợn lắm, và mất linh hồn cũng chưa biết chừng" (Một Tâm Hồn, trang 25). Cái ngày về thăm bà con thân thích ấy, Têrêsa còn bé lắm, vậy mà nàng đã biết ước mơ được mặc áo hở cánh đó bằng màu áo nữ tu nhà kín ở Lusieux. Cũng như Ignatio, trước khi về trời với cờ Thánh Giá để thu tập môn sinh lập nên dòng Tên, chàng sĩ quan Tây Ban Nha đã si mê một người phụ nữ quý tộc đến nỗi mơ ước được nàng để ý đã làm chàng vào sinh ra tử, coi nhẹ cái chết hầu trở thành anh hùng của mọi mặt trận.

Ước mơ. Nơi nào có ước mơ, nơi ấy trở thành kỳ diệu.

Trong truyện Một Tâm Hồn, hầu như không trang nào mà Têrêsa không viết về mơ ước yêu thương. Trong cái can đảm chịu đau đớn trên giường bệnh, người ta vẫn đọc thấy ước mơ được nũng nịu với Chúa. Có nhiều tước hiệu được xưng tụng cho Têrêsa. Giáo Hội gọi vị thánh trẻ là nhà truyền giáo thời danh. Nhưng tôi thích gọi Têrêsa là cô bé làm dáng, một thiếu nữ đa cảm. Cái làm dáng của Evà nhưng lại đa cảm trong duyên tình thánh của Maria. Tôi muốn gọi Têrêsa là một nữ tu suốt đời dệt mộng, và là vị thánh của mơ ước. Têrêsa đâu có đi truyền giáo, chỉ ước mơ thôi, và ước mơ đẹp nhất của Têrêsa có lẽ là ước mơ về trời để làm mưa hoa hồng xuống trần gian.

Giã từ ước mơ mặc áo hở cánh, Têrêsa đã đốt cháy đời mình bằng những ước mơ khác. Nàng ước mơ được làm linh mục để đi truyền giáo. Ước mơ được tới Hà Nội và Sàigòn (Một Tâm Hồn, trang 215). Têrêsa đã chẳng bao giờ tới Sàigòn được. Nhưng mỗi lần đi ngang nhà Kín, trên con đường Cường Ðể rợp lá me, tôi thấy dáng như Têrêsa đang trồng những khóm hồng. Têrêsa đã chẳng bao giờ là linh mục, nhưng ước mơ đã đốt cháy tình yêu của nàng thành muôn ngàn thánh lễ trọng thể. Chúa Kitô là linh mục đau khổ, kẻ đã chấp nhận thánh ý của Cha mình. Trong ý nghĩa ấy thì Têrêsa đang dâng thánh lễ trên địa cầu: "Lạy Chúa, con không muốn nên thánh nửa vời, con chẳng sợ như thế thì phải chịu đau khổ nhiều vì Chúa đâu... xin Chúa nhận lấy ý riêng con, bởi vì con chọn tất cả những sự Chúa muốn, con chọn trót ý Chúa" (Một Tâm Hồn, trang 27).

Chẳng chết đâu, Chúa biết ngày nào ngươi ăn trái đó thì mắt ngươi sẽ mở ra và ngươi sẽ biết mọi điều như Chúa.

Evà thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của trái táo. Nàng đã ăn. Nàng cũng mơ ước cho chồng mình được thông minh như Thiên Chúa. Từ đó, địa đàng đã đóng ngõ, cài then. Nước lụt dâng về. Có nước mắt. Và màu hồng của trái táo đã thành màu trắng khăn tang.

***

Lạy Chúa,

Xin soi sáng cho những ước mơ của con, vì có những mơ ước mà khi con cắn vào là đời con khổ lụy. Có những mơ ước mà con miệt mài trèo lên, khi đạt được là lúc con rơi xuống vực sâu.

Thánh thiện hay tội lỗi cũng đều đến từ những ước mơ.


82. VÒNG GAI và NỤ HÔN

Ðưa chân vào đời là vô bờ những tiếng gọi đi về tương lai. Mỗi bước chân là một lựa chọn định hướng. Lối nào cũng là lời mời gọi thiết tha. Có lối đi êm đềm của hạnh phúc lứa đôi. Cũng có tiếng gọi về một cuối đồi trải dài nẻo đường lý tưởng. Ðó là lối đi của thập giá, là bước chân Ðức Kitô. Trong lối đi ấy, hồn Ðức Kitô như một cánh diều đong gió, thênh thang, thản nhiên cõi đời.

Người thanh niên nhìn về tương lai với hai nẻo đường đi, giữa cõi trời dệt mộng và lối đi nghệ sĩ như cánh diều của thập giá. Chàng chọn con đường thứ hai. Chàng yêu những chân trời nắng dội. Chàng thích những bình minh lên đường. Chàng mơ một ngày gặp Ðức Kitô để muốn một đời phiêu lưu với Ngài.

* * *

Ðức Kitô đang đi tìm những tâm hồn nghệ sĩ. Thế là họ gặp nhau. Rồi từ đó, họ rong chơi trong vũ trụ. Qua núi. Qua đồi. Có những quãng đời nắng bụi chân trần, nhễ nhãi mồ hôi nhưng mà họ vui biết bao. Ðức Kitô dậy người học trò của mình về vương quốc của Cha Ngài. Ngài bảo vương quốc ấy không có hàng rào chia ranh giới, không có đạo quân canh giữ, vương quốc là một bữa tiệc, là một luân vũ hân hoan. Rất vui. Ai vào cũng được, tuy nhiên có điều muốn luân vũ hân hoan thì họ phải tự do, phải như gió rong chơi bốn mùa, phải như mây tan ra, vì thế họ phải từ bỏ nhiều lắm.

Ðức Kitô chuẩn bị cho người học trò của mình mai sau tiếp nối bước chân trần trên cát nên Ngài đem người học trò qua tất cả mọi nẻo đường cuộc đời. Lối dạy của Ngài rất lạ. Có những chiều hôm nắng quái, để dạy cho trò về sự sống, Ngài chọn nghĩa trang im lặng. Hai Thầy trò bên ven rừng hoang vu. Giữa những ngôi mộ đã nghìn thu im tiếng mà Ngài cứ say sưa giảng: Ðó là sự sống! Ðó là sự sống!

Ðể thấy vũ trụ xôn xao, để hiểu thế nào là âm nhạc, người học trò phải vất vả theo Ngài cả một ngày dài, sau cùng Ngài dẫn vào sa mạc. Ðêm về, trăng lên. Vằng vặc không một bóng người. Lặng lẽ quá đỗi. Chỉ có mênh mông. Không một âm thanh mà Ngài chìm vào một hòa tấu như cả vũ trụ đang khiêu vũ rồi Ngài say sưa nói với học trò: Ðó là âm nhạc! Ðó là đàn ca!

Ngược theo những vạt nắng. Xuôi về những bến sông. Một lần ngang qua phố chiều, Ngài cho người học trò nhìn thấy tất cả tiền bạc giấu kín trong bao. Vàng bạc ngời sáng làm người học trò không biết nhìn nơi đâu. Chung quanh là tiền rừng bạc bể mà Ngài lại hỏi người học trò: Con thấy không, đâu là sự tự do, con thấy không, họ nghèo túng quá!

Có lần người học trò hãnh diện chỉ vào đền đài: "Kìa, Thầy nhìn xem vinh quang của Giáo Hội ta." Ðức Kitô hỏi người học trò: "Con muốn vào ở trong đó hay con muốn đi với Thầy?" Người học trò không hiểu. Ðức Kitô nói tiếp: "Con muốn nhà tù hay tự do". Người học trò chẳng hiểu. Ngài bảo người học trò:"Thôi đi con ạ." Cả hai lại tiếp tục lên đường. Ở đằng trước mặt, con đường vẫn còn hun hút chưa thấy nơi tới....

* * *

Ði qua phố núi. Về qua chợ chiều. Rong ruổi trong đời đã là bao năm. Lên những bình minh rực rỡ. Xuống những mưa rầm rì. Rồi cũng đến ngày Thầy trò chia tay. Ðức Kitô đã dạy cho người học trò tất cả lý tưởng của mình. Nghi thức vào đời làm chứng nhân, kết thúc những ngày theo học với Thầy sẽ là vòng tay chúc bình an của Thầy. Trăng mờ lạnh hơi sương, người học trò nghĩ đến sáng mai, khi vạt nắng trải dài xuống sườn đồi chàng sẽ giã từ Thầy. Nôn nao như một mùa hội mới. Cũng buồn vì xa Thầy, nhưng chàng đã trưởng thành, và Thầy gởi gắm giấc mơ của Thầy nơi mình, chàng phải can đảm. Cứ nghĩ đến một ngày rong ruổi độ thân như đời Thầy, cứ nghĩ đến đời mình như cánh diều lộng gió bay cao, chàng xôn xao chờ phút giây trọng đại.

Vạt nắng bắt đầu hắt lên, nắng rực rỡ sẵn sàng làm chứng cho một chia tay hào hùng. Khi mặt trời nứt đất đẩy lên một vùng lửa cũng là lúc không gian trang trọng đón chân Ðức Kitô đến. Hiến lễ tạ ơn đã xong, chàng đến quỳ trước Thày mình nhận sứ vụ. Ðức Kitô từ từ cúi xuống chúc bình an cho người học trò của mình, gửi chàng những thâm tình lần cuối. Khi vòng tay của Ngài buông xuống bờ vai, mặt Ngài cúi sát xuống vầng trán của người học trò thì cũng là lúc mặt trời ngưng hơi thở và nắng hốt hoảng lo âu. Nhìn lên mặt Thầy mình chàng mới thấy vòng gai nhọn trên đầu Thầy cũng dần dần cúi xuống sắp sửa rạch lên trán. Một cách ngại ngùng, người học trò nhăn mặt nới thõng vòng tay. Vòng gai còn đó, nụ hôn không thành.

Ðức Kitô thấu hiểu tâm hồn người môn sinh. Ngài không thể chúc bình an cho người học trò được nữa. Sự tự do là tất cả giá trị của tặng vật, vòng tay ngại ngùng đã đánh rơi lòng muốn, ánh mắt sợ hãi đã lên mờ sương đục của thiết tha. Ðức Kitô không thể cứ cúi ôm người học trò khi mà người học trò ấy ngại ngùng. Không có tự do là cưỡng bức. Bất ngờ quá. Người học trò bối rối trước vòng gai nhọn, đôi tay đã buông thong mà không hẳn là dám dứt bỏ, muốn đi tới mà nặng trĩu ở đàng sau. Nắng đang sẵn sằng chứng giám cho cuộc lên đường anh hùng đột nhiên xanh xao sợ hãi vì chẳng biết những gì sắp xẩy ra. Ðức Kitô cũng không ngờ sự thể ngoài tầm dự đoán. Lòng xót thương đẩy Ngài đến một sáng kiến cũng không ngờ. Ðể gỡ cho người học trò khỏi mất mặt không biết phải phản ứng như thế nào trước vòng gai nhọn, Ngài ôn tồn hỏi người học trò:

·  Con muốn xuống núi sáng nay không hay con muốn ở lại với Thầy ít lâu nữa?

Người học trò bám vào câu hỏi như chiếc phao để rỡ rối. Và dĩ nhiên chúng ta biết người học trò đã ở lại. Vòng gai còn đó, nụ hôn không thành.

* * *

Từ ngày nhánh gai nhọn chạm lên trán, chàng bối rối nhiều về nụ hôn. Chàng sợ vòng tay chúc bình an của Thầy, vì vòng gai và nụ hôn không thể tách rời. Chàng tự hỏi rồi lo sợ cho một cuộc lên đường. Những xuôi mùa trăng. Những ngược mùa gió. Từ ngày xuống núi không thành, chàng trăn trở tiếng gọi theo Thầy. Cánh diều lộng gió hôm nào, có đẹp, có mêng mông, nhưng không dễ để mình bay cao. Bước chân Thầy đơn sơ nghèo khó mà sao quá đỗi nặng nề đối với mình. Những vạt nắng về rồi đi, loãng thoãng trong hồn. Loãng thoãng cho thấy nỗi buồn loang lổ của một trái tim dang dở. Nó loãng thoãng nhưng đủ móng vuốt nhẩy bổ vào chiếu dọi đây đó trong vùng sâu tâm tư những ngõ tối mà khi bắt đầu cuộc sống chứng nhân chàng mới hiểu nỗi đau.

Còn Ðức Kitô, từ ngày đó, cánh diều là người học trò mà Ngài đang nương giây đẩy gió cho lên cao có lẽ sẽ bay mất. Nó đứt giây không phải vươn mình trên cõi đời mà là chao đảo rồi rơi sập.

Trong băn khoăn, sáng kiến đã đưa đến lời nguyện cầu sáng tạo táo bạo. Ngài thầm nghĩ người học trò chỉ vì sợ vòng gai chạm vào da mặt mà không dám ôm Ngài, nên Ðức Kitô quyết định xin Cha Ngài một đặc ân là tạm bỏ vòng gai trên đầu trong giây lát để có thể chúc bình an cho người học trò mà không làm nó miễn cưỡng chấp nhận. Ðức Chúa Cha chấp nhận và rừng lá lại nôn nao chứng dám cho một cuộc lên đường hào hùng.

* * *

Nhè nhẹ như cánh lá vàng thu của một đồi chiều hạnh phúc trong trái tim. Ðức Kitô an tâm hơn, có niềm vui nhưng còn kín đáo đợi chờ. Cũng như lần trước, người học trò chuẩn bị hiến lễ tạ ơn rồi chờ đợi Thầy mình đến. Từ lúc được Thầy báo tin giây phút chia tay, hình ảnh gai nhọn lại hiện về. Lần trước chia tay không thành. Mũi gai và vòng tay chúc bình an là một. Người học trò bịn rịn mồ hôi cho một cuộc lên đường. Sau cùng Ðức Kitô đã đến.

Trong là ngơ ngác khó hiểu. Ngoài là ngạc nhiên buông xuống. Người học trò chăm chăm nhìn Ðức Kitô xa lạ. Chàng chẳng thể nhận ra. Vòng gai và Ðức Kitô không thể tách rời. Thiếu vòng gai Ðức Kitô không còn là Ðức Kitô nữa. Người học trò hỏi người khách lạ.

Ông là ai?

Ðức Kitô trả lời:

Con không nhớ là Thầy hẹn ở đây để chúng ta có nghi thức chia tay sao?

Phân vân, người học trò nhìn lên mặt Ðức Kitô rồi xác quyết:

Không! Ông không phải là Thầy tôi. Nhưng ông là ai mà biết bí mật câu chuyện giữa tôi và Thầy tôi?

Ðã bao năm theo Thầy mà con không nhận ra giọng nói của Thầy sao?

Người học trò càng phân vân hơn nữa. Có lẽ là giọng nói đó chăng, nhưng còn vòng gai đâu. Dấu hiệu của Thầy mình là vòng gai hay giọng nói?

Mẩu đối thoại tiếp tục. Theo dõi hai người nói chuyện mà mặt trời lại hồi hộp ngừng thở và nắng sợ hãi lo âu không biết những gì sắp sẩy ra. Một bên nhận là Thầy. Một bên chối là không. Người học trò mỗi lúc mỗi liên tưởng đến vòng gai nhọn mà thấy khuôn mặt người khách lạ này khác Thầy mình quá. Khuôn mặt Ðức Kitô không có vòng gai trông lạ lẫm làm sao!

Rồi trời lại về những hoang mang. Rồi đất lại đi những ngập ngừng. Cuộc chia tay lần thứ hai không thành. Nắng đã lên cao trên đỉnh đồi. Nắng đổ xuống chói chang đọng vào tim người học trò những găy gắt.

* * *

Bạn thân mến, Ðức Kitô có hai khuôn mặt. Lúc Ngài lang thang ở biển hồ Galilê, lúc gọi các môn đệ theo mình, Ngài không có vòng gai trên đầu. Những ngày theo Thầy học đạo, các môn đệ chỉ theo Thầy để học bằng lời.

Sau biến cố Golgotha, từ ngày Ðức Kitô bị treo trên thập giá, khuôn mặt Ngài mang chứng tích tình yêu và cứu độ là vòng gai trên đầu. Theo Ðức Kitô để học là theo 3 năm Ðức Kitô dạy phải chết thế nào cho trọn lời Kinh thánh. Còn theo Ðức Kitô làm chứng nhân là theo Ðức Kitô sau biến cố tử nạn, là theo một khuôn mặt luôn luôn có vòng gai trên đầu. Từ ngày tử nạn thì tấm căn cước, chứng minh nhân dân của Ngài luôn luôn có vòng gai.

Hôm nay theo Ðức Kitô là làm chứng nhân chứ không phải chỉ nói về Ngài. Bỏ vòng gai trên đầu Ðức Kitô không còn là Ðức Kitô nữa. Bỏ vòng gai trên đầu, Ðức Kitô không vào phục sinh được. Vinh quang và đau thương là một. Không thể chỉ có một Ðức Kitô rao giảng mà không có Ðức Kitô bị đóng đinh. Không thể tách rời thập giá vòng gai và ơn cứu độ. Ðức Kitô chỉ rao giảng mà không vào khổ nạn đấy không phải là Ðức Kitô thật. Bởi đó, kẻ chỉ theo Ðức Kitô cắt nghĩa Kinh Thánh mà không theo Ðức Kitô vòng gai là một loại ngôn sứ giả hiệu.

* * *

Ðã hai lần người học trò không xuống núi làm chứng nhân được. Bây giờ là lần thứ ba. Bạn có nghĩ lần này người học trò xuống núi được không. Khi biết rõ theo Thầy học Kinh Thánh thì khác mà theo Thầy làm nhân chứng thì khác. Khi biết rõ vòng gai và nụ hôn là một không thể tách rời. Khi biết rõ Thầy mình luôn luôn mang vòng gai, và theo Thầy bây giờ là theo khuôn mặt vòng gai ấy, người học trò sẽ từ bỏ lý tưởng làm con diều lộng gió hay sẽ tiếp tục.

Trở về câu hỏi riêng tư của lòng mình, lần thứ ba này là của riêng bạn, của riêng tôi. Biết rõ nghĩa trang là đường vào sự sống và thinh lặng là âm nhạc. Biết rõ làm chứng nhân là theo Ðức Kitô có vòng gai. Biết rõ thập giá và phục sinh không thể tách rời. Chúng ta có theo Ngài không? Trong cõi tim mình tôi đi tìm câu trả lời cho riêng tôi, bạn tìm câu trả lời cho riêng bạn, vì tiếng gọi là một lựa chọn tự do. Thôi chúng ta phải chia tay ở đây.

Còn lần thứ ba đã xẩy ra những gì cho người học trò? Câu chuyện quá riêng tư, mà thế giới riêng tư thì chẳng phải của bạn, chẳng phải của tôi, cứ để cho người học trò đó thế giới của anh ta. Như thế chắc ta chẳng nên băn khoăn tìm hiểu lần thứ ba của người học trò làm gì.


83. XÉT ĐOÁN

Ðừng tự xét đoán, tự nó đã nói lên phần nào tính chất mơ hồ rồi. Xét đoán được ghép bởi hai động từ khác nhau là xétđoán. Xét là tìm hiểu. Ðoán là phỏng chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, phải kiếm nguyên nhân, phải phân tích để có dữ kiện rõ ràng. Ðoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy. Ðộng từ đoán dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và cũng có phần đoán. Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nẩy sinh từ đó.

Trước khi tìm hiểu Kinh Thánh nói về vần đề xét đoán, tôi muốn nhìn xét đoán trong một yếu tố liên hệ giữa con người trên bình diện tự nhiên. Yếu tố đó là: phức tạp của vấn đề trong việc xét đoán. Có hai thứ phức tạp. Phức tạp nơi đối tượng bị xét đoán, chẳng hạn như hoàn cảnh, lương tâm của khách thể. Và phức tạp nơi chủ thể xét đoán, chẳng hạn như giới hạn tri thức của chủ thể, ảnh hưởng tình cảm của chủ thể khi xét đoán.


Phức tạp nơi đối tượng

"Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Dòng nước chảy. Ðã đi. Sẽ mất mãi. Chẳng ai có được hai lần cái tâm tình lúc tuổi mười tám. Hôm qua đứng bên dòng sông. Hôm nay trở lại. Dòng sông còn đó. Tôi còn đây. Nhưng không phải là tôi của ngày hôm qua. Không phải là dòng sông hôm cũ. Nước hôm qua của dòng sông đã mất. Mây trên bầu trời hôm qua đã tan loãng. Ðâu rồi? Và tôi, tâm tình cũng đã đổi thay. Hôm qua gặp dòng sông thì tâm tình của tôi không thể là nhớ dòng sông được, vì đã xa cách đâu mà nhớ. Hôm nay trở lại, vì có nhớ dòng sông tôi mới tìm đến. Như vậy, trong tôi đã mang chất nhớ nhiều hơn hôm qua. Tất cả đều biến chuyển. Khi xét một vấn đề mà xét trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi thì khó mà chính xác. Trong tôi có thương, nhưng đồng thời cũng có giận. Tôi ghét đó, nhưng tôi vẫn yêu. Ðâu là ranh giới mà phương pháp khoa học có thể vẽ lằn mức rõ ràng?

Khi xét một vấn đề phải xét trong bối cảnh của nó. Mà hoàn cảnh của mỗi người là một thế giới chằng chịt những phức tạp chi ly. Tôi cũng chưa biết rõ về tôi đủ thì làm sao có thể biết rõ về người? Càng phức tạp thì càng dễ có sai lầm.

Xét một vấn đề lại phải có tiêu chuẩn để xét, nếu không có tiêu chuẩn người ta không thể đi đến kết luận. Hai cộng với hai không phải là ba. Vì tôi đã có tiêu chuẩn hai cộng với hai là bốn. Sống trong tập thể, con người tuân theo tiêu chuẩn của xã hội. Nhưng tiêu chuẩn luân lý sâu thẳm vẫn do chính Chúa trong tiếng nói lương tâm. Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm nói lên rõ điều này. Với tiêu chuẩn của tập thể mà xét đoán thì bà phải ném đá chết vì những hành động tội lỗi. Nhưng tiêu chuẩn của Chúa lại khác. Trước mặt xã hội bà bị kết án. Trước mặt Chúa bà được thứ tha (Yn 8,1-11). "Ngươi chỉ nhìn thấy trước mắt còn Yavê trông thấy điều ẩn náu trong lòng" (1Sam 7). Chính điều "ẩn náu trong lòng" này là yếu tố quyết định tối hậu cho việc xét đoán thì tôi lại không bao giờ biết được.

Ðiều "ẩn náu trong lòng" là lương tâm. Ðề cập đến lương tâm là đề cập đến vấn đề riêng tư nhất. Ðã là riêng tư thì làm sao tôi biết. Mà không biết thì làm sao tôi định lượng giá trị. Tôi có kinh nghiệm của riêng đời tôi. Lương tâm người khác thì tôi đành chịu. Thí dụ, một người ăn trộm một trăm đồng. Hành động ăn trộm chưa phải là tội. Nếu họ bị khủng bố, cưỡng bách thì sao có thể là tội? Tôi thấy hành động ly dị, ngoại tình. Nhưng nguyên do đưa đến? Mức độ ý chí lương tâm của họ ra sao? Tôi không thể biết. Khi không xét được, không biết đủ sự kiện thì tôi đoán chừng. Có đoán chừng là có sai lạc.

Hành động phạm tội chưa phải là tội cho đến khi có mặt của ý chí và lý trí. Mà mức độ ý chí, khả năng lý trí, lương tâm kẻ khác thì tôi không biết. Như vậy, xét đoán của tôi có thể dựa trên hành động ngoại tại. Mà hành động bên ngoài, tự nó chưa có giá trị quyết định, thì công việc xét đoán của tôi có giá trị không? Làm sao có thể có một giá trị vững chắc khi mà giá trị đó xây dựng trên một nền tảng không có giá trị vững chắc? "Ngươi là ai mà xét đoán gia nhân người khác? Nó đứng hay nó ngã, mặc chủ nó, song nó sẽ đứng vững, vì Chúa có đủ quyền năng cho nó đứng vững" (Rom 14,4).


Phức tạp nơi chủ thể

Cái phức tạp rõ ràng nơi tôi là sự giới hạn tri thức của tôi. Có điều hôm qua nhớ, hôm nay đã quên. Trí tuệ và sự hiểu biết không hoàn hảo thì không bao giờ tôi có một xét đoán hoàn toàn trung thực. Muốn xét đoán đúng, tôi phải biết rõ, thông suốt. Ðiều này chỉ có Chúa mới đủ khả năng mà thôi.

Tôi đã có hình ảnh không đẹp về một linh mục. Gần một năm trời tôi nhìn linh mục với hình ảnh như vậy. Mùa hè năm đó, linh mục mua cây về trồng chung quanh nhà xứ. Việc đào hố trồng cây đã không được tính toán kỹ, nên phải làm đi làm lại nhiều lần. Số tiền trả nhân công quá tốn. Tôi thấy linh mục làm việc không có chương trình, kế hoạch rõ ràng. Số tiền ấy để làm được bao nhiêu việc quan trọng khác? Mùa hè năm sau, trở lại giáo xứ cũ, Chúa đã cho tôi một ân sủng, một kinh nghiệm về xét đoán tha nhân. Ðối với tôi, linh mục đã là người tiêu tiền của nhà xứ không tính toán. Mùa hè lần này, trong lúc nói chuyện với cha già đã về hưu, tôi phàn nàn về việc cha xứ tiêu tiền như vậy. Lúc đó, cha già cắt nghĩa cho tôi hiểu là trong giáo xứ có mấy gia đình nghèo quá không đủ gạo ăn. Cha xứ thì tế nhị không muốn giúp đỡ họ bằng tiền bạc vì họ sẽ mang ơn. Cha đã bày việc để gọi mấy đứa con của họ đến nhà xứ làm, hầu cha xứ lấy cớ trả công cho họ. Hành động quá tế nhị đến nỗi họ không hề biết là cha xứ muốn giúp đỡ gia đình họ. Cha muốn họ nghĩ là tiền lương do công của con họ làm để họ khỏi phải mang ơn ngài.

Nghe xong câu chuyện, tôi thấy như nắng chiều nhạt xuống. Nặng nề trong hồn. Ðó là hình ảnh quá đẹp của một linh mục sống đức tin. Tôi thấy mình đã nhỏ nhoi và tầm thường. Gần một năm trời tôi đã giữ hình ảnh không đẹp về linh mục đó. Bây giờ tôi mới hiểu những việc rất thường mà tiền công thì cha trả rất nhiều. Ðối với tôi, linh mục đã là người không biết tính toán để tốn tiền bạc. Nhưng chính ngài đã tính toán rất cẩn thận để tìm lối giúp đỡ giáo dân của mình. Tình thương bao giờ cũng có sáng kiến.

Nếu tôi đem câu chuyện linh mục tiêu phí tiền bạc của nhà xứ mà nói cho những người khác để họ cũng có hình ảnh xấu về linh mục như vậy thì tội nghiệp cho ngài biết bao. Nếu tôi có nói xấu thì chắc ngài cũng không đính chính việc ngài làm. Những tâm hồn cao thuợng là những tâm hồn dám âm thầm chấp nhận đau đớn cho một lý tưởng. Những tâm hồn nhỏ nhen khi thấy người khác im lặng thường coi đó như một chiến thắng. Những xét đoán sai lầm và nói cho người khác để rồi họ không hiểu đúng về một người, trước mặt Chúa có thể là lỗi rất nặng. Phúc Âm thánh Yoan gọi những xét đoán đó là: "Các ngươi căn cứ vào xác thịt mà xét đoán" (Yn 8,15).

Tôi thiếu tri thức nhận diện dữ kiện để nhìn ra sự thật. Tri thức nào có đủ khả năng để đi vào những chi ly, phức tạp như văn hóa, giáo dục, tập quán, gia đình, tâm lý, sức khỏe của cả chủ thể xét đoán và khách thể bị đoán xét?

Một nghịch cảnh thông thường, nhưng đáng sợ nằm ẩn kín trong tôi đó là tình cảm của mình. Thương ai tôi muốn làm vừa lòng người đó. Tôi nhớ. Tôi mong. Nếu nỗi nhớ càng sâu và nỗi mong càng cao thì những sai lầm mà tôi sẵn sàng làm để chiều lòng người đó càng nặng. Tình cảm có sức ma thuật che mờ lý trí và đẩy ý chí vào hành động cuồng dại. Nó quá nhẹ nhàng nên tôi không nghe tiếng động. Nó quá sắc nên tôi không thấy vết thương. Xét đoán của tôi không sao tránh khỏi "căn cứ vào xác thịt mà xét đoán".

* * *

Lạy Chúa, con không thể nhìn thấu suốt tâm hồn tha nhân được, vì thế xét đoán của con bao giờ cũng là xét đoán "căn cứ vào xác thịt". Căn cứ vào xác thịt thì có sai lầm. Khi con xét đoán sai lầm là con gây bất công cho kẻ khác. Xét đoán của con không làm tha nhân ra xấu thêm, nhưng hậu quả của nó là làm con mất bình an. Tâm hồn con không còn thanh thản, tươi sáng nữa, mà vương vấn vì những ý nghĩ đen tối. Con đã tự đem mảnh trời u ám mặc lấy hồn mình.

Từ ý nghĩ xấu về tha nhân sẽ làm con xa tha nhân. từ chỗ xa cho đến chỗ nói thêm về tha nhân những điều họ không có là một bước rất gần. Từ đó, bức tường ngăn cách cứ thế mà xây cao. Nghi kỵ loang ra như một vềt dầu, làm hoen ố tất cả hồ nước xinh đẹp của cuộc sống. Khi con xây tường cũng ngăn cách chính mình. Thí dụ, Phúc Âm đã thuật lại thái độ của Pharisiêu. "Các người thu thuế cùng những kẻ tội lỗi thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài. Và Biệt Phái kêu trách. Họ nói: ông ấy tiếp nhận quân tội lỗi và cùng ăn với chúng" (Lc 15,1-2). Thái độ của những người Pharisiêu luôn luôn là xét đoán. Xét đoán đem đến đối nghịch. Pharisiêu đã tự tách biệt họ ra, nhưng sự tách biệt này lại cô lập chính họ với ân sủng thiêng liêng là chính Chúa.


Phúc Âm dạy về xét đoán

Chỉ có Chúa mới thấu suốt tâm hồn mọi người, nên Chúa Cha đã dành quyền xét xử cho một mình Chúa mà thôi: "Mọi việc xử án ban cho Con" (Yn 5,22). Như thế, khi con phán đoán để xét xử về một người là con giành quyền đó của Chúa. Thánh Yacôbê cũng viết: "Xét đoán anh em là xét đoán Lề Luật. Nếu ngươi xét đoán Lề Luật thì ngươi không còn là kẻ giữ Luật, mà là Thẩm Phán. Chỉ có một Ðấng lập Luật và là Thẩm Phán, Ðấng có quyền cứu rỗi và tiêu diệt. Ngươi là ai mà dám xét đoán đồng loại" (Yc 4,11-12). Con lấy quyền không thuộc về con là con đã tái lập lại tội của Adong, Evà ngày xưa là "muốn trở nên như Thiên Chúa biết cả tốt xấu" (Kn 3,5). Ý nghĩa sâu xa của tội xét đoán là ở đó, chứ không phải chỉ là gây bất công.

Với tiêu chuẩn của xã hội, khi thấy một người sa ngã, xã hội kết án ngay. Kẻ bị kết án thì đau khổ một mình. Nhưng nguyên nhân của sa ngã có thể là do một người khác đã rải gai xuống lối đi của họ. Biết đâu những gai đó đã do chính con gây ra.

Hoàn cảnh, lương tâm của một người là vùng đất vô cùng thánh, con không thể dẵm chân vào được, chỉ có Chúa mà thôi.

Chúa đã căn dặn con trong Phúc Âm thánh Yoan rất chi tiết: "Ta không xét xử ai, và nếu ta có xét xử, thì án của Ta chân thật, vì Ta không chỉ một mình nhưng có Ta và Ðấng đã sai Ta" (Yn 8,15-16). Trong mọi biến cố, Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, rồi thi hành ý của Chúa Cha. Riêng việc xét xử, thì chẳng những Chúa xét xử theo ý Chúa Cha, hơn nữa, Chúa không xét xử một mình, mặc dù đã được Chúa Cha trao quyền, mà Chúa lại còn xin Chúa Cha xét xử cùng với mình. Cách cư xử cẩn thận của Chúa làm con lo sợ vì đã bao lần con quá coi thường, xét xử tha nhân.

Thánh Phaolô cũng căn dặn con: "Chính điều ngươi xét đoán kẻ khác, ngươi kết án chính mình ngươi" (Rom 2,1). Và khi con xét đoán người khác là con "khinh thường kho tàng phong phú là lòng nhân từ, kiên nhẫn và quảng đại của Chúa" (Rom 2,4).

- Nếu con cần lòng nhân từ của Chúa đối với con thì tại sao lại khinh thường lòng nhân từ của Chúa với người khác?

- Nếu con cần lòng kiên nhẫn của Chúa để con có thời gian làm lại cuộc đời sau khi lầm lỗi thì tại sao con lại khinh thường lòng kiên nhẫn của Chúa với người khác?

- Nếu con cần lòng quảng đại của Chúa đối với sa ngã của con thì tại sao con lại khinh thường lòng quảng đại của Chúa với người khác?

Lạy Chúa, con cần ơn Chúa rất nhiều để kìm hãm mình khi con muốn xét đoán kẻ khác, vì đây là lời mời gọi cám dỗ rất nguy hiểm, nó đã gây nên biết bao đổ vỡ, xa cách. Một thứ cám dỗ rất nguy hiểm được bao bọc bằng những lý do hết sức tinh vi.