SẮC LỆNH VỀ ÐÀO TẠO LINH MỤC

Optatam Totius

Nguồn: https://vntaiwan.catholic.org.tw/

Lời Giới Thiệu

Ðể đo lường tất cả những gì Sắc Lệnh về Ðào Tạo Linh Mục mang lại, trước tiên, chúng ta hãy nhìn qua chính việc đào tạo các Linh Mục qua các thời đại, từ thời Giáo Hội sơ khai đến thời Công Ðồng Triden - lúc các chủng viện được thành lập - và từ thời đó đến thời Công Ðồng Vaticanô II. Sau đó chúng ta sẽ nêu lên nguồn gốc và sự tiến triển của chính bản Sắc Lệnh; rồi chúng ta sẽ tóm lược nội dung bản văn để rút tỉa những viễn tượng mới mẻ và những lợi ích của Sắc Lệnh. Sau cùng là một vài trang về tài liệu hướng dẫn tham khảo giúp những ai muốn tìm hiểu vấn đề một cách sâu rộng hơn.

I. Quá Trình Lịch Sử Về Việc Ðào Tạo Linh Mục

A. Từ thời thượng cổ đến thời Công Ðồng Triden

Các vị chăn dắt Giáo Hội sơ khai thường được tuyển chọn trong số các giáo hữu trưởng thành sống bên cạnh các Thánh Tông Ðồ và những môn đệ trực tiếp của Chúa. Họ rao giảng Phúc Âm, chủ tọa các buổi họp, "ban phát bánh" như chính Chúa Giêsu đã làm. Những trẻ em Kitô giáo, cũng như các trẻ em khác, đều theo học nền giáo dục cổ điển La Hy do các giáo sư Kitô giáo hay lương dân chỉ dạy. Khi hoàng đế Giulianô cấm các nhà giáo dục Kitô hữu với sắc lệnh ngày 17-6-362, người ta nhận thấy các nhà giáo dục Kitô hữu đã tìm phương thế thiết lập những trường Kitô giáo nhưng lại dạy theo lối cổ điển: đó là hai giáo sư Apollinarios Tiền và Apollinarios Hậu. Họ phỏng tác năm cuốn đầu của Cựu Ước theo thể văn thơ, những sách sử ký của Cựu ước theo văn thể kịch, và những bản văn của Tân Ước dưới nhiều hình thức phỏng theo Plato. Khi sắc lệnh ngăn cấm được bãi bỏ, năm 364 các giáo sư và học sinh Kitô hữu trở lại với các trường cổ điển. Nếu thời ấy không có những trường học Kitô giáo đặc biệt dành riêng cho các lớp tiểu học và trung học, thì lại có những trường cho các lớp cao hơn. Những giáo sư như thánh Giustinô, thánh Clementê thành Alexandria, Origenê đã mở phân khoa triết học Kitô giáo với mục đích chống lại chủ trương muốn hạ vấn đề mạc khải xuống bậc hiểu biết thuần túy tự nhiên.

Những vị giáo sư rất hùng biện này đã đào sâu và trình bày đạo lý Kitô giáo theo đòi hỏi của các nhu cầu thời đại. Dĩ nhiên những trường này hầu hết đều dựa vào việc học hỏi vững chắc về Thánh Kinh và đào tạo cho Giáo Hội những vị Linh Mục và Giám Mục, nhất là ở Rôma và ở Alexandria. Tuy nhiên hầu hết những giáo sĩ được tuyển chọn đều nhờ sự tiếp xúc cá nhân với các Giám Mục hay Linh Mục đứng tuổi tại địa phương. Thánh Augustinô đã thành lập chủng viện theo phương cách đó: Giám Mục đương kim và linh mục cùng chung sống dưới một kỷ luật, và lời giảng dạy với gương sáng của các đấng chăn dắt là yếu tố chính yếu trong việc đào tạo linh mục. Hình thức này đã lan rộng đến một vài nơi ở Ý, ở Pháp, và ở Tây Ban Nha nhưng không kéo dài được bao lâu.

Vào thời Trung Cổ, các nơi tu học được liên kết với các học viện lớn để rồi dần dần trở thành những chủng viện của các dòng này, và đã bảo đảm việc đào tạo các linh mục tương lai của dòng. Vào khoảng năm 826, Ðức Giáo Hoàng Eugeniô II, trong Công Ðồng họp ở Rôma, đã yêu cầu thiết lập trường học bên cạnh mỗi nhà thờ chánh tòa để giáo dục thanh thiếu niên và để chuẩn bị hàng giáo sĩ tương lai.

Chẳng bao lâu, với đà phát triển của các đại học, những trường trung học và nội trú được thành lập bên cạnh các đại học để cho các tu sĩ lui tới tham dự. Nhưng số tu sĩ tham dự lại quá ít, và ngoài số các tu sĩ có trình độ học vấn cao đó, phần lớn các tu sĩ tiếp tục thụ giáo tại nhà để đạt một sự hiểu biết khái quát mà thôi.

Vào năm 1179, Công Ðồng Lateranô III ca ngợi việc thành lập các trường giáo phận trong toàn thể Giáo Hội. Công Ðồng Lateranô IV năm 1215 nhấn mạnh rằng tại mỗi trường như thế cần phải có một giáo sư thần học đầy đủ tư cách để dạy Thánh Kinh và Mục Vụ cho các linh mục tương lai. Ðức Giáo Hoàng Honoriô III (năm 1183) trong sắc lệnh "Super Specula" và Ðức Bonifaciô VIII (năm 1289) trong sắc lệnh "Cum ex Eo" cũng đã đặc biệt chú trọng đến vấn đề đào tạo linh mục.

Vào thời Phục Hưng, người ta cho rằng một trong những khó khăn trầm trọng của Giáo Hội chính là việc thiếu chuẩn bị chu đáo cho công trình đào tạo linh mục. Phong trào ly giáo phát khởi từ Luther lại biến nhu cầu cấp bách đó thành mãnh liệt hơn. Do đó Công Ðồng Triden nhất quyết đương đầu với vấn đề này.

 

B. Công trình của Công Ðồng Triden đối với việc đào tạo linh mục

Công trình này không đột khởi như một "ngẫu sinh". Cũng nên biết rằng chính các linh mục dòng Tên tiên khởi đã cảm thấy nhu cầu đó. Trong suốt thời giảng đạo ở Ðức, từ năm 1542-1545, một đồ đệ của thánh Inhaxiô thành Loyola đã từng nhấn mạnh về việc cần phải thiết lập những học viện đặc biệt để giúp tu sinh. Ðã có người quan tâm tới ý kiến của ngài: đó là Ðức Hồng Y Giovanni Morone, người đã giúp thánh Inhaxiô thành lập ở Rôma một Học Viện Ðức vào năm 1552 cho những linh mục tương lai sắp được gởi sang Ðức. Họ cư ngụ ở Học Viện Ðức nhưng theo học ở Học Viện Rôma (thánh Inhaxiô thành lập Học Viện này trước đó hai năm để đào tạo các linh mục dòng Tên). Thêm vào số đó còn có rất nhiều tu sĩ ở các nơi khác cũng đến học. Lúc đó Học Viện Rôma có tới 300 sinh viên (trong số có 60 tu sinh) và con số đã lên đến 1,000 vào năm 1567. Các trường giáo phận được canh tân ở một vài nơi: Ðức Giám Mục Gian Matteo Giberti de Verona với "trường trợ sĩ" ở Verona; giảng sư J. Kayserberg đã tích cực góp ý kiến cho Giám Mục Albert de Barrière để bổ khuyết cho trường giáo phận một học viện thần học. Ngay cả những anh em ly khai cũng đã chú ý đến vấn đề này: Tổng Giám Mục Catobury là Thomas Crammer (1489-1556) đã canh tân những trường giáo phận trong năm 1553.

Lược đồ đầu tiên trình bày ở Công Ðồng Triden được gợi hứng một cách trung thực do bản văn của Ðức Hồng Y Reginald Pole: "De Seminariis Erigendis" trong giáo luật số 11 của cuộc họp Thượng Hội Ðồng ở nước Anh năm 1556. Người ta cũng đã thành lập một ủy ban nghiên cứu về sự lạm dụng trong việc ban chức phẩm và tìm kiếm những phương thế để tu sửa lại bằng nỗ lực đào tạo giáo sĩ một cách tốt đẹp. Năm 1563 ủy ban đã thâu góp được nhiều tập kỷ yếu khác nhau: kỷ yếu của Ðức Tổng Giám Mục Ragusa Louis Beccadelli gợi ý thành lập chủng viện, kỷ yếu của Tổng Giám Mục Reins ca ngợi sự canh tân các trường giáo phận. Sau cùng hoàng đế Ferdinand I, em ruột của Carlos Quinto, yêu cầu thiết lập những trường dành riêng cho giáo sĩ bên cạnh các đại học.

Năm 1563, Công Ðồng Triden dành trọn mục 18 của phiên họp thứ 23 cho vấn đề hệ trọng này. Ðây là những nét chính: mỗi giáo phận phải có một tiểu chủng viện bên cạnh nhà thờ chính tòa; nếu không thể được, có thể lập một tiểu chủng viện chung cho những giáo phận lân cận; không nhận những trẻ em dưới 12 tuổi vào tiểu chủng viện vì chúng chưa ý thức đủ và rõ ràng về thiên chức Linh Mục. Nên nhận những trẻ em nghèo; những trẻ em giàu muốn được thu nhận phải đóng lệ phí. Phải có Thánh Lễ mỗi ngày cho mọi người tham dự. Cho hồi tục tức khắc những kẻ bất tuân và những kẻ không có ơn kêu gọi. Phải lựa chọn kỹ lưỡng những linh mục phụ trách công việc hệ trọng này. Lợi tức và tiền quyên trong giáo phận được dùng để giúp đỡ chủng viện. Chính Ðức Giám Mục đích thân điều hành chủng viện, bên cạnh ngài có hai hội đồng phụ tá: một hội đồng kỷ luật và linh hướng, một hội đồng tài chánh.

 

C. Áp dụng Sắc Lệnh của Công Ðồng Triden

Ðức Giáo Hoàng Piô IV đã nêu gương bằng cách thiết lập tại Rôma một chủng viện vào năm 1565. Rất nhiều Công Ðồng Miền thêm một số quy luật về thành lập chủng viện khắp nơi.

Thánh Carolô Borromeô là một trong những nhà vô địch của vấn đề canh tân theo chiều hướng Công Ðồng: tuy ở Milan chẳng bao lâu, ngài cũng đã mở một chủng viện cho 150 sinh viên học về Giáo Hội. Ngài cũng thiết lập "La Canonisa" cho những người tuy không có năng khiếu về môn học này nhưng có dịp thể hiện niềm hy vọng trở thành linh mục nhân đức và nhiệt thành: có 60 sinh viên được đào tạo với một căn bản vững chắc về Thánh Kinh, thần học tín lý và mục vụ. Sau đó ngài còn thiết lập 3 chủng viện "dự bị": một cho lớp người đứng tuổi, một cho thanh niên và một cho thiếu niên. Ngài mời các cha Dòng Tên cộng tác trong chủng viện và chính ngài cũng hô hào phong trào "góp công góp của" (theo gương Thánh Ambrosiô) để nuôi sống chủng viện. Ngài viết tập "Institutiones ad unversum seminarii regimen pertinentes".

Ở Pháp, Ðức Hồng Y Charles de Lorraine, Tổng Giám Mục Reins là người đầu tiên áp dụng Sắc Lệnh Công Ðồng Triden; dầu chiến tranh tôn giáo đã làm chậm trễ nhiều nhưng ngài cũng đã thành công trong việc thực hiện. Ba vĩ nhân tên tuổi trong việc thực hiện sắc lệnh của Công Ðồng ở Pháp là: Thánh Vincent de Paul, Cha J.J. Olier và Thánh Jean Eudes.

Thánh Vincent de Paul bắt đầu bằng việc mở một cuộc họp suốt mười ngày để huấn đức cho các linh mục tương lai; sau đó việc huấn đức biến thành một giai đoạn học tập trong vòng 2 hoặc 3 năm kể từ khi mãn triết học cho đến lúc thụ phong linh mục. Năm 1635 ngài mở một phân khoa thần học ở Học Viện "Des Bons Enfants", rồi ở St. Lazare cho phân khoa nhân văn. Vào năm 1642 ngài cũng thành lập một chủng viện. Lúc cách mạng 1789 xảy ra, các linh mục của Hội Truyền Giáo (do thánh Vincent de Paul sáng lập) đã điều khiển đến một phần ba những chủng viện ở Pháp: khoàng 53 đại chủng viện và 9 tiểu chủng viện.

Cha Olier thành lập chủng viện quốc gia tại họ đạo St. Sulpice ở Paris, và hai năm sau tức năm 1644, ngài nhận chủng sinh của 20 giáo phận khắp nước Pháp gởi đến. Vào năm 1651 ngài phát hành một bản qui luật mô phỏng theo "các qui luật của chủng viện". Các linh mục của chủng viện này cũng đã đích thân giúp đỡ những chủng viện khác theo sự yêu cầu của các Giám Mục.

Thánh Jean Eudes, nhà giảng thuyết và cũng là sáng lập viên dòng Thánh Tâm, lập một chủng viện ở Caen năm 1663. Sau đó một thế kỷ, các linh mục của chủng viện này trở thành những nhà giáo dục của 40 chủng viện.

Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã gây ra những hậu quả tai hại cho công trình thiết lập chủng viện ở Âu Châu: hầu hết các chủng viện đều phải đóng cửa hay giải tán. Vào thế kỷ XIX, dần dần các chủng viện lại được tái lập khắp nơi. Vào thời đại này, Ðức Giáo Hoàng Piô X phục hưng Giáo Triều Rôma và đặc biệt nâng đỡ các đại học. Năm 1915, Ðức Beneđictô XV thêm vào Thánh Bộ về đại học một Thánh Bộ về chủng viện. Những khoản luật (1357-1377) của bộ Giáo luật mới năm 1918 tiế tục xác định điều đó.

Tóm lại, các vị Giáo Hoàng đã bận tâm rất nhiều về vấn đề đào tạo hàng Giáo Sĩ. Trong thế kỷ XX này, tất cả những bận tâm ấy đã trở thành một "tài liệu" quí giá cho vấn đề đào tạo các linh mục: chính Công Ðồng Vaticanô II đã ghi rõ điều đó trong "lời mở đầu" của "Sắc Lệnh về Ðào Tạo Linh Mục".

 

II. Nguồn Gốc Và Sự Phát Triển Của Bản Văn "Sắc Lệnh Về Ðào Tạo Linh Mục"

Ðược triệu tập trong chiều hướng mục vụ hơn là tín lý, Công Ðồng Vaticanô II không thể không đưa lên hàng đầu mối quan tâm về viêc đào tạo các linh mục tương lai. Với truyền thống sống động luôn đổi mới "giống như tế bào của một đại thân thể" (theo lời Ðức Giám Mục Brunon), và với nền tảng kinh nghiệm của hàng chục thế kỷ. Giáo Hội muốn nghiên cứu lại lãnh vực này và canh tân phương pháp để việc chuẩn bị các linh mục được hữu hiệu hơn. Sắc Lệnh đáp ứng lại mối ưu tư của tất cả các nghị Phụ Công Ðồng. Ðược các phiên họp ban đầu sửa soạn chu đáo, bản văn là một thành quả đã được vun tưới và chín mùi do việc học hỏi và đào sâu tất cả những vấn đề khác của Công Ðồng. Bản văn được bỏ phiếu chấp thuận hầu như tuyệt đối ngày 29-10-1965 trong suốt phiên họp cuối cùng.

Chúng ta tuần tự ghi lại những giai đoạn cấu thành Sắc Lệnh quan trọng này:

-        5-6-1960: Tự Sắc "Superno Dei Nutu" thành lập 10 Ủy Ban chuẩn bị Công Ðồng. Ủy Ban thứ Bảy là ủy ban lo về vấn đề giáo dục và chủng viện Chủ Tịch Ủy Ban là Ðức Hồng Y Pizzardo; Ủy Ban có 90 hội viên gồm 19 quốc gia. 32 cố vấn thuộc 8 quốc gia: tất cả đều được chính Ðức Giáo Hoàng triệu tập.

-        24-2-1962: Ðức Hồng Y Pizzardo trình bày ở phiên họp thứ tư của ủy Ban Trung Ương hai bản văn đã được soạn thảo từ năm 1960 và đã được thông tri cho các Giám Mục.

-        Lược đồ A1: Sắc Lệnh về việc "cổ võ ơn thiên triệu trong Giáo Hội".

-        Lược đồ A2: Hiến chế về việc đào tạo các chủng sinh có chức thánh".

-        27-2-1965: Kết thúc phiên họp thứ tư của Ủy Ban Trung Ương. Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói: "Chúng con hãy biết rằng những vấn đề đó (ơn kêu gọi, chủng viện) đã ăn rễ sâu trong tim Cha".

-        12-6-1962: Kết quả cuộc bàn cãi: một lược đồ mới thành hình: lược đồ B, gồm tóm cả hai lược đồ A1 và A2.

-        16-10-1962: Các Nghị Phụ Công Ðồng chọn 16 nhân viên vào tân Ủy Ban; Ðức Giáo Hoàng cho thêm 9 nhân viên nữa: Ủy Ban đại diện cho 16 quốc gia.

-        21-2-1963 đến 2-3-1963: Duyệt kỹ lại lược đồ B; lược đồ C ra đời, sẵn sàng gởi đến các Nghị Phụ Công Ðồng vào tháng 5.

-        4-1964: Sau khi đúc kết ý kiến của các Nghị Phụ và các Hội Ðồng Giám Mục, một bản văn mới lại được đưa ra: lược đồ D.

-        3 đến 11-3-1964: Ủy Ban duyệt lại bản văn D và rút gọn lại, do đó có lược đồ E: "Sacra synodus" được gởi tới tận tay các Nghị Phụ ngày 27-7-1964.

-        9 và 10-1964: Duyệt lại lược đồ E theo những đề nghị nhận được, lược đồ F ra đời và được gởi đến các Nghị Phụ vào tháng 11.

-        12-11-1964: Sau bài thuyết trình của Ðức Cha Carraro, nguyên Viện Trưởng chủng viện Treviso, bản văn được bàn cãi trong Công Ðồng suốt bốn ngày. Có tới 32 lần phát biểu ý kiến (trong đó có bốn lần thuộc các xứ truyền giáo) và 67 lần góp ý bằng thư.

-        17-11-1964: Bản văn hầu như được chấp thuận hoàn toàn nhưng có tới 1,358 đề nghị tu chỉnh.

-        5-1965:Bản văn mới, lược đồ G, hoàn tất sau khi Ủy Ban đã cố gắng đưa vào nhiều đề nghị tu chỉnh.

-        11-10-1965: Kỳ họp IV Công Ðồng: bỏ phiếu chung quyết. Trước tiên là bỏ phiếu các số của Sắc Lệnh.

-        13-10-1965: Sau đó bỏ phiếu chung cho lược đồ G: có 2,196 phiếu thuận trong số 2,212.

-        28-10-1965: Bỏ phiếu công bố chính thức: trong tổng số 2,321 phiếu có tới 2,318 phiếu thuận và chỉ có 3 phiếu chống. Thế là lược đồ H thành bản văn chính thức của Sắc Lệnh.

Trong tất cả những văn kiện của Công Ðồng, chỉ có 2 Sắc Lệnh: tức Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân (với 2 phiếu chống) và Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục (với 2 phiếu chống và một phiếu bất hợp lệ) là đạt được đa số tuyệt đối cao hơn Sắc Lệnh này. Có thể nói rằng bản văn này là kết tinh của bao nỗ lực của Công Ðồng và đã mang lại cho Giáo Hội hôm nay những định hướng quan trọng. Vì vậy, mặc dù những khủng hoảng hiện nay, nó vẫn cho ta thấy trước một cuộc canh tân và một thành quả có thể làm cho tâm hồn các vị chủ chăn tràn đầy tin tưởng.

 

III Tổng Quát Về Nội Dung Sắc Lệnh

Lời mở đầu: Tầm quan trọng và giá trị phổ quát của vấn đề đối với việc canh tân.

Chương I:

-        Số 1: Phương thức đào tạo phải được áp dụng trong mỗi quốc gia: sự đồng nhất và thích nghi.

Chương II:

-        Số 2: Ân cần cổ võ ơn thiên triệu linh mục là việc chung của mọi người: gia đình, giáo xứ, nhà giáo dục, linh mục, giám mục; chỉnh đốn hành động để đáp ứng với hành động của Chúa Quan Phòng; phương tiện cổ truyền và mới mẻ.

-        Số 3: Ðối tượng của số này: các Tiểu Chủng Viện; cung ứng một nền giáo dục vững chắc và thích hợp về nhân bản và thiêng liêng; về những thanh thiếu niên thuộc các ngành giáo dục khác và những ơn kêu gọi muộn.

Chương III: Tổ chức các Ðại Chủng Viện.

-        Số 4: Sự cần thiết và mục đích của mục vụ đòi phải đào tạo chủng sinh dưới mọi khía cạnh.

-        Số 5: Vấn đề quan trọng: các nhà giáo dục phải được chọn lựa, chuẩn bị, thống nhất chặt chẽ, được Giám Mục và tất cả các linh mục trong giáo phận khuyến khích: tất cả mọi người giúp đỡ chủng viện.

-        Số 6: Nghiên cứu về ơn thiên triệu: ý ngay lành, tự do, khả năng, sự kiên quyết.

-        Số 7: Chủng Viện từng vùng: để có một nhóm những nhà giáo dục hoàn hảo. Chú trọng đến phẩm cách những kẻ thụ giáo: nếu nhóm quá đông, nên thành lập những nhóm nhỏ hơn, có người hướng dẫn đàng hoàng.

Chương IV: Huấn luyện tu đức vững chắc.

-        Số 8: Ðào tạo đời sống mật thiết với Chúa Ba Ngôi, Chúa Kitô, Ðức Mẹ: một đời sống cầu nguyện theo tinh thần Phúc Âm và nhiệt thành.

-        Số 9: Ðào tạo tinh thần Giáo Hội: cộng tác viên tương lai của các Giám Mục, những cộng sự viên của các Linh Mục khác, trong tinh thần phục vụ khiêm nhượng, vâng lời với trách nhiệm, nghèo khó, tin tưởng vào ơn thiên triệu.

-        Số 10: Ðào tạo một đời sống độc thân linh mục: một động lực siêu nhiên, cánh chung và tông đồ, một ân huệ do sự kiên tâm cầu nguyện đem lại. Ý thức rõ ràng về hôn nhân. Chấp nhận sự từ bỏ ấy trong tự do và ý thức.

-        Số 11: Ðào tạo trưởng thành về nhân cách: tính tình, sự bền chí, những đức tính nhân bản, sống kỷ luật với tinh thần siêu nhiên và trong cách sử dụng tự do.

-        Số 12: Phương thế đặc biệt của việc đào tạo: thời gian đào tạo, thời kỳ tập sự giữa các năm học, tuổi truyền chức được ấn định cao hơn, thực tập chức phó tế.

-        Chương V: Các môn học của Giáo Hội.

-        Số 13: Trước hết phải có một nền giáo dục trung đẳng vững chắc về nhân bản và khoa học, phải biết La Ngữ và những cổ ngữ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.

-        Số 14: Ðịnh hướng tiên quyết; học về mầu nhiệm Chúa Cứu Thế và việc Cứu Chuộc, biết dung hòa môn triết học với thần học.

-        Số 15: Triết học: Mục đích: tìm hiểu về con người, vũ trụ, Thiên Chúa; trọng trách bảo vệ gia sản có giá trị ngàn đời, những tương quan triết học hiện đại, đào sâu lịch sử, khuyến khích việc học hỏi cá nhân, chứng minh sự liên quan giữa học thuyết với những vấn đề nhân sinh và mầu nhiệm Cứu Chuộc.

-        Số 16: Thần học: Mục đích: thấu triệt vấn đề mạc khải; sống mạc khải và biết trình bày mạc khải.

o   Thánh Kinh: linh hồn của môn thần học, học biết chú giải, biết những đề tài quan trọng của mạc khải. Thánh Kinh như món ăn thiêng liêng.

o   Tín lý: Bắt đầu từ những đề tài trong Thánh Kinh, minh chứng sự đóng góp của các Giáo Phụ, với sự liên quan lịch sử. Suy luận theo chiều hướng của Thánh Tôma.

o   Luân lý: có tính cách Thánh Kinh hơn và theo chiều hướng bác ái.

o   Giáo luậtGiáo sử: liên quan với mầu nhiệm Giáo Hội.

o   Phụng vụ: Theo "Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh". Học về hiệp nhất và các tôn giáo khác.

-        Số 17: Phương pháp sư phạm: Học hỏi kỹ càng, khuyến khích làm việc riêng, làm việc tập thể, nhằm sự hiệp nhất và tinh thần liên đới; tránh những phiền phức gò bó của luật lệ, nên chọn lựa những vấn đề thực tế hơn.

-        Số 18: Giáo dục nơi đại học: Lựa chọn cẩn thận những người có khả năng thích hợp theo các phân khoa đại học nhưng vẫn tiếp tục hướng dẫn họ về vấn đề tu luyện đạo đức.

-        Chương VI: Vấn đề đào tạo mục vụ nói riêng.

-        Số 19: việc đào tạo mục vụ phải chi phối tất cả các việc đào tạo khác; biết nghệ thuật linh hướng, biết phát triển mọi khả năng đối thoại, biết nghe, biết yêu thương.

-        Số 20: Những môn học bổ túc: Sư phạm, tâm lý xã hội, tông đồ giáo dân, tinh thần tông đồ phổ quát và truyền giáo.

-        Số 21: Thực hành việc tông đồ: Ðó là vấn đề cần thiết trong kỳ nghỉ và suốt thời gian học tập với một phương pháp được người có thẩm quyền hướng dẫn chu đáo; phải xác tín tầm quan trọng ưu tiên của những phương tiện siêu nhiên đối với việc tông đồ.

Chương VII: Việc huấn luyện bổ túc sau khi mãn trường.

-        Số 22: Tiếp tục đào luyện thường xuyên cho các giáo sĩ: nhờ các học viện, qua các kỳ hội thảo, bằng những hoạt động định kỳ.

Kết luận: Trong chiều hướng của Công Ðồng Triden nhưng với một tinh thần mới mẻ, Giáo Hội và Công Ðồng Vaticanô II hy vọng nhiều nơi các linh mục tương lai, vì nhờ sự huấn luyện kỹ càng và thích hợp, các linh mục đó sẽ đạt được những kết quả lâu bền.

 

IV. Viễn Tượng Mới Do Sắc Lệnh Mang Lại

Tuy được cưu mang trước Công Ðồng, nhưng Sắc Lệnh chỉ chào đời vào thời kỳ họp cuối cùng. Có thể nói Sắc Lệnh đã hấp thụ bầu khí của Công Ðồng để chín dần, đã được dinh dưỡng bằng nhựa sống dồi dào và phong phú trong khoảng đất đầy mầu mỡ do những dữ kiện học hỏi giáo lý và mục vụ ở những sắc lệnh khác.

Nơi đây ta còn nhận thấy các quan tâm và định hướng rõ rệt của Công Ðồng Vaticanô II: tính cách ưu tiên của mục vụ trong việc đào tạo, nhấn mạnh việc giáo dục nhân bản, tinh thần hiệp nhất, cởi mở với những trào lưu hiện đại để đưa đến một cuộc đối thoại thực sự, những hoạt động mục vụ trong toàn thể Giáo Hội đối với việc dìu dắt mầm non ơn thiên triệu, tinh thần mới mẻ trong việc học tập rộng rãi các huấn lệnh của Giáo Hội, trách nhiệm tiên phong của những Hội Ðồng Giám Mục đối với những việc liên quan đến phương thức đào tạo các linh mục, nhấn mạnh về vấn đề đào tạo trường kỳ cho giáo sĩ giữa một thế giới luôn luôn đổi mới của thời đại này.

Bởi vậy Sắc Lệnh này phù hợp với tất cả những văn kiện của Công Ðồng Vaticanô II. Tập "Giáo Huấn" ngày 6-1-1970 của Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đã trình bày những tiêu chuẩn đào tạo linh mục tương lai. Với tài liệu này, các Hội Ðồng Giám Mục có trách nhiệm đã được chỉ dẫn đầy đủ. Các linh mục tương lai có thể vững tâm trông cậy hoàn toàn vào Thánh Thần Thiên Chúa, Ðấng đã linh ứng và hướng dẫn Giáo Hội không ngừng, để dọn mình làm linh mục của Chúa Kitô, linh mục của ngày mai và của hết thảy mọi thời đại.

Với Sắc Lệnh này, chúng ta thấy được biết bao tiến bộ về quan niệm đào tạo linh mục. Chỉ cần đọc lại những mệnh lệnh của giáo luật về vấn đề chủng viện cũng đủ để đi đến kết luận rằng: dù mối bận tâm của Giáo Hội đối với những linh mục tương lai trước sau vẫn là một, nhưng tinh thần những định hướng mới mẻ và những chú trọng đặc biệt trong Sắc Lệnh cho chúng ta thấy có một cái gì rất đặc sắc.

Linh mục theo Công Ðồng Vaticanô II là một linh mục kết hiệp với Thầy Chí Thánh, khao khát một đời sống Phúc Âm thực sự, đi theo đường Chúa Giêsu đã đi, và đồng thời là người lo lắng đem thân mình phục vụ anh em và mọi người trong một cuộc gặp gỡ cởi mở, chân thành và thích nghi. Nhờ đó linh mục có thể đem đến cho mọi người Sứ điệp của Chúa Kitô trong một ngôn ngữ dễ hiểu và linh động, cống hiến cho họ ơn cứu rỗi của Chúa Kitô, Ðấng đã tự hiến qua một Giáo Hội có khuôn mặt trẻ trung, có vòng tay và con tim rộng mở chờ đón hết mọi con người của thời đại chúng ta và tất cả mọi dân tộc. Ðồng ý với một quan sát viên Công Ðồng, chúng ta tin rằng: "Ðó là một trong số những bản văn rất cởi mở và rất mới mẻ của Công Ðồng" (Etudes, tháng 1, 1968).


(-s6) Toàn Văn Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục

Sắc Lệnh 1*  về Ðào Tạo Linh Mục 2*

 

Lời Mở Ðầu

Mọi người mong ước canh tân toàn thể Giáo Hội, Thánh Công Ðồng ý thức rõ ràng như thế, và công cuộc canh tân này phần lớn tùy thuộc việc thi hành chức vụ Linh Mục 1 đã được Thần Linh Chúa Kitô thúc đẩy 3*, do đó Thánh Công Ðồng tuyên bố việc Ðào Tạo Linh Mục là việc vô cùng quan trọng và nêu ra một vài nguyên tắc căn bản: các nguyên tắc này xác quyết những qui luật đã được kinh nghiệm ngàn năm 4* chấp nhận và thêm vào đó những nguyên tắc mới cho hợp với các Hiến chế và Sắc lệnh của Thánh Công Ðồng này cũng như với những biến chuyển của thời đại. Vì tính cách duy nhất của chức Linh Mục Công Giáo, nên việc đào tạo Linh Mục là cần thiết cho tất cả các Linh Mục dòng cũng như triều, thuộc bất cứ lễ chế nào. Do đó, những chỉ thị sau đây, tùy trực tiếp nhằm cho hàng Giáo sĩ triều, nhưng cũng phải tùy nghi thích ứng cho tất cả.

 

I. Phương Thức Ðào Tạo Linh Mục Áp Dụng Cho Từng Dân Tộc

1. Việc đào tạo phải phù hợp với địa phương.

Vì có quá nhiều dân tộc và địa phương khác nhau, nên chỉ có thể nêu ra những qui luật tổng quát. Do đó, mỗi dân tộc hay mỗi lễ chế phải áp dụng một "Phương thức đào tạo Linh Mục" riêng, được Hội Ðồng Giám Mục ấn định 2, kiểm nghiệm sau một thời gian và được Tông Tòa phê chuẩn 5*. Nhờ vậy những quy luật phổ quát sẽ được thích nghi với những hoàn cảnh riêng của địa phương và thời đại, để việc đào tạo Linh Mục luôn luôn đáp ứng những nhu cầu mục vụ địa phương, nơi mà các Linh Mục phải thi hành chức vụ.

 

II. Ân Cần Cổ Võ Ơn Thiên Triệu Linh Mục

2. Trách nhiệm của toàn dân Thiên Chúa.

Toàn thể cộng đoàn Kitô hữu có bổn phận cổ võ các ơn thiên triệu 3, mà trước hết phải tiến hành nghĩa vụ ấy bằng một đời sống Kitô hữu trọn vẹn; các gia đình sống tinh thần đức tin, đức mến và đạo hạnh trở nên như chủng viện sơ khởi 6*, còn những giáo xứ là nơi các thanh niên tham dự vào đời sống phong phú của mình. Các giáo chức và tất cả những ai, bằng bất cứ cách nào, lo việc giáo dục thiếu nhi và thanh niên, nhất là những Hội Ðoàn công giáo phải chú tâm đào luyện các thanh thiếu niên được ủy thác cho mình để họ có thể nhận ra ơn thiên triệu và sẵn lòng bước theo. Mọi Linh Mục phải hết sức nêu cao lòng nhiệt thành tông đồ để khích lệ các ơn thiên triệu và lôi cuốn tâm hồn các thanh thiếu niên đến chức Linh Mục, bằng chính đời sống cá nhân khiêm nhượng, cần mẫn, vui tươi, cũng như bằng tình tương thân tương ái và cộng tác huynh đệ giữa các Linh Mục 7*.

Các Giám Mục có nhiệm vụ thúc đẩy đoàn chiên mình cổ võ ơn thiên triệu 8*, và phải lo phối hợp chặt chẽ mọi năng lực cũng như mọi cố gắng. Thực vậy, các ngài phải lấy tình cha con, không quản ngại hy sinh để giúp đỡ những người chính các ngài xét là được gọi làm sản nghiệp Chúa.

Như thế, việc toàn dân Thiên Chúa hăng say hiệp lực cổ võ các ơn thiên triệu sẽ đáp ứng hành động của Chúa Quan Phòng 9*. Chính Ngài ban những ơn thích hợp cho những ai được Ngài tuyển chọn để tham dự chức Linh Mục phẩm trật của Chúa Kitô và Ngài giúp đỡ họ bằng ân sủng, đồng thời còn ủy nhiệm cho các thừa tác viên hợp pháp của Giáo Hội quyền được gọi những ứng sinh mà các ngài nhận thấy có đủ khả năng, đã được thử thách, có ý ngay lành và hoàn toàn tự do xin thi hành chức vụ cao cả này; các ngài còn được quyền thánh hiến họ bằng ấn tích Chúa Thánh Thần để họ phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội 4.

Thánh Công Ðồng trước tiên đề nghị những phương thế hỗ trợ theo truyền thống, thí dụ: thiết tha cầu nguyện, sám hối theo tinh thần Kitô giáo, kể cả việc cung ứng cho các Kitô hữu một kiến thức mỗi ngày mỗi thêm sâu rộng hoặc bằng giảng thuyết và giáo lý, hoặc bằng những phương tiện truyền thống xã hội, để làm sáng tỏ mức khẩn thiết, bản chất và sự cao qúy của ơn thiên triệu Linh Mục 10*. Hơn nữa, Công Ðồng yêu cầu các Hội Cổ Võ ơn thiên triệu đã có hoặc sẽ phải thành lập trong mỗi giáo phận, mỗi miền hoặc mỗi quốc gia theo như các văn kiện của các Ðức Giáo Hoàng, phải tổ chức có phương pháp và hệ thống, lại phải vừa thận trọng vừa hăng say đẩy mạnh toàn thể hoạt động mục vụ nhằm cổ võ ơn thiên triệu, đồng thời đừng bỏ qua những trợ lực hữu ích và thích hợp do khoa tâm lý và xã hội học hiện đại cung cấp 5.

Nhưng công cuộc cổ võ ơn thiên triệu phải rộng rãi vượt khỏi ranh giới của từng giáo phận, quốc gia, dòng tu hoặc lễ chế và lưu tâm đến nhu cầu của toàn thể Giáo Hội 11* để nhất thiết trợ giúp những miền đang khẩn cấp cần đến những thợ làm vườn nho Chúa.

3. Huấn luyện đức dục và trí dục trong các tiểu chủng viện.

Trong các Tiểu Chủng Viện 12* được thiết lập để vun trồng những mầm non ơn thiên triệu 13*, các chủng sinh phải được chuẩn bị bước theo Chúa Kitô Cứu Chuộc 14* với tinh thần quảng đại và tâm hồn trong trắng, nhờ một nền giáo dục tôn giáo đặc biệt, nhất là 15* sự linh hướng thích hợp. Với sự dìu dắt đầy tình phụ tử của các Bề Trên và với sự cộng tác thuận lợi của các phụ huynh, chủng sinh phải sống một đời xứng hợp với lứa tuổi, với tinh thần mà mức độ phát triển của con người thiếu niên và hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn tâm lý lành mạnh 16*, cũng đừng để họ thiếu kinh nghiệm trường đời và thiếu liên lạc với 17* gia đình họ 6. Ngoài ra, các tiêu chuẩn sau đây được quy định cho các Ðại Chủng Viện cũng được thích nghi cho các Tiểu Chủng Viện, còn về học vấn chủng sinh phải theo đuổi, nên tổ chức thế nào để họ có thể tiếp tục dễ dàng ở nơi khác nếu họ chọn một bậc sống khác 18*.

Cũng phải tùy hoàn cảnh địa phương để ân cần cổ võ các mần non ơn thiên triệu nơi thanh thiếu niên trong các Cơ Sở giáo dục 19* cùng theo đuổi một mục đích như các Tiểu Chủng Viện, và cả nơi những kẻ đang thụ huấn trong các trường khác hoặc đang theo đuổi những phương thức giáo dục khác, ước gì mọi người lưu tâm cổ võ những Cơ Sở giáo dục và các tổ chức tương tự khả dĩ giúp những người lớn tuổi 20* bước theo ơn thiên triệu.

 

III. Tổ Chức Các Ðại Chủng Viện

4. Huấn luyện với ý hướng mục vụ.

Các Ðại Chủng Viện cần thiết 21* để đào tạo các Linh Mục. Việc giáo dục toàn diện chủng sinh phải nhằm huấn luyện cho họ thực sự trờ thành những vị chăn dắt các linh hồn 22*, theo gương Chúa giêsu Kitô là Thầy, là Linh Mục và là Chủ Chăn 7. Vậy họ phải được chuẩn bị chu toàn chức vụ rao giảng lời Chúa để mỗi ngày mỗi hiểu lời Mạc Khải của Chúa hơn, để được thấm nhuần lời Chúa nhờ suy gẫm và diễn tả trong lời nói cùng cách sống. Họ phải được chuẩn bị chu toàn tác vụ phụng vụ và thánh hóa: để thi hành công cuộc cứu rỗi qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí Tích, bằng lời cầu nguyện và nghiêm chỉnh cử hành các nghi lễ phụng vụ. Họ phải được chuẩn bị thi hành chức vụ chủ chăn 23*, để họ biết làm cho mọi người thấy Chúa Kitô hiển hiện như Ðấng "không đến để cho người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ" (Mc 10,46; x. Gio 13,12-17) và để họ trở nên tôi tớ mọi người hầu cứu được nhiều người hơn. (x. 1Cor 9,19).

Vì thế, mọi phương thức huấn luyện tu đức, học vấn, kỷ luật phải cùng qui hướng về mục đích mục vụ này, đồng thời, các vị giám đốc và giáo sư phải nhiệt thành và nhất trí hành động trong khi trung thành vâng phục quyền Giám Mục mà theo đuổi mục đích đó.

5. Tuyển chọn bề trên và ban giảng huấn.

Việc đào tạo chủng sinh không những tùy thuộc qui luật sáng suốt mà nhất là còn tùy thuộc khả năng của các nhà giáo dục. Do đó, các giám đốc 24* và giáo sư Chủng Viện phải được chọn lựa trong số những vị ưu tú nhất 8. 25*Các vị đó phải được chuẩn bị chu đáo trước 26* với một nền học thuyết vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ thích đáng và được huấn luyện đặc biệt về tu đức và sư phạm. Vì thế, để đạt mục đích này, cần cổ võ mở những học viện hay ít là mở những lớp tổ chức theo một qui chế thích hợp cũng như những cuộc hội thảo định kỳ cho các vị Giảng Huấn Chủng Viện.

Các vị trong ban giảng huấn 27* phải xác tín rằng kết quả việc đào tạo chủng sinh lệ thuộc phần lớn ở tư cách tư tưởng và hành động 28* của chính mình, dưới quyền hướng dẫn của vị Giám Ðốc, các ngài phải cộng tác thật chặt chẽ trong tinh thần và hành động, và giữa các ngài với nhau, cũng như giữa các ngài và các chủng sinh chỉ còn là một gia đình phù hợp với lời nguyện của Chúa "Xin cho chúng nên một" (Gio 17,11) và để nuôi dưỡng nơi chủng sinh niềm vui ơn thiên triệu của họ. Ðức Giám Mục phải kiên tâm và ưu ái nung đúc tinh thần những người làm việc trong Chủng Viện và phải cư xử với các chủng sinh như một người Cha đích thực trong Chúa Kitô. Sau hết tất cả các Linh Mục phải coi chủng viện như con tim của giáo phận và phải sẵn lòng góp công giúp đỡ 9.

6. Ðiều tra về ý ngay lành.

Phải tùy theo lứa tuổi và trình độ của mỗi ứng sinh 29* mà điều tra cẩn thận về ý ngay lành và ý chí tự do 30*, về khả năng đạo đức, luân lý và học vấn, về sức khỏe thể lý và tâm lý xứng hợp, đồng thời cũng cần để ý đến những khuynh hướng có thể là do gia truyền. Cũng phải cân nhắc khả năng đảm đương các chức vụ Linh Mục và thi hành những phận sự mục vụ 31* của họ sau này 10.

Trong tất cả công việc tuyển lựa chủng sinh và việc thử thách cần thiết, phải luôn luôn vững tâm 32* dù phải buồn lòng chịu thiếu linh mục 11, Thiên Chúa không để Giáo Hội Ngài thiếu thừa tác viên, nên nếu chỉ cho những kẻ xứng đáng tiến chức, thì phải lấy tình cha con kịp thời hướng dẫn những người không đủ tư cách tìm kiếm những chức vụ khác và giúp họ ý thức về ơn gọi Kitô hữu của mình để hăng say dấn thân trong việc tông đồ giáo dân.

7. Chủng viện liên giáo phận.

Khi nào mỗi giáo phận không thể tổ chức một Chủng Viện riêng cách thích đáng, phải thiết lập và cổ võ các Chủng Viện chung 33* cho nhiều giáo phận, cho toàn miền hoặc cho toàn quốc để chú tâm vào việc thận trọng đào tạo các chủng sinh cách hữu hiệu hơn vì việc đào tạo phải được coi là qui luật tối thượng trong vấn đề này. Những Chủng Viện toàn miền hay toàn quốc ấy phải được quản trị theo qui chế do các Giám Mục liên hệ ấn định 12 và được Tòa Thánh phê chuẩn.

Trong các Chủng Viện đông chủng sinh, phải phân chia các chủng sinh thành từng nhóm nhỏ tương xứng để cho việc huấn luyện cá nhân của từng người được tốt đẹp hơn 34*. Tuy nhiên vẫn phải duy trì sự thống nhất về qui chế và chương trình học vấn.

 

IV. Phải Chú Trọng Ðến Việc Huấn Luyện Tu Ðức 35*

8. Một đời sống thiêng liêng sâu sắc.

Việc huấn luyện tu đức phải liên kết chặt chẽ với việc trau dồi học vấn và huấn luyện mục vụ, nhất là phải được thực hiện nhờ sự trợ giúp của cha Linh Hướng 13, 36*sao cho các chủng sinh tập biết luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô Con Người và trong Chúa Thánh Thần. Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu 14. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ 15. Cũng phải dạy cho họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong Ðức Giám Mục, Ðấng sai họ đi và trong những người mà họ được sai đến, nhất là trong các kẻ nghèo khó, hèn mọn, đau yếu, tội lỗi và cả những kẻ vô tín ngưỡng. Họ phải lấy lòng tin cậy như con thảo mà tôn kính và yêu mến Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, Ðấng mà Chúa Kitô khi hấp hối trên Thánh Giá đã trối ban làm mẹ người môn đệ.

Phải hết sức cố gắng cổ võ việc đạo đức 37* đã được tập quán đáng kính của Giáo Hội khuyên làm, nhưng phải lưu tâm đừng để việc huấn luyện tu đức chỉ hệ tại những việc đạo đức ấy hay chỉ là một nỗ lực tạo ra thứ đạo đức tình cảm. Các chủng sinh phải học sống theo Phúc Âm, đứng vững trong đức Tin, Cậy, Mến 38*, để trong việc trau dồi các nhân đức ấy, họ đem lại cho mình một tinh thần cầu nguyện 16, họ củng cố bảo vệ ơn thiên triệu của mình, họ kiên cường các nhân đức khác và lớn lên trong nhiệt tâm chinh phục mọi người về cho Chúa Kitô.

9. Ý thức về Giáo Hội và đức vâng lời.

Các chủng sinh phải thấm nhuần Mầu Nhiệm Giáo Hội đã được Thánh Công Ðồng này đặc biệt khai sáng, để có thể làm chứng sự hiệp nhất đang thu hút mọi người về với Chúa Kitô 17 bằng cách thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết với Giám Mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em Linh Mục khác 39*. Phải dạy cho họ biết mở rộng tâm hồn tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội 40* như lời Thánh Augustinô: "Kẻ nào càng yêu mến Giáo Hội Chúa Kitô càng có Chúa Thánh Thần" 18. Chủng sinh phải thấu hiểu thật rõ ràng là cuộc đời họ không phải để thống trị hay được danh giá, nhưng để hết mình phụng sự Thiên Chúa và chu toàn bổn phận mục vụ 41*. Phải đặc biệt lo lắng tập sống đức vâng lời linh mục 42*, đời sống khó nghèo 43* và tinh thần xả kỷ 19 sao cho họ quen mau mắn từ bỏ ngay cả những gì được phép nhưng không thích đáng và trở nên giống Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Phải cho các chủng sinh biết về gánh nặng họ phải đảm đương và không giấu diếm họ một khó khăn nào của đời Linh Mục. Tuy nhiên, đừng vì đó mà làm cho họ hầu như chỉ nhìn thấy khía cạnh nguy hiểm trong gánh nặng mai ngày, trái lại, tốt hơn phải vì đó huấn luyện cho họ biết dùng chính hoạt động mục vụ của họ để kiện cường đời sống tu đức cho thật vững mạnh.

10. Ðời trinh khiết.

Các chủng sinh theo truyền thống đáng kính mà sống bặc độc thân linh mục đúng với qui luật thánh thiện bền bỉ của lễ chế mình, phải được cẩn thận hướng dẫn sống bậc sống ấy 44*. Một khi khước từ đời hôn nhân vì Nước Trời (x. Mt 19,20), họ kết hợp với Chúa bằng một tình yêu không san sẻ 20 phù hợp mật thiết với Giao Ước mới, họ làm chứng cho sự sống lại đời sau (x. Lc 20,36) 21và thâu lượm được một trợ lực thích hợp nhất để luôn mãi thi hành đức ái hoàn hảo, nhờ đó, họ có thể trở nên mọi sự cho mọi người trong chức vụ Linh Mục 22. Họ cần thâm tín rằng: bậc sống ấy đáng hân hoan đón nhận không phải chỉ như một mệnh lệnh do Giáo Luật, nhưng như là một ân huệ quý giá của Thiên Chúa mà họ phải khiêm tốn cầu xin, và phải mau mắn đáp ứng với tự do và quảng đại, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy và giúp đỡ.

Các chủng sinh phải hiểu biết đúng mức về những bổn phận và phẩm giá của hôn nhân công giáo, biểu tượng tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (x. Eph 5,22-33). Ðàng khác, họ cũng phải thâu hiểu nét ưu việt của đức trinh khiết dâng hiến cho Chúa Kitô 23, để vì thế tận hiến trọn hồn xác cho Chúa bằng một quyết định đã được cân nhắc chín chắn 45* và đại lượng.

Phải cho họ biết những hiểm nguy đang đe dọa đức khiết tịnh của họ, nhất là trong xã hội hiện thời 24; với những trợ lực thích ứng của Thiên Chúa và loài người, họ phải biết dung nạp sự từ khước đời sống hôn nhân, sao cho cuộc đời và công việc của họ không những không bị thiệt thòi gì do bậc độc thân gây ra, nhưng hơn thế nữa, họ làm chủ được hồn xác, phát triển được sự trưởng thành trọn vẹn hơn 46*, và đạt được hạnh phúc Phúc Âm cách toàn hảo hơn.

11. Ðức tự chủ.

Các tiêu chuẩn giáo dục Kitô giáo phải được nghiêm chỉnh tuân hành và bổ túc các thích đáng nhờ việc sử dụng các phát minh mới mẻ của khoa tâm lý và khoa sư phạm lành mạnh. Vì thế, một nền giáo dục khéo tổ chức cũng phải nhằm huấn luyện cho các chủng sinh đạt được mức trưởng thành nhân bản cần thiết 47*, nhất là mức trưởng thành đã được kiểm nghiệm trong một đức tính cương nghị, trong khả năng quyết định chín chắn, và một óc phê phán xác đáng về con người và về các biến cố. Các chủng sinh phải tập cho quen điều hòa thích hợp cá tính mình, họ phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung, phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng và không thể thiếu nơi các thừa tác viên của Chúa Kitô 25, thí dụ như lòng thành thực, chuyên lo giữ đức công bình, đức tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ 48*.

Không những phải coi kỷ luật trong đời sống Chủng Viện như một trợ lực vững chãi của đời sống cộng đoàn và bác ái, mà hơn nữa, còn như một thành phần thiết yếu trong tất cả công cuộc huấn luyện để đạt được tinh thần tự chủ, phát triển được sự trưởng thành vững chắc về nhân cách, rèn luyện được những tư cách khác giúp ích rất nhiều cho hoạt động của Giáo Hội được quy củ và kết quả. Nhưng, phải áp dụng kỷ luật ấy sao cho các chủng sinh tự thâm tâm sẵn sàng chấp nhận quyền hành của Bề Trên và thâm tín, vì lương tâm (x. Rm 13,5) và vì những lý do siêu nhiên. Phải áp dụng những tiêu chuẩn kỷ luật ấy tùy theo từng lứa tuổi, để trong khi tập sống tự lập dần dần, các chủng sinh biết sử dụng tự do một cách khôn ngoan, hành động một cách tự phát, nhiệt thành 26 và quen hợp tác được với anh em đồng nghiệp cũng như với giáo dân.

Một khi được thấm nhuần lòng ham mộ đạo đức, sự thinh lặng và mối bận tâm giúp đỡ lẫn nhau, tất cả cuộc sống trong chủng viện phải được tổ chức thế nào để các chủng sinh như bắt đầu tập sự đời linh mục mai ngày 49*.

12. Thực tập mục vụ.

Ðể cho việc huấn luyện tu đức có căn bản vững chắc hơn và để các chủng sinh quyết chí theo đuổi ơn thiên triệu với sự chấp nhận đã cân nhắc chín chắn, các Giám Mục có bổn phận ấn định một thời gian thích hợp cho việc huấn luyện tu đức sâu rộng hơn 50*. Các ngài phải xét coi, nếu thuận tiện, thì gián đoạn việc học trong một thời gian hoặc tổ chức kỳ thực tập mục vụ thích ứng để trắc nghiệm các ứng sinh Linh Mục cách đầy đủ hơn. Các Giám Mục cũng phải tùy theo hoàn cảnh từng miền để quy định nâng cao mức tuổi 51* chịu chức Thánh do luật chung hiện thời ấn định, cũng như quyết định có nên cho các chủng sinh, sau khi mãn ban Thần Học, thi hành chức vụ Phó tế trong một thời gian thích hợp, trước khi được thụ phong Linh Mục 52*.

 

V. Duyệt Lại Các Môn Học Của Giáo Hội

13. Giáo dục về nhân bản.

Trước khi học các môn học riêng của Giáo Hội, các đại chủng sinh phải có một nền giáo dục về nhân bản và khoa học mà các thanh niên trong quốc gia họ phải đạt tới mới có thể theo học các bậc cao đẳng 53*, ngoài ra, họ phải thâu thập một vốn liếng La ngữ để có thể thấu hiểu và sử dụng những nguồn khoa học và tài liệu của Giáo Hội 27. Việc học ngôn ngữ phụng vụ riêng của từng lễ chế phải được coi là cần thiết, lại phải hết sức cổ động cho chủng sinh học hỏi đầy đủ về các ngôn ngữ dùng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền. 54*

14. Lớp dự bị.

Việc duyệt lại các môn học của Giáo Hội trước hết phải nhằm làm cho các môn triết và thần học được phối trí cách thích hợp hơn và cùng chung đường lối góp phần mỗi ngày mở rộng tâm trí chủng sinh đón nhận Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm liên hệ đến toàn thể lịch sử nhân loại không ngừng ảnh hưởng trên Giáo Hội, và nhất là không ngừng hoạt động qua chức Linh Mục 28.

Ðể các chủng sinh có được cái nhìn ấy, ngay từ bước đầu của cuộc đời tu luyện, trước khi học các môn của Giáo Hội, họ phải qua một lớp dự bị kéo dài trong một thời gian thích hợp. Lớp nhập môn này 55* sẽ trình bày Mầu Nhiệm Cứu Rỗi sao cho các chủng sinh nhận thức được ý nghĩa, chương trình và mục đích mục vụ của những môn học của Giáo Hội, đồng thời giúp họ lấy đức tin đặt nền móng và thấm nhuần cả cuộc đời mình, lại làm cho họ vững tâm theo đuổi ơn thiên triệu bằng một tâm hồn hân hoan tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình.

15. Các môn triết học.

Phải dạy các bộ môn triết học thế nào để trước hết có thể dìu dắt các chủng sinh thâu thập được một kiến thức chắc chắn và có hệ thống về con người, về thế giới và về Thiên Chúa. Hãy lấy di sản triết học giá trị ngàn đời 56* làm điểm tựa, 29đồng thời hãy sử dụng những công trình biên khảo triết học hiện đại, nhất là những chiếu hướng triết học đang ảnh hưởng mạnh nhất trong quốc gia mình 57* cũng như những tiến bộ khoa học mới nhất. Ðược chuẩn bị đầy đủ như thế chủng sinh sẽ hiểu đúng được tâm thức của thời đại để đối thoại được với người đương thời. 30

Phải dạy môn triết sử sao cho các chủng sinh nắm được các nguyên lý tối hậu của các triết thuyết khác nhau, biết giữ lại những gì được chứng minh là chân thật, có thể khám phá và luận bác các căn nguyên sai lầm. 58*

Trong cách thức giảng dạy, phải kích thích nơi chủng sinh lòng hâm mộ quyết liệt tìm kiếm, khảo sát và minh chứng chân lý, 59*đồng thời cũng nhận chân những giới hạn của trí óc con người. Phải cẩn thận quan tâm đến mối liên lạc giữa triết học và những vấn đề nhân sinh đích thực cũng như các thắc mắc làm giao động tâm trí chủng sinh, phải giúp họ nhận ra các mối liên hệ giữa các lý luận triết học và mầu nhiệm cứu rỗi mà họ sẽ khảo sát trong ánh sáng đức tin khi học thần học.

16. Các môn thần học.

Phải dạy các môn thần học 60* trong ánh sáng đức tin 61* và dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội 31 để các chủng sinh chăm chú múc lấy học thuyết Công Giáo từ nguồn Mạc Khải của Chúa, thấu triệt rồi biến thành lương thực nuôi đời tu đức của họ 32, 62*lại có thể rao giảng, trình bày cũng như bảo toàn 63* học thuyết ấy trong khi thi hành chức vụ Linh Mục.

Phải đặc biệt chuyên lo dạy Thánh Kinh cho các chủng sinh, vì Thánh Kinh 64* phải như linh hồn của toàn thể khoa thần học 33; sau phần nhập môn thích hợp, phải cẩn thận khai sáng cho họ phương pháp chú giải, cho họ thấu triệt các đại đề của Mạc Khải, cho họ có hứng thú đọc và suy gẫm Thánh Kinh hằng ngày làm của nuôi dưỡng 34.

Môn tín lý thần học phải được phân phối theo thứ tự này: trước hết, trình bày chính các chủ đề Thánh Kinh. Phải tỏ cho các chủng sinh thấy các Giáo Phụ Ðồng và Tây Phương, cũng như diễn tiến lịch sử tín lý đã đóng góp gì trong việc trung thành lưu truyền và minh giải từng chân lý Mạc Khải, đồng thời cũng xét đến mối liên lạc của nó với lịch sử Giáo Hội tổng quát 35. Thứ đến, để khai sáng các mầu nhiệm cứu rỗi cách thật đầy đủ, các chủng sinh phải học đào sâu và nhận thức được mối liên hệ giữa các mầu nhiệm đó nhờ công việc suy tư với thánh Tôma 36 là một tôn sư 65*. Họ phải học hỏi cho thấy các mầu nhiệm ấy luôn luôn hiện diện và tác động trong các nghi thức Phụng Vụ 37 và trong toàn thể đời sống Giáo Hội. Họ phải học cho biết cách giải đáp các vấn đề nhân sinh theo ánh sáng Mạc Khải, biết áp dụng những chân lý Mạc Khải vĩnh cửu vào hoàn cảnh đổi thay của những thực tại nhân loại và biết thông truyền các chân lý ấy cho thích hợp với con người thời đại 38.

Những bộ môn thần học khác cũng phải được canh tân nhờ tiếp xúc linh động hơn Mầu Nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu rỗi. Phải đặc biệt chú ý cải thiện môn luân lý thần học 66*, với lối trình bày có khoa học và thấm nhuần giáo lý Thánh Kinh nhiều hơn, nó sẽ minh giải vẻ cao đẹp của ơn thiên triệu tín hữu trong Chúa Kitô cũng như nhiệm vụ của họ phải mưu cầu lợi ích cho đời sống thế giới trong đức ái. Cũng vậy, phải trình bày Giáo Luật và dạy Giáo Sử 67*, cho liên lạc với Mầu Nhiệm Giáo Hội, theo Hiến Chế tín lý "về Giáo Hội" do Thánh Công Ðồng này tuyên bố. Môn Phụng Vụ 68* phải được coi là nguồn mạch thiết yếu số một của tinh thần Kitô giáo đích thực, nên phải được giảng dạy đúng theo tinh thần các khoản 15 và 16 của Hiến Chế về Phụng Vụ 39.

Tùy theo hoàn cảnh từng miền, các chủng sinh phải được hướng dẫn để biết đầy đủ hơn về những Giáo Hội và những Cộng Ðoàn Giáo Hội ly khai khỏi Tông Tòa Roma, để có thể góp phần xúc tiến việc tái lập hiệp nhất 69* giữa toàn thể Kitô hữu theo các chỉ thị của Thánh Công Ðồng này 40.

Hơn nữa, phải mở đường cho họ hiểu biết các tôn giáo khác hiện đang quảng bá trong mỗi miền 70*, để họ nhận thấy rõ hơn những gì tốt lành và chân thật do Thiên Chúa an bài, đang tiềm tàng nơi các tôn giáo ấy, để họ biết luận bác những sai lầm và để có thể thông truyền ánh sáng chân lý đầy đủ cho những kẻ chưa được đón nhận ánh sáng ấy.

17. Duyệt xét lại phương pháp giáo dục.

Việc huấn luyện học thuyết không chỉ nhằm thông truyền một số khái niệm, nhưng phải nhằm huấn luyện chủng sinh cách đích thực và sâu xa, vì thế phải duyệt các phương pháp giáo dục 71* về cách giảng dạy, thực tập, thảo luận, cũng như về việc khích lệ chủng sinh làm việc riêng rẽ hay từng nhóm. Phải liệu sao cho toàn thể chương trình huấn luyện được duy nhất và vững chắc; tránh gia tăng qua đáng các môn và giờ học, lại phải loại bỏ những vấn đề không còn quan trọng mấy, hoặc là những vân đề phải dành cho các bậc cao đẳng nghiên cứu sâu rộng hơn.

18. Các môn học cao đẳng.

Các Giám Mục có nhiệm vụ gửi các chủng sinh có tư cách 72*, nhân đức và trí thông minh tới học tại những Học Viện chuyên biệt, tại các Phân Khoa hay Ðại Học, để chuẩn bị cho có những Linh Mục được học hành cao hơn và uyên thâm hơn về các khoa học đạo cũng như các khoa học đời xem ra thích hợp, khả dĩ có thể đáp ứng những nhu cầu tông đồ khác nhau; nhưng khong bao giờ được xao lãng việc huấn luyện tu đức và mục vụ, nhất là khi họ chưa chịu chức Linh Mục.

 

VI. Cổ Võ Việc Huấn Luyện Mục Vụ 73*

19. Tập đối thoại.

Mối quan tâm về mục vụ phải chi phối tất cả việc đào tạo chủng sinh 41, nên cũng đòi hỏi các chủng sinh phải được cẩn thận giáo huấn về những gì đặc biệt liên quan đến chức vụ Thánh, nhất là việc dạy giáo lý và giảng thuyết 74*, việc phụng tự 75* và ban phát các bí tích, về các công cuộc bác ái 76*, nghĩa vụ tìm đến với các chiên lạc và những người vô tín ngưỡng, cùng những công tác mục vụ khác. Phải chăm lo dạy họ nghệ thuật dìu dắt cac linh hồn 77*, nhờ vậy họ có thể đào tạo mọi con cái của Giáo Hội, trước hết biết hoàn toàn ý thức sống đời Kitô hữu và có tinh thần tông đồ, thứ đến biết chu toàn bổn phận của bậc sống mình. Chủng sinh cũng phải lưu tâm học cho biết cách giúp đỡ cac tu sĩ nam nữ 78* bền đỗ trong ơn gọi riêng và tiên đức theo tinh thần của Hội Dòng 42.

Cách chung, phải làm phát triển nơi các Chủng sinh những khả năng thích hợp rất cần thiết để đối thoại 79* được với mọi người, thí dụ: biết lắng nghe người khác, biết lưu tâm đến những hoàn cảnh khác nhau của thân phận con người trong tinh thần bác ái 43.

20. Tập hoạt động tông đồ.

Cũng phải dạy họ biết sử dụng những phương thế mà các khoa sư phạm, tâm lý cũng như xã hội 44 có thể cung cấp cho 80*, theo những phươnh pháp đúng đắn và các tiêu chuẩn do Giáo Quyền ấn định. Phải lo giáo huấn họ biết khích lệ và nâng đỡ hoạt động tông đồ giáo dân 81*, 45 cũng như biết khởi xướng nhiều hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cho hữu hiệu hơn. Họ phải được thấm nhuần tinh thần Công Giáo đích thực, để biết quen vượt khỏi những ranh giới địa phận, quốc gia hoặc lễ chế riêng hầu hỗ trợ các nhu cầu của toàn thể Giáo Hội 82* và sẵn sàng đi rao giảng Phúc Âm ở bất cứ nơi nào 46.

21. Tập hoạt động ngoài chủng viện.

Vì các chủng sinh phải học nghệ thuật hoạt động tông đồ 83* không những trên lý thuyết nhưng trên thực hành nữa, và còn phải có khả năng thi hành công tác với tinh thần trách nhiệm cá nhân hay tập đoàn, nên trong kỳ học cũng như kỳ nghỉ, phải cho họ tập sự mục vụ bằng những công tác thực tập thích đáng. Phải tùy theo tuổi của chủng sinh, tùy theo hoàn cảnh địa phương và sự xét đoán khôn ngoan của các Giám Mục mà thực hiện các hoạt động ấy cho có phương pháp với sự hướng dẫn của những vị giàu kinh nghiệm mục vụ, đồng thời cũng đừng quên sức hiệu nghiệm của những phương thế hỗ trợ siêu nhiên 47.

 

VII. Bổ Túc Việc Huấn Luyện Sau Khi Mãn Trường

22. Phải được tiêp tục bồi dưỡng về lý thuyết và thực hành.

Nhất là vì hoàn cảnh xã hội tân tiến nên việc huấn luyện Linh Mục phải được tiếp tục và kiện toàn, cả sau khi kết thúc chu trình học vấn 84* trong chủng viện 48, do đó các Hội Ðồng Giám Mục 85* phải liệu tìm trong mỗi quốc gia những phương thế thích hợp, thí dụ như thiết lập những Học Viện Mục Vụ hợp tác với những họ đạo đã tùy nghi chọn lựa, tổ chức những cuộc hội thảo định kỳ, những khóa thực tập chuyên biệt 86*, nhờ đó lớp Giáo Sĩ còn non trẻ về phương diện tu đức, trí thức và mục vụ được dẫn dần đưa dẫn vào đời sống Linh Mục và hoạt động tông đồ, và họ có thể càng ngày càng cải tiến và phát triển 87* các hoạt động ấy hơn nữa.

 

Kết Luận 88*

Tiếp tục công trình do Công Ðồng triđen khởi xướng, và trong khi tin tưởng trao phó cho các vị Giám Ðốc và Giáo Sư Chủng Viện nhiệm vụ đào tạo các Linh Mục tương lai của Chúa Kitô trong tinh thần canh tân do Thánh Công Ðồng này cổ võ, toàn thể Nghị Phụ của Thánh Công Ðồng này tha thiết khuyến dụ những người đang dọn mình nhận lãnh chức Linh Mục hãy cảm thức niềm kỳ vọng của Giáo Hội và phần rỗi các linh hồn đã được trao phó cho họ, để một khi hân hoan đón nhận những tiêu chuẩn ghi trong Sắc Lệnh này, họ sẽ thâu lượm được nhiều kết quả mỹ mãn và trường tồn.

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 28 tháng 10 năm 1965.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.


======================

1* Ðược gọi là "Sắc Lệnh" khi bản văn đề cập tới việc tổ chức thực tế các chủng viện và những phương thế huấn luyện. Có 47 Nghị Phụ đã yêu cầu gọi bản văn này là "Hiến Chế" vì nó nặng về giáo thuyết. Nhưng Công Ðồng đã giữ lại danh hiệu Sắc Lệnh. 

2*  "Ðào tạo", La ngữ là "Institutio", được sử dụng từ tháng 11-1963, bao gồm ý nghĩa đào tạo và dạy dỗ như trong bản văn Sedes Sapientiae (31-5-1965) của Ðức Piô XII về việc đào tạo các tu sĩ. Công Ðồng Triđen, đã dùng hai động từ: dạy dỗ (đào tạo luân lý) trong sắc lệnh về các Chủng Viện (x. CÐ Triđen, khóa XXIII, De Reformatione, ch. 18).

1 Chính Chúa Kitô đã muốn cho công việc phát triển toàn Dân Chúa tùy thuộc rất nhiều vào việc thi hành chức vụ Linh Mục. Ðiều này thấy rõ trong lời Chúa phán khi đặt các Tông Ðồ như những kẻ kế vị và cộng tác với Người làm người rao giảng Phúc Âm, làm thủ lãnh dân tộc mới đã được tuyển chọn, và làm quản lý phân phát các mầu nhiệm Thiên Chúa; hơn nữa những ngôn từ của các Giáo Phụ, các Thánh, và những tài liệu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần của các Ðức Giáo Hoàng đều xác quyết như thế. - Xem, nhất là: T. Piô X. Huấn dụ cho giáo sĩ  Hoerent animo, 4-8-1908: S. Pii X Acta IV, trg 237-264; Piô XI, Tđ Ad catholici Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936) nhất là trg 37-52; Piô XII, Tông huấn Menti nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 657-702; Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri primodia, 1-8-1959: AAS 51 (1959), trg 545-579; Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 979-995.

3* Những chữ này được thêm vào do lời yêu cầu của các Nghị Phụ khi thấy phần vào đề quá pháp lý và khô khan: không phải việc gì cũng canh tân được Giáo Hội, nhưng chỉ có công việc bắt nguồn từ chức Linh Mục đích thực của Chúa Kitô. Ghi chú 1 còn mang một lý do thần học giá trị nữa, Ðể tra cứu ta có thể thêm những tài liệu của Công Ðồng Vat II trong: GH 28 và LM 7.

4* Giáo Hội qua mọi thời không thiếu lo lắng đối với các vấn đề sôi động này. Cũng vậy, vì muốn cởi mở với thế giới hiện tại. Sắc Lệnh đã tìm vào nguồn phong phú trong kho tàng giáo huấn quá khứ. Cho rằng việc đào tạo linh mục ngày nay như là một công việc hoàn toàn mới mẽ và theo những nguyên tắc thuần xã hội là tước bỏ sự khôn ngoan hai ngàn năm qua của Giáo Hội. Ta còn cần ghi chú rằng phần lớn những tra cứu về Giáo Huấn trong Sắc Lệnh này đều do những bản văn thuộc thế kỷ này: 106 trên 108 ghi chú thuộc thời gian từ 1893-1965. Ðức Piô XII được trích dẫn nhiều nhất (44 lần), chứng tỏ Công Ðồng kính trọng rõ rệt sự sáng suốt và lòng nhiệt thành của ngài đối với các Linh Mục. Mười lăm trích dẫn ở các văn kiện khác của Công Ðồng Vat. II bảo đảm sự hiệp nhất trong giáo thuyết của tài liệu này đối với Công Ðồng.

2 Tất cả việc đào tạo Linh Mục, nghĩa là việc tổ chức chủng viện, huấn luyện đời sống thiêng liêng, phương thức học hành, đời sống chung và kỷ luật của chủng sinh, thực tập mục vụ, đều phải thích nghi với hoàn cảnh khác nhau của địa phương. Những điểm chính yếu trong việc thích nghi này phải được làm theo những quy tắc chung: do Hội Ðồng Giám Mục, để áp dụng cho giáo sĩ triều, và tùy lý do thích hợp, áp dụng cho giáo sĩ dòng do các vị Bề Trên có thẩm quyền (Xem Thánh Bộ Dòng Tu, Tông hiến Sedes Sapientae và bản đính phụ Statula Generalia tiết mục 19, x.b. lần 2, Roma (1957), trg 38 tt.

5* Ðể giúp đỡ những cố gắng của các Hội Ðồng Giám Mục trong việc thiết lập một phương thức đào tạo Linh Mục riêng, Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đã ban hành ngày 6-1-1970 một "Lý thuyết căn bản đào tạo Linh Mục".

3 Một trong những mối lo âu chính yếu của Giáo Hội ngày nay là hầu như khắp nơi đều thấy số ơn thiên triệu giảm sút quá nhiều. - Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: "... Ở các miền Công giáo cũng như nơi các xứ truyền giáo, con số Linh Mục hầu như luôn không đủ để đáp ứng những nhu cầu càng ngày càng tăng": AAS 42 (1950), trg 682. - Gioan XXIII: "Vấn đề ơn thiên triệu giáo sĩ và tu sĩ là mối lo âu hằng ngày của Giáo Hoàng... đó là tiếng khẩn cầu của Giáo Hoàng trong khi cầu nguyện, là ước vọng mãnh liệt trong tâm hồn Giáo Hoàng". (Trích Huấn từ cho Ðại Hội Quốc Tế 1 về ơn gọi tiến tới Bậc Trọn Lành, 16-12-1961: AAS 54 (1962), trg 33).

6* Ðáng ca tụng thay lòng quí trọng của các gia đình Việt Nam đối với ơn kêu gọi làm Linh Mục, sự nâng đỡ của các giáo xứ đối với những người đang hướng về chức Linh Mục và lòng nhiệt thành của bao Linh Mục nhằm bảo đảm cho có người nối tiếp.

7* Lược đồ F chỉ nói về "mẫu gương" linh mục; 20 Nghị Phụ đã đưa ra đề nghị tu chỉnh về "chứng tích của linh mục là nguồn ơn kêu gọi" và lược đồ G đã chỉ rõ 5 đặc tính: bác ái, vui tươi, hòa hợp, khiêm nhường và làm việc. Trước kia, chính Ðức Piô XII đã nói rằng: "Mỗi linh mục phải tìm thấy và chuẩn bị nơi mình một người kế vị". (Menti Nostrae, số 75) Sắc Lệnh LM đề cập lại ở số 11a.

8* Ðức Hồng Y Garrone đưa ra những đề nghị thực tiển vơí các Giám Mục trong tạp chí Vocation số 238 (4/1967), trg 167-173.

9* Ủy Ban đã xác quyết rằng Công Ðồng không có ý định giải quyết vấn đề về bản chất ơn kêu gọi đã được bàn cãi vào thời kinh sĩ Lahitton, cha Branchereau v.v... khoảng năm 1910. Ở đây Công Ðồng chỉ thống nhất và định rõ vai trò: trước hết là Chúa kêu gọi cách nhưng không và ban ơn hộ giúp, thứ đến Giáo Hội, qua những vị có trách nhiệm hợp pháp, xét đoán về sự xứng hợp và gọi đến lãnh Bí Tích Truyền Chức. Những người được kêu gọi phải đáp lại cách quảng đại, với ý hướng ngay thẳng và tự do hoàn toàn. Những yếu tố đó cần thiết cho tất cả những ơn kêu gọi đúng nghĩa.

4 Piô XII, Tông hiến Sedes Sapientiae, 31-5-1956: AAS 48 (1956), trg 357. - Phaolo VI, Tông thư Summi Dei erbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 984 tt.

10* Lý Thuyết Căn Bản (LTCB) lập lại ý nghĩa và sự quan trọng của "Ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu". "Ngày" này được thiết lập ngày 23-1-1964 và được ấn định cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba mùa Phục Sinh. Thật là một việc thức thời tuyệt hảo nhằm tăng triển các ơn kêu gọi.

5 Xem nhất là, Piô XII. Tự sắc Cum Nobis "Về việc thành lập Giáo Hoàng Hiệp Hội Cổ võ Ơn Thiên Triệu Linh mục tại Thánh bộ chủng viện và đại học", ngày 4-11-1941: AAS 33 (1941), trg 479, với các Ðiều Lệ và Nội Quy cũng do Thánh bộ này phổ biến ngày 8-9-1943. tự sắc Cum Supremae "Về Giáo Hoàng Tổng Hội cổ võ ơn Thiên Triệu tu dòng", ngày 11-2-1955: AAS 47 (1955), trg 266, với các Ðiều Lệ và Nội Quy do Thánh bộ Tu dòng phổ biến (n.t. trg 298-301). - CÐ Vat. II, Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống Dòng tu Perfectae Caritatis, số 24; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus Dominus, số 15.

11* Sắc lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo (số 16a) nhắc lại rằng ơn kêu gọi làm linh mục trong những miền truyền giáo là một dấu hiệu chắc chắn và hứa hẹn nhiều cho sự thành lập Giáo Hội giữa các dân tộc này. 

12* Tại Công Ðồng trước tình trạng sa ngã của một số linh mục nhiều Nghị Phụ tán dương việc bắt buộc thiết lập chủng viện cho tuổi trẻ như Giáo Luật số 1354, 2 đòi hỏi: 68 vị khác lại khẩn thiết yêu cầu đừng bắt buộc như thế. Cuối cùng, ý thức về những hoàn cảnh khác biệt giữa các quốc gia, Thánh Công Ðồng đã không đòi hỏi điều đó. Tuy nhiên Giáo Hội cũng không thể quên tất cả những gì mà Giáo Hội đã được hưởng nhờ qua những thể chế đã có từ Công Ðồng Triđen. Giáo Hội cũng nhắc lại ở đây là những nơi còn giữ lại các thể chế ấy phải theo chiều hướng và dùng các phương thế sao cho thích hợp hơn với thời đại tân tiến này.

13* Như thế là Giáo Hội ý thức về thực tại của ơn gọi nơi trẻ em. LTCB nói rõ về điểm thường ít được biết tới là: ơn kêu gọi này biểu hiệu bằng nhiều cách với những lứa tuổi khác nhau trong đời sống con người, nơi các thiếu niên, nơi những người lớn tuổi hơn; và như kinh nghiệm vững chắc của Giáo Hội chứng nhận, ơn kêu gọi nơi các trẻ em là như một hột giống. Ơn kêu gọi thường liên kết chặt chẽ với nếp sống đạo đức, với tính mến nồng nhiệt đối với Thiên Chúa và tha nhân, với tấm lòng hướng về việc tông đồ (LTCB số 7).

Ở việt Nam, Giáo Hội viết rõ tất cả những gì phải làm cho các chủng viện của tuổi trẻ; ước muốn Giáo Hội là không ngừng cải thiện (xem Lý Thuyết Quốc Gia về việc đào tạo linh mục số 1-18, ấn bản La ngữ, tháng 7 năm 1971). 

14* Bản văn nói "Chúa Kitô Cứu Chuộc" chứ không nói "Chúa Giêsu Linh Mục" như khi nói về các đại chủng sinh. Một câu trả lời minh nhiên của Ủy Ban nhấn mạnh điều đó: "Một sự đào tạo thiêng liêng căn bản, đặt trên tính cách thiêng liêng của phép Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể sẽ liên kết với Chúa Kitô Cứu Chộc những người trẻ muốn hiến mình cho công cuộc cứu rỗi thế giới với một lòng quảng đại, trong sạch, nhiệt tâm yêu mến Chúa Kitô. Công Ðồng đã chấp nhận đề nghị tu chỉnh về sự trong sạch tâm hồn, trong khi bày tỏ nhu cầu cho các thiếu niên sống giữa thế giới đầy lôi kéo về thú vui giác quan, phải biết vững mạnh bảo vệ sự tinh khiết cho Chúa và cho những người cần được cứu vớt.

15* Bản văn nói: "Nhất là..." chính là nhắc lại vai trò quan trọng của một sự hướng dẫn thiêng liêng thật sự trong sự xét định, triển nở và chín mùi của ơn thiên triệu (xem LTCB số 14).

16* Sự đào tạo thích ứng và phù hợp hơn với tâm lý các thiếu niên thúc giục việc xét lại nhiều cách sử dụng hay những luật lệ có khuynh hướng muốn làm cho các thiếu niên thành những "giáo sĩ trẻ", những thầy dòng quá sớm, khiến sự tự nhiên và sức sống dồi dào của họ không được tôn trọng, với mối nguy hiểm đưa tới thoái hóa tâm lý hay mặc cảm tiếm đoạt sẽ biểu lộ ra sau này bằng sự phẫn nộ, bất mãn và chống đối.

17* Hơn nữa những liên lạc gia đình (những ngày nghỉ, thăm viếng, thư tín...) cần thiết để tình thương được cân bằng. Kinh nghiệm trường đời sẽ được thâu lượm dần dần trong những giao tiếp với xã hội và Giáo Hội địa phương: những cuộc thăm viếng các xưởng máy và trường chuyên nghiệp, những buổi thuyết trình về các vấn đề xã hội và tôn giáo, những phim ảnh được chọn lựa cẩn thận và được thảo luận dưới sự hướng dẫn của giáo sư có khả năng, một thư viện với đầy đủ các sách hữu ích về nhiều đề tài khác nhau, sự sử dụng hợp lý máy thâu thanh, truyền hình, báo chí, tranh ảnh, tranh giải thể thao... (xem LTCB số 12).

6 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 685.

18* Ở đây Giáo Hội tỏ ra rất thực tế: có nhiều thiếu niên giữa đường thú nhận là không thích hợp, nhiều người khác do dự hoặc muốn tự do chọn một hướng đi khác. Tất cả những người đó sẽ không bị một dày vò nào khi họ từ giã chủng viện, nơi mà người ta học các môn theo chương trình của quốc gia. Ðiều đó còn làm cho những ai kiên trì hướng về chức linh mục có được trình độ học vấn của các thiếu niên cùng tuổi với họ và được thích nghi vơí nền văn hóa quốc gia của thời đại họ (LTCB số 13). LTCB còn nhắc thêm rằng: cần thêm vào chương trình những môn học thích hợp, trực tiếp hướng về chức Linh Mục: Nhập môn Tân Ước, Giáo Sử, La Ngữ (số 13).

19* Ở đây có lẽ Sắc Lệnh muốn nhắc về những công trình tương tự như: những trường tông đồ, đệ tử viện, trường thử: Sắc Lệnh cũng như muốn báo hiệu xa hơn nữa về những môi trường giáo dục: trung học, văn đàn, học viện, nơi mà những thiếu niên có ước vọng hướng tới chức linh mục có thể tiếp xúc và đáng được chăm sóc đặc biệt.

20* Sự nhắc nhở về "những ơn gọi lớn tuổi" (kiểu nói "tu muộn" cần phải đổi, nhất là ở nước ta, vì phần lớn các ơn gọi đó chưa qua khỏi tuổi 20) chứng tỏ thái độ của Giáo Hội muốn nâng đỡ tất cả những ai Chúa có thể gọi. LTCB số 19 cũng đòi phải thiết lập những học viện để nâng đỡ họ. Số 3 này chưa hoàn toàn thỏa mãn ước nguyện của một số đông Giám Mục ao ước có được những hướng dẫn đầy đủ hơn cho vấn đề quan trọng đó. LTCB đề cập lại với nhiều cho tiết hơn trong các số 11-19. 

21* Dầu một thiểu số gồm 4 Nghị Phụ đã hủy bỏ một trào lưu nhất quyết chống lại các chủng viện và muốn một loại học viện khác mới mẻ hơn, nhưng Công Ðồng đã muốn duy trì các chủng viện vì biết rõ sự quan trọng và cần thiết phải đào tạo các linh mục. 

22* Ngày từ đầu Công Ðồng đã xác quyết chủ đích mục vụ cho tất cả vấn đề đao tạo linh mục và lại xác quyết mạnh mẽ hơn ở cuối số này. Ðiều đó sẽ trở lại như một chủ đề trong suốt Sắc Lệnh.

7 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 28: AAS 57 (1965), trg 34.

23* Khơi dậy chức vụ chủ chăn, Công Ðồng chỉ nhắc lại tinh thần phục vụ khiêm tốn và toàn vẹn theo gương mẫu. Ðấng Chăn Chiên Lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Giáo Hội chờ mong nơi các Linh Mục tinh thần phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi. Công Ðồng không ngừng trở lại điểm này như một đòi hỏi tiên quyết của Linh Mục thời đại mới, phải bỏ hẳn thái độ quan liêu và phô trương, thái độ đã làm cho Giáo Hội phải chịu bao tổn hại trong quá khứ, Linh Mục, một Kitô khác, cũng sẽ là một đầy tớ khác của Jahvê (xem Is 42,2-4, 6-8; 49,5-6).

24* Tiếng "các Giám Ðốc" ở đây hiểu là các vị hữu trách, chính LTCB định rõ: "Mỗi chủng viện có những bề trên hữu trách: giám đốc, phó giám đốc, một hay nhiều linh hướng, giám học, vị phụ trách về sinh hoạt mục vụ, về trật tự trong chủng viện, quản lý, quản thủ thư viện... trách vụ được chỉ định rõ ràng và trả công chính đáng" (số 27).

8 Xem Piô XI, Tđ Ad Catholici Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 28 (1936), trg 37: "Trước hết, mối ưu tư lớn lao nhất là lựa ban Giám Ðốc và giáo sư... Hãy bổ nhiệm vào chủng viện những Linh Mục ưu tú nhất, đừng tiếc mà dành họ lại cho bất cứ chức vụ nào khác, kể cả những chức vụ có vẻ danh giá mà thực sự lại không thể sánh được với sứ mệnh thiết yếu và không thể thay thế được kia" - Ðức Piô XII cũng đã đề cập đến nguyên tắc phải chọn những vị ưu tú nhất trong Tông Thư gởi các Ðấng bản quyền Brasiliae, 23-4-1947. Discorsi e Radio-messagi IX, trg 579-580.

25* Hai đề nghị tu chỉnh giải thích tiếng "những người ưu tú" về nhân đức và hiểu biết và tiếng "không loại trừ giáo dân" x. M 59/6, 7. (xem LTCB, số 30).

26* Xem LTCB số 30 và ghi chú 86. Vấn đề này được trình bày trong những lược đồ đầu tiên theo đòi hỏi minh nhiên của nhiều Giám Mục, nó gồm 3 số trong lược đồ B. Ủy ban hữu trách đã tuyên cáo: "Thật là quan trọng khi Công Ðồng Vat. II chăm sóc đặc biệt việc chuẩn bị các Giám Ðốc và Giáo Sư cho các chủng viện".

27* Xem LTCB số 32-38.

28* Bầu khí thuận lợi được bảo đảm do các đặc điểm sau: tùy thuộc bề trên tôn trọng lẫn nhau, hợp nhất tâm tình và hành động, tinh thần gia đình giữa họ với các chủng sinh. Những dòng này được thêm vào lược đồ G theo lời yêu cầu của 17 Nghị Phụ Công Ðồng (M 57/1).

9 Về bổn phận giúp đỡ Chủng Viện, xem Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 984.

29* Xem LTCB số 39.

30* Trước hết phải tìm hiểu lý do và sự tự ý của ứng viên. Những lầm lẫn về lãnh vực này sẽ dẫn tới các thảm họa mai sau (x. thêm LTCB số 39).

31* Theo các để nghị tu chỉnh, các trách vụ linh mục phải hiểu đặc biệt về sự độc thân, các bổn phận mục vụ như có thể nghe, hiểu, đối thoại và hướng dẫn người khác.

10 Xem Piô XII, Tông huấn Menti nostri, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 684 và xem Thánh Bộ Bí Tích, thư luân lưu gởi các Ðấng bản quyền Magna Equidem, 27-12-1935, số 10. - Các tu sĩ, xem Statua neneralia đính phụ Tông hiến Sedes Sapientiae, 31-5-1956, tiết mục 33. - Phaolô VI, tông thư Summi Dei Verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 987 tt.

32* Xem LTCB số 40 và 41.

11 Xem Piô XI, Tđ Ad Catholici Sacerdotii, 20-12-1935: AAS 55 (1963), trg 41.

33* Từ thời Công Ðồng Triđen, và theo Giáo Luật (kh 2354) mỗi giáo phận phải tổ chức chủng viện riêng của mình, nhưng những đòi hỏi hiện tại đòi phải thiết lập những chủng viện chung để có đủ số học sinh và nhật là để có nhiều người được đủ tư cách hơn. Sắc Lệnh tiên liệu những chủng viện chung cho nhiều giáo phận, cho một miền hoặc một quốc gia, tùy theo các Giám Mục. Như vậy khoản giáo luật 1357, 4 bị hủy bỏ (xem LTCB số 21).

12 Ðể các Giám Mục liên hệ có thể tham gia việc dự thảo quy chế cho các chủng viện miền hay quốc gia khoản Giáo Luật 1357, 4 bị hủy bỏ.

34* Xem LTCB số 23.

35* Chương này đề cập tới yếu tố quan trọng nhất trong việc đào tạo linh mục. Ðây là kết quả của một việc làm lâu dài với nhiều thảo luận và biên soạn.

13 Xem Piô XII, Tông hiến Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 675. - Thánh Bộ Chủng Viện và Ðại Học, La Formazione spirituale del candidato al sacerdozio, Cita del Vaticano, 1965.

36* Ai cũng biết sự quan trọng của việc hướng dẫn thiêng liêng để nhận thức và trưởng thành trong ơn thiên triệu, và Sắc Lệnh cũng đã đề cập cách minh nhiên ngay từ đầu chương nói về việc đào tạo thiêng liêng. Nhưng một vấn nạn có thể đặt ra: Công Ðồng muốn chỉ có một vị linh hướng trong chủng viện, hay có thể được tự do chọn lựa trong tất cả các linh mục ở chủng viện theo sở thích mỗi người? LTCB số 27 viết: Giữa các vị hữu trách của chủng viện, người ta đề cử một hay nhiều vị linh hướng. Số 45 lập lại rằng việc đào tạo thiêng liêng là do ở các ngài. Số 23 khi nói về những nhóm nhỏ, có thêm rằng phải giữ được sự đào tạo kiến thức khoa học. Khi bàn về bí tích Giải Tội và tinh thần sám hối, số 55 nói: mỗi người phải có một vị linh hướng riêng để cởi mở tâm hồn với ngài, với lòng tin tưởng và khiêm tốn, để được hướng dẫn chắc chắn trên con đường của Chúa. Chủng sinh sẽ tự do chọn vị linh hướng và vị giải tội cho mình trong số các linh mục mà Giám Mục đã chỉ định như là những vị có thẩm quyền về trách vụ này. Vậy còn vài mập mờ: một đàng thì đồng nhất trong việc hướng dẫn, đàng khác thì tự do lựa chọn.

14 Xem Thánh Piô X, Huấn dụ hàng Giáo sĩ Hacrent animo, 4-8-1908: S Pii X Acta, IV, trg 242-244. - Piô XII Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 659-661. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primodia, 1-8-1959: AAS 51 (1959), trg 550 tt. 

15 Xem Piô XII, Tđ Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg 547 tt và 572 tt. - Gioan XXIII, Tông huấn Sacrae Laudis, 6-1-1962: AAS 54 (1962), trg 69. - CÐ vat. II, De sacra Liturgia, s61 16 và 17: AAS 56 (1964), trg 104 tt. - Thánh Bộ Nghi Lễ Instructio ad executionem Constitutionis de sacra liturgia recte ordinandam, 26-9-1964, số 14-17: AAS 56 (1964), trg 880 tt.

37* Sau khi đề ra chiều hướng giáo thuyết, Công Ðồng trở lại những yếu tố thực tế phát xuất từ đó. Ðức Piô XII trong "Menti nostrae" lập lại những điều Giáo luật qui định (kh 1367): nguyện gẫm, lần hạt, cầu nguyện, viếng Thánh Thể xét mình xưng tội thường xuyên, việc linh hướng, tĩnh tâm.

38* Ta có thể đối chiếu cả chương này với những bản văn tương tự ở GH 28: PV. 5-7, 16-17, 47, 61, 90: LM 13, 18; MV. 43, 5,6: tinh thần các bản văn rõ ràng dựa theo Thánh Kinh, tập trung vào Chúa Kitô và tuân phục Giáo Quyền. 

16 Xem Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51 (1959), trg 556 tt.

17 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 28: AAS 57 (1965), trg 35 tt.

39* Xem LTCB số 46-47.

40* Ðây là chủ đề thông thường của Vat II, sự cởi mở với toàn thể Giáo Hội này phải được ghi khắc trong lòng các linh mục tương lai: như Chúa Kitô, lòng họ phải biết chấp nhận mọi người, mọi ngôn ngữ, chủng tộc và mọi quốc gia. 

18 Thánh Augustinô, In Joanem tract 32: PL 35, 1946.

41* Câu này nói về tinh thần phục vụ (đã được nhắc nhở trong các đoạn văn của Mc 10,45; Gio 13,12-17; 1Cor 9,10, và trong bản tóm kết chức vụ chủ chăn của Linh Mục, số 4 của Sắc Lệnh này) nhằm chống lại tính khoa trương và đề cao giáo sĩ. Ðó chính là ý lực đã được Công Ðồng lập đi lập lại mỗi khi đề cập về Giáo Hội (xem GH 3, 2) về giám Mục (GH 27) hay về Linh Mục (LM 15).

42* Chủ đề này sẽ trở lại trong số 11. Không phải sự vâng lời giản dị của tín hữu, nhưng của linh mục. Sự vâng lời của linh mục đã được long trọng tuyên hứa trong bí tích Truyền Chức, không phải chỉ để cho việc hoạt động tông đồ hữu hiệu, nhưng là để sát nhập với Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết để cứu chuộc thế gian, LTCB số 49 đã đề cập tới vấn đề này.

43* Việc đòi hỏi linh mục phải phục vụ lại được LTCB, số 50 nhắc lại: "Ước gì họ tập luyện, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng việc làm, tinh thần nghèo khó đang được Giáo Hội khẩn thiết kêu gọi và rất cần thiết để chu toàn thánh vụ tông đồ. Ước gì họ biết dựa vào sụ quan phòng của Thiên Chúa Cha và theo gương Thánh Phaolô giữ cho tâm hồn bình thản trong lúc dư dật cũng như khi bị khốn cùng (Ph 4,12)".

19 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42 (1950), trg 662 tt, 685, 690. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51 (1959), trg 551-553-556. - Phaolô VI, tđ Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 634 tt. - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, nhất là số 8: AAS 57 (1965), trg 12.

44* Cần đọc để bổ túc số này: GH 42; LM 16 và DT 5,12. Cũng không thề bỏ qua Thông điệp "Sacerdotalis Caelibatus" của Ðức Phaolô VI, ngày 24-6-1967. LTCB số 48 lập lại những phương thế bảo đảm: nhận biết đời sống độc thân là một đặc ân Chúa ban và chấp nhận. Nhờ đời sống tràn đầy lời nguyện và kết hợp vơí Chúa Kitô và nhờ tình yêu huynh đệ chân thành, họ sẽ tạo được những điều kiện cho phép họ có thể bảo đảm đời sống đó trong niềm hoan lạc tâm hồn và quyết tâm trung thành với lễ dâng đã một lần tự hiến.

20 Xem Piô XII, Tđ Sacra Virinitas, 25-3-1954: AAS 46 (1954), trg 165 tt.

21 Xem T. Cyprianô, De habitu virginum, 22: PL 4, 475. - T. Ambrosiô, De Virginibus I. 8,52: PL 16, 202 tt.

22 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42 (1950), trg 663.

23 Xem Piô XII, Tđ Sacra virginitas, n.v.t. trg 170-174.

45* Vậy họ phải "biết sử dụng sự tự do tâm lý trong cũng như ngoài, đạt được mức độ trưởng thành tình cảm cần thiết để có thể chứng minh và sống đời độc thân như một sự triển nở của nhân cách" (LTCB số 48).

24 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae, n.v.t. trg 664 và 690 tt.

46* Theo bản văn này, sự trưởng thành "trọn vẹn hơn" dường như hệ tại "một tình yêu chân thành, nhân loại, bằng hữu, cá nhân, và có thể hy sinh theo gương Chúa Kitô, đối với tất cả mọi người và từng người. Trái lại phải tránh những liên lạc "quá lố và kéo dài đối với mọi người khác phái". Sau cùng cần phải dựa trên sự hộ giúp của Chúa và thực tập việc hãm mình, bảo vệ giác quan.

47* Sự trưởng thành cần thiết hướng tới một nhân cách hoàn toàn.

25 Xem Phaolô VI, Tông thư Summi Dei verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 991.

48* Ðối với những đức tính tự nhiên nhằm chuẩn bị vị tông đồ tương lai. LTCB còn thêm: luyện tập cách ý thức và cần mẫn một đức công bình, một đức tin thiện hảo và giữa những đổi thay biết thận trọng hòa hợp với đức ái, tinh thần phục vụ huynh đệ, nhiệt thành sống động, khả năng cộng tác với người khác... Ðể mang Phúc Âm cho hết mọi người, họ phải tạo được khả năng giao tiếp với hết mọi người trong mọi hoàn cảnh (x. LTCB số 51).

26 Xem Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae, n.v.t. trg 686.

49* Từ những đòi hỏi thiêng liêng của những hoạt động trong đời sống linh mục. LTCB số 54 phác họa một mẫu sống cá nhân mà các linh mục tương lai phải sống ngay khi còn ở Chủng Viện. Ðây những nét chính: sống thân mật và cần mẫn với Chúa, tôn kính Lời Chúa, thích tiếp xúc với Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể và tìm thấy nơi đó nguồn vui; sốt sắng yêu mến Giáo Hội và Ðấng Ðồng Công Cứu Thế; nhiệt thành tìm hiểu các Giáo Phụ và các Thánh; tập quen thành thực tự vấn lương tâm và nhận thức các lý do thúc đẩy. 

50* Công Ðồng đổi mới ở chỗ này khi đề ra bốn phương cách khác nhau giúp cho sự trưởng thành thiêng liêng và ơn kêu gọi: thời kỳ chuẩn bị gắt gao, thực tập mục vụ, hạng tuổi cao hơn để lãnh chức và thực thi chức vụ phó tế. Theo lược đồ C (số 17), thời kỳ chuẩn bị gắt gao nhằm huấn luyện thiêng liêng có thể thực hiện hoặc trước khi vào thần học, hoặc ngay trước khi lãnh chức. Nơi nào triết học và thần học cùng dạy chung tại một chủng viện, tốt nhất là nên ấn định thời kỳ này vào lúc bắt đầu học triết. LTCB (số 42a) đề nghị như vậy và nhận định rằng nó có thể trùng hợp với những bài học dẫn vào mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Cứu Chuộc, như số 14 của Sắc Lệnh ấn định: một thời gian dành riêng cho việc cầu nguyện cá nhân, tăng gấp việc đào sâu thần học và Thánh Kinh về những nền tảng đời sống thiêng liêng, cũng như việc học tập và dấn thân ý thức hơn, chọn lựa ơn kêu gọi cách hữu lý hơn.

51* Cho tới nay để lãnh các chức Thánh, Giáo luật đòi hỏi phải có số tuổi 21, 22 và 24 chẵn (kh 975). Các tâm lý gia đồng ý nhận định rằng trong thế giới ngày nay, sự trưởng thành tâm lý rõ ràng chậm hơn sự trưởng thành thể lý và lý trí; hầu như khắp nơi người ta thấy cần phải hoãn các chức lại vào lứa tuổi lớn hơn. Các Giám Mục hữu trách các chủng viện sẽ theo các điều kiện địa phương mà xác định số tuổi tối thiểu. Người ta còn thấy rằng chính các thanh thiếu niên cũng cảm thấy chưa đủ chín mùi để dấn thân hoàn toàn và thường xin hoãn việc chịu chức.

52* Việc thi hành chức vụ phó tế không bắt buộc nhưng chỉ là yêu cầu (M 84/5 và 4). Theo thuyết trình viên của ủy ban việc thi hành có bốn lợi điểm sau đây: chuyển tiếp thích hợp tới chức vụ linh mục dưới sự hướng dẫn của một linh mục được chọn lựa kỹ lưỡng; ơn gọi được chín mùi và tăng triển; khi trở về chủng viện biết lợi dụng các môn học cách thích đáng hơn và biết bổ túc việc huấn luyện mục vụ; khả năng của ứng viên được nhận biết rõ ràng hơn.

53* Sắc Lệnh định rõ những kiến thức cần thiết trước khi theo học những môn học kinh viện; trau dồi văn chương và khoa học của quốc gia. Nhưng Công Ðồng không nói về bằng cấp quốc gia vì tại một vài nước, chương trình quốc gia khó dung hòa với sự đào tạo Kitô giáo hoàn toàn cho các ứng viên muốn tới chức linh mục. Một đề nghị tu chỉnh (M 33; 84-85/1) đã nói: "Một vài chính phủ đòi hỏi những điều không chính đáng". LTCB số 65 muốn "họ phải được đào luyện cho xứng với tước hiệu".

27 Xem Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum, n.v.t. trg 993.

54* Ðây là một lời khẩn khoản dầu không bắt buộc mọi người, 66 Nghị Phụ đã yêu cầu phải bắt buộc biết tiếng Hy Lạp; nhưng Công Ðồng chỉ khuyên nhủ, vì các hoàn cảnh khác nhau trong toàn Giáo Hội (xem LTCB số 80).

Sau khi nói về các ngôn ngữ cần thiết, LTCB (số 67) đã thêm một đoạn về việc khai tâm đối với các phương tiện truyền thông xã hội (xem TT số 67 và 16).

28 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 7 và 28: AAS 57 (1965), trg 9-11; 33.

55* LTCB nói lớp nhập môn này "có mục đích rút ra ý nghĩa chiều hướng và mục đích của những môn học kinh viện ngoài ra nó còn phải giúp bảo đảm những nền tảng của đức tin, giúp hiểu sâu xa hơn rằng ơn thiên triệu linh mục phải được gìn giữ bằng một hành động có suy xét hơn" (LTCB số 62). Chỉ có một Nghị Phụ không đồng ý về sự cần thiết của lớp nhập môn này.

56* Xem LTCB số 71. Khi giới thiệu "di sản triết học ngàn đời", Ủy Ban đã muốn ta phải hiểu là các nguyên tắc của Thánh Tôma (xem Laplante, sd 153-156).

29 Xem Piô XII, Tđ Humani Generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), trg 571-575. 

57* Công Ðồng không hề quên khía cạnh mục vụ đã là khởi hứng và là mục đích của tất cả việc đào tạo linh mục. Cũng thế, bản văn thường nhắc đến nỗi lo lắng chuẩn bị cho họ đối thoại với những người đồng hương và đương thời; xem LTCB số 64; đối với các xứ truyền giáo; xem TG 16, 4.

30 Xem Phaolô VI, Tđ Eccleiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964) trg 637 tt.

58* Ðoạn này được thêm vào lược đồ G, theo nhiều đề nghị tu chỉnh.

59* Những từ ngữ đã được lựa chọn "tìm kiếm, khảo sát, minh chứng" nói lên bổn phận phải trau dồi chính xác, từ bỏ cái mơ hồ, nghiêm chỉnh với các lý chứng, trong công việc tìm kiếm và chuyển thông tư tưởng. Cần xem thêm LTCB, ghi chú 150 cho số 71 về sự quan trọng của các môn triết học.

60* Theo Giáo Luật (kh 1365, 2), LTCB lập lại rằng thần học phải kéo dài ít nhất là 4 năm (LTCB số 60 và 76).

Số này dài nhất trong Sắc Lệnh và đặc sắc nhất, đã được tất cả các Nghị Phụ đồng ý.

61* Ở đây đưa ra những hướng dẫn tổng quát về việc khảo cứu thần học: "trong ánh sáng đức tin". "Tất cả cuộc khảo cứu thần học, dầu theo ngữ học, triết học hay sử học, đều phải phát khởi từ ánh sáng nội tâm của đức tin". (Ðề nghị tu chỉnh 96/1). - "Dưới sự hướng dẫn của Giáo Quyền". Ðức Piô XII trong Tđ Humani genesis: "các nhà thần học phải tùy thuộc Giáo Quyền trong vấn đề về đức tin, phong hóa, luật trực tiếp hay phổ quát về chân lý, vì Chúa Kitô Chúa chúng ta đã ủy thác cho Giáo Quyền toàn bộ kho tàng đức tin". Ghi chú 31 của Sắc Lệnh lấy lại Hiến chế tín lý về Giáo Hội số 25 nơi đòi phải có sự "qui thuận tôn giáo trong cả ý chí lẫn lý trí đối với Quyền Giáo Huấn chính đáng của Ðức Thánh Cha, cả khi ngài không tuyên bố long trọng "ex cathedra". Ta còn có thể kể thêm đoạn văn của Hiến chế tín lý về Mạc Khải sô 10: "Nhiệm vụ chú giải chính thức Lời Chúa, thành văn hay truyền tụng, chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống động của Giáo Hội mà uy quyền hành sự nhân danh Chúa Giêsu Kitô".

31 Xem Piô XII, Tđ Humani Genesis, 128-1950: AAS 42 (1950), trg 567-569. Diễn văn Si Diligis, 31-5-1954: AAS 46 (1954), trg 314 tt. - Phaolô VI, diễn văn đọc tại Ðại Học Gregoriô, 12-3-1964: AAS 56 (1964), trg 364. - CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 25: AAS 57 (1965), trg 29-31. 

32 Xem T. Bonaventura, Itinerarium mentis in Deum, Prol số 4: "Ước gì đừng ai tự phụ rằng mình chỉ cần đọc qua mà không cần thấm nhiễm, chỉ cần thuyết lý mà không cần sùng kính, chỉ cần khảo cứu mà không cần khâm phục, chỉ cần chú tâm mà không cần hoan lạc, chỉ cần khéo léo mà không cần đạo hạnh, chỉ cần kiến thức mà không cần yêu đương, chỉ cần hiểu biết mà không cần khiêm tốn, chỉ cần chuyên chăm mà không cần ơn Thánh, chỉ cần ánh sáng mà không cần đức khôn ngoan thần linh" (S. Bonaventura, Opera Omnia, V. Quaracchi 1891, trg 296).

62* Có thể xem thêm Truhlar (Việc dạy thần học trogn đời sống thiêng liêng), trong Seminarium 1968, số 4.

63* Xem những khai triển về vai trò của các giáo sư thần học trong LTCB số 86-89.

64* Sắc Lệnh đặt Thánh Kinh vào tâm điểm thần học và cách nói "như hồn của toàn thể khoa thần học" đã được xử dụng trong Hiấn chế tín lý về Mạc Khải, số 24. Các nói đó đã được Ðức Lêô XIII dùng trong thông điệp Providentissimus Deus, 1893, về những môn học Thánh Kinh.

33 Xem Leô XIII, Tđ Providentissimus Deus, 18-11-1893: AAS 26 (1893-1894), trg 283.

34 Xem Ủy ban giáo hoàng về Thánh Kinh, Instructio de Sacra Scriptura recte docenda, 13-5-1950: AAS 42 (1950), trg 502.

35 Xem Piô XII, Tđ Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950) trg 568 tt: "Nhờ khảo cứu các nguồn gốc mà khoa thần học luôn trẻ trung, trong khi đó, sự thuyết lý không chịu đào sâu vào kho tàng Mạc Khải chỉ là sự thuyết lý khô cằn, như kinh nghiệm đã minh chứng".

36 Xem Piô XII, bài giảng cho các chủng sinh, 24-6-1939: AAS 31 (1939), trg 247: "Khuyến khích học thuyết của Thánh Tôma không có nghĩa là bóp nghẹt, nhưng là thúc đẩy và vững vàng hướng dẫn những cuộc thi đua khảo cứu và quảng bá chân lý". Phaolô VI, Diễn văn đọc tại Ðại Học Gregoriô, 12-3-1964: AAS 56 (1964), trg 365. "Các Giáo sư sẽ kính cẩn lưu tâm đến học thuyết của các Ðấng Tiến Sĩ trong Giáo Hội, và đặc biệt là Thánh Tôma Aquinô. Quả thật, nơi vị Tiến Sĩ Thiên Thần này, có một trí năng sâu sắc, một lòng yêu chân lý trung thực, một sự khôn ngoan phi thường khi đào sâu, tổng hợp và trình bày những chân lý cao sâu nhất, đến nỗi học thuyết của ngài đã thành khí cụ hiệu nghiệm nhất, không những để xây nền vững chắc cho đức tin mà còn để thu lượm một cách chắc chắn và hiệu nghiệm những kết quả của một bước tiến lành mạnh"; xem diễn văn đọc trước Ðại Hội Quốc Tế kỳ VI của học thuyết Tôma, 10-9-1965: AAS 57 (1965), trg 788-792.

65* Vấn đề này đã được tranh luận như sau: 161 Nghị Phụ muốn dùng từ ngữ "như mẫu mực"; 31 Nghị Phụ đề nghị: "và của các tôn sư khác", hay "nhất là Thánh Tôma"; 46 Nghị Phụ muốn nói tổng quát: "các thánh tiến sĩ". Nhưng có 459 Nghị Phụ muốn bảo vệ bản văn của lược đồ nên ủy ban đã để nguyên như lược đồ F: "với thánh Tôma là một tôn sư"; 1,500 Nghị Phụ khác mặc nhiên chấp thuận. (xem 1189, đề nghị tu chỉnh 11, 12, 13, 14).

37 Xem CÐ Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrasanctum Concilium số 7 và 16: AAS 56 (1964), trg 100 tt và 104 tt.

38 Xem Phaolô VI, Tđ Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 640 tt.

66* Cả đoạn này hoàn toàn mới mẻ: các lược đồ từ A tới F không có. Xem vài ghi nhận trong LTCB số 79.

67* Giáo sử cần trình bày sự phát triển của giáo thuyết, những điều kiện xã hội, sự cộng tác kỳ diệu giữa hành động thần linh và hoạt động con người để những người thụ huấn có được "một cảm giác chân thực của Giáo Hội và của Truyền Thống". Ngoài ra còn phải chú ý tới lịch sử của mỗi miền (xem LTCB số 79).

68* Môn phụng vụ phải được coi như "một trong những môn học chính" (môn quan trọng trong các Ðại chủng viện và chính yếu trong các phân khoa thần học). Phụng vụ phải được dạy dưới khía cạnh thần học, lịch sử, thiêng liêng và mục vụ (xem LTCB số 79)

39 CÐ Vat II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrasanctum Concilium, số 10, 14, 15, 16. Thánh bộ Nghi lễ Instructio ad exsecutionem Constitutionis de Sacra Liturgia recte ordinandam, 26-9-1964, số 11 và 12: AAS 56 (1964), trg 879 tt. 

69* Niềm lo âu tìm về hiệp nhất này như một dấu chỉ thời đại, sẽ giúp tìm thấy nhiều lợi ích qua việc học hỏi những nguyên tắc hướng dẫn việc hiệp nhất (Spiritus Dominus, do Văn Ph2ng Thư Ký về Hiệp Nhất xuất bản ngày 16-4-1970: trích dẫn Doc. Cath. 18-6-67 và 7-6-70), nhất là phần thứ hai; xem thêm những Sắc Lệnh về Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương và về Hiệp Nhất với các chú thích.

Tiếng "các Giáo Hội" có ý chỉ Giáo Hội Chính Thống, Hy Lạp, Anh Giáo v.v... và tiếng "các Cộng Ðoàn Giáo Hội" (do Ðức Hồng Y Koening đề ra) chỉ các Giáo Hội nhỏ. Sắc Lệnh về hoạt động Truyền Giáo nhấn mạnh đặc biệt tới tinh thần cộng đoàn này trong các xứ truyền giáo: số 15, 5.

40 CÐ Vat II, Săc Lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio, số 1, 9, 10: AAS 57 (1965), trg 90 và 98 tt.

70* Ðoạn này đặc biệt quan trọng đối với linh mục tương lai trong những miền đa số không phải là Kitô hữu. Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo cũng nhấn mạnh tới điểm đó: "Họ phải được chuẩn bị để thích hợp cho cuộc đối thoại huynh đệ với những người ngoài Kitô giáo" (TG số 16 và NK).

71* LTCB số 90-93 thêm những lời khuyên thực tế: đừng vội tăng thêm những môn học mới, nhưng nên đưa vào những vấn đề mới trong giáo huấn cổ truyền: đó không phải là nhiều khoa nhưng chỉ một khoa là khoa đức tin và Phúc Âm.

72* Ðoạn này xuất hiện lần đầu trong lược đồ E, vào tháng 4 năm 1965 và đã được nhuận chính nhiều lần. Vấn đề liên hệ nhiều tới các xứ truyền giáo. Lần can thiệp đầu tiên là do Ðức Cha Sani người Nam Dương. Nhiều vấn đề tiềm ẩn trong số này: một nhu cầu thực tế cho nhiều giáo phận là phải chuẩn bị các linh mục cho những trách vụ cao hơn, và các Giám Mục có nhiệm vụ phải chọn lựa. Cũng phải đọc thêm số 16, 4 và 7 của Sắc Lệnh TG. Xem thêm những yêu cầu của LTCB số 83-84.

73* Lược đồ tiên khởi do Ðức Cha Carraro dọn đã được nghiên cứu lâu dài và được sửa đổi. Sau khi đề cập tới việc đào tạo về các nhiệm vụ khác nhau, lược đồ đã nhấn mạnh tới việc đào tạo tinh thần đối thoại, hợp lực với giáo dân trong các hoạt động thực tế nhắm việc tông đồ. Một ghi chú dài của LTCB (196) nhấn mạnh đến việc đào tạo tinh thần mục vụ này nơi các linh mục tương lai. Ðiều này trước hết giả thiết những tiếp xúc thích hợp giữa chủng viện và xã hội: học viện không phải là một thế giới đóng kín chỉ biết cách trừu tượng về điều kiện chân thực của con người và sự việc, nhưng cũng không phải là một thế giới cởi mở đến nỗi đón nhận mọi kinh nghiệm.

41 Có thể tách lấy để xây đắp hình ảnh một chủ chăn khuôn mẫu nhờ những tài liệu của các Ðức Giáo Hoàng mới đây. Ðó là những tài liệu bàn về đời sống các đức tính và công cuộc đào tạo các Linh Mục, đặc biệt là các tài liệu của:

-        T. Piô X, Tông huấn cho hàng Giáo sĩ Hacrent Animo: S. Pio X Acta IV, trg 237 tt.

-        Piô XI, TÐ Ad Catholici Sacerdotii: AAS 28 (1936), trg 5 tt. - Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42 (1950), trg 657 tt. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51 (1959), trg 545 tt. - Phaolô VI, Tông thư Summi Dei Verbum: AAS 55 (1963), trg 979 tt. Những ý tưởng về đào tạo Linh Mục còn thấy rải rác trong các thông điệp: Mystici Corporis Sanctae Diciplina (1955). Princeps pastorum (1959) và Tông hiến cho các tu sĩ Sedes Sapientiae (1956).

Ðức Piô XII, Gioan XXIII và Phaolô VI đã nhiều lần phác họa hình ảnh của vị chủ chăn tốt lành trong các diễn từ dành cho chủng sinh và linh mục.

74* Về vấn đề quan trọng này, hãy xem những nhắc nhở của Công Ðồng MK 24; PV 24, 35, 52, 109; LM 4; GH 25; GM 12.

75* Ở đây hiểu ngầm sự đào tạo về thánh nghệ và thánh nhạc (M 114/4) theo những chỉ dẫn của Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (PV 115, 129). Một đề nghị tu chỉnh có 10 Nghị Phụ ký tên đòi hỏi rằng Phụng Vụ phải là "chủ yếu đời sống, làm sống động mọi công cuộc huấn luyện ở chủng viện" (M 114/4c).

76* Ðiểm này được thêm vào lược đồ F, tháng 10 năm 1964, theo lời yêu cầu của nhiều Nghị Phụ.

77* Nghệ thuật phức tạp này đòi hỏi phải có một căn bản thần học vững chắc, hiểu biết tường tận các khoa tâm lý và một số nhận thức thiêng liêng đã được luyện tập. Sắc lệnh nói về sự hướng dẫn để đào tạo mọi con cái Giáo Hội để nâng đỡ mọi người đến một đời sống ý thức, tươi sáng, đủ quảng đại hiến mình vào việc tông đồ (xem GH số 38), và giúp mỗi tín hữu chu toàn những nhiệm vụ thuộc bậc sống để mưu ích cho mọi người. Sự hướng dẫn này cần thiết để giúp các thiếu niên định hướng tương lai của họ. LTCB còn nói thêm về sự chuẩn bị của các linh mục "trong những liên lạc đứng đắn và lành mạnh đối với phụ nữ".

78* Thường các tu sĩ nam nữ than phiền là không tìm thấy một linh mục có thể giúp đỡ đúng mức đời sống thiêng liêng của họ. Vì thế Công Ðồng đòi hỏi các linh mục tương lai phải biết rõ về sự quan trọng và những đòi hỏi cuộc đời tu dòng (ghi chú 42). 

42 Về giá trị của bậc sống khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm, xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, ch VI: AAS 57 (1965), trg 49-53; Sắc Lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu Perfectae Caritatis. 

79* Ðây là lần thứ nhì Sắc Lệnh này công khai lập lại nhu cầu phải huấn luyện để đối thoại (xem số 15). Ðoạn này được thêm vào vì nhiều can thiệp của các Nghị Phụ (vd. Ðức Hồng Y Doepfner và Léger, ÐGM Savage v.v...). Cũng cần lập lại ở đây thái độ căn bản của đối thoại: biết nghe người khác; đó là điều kiện cần thiết để hiểu người khác. 61 Nghị Phụ đã đòi hỏi như vậy cho số 6 (M 63-8), và 18 Nghị Phụ đã đòi hỏi các giáo hữu phải như vậy (M 117-2).

Chính trong viễn tượng này mà Công Ðồng yêu cầu phải học các khoa tâm lý, sư phạm và xã hội để hiểu biết con người và hoàn cảnh hơn: xem số 20.

43 Xem Phaolô VI, Tđ Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), nhất là trg 635 tt và 640 tt.

44 Nhất là xem Gioan XXIII, Tđ Mater Magistra, 15-3-1961: AAS 53 (1961), trg 401 tt. 

80* Sự góp phần của các khoa học nhân văn có thể giúp đỡ nhiều cho việc thích ứng mục vụ với nhu cầu ngày nay và canh tân các phương pháp.

81* Công Ðồng đã nhấn mạnh nhiều về các liên hệ giữa giáo dân và linh mục; vd GH 33, 37; TÐ 28, 32; ÐT 8, 16; LM 14; TG 21; MV 44... Vì là "người cổ võ giáo dân", "người giáo huấn giáo dân", linh mục pah3i tập cộng tác rộng rãi với họ.

45 Ðặc biệt xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 33: AAS 57 (1965), trg 39.

82* Tinh thần truyền giáo cởi mở này đã nhuần thấm Công Ðồng; vd GH 17; TG nhất là số 16, 36-39; LM 10. Chính Sắc Lệnh này cũng nhấn mạnh rằng phải dạy cho chủng sinh biết nhu cầu của toàn thể Giáo Hội, những vấn đề trầm trọng đang đè nặng trên từng phần của Giáo Hội, những bước tiến trong việc Phúc Âm hóa thế giới...

46 Xem n.v.t. số 17: AAS 57 (1965), trg 20 tt.

83* Bản văn gọi việc tông đồ là một nghệ thuật. Nghệ thuật bao gồm hiểu biết và thực hành. Nhận xét đó rất có giá trị. LTCB nhắc lại rằng phải thể hiện việc tông đồ "suốt kỳ học tập, trong năm cũng như kỷ nghỉ" (LTCB số 97).

47 Nhiều văn kiện của các Ðức Giáo Hoàng nêu rõ nguy cơ xao lãng mục đích siêu nhiên trong hoạt động mục vụ hoặc thực tế coi rẻ việc trợ giúp siêu nhiên, đặc biệt xem những văn kiện ghi trong chú thích 41.

84* Ðược dự liệu từ lược đồ B, chất liệu trong chương này đã được rút gọn nhưng vẫn giữ được tất cả những gì là ca7n bản về sự chuyển tiếp giữa đời sống ở chủng viện sang cuộc sống thi hành chức vụ đầy khó khăn.

48 Nhiều văn kiện mới đây của Tòa Thánh thiết tha yêu cầu đặc biệt săn sóc các linh mục mới chịu chức. Có thể kể những văn kiện chính: Piô XII, Tự Sắc Quadoquidem, 2-4-1949: AAS 41 (1949), trg 165-167; Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950); Tông hiến cho tu sĩ Sedes Sapientiae, 31-5-1956 và quy chế tổng quát đính kèm; Diễn văn cho các Linh mục "Convictus Barcionensis", 14-6-1957: Discorsi e Radiomessagi, XIX, trg 271-273. - Phaolô VI, Diễn văn đọc trước các Linh Mục học viện "Gian Matteo Giberti", giáo phận Verona, 11-3-1964: L'Osservatore Romano, 13-3-1964.

85* Lo lắng tổ chức chương trình và phương thế đào tạo sau khi rời chủng viện không những là trách nhiệm của mỗi Giám Mục riêng rẽ, nhưng cũng là của cả Hội Ðồng Giám Mục, và theo bản đề nghị tu chỉnh 1 (M 120) trách nhiệm này có nghĩa bắt buộc. 

86* Xem những chỉ dẫn của LTCB số 101.

87* Phải xem lại thư của Thánh Bộ phụ trách hàng giáo sĩ biên soạn sau bản điều tra gửi cho các Hội Ðồng Giám Mục, hỏi về việc đào luyện thường xuyên cho hàng giáo sĩ ngày 4 tháng 11 năm 1969 (xem Doc. cath. 1-3-70) trong đó sau những cân nhắc tổng quát quan trọng Thánh Bộ đã đề ra những phương thế cụ thể để đào luyện thường xuyên hàng giáo sĩ như: năm mục vụ, khảo hạch từng ba năm một, những nhóm họp tìm hoàn thiện, những nhóm họp nghiên cứu, đại hội linh mục, tổ chức thư viện, nghỉ ngơi để học tập v.v... xem thêm TG số 20, 5).

88* Các lược đồ B, C và D kết thúc bằng một lời hứa Thiên Chúa trả công cho những người đào tạo hàng gaío sĩ. Lời kết luận chúng ta có đây là theo lời yêu cầu của một Nghị Phụ duy nhất về "vài lời nói hoàn toàn mục vụ với các chủng sinh hiện tại và tương lai" (M 121/6). Ðây là một việc làm tốt đẹp nói lên niềm tin tưởng của Giáo Hội nơi các vị hữu trách lo đào tạo linh mục và nơi các chủng sinh, và sau cũng là lời khuyên đem thực hành Sắc Lệnh.

Văn kiện này sẽ ảnh hưởng lớn lao đến việc canh tân Giáo Hội, chính vì tin tưởng vào các linh mục hôm nay và ngày mai, nên Giáo Hội thực hiện việc canh tâm cho toàn thể Giáo Hội. Xin Chúa cảm ứng cho các bậc thầy và môn sinh để họ ghi tâm những trách vụ nặng nề trước những gì vừa được ban hành "cho Danh Chúa cả sáng".