Giáo Triều Tĩnh Tâm Mùa Chay 2023

Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap

Bài 1 – Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần

Đức Hồng y Raniero Cantalamessa

WHĐ (05.03.2023) - Từ hôm mồng 03. 3. 2023, Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, bắt đầu loạt bài giảng Mùa Chay năm nay. Với mục đích khuyến khích đặt Chúa Thánh Thần ở trung tâm đời sống Giáo hội, và đặc biệt là ở trung tâm của tiến trình Hiệp hành, Đức Hồng y tập trung vào vai trò hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Dưới đây là toàn văn bài giảng thứ nhất của Đức Hồng y:

Lịch sử Giáo hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã để lại cho chúng ta một bài học cay đắng mà chúng ta không được quên, kẻo lặp lại sai lầm đã gây ra. Tôi đề cập đến sự chậm trễ (hay đúng hơn là sự từ chối) trong việc ghi nhận những thay đổi đã diễn ra trong xã hội, và hậu quả là cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa Hiện đại.

Bất cứ ai đã nghiên cứu về thời kỳ đó, dù chỉ ở mức độ hời hợt, đều biết những thiệt hại mà nó gây ra cho cả hai, nghĩa là cho cả Giáo hội và cho cái gọi là “những người theo chủ nghĩa hiện đại”. Một mặt, việc thiếu đối thoại đã đẩy một số người theo chủ nghĩa hiện đại nổi tiếng nhất vào những quan điểm ngày càng cực đoan và cuối cùng rõ ràng là dị giáo; mặt khác, nó đã tước đi nguồn năng lượng to lớn của Giáo hội, gây ra những vết rách và đau khổ khôn nguôi trong Giáo hội, khiến Giáo hội ngày càng thu mình lại và tụt hậu so với thời đại.

Công đồng Vatican II là một sáng kiến mang tính ngôn sứ để bù đắp thời gian đã mất. Công đồng đã mang lại một sự đổi mới mà chắc chắn không cần thiết phải minh họa lại ở đây. Hơn cả nội dung của nó, điều khiến chúng ta quan tâm ngày nay là phương pháp mà Công đồng đã khởi xướng, bao gồm việc đi xuyên qua lịch sử, bên cạnh nhân loại, tìm cách phân định những dấu chỉ của thời đại.

Lịch sử và đời sống của Giáo hội không kết thúc với Công đồng Vatican II. Chúng ta hãy cẩn thận để không biến nó thành điều đã cố gắng với Hội đồng Trent, đó là vạch đích và mục tiêu cố định. Nếu cuộc sống của Giáo hội dừng lại, nó sẽ giống như một dòng sông chảy vào một con đập: nó chắc chắn sẽ biến thành một vũng lầy hoặc một đầm lầy.

Vào thế kỷ thứ III, Origen đã viết: “Đừng nghĩ rằng chỉ cần đổi mới một lần là đủ; cần phải làm mới chính sự mới lạ” – Ipsa novitas innovanda est. Trước Origen, Thánh Irenaeus, tân tiến sĩ của Giáo hội, đã viết: Chân lý mặc khải “giống như rượu quý đựng trong một chiếc bình quý giá. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, chân lý luôn trẻ hóa và cũng làm cho chiếc bình chứa nó trẻ lại.”Chiếc bình” chứa đựng chân lý mạc khải là truyền thống sống động của Giáo hội. “Rượu quý” trước hết là Kinh thánh, nhưng Kinh thánh được đọc trong Giáo hội, vốn là định nghĩa chính xác nhất của Truyền thống. Tự bản chất, Thần Khí là sự mới mẻ. Thánh Tông Đồ khuyên những người đã được rửa tội phục vụ Thiên Chúa “theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của Lề Luật” (Rm 7, 6).

Xã hội không những không dừng lại vào thời Công đồng Vatican II, mà còn tăng tốc chóng mặt. Những thay đổi trước đây mất một hoặc hai thế kỷ, giờ đây mất một thập kỷ. Nhu cầu đổi mới liên tục này không gì khác hơn là nhu cầu hoán cải liên tục, được mở rộng từ cá nhân tín hữu cho đến toàn thể Giáo hội trong thành phần nhân bản và lịch sử của nó. Giáo Hội phải luôn luôn canh tân. Do đó, vấn đề thực sự không nằm ở tính mới mẻ; mà là ở cách tiếp cận nó. Hãy để tôi giải thích. Mọi sự mới mẻ và mọi sự thay đổi đều ở ngã ba đường; hai con đường trái ngược nhau có thể xuất hiện: con đường của thế gian hoặc con đường của Thiên Chúa: con đường của sự chết hoặc con đường của sự sống. Didache, một tác phẩm được viết khi ít nhất 1 trong số 12 Tông đồ còn sống, đã giải thích hai con đường này cho các tín hữu.

Bây giờ chúng ta có một phương tiện không thể sai lầm để đi trên con đường sự sống và ánh sáng mọi lúc: Chúa Thánh Thần. Đó là điều chắc chắn mà Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ trước khi từ giã các ông: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Và một lần nữa: “Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16, 13). Ngài sẽ không làm tất cả cùng một lúc, hoặc một lần cho mãi mãi, mà là khi có tình huống phát sinh. Trước khi dứt khoát từ giã vào lúc Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh đã trấn an các môn đệ về sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất". (Cv 1, 8).

Mục đích của 5 bài giảng Mùa Chay mà chúng ta bắt đầu hôm nay, rất đơn giản, chính là điều này: khuyến khích chúng ta đặt Chúa Thánh Thần ở trung tâm của toàn bộ đời sống Giáo hội, và đặc biệt, trong thời điểm này, ở trung tâm của tiến trình Hiệp hành. Nói cách khác, hãy đón nhận lời mời gọi khẩn thiết mà Đấng Phục Sinh ngỏ với từng Hội thánh trong số 7 Hội thánh của Tiểu Á trong Sách Khải Huyền: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh” (Kh 2, 7).

Hơn nữa, đây là cách duy nhất mà tôi có để không hoàn toàn xa lạ với cam kết đang diễn ra đối với Thượng hội đồng. Trong một trong những bài giảng đầu tiên của tôi tại Phủ Giáo hoàng, cách đây 43 năm, tôi đã nói trước sự hiện diện của Thánh Gioan Phaolô II: “Suốt cuộc đời, con tiếp tục làm công việc khiêm tốn mà con đã làm khi còn nhỏ”. Và tôi đã giải thích tại sao. Ông bà ngoại tôi canh tác trên một mảnh đất đồi rộng lớn với tư cách là người cấy rẽ [người thuê ruộng đất để làm và nộp một phần hoa lợi cho chủ ruộng đất]. Vào tháng 6 hoặc tháng 7, có vụ thu hoạch, tất cả đều làm bằng tay, với lưỡi liềm, còng lưng dưới nắng. Đó là một công việc rất vất vả! Tôi và mấy đứa em họ phụ trách việc liên tục mang nước cho thợ gặt uống. Đó là điều, như tôi đã nói, tôi làm trong suốt phần đời còn lại của mình. Thợ gặt đã thay đổi, giờ đây họ là những người thợ trong vườn nho của Chúa, và nước đã khác đi, tức là Lời Chúa. Thật lòng mà nói, công việc của tôi ít mệt hơn nhiều so với công việc của những người lao động ngoài đồng, nhưng tôi hy vọng, ở một mức độ nào đó, cũng hữu ích và cần thiết.

Trong bài giảng đầu tiên này, tôi chỉ giới hạn trong việc tiếp thu bài học đến với chúng ta từ Giáo hội sơ khai. Nói cách khác, tôi muốn trình bày cách Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các tông đồ và cộng đồng Kitô hữu như thế nào trong những bước đầu tiên của họ trong lịch sử. Khi Gioan viết ra những lời của Chúa Giêsu mà tôi vừa nhắc lại, nhờ sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ, Giáo Hội đã có kinh nghiệm thực tế về những lời đó, và chính kinh nghiệm này, các nhà chú giải cho chúng ta biết, được phản ánh trong những lời của thánh sử.

Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy một Giáo hội từng bước được “Thánh Thần hướng dẫn”. Sự hướng dẫn của Ngài được thực hiện không chỉ trong những quyết định lớn mà còn trong những điều nhỏ bé hơn. Phaolô và Timôthê muốn rao giảng phúc âm trong tỉnh Asia, nhưng “Thánh Thần ngăn cản họ”; họ chuẩn bị tiến về Bithynia, nhưng có lời chép rằng “Thần Khí Ðức Giêsu không cho phép” (Cv 16, 6). Từ những gì tiếp theo, chúng ta hiểu lý do của sự hướng dẫn cấp bách này: Chúa Thánh Thần đã thúc giục Giáo hội sơ khai rời khỏi Châu Á để hướng tới một lục địa mới, Châu Âu (x. Cv 16, 9). Thánh Phaolô đi xa đến mức tự xác định mình, trong các lựa chọn của mình, là “tù nhân của Thần Khí” (Cv 20, 22).

Con đường của Giáo hội sơ khai không phải là con đường thẳng tắp và bằng phẳng. Cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên liên quan đến việc thu nhận những người gốc ngoại vào Giáo hội. Ở đây, chúng ta không cần phải nhớ lại tiến trình này, nhưng chỉ quan tâm đến việc ghi nhớ cách giải quyết cuộc khủng hoảng. Phêrô đến gặp Cornelius và những người ngoại — Chính Thánh Thần ra lệnh cho ông làm như vậy (x. Cv 10, 19; 11, 12). Và quyết định của các Tông đồ ở Giêrusalem chào đón những dân ngoại vào cộng đồng mà không buộc họ phải cắt bì và tuân thủ tất cả luật pháp Môise, được thúc đẩy và truyền đạt như thế nào? Nó được giải quyết bằng những lời mở đầu phi thường này: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định …” (15, 28).

Đây không phải là vấn đề khảo cổ học về Giáo hội, mà là đưa ra ánh sáng, luôn luôn mới mẻ, mô hình của mọi quyết định của Giáo hội. Thực ra, không cần phải cố gắng nhiều để thấy sự tương đồng giữa sự cởi mở lúc bấy giờ dành cho Dân ngoại, với sự cởi mở ngày nay dành cho giáo dân, và đặc biệt là phụ nữ. Do đó, điều đáng nhắc lại là động lực đã thúc đẩy Phêrô vượt qua sự bối rối của mình và làm phép rửa cho Cornelius và gia đình ông. Chúng ta đọc trong Công vụ:

Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phêrô nói rằng: "Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?" (Cv 10, 44-47)

Được kêu gọi để biện minh cho hành vi của mình ở Giêrusalem, thánh Phêrô kể lại những gì đã xảy ra trong nhà của Cornelius và kết luận rằng:

Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần." Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?" (Cv 11, 16-17).

Nếu chúng ta nhìn kỹ, thì đó cũng chính là động lực đã thúc đẩy các Nghị phụ của Công đồng Vatican II xác định lại vai trò của giáo dân trong Giáo hội, cụ thể là học thuyết về các đặc sủng. Chúng ta biết rõ văn bản, nhưng việc nhớ lại nó luôn hữu ích:

Chúa Thánh Thần không chỉ thánh hóa, dẫn dắt Dân Chúa nhờ các bí tích và những tác vụ của Giáo Hội và trang điểm Dân Chúa bằng những nhân đức, nhưng còn phân phát những ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi cấp bậc, khi trao ban ân huệ “cho mỗi người theo ý Ngài muốn” (1 Cr 12,11), nhờ đó, Ngài làm cho họ nên thích hợp và sẵn sàng đảm nhận các công việc và chức vụ khác nhau để canh tân và xây dựng Giáo Hội như lời của thánh Tông Đồ: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,7). Dù là ơn thật đặc biệt hay ơn thật đơn sơ hoặc được ban rộng rãi cho nhiều người, những đặc sủng này phải được lãnh nhận với lòng tri ân và niềm an ủi, vì đó là những ơn thích hợp và hữu ích cho những nhu cầu của Giáo Hội. (Hiến chế Lumen Gentium, 12).

Chúng ta đang đối diện với việc tái khám phá bản chất của Giáo hội không chỉ có phẩm trật mà còn có đặc sủng. Thánh Gioan Phaolô II, trong Tông thư Novo millennio ineunte (số 45) đã làm cho điều đó trở nên rõ ràng hơn bằng cách định nghĩa Giáo hội như một phẩm trật và như một sự hiệp thông (koinonia). Trong lần đọc đầu tiên, Tông hiến gần đây về việc cải cách Giáo triều Praedicate Evangelium (ngoài tất cả các khía cạnh pháp lý và kỹ thuật mà tôi hoàn toàn không biết gì) đã cho tôi ấn tượng về một bước tiến theo cùng hướng này: đó là, trong việc áp dụng nguyên tắc được Công đồng phê chuẩn cho một lãnh vực cụ thể của Giáo hội, đó là thể chế của nó và cho sự tham gia nhiều hơn vào đó của giáo dân và phụ nữ.

Nhưng bây giờ chúng ta phải tiến thêm một bước nữa. Tấm gương của Giáo hội tông truyền soi sáng cho chúng ta không chỉ về các nguyên tắc hướng dẫn, nghĩa là về giáo lý, mà còn về thực hành của Giáo hội. Nó cho chúng ta biết rằng không phải mọi sự đều được giải quyết bằng các quyết định được đưa ra trong một công đồng hoặc bằng một sắc lệnh. Cần phải biến những quyết định này thành thực tế, được gọi là “sự tiếp nhận” các giáo điều. Và để làm được điều này, chúng ta cần thời gian, sự kiên nhẫn, đối thoại, và lòng khoan dung; thậm chí đôi khi phải thỏa hiệp. Khi được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, sự thỏa hiệp không phải là nhượng bộ hoặc hạ thấp chân lý, mà là bác ái và tuân theo hoàn cảnh. Thiên Chúa đã kiên nhẫn và bao dung biết bao sau khi ban Mười Điều Răn cho dân Ngài! Ngài đã phải – và vẫn còn phải - đợi sự tiếp nhận của chúng ta trong thời gian!

Trong toàn bộ sự việc mà chúng ta vừa nhắc lại, rõ ràng thánh Phêrô xuất hiện như là người trung gian giữa Giacôbê và Phaolô, nghĩa là giữa mối quan tâm về tính liên tục và tính mới lạ. Trong cuộc hòa giải này, chúng ta chứng kiến một sự việc có thể giúp ích cho chúng ta ngay cả ngày nay. Sự việc xảy ra khi Phaolô, tại Antiokia đã khiển trách Phêrô là đạo đức giả vì đã tránh ngồi cùng bàn với những người gốc dân ngoại trở lại. Hãy nghe những gì đã xảy ra từ chính những lời của Phaolô:

Nhưng khi ông Kêpha đến Antiôkhia, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Thật vậy, trước khi có những người của ông Giacôbê đến, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại; nhưng khi họ đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. (Gl 2, 11-12).

Những người bảo thủ thời đó đã trách móc Phêrô vì đã đi quá xa khi tìm đến Cornelius ngoại giáo; Còn Phaolô lại trách Phêrô đã không đi đủ xa. Phaolô là vị thánh mà tôi ngưỡng mộ và yêu mến nhất. Nhưng trong trường hợp này, tôi tin chắc rằng ngài đã để bản thân bị lôi cuốn (và đây không phải là lần duy nhất!) bởi tính khí nóng nảy của mình. Phêrô không hề phạm tội đạo đức giả. Bằng chứng là vào một dịp khác, chính Phaolô đã làm y như Phêrô đã làm ở Antiokia. Tại Lystra, Phaolô đã cho người bạn đồng hành của mình là Timôthê làm phép cắt bì “vì nể các người Dothái ở những nơi ấy” (Cv 16, 3), nghĩa là, để không gây gương mù cho bất kỳ ai. Với người Côrintô, Phaolô viết rằng "Với người Dothái, tôi đã trở nên Dothái, để chinh phục người Dothái", (1Cr 9, 20) và trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài khuyên hãy đi gặp những người chưa đạt được sự tự do mà mình được hưởng, để không biến nước Thiên Chúa thành “chuyện ăn uống” (Rm 14, 1tt).

Vai trò trung gian mà Phêrô thực hiện giữa các khuynh hướng đối lập của Giacôbê và Phaolô vẫn tiếp tục ở những người kế vị ngài. Chắc chắn là không theo một cách thống nhất nơi mỗi vị (và điều này tốt cho Giáo hội) nhưng theo đặc sủng riêng của mỗi vị mà Chúa Thánh Thần (và các hồng y dưới quyền của ngài) đánh giá điều gì là cần thiết hơn vào một thời điểm nhất định trong lịch sử Giáo hội. Đối diện với các sự kiện và thực tế mang tính chính trị, xã hội và giáo hội, chúng ta có khuynh hướng ngay lập tức đứng về một bên và hạ bệ bên kia, để mong muốn chiến thắng của sự lựa chọn của chúng ta đối với lựa chọn của kẻ thù. (Nếu chiến tranh nổ ra, mọi người đều cầu nguyện cùng một vị Thần để ban chiến thắng cho quân đội của mình và tiêu diệt quân đội của kẻ thù!). Tôi không nói rằng không được phép có những sở thích trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, thần học, v.v., hoặc có thể không có bất kỳ sở thích nào. Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ mong đợi Thiên Chúa sẽ đứng về phía chúng ta để chống lại kẻ thù. Chúng ta cũng không nên yêu cầu điều này từ những người lãnh đạo chúng ta. Nó giống như việc yêu cầu một người cha phải chọn giữa hai đứa con; như thể chúng ta đang nói với ông: “Hãy chọn: hoặc con hoặc đối thủ của con; thể hiện rõ ràng cha đứng về phía ai! Thiên Chúa ở với mọi người và do đó Ngài không thể chống lại bất cứ ai! Thiên Chúa là cha của tất cả mọi người.

Hành động của Phêrô ở Antiôkia – giống như hành động của Phaolô ở Lystra – không phải là đạo đức giả, mà là sự thích nghi với hoàn cảnh, nghĩa là, trong một tình huống nhất định, lựa chọn điều gì mang lại lợi ích lớn hơn cho sự hiệp thông. Chính tại điểm này, tôi muốn tiếp tục và kết thúc bài suy niệm đầu tiên hôm nay, cũng bởi vì nó cho phép chúng ta chuyển từ những gì liên quan đến Giáo hội hoàn vũ sang những gì liên quan đến Giáo hội địa phương, thậm chí cả cộng đoàn, gia đình, và đời sống thiêng liêng của mỗi chúng ta (Tôi nghĩ đây là điều được mong đợi trong một buổi suy niệm Mùa Chay!).

Có một đặc quyền của Thiên Chúa trong Kinh thánh mà các Giáo phụ thích nhấn mạnh: synkatabasis, nghĩa là hạ mình. Đối với Thánh Gioan Kim khẩu, đó là một loại chìa khóa để hiểu toàn bộ Kinh thánh. Trong Tân Ước, cũng đặc quyền này của Thiên Chúa được diễn tả bằng thuật ngữ lòng nhân hậu (chrestotes). Sự hạ mình của Thiên Chúa trở thành xác thể được coi là biểu hiện tối cao của lòng nhân hậu của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3, 4).

Lòng nhân hậu là một cái gì đó khác với lòng tốt đơn thuần; đó là tử tế với người khác. Thiên Chúa tốt lành trong chính mình và nhân từ với chúng ta. Lòng nhân hậu là một trong những hoa trái của Thần Khí (Gl 5, 22) và là thành phần thiết yếu của đức ái (1 Cr 13, 4). Lòng nhân hậu chiếm một vị trí trung tâm trong tính cách của người tông đồ. Chẳng hạn, chúng ta đọc trong Thư gửi tín hữu Côlôxê:

Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. (Cl 3, 12).

Năm nay chúng ta kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của một vị thánh là mẫu mực tuyệt vời về đức tính này trong một thời đại cũng được đánh dấu bởi những tranh cãi gay gắt: Thánh Phanxicô de Sales. Trong Giáo hội, tất cả chúng ta cần trở thành “những Salesian”, theo nghĩa là: hạ mình hơn, tử tế hơn và khoan dung hơn, bớt bám víu vào những điều chắc chắn cá nhân của mình, nhận thức được số lần chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã sai về một người hoặc một tình huống, và bao nhiêu lần chúng ta cũng phải thích nghi với các tình huống. Tạ ơn Chúa, trong các mối tương quan giáo hội của chúng ta, không có – và không bao giờ nên có – khuynh hướng xúc phạm và phỉ báng đối phương, mà chúng ta thấy trong một số cuộc tranh luận chính trị và điều này gây tổn hại rất nhiều cho sự chung sống hòa bình của dân sự.

Đúng là có một người nào đó mà việc không khoan nhượng đối với họ là đúng đắn và phù hợp, nhưng ai đó lại chính là tôi. Tự bản chất, chúng ta có khuynh hướng không khoan nhượng với người khác và khoan dung với chính mình, trong khi chúng ta nên bắt đầu làm điều ngược lại: nghiêm khắc với bản thân, nhẫn nhịn với người khác. Quyết tâm này, nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, cũng đủ để thánh hóa Mùa Chay của chúng ta. Nó sẽ miễn cho chúng ta khỏi bất kỳ hình thức ăn chay nào khác và sẽ giúp chúng ta làm việc hiệu quả và thanh thản hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội.

Một bài tập tuyệt vời theo hướng này là hãy trung thực, trước tòa án của tâm hồn mình, với người mà mình không đồng ý. Khi tôi nhận thấy rằng, trong thâm tâm, mình đang buộc tội ai đó, thì tôi phải cẩn thận để không đứng về phía mình ngay lập tức. Tôi cần ngừng lập đi lập lại những lý do của mình như một người đang nhai kẹo cao su, thay vào đó, hãy cố gắng đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu lý do của họ cũng như những gì họ có thể nói với tôi.

Bài tập này không chỉ được thực hiện đối với người đó, mà còn đối với luồng tư tưởng mà tôi không đồng ý và giải pháp mà người đó đề xuất cho một vấn đề nhất định đang được thảo luận (tại Thượng Hội đồng hoặc ở những thời điểm khác). Thánh Thomas Aquinas cho chúng ta một mẫu gương về điều này: ngài mở đầu mỗi luận điểm trong Tổng luận của mình bằng những lập luận của đối thủ, những lập luận mà ngài không bao giờ tầm thường hóa hoặc chế giễu, nhưng ngài coi trọng và đáp lại bằng "Sed contra" của mình, tức là với những lý do mà ngài cho là phù hợp với đức tin và đạo đức. Chúng ta hãy tự vấn (tôi trước): chúng ta có làm như vậy không?

Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. [...] Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?” (Mt 7,1-3). Nhưng liệu chúng ta có thể sống mà không bao giờ đoán xét không? Chẳng phải khả năng phán đoán là một phần trong cấu trúc tinh thần của chúng ta và là một món quà từ Thiên Chúa sao? Trong Tin Mừng Luca, mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán” ngay sau đó – như để làm sáng tỏ ý nghĩa của những lời này –, bằng mệnh lệnh: “Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6, 37). Do đó, vấn đề không phải là loại bỏ sự xét đoán khỏi lòng chúng ta, nhưng đúng hơn, là loại bỏ chất độc khỏi sự xét đoán của chúng ta! Đó chính là sự thù ghét, lên án, tẩy chay.

Cha mẹ, bề trên, cha giải tội, thẩm phán - bất cứ ai có trách nhiệm nào đó đối với người khác - đều phải phán đoán. Thực ra, đôi khi, phán đoán đúng đắn là kiểu phục vụ mà một người được mời gọi thực hiện trong xã hội hoặc trong Giáo hội. Sức mạnh của tình yêu Kitô giáo nằm ở chỗ nó có khả năng thay đổi sự phán xét từ một hành động không yêu thương, thành một hành động yêu thương. Không phải bằng sức riêng của chúng ta, nhưng nhờ vào tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5).

Chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm hôm nay bằng việc biến lời cầu nguyện tuyệt vời của Thánh Phanxicô Assisi thành của riêng chúng ta:

Lạy Chúa xin hãy dùng con

Như khí cụ bình an của Chúa,

Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù,

Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục,

Ðem an hòa vào nơi tranh chấp,

Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan,

Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,

Ðể con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm”

Và chúng ta thêm vào:

Ðể con đem lòng nhân từ vào nơi ác tâm,

Đem sự tử tế đến chốn hà khắc!

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: aleteia.org (04. 3. 2023)



Bài 2: MỐI TƯƠNG QUAN CÁ VỊ VỚI ĐỨC KITÔ

Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap 

WHĐ (14.3.2023) - Sáng thứ sáu, ngày 10. 3. 2023, tại Sảnh Đường Phaolô VI, Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., vị giảng thuyết Phủ Giáo hoàng, đã trình bày Bài suy niệm Mùa Chay thứ hai, tập trung vào Mối tương quan cá vị với Đức Kitô.

Dưới đây là toàn văn bài giảng thứ hai của Đức Hồng y:

Từ Tông huấn Evangelii Nuntiandi của Thánh Phaolô VI đến Tông huấn Evangelii gaudium của Đức Giáo hoàng đương nhiệm, chủ đề loan báo Tin Mừng luôn là trung tâm của Huấn quyền. Các thông điệp vĩ đại của Thánh Gioan Phaolô II đã góp phần vào việc này, cũng như việc thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Truyền giáo do Đức Bênêđictô XVI thúc đẩy. Mối quan tâm tương tự có thể được nhìn thấy trong tiêu đề được đặt cho Tông hiến về cải cách Giáo triều Praedicate Evangelium và trong việc chỉ định “Bộ Loan báo Tin Mừng” thay thế Thánh bộ Truyền bá Đức tin trước đây. Mục đích tương tự hiện đang được giao cho Thượng hội đồng của Giáo hội. Chính vì điều này, tức là việc rao giảng Tin Mừng, mà tôi muốn chia sẻ bài suy niệm này.

Định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ nhất về loan báo Tin Mừng có thể đọc thấy trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, trong đó các Tông đồ được định nghĩa là: “những người loan báo Tin Mừng cho anh em trong Chúa Thánh Thần” (1 Pr 1,12). Chính tại đây, bản chất của việc rao giảng Tin Mừng được thể hiện: Nội dung của việc rao giảng – là Tin Mừng – và phương pháp của việc rao giảng – là trong Chúa Thánh Thần.

Để biết thuật ngữ "Tin Mừng" nghĩa là gì, cách chắc chắn nhất là hỏi người đầu tiên sử dụng từ Hy Lạp này và biến nó thành quy phạm trong ngôn ngữ Kitô giáo, - đó là Tông đồ Phaolô. Chúng ta may mắn sở hữu một bản giải thích do chính tay ngài giải thích ý nghĩa của từ “Tin Mừng”, đó là Thư gửi tín hữu Rôma. Chủ đề của Thư Roma được loan báo với những lời sau: “Tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1, 16).

Để bất kỳ nỗ lực mới nào trong việc loan báo Tin Mừng đạt được thành quả, thì điều quan trọng là phải hiểu rõ cốt lõi thiết yếu của việc rao giảng Kitô giáo, và không ai nhấn mạnh điều này tốt hơn Thánh Tông đồ trong 3 chương đầu tiên của Thư gửi tín hữu Rôma. Tôi tin chắc rằng việc hiểu và áp dụng sứ điệp của ngài vào hoàn cảnh hiện tại phụ thuộc vào vấn đề liệu con cái Thiên Chúa có được sinh ra từ những nỗ lực của chúng ta, hay liệu chúng ta có phải lặp lại lời của ngôn sứ Isaia hay không:

“Chúng con đã mang thai, đã quằn quại, nhưng chỉ sinh ra gió: chúng con chẳng giải thoát được thế gian, cũng chẳng sinh sản thêm dân cư cho mặt đất” (Is 26, 18).

Sứ điệp của Thánh Tông Đồ trong 3 chương đầu của Thư Roma có thể được tóm tắt trong 2 điểm: thứ nhất, tình trạng của con người trước mặt Thiên Chúa là hậu quả của tội lỗi; và thứ hai, làm sao để người ta thoát khỏi nó, nghĩa là làm sao người ta có thể được cứu bởi đức tin và trở thành một tạo vật mới. Chúng ta hãy noi theo Thánh Tông Đồ trong lối lý luận chặt chẽ của ngài. Tốt hơn, chúng ta hãy đi theo Thần Khí, Đấng nói qua ngài.

Ai đã từng đi máy bay sẽ không ít lần nghe thấy thông báo: “Chúng tôi yêu cầu quý khách thắt dây an toàn, vì chúng ta sắp đi vào vùng nhiễu động”. Chúng ta cũng nên đưa ra lời cảnh báo tương tự cho những ai sắp đọc những lời sau đây của thánh Phaolô:

Từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hóa ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ. Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết” (Rm, 1, 18-23)

Như chúng ta thấy, tội lỗi cơ bản, đối tượng chính của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được đồng nhất với asebeia, tức là với sự bất kính. Chính xác thì sự bất kính này bao gồm những gì? Thánh Tông đồ ngay lập tức giải thích rằng sự bất kính bao gồm việc từ chối “tôn vinh” và “tạ ơn” Thiên Chúa. Thật là lạ! Đối với chúng ta, việc không tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa dường như là một tội, nhưng thực sự không quá khủng khiếp và là tội trọng. Chúng ta cần hiểu những gì ẩn giấu đằng sau, đó là sự từ chối nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, là không dành cho Thiên Chúa sự quan tâm xứng với Ngài. Chúng ta có thể nói, sự bất kính hệ tại việc "phớt lờ" Thiên Chúa, trong đó phớt lờ không có nghĩa là "không biết rằng Thiên Chúa hiện hữu" mà là "hành động như thể Thiên Chúa không hiện hữu".

Trong Cựu Ước, chúng ta nghe Môsê kêu gọi dân chúng: “Hãy biết rằng Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa!” (x. Đnl 7, 9) và tác giả Thánh vịnh đã lặp lại lời kêu gọi này khi nói: “Hãy nhìn nhận CHÚA là Thượng Ðế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người!” (Tv 100, 3). Bị giảm thiểu về cốt lõi mầm mống, tội lỗi hệ tại ở việc từ chối “sự nhìn nhận” này; đó là nỗ lực của tạo vật, theo sáng kiến riêng của mình, hầu như bằng sự kiêu ngạo, xóa bỏ sự khác biệt vô tận tồn tại giữa tạo vật và Thiên Chúa. Theo cách này, tội lỗi tấn công vào tận gốc rễ của mọi sự; đó là thực trạng “bóp nghẹt sự thật bằng sự gian ác”. Đây là một điều gì đó nham hiểm và khủng khiếp hơn nhiều so với những gì con người có thể tưởng tượng hoặc nói ra. Nếu con người biết khi còn sống, cũng như họ sẽ biết vào lúc chết, từ chối Thiên Chúa có nghĩa là gì, thì họ sẽ chết mất vì kinh hoàng.

Chúng ta đã nghe nói rằng sự từ chối này đã diễn ra dưới hình thức thờ ngẫu tượng, mà theo đó, tạo vật được tôn thờ thay vì Đấng Tạo Hóa. Trong việc thờ ngẫu tượng, người ta không “chấp nhận” Thiên Chúa, nhưng tự mình tạo ra một vị thần; chính họ là người quyết định về Thiên Chúa chứ không phải ngược lại. Các vai trò bị đảo ngược: con người trở thành thợ gốm và Thiên Chúa là chiếc bình mà con người tạo ra theo ý mình (x. Rm 9, 20ff). Ngày nay, nỗ lực cổ xưa này đã mang một diện mạo mới. Nó không hệ tại ở việc đặt một cái gì đó – kể cả chính mình – vào vị trí của Thiên Chúa, mà ở việc bãi bỏ, một cách thuần túy và đơn giản, vai trò được biểu thị bởi thuật ngữ “Thiên Chúa”. Thuyết hư vô! Hư vô thay thế cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta không tập trung vào điểm này ở đây vì nó sẽ làm gián đoạn việc chúng ta lắng nghe thánh Tông đồ, trái lại, ngài tiếp tục lý luận chặt chẽ của mình.

Thánh Phaolô tiếp tục bản cáo trạng bằng việc cho thấy những hậu quả, trên bình diện luân lý, phát sinh từ việc chối bỏ Thiên Chúa. Từ đó dẫn đến sự suy đồi chung về luân lý, một “dòng chảy diệt vong” thực sự đang dẫn nhân loại đến chỗ diệt vong. Và ở đây, thánh Tông đồ vẽ một bức tranh ấn tượng về những tệ nạn của xã hội ngoại giáo. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất cần nhớ từ phần này của sứ điệp Phaolô không phải là danh sách các tệ nạn này, mà chúng ta cũng tìm thấy trong số các nhà đạo đức khắc kỷ thời bấy giờ. Điều khó hiểu ngay từ cái nhìn đầu tiên là Thánh Phaolô coi tất cả sự rối loạn đạo đức này không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần xuất hiện công thức khẳng định điều đó một cách dứt khoát:

Vì thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế, [...]Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại [...]. Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng (Rm 1, 24. 26. 28).

Chắc chắn là Thiên Chúa không “muốn” những điều này, nhưng Ngài “cho phép” chúng để làm cho con người hiểu được sự từ chối Thiên Chúa dẫn họ đến đâu. Thánh Augustine viết “những hành động này mặc dù là hình phạt, nhưng cũng là tội lỗi, bởi vì hình phạt của sự gian ác chính là sự gian ác; Thiên Chúa can thiệp để trừng phạt cái ác và những tội lỗi ngày càng nghiêm trọng hơn nảy sinh từ đó"[1].

Trước mặt Thiên Chúa không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp, giữa tín hữu và dân ngoại: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3, 23). Thánh Tông đồ đã dành toàn bộ chương 2 và một phần của chương 3 để làm sáng tỏ điểm này. Toàn thể nhân loại thấy mình ở trong tình trạng diệt vong, chứ không phải cá nhân này hay dân tộc kia.

Trong tất cả những điều này, đâu là tính thời sự của sứ điệp mà tôi đang nói đến? Nó nằm trong phương thuốc mà Tin Mừng đề nghị cho tình trạng này. Nó không hệ tại việc tham gia vào một cuộc đấu tranh để cải tổ đạo đức của xã hội và sửa chữa những tệ nạn của nó. Đối với Phaolô, điều đó giống như muốn nhổ một cái cây bằng cách bắt đầu ngắt bỏ những chiếc lá hoặc những cành nhô ra nhất, hoặc giống như lo lắng về việc loại bỏ cơn sốt hơn là chữa trị căn bệnh gây ra cơn sốt.

Được dịch sang ngôn ngữ hiện tại, điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không bắt đầu với những điều luân lý, mà bằng kerygma; bằng ngôn ngữ của Tân Ước, không phải bởi Lề Luật, mà bởi Tin Mừng. Và nội dung và cốt lõi của việc rao giảng là gì? Thánh Phaolô muốn nói gì về “Tin Mừng” khi ngài nói đó là “quyền năng của Thiên Chúa đối với mọi kẻ tin?” Tin vào cái gì? “Sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện!” (Rm 3, 21): Đây là điều mới mẻ. Không phải con người đột nhiên thay đổi cuộc sống và phong tục của họ và bắt đầu làm điều tốt. Điều mới mẻ là, khi thời gian viên mãn đến, Thiên Chúa đã hành động; Ngài phá vỡ sự im lặng; Ngài là Đấng trước hết đưa tay ra với con người tội lỗi.

Nhưng bây giờ chúng ta hãy trực tiếp lắng nghe Thánh Tông Đồ giải thích “hành động” này của Thiên Chúa bao gồm những gì. Đây là những lời mà chúng ta đã đọc hoặc nghe hàng trăm lần, nhưng chúng ta thích nghe một lần nữa giai điệu của bản giao hưởng tuyệt vời này:

Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Ðức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã định cho Ðức Kitô Giêsu phải đổ máu mình ra, làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Ðấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Ðấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Ðức Giêsu được nên công chính” (Rm 3, 23-26).

Tôi cần trấn an mọi người ngay lập tức: Tôi không có ý định đưa ra một bài giảng nào khác về sự công chính hoá bởi đức tin. Chỉ nhấn mạnh vào chủ đề này là một mối nguy hiểm. Điều thánh Phaolô trình bày cho chúng ta không phải là một học thuyết, mà là một sự kiện, thậm chí là một con người. Chúng ta không được cứu độ một cách chung chung “nhờ ân sủng”, nhưng chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô; chúng ta không được công chính hoá một cách chung chung “nhờ đức tin” nhưng chúng ta được công chính hoá nhờ đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Mọi thứ đã thay đổi “nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô”. Điều xác thực về việc Giáo hội đứng vững hoặc sụp đổ (articulum stantis et cadentis Ecclesiae) không phải là một học thuyết, mà là một con người.

Tôi luôn bị kinh ngạc mỗi khi đọc lại đoạn này của Thư gửi tín hữu Rôma. Sau khi đã mô tả tình trạng tuyệt vọng của nhân loại, thánh Tông đồ can đảm nói rằng nó đã thay đổi hoàn toàn vì những gì đã xảy ra vài năm trước đó, trong một phần đất ít người biết đến của Đế Quốc Roma, bởi một người đàn ông, người đã chết trên cây thập giá! Chỉ có ánh sáng rực rỡ từ Chúa Thánh Thần mới có thể mang lại cho một người can đảm để tin và công bố điều chưa từng nghe thấy này, đặc biệt là vì chính người này đã từng “tức giận” nếu có ai dám công bố một điều như vậy trước mặt mình. Phó tế Stephano đã phải trả giá cho sự “tức giận” đó…

Đối với chúng ta, sự bàng hoàng được xoa dịu sau 20 thế kỷ xác nhận, nhưng chúng ta hãy nghĩ xem những lời của thánh Tông đồ chắc hẳn đã gây được tiếng vang như thế nào đối với những người có học thức thời bấy giờ. Bản thân thánh Phaolô cũng nhận thức được điều đó; đây là lý do tại sao thánh nhân cảm thấy cần phải lên tiếng: “Tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng” (Rm 1, 16). Trên thực tế, chúng ta có thể đã hổ thẹn vì Tin Mừng.

Tôi không hiểu làm thế nào mà các nhà sử học có thể tin một cách chân thành rằng Phaolô đã rút ra sự chắc chắn mới mẻ của mình từ các giáo phái Hy Lạp, hoặc từ bất kỳ nguồn nào khác. Ai đã từng tưởng tượng, hoặc liệu con người có thể tưởng tượng được một điều như vậy chăng?

Nhưng chúng ta hãy trở lại với mục đích cụ thể của mình, đó là loan báo Tin Mừng. Chúng ta có thể học được gì từ lời Chúa mà chúng ta vừa nghe? Đối với những người ngoại giáo, thánh Phaolô không nói rằng phương thuốc cho việc thờ ngẫu tượng của họ hệ tại ở việc đặt câu hỏi kỹ hơn về vũ trụ để quay trở lại từ tạo vật đến Đấng Tạo Hóa; đối với người Do Thái, thánh Phaolô không nói rằng biện pháp khắc phục hệ tại ở việc quay lại tuân giữ Luật Môsê một cách hoàn hảo hơn. Biện pháp khắc phục không ở bên trên cũng không ở phía sau, mà ở trước mặt chúng ta, và hệ tại ở việc tin vào “ơn cứu độ do Chúa Giêsu Kitô thực hiện”.

Thật ra, thánh Phaolô không nói điều gì hoàn toàn mới lạ. Nếu ngài là tác giả của sứ điệp chưa từng có này, thì những người nói rằng vị sáng lập thực sự của Kitô giáo là Saulo người Tarsus, chứ không phải Chúa Giêsu người Nazaret, sẽ đúng. Nhưng họ đã lầm! Thánh Phaolô không làm gì khác ngoài việc tiếp nhận, điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, lời loan báo đầu tiên của Chúa Giêsu: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).

Đối với Chúa Giêsu, “sám hối” không có nghĩa giống như trong các ngôn sứ xưa kia hay trong Gioan Tẩy giả: Hãy trở lại, tuân giữ Lề Luật và các điều răn! Đúng hơn, sám hối có nghĩa là: Hãy tiến về phía trước; hãy tự do tiến vào Vương quốc đã hiện diện giữa các ngươi! Hãy tin vào Tin Mừng! Hãy sám hối là hãy tin tưởng. Thánh Thomas Aquinas đã viết: “Sự sám hối trước tiên hệ tại ở việc tin tưởng: Prima conversio fit per fidem”[2].

Tất nhiên, cả Chúa Giêsu và thánh Phaolô đều không dừng lại ở điểm này. Trong bài giảng của mình, Chúa Giêsu giải thích việc chào đón Nước Trời đòi hỏi điều gì, và thánh Phaolô dành toàn bộ phần thứ hai của Thư để liệt kê các việc làm, hoặc các đức tính, là đặc điểm của những người đã trở thành tạo vật mới. Thánh nhân kết thúc kerygma bằng parenesis, nghĩa là công bố về những gì Thiên Chúa đã thực hiện cùng với việc giải thích những gì chúng ta phải thi hành. Điều quan trọng là thứ tự phải tuân theo trong cuộc sống và trong việc rao giảng, bắt đầu từ đâu. Như Thánh Grêgôriô Cả đã nói, “người ta không đạt được đức tin bắt đầu từ các nhân đức, mà đạt được các nhân đức bắt đầu từ đức tin[3]. Bất kỳ sáng kiến loan báo Tin Mừng nào muốn bắt đầu bằng việc cải cách phong tục xã hội, mà trước đó không cố gắng thay đổi tâm hồn con người, sẽ không đạt được kết quả gì, hoặc tệ hơn nữa, sẽ kết thúc trong chính trị.

Nhưng không cần phải nhấn mạnh điều đó ở đây. Thay vào đó, chúng ta phải tiếp nhận giáo huấn tích cực của thánh Tông đồ. Lời Chúa nói gì với một Giáo hội – mặc dù bị thương tích trong chính mình và trước con mắt thế gian – nhưng đang trào dâng niềm hy vọng và muốn tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình với động lực mới? Thánh nhân nói rằng cần phải bắt đầu lại từ con người của Chúa Kitô, để lên tiếng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”; đừng bao giờ coi lời rao giảng về Đức Kitô đã được giả định trước hoặc đã hoàn thành. Chúa Giêsu không được ở phía sau, nhưng phải ở trung tâm của mọi lời rao giảng.

Thế giới tục hóa làm mọi cách (và thật không may, nó đã thành công!) để khiến danh Chúa Giêsu bị xa lánh, hoặc bị che giấu trong những lời rao giảng về Giáo hội. Chúng ta phải làm mọi cách để danh của Đức Kitô luôn vang xa. Không phải để ẩn nấp đằng sau Người, nhưng bởi vì Người là sức mạnh và là sự sống của Giáo hội. Ở phần đầu Tông huấn Evangelii gaudium, chúng ta đọc thấy những lời này:

Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Chúa Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình” (EG, 3).

Theo tôi được biết, đây là lần đầu tiên cụm từ “cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô” xuất hiện trong một tài liệu chính thức của Huấn quyền. Mặc dù có vẻ đơn giản, cách diễn đạt này chứa đựng một điều mới lạ mà chúng ta phải cố gắng hiểu. Trong việc chăm sóc mục vụ và tu đức Công giáo, những cách hiểu khác về mối tương quan của chúng ta với Đức Kitô đã quen thuộc trong quá khứ. Chúng ta nói về tương quan Giáo lý, hệ tại việc tin vào Đức Kitô; về mối tương quan Bí tích được thực hiện trong các Bí tích; về mối tương quan Giáo hội, với tư cách là các chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô; chúng ta cũng nói về một mối tương quan thần bí hoặc mật thiết dành riêng cho một số linh hồn có đặc quyền nhất định. Chúng ta không nói - hoặc ít nhất là chưa phổ biến để nói - về một mối tương quan cá vị, chẳng hạn như giữa tôi và bạn, mở ra cho mọi tín hữu.

Trong suốt 5 thế kỷ đã qua– vốn được gọi một cách không thích hợp là “của Phản Cải cách” – tu đức Công giáo và việc chăm sóc mục vụ đã nghi ngờ về cách quan niệm ơn cứu độ này. Người ta thấy trong đó nguy cơ của chủ nghĩa chủ quan, nghĩa là coi đức tin và ơn cứu độ như một trải nghiệm cá nhân, không có mối liên hệ thực sự nào với Truyền thống và với đức tin của phần còn lại của Giáo hội. Sự gia tăng của các trào lưu và giáo phái trong thế giới Tin lành cũng củng cố thêm niềm tin này.

Tạ ơn Chúa, giờ đây chúng ta đã bước vào một giai đoạn mới trong đó chúng ta cố gắng nhìn ra những khác biệt, không nhất thiết là xung đột lẫn nhau và do đó phải đấu tranh, nhưng, càng nhiều càng tốt, là sự phong phú được chia sẻ. Trong môi trường mới này, khuyến khích để có “mối tương quan cá vị với Đức Kitô” chẳng có gì nguy hiểm. Thật ra, cách quan niệm đức tin này đối với chúng ta dường như là cách khả thi duy nhất, vì đức tin không còn bị coi là một sự thật hiển nhiên mà người ta được hấp thụ khi còn nhỏ qua sự giáo dục của gia đình và nhà trường, nhưng là kết quả của một quyết định cá nhân. Sự thành công của sứ mạng không còn được đo lường bằng số lần xưng tội và rước lễ, nhưng bằng số người đã chuyển từ Kitô hữu trên danh nghĩa sang Kitô hữu đích thực, nghĩa là xác tín và hoạt động trong cộng đoàn.

Chúng ta hãy cố gắng hiểu một cách cụ thể “cuộc gặp gỡ cá vị” nổi tiếng này với Đức Kitô thực sự hệ tại điều gì. Tôi nói nó giống như gặp trực tiếp một người ngoài đời thực sau nhiều năm quen biết họ chỉ qua hình ảnh. Người ta có thể biết những cuốn sách, những học thuyết, những tà thuyết, và những khái niệm về Chúa Giêsu, nhưng không biết Người đang sống và hiện diện. (Tôi nhấn mạnh vào hai tính từ này: một Chúa Giêsu đang sống và một Chúa Giêsu hiện diện!). Đối với nhiều người, ngay cả những tín hữu đã chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu là một nhân vật trong quá khứ, một nhân cách, chứ không phải là một người đang sống.

Điều này giúp hiểu được sự khác biệt xảy ra trong phạm vi con người, khi bạn biết một người và khi bạn yêu họ. Chúng ta có thể biết mọi thứ về một người nào đó, chẳng hạn như: tên gì, bao nhiêu tuổi, trình độ học vấn, gia cảnh ra sao… Và rồi một ngày nọ, một tia sét tình yêu đánh trúng và chúng ta phải lòng người ấy. Mọi thứ đều thay đổi. Chúng ta muốn ở bên người ấy, muốn làm hài lòng người ấy, muốn có người ấy cho riêng mình, sợ làm phật ý người ấy, hoặc sợ mình không xứng với người ấy.

Chúng ta có thể làm gì để tia sét này về con người Chúa Giêsu được sáng lên trong tâm hồn nhiều người? Tia sét này sẽ không bùng sáng trong tâm hồn những người nghe sứ điệp Tin Mừng nếu nó không được nhen nhúm– ít nhất là như một khao khát, như một cuộc tìm kiếm, và như một quyết tâm – nơi những người loan báo Tin Mừng. Đã và đang có những trường hợp ngoại lệ; Lời Chúa có sức mạnh riêng và đôi khi có thể hoạt động, ngay cả khi Lời Chúa được thốt ra bởi những người không sống theo Lời ấy; nhưng đó là trường hợp ngoại lệ.

Để an ủi và khuyến khích những người làm việc một cách có tổ chức trong lãnh vực loan báo Tin Mừng, tôi muốn nói với họ rằng không phải mọi sự đều tùy thuộc vào họ. Vẫn biết rằng điều đó phụ thuộc vào họ để tạo điều kiện cho tia sét bùng cháy và lan rộng, nhưng xảy ra theo những cách thế, và vào những thời điểm bất ngờ nhất. Trong hầu hết những trường hợp tôi đã trải qua trong đời, việc khám phá ra Đức Kitô làm thay đổi cuộc đời là kết quả của việc gặp gỡ một người nào đó đã trải nghiệm ân sủng này; của việc tham dự một buổi họp mặt; của việc nghe một chứng từ; của việc trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong một khoảnh khắc đau khổ tột cùng, và – tôi không thể giữ im lặng, bởi vì là điều cũng xảy ra với tôi – đó là khi lãnh nhận, điều được gọi là, phép rửa trong Thánh Thần.

Ở đây, chúng ta thấy nhu cầu ngày càng phải dựa nhiều hơn vào những người nam nữ giáo dân để loan báo Tin Mừng. Giáo dân được đưa vào nhiều hơn trong những khía cạnh của cuộc sống, nơi tình huống khác nhau xảy ra. Cũng vì số lượng khan hiếm, nên thật dễ để hàng giáo sĩ làm mục tử hơn là làm những người chài lưới linh hồn: làm người hướng dẫn bằng lời nói và cử hành các Bí tích cho những người đến nhà thờ hơn là “chèo ra chỗ nước sâu” (Lc 5, 4) để đánh bắt những người ở xa. Giáo dân có thể bù đắp cho chúng ta trong nhiệm vụ của người ngư phủ. Nhiều người trong số giáo dân đã khám phá ra ý nghĩa của việc biết Chúa Giêsu hằng sống và háo hức chia sẻ khám phá của họ với người khác.

Đối với nhiều người, các phong trào giáo hội phát sinh sau Công đồng là nơi họ khám phá ra điều này. Trong bài giảng Thánh Lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh 2012, ngày cuối cùng trong triều đại giáo hoàng của mình, Đức Bênêđictô XVI đã nói: “Bất cứ ai nhìn vào lịch sử của thời kỳ Hậu Công đồng đều có thể nhận ra động lực của sự đổi mới thực sự, vốn thường mang những hình thức bất ngờ trong các phong trào sống động và gần như hữu hình hóa sức sống vô tận của Giáo hội thánh thiện, sự hiện diện và hiệu quả của Chúa Thánh Thần”. Bên cạnh những hoa trái tốt, một số phong trào này cũng đã sinh ra trái xấu. Chúng ta nên nhớ câu nói: “Đừng đổ em bé trong chậu đi cùng với nước tắm”.

Tôi xin kết thúc bài suy niệm bằng những lời kết trong “Hành Trình của linh hồn đến với Thiên Chúa” của Thánh Bonaventura bởi vì những lời này gợi ý nơi bắt đầu để nhận ra, hoặc canh tân, “cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô” và trở thành những thừa sai can đảm về cuộc gặp gỡ này:

“Sự khôn ngoan mầu nhiệm và thầm kín nhất này không ai biết được ngoại trừ người lãnh nhận nó; không ai nhận được nó nếu không ước muốn; và người ta không thể ước muốn mà không được đốt cháy tận tâm can bởi ngọn lửa Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu Kitô đã mang đến thế gian”[4].

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: aleteia.org/2023 (11. 3. 2023)

Xem thêm: Bài 1 - Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần



[1] Augustine, De natura et gratia, 22,24.

[2] Thomas Aquinas, I-IIae, q.113, a. 4

[3] Gregory Cả, Bài giảng về Ezekiel, II,7 (PL 76, 1018).

[4] Bonaventura of Bagnoregio, Itinerarium mentis in Deum, VII, 4