Đức Mẹ Truyền Phép Lần Hạt

Bài 23 - 33

Nguồn: https://www.memaria.net

23. Việc thứ nhất người ta quen làm để tôn sùng Ðức Mẹ là lần hạt Mân Côi

Chính Ðức Mẹ đã truyền phép lần hạt Mân côi cho ông thánh Ðôminicô.

Thời ấy ở bên pháp, bè rối nổi lên rất mạnh. Giáo dân và tu sĩ bị tàn sát, nhà thờ nhà dòng bị đốt phá. Thánh Ðôminicô hết sức khuyên dụ bè rối ấy trở lại trong hai năm mà không kết quả gì. Ông Thánh vào một nhà thờ gần thành Tôlôsa, xin Ðức Mẹ tỏ cho biết phải làm thế nào mà chinh phục được bè rối ấy. Sau ba ngày ăn chay cầu nguyện, Ðức Mẹ hiện đến phán bảo thánh rằng: “Hỡi Ðôminicô, muốn chinh phục được dân cứng lòng ấy, thì hãy khuyên người ta lần hạt Mân côi”. Ðức Mẹ lại dạy ông thánh cách thức lần hạt. Thánh Ðôminicô vâng lời Ðức Mẹ, khuyên bảo người ta lần hạt Mân côi. Trong vòng hai năm, những người theo bè rối trở lại hầu hết.

Phép lần hạt là một cách cầu nguyện ở tại đọc 15 kinh Lạy Cha và 150 kinh Kính mừng. Phải đọc ra ngoài miệng và suy ngắm trong lòng 15 sự mầu nhiệm Chúa Giêsu cùng Ðức Mẹ. Hai sự ấy cùng đi đôi với nhau, vì cả hai thuộc về bản chất phép lần hạt.

Phép lần hạt dạy ta những điều căn bản trong đạo, giúp ta dễ thêm lòng mến yêu Chúa. Phép lần hạt lại giúp ta giữ vững đức tin, thêm nhân đức cho người sốt sắng, và lòng sám hối cho kẻ có tội.

Xưa nay, các Ðức Giáo hoàng, các Giám mục đều khuyến khích cổ động cho phép lần hạt. Giáo hữu mọi nơi, mọi thời đại đều kính trọng, cậy trông và siêng năng lần hạt.

Vậy từ trước tới nay ta chưa quí trọng phép lần hạt, thì từ này ta hãy siêng năng lần hạt, lần hạt mọi ngày. Ai siêng năng lần hạt là dấu chắc được cứu thoát khỏi hỏa ngục, vì người đó hằng tâm niệm những sự mầu nhiệm căn bản trong đạo, để sống thánh thiện và tiến tới trong đường nhân đức.

Lạy Mẹ, là Nữ vương truyền phép Mân côi rất thánh, chúng con ca ngợi cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã dạy chúng con một cách cầu nguyện cao quí và sinh nhiều ơn ích, chớ gì con biết quí trọng và siêng năng lần hạt mọi ngày.

Thánh Tích

Thánh nữ Phanasia quê tại nước Ý. Bà mẹ là người hiền lành thánh thiện dạy con sùng kính Ðức Mẹ và chăm lần hạt Mân côi từ bé. Phanasia noi gương mẹ quí trọng sự lần hạt chẳng may mẹ mất sớm, cha tái hôn với một bà tên là Margarita.Bà này khô khan lại xấu nết, lạ gì tình dì ghẻ con chồng. Phanasia bị hành hạ đủ điều; mặc dầu cô bé vẫn ngoan ngoãn kính yêu dì như mẹ.

Bà cấm Phanasia không được lần hạt, Phanasia phải lần trộm vụng. Có lần bị dì bắt được, bà ta giật lấy tràng hạt ném đi và đánh cho Phanasia một trận đau điếng. Phanasia đau lắm nhưng không dám mở miệng, chỉ tiếc mất cỗ tràng hạt. Cô bé không còn tràng hạt, thì lấy giây thắt nút lại thay tràng hạt. Chẳng may dì lại bắt được, và Phanasia lại bị một trận đòn nữa.

Nhưng ngày kia, Phanasia đi chăn chiên trên đồi. Cô thả đàn chiên ăn rong, và quì một chỗ lần hạt. Bất ưng, dì Margarita đến, thấy cô đang quì lần hạt. Bà nổi giận cầm gậy đánh vỡ đầu cô bé. Bị thương nặng, cô bé qua đời ngày hôm sau. Ðức Giáo Hoàng đã phong thánh cho cô và đặt Phanasia làm gương mẫu cho những ai ái mộ phép lần hạt Mân côi.

==============================

24. Việc thứ hai người ta quen làm để tôn sùng Ðức Mẹ là mang Áo Ðức Mẹ

Dòng Carmêlô được thành lập trước hết, trên núi Carmêlô bên DoThái. Ban đầu, dòng ấy nổi tiếng đông đúc và thánh thiện. Nhưng năm 1248, thời người Hồi giáo nổi lên tàn phá đạo Công giáo, sát hại giáo dân và tu sĩ, dòng ấy bị tan rã.

Bấy giờ thánh Simong Stoc đang làm Bề trên cả nhà dòng. Người thương tiếc và đêm ngày cầu xin Ðức Mẹ liệu cách thế tu bổ lại nhà dòng.

Sau mấy năm ăn chay cầu nguyện, Ðức Mẹ hiện ra, tay cầm hai miếng nhung nhỏ bằng bàn tay, có hai giây đính hai miếng vải lại với nhau. Ðức Mẹ trao hai miếng nhung ấy cho người và bảo rằng: “Con hãy nhận áo này, làm áo riêng của dòng Mẹ, cũng là dấu Mẹ thương yêu phù hộ dòng Carmêlô và những người thuộc dòng ấy cách riêng. Áo này cứu người ta khỏi những cơn nguy khốn, là áo ban sự bình an, là tượng trưng tình liên kết cùng Mẹ. Ai chết đang khi mang áo này, thì chẳng phải lửa đời đời thiêu đốt”.

Nhờ ơn Ðức Mẹ, từ đó có nhiều người xin vào dòng, chẳng bao lâu dòng lại được đông như trước. Giáo dân nghe biết gốc tích áo Ðức Mẹ, lại thấy Ðức Mẹ che chở cách riêng những ai mang áo ấy, đều xin vào hội và mang áo Ðức Mẹ mỗi ngày một đông.

Những ơn ích bởi sự vào hội và mang áo Ðức Mẹ thì rất nhiều và trọng lắm. Ðây chỉ là một vài ơn ích.

Ðức Mẹ đã hứa cùng thánh Simong rằng:

“Những ai mang áo này, khi chết, không phải lửa đời đời thiêu đốt”. Nghĩa là ai mang áo Ðức Mẹ mà chết khi mắc tội trọng thì Ðức Mẹ sẽ giúp kẻ ấy được ăn năn hối cải.

Ðức Mẹ đã phán bảo Ðức Giáo Hoàng Gioan rằng:

“Những ai vào hội Ðức Mẹ, giữ đức trinh khiết theo bậc mình, và đọc kinh tiểu nhật khóa Ðức Mẹ hằng ngày, khi chết sẽ được Ðức Mẹ cứu khỏi luyện ngục ngày thứ bảy sau khi kẻ ấy qua đời. Ai không đọc kinh tiểu nhật khóa được thì phải ăn chay các ngày Giáo hội buộc và kiêng thịt các ngày thứ sáu quanh năm trừ ngày lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu”.

Những người vào hội áo Ðức Mẹ được thông công các việc lành của dòng Carmêlô và hội áo Ðức Mẹ trong cả GiáoHội.

Tòa thánh đã ban nhiều ân xá cho những người mang áo Ðức Mẹ.

Ai mang áo Ðức Mẹ, được Ðức Mẹ nhận làm con và được người phù hộ nâng đỡ.

Vả lại áo Ðức Mẹ là thuẫn che vững chắc giữ ta khỏi thù địch. Xưa nay biết bao người vì mang áo Ðức Mẹ, được thoát khỏi những cơn cheo leo hồn xác. Biết bao tội nhân mang áo Ðức Mẹ, đến giờ chết được ơn sám hối.

Áo Ðức Mẹ chữa cả những nguy hiểm phần xác. Có tích nhà dòng bị hỏa hoạn lửa đang bốc ngùn ngụt, có người cầm áo Ðức Mẹ quăng vào, lửa liền tắt ngay. Một người lính vào trận, bị đạn bắn vào áo Ðức Mẹ đang mang trong mình, đạn dội lại, người lính không bị thương ...

Vậy ta phải trọng kính áo thánh ấy vì là của trọng chính Ðức Mẹ ban cho. Ta hãy mang áo ấy trong mình hằng ngày, vì là dấu riêng của con cái Ðức Mẹ. Nhất là trong giờ chết, ta có mang áo ấy thì Ðức Mẹ sẽ phù hộ ta được chết lành bằng yên.

Lạy Mẹ rất thánh, chúng con xin vào hội áo Ðức Mẹ và mang áo thánh ấy cho đến trọn đời. Khi gặp cơn hiểm nghèo phần hồn phần xác chớ gì áo thánh ấy là khí giới mạnh sức cứu chữa chúng con. Ðến giờ chết, xin Mẹ cứ áo ấy mà nhận chúng con là con riêng của Ðức Mẹ đưa chúng con về Thiên đàng cùng Ðức Mẹ đời đời.

Thánh Tích

Trong sách Vinh quang Đức Mẹ, thánh Anphongsô Ligôriô kể truyện này: Ở tỉnh Persusia bên Ý, có một người làm giấy bán linh hồn cho quỉ, để nhờ nó giúp báo thù một người kia. Khi quỉ dữ đã giúp anh ta báo thù người kia rồi, thì đưa anh ta đến khúc sông. Quỉ dữ bắt anh ta phải đâm xuống sông nếu không sẽ bắt cả hồn xác anh xuống hỏa ngục.

Anh chàng vô phúc ấy sợ chết nên bảo quỉ dữ rằng: “Anh hãy đẩy tôi xuống, vì tôi không đủ can đảm để gieo mình xuống”.

Quỉ dữ nói rằng: “Mày phải bỏ áo Ðức Mẹ đi thì tao mới đẩy được”. Biết quỉ không làm gì được mình vì có áo Ðức Mẹ, anh ta nhất định không chịu bỏ áo ấy ra.

Ðôi bên giằng co một lúc, quỉ thất bại bỏ đi.

Người tội lỗi ấy, được Ðức Mẹ chữa mình phần hồn phần xác, thì động lòng hối cải. Ðể biết ơn Ðức Mẹ, anh ta họa một bức tranh về tích truyện xảy ra ở bờ sông, và treo ở bàn thờ Ðức Mẹ trên bàn thờ thành Perusia, để thiên hạ muôn đời ca tụng lòng nhân từ Ðức Mẹ đối với những con cái mang áo Người.

==============================

25. Việc thứ ba người ta quen làm để tôn sùng Ðức Mẹ là mừng các ngày lễ của Người

Giáo Hội biết Ðức Mẹ có quyền thế và hay bào chữa cho người ta trước mặt ThiênChúa, nên đã lập nhiều lễ, để người ta có dịp chạy đến Ðức Mẹ xin Người ban ơn. Người rộng tay ban phát nhiều ơn cho những ai cầu xin Người trong những Ngày lễ kính Người.

Ta phải mừng lễ Người cho sốt sắng, hai ba ngày trước lễ, ta phải dọn linh hồn xứng đáng, làm ít nhiều việc lành kết thành bó hoa tươi xinh dâng cho Người những ngày lễ. Có nhiều người nhân đức có thói quen ăn chay ngày trước lễ. Chính ngày lễ ta phải đi xưng tội, dâng lễ, rước lễ, nhất là dùng ngày ấy để dâng mình cho Ðức Mẹ, và làm nhiều việc lành khác dâng cho Người.

Lạy Mẹ rất thánh, chúng con đã bỏ qua nhiều lễ hoặc chẳng mừng cho sốt sắng những ngày lễ Ðức Mẹ. Chúng con đã bỏ những dịp thuận tiện để cầu xin Ðức Mẹ. Từ nay chúng con sẽ hết sức mừng những ngày lễ Ðức Mẹ sốt sắng, mong Ðức Mẹ đổ ơn xuống cho chúng con phần hồn phần xác.

Thánh Tích

Xưa nay không có nơi nào người ta mừng lễ Ðức Mẹ trọng thể cho bằng ở Lộđức, nhất là những ngày lễ trọng như: Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, lễ Truyền Tin, lễ Sinh Nhật Ðức Mẹ, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, lễ Mân côi.

Ba bốn ngày trước lễ, người bốn phương đã lũ lượt kéo đến Lộđức rất đông đảo. Những bệnh nhân đủ thứ đã được chở đến mấy ngày trước. Trước hết. Họ đến quì cầu nguyện trước tượng Ðức Mẹ, trên cửa hang, chỗ Ðức Mẹ hiện ra. Họ cầu nguyện hồi lâu, rồi đi uống nước suối Ðức Mẹ. Người ta kéo lên núi viếng nhà thờ Mân côi, là hai thánh đường nguy nga nhất, họ đọc kinh cầu nguyện, xưng tội, chầu Thánh Thể ở đấy.

Trước cửa hang đá thì không lúc nào ngớt người đến quì lần hạt. Họ vui thích lần hạt ở trước hang đá, có khi đôi ba nghìn người một trật. Người ta lần hạt suốt ngày suốt đêm.

Chiều hôm trước lễ, người ta rước tượng Ðức Mẹ quanh sườn núi, đèn nến sáng rực như ban ngày.

Chính ngày lễ, các linh mục kế tiếp nhau dâng lễ.

Buổi chiều, có cuộc rước Thánh Thể quanh nhà thờ. Người ta đã khiêng sẵn những bệnh nhân nằm la liệt hai bên đường Chúa sắp đi qua. Cảnh tượng thật cảm động, chẳng khác gì cảnh tượng hồi Chúa còn ở thế gian trên đất Palestine.

Những người đi mừng lễ ở Lộ đức về đều nói không nơi nào mừng lễ Ðức Mẹ sốt sắng trọng thể bằng ở đấy.Người ta được xem thấy nơi Ðức Mẹ hiện ra, suối nước của Ðức Mẹ và nhất là được mục kích những phép lạ Ðức Mẹ chữa các bệnh nhân, thì thêm lòng tin cậy và mến yêu Ðức Mẹ.

Những người mừng lễ Ðức Mẹ sốt sắng như thế, chắc sẽ được Người ban nhiều ơn ở đời này và đời sau trên Thiên đàng.

==============================

26. Việc thứ tư người ta quen làm để tôn sùng Ðức Mẹ là năng đọc kinh Kính mừng

Trong các kinh người ta quen đọc để cầu xin Ðức Mẹ, chẳng có kinh nào đẹp lòng Ðức Mẹ cho bằng kinh Kính Mừng.

Ðó là những lời Sứ thần truyền tin cho Ðức Mẹ, là lời bà thánh Isave ca ngợi Ðức Mẹ, cũng là lời Giáo Hội thêm vào để tung hô Ðức Mẹ.

Ðọc kinh Kính Mừng, người ta nhắc lại cho Ðức Mẹ tin vui mừng Sứ thần đã đem đến cho Người, và phúc trọng Thiên Chúa ban cho Người được làm Mẹ Con Thiên Chúa. Ðọc kinh Kính Mừng, người ta ca ngợi những phúc cả cao đầy ở nơi Ðức Mẹ từ lúc chịu thai, khi ở thế gian và trót đời Người.

Ðức Mẹ đã tỏ cho bà thánh Melthiđa biết không kinh nào làm đẹp lòng Ðức Mẹ, và sinh nhiều ơn ích cho người ta bằng kinh Kính Mừng.

Thánh Bênađô kể: chẳng lần nào ta đọc kinh ấy mà Ðức Mẹ chẳng ban ơn. Một ngày kia, ông thánh đi qua tượng Ðức Mẹ vừa đi vừa đọc kinh Kính Mừng. Ðọc vừa xong, ông thánh thấy Ðức Mẹ gật đầu tỏ ý bằng lòng.

Vì là một kinh đẹp lòng Ðức Mẹ nhất, nên ta hãy đọc kinh ấy cho sốt sắng.

Khi gặp những cơn cám dỗ cheo leo, hãy mau đọc kinh Kính Mừng.

Sáng ngày khi thức dậy, buổi tối khi đi ngủ, cũng đừng quên nhớ đến Ðức Mẹ và đọc kinh Kính Mừng.

Phải đọc kinh ấy với một tâm hồn sốt sắng, đơn sơ như người con ca ngợi Mẹ, thành thực như Sứ thần chào kính Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ có phúc trọng hơn mọi phụ nữ. Xưa Mẹ đã được Sứ thần Thiên Chúa hết lòng cung kính kính mừng Mẹ. Nay chúng con cũng hết lòng mượn lời Sứ thần ca tụng kính mừng Mẹ muôn đời hạnh phúc.

Thánh Tích

Có một học sinh tên là Antoniô, đậu tú tài, cha mẹ mừng rỡ thưởng cho anh ta rất nhiều tiền, lại cho đi du lịch bên Balê, một kinh thành có tiếng xa hoa, với những tòa nhà lộng lẫy, với những lối ăn chơi thỏa thích.

Trước khi Antoniô lên đường, có một bà nhờ Antoniô một việc, là vào nhà thờ Ðức Mẹ thắng trận ở Balê, đọc một kinh Kính Mừng cầu nguyện cho bà ấy.

Antoniô vốn khô khan, thấy bà nhờ việc ấy thì không được hài lòng mấy, phải miễn cưỡng nhận lời bà ấy dặn. Antoniô lưu lại Balê 15 ngày, dong chơi khắp mọi nơi. Mãi đến lúc ra về, Antoniô mới nhớ đến lời bà lão dặn. Lựa lúc vắng người, Antoniô lẻn vào nhà thờ Ðức Mẹ, quì một xó, anh liền cảm thấy mình đầy tội lỗi. Rầu nét mặt, đôi mắt đã bắt đầu sa lệ, giọt lệ thống hối đầu tiên.

Chợt lúc ấy có linh mục chính xứ vào nhà thờ, thấy Antoniô đứng khóc liền hỏi: “Con đi đâu? Có việc gì? Sao lại khóc?”. Antoniô chẳng thưa lại và vẫn nức nở khóc. Linh mục cầm lấy tay Antoniô nói rằng: “Ðây hẳn là một chiên lạc được Ðức Mẹ dắt về cùng Chúa. Con hãy tạ ơn Ðức Mẹ, Người đã hết lòng thương con”.

Antoniô gạt nước mắt thưa: “Lạy Cha, con là kẻ có tội, xin Cha cứu lấy con”.Thầy cả khuyên bảo, yên ủi và giúp Antoniô xét mình xưng tội. Antoniô xưng tội, rước lễ sốt sắng và lưu lại mấy ngày tạ ơn Ðức Mẹ rồi mới về, trong lòng vui sướng nhẹ nhàng.

Về đến nhà, anh kể lại đầu đuôi câu truyện cho mọi người biết hiệu lực của kinh Kính Mừng trong nhà thờ Ðức Mẹ thắng trận.


****

Kinh Kính mừng

Kính Mừng Maria đầy ơn phúc: Ðức Chúa Trời ở cùng Bà; Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.

Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

Kinh dâng mình

Lạy Ðức Bà Maria: lạy Mẹ nhân thay! Con xin dâng mình con cho Ðức Mẹ; mà cho được làm chứng con hết lòng làm tôi Ðức Mẹ, thì ngày hôm nay (hoặc đêm hôm nay) con xin dâng con mắt, lỗ tai, miệng lưỡi, trái tim cùng trót cả và mình con cho Ðức Mẹ. Lạy Ðức Bà Maria, lạy Mẹ khoan thay! Này con thuộc về Ðức Mẹ thì xin Ðức Mẹ gìn giữ con như của riêng của Ðức Mẹ vậy. Amen.

==============================

27. Việc 5: đọc kinh cầu Ðức Bà

Năm 1601, Ðức Giáo Hoàng Clêmentê truyền cho giáo dân mọi nơi bỏ các bản kinh khác nhau và nhận bản kinh cầu quen đọc ở nhà thờ Ðức Mẹ Lorêta.

Kinh cầu có 50 câu, mỗi câu là một bông hoa xinh tươi dâng lên Ðức Mẹ, mỗi câu là lời ca dịu dàng, mỗi câu là một bản kinh sốt sắng. Cả kinh cầu là một bản nhạc hùng hồn và êm ái, càng đọc người ta càng vui thích, càng nghe càng thấy dịu dàng.

Câu thưa: “Cầu cho chúng con” lại là một tiếng kêu van thảm thiết, như một tên bắn vào Trái tim Mẹ, để mở rộng kho từ ái Mẹ.

Ta phải quí trọng kinh ấy, ta phải năng đọc, và đọc sốt sắng. Ðó là những lời ca tụng đẹp lòng Ðức Mẹ, và những tiếng kêu van thảm thiết nài xin lòng từ ái Mẹ.

Thánh Tích

Cha Auriêma nói về lòng tôn sùng Ðức Mẹ có kể tích này:

Ở tỉnh Normandi bên Pháp, người ta bắt được tướng cướp đem nộp cho nhà chức trách. Nhà chức trách điều tra lý lịch, thấy anh ta đã can án nhiều vụ cướp thì lên án xử tử. Lý hình vừa sắp chém đầu, thì anh ta kêu lên: ” Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương cho con được xưng tội trước khi chết”. Người ta sợ hãi liền tìm thày cả cho anh ta xưng tội. Thầy cả giải tội hỏi anh ta xưa nay có làm việc gì đáng Ðức Mẹ thương, thì anh ta trả lời: “Khi còn bé con siêng năng đọc kinh cầu Ðức Mẹ, và đọc các ngày thứ bảy”.

Suy tích này ta biết Kinh cầu Ðức Mẹ có hiệu lực và người năng đọc kinh ấy được Ðức Mẹ thương yêu dường nào.

*****


Kinh cầu Ðức Bà

Xin Chúa thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa thương xót chúng con.

Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Xin Chúa thương xót chúng con.
Thưa: Xin Chúa thương xót chúng con.

Chúa Kitô nghe cho chúng con.
Thưa: Chúa Kitô nhậm lời chúng con.

Ðức Chúa Cha Ngự trên trời là Ðức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.

Ðức Chúa con chuộc tội cứu thế là Ðức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.

Ðức Chúa ThànhThần là Ðức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.

Rất thánh Ðức Bà Maria.
Thưa: Cầu cho chúng con.

(Câu nào cũng thưa như vậy)

Rất thánh Ðức Mẹ Chúa Trời.

Rất thánh Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh.

Ðức Mẹ Chúa Kitô.

Ðức Mẹ thông ơn Thiên Chúa.

Ðức Mẹ cực thanh cực tịnh.

Ðức Mẹ tuyền vẹn mọi đàng.

Ðức Mẹ chẳng vướng bợn nhơ.

Ðức Mẹ rất đáng yêu mến.

Ðức Mẹ cực mầu cực nhiệm.

Ðức Mẹ chỉ bảo đàng lành.

Ðức Mẹ sinh Chúa Tạo thiên lập địa.

Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu Thế.

Ðức Nữ cực khôn cực ngoan.

Ðức Nữ rất đáng kính chuộng.

Ðức Nữ rất đáng ngợi khen.

Ðức Nữ có tài có phép.

Ðức Nữ có lòng khoan nhân.

Ðức Nữ trung tín thật thà.

Ðức Bà là gương nhân đức.

Ðức Bà là tòa Ðấng khôn ngoan.

Ðức Bà làm cho chúng con vui mừng.

Ðức Bà là Ðấng trọng thiêng.

Ðức Bà là Ðấng đáng tôn trọng.

Ðức Bà là Ðấng sốt mến lạ lùng.

Ðức Bà như hoa hường mầu nhiệm vậy.

Ðức Bà như lầu đài Ðavít vậy.

Ðức Bà như tháp ngà báu vậy.

Ðức Bà như đền vàng vậy.

Ðức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.

Ðức Bà là cửa Thiên đàng.

Ðức Bà như sao mai sáng vậy.

Ðức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.

Ðức Bà bầu chữa kẻ có tội.

Ðức Bà yên ủi kẻ âu lo.

Ðức Bà phù hộ các giáo hữu.

Nữ vương các thánh thiên thần.

Nữ vương các thánh Tổ tông.

Nữ vương các thánh Tiên tri.

Nữ vương các thánh Tông đồ.

Nữ vương các thánh Tử vì đạo.

Nữ vương các thánh Hiển tu.

Nữ vương các thánh Ðồng trinh.

Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.

Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông.

Nữ vương linh hồn và xác lên trời.

Nữ vương truyền phép rất thánh Mân côi.

Nữ vương ban sự bằng an.

Nữ vương các gia đình.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa tha tội chúng con.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa nhậm lời chúng con.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa thương xót chúng con.

Lạy rất thánh Ðức Mẹ Chúa Trời xin cầu cho chúng con.
Thưa: Ðáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa.

Lời Nguyện:

Chúng con lạy ơn rất thánh Ðức Mẹ Chúa Trời, chúng con trông cậy Ðức Bà là Chúa bầu chúng con: xin cho chúng con biết lòng Ðức Mẹ yêu dấu con mọn này còn ở dưới thế cách xa mặt Mẹ. Ðức Chúa Giêsu xưa xuống thế gian chẳng bỏ loài kẻ có tội, lại liều mình chịu nạn chịu chết vì hết cả và loài người ta; Ðức Mẹ cũng một lòng theo Con như vậy. Mẹ ôi! Khoan thay! Nhân thay! Chớ trở mặt đi mà chẳng nhìn chúng con; xin Ðức Mẹ thương xem dạy dỗ yên ủi chúng con. Con cậy Mẹ có phép tắc nhiều trên hết Thiên thần cùng trên hết các thánh. Chúng con còn ở dưới thế này như kẻ đi biển cả vậy. Ðức Mẹ là như ngôi sao chính ngự ở trời bên bắc vậy, xin Ðức Mẹ dẫn đàng cho chúng con được theo, kẻo phải xiêu chìm sa hỏa ngục vô cùng; chúng con trông Ðức Mẹ cho chúng con ngày sau được vào cửa thiên đàng, xem thấy mặt Ðức Chúa Giêsu cùng mặt Ðức Mẹ, được hưởng muôn muôn sự phúc gồm hết mọi sự tốt lành chẳng hay hết chẳng hay cùng. Amen.

==============================

28. Việc 6: đọc kinh Lạy Nữ Vương

Ðây là gốc tích kinh Lạy Nữ Vương. Vào khoảng năm 1100, bên Ðức, có một gia đình sang trọng đạo đức, sinh được một con trai đặt tên là Herman. Herman lọt lòng với một hình thù xấu xa lại tàn tật. Ðứa bé thấp lùn, mồm méo, lớn lên lưng còng, ăn nói thì ngập ngọng, lại thọt một chân. Tâm trí thì u mê tối tăm, dáng bộ ngờ nghệch không biết gì.

Cha mẹ thấy con mình tàn tật dốt nát làm vậy thì thương hại, lại xấu hổ không cho con ra khỏi nhà.

Herman lên 12 tuổi, cha mẹ rước một thầy dòng về nhà để dạy con mình. Suốt hai năm trời, Herman chỉ học được mấy lẽ cần trong đạo như : Một Thiên Chúa ba ngôi, dựng nên trời đất, tổ tông phạm tội, Ngôi Hai xuống thế làm người trong lòng TrinhNữ Maria, chịu chết trên thánh giá để chuộc tội thiên hạ. . .

Herman lên 16 tuổi mới đủ trí khôn nhận thấy mình tàn tật và kém chúng bạn. Herman sinh buồn bã, đêm ngày những than thân tủi phận.

Thầy dòng thấy học sinh của mình buồn bã đêm ngày, thì khuyên bảo cậu chạy đến cùng Ðức Mẹ và vững vàng trông cậy Người cứu giúp. Herman vâng lời thầy, cầu xin Ðức Mẹ ba năm trời, mà chẳng được kết quả gì. Mặc dầu vậy Herman không ngã lòng, cứ tiếp tục cầu nguyện.

Một ngày kia, Herman cảm thấy mình sầu khổ hơn mọi khi, liền đến trước bàn thờ Ðức Mẹ kêu van rằng : “Lạy Mẹ là NữVương trời đất, là Mẹ nhân ái, là sức sống, là nguồn vui, là hy vọng của con, con là con cháu khốn nạn của Evà, ở chốn khách đầy đau khổ, kêu van xin Mẹ ghé mặt thương xót. Ðến giờ sau hết xin cho con được về trời xem thấy Chúa Giêsu Con Mẹ, lạy Mẹ nhân ái”.

Sau mấy lời kêu van thống thiết, Herman thấy Ðức Mẹ hiện ra sáng láng tốt đẹp và bảo: “Herman, con yêu của Mẹ, Mẹ đã nghe lời con cầu xin. Mẹ cho con chọn một trong hai điều này: một là khỏi các bệnh tật phần xác, hai là được trở nên thông thái, con muốn điều nào tùy ý”.

Herman bấy lâu khổ cực vì bệnh tật cũng như đau lòng vì trí khôn thấp kém. Cậu nghĩ ngợi một lúc, rồi quả quyết trả lời : “Con xin Mẹ trí thông minh”. Ðiều Herman xin đẹp lòng Ðức Mẹ. Người cho Herman được trí thông minh lại cho khỏi các tật bệnh phần xác nữa.

Từ đó Herman chăm chỉ học hành, nổi tiếng thông minh vượt hẳn chúng bạn. Sau Herman trở nên một nhà tu hành thông thái chép nhiều sách có giá trị. Ðể tạ ơn Ðức Mẹ, thầy Herman đặt lại kinh Nữ Vương cho mọi người đọc.

Kinh Lạy Nữ vương là những lời cầu nguyện vắn tắt, khiêm nhường đơn thật, và là những lời kêu van thảm thiết của một tâm hồn đau khổ, trong lúc cô đơn, chỉ còn biết nương tựa cậy trông vào Ðức Mẹ. Cũng là một kinh giáo dân quen đọc và đọc nhiều lần trong một ngày.

Trong các tu viện, lúc ngày tàn, người ta thấy các thầy dòng hội nhau trong nhà thờ hát kinh ấy với giọng điệu chân thành yêu mến sốt sáng.

Xưa thánh Vixentê bị bọn cướp bể bắt sống bán đi làm tôi. Trong những năm bị lưu đầy khổ sở, ông thánh đọc kinh Nữ Vương để tự yên ủi mình và được sức mạnh vui chịu mọi đau khổ. Nhiều người ngoại giáo nghe người đọc kinh ấy sốt sắng thảm thiết, thì cảm động và xin theo đạo.

Vậy ta hãy quí trọng và năng đọc kinh Lạy Nữ Vương. Nhất là lúc gặp đau khổ, ta hãy ngửa mặt kêu xin Mẹ thương xót ta ở chốn lưu đày này, và đến giờ sau hết xin Mẹ đem ta về trời, xem thấy Chúa Giêsu, Con Mẹ đời đời.

Thánh Tích

Trong lịch sử dòng thánh Augustinô, kể tích một thầy dòng đạo đức đã có tuổi, mắc bệnh nặng sắp chết. Nằm trên giường bệnh, thầy nghĩ đến giờ phải đứng trước tòa Chúa phán xét thì lo buồn khiếp sợ. Anh em trong dòng an ủi và khuyên thầy hãy vững vàng tin ở lòng nhân từ vô cùng Thiên Chúa nhưng thầy cũng chẳng bớt sợ hãi lo buồn.

Có lần thầy quá khiếp sợ đến nỗi phát khóc một hồi lâu. Bỗng chốc Ðức Mẹ hiện ra lấy lời dịu dàng phán bảo rằng: “Ớ con, con đừng sợ! Lúc còn khỏe, ngày nào con cũng đọc kinh Lạy Nữ vương, ước mong được xem thấy Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ nghe lời con sau khi chết, Mẹ sẽ đưa con về trời xem thấy Chúa Giêsu muôn đời”.

Bệnh nhân bấy giờ mới yên lòng và vững vàng cậy trông cho đến khi nhắm mắt bằng yên trong tay Ðức Mẹ.

****


Kinh Lạy Nữ Vương

Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ.

Chúng con con cháu Evà, ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà; chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương.

Hỡi ơi! Bà là Chúa bầu chúng con, xin nghé mặt thương xem chúng con, đến sau khỏi đầy, xin cho chúng con được thấy Ðức Chúa Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.

Ôi khoan thay! Nhân thay! Dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.

==============================

29. Việc 7: đọc Kinh Hãy Nhớ

Thánh Bênađô là một bậc đại thánh, rất nhiệt thành trong việc rao giảng nước Chúa và cổ động phong trào sùng kính Ðức Mẹ. Người đã soạn nhiều bài giảng rất hay để ca tụng Ðức Mẹ, hay nhất là bài giảng về ngày lễ Ðức Mẹ lên trời. Ít lâu sau có một người trích một đoạn trong bài giảng ấy đặt ra kinh Hãy nhớ. Nên người ta gọi kính ấy là kinh ông thánh Bênađô.

Cũng là một kinh người ta năng đọc và rất đẹp lòng Ðức Mẹ.

Ở Balê, có một người cũng tên là Bênađô, lúc còn thanh niên, mê theo đường tội, sau nhờ ơn Ðức Mẹ và năng đọc kinh Hãy nhớ nên được lòng hối cải và sau chịu chức Linh mục, làm tuyên úy các tù nhân bị án tử.

Ðể tạ ơn Ðức Mẹ, cha Bênađô khuyên bảo mọi người năng đọc kinh Hãy nhớ. Người quả quyết rằng: Dù tội nhân cứng lòng thế nào, nếu đọc kinh Hãy nhớ thì chắc chắn sẽ được ơn hối cải. Người quả quyết như thế vì đã mục kích nhiều lần.

Cha Bênađô lại thuê in hàng vạn bản kinh ấy, phát đi các nơi cho mọi người đọc, và chép một quyển sách để lại những phép lạ Ðức Mẹ đã làm để cứu những ai hết lòng trông cậy và sốt sáng đọc kinh ấy.

Biết bao tội nhân cứng lòng đã được ơn sám hối, biết bao bệnh nhân được lành khỏi, biết bao nhiêu người mắc cơn nguy hiểm phần hồn phần xác được khỏi, vì đã vững vàng trông cậy đọc kinh Hãy nhớ.

Kinh Hãy nhớ xưng hô lòng trông cậy vững vàng ở quyền thế từ ái Ðức Mẹ. Sự trông cậy là chìa khóa mở kho tàng chứa nguồn ân sủng của Ðức Mẹ.

Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ xin bào chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.

Ðó là cả một bài ca lòng lân tuất không bờ bến của Ðức Mẹ. Thật vậy, lòng từ ái Mẹ mênh mông như biển cả. Người cứu vớt ban ơn cho mọi thứ người. Người chẳng hề từ chối ai đến kêu cầu Mẹ và đọc kinh Hãy nhớ. Cho nên người ta gọi kinh ấy là kinh Ðức Mẹ làm phép lạ. Vậy ta hãy năng đọc kinh ấy cho sốt sắng mọi ngày trong đời ta.

Thánh Tích

Thời Cha Bênađô giảng đạo, có một tay hung đồ bị án xử tử. Mặc dầu những lời khuyên van của Cha Bênađô, hắn ta cứng lòng nhất định không chịu xưng tội. Ngày xử án, Cha Bênađô lại hết lòng khuyên van, nhưng hắn chẳng nghe. Lần này Cha Bênađô không khuyên hắn xưng tội nữa, chỉ nài hắn ta đọc kinh Hãy nhớ. Mặc dầu những lời dỗ dành ngon ngọt, hắn ta cũng để ngoài tai. Cha Bênađô cố ép mãi, sau cùng hắn nể lòng gượng đọc hết kinh Hãy nhớ. Ðọc dứt kinh, người ta trông thấy mặt hắn ta tái nhợt đi. Anh ta bị xúc động quá mạnh, giọt nước mắt đầu tiên đã bắt đầu từ từ rơi trên đôi má. Anh đã được ơn thống hối, và xin Cha Bênađô giúp mình xưng tội.

Nhờ sức mạnh của kinh Hãy nhớ, người cứng lòng ấy đã được ơn thống hối trước khi bị xử.

*********************

Kinh Hãy Nhớ

Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.

Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Ðức Mẹ là Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Ðức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi.

Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhận lời con cùng. Amen.

==============================

30. Việc 8: làm tuần ba ngày (tam nhật) hay chín ngày (cửu nhật)

Giáo dân có thói quen muốn xin Ðức Mẹ ơn gì, hoặc xin cho tội nhân được hối cải, hay bệnh nhân được lành khỏi, hoặc xin khỏi ôn dịch thần khí hay khỏi mùa đói khát. . . thì cầu nguyện làm việc lành dâng cho Ðức Mẹ đủ ba ngày hay chín ngày.

Sự đó rất đẹp lòng Ðức Mẹ và đáng Người ban ơn cho ta; ta cầu nguyện Ðức Mẹ một lần thôi, mà còn được Ðức Mẹ thương, phương chi cầu nguyện ròng rã ba ngày hay chín ngày liền. Cách cầu nguyện đó tỏ ra ta khiêm nhường, kiên nhẫn và đầy lòng tin tưởng ở Ðức Mẹ.

Hằng năm biết bao người làm tuần ba ngày hay tuần chín ngày, đã được Ðức Mẹ thương: người thì được ơn hối cải, người thì khỏi cheo leo phần hồn phần xác, người thì được công ăn việc làm. Có người lưu lạc đã được hồi hương, có người mất của lại tìm thấy, và còn biết bao ơn khác nữa. . .

Muốn làm tuần ba hay tuần chín ngày thì phải giữ những điều này:

1- Sự ta xin phải là sự lành, đẹp lòng Chúa và có ích cho linh hồn ta.

2- Trong tuần ấy phải xưng tội rước lễ, vì chỉ ai có nghĩa cùng Chúa mới đáng Ðức Mẹ thương ban sự ta có ý xin.

3- Lại phải làm việc lành trong tuần ấy hơn mọi khi giữ lòng sạch tội hơn, đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí nhiều hơn. Hết mọi việc hãy dâng qua tay Ðức Mẹ.

4- Cuối tuần ta phải dâng mình cho Ðức Mẹ, hết lòng tạ ơn Ðức Mẹ.

Nếu ta chưa được ơn ta xin, thì lại làm hai, ba tuần nữa, vững vàng cầu xin cho đến khi được ơn ấy.

Ta hãy tin tưởng: xưa nay chưa hề nghe có ai chạy đến kêu xin Mẹ thương, mà Mẹ từ bỏ.

Lạy Mẹ Maria, là Ðấng hay chữa kẻ khốn khó, yên ui kẻ khổ cực, ban ơn cho kẻ thiếu thốn, xin ghé mắt thương xem và nghe lời chúng con cầu xin.

Thánh Tích

Truyện sau đây xẩy ra ở bên Pháp. Một ông tướng có lòng đạo, lại cậy trông và kính mến Ðức Mẹ lắm. Ngoài hai vợ chồng trẻ và anh làm bếp, ông còn 3 đứa con đang còn măng sữa.

Ông phải thuê một chị sen để trông nom trẻ nhỏ. Chẳng may chị sen phải chứng động kinh. Bà vợ muốn đuổi chị sen về không nuôi nữa. Nhưng ông chồng cho thế là thiếu đức yêu người. Nên ông bảo cứ nuôi và chạy thuốc cho chị. Lại bảo cả nhà hợp ý cùng mình làm tuần chín ngày khấn xin Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp thương chữa người đầy tớ mình. Qua một tuần chín ngày, bệnh tình chị sen không thuyên giảm, lại càng tăng. Bà vợ hầu ngã lòng nói ra nói vào oán trách chồng. Nhưng, với lòng sốt sắng và cậy trông, ông bảo: “Bà đừng vội ngã lòng, chúng ta chưa được như ý, có khi vì Chúa muốn thử lòng chúng ta. Có khi vì lời cầu xin của chúng ta chưa đủ sốt sắng và tin tưởng. Vậy ta hãy làm tuần chín ngày khác và cứ tiếp tục cho đến khi được như lời khẩn nguyện, vì lời xưa Chúa phán ‘Hãy xin thì sẽ được’ có lẽ nào sai!” Vì thế ngay từ sáng hôm sau cả nhà lại tiếp tục làm tuần chín ngày khác và cứ thế kéo dài mãi đến 4 lần 9 ngày mà bệnh chị sen không thấy bớt. Nhưng viên tướng chẳng sờn lòng chút nào, ông lại càng tăng lời cầu nguyện đêm ngày.

Một buổi sáng, đi lễ về, ông vào phòng, đóng cửa lại, sấp mình dưới tượng Ðức Mẹ và kêu van: “Lạy Mẹ nhân lành, Mẹ biết lòng con kính mến và trông cậy Mẹ. Con đã quyết với bạn con: Mẹ sẽ không bỏ lời con cầu xin cũng như xưa nay chưa bỏ lời ai cầu khẩn Mẹ. Vậy để hiển danh Mẹ, xin Mẹ ban cho con ơn con xin Mẹ từ lâu”.

Cầu xin xong, ông thấy lòng vui mừng như niềm tin tưởng mong ước của ông đã thành sự thật. Ông tự nhủ: Mẹ đã nghe lời ta rồi. Mà thật, từ hôm ấy, chị sen không lên cơn động kinh nữa.

Tạ ơn Ðức Mẹ muôn đời

==============================

31. Thành tâm kính mến Ðức Mẹ chắc chắn sẽ được rỗi linh hồn

Thế nào là thành tâm kính mến Ðức Mẹ?

Ta nhận thấy: có người hiến dâng toàn thân cùng mọi việc mình làm cho Ðức Mẹ nhận Người làm Mẹ bênh vực và chỉ dẫn trong mọi công việc. Họ hết sức noi gương bắt chước Ðức Mẹ. Giữ giới răn Chúa và sống cuộc đời đạo đức sốt sắng. Những người này thật xứng đáng là con cái thành tâm kính mến Ðức Mẹ cách trọn hảo.

Lại nhiều người khác, cũng vui lòng hiến thân cùng mọi công việc mình làm cho Ðức Mẹ, nhưng đôi khi còn sa ngã theo tính xác thịt lỗi giới răn Chúa. Họ chưa được vững vàng trong đường thánh thiện như hạng người trên. Nhưng, sau cơn yếu đuối, họ biết trở về cùng Chúa ngay, cậy nhờ Ðức Mẹ giúp sức. Những người này cũng là con cái thành tâm mến Mẹ. Tuy có khi sa ngã, vì còn mang xác thịt loài người, nhưng biết ăn ở như tích người con phung phá trở lại.

Sau hết, còn một hạng người, chúng ta thường gặp. Họ là những người, tuy cũng có khi siêng năng đi lễ và đọc kinh cầu nguyện. Nhưng nói đúng, họ chỉ đạo đức sốt sắng lúc ngồi trong nhà thờ mà thôi. Còn đời sống hằng ngày thì những bê tha, tội lỗi, ích kỷ, cay nghiệt. . . Họ sống hời hợt không cố gắng hy sinh noi gương mến Chúa yêu người thành tâm kính mến Ðức Mẹ đâu. Ðối với họ, Ðức Mẹ luôn luôn rộng lòng thương chờ đón họ. Vậy họ hãy cứ tiếp tục làm việc lành đã quen làm xưa nay. Họ hãy mau mau trở về cùng Chúa và Ðức Mẹ, hãy thành thực yêu mến Mẹ đi, hãy ăn ở sốt sắng đạo đức thật.

Chúng ta hãy thành tâm kính mến Ðức Mẹ cho vững vàng. Ta đừng bắt chước như ai: lúc được sự may mắn hoặc không bị tai ương thì sốt sắng cầu khẩn Ðức Mẹ, còn lúc gặp sự trái ý buồn bực hoặc tai vạ phần xác hoặc bị cám dỗ trong tâm hồn thì sờn lòng cậy trông và lửa kính mến Ðức Mẹ tắt dần. Những người ấy làm cho Ðức Mẹ đau lòng biết mấy.

Lạy Mẹ Maria, nay là cuối tháng của Mẹ, chúng con tạ ơn Mẹ vì đã ban cho chúng con tháng vừa qua để tôn kính Mẹ, chúng con tạ ơn Mẹ vì các ơn Mẹ đã ban cho chúng con xưa nay và nhất là trong tháng này.

Lạy Mẹ, giờ đây, quì trước nhan thánh Mẹ, chúng con xin phó mình chúng con cho Me, xin Mẹ vui lòng nhận lấy chúng con. Xin Mẹ ở bên chúng con liên, để khi vui lúc buồn, chúng con hằng làm đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ. Xin Mẹ hãy ở gần chúng con, nhất là trong giờ chết, để đời chúng con, thành một đời kính mến Chúa và Mẹ. Và sau hết, xin đưa chúng con về cùng Mẹ ở trên thiên đàng.

Thánh Tích

Xưa, ở thành Milano nước Ý, có Maria 19 tuổi, mồ côi cha từ thuở nhỏ. Con nhà nghèo khổ. Maria đi chăn chiên thuê để kiếm cơm ăn. Cô rất đạo đức sốt sắng. Cô có lòng yêu mến Ðức Mẹ lắm. Thường khi chăn chiên một mình vắng vẻ, Maria hay lần hạt và hát kính Ðức Mẹ.

Một hôm ngồi dưới bóng cây sồi, đang lúc Maria lên cung véo von ca ngợi Ðức Mẹ chợt có ông chủ rạp hát thành Milăng qua đấy. Nghe giọng du dương êm ái của cô, ông rất ngạc nhiên: nơi đồng ruộng mà có thiếu nữ hát hay như vậy. Ông rất khâm phục cái tài hiếm có của Maria. Ông vội dừng bước lân la gợi chuyện.

“Chào cô, cô hát hay quá. Chẳng hay cô quê quán ở đâu, học nghề hát từ bao giờ mà giỏi thế. Nhưng tôi không khỏi không thương hại một người không biết dùng tài của mình, mà để cuộc đời phải vất vả tiều tụy như cô. Vậy nếu cô bằng lòng, tôi xin sẵn sàng giúp đỡ cô. Và tôi hy vọng: cô chỉ cần tập luyện thêm một thời gian ngắn là có thể trở nên danh ca vô địch, không rạp hát nào có thể hơn được, như thế dĩ nhiên cô sẽ hái ra tiền và chẳng bao lâu trở thành giàu có phú quí”

Maria lãnh đạm trả lời: “Dù ông cho tôi nhiều vàng bạc thế nào đi nữa, dù trở nên giàu có đến đâu, thì cũng không đời nào tôi đi theo ông, mà dùng miệng lưỡi này để ca hát điều hoa tình lãng mạn. Vì thế là tự gieo mình xuống hỏa ngục, và còn làm dịp cho nhiều người phải phạt trong biển lửa ấy nữa. Tôi đây, dù có ăn đói mặc rách, mà được sống đời trong sạch để kính mến Ðức Mẹ, còn hơn là ở lầu son gác tía mà làm con hát. Thôi xin phiền ông đừng nói đến chuyện ấy nữa kẻo uổng công”

Ông chủ rạp hát biết có nói cũng bằng thừa nên ông hỏi thăm tìm vào nhà cô. Lúc gặp mẹ cô, ông nói chuyện thuê Maria làm con hát và hứa sẽ trả tiền nhiều cho cô. Vì đang gặp cơn túng quẫn, mẹ cô Maria nhận lời ngay.

Chăn chiên về, Maria biết chuyện thì buồn rầu vô cùng. Dù mẹ khuyên răn, dù chú dì giảng giải, cho đó là việc hiếu với mẹ và yêu các em, Maria không khỏi lo buồn và bối rối.

Ðêm hôm ấy Maria trằn trọc đến sáng. Không biết nghe theo bên nào: Vâng lời mẹ đi làm con hát thì không thể giữ linh hồn trong trắng, đẹp lòng Chúa và Ðức Mẹ được. . .Mà nếu không nghe lời mẹ, thì mẹ ghét bỏ, đánh mắng, và gia đình vẫn phải sống trong sự túng đói. Giữa lúc bối rối lo lắng, âu sầu, cô sực nhớ đến Ðức Mẹ, cô vội quì gối, đôi mắt đẫm lệ ngước nhìn ảnh Ðức Mẹ và nói: “Lạy Mẹ Maria rất nhân từ; xin Mẹ giúp con đừng bao giờ trở nên thù địch với Mẹ. Xin Mẹ giúp con quyết chí dù sống chết không bao giờ bỏ Mẹ”. Cầu nguyện xong, cô thấy mình khoan khoái nhẹ nhàng và bình tĩnh.

Trưa hôm sau, đúng hẹn, chủ rạp hát đưa xe đến dẫn Maria ra tỉnh. Trước lời đe loi của mẹ, lời van xin của chú dì và làng xóm, Maria đành gạt nước mắt bước lên xe. Nhưng trong lòng không ngớt cầu xin Ðức Mẹ cứu giúp mình. Ðến rạp, thừa lúc được tự do, Maria lấy một viên gạch đập gẫy hai răng cửa, vì trước đây, cô đã nghe một chị bạn nói: người hát hay, nhưng đã mất răng cửa thì không thể hát được như trước nữa.

Trước cử chỉ gan dạ đó của Maria, chủ rạp hát phải khâm phục và không thuê nữa.

Lạy Mẹ nhân từ, là Mẹ chúng con, xin cho chúng con được gan dạ yêu mến Chúa và Ðức Mẹ dù phải hy sinh mọi sự, dù tính mạng, dù tài năng, xin Mẹ cho chúng con được sẵn lòng đủ can đảm hy sinh để luôn được Chúa và Ðức Mẹ làm phần thưởng.

———————-

Nữ Tu Maria Giêsu Agrêđa, một tôi tớ thời danh của Mẹ, đã thuật lại những lời đầy tình thương sau đây của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria phán với bà trong một lần mạc khải:

“Nếu có điều gì có thể giảm niềm vui và vinh hiển Mẹ đang hưởng; nếu ở thiên đàng Mẹ có thể chịu một đau khổ nào nữa, thì chắc chắn Mẹ sẽ rất khổ. a/ khi thấy Hội thánh và một phần lớn nhân loại còn đang chơi vơi trong tình trạng buồn thảm, b/ khi loài người biết ở trên trời, có Mẹ là Mẹ của họ, là Trạng sư của họ, là Đấng Phù trợ của họ, có thể cứu vớt và đem họ vào nơi hằng sống, mà họ lại không chạy đến kêu cầu.

Chúa đã ban cho Mẹ biết bao đặc ân, để Mẹ lấy lòng nhân từ mà cứu giúp loài người; nên Mẹ rất đau đớn, lòng đầy tình thương của Mẹ tan nát, khi thấy người ta không chịu lợi dụng mối lợi ấy, không hết lòng kêu van Mẹ, để rồi bao linh hồn phải hư mất đời đời! Ôi, người ta tự chuốc lấy cho mình hình phạt hỏa ngục, người ta không muốn Mẹ ban ơn cứu rỗi cho họ.

Người ta cần biết việc Mẹ cầu bầu và quyền phép Mẹ có thể cứu giúp mọi người dương thế. Mẹ đã chứng nghiệm điều chân thật đó bằng vô vàn phép lạ, để bênh đỡ những người tôn sùng Mẹ. Bao giờ Mẹ cũng đại lượng đối với những người cầu xin Mẹ trong lúc họ cần thiết; vì Mẹ mà Chúa đã ưu đãi họ; song, dầu số những người được Mẹ phù trì có lớn lao thật, nhưng sánh với con số những người Mẹ muốn cứu giúp thì còn ít quá. Tội ác nhân loại đã tới mức tột đỉnh, nhưng tấm lòng nhân từ của Mẹ còn vượt qua tất cả tội ác này. Đấng Tối Cao đã đặt Mẹ cứu giúp nhân loại, nếu họ muốn nhờ sự cầu bầu của Mẹ, nếu họ muốn Mẹ giúp cho mình”.

(sách Truyện Đức Mẹ, chương 21)

“Hãy luôn chạy đến cùng Đức Mẹ”. Đó là câu tóm kết tất cả khoa thần học của Thánh Anphongsô, vị tiến sĩ Hội thánh hiển danh , đó là trung tâm điểm học thuyết tu đức của thánh nhân vậy.

Khi người đến tuổi già, không còn đủ trí nhớ để nhớ mình đã lần hạt Mân côi chưa, người vẫn hỏi thầy dòng coi bệnh:
- Hôm nay tôi đã lần hạt chưa thầy?

Một hôm thầy ấy nói với người:
- Thưa cha, bao nhiêu tràng hạt cha đã đọc dư ra hôm nay, con xin cha nhường tất cả cho con.

Đấng thánh liền tỏ vẻ mặt nghiêm trang và nói:
- Thầy đừng đùa, thầy không biết rằng phần rỗi đời đời của tôi là nhờ ở tràng hạt Mân côi ử”

Đó là sự thật tỏ rõ như ban ngày: Nếu ta luôn luôn chạy đến cùng Đức Mẹ, chắc chắn thế nào ta cũng rỗi linh hồn và nên thánh.

(Joseph Schrijvers, CSs.R, Mẹ Tôi, bản dịch của Phạm Đình Khiêm,Ns.Trái Tim Đức Mẹ tái bản,1987, trang 77)

==============================

32. Đọc thêm: Đức Mẹ đã đưa tôi vào đạo

(Truyện của chị Ngô T. Ngọc Sương, Fort Worth, Texas)

“Tôi là người con gái kế út trong gia đình 9 anh chị em. Tôi không rõ ba tôi có là tín đồ Phật giáo không, nhưng ba tôi thích phóng sinh các con vật như chim, cá, rùa mỗi năm vài lần. Mỗi lần rất nhiều và tổ chức long trọng lắm. Ba tôi rất thương vợ con, và rất ghét những gì gian dối, đặc biệt là ba tôi luôn sẵn lòng giúp đỡ những người kém may mắn. Má tôi thì hết lòng xây dựng gia đình, hết lòng thương con cái. Tôi chưa hề thấy má tôi lớn tiếng la mắng con cái, nhưng luôn kiên nhẫn dùng lời phân tách giảng giải cho các con. Má tôi thật là tín đồ sùng bái Phật giáo và rất thương người.

Trong khi đó, nhìn ra lối xóm, thấy có nhiều người dữ dằn, nhiều người đàn bà lúc nào cũng sẵn sàng tuôn ra những lời chửi bới nguyền rủa con cái hay người khác cách độc ác, trong những người này, có nhiều người theo đạo Thiên Chúa (Công giáo). Lớn lên, khi tôi đi học, tôi cũng gặp nhiều người bạn Công giáo, những người này thường hay khinh miệt các tôn giáo khác, mà bản thân họ chỉ thấy cuồng tín, ích kỷ, chứ không có gì nói lên rằng đạo Công giáo là hay là tốt. Do đó, đầu óc tôi mamg những ý tưởng e dè mấy người Công giáo, cho tới khi trưởng thành tôi vẫn luôn nghĩ là sẽ KHÔNG BAO GIỜ theo đạo Công giáo.

Khi tôi quen chồng tôi, tôi không biết anh là người miền Bắc và Công giáo, vì anh nói giọng Nam. Anh lôi cuốn tôi, vì tôi thấy anh biết quan tâm tới cha mẹ và các em của anh, nên tôi nghĩ rằng anh có thể là người chồng tốt. Tới khi biết anh là người Bắc và Công giáo tôi rất phân vân. Tôi viết thư hỏi ý kiến ba má tôi. Ba má tôi để tôi tự do, và có lần khuyên tôi nên theo Công giáo cho đồng vợ đồng chồng. Chồng tương lai tôi cũng thuyết phục nhiều lần, dầu vậy, tôi quyết không theo Công giáo. Làm sao tôi quên được những ám ảnh từ hồi còn nhỏ về những người Công giáo kia. Sau cùng ảnh nhượng bộ: Đạo ai nấy giữ, nhưng với vài điều kiện tôi phải chấp nhận theo giáo luật như cho con rửa tội, và dạy con theo tinh thần đạo, không được cố tình ngăn cản anh theo đạo anh …Tôi thấy mỗi bên nhượng nhau một chút cũng là phải, nên tôi chấp nhận. Trong thời gian này, tôi theo học khóa dự bị hôn nhân. Tôi quen biết và kính trọng các linh mục, nhất là cha bác của chồng tôi. Tôi được làm lễ Gia Tiên, làm hôn phối trong nhà thờ, được các cha quan tâm, mến chuộng cách sống của chồng tôi, nhưng tôi vẫn không đổi ý, nhất quyết không theo Công giáo. Điều này làm phật ý bố mẹ chồng tôi, là những người Công giáo gốc, tôi biết những tiếng xì xèo, bóng gió, nhưng tôi cứ nín thinh, cho tới khi sinh đứa con thứ hai, thì sự cay đắng với cha mẹ chồng đã vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi nảy mầm thù ghét đạo Công giáo. Thời gian này tôi được hung tin từ VN: Má tôi vĩnh viễn ra đi. Nghe tin ấy, tôi đau buồn tới ngã quị. Người mẹ mà tôi sùng bái như mẫu gương hy sinh đã không còn nữa. Người mẹ mà từ ngày rời gia đình tôi vẫn mang theo trong lòng để có sức phấn đấu nơi quê người. Suốt mấy tháng, tôi sống thẫn thờ, tâm hồn tan nát, nước mắt tuôn tràn. Vào lúc tôi ở trong tận đáy của đau buồn thì Đức Mẹ đã soi dẫn tôi.

Nếu tôi nhớ không lầm thì sau khi điều đình với chồng tôi, và chúng tôi bàn nhau, dù tôi không rõ đón tượng Đức Mẹ để làm gì, nhưng chiều ý chồng tôi, tôi bằng lòng chuyện ấy. Chiều ngày 22/7/1995, bác Phổ đưa tượng Đức Mẹ đến nhà tôi, có thêm vài gia đình trong Khu xóm đến đọc kinh. Tôi không dự. Tượng Đức Mẹ ở lại nhà tôi một tuần. Tối nào chồng tôi cũng bế con, thắp nến cầu nguyện cách rất sùng kính trước tượng này. Tôi để mặc, không nghĩ gì.

Rồi hôm thứ Tư tuần đó, vào buổi trưa, sau khi đã dỗ cho 2 đứa bé ngủ, tôi ngồi một mình ở ghế sôpha nhìn lên tượng Mẹ, tâm hồn tôi trống vắng, nhìn mà không có chút ý tưởng nào hết. Đột nhiên, tôi như thiếp đi, không thấy gì nữa. Tôi nghe như có tiếng phụ nữ đang êm ái kể ra cho tôi ngững nguy nan tôi đã trải qua, và chỉ cho tôi biết Thiên Chúa đã quan phòng sắp xếp để che chở tôi. Tôi hỏi lại là Thiên Chúa biết việc tôi sao? Giọng người nữ đoan chắc điều đó. Rồi Người an ủi tôi, cho biết là mọi thử thách đã qua, còn khen tôi đã sống đẹp lòng Chúa …Tới đây tôi bừng tỉnh, tôi thấy mặt Đức Mẹ đẹp rạng ngời, ánh mắt tha thiết yêu thương như bao dung khích lệ. Tôi nhận ra ngay là vừa rồi chính Mẹ đã nói chuyện với tôi. Hồn tôi bừng tỉnh nhận ra là Người đã sinh ra tôi, tôi còn có người Mẹ thánh thiêng. Nước mắt tôi tuôn trào. Tôi đã khóc vì vui sướng, mà không thể diễn tả vui sướng chừng nào.

Tôi đã sốt sắng ghi tên vào lớp Dự tòng. Nay tôi đã tin. Tôi nhiệt thành học hỏi đạo Chúa. Thời gian thấm thoát, sau 6 tháng đã tới ngày vui: Ngày lễ mừng Chúa Phục sinh năm 1996, tôi đã được nhận Phép Rửa, chính thức gia nhập đạo Công giáo.Tôi tạ ơn Đức mẹ, cảm ơn các linh mục, và những ai đã giúp tôi nhập đạo Chúa. Tôi hãnh diện là người Công giáo. Nhớ lại câu chuyện “Vết chân trên cát”, rõ ràng là Chúa đã đi bên tôi những ngày đau khổ. Chúa đã không chấp tội tôi mưu nghịch lại đạo Chúa.

Bây giờ tôi say mê đạo lắm, thích đi lễ để nghe giảng dạy. Tôi rất yêu đời, yêu mái ấm gia đình nhỏ bé đang được Chúa che chở. Bây giờ tôi nhìn những người không sống đạo tử tế, tôi thấy tội nghiệp cho họ, mà không thấy khinh ghét như xưa.

==============================

33. Kinh xin ơn chết lành

KINH CẦU XIN MẸ ĐỒNG TRINH
ĐỂ ĐƯỢC ƠN CHẾT LÀNH

Ôi Maria là nơi nương ẩn dịu dàng của các tội nhân khốn nạn, khi linh hồn con sắp ra khỏi thế gian, con nài xin Mẹ, lạy Mẹ dịu dàng của con, vì niềm đau Mẹ chịu khi chứng kiến sự chết của Con Mẹ trên thánh giá, xin Mẹ tỏ lòng thương xót đến cứu giúp con.

Xin Mẹ đuổi xa con lũ địch thù hỏa ngục, và đem linh hồn con lên trước tòa Quan Án tối cao.

Lạy Nữ Vương chí ái, xin đừng bỏ con trong giây phút kinh hoàng này.

Xin cầu cùng Con Mẹ để Người thương ban cho con được chết đang khi ôm chân Mẹ, được trút hơi thở sau cùng đời con trong thương tích của Chúa, đang khi môi miệng con than thở rằng: Giêsu Maria, con dâng phó trái tim cùng linh hồn con trong tay Chúa và Mẹ. Xin đem con về nước Thiên đàng cùng Mẹ.

***********************************************

Theo sách Tháng Đức Bà, NXB. Hiện Tại, 1969

(mỗi ngày một bài, mỗi ngày một truyện)