Nụ Cười Trong Cung Lòng Thiên Chúa

(100 Câu Chuyện Vui Gợi Ý Suy Tư Và Cầu Nguyện của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu Radio Veritas Asia)

by Msgr. Peter Nguyễn Văn Tài - Radio Wahrheit

Nguồn: http://vntaiwan.catholic.org.tw/ 

BÀI 1 - 25

01 - NỤ CƯỜI TRONG CUNG LÒNG THIÊN CHÚA

Theo lời yêu cầu của các đệ tử, một vị linh sư Ấn Ðộ đã kể lại kinh nghiệm về các giai đoạn đời tu của ông như sau:


- Giai đoạn đầu tiên của ta là được Thiên Chúa cầm tay dẫn đến xứ sở của hoạt động. Ta đã ở lại đây nhiều năm.


Tiếp đó Ngài đã trở lại và đưa ta đến xứ sở của niềm đau. Tại đây trái tim của ta đã được thanh tẩy khỏi mọi dính bén với của cải trần thế.


Sau đấy Ngài dẫn ta đến miền đất của cô đơn. Ở đấy mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân ta đều bị thiêu hủy hết, và ta đã có thể đi vào xứ sở của thinh lặng. Trước mắt ta, mầu nhiệm của sự sống và của sự chết đều được tỏ bày.


Nghe thế các môn đệ bèn hỏi:


- Phải chăng thầy đã đạt tới giai đoạn cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của thầy?


Vị linh sư bình thản trả lời:


- Chưa đâu. Một ngày nọ Thiên Chúa đã nói với ta như sau:


"Lần này Ta đưa con vào thăm cung của đền thánh để con được đi vào cung lòng của Ta".


Thế là ta đã đến xứ sở của nụ cười.


*

*    *


Người Tây Phương thường nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn".


Niềm hoan lạc, sự vui tươi phải chăng không là nét cốt yếu trên khuôn mặt vị thánh?


Kinh Thánh đã nói: "Thiên Chúa là đấng làm hoan lạc tuổi xuân con". Thiên Chúa làm cho con những hoan lạc bởi vì Ngài chính là niềm vui. Ði vào cung lòng Thiên Chúa là tìm được nụ cười muôn thủa của niềm hân hoan đó.


Nụ cười không chỉ là biểu hiệu của niềm vui. Nó còn là một thách thức trong một hoàn cảnh bi đát. Ðó là nụ cười của bà Sara, bật lên giữa cảnh già nua son sẻ. Thực tế, khi Thiên Chúa cho bà biết sẽ thụ thai mặc dầu đã già lão, thì bà Sara đã bật cười.


Thiên Chúa thường khơi dậy những nụ cười như thế. Tư tưởng của Ngài, hành động của Ngài đều là những nghịch lý đối với con người.


Là lời của Thiên Chúa, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng là sự nghịch lý nhập thể. Cả cuộc sống, lời rao giảng, nhất là cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là một chuỗi những nghịch lý trước con mắt của người đời.


Người đời chạy theo tiền của, danh vọng quyền bính, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố: "Phúc cho những ai nghèo khó".


Người đời thích gây bạo động và hận thù, Chúa Giêsu lại dậy: "Phúc cho những ai hiền lành và xây dựng hòa bình".


Người đời cho rằng cái chết là một bất hạnh tột cùng, là tận điểm của cuộc sống, là kết liễu của tất cả. Chúa Giêsu lại dậy: đó là khởi đầu của hạnh phúc, là cửa ngõ đưa tới sự sống lâu dài.


Thánh Phaolô đã diễn tả cái nghịch lý cao vời ấy của Thiên Chúa bằng lời khẳng định sau đây:


"Ðiều mà thế gian cho là yếu hèn, thì đó lại chính là sức mạnh của Thiên Chúa... Những gì người đời cho là điên dại, thì đó chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa".


Ðấy cũng phải là xác tín của chúng ta. Với niềm xác tín ấy chúng ta sẽ vượt qua được con đường đầy nghịch lý giữa cuộc sống trần gian này để đạt tới cung lòng của Thiên Chúa, ở đó chúng ta sẽ gặp được nụ cười muôn thủa diễn tả niềm hạnh phúc vô biên của Ngài dành sẵn cho chúng ta.



02 - THÍCH XEM DẤU LẠ

Như Thánh Phaolô xác nhận trong thư gửi tín hữu Côrintô đoạn 1 câu 22, dân Do thái xưa kia thích đòi xem dấu lạ. Ðây là một đặc tính của dân tộc này. Họ luôn thách thức những ai tự xưng là bậc thầy, nhất là những ai tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa làm những dấu lạ để minh chứng cho sứ điệp mình rao giảng.


Trích các sách về những câu chuyện của các thầy Rabi, ông Ê-đơ-xên đã ghi lại một số giai thoại có vẻ hoang đường về những dấu lạ các thầy Rabi đã thực hiện. Một trong những giai thoại đó mang nội dung như sau:


Ðược các môn đệ hỏi về thời gian đấng Mes-si-a sẽ đến, một thầy Rabi trở lời:


- Tôi ngại là các bạn sẽ đòi tôi làm một dấu lạ để minh chứng lời tôi nói.


Khi các môn đệ hứa sẽ không xin thầy làm dấu lạ, thầy Rabi trả lời:


- Cửa thành Rôma sẽ bị sụp đổ, sẽ được tái thiết, và vẫn tiếp tục bị đổ vỡ rồi được trùng tu cho đến khi nào cửa thành này không được xây dựng lại nữa, lúc đó con vua Ðavít sẽ đến.


Nhưng sau câu trả lời này, quên lời đã hứa, các môn đệ nhất quyết ép buộc thày Rabi phải làm một dấu lạ để làm chứng về lời mình vừa tuyên bố.


Và dấu lạ được làm cho họ là nước chảy ra từ một hang núi ở vùng Ba-ni-as đã biến thành dòng máu đỏ.


*

*    *


Trong thời kỳ Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Ngài cũng không thoát khỏi thông lệ bị người Do thái thách thức làm dấu lạ để minh chứng những lời Ngài rao giảng và nhất là làm chứng về con người của Ngài.


Khi đòi xem những dấu lạ, dân Do Thái xưa kia muốn nối kết những dấu lạ này với niềm tin tôn giáo. Nhưng cũng trên bình diện tôn giáo và niềm tin này, sở thích đòi xem dấu lạ của họ xây dựng trên một cơ sở hoàn toàn sai lầm. Vì họ quan niệm và chỉ muốn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa và các công việc của Ngài xuất hiện trong những hoàn cảnh xa lạ, bất thường. Họ quên rằng Thiên Chúa đang ở bên cạnh chúng ta, và Ngài không ngừng tỏ mình ra trong những biến cố thông thường của cuộc sống hằng ngày. Nhất là sau khi Thiên Chúa sai Con Một nhập thể để sống cuộc sống nhân loại trong lòng xã hội loài người.


Kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể và giáng thế, chính Ðức Giêsu là dấu lạ của Thiên Chúa. Những dấu lạ khác Ngài làm chỉ có mục đích duy nhất là minh chứng về sự thật này: Ðức Giêsu là dấu lạ của Thiên Chúa. Hay nói rõ hơn: Ðức Giêsu là dấu lạ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một tình yêu thôi thúc Ðức Giêsu kết liễu cuộc đời mình trên đồi Canvê, chết treo trên thập giá để mãi mãi thập giá Chúa Giêsu sẽ là dấu nhắc nhở và minh chứng độ dài và chiều sâu của mối tình Thiên Chúa yêu thương chúng ta.



03 - PHÁT MINH HAY NHẤT

Nhân lúc rảnh rỗi công việc đồng áng, ba nông dân cùng vừa uống trà vừa bàn chuyện với nhau. Một người trong nhóm bỗng hỏi:


- Này các anh, theo ý các anh thì hiện nay phát minh nào hay nhất thế giới?


Không chút do dự, anh nông dân lớn tuổi nhất trả lời:


- Theo ý tôi, thì phát minh hay nhất thế giới là phát minh ra máy in cách đây nhiều trăm năm. Vì nhờ máy in mà con người khắp nơi trên mặt đất này có sách báo để đọc. Nhờ máy in mà trí thức con người từ thế hệ này có thể truyền thông qua thế hệ khác.


Anh nông dân này chưa hết lời khen ngợi những công tác bổ ích của chiếc máy in thì người thứ hai vội ngắt lời:


- Nhưng theo ý tôi thì phát minh hay nhất thế giới là phát minh ra điện lực. Vì nhờ điện lực mà con người có ánh sáng soi ban đêm. Có thể sử dụng điện lực để chạy các thứ máy, phát triển kỹ nghệ. Tất cả mọi máy móc kỹ thuật đều cần điện để hoạt động. Nếu không có điện thì mọi sự sẽ như chết tại chỗ.


Nhưng người thứ ba, kẻ đã có sáng kiến đặt ra câu hỏi, liền góp ý:


- Ðành rằng điện là nguồn năng lượng cần thiết cho tất cả mọi người, mọi máy thứ máy móc. Nhưng theo tôi nghĩ thì đó không phải là phát minh hay nhất. Phát minh hay nhất đối với tôi là cái bình thủy. Ðể đồ ăn nóng vào thì nó biết giữ lấy sức nóng. Mà hễ bỏ đồ lạnh vào thì nó cũng biết giữ lạnh hoài. Ðó không phải là phát minh hay nhất sao?


*

*    *


Mỗi người chúng ta có thể tham dự vào cuộc trao đổi với ba nông dân trên. Mỗi người chúng ta có thể biện hộ cho một thứ phát minh nào đó hay nhất thế giới theo quan điểm của mình. Và cuộc bàn cãi có thể kéo dài vô tận.


Chúng ta cũng có thể dừng lại suy nghĩ thêm và cho rằng phát minh hay nhất thế giới và có thể nói được là cổ nhất thế giới chính là phát minh ra con người, chính là sự tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa để con người được hiệp thông với Thiên Chúa, chia sẻ đời sống vĩnh cửu với Ngài.


Ðầu óc thông minh của con người đã phát minh ra tất cả mọi thứ máy móc, mọi kỹ thuật đang sử dụng, và sẽ còn phát minh ra nhiều kỹ thuật tối tân hơn nữa trong tương lai. Vậy thì việc tạo dựng con người không phải là một phát minh hay ho nhất sao? Và Ðấng Tạo Hóa, đấng đã ban cho con người một bộ óc thông minh như vậy, một bộ óc không ngừng sáng tạo ra những điều tốt đẹp để phục vụ đời sống con người, đấng đó lại không đáng chúng ta kính phục, tôn thờ sao?


Có bao giờ chúng ta dâng lời cảm tạ Ngài vì đã tạo dựng sự sống, vì đã tạo dựng con người, vì đã ban cho chúng ta được sống trên trần gian này không?


Hết lòng thán phục, biết ơn và yêu mến, chúng ta hãy cùng tác giả "Thánh Vịnh 138" thân thưa Ngài:


"Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,


Công trình Ngài kỳ diệu xiết bao!"


(TV 138)



04 - NỖI THAO THỨC CỦA MỘT TẬP SINH

Ngày kia, một tập sinh đến hỏi Ðức Viện Phụ cao niên của đan viện:


- Thưa cha, xin cha giúp con vài lời khuyên để con thực sự trở thành người của Chúa.


Vị Viện Phụ già trả lời:


- Con hãy vào phòng, đóng kín cửa lại và cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ dạy con mọi sự.


Thầy tập sinh lại hỏi:


- Thưa cha, đâu là điều kiện chính giúp cầu nguyện đích thực?


- Ô, dĩ nhiên, đó là bầu khí yêu thương. Ai cầu nguyện với tội lỗi và tâm tình thù hận trong lòng thì cũng giống như một người dọn thức ăn thịnh soạn trên một cái dĩa bẩn hay như một người nói hay nhưng hơi thở hôi thối.


Thầy tập sinh lại hỏi tiếp:


- Thưa cha, con rất hay chia trí khi cầu nguyện. Làm sao để khỏi chia trí đây?


Ðức Viện Phụ đáp:


- Các chia trí cũng giống như chim sẻ bay ngang trên trời. Con không thể ngăn cản chúng bay qua mái nhà con ở. Nhưng con có thể ngăn cản không cho nó làm tổ trên mái nhà của con chứ? Riêng đối với những tư tưởng xấu xa thì chúng giống như bọn ong bầu. Nếu con ngồi yên, chúng sẽ bay đi nơi khác. Nhưng nếu con càng động đậy, chúng sẽ càng bổ nhào đến hành hạ con.


Thầy tập sinh lại hỏi thêm:


- Tại sao khi cầu nguyện con lại hay bị chán nản ngã lòng, thưa cha?


- Bởi vì con chưa thấy đích điểm đời mình là gương mặt tuyệt vời của Thiên Chúa.


- Thưa cha, cho con hỏi câu cuối cùng: Lời cầu nguyện có quan trọng thật không? Nó có quan trọng hơn hành động không?


- Quan trọng lắm chứ. Bằng chứng là ma quỉ hằng tìm mọi cách để quấy phá và khiến cho lời cầu nguyện trở nên nặng nề. Nó tìm mọi phương thế khiến cho chúng ta ươn lười không muốn cầu nguyện và làm cho chúng ta tin rằng cầu nguyện là vô ích.


*

*    *


Ðược Thiên Chúa phái đến trong sứ vụ cứu thế cải tạo con người và đổi mới trần gian, Chúa Giêsu đã sống như con người của lời cầu nguyện. Ðối với Chúa Giêsu, cầu nguyện là cách thế sống mối liên hệ yêu thương thân tình với Thiên Chúa trong sứ mệnh cứu độ trần gian của Ngài. Gương mẫu của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: cầu nguyện là điều quan trọng bậc nhất cho sứ mệnh làm người. Muốn cách mạng cuộc đời, muốn thay đổi thế giới, hãy cầu nguyện, và hãy trở thành những con người biết cầu nguyện.


Ơn gọi của Kitô hữu là ơn gọi trở thành cây thu lôi. Khi sống trung thực ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình bằng một đời sống kết hợp thân tình với Chúa, một đời sống cầu nguyện chân thành, chúng ta sẽ kéo ơn lành của Chúa xuống trên mọi người khác, và tránh cho thế giới khỏi những tai ương do chính cuộc sống tội lỗi gian ác của con người gây ra.



05 - BUỔI TRÌNH DIỄN KHÔNG ÐẠT

Một nghệ sĩ trẻ tuổi đang trình diễn đàn dương cầm trước cử tọa ngồi chật cả thính phòng. Tất cả đều im lặng như nín thở để theo dõi từng nốt nhạc.


Theo lời quảng cáo, thì đây là lần trình diễn đầu tiên để giới thiệu một tài năng mới. Những ngón tay đẹp của nghệ sĩ không ngừng di động trên các phím đàn, hòa điệu với những âm thanh trầm bổng của dòng nhạc.


Bản đàn vừa chấm dứt, tất cả mọi người đứng dậy vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Và nhiều giọng nói yêu cầu của cử tọa xin trình diễn tiếp thêm nữa. Phải, tất cả mọi người đều đứng dậy bày tỏ lòng hâm mộ. Nhưng chỉ trừ có một cụ già ngồi ở hàng ghế đầu có thái độ khác. Cụ không đứng dậy vỗ tay tán thưởng, mà vẻ mặt lại để lộ chút không vui.


Trong khi đó trên sân khấu chàng nghệ sĩ trẻ tuổi rời dương cầm, bước ra ngoài tấm màn lớn đang từ từ kéo lại, cúi sâu chào khán thính giả, rồi vội vàng ẩn mình vào trong.


Chàng đến nhanh bên ông giám đốc tổ chức cuộc trình diễn, nói nhỏ:


- Không, tôi trình diễn chẳng hay gì cả, nhưng tệ lắm.


Ông giám đốc trả lời:


- Anh lầm rồi, mọi người vỗ tay hoan hô anh lâu như thế, mà anh bảo trình diễn dở nghĩa là làm sao?


Chàng nghệ sĩ trẻ nói tiếp:


- Không, tôi trình diễn không đạt. Ông có biết cụ già ngồi ngay hàng ghế đầu đấy không? Cụ là thầy dậy của tôi đó. Cụ không đứng dậy hoan hô, mà vẻ mặt còn có chút buồn nữa. Ðó là dấu hiệu cho tôi biết chắc chắn là tôi chưa trình diễn hay đủ.


*

*    *


Có thể so sánh cuộc đời mỗi người chúng ta với cuộc trình diễn của chàng nghệ sĩ này.


Thiên Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta những tài năng khác nhau, và đã ban cho nhiều ơn, nhiều phương thế để huấn luyện ta sử dụng những tài năng ấy cho tốt đẹp, làm trổ sinh những hoa trái bổ ích. Cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đã sử dụng những tài năng đó phục vụ anh chị em chung quanh. Có thể anh chị em lên tiếng khen tặng ta, kính phục ta, hoan hô ta, như những khán thính giả từ ngoài nhìn vào.


Nhưng, như chàng nghệ sĩ kia chỉ nhìn vào thái độ của thầy mình để xem mình đã trình diễn đạt hay chưa, thì mỗi người người chúng ta cũng vậy, chúng ta cần nhìn lên Chúa để xem mình đã sống cuộc sống của mình một cách thành đạt chưa.


Chỉ có phán xét của Thiên Chúa là công bằng, không thiên tư. Ngài là vị Thiên Chúa ẩn khuất, nhưng Ngài thấu suốt mọi sự, mọi hành động của chúng ta. Chỉ mình Ngài mới đánh giá đúng từ bên trong. Chúng ta cần qui chiếu về Ngài, về những lời dậy của Ngài được ghi trong sách Phúc Âm, để có thể biết mình đã sử dụng những tài năng Chúa ban cách tốt đẹp nhất chưa.


Ước chi mỗi ngày, mỗi giây phút trong cuộc sống, chúng ta đặt mình trước nhan Ngài sống trong sự hiện diện của Ngài và dâng mọi hành động lớn nhỏ cho Ngài.


Mỗi người chúng ta hãy nhớ rằng, vào phút cuối đời, khi chúng ta xuất hiện trước nhan Ngài cách vĩnh viễn, thì lúc đó, như trong Phúc Âm Ngài đã kể, Ngài sẽ phán xét các hành động của ta theo mẫu mực lối sống yêu thương.


"Những gì chúng con làm cho một trong các anh em bé nhỏ của Ta đây, là chúng con đã làm cho chính Ta".



06 - LỜI CẦU HÒA BÌNH

Chuyện xảy ra tại Ben-phát bên Ai-lên như sau:


Một linh mục công giáo, một mục sư tin lành, và một giáo trưởng Do thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói:


- Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.


Thế là vị mục sư tin lành liền khẩn cầu.


- Xin Chúa cho tất cả mọi người công giáo biến khỏi mãnh đất Ai-lên thân yêu này thì hòa bình sẽ trở lại tức khắc.


Vị linh mục công giáo thì cầu nguyện:


- Xin đừng để cho một người tin lành nào còn có mặt trên mãnh đất Ai-lên thân yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.


Vị giáo trưởng Do thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:


- Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?


Ông ta liền thưa:


- Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.


*

*    *


Câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại. Ðó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên.


Cuộc chiến đẫm máu giữa tin lành và công giáo tại Âu Châu vào thế kỷ 16, cuộc huynh đệ tương tàn giữa tin lành và công giáo tại Ai-lên hiện nay, cuộc nội chiến tại Nam Tư... cho thấy con người chém giết nhau chỉ vì niềm tin tôn giáo.


Ma-hat-ma Gan-đi, người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gan-đi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.


Con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Ðế của mình để bách hại và loại trừ người khác.


Thời Chúa Giêsu, những người biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ mọi người, nhất là những kẻ bé mọn, những người tội lỗi, những người dân ngoại.


Loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Ðược sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài.


Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Sống trong một xã hội đa diện, chúng ta được mời gọi tôn trọng và đón nhận những khác biệt của tha nhân. Nhất là không ngừng tha thứ cho những lầm lỗi của người anh em.


Sống như thế, chúng ta mới thực sự là chứng nhân của tình yêu, của một Thiên Chúa luôn luôn khoan dung và tha thứ cho mọi người.



07 - TẠI SAO LẠI CƯỜI

Vis-nu là một trong những vị thần rất được người theo Ấn Giáo thờ kính. Những người có một niềm tin sâu sắc đều nhận ra thần Vis-nu trong tất cả mọi sự.


Một tín đồ nọ sống rất siêu thoát. Nhưng ông lại bị những người khác coi như là một người khờ dại.


Ngày kia, sau khi đã khất thực trong một ngôi làng, người tín đồ thánh thiện này ra trước cổng làng và ngồi bên vệ đường để ăn những của thiên hạ bố thí.


Ðang lúc ông dùng bữa thì một con chó đói từ đâu chạy tới. Người tín đồ bèn dành phần lương thực của mình cho con chó. Không mấy chốc người và vật trở nên đôi bạn thân.


Thấy cảnh kỳ lạ, dân chúng trong làng đổ xô đến xem. Nhưng một người trong đám đông lên tiếng:


- Có gì lạ khiến chúng ta phải mất giờ đến xem. Người này chỉ là một tên khờ khạo. Bởi vì hắn không phân biệt được người với thú vật.


Nghe thế, nhiều kẻ phá lên cười chế diễu, còn người thánh thiện điềm tĩnh trả lời:


- Tại sao các ngươi lại cười? Các ngươi không thấy rằng Vis-nu đang ngồi bên cạnh Vis-nu sao? Các ngươi không thấy rằng Vis-nu đang cho ăn và Vis-nu đang được cho ăn sao? Tại sao các ngươi lại cười, hỡi các Vis-nu?


*

*    *


Câu chuyện trên đây có thể là một bài học về đức tin. Thiên Chúa đến với con người trong những cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống. Ðể nhận ra Chúa, con người cần phải vượt qua cái nhìn hẹp hòi, gò bó trong những ý niệm quen thuộc của mình.


Những người đồng hương Nazarét có lẽ đã nghe đồn thổi về tiếng tăm của Chúa Giêsu và họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe Ngài phát biểu trong hội đường của họ nhân một lần Ngài trở về thăm quê. Sự khôn ngoan của Ngài mà họ đã chứng kiến tận mắt, những phép lạ mà Ngài đã thực hiện tại một vài nơi, những thành tích này làm dấy lên trong đầu họ một câu hỏi: "Phải chăng Ngài không phải là đấng cứu tinh mà Thiên Chúa hứa gửi đến cho dân tộc?"


Và người ta bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học. Họ dở Kinh Thánh ra và thấy nói rằng Ðấng cứu tinh xuất thân từ một nơi khác chứ không phải là người làng nghèo nàn tăm tối như Nazarét. Họ điều tra về nguồn gốc của Chúa Giêsu và thấy rằng cha mẹ Ngài, anh em, dòng họ, bà con của Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn.


Với cách suy nghĩ và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương của Chúa Giêsu đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Ngài đã là một màn chắn khiến những người Nazarét không tin nhận Chúa Giêsu.


*

*    *


Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó hẹp hòi của chúng ta, và không ngừng nhận ra Ngài vẫn tiếp tục hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.


Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất ngờ và nghịch thường nhất.


Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những kẻ thấp hèn, những kẻ bất hạnh và ngay cả nơi những kẻ thù ghét chúng ta.



08 - VỊ QUỐC VƯƠNG LIÊM CHÍNH

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Cô-ca-dơ ở phía nam nước Nga được cai trị bởi một vị quốc vương hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham những, hối lộ.


Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.


Ðiều không may xảy ra cho ông, đó là, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.


Liên tiếp ba ngày liền mà nhà vua giam mình trong lều của ông. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.


Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Ðúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.


Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:


- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội ác này.


Kể từ đó, trong vưong quốc này, người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.


*

*    *


Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ.


Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ con người. Cũng như vị quốc vương Hồi giáo trên đây đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước. Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.


Thiên Chúa là đấng cứu độ. Ðó là tước hiệu quen thuộc nhất mà Thiên Chúa đã bày tỏ cho dân Do thái. Biến cố quan trọng nhất qua đó người Do thái nhận ra Thiên Chúa là đấng cứu độ của mình chính là cuộc giải phóng cha ông họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập. Biến cố ấy cũng được người Do thái xem như là một hình ảnh tiên báo một cuộc giải phóng chung cục mà Thiên Chúa sẽ thực hiện.


Qua tiếng nói của không biết bao nhiêu trung gian thường gọi là ngôn sứ, Thiên Chúa luôn hướng niềm hy vọng của người Do thái đến cuộc giải phóng chung cục ấy. Và Chúa Giêsu đã đến thực hiện cuộc giải phóng đó, cuộc giải phóng không chỉ dành riêng cho người Do thái, mà còn cho toàn thể nhân loại nữa.


Tên Giêsu của Ngài trong tiếng Do thái có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Duy chỉ một mình Ngài, đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người mới có thể cứu độ con người.



09 - MÔI-SÊ THỤ GIÁO

Có người đã kể về Môi-sê như sau:


Trước khi được sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ bên Ai cập, Môi-sê đã đến thụ giáo với một vị thầy nổi tiếng tại vùng núi Ma-đi-an.


Qui luật tối thượng mà vị này buộc Môi-sê phải giữ trong suốt thời gian thụ huấn là tuyệt đối giữ thinh lặng.


Ngày ngày thầy trò cùng ngao du sơn thủy. Ðứng trước núi non hùng vĩ và bao vẻ đẹp của thiên nhiên, Môi-sê cảm thấy không gì dễ và thích thú cho bằng được ở thinh lặng.


Thế nhưng, một hôm, khi hai thầy trò đang đi dọc theo bờ biển, Môi-sê bỗng thấy một bé trai đang chới với trong nước, và người mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi. Môi-sê không thể giữ im lặng được trước một cảnh tượng như thế. Ông cất tiếng hỏi thầy:


- Thưa thầy, thầy không làm gì để cứu đứa bé sao?


Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng rồi tiếp tục đi.


Môi-sê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào. Ông cứ suy nghĩ tại sao thầy mình lại nhẫn tâm như thế? Ði được một đoạn Môi-sê bỗng dừng lại giơ tay chỉ ra biển và nói với thầy:


- Thầy nhìn kìa, cả một chiếc thuyền chở đầy người đang đắm kìa!


Lại một lần nữa Môi-sê được thầy ra lệnh giữ thinh lặng và tiếp tục đi, như thế họ không cần phải quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt.


Tâm hồn nhạy cảm của Môi-sê càng bối rối thêm nữa. Ông đưa chuyện ấy thưa với Chúa và muốn biết tại sao thầy mình đã cư xử như vậy. Chúa đã biện minh cho cử chỉ của thầy như sau:


- Thầy của con hoàn toàn có lý. Ðứa bé chới với bên bờ biển chỉ là một dàn cảnh để khai mào một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc. Còn chiếc thuyền đang đắm ngoài khơi là thuyền của một bọn cướp đang chuẩn bị tấn công một ngôi làng ven biển.


Thầy của con đã có lý, để giữ con đứng bên ngoài những hành động tội ác ấy.


*

*    *


Tư tưởng và hành động của Thiên Chúa thường không giống với tư tưởng và hành động của con người.


Thánh Kinh kể lại rằng Môi-sê đã được nuôi dưỡng trong triều đình Ai cập, nhưng ông vẫn luôn ý thức được nguồn gốc Do thái của mình.


Một hôm chứng kiến cảnh một người Ai cập hành hạ một người Do thái. Nhìn chung quanh không thấy có ai, Môi-sê đã ra tay giết chết người Ai cập rồi vùi xác người đó dưới cát. Ngày hôm sau thấy hai người Do thái đang xâu xé nhau, Môi-sê đến can thiệp. Nhưng một trong hai người đã đe dọa tố cáo ông về tội giết người Ai cập hôm trước. Bị bại lộ, Môi-sê đành rời bỏ cung điện và trốn lên núi.


Môi-sê đã tưởng mình hành động đúng. Ông không biết rằng Chúa đang có một chương trình, một kế hoạch đòi hỏi ông phải suy nghĩ, chờ đợi và kiên nhẫn hơn.


Sống đức tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Thiên Chúa. Qui luật tối thượng của cuộc hành trình ấy chính là thinh lặng.


Thinh lặng trước những ồn ào, dành dật của cuộc sống. Thinh lặng trước những đam mê sôi sục và những tính toán đê hèn.


Thinh lặng để không ngừng lắng nghe tiếng Chúa trong từng giây phút, từng biến cố của cuộc sống.



10 - CUỘC THỬ THÁCH CAM GO

Một bà đạo đức kia rất có lòng quí mến và tôn trọng các vị tu hành. Bà đã nhận chu cấp cho một đệ tử có chí nguyện từ bỏ cuộc sống trần gian để dấn thân theo con đường tu thân tầm đạo.


Suốt hai mươi năm trường, bà không ngừng chăm lo và khuyến khích vị tu sĩ trẻ gắng công tu trì, tĩnh niệm, chuyên cần tìm hiểu Phật pháp. Trong một khu vườn thanh tịnh âm u, xa khuất mọi tiếng ồn ào cõi thế, bà dựng một tịnh xá để ngày đêm vị tu sĩ chuyên tâm tu luyện.


Hai mươi năm trôi qua, một ngày nọ người đàn bà đạo đức ấy muốn biết công trình tu thân luyện đức của nhà sư đã đạt tới mức độ nào, bà liền ra một cuộc thử thách thật cam go.


Bà nhờ một thiếu nữ xinh đẹp giúp bà trong cuộc thử thách này. Ðúng nửa đêm khi nhà sư đang trầm ngâm trong tĩnh niệm, thiếu nữ liền đẩy cửa tịnh xá tiến vào trước mặt nhà sư và bày cách cám dỗ ông. Ðôi mắt nhìn xuống, nét mặt thanh thản, nhà sư vẫn bất động.


Nhưng sau một hồi lâu, như không thể cầm được nữa, nhà sư liền nắm cây chổi quất lia lịa vào người thiếu nữ và xua đuổi nàng ra khỏi tịnh xá.


Khi nghe nàng kể lại sự kiện, người đàn bà đạo đức buồn rầu hỏi nàng:


- Thế ra hắn không nói với con được một lời cảm thông ư? Hắn không tỏ dấu gì là một tâm hồn đã siêu thoát và tự chủ ư?


Rồi bà thất vọng thốt lên:


- Ôi, hai mươi năm trường tu luyện, thật vô ích! Hai mươi năm ân cần săn sóc và mong đợi của ta, thật uổng phí!


*

*    *


Thánh Kinh thường dùng từ "thử thách" theo một nghĩa chủ động. Thử thách có nghĩa là tìm cách để xem thực chất của một người như thế nào, vượt qua cái dáng vẻ bề ngoài của họ. Theo nghĩa chủ động này, Thánh Kinh kể lại nhiều trường hợp Thiên Chúa thử thách con người, để xem lòng dạ thật của con người đối với Ngài ra sao. Ngài cũng thử thách con người để thanh tẩy và ban cho con người sự sống.


Trong Thánh Kinh có hai trường hợp nổi bật về thử thách của Thiên Chúa. Trường hợp thứ nhất là việc Thiên Chúa thử thách ông A-bra-ham, khi ra lệnh cho ông đem con một mình là Isa-ac lên đỉnh núi sát tế cho Ngài.


Trước khi thực hiện lời hứa, Ngài muốn con người tin tưởng phó thác nơi Ngài, muốn con người huấn luyện ý chí của họ tùng phục thánh ý Ngài.


Trường hợp thứ hai được kể lại trong sách ông Gióp. Thiên Chúa đã dùng đau khổ hoạn nạn tột cùng để thử lòng tin của ông.


Thiên Chúa cho phép những đau khổ, hoạn nạn xảy ra để thanh tẩy lòng tin cậy mến của con người đối với Ngài.


Trong sách Giu-đích chương 8 câu 25 và tiếp theo, bà Giu-đích đã khuyến khích những bậc kỳ mục trong dân Israel hãy cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã thử thách họ như đã thử thách cha ông của họ. Bà nói lên một nguyên tắc căn bản cho đời sống thiêng liêng của những ai tin tưởng vào Giavê Thiên Chúa, đó là Thiên Chúa càng gần gũi ai thì Ngài càng thử thách người ấy. Thử thách là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người.



11 - TỰ MÌNH TẠO RA PHÉP LẠ

Một trong những cuốn phim của Pháp có doanh thu cao trong thập niên 70 là phim "Người mang mặt nạ vàng". Phim được dàn dựng theo một câu chuyện có thật tại Mê-hi-cô xẩy ra cách đây vài năm.


Tại đây thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Ðó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể đeo mặt nạ trong khi đấu võ.


Một linh mục ở nước này tên là Ga-ê-ta-nô đang lãnh đạo một nhóm các bạn trẻ làm công tác xã hội chuyên lo giúp các trẻ em nghèo. Ðể có thêm tiền cho mục đích trên, cha Ga-ê-ta-nô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.


Với một thân hình to lớn, thông thạo võ nghệ và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài cha Ga-ê-ta-nô mang một mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những địch thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao lãnh được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ của trẻ em nghèo.


Từ đó chiếc mặt nạ vàng đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Ga-ê-ta-nô.


Giăng Rê-nô người đóng vai linh mục Ga-ê-ta-nô trong cuốn phim nói trên, đã phải đọc kinh thánh và tạo cho mình những tâm tư của một linh mục để có thể diễn xuất cách nhuần nhuyễn. Anh đã thố lộ:


"Việc đọc Kinh Thánh làm cho tôi gặp gỡ được Thiên Chúa, và nói với Ngài những điều mà trước đây tôi chưa từng nói với ai".


Lần kia cậu con trai của Rê-nô hỏi anh:


- Bố ơi, bố có thể tạo nên phép lạ không?


Anh trả lời:


- Phép lạ chính là những gì con phải tự mình tạo nên.


*

*    *


Phép lạ chính là những gì con người tạo nên. Hay đúng hơn, phép lạ chính là những gì Thiên Chúa tạo nên nhờ sự cộng tác và đóng góp của con người.


Trên vạn nẻo đường của con người Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ họ. Phép lạ diễn ra kể từ lúc con người mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài. Chỉ cần một chút quảng đại và đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.


Năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé biểu trưng của một lòng quảng đại cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi sống hơn năm ngàn người.


Cho dù chỉ là một chút quảng đại, thì sự quảng đại đích thực nào cũng đòi nơi con người hy sinh., mất mát. Cho là cho trọn vẹn, dù mình chỉ có rất ít để cho.


Câu chuyện của vị linh mục võ sĩ trên đây như muốn nói với chúng ta rằng cho đích thực là không tính toán, không so đo, không sợ bị thương tích.


Linh mục Ga-ê-ta-nô đã thực hiện trọn vẹn ơn gọi linh mục của mình. Linh mục là người phải sống hoàn toàn cho người khác.


Trong Ðức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là được mời gọi để sống cho tha nhân. Lòng quảng đại và sự đóng góp của họ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ.



12 - TIẾN BỘ ÐÍCH THỰC

Có một tu sĩ rất quan tâm đến những bước tiến trên đường thiêng liêng của mình. Hàng tháng tu sĩ ấy trung thành viết một bản báo cáo rồi trao cho vị linh sư.


Sau một tháng luyện tập tu sĩ ấy ghi lại:


"Tôi cảm thấy như được nên một với vũ trụ".


Hài lòng với tiến bộ đó, người tu sĩ trình kết quả lên thầy mình. Nhưng vừa liếc qua bản báo cáo, vị linh sư cầm lấy tờ giấy và ném vào sọt rác.


Tháng sau, người tu sĩ ghi trong bản báo cáo:


"Cuối cùng tôi đã nhận ra rằng Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi sự".


Một lần nữa anh cảm thấy rất thỏa mãn về thành tích này. Anh vội vã mang tờ báo cáo lên trình cho vị linh sư.


Nhưng cũng như lần trước, vị linh sư không hề quan tâm gì đến bản báo cáo của người đệ tử.


Cảm thấy mình chưa tu luyện kỹ, người tu sĩ trở về và quyết tâm luyện tập nhiều hơn.


Trong bản báo cáo lần thứ ba tu sĩ ấy ghi:


"Mầu nhiệm của Ðấng Ðộc Nhất và của vạn vật đã được mặc khải trong cái nhìn của tôi".


Một lần nữa, xem qua bản báo cáo, vị linh sư lại xé nát tờ giấy và ném vào sọt rác.


Thêm một tháng dầy công tu luyện nữa, lần này người tu sĩ như cảm thấy được giác ngộ hoàn toàn. Anh ghi lại như sau:


"Không ai sinh ra, không ai sống, và cũng không ai chết. Bởi vì cái tôi không hiện hữu".


Lại một lần nữa vị linh sư xem bản báo cáo và bắt đầu thất vọng.


Nhưng dĩ nhiên kẻ thất vọng hơn cả vẫn là người tu sĩ.


Ngày tháng trôi qua, người tu sĩ đó không còn cảm thấy hứng thú và nhu cầu ghi lại những tiến bộ của mình nữa.


Ðúng một năm sau, vị linh sư gửi giấy đến yêu cầu tu sĩ báo cáo về tình trạng thiêng liêng của mình. Người tu sĩ liền phúc đáp như sau:


"Thưa thầy, con cảm thấy không cần phải nghĩ đến điều ấy nữa".


Ðọc xong những lời đó, vị linh sư mỉm cười thốt lên:


- Tạ ơn Chúa! Thế là cuối cùng anh ta đã hiểu được thế nào là tiến bộ trên đường thiêng liêng.


*

*    *


Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về thái độ cơ bản mà các môn đệ Chúa Kitô phải có: đó là lòng tín thác nơi Thiên Chúa.


Dĩ nhiên, đức tin không có việc làm là đức tin chết. Một cuộc sống đạo đích thực luôn được thể hiện bằng những nhân đức, những cố gắng cầu nguyện, tham dự phụng vụ, thực thi bác ái. v.v...


Thế nhưng, Kitô giáo cốt yếu không phải là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ, phải thực hành. Quan niệm Kitô giáo như thể để đưa người tín hữu đến thái độ tính toán, so đo, tự phụ. Sống đạo để trở thành một thứ biểu dương bên ngoài.


Chúa Giêsu đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo. Ðạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người. Sống đạo chính là đón nhận tình yêu ấy, và đáp trả với tất cả lòng tín thác, quảng đại và trung thành.



13 - PHO TƯỢNG ÐÁ

Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo có câu chuyện sau đây:


Bẩy vị ẩn tu nọ kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai-cập. Phía trước ngôi đền có một pho tượng đá. Ðây là pho tượng duy nhất còn sót lại sau khi ngôi đền bị cướp phá.


Vị cao niên trong bảy tu sĩ ấy tên là Ðu-bô. Ông được anh em bầu lên làm bề trên của cộng đoàn.


Ðể dạy cho anh em một qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi buổi sáng ông ra đứng trước pho tượng, nhặt một hòn đá ném mạnh vào đó. Rồi chiều đến ông lại trở ra đứng trước pho tượng và lớn tiếng xin lỗi vì hành động ném đá của ông.


Cử chỉ khác thường của vị bề trên ấy kéo dài trong một thời gian khá lâu.


Một ngày kia, không còn làm chủ được tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy.


Vị bề trên đã trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau:


- Khi tôi ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không?


Người kia trả lời:


- Thưa, không.


Vị bề trên hỏi tiếp:


- Buổi chiều khi tôi đến xin lỗi, pho tượng ấy có để lộ xúc động nào không?


Người anh em cũng trả lời:


- Thưa, không.


Bấy giờ vị bề trên mới giải thích:


- Anh em thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong cộng đoàn. Nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta cũng hãy sống như pho tượng này.


Ðừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người trong anh em xúc phạm đến mình. Và cũng đừng ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi có người đến xin lỗi mình.


Lời khuyên trên đây của vị bề trên đã được mọi người vui vẻ đón nhận. Và từ đó họ sống với nhau trong hòa thuận, an bình.


*

*    *


"Hãy để cho tôi yên!" Có lẽ đó là phản ứng thông thường của chúng ta khi bị người khác quấy rầy. Ai cũng muốn tránh sự quấy rầy của người khác. Ai cũng muốn co cụm trong vỏ ốc của mình.


Bình an nội tâm không thể là kết quả của sự trốn chạy, nhất là trốn chạy khỏi tha nhân.


Kinh nghiệm cho thấy càng trốn chạy tha nhân, càng khước từ và xua đuổi tha nhân ra khỏi tâm hồn chúng ta càng cảm thấy bị đầy đọa và cô đơn.


Một trong những điều kiện để có bình an nội tâm thực sự chính là đón nhận tha nhân, là tạo được sự hài hòa với tha nhân.


Qui luật cơ bản mà vị bề trên kia cho áp dụng trong cộng đoàn của mình cũng có giá trị cho mọi người chúng ta.


Sống là sống với tha nhân. Cuộc sống chỉ thực sự có khi con người biết chấp nhận nhau, biết tha thứ cho nhau.



14 - CHỨNG TỪ CỦA LÒNG SÁM HỐI

Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây:


Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.


Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người.


Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền.


Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không.


Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp:


- Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.


Ðến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau:


- Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.


Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.


Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.


*

*    *


Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình.


Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Ðó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội.


Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Ðức Giêsu Kitô?


Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.


Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi.


Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng.


Ðành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.



15 - CỬ CHỈ ÐẸP

"Ðây, tôi xin trả liền cho tôi và cho sáu chiếc xe kế tiếp".


Ðó là tiếng một người vang lên cùng lúc với bàn tay giơ ra ngoài cửa xe trao một nắm tiền cho người ngồi ở trong phòng gác nhỏ nơi cổng ra xa lộ.


Sáu chiếc xe kế tiếp được hướng dẫn ra khỏi xa lộ với giọng nói từ phòng gác nhỏ làm cho mỗi tài xế đều sửng sốt:


- Ông không cần trả tiền nữa. Người đi trước đã trả thế cho ông rồi.


Tuy bỡ ngỡ, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên gương mặt. Cử chỉ tốt và âm thầm của người đàn bà kia có thể sẽ mời gọi họ cũng làm như vậy cho bất cứ ai khác.


Người đàn bà ấy là Giu-đích Pho-man. Một lần đến chơi nhà bạn, Giu-đích Pho-man đã bất ngờ đọc được dòng chữ nhỏ dán trên cửa tủ lạnh: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".


Những lời đơn sơ này đã đánh động Giu-đích Pho-man. Bà cẩn thận học thuộc lòng hàng chữ ấy, để rồi sau đó, trong mọi thư viết cho bạn bè hay người thân, bà luôn luôn ghi vào cuối lá thư lời khuyến khích: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".


Không những ghi vào cuối các lá thư, mà thỉnh thoảng, tùy hoàn cảnh, tùy lúc, Giu-đích Pho-man thực hiện một vài cử chỉ đẹp như lần vừa kể trên.


Người đầu được thuyết phục bởi lời lẽ và cử chỉ đẹp của Giu-đích Pho-man là chồng của bà, ông Phrăng Pho-man, một giáo viên của trường trung học trong vùng. Ông ghi lại câu ấy, đem vào lớp, cắt chữ dán ngay trước mặt các học trò lớp sáu.


Người thứ hai được thuyết phục là cậu học trò trong lớp của ông Phrăng. Em về khoe với mẹ sau khi đã làm một việc tốt là giúp chị em lau nhà.


Người thứ ba được thuyết phục là mẹ của cậu học trò vừa kể. Bà làm nghề viết báo. Thế là một bài bình luận xuất hiện trên nhật báo của thành phố, bàn về ý nghĩa thiết thực của câu nói: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp".


Lòng tốt sẽ khơi dậy lòng tốt. Tình cờ đọc bài bình luận, chủ một tiệm ăn cảm kích nên đã dùng lời khuyến khích: "Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp" để trang hoàng nơi đáng chú ý nhất của cửa tiệm để mọi khách hàng có thể nhìn thấy.


Biết đâu giờ đây không phải chỉ có ba bốn người được khuyến khích, nhưng là có hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu người đã cảm kích và sống theo lời khuyên trên.


Một cử chỉ đẹp, rồi nhiều cử chỉ đẹp sẽ góp phần thay đổi con người và xã hội. Nhận một cử chỉ đẹp người khác làm cho chính mình một lần hay hai lần, thế nào rồi cũng có lúc chính bạn sẽ nhập cuộc.


Xin đừng ai vô tâm để cho chuỗi dài những cử chỉ đẹp bị gián đoạn. Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp cho người khác.



16 - VỊ ẨN TU GÂY NHIỀU GƯƠNG XẤU

Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:


Ngày kia khi Ðức Giám Mục A-mô-las đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.


Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án.


Thấy Giám Mục A-mô-las đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói:


- Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.


Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Giám Mục A-mô-las quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau.


Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.


Ðức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ung dung, ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào mà bảo:


- Vào đây. Các ngươi hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ.


Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, đức giám mục mới nói:


- Bây giờ các ngươi phải quì xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.


Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo xuống núi, đức giám mục A-mô-las tiến gần vị ẩn tu nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:


- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy.


Hai thái độ khác nhau đối với một người lầm lỗi giữa dân làng và giám mục A-mô-las có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau.


Ngược lại với phản ứng của dân làng, đức giám mục A-mô-las đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu. Trong một tình trạng khó xử, ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu.


Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em.


Và sau cùng, dầu không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu bật mối nguy hiểm của lỗi lầm này đối với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: "Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn".



17 - ÐƯỢC TRỌNG THƯỞNG

Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là Cha An-tô-ny Ðê-mê-lô đã kể câu chuyện sau đây:


Có một vị khổ tu kia sống rất nhiệm nhặt. Suốt đời ông chỉ có một mối thao thức đó là ra sức chiến đấu chống lại tình dục nơi ông cũng như nơi người khác. Ðến tuổi già ông cũng nhắm mắt xuôi tay như mọi người. Cái chết của ông làm cho nhiều người thương tiếc.


Một người đệ tử nọ không chịu đựng nổi sự ra đi của thầy cho nên cũng ngã bệnh và qua đời.


Bên kia thế giới, người đệ tử chứng kiến một cảnh tượng làm cho anh rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh vị thầy đáng kính của anh là một người đàn bà đẹp tuyệt vời. Người đệ tử chợt nghĩ rằng thầy mình đã xứng đáng được thưởng công, vì những chay tịnh và chiến đấu cam go của ông chống lại những cơn cám dỗ về tình dục. Người đệ tử bèn nấn ná đến bên thầy để chúc mừng. Anh ta nói:


- Thưa thầy, bây giờ thì con mới biết rằng Chúa là đấng công minh chính trực. Ngài đã thưởng công cho không biết bao nhiêu chay tịnh khắc khổ của thầy lúc còn ở trần gian.


Thế nhưng anh ngạc nhiên vô cùng. Vì thầy anh không để lộ một chút vui mừng nào. Trái lại, với tất cả buồn phiền ông thốt lên:


- Ngươi thật là một thằng điên. Ðây không phải là thiên đàng. Ta không được thưởng công gì cả. Người đàn bà này cũng bị trầm luân như ta mà thôi.


*

*    *


Qua câu chuyện trên đây có lẽ linh mục Ðê-mê-lô muốn nói với chúng ta rằng sự thánh thiện đích thực không hệ tại ở lối sống khắc khổ, tuân giữ một cách nhiệm nhặt các qui luật của đạo, như ăn chay, hãm mình, bố thí, đọc kinh...


Ðạo của chúng ta không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải làm và những điều phải tránh. Sống đạo không phải chỉ là một cuộc thao luyện của ý chí.


Ðạo của chúng ta thiết yếu là một con người. Con người ấy chính là Ðức Giêsu Kitô. Ðó là một sức sống mà chúng ta không ngừng được mời gọi múc lấy.


Ðối với sự giữ đạo hình thức và vụ lợi của người Do Thái Chúa Giêsu đề ra cách sống đạo đích thực. Sống đạo không chỉ là việc chu toàn lề luật, nhưng cốt yếu là đi theo Chúa Giêsu. Ði theo Chúa Giêsu trước hết là sống như Ngài, nghĩa là sống siêu thoát như Ngài. "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó". Ðấy là thái độ cơ bản để theo Chúa Giêsu.


Theo Chúa Giêsu là sống phó thác như Ngài, nghĩa là đón nhận và thực thi ý Chúa Cha trong từng biến cố, từng phút giây của cuộc sống.


Theo Chúa Giêsu cũng có nghĩa là sống bằng chính sức sống của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ là một mẫu gương để chúng ta noi theo, Ngài chính là sức sống của chúng ta. Sống đạo đích thực là kết hợp với Ngài, là nên một với Ngài, đến độ có thể nói như thánh tông đồ Phaolô:


"Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Giêsu sống trong tôi".



18 - MÓN NỢ 40 NĂM PHỤC DỊCH

Vào năm 1992, tại Rê-vơ-năng thuộc tiểu bang Georgia bên Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là đáng cười ra nước mắt.


Một bà mẹ 73 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà, đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: "Thương con cho roi cho vọt".


Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.


Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau:


"Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuên nhủ, an ủi, v.v... Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo".


Bà Ar-gut còn viết tiếp:


"Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi".


*

*    *


Ngược lại câu chuyện đáng cười ra nước mắt trên đây, một phong trào vô danh ở Ý đề nghị các thành viên của mình suy nghĩ về câu châm ngôn "Những cụ già là một hồng ân" với những tư tưởng sau đây:


"Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi đã bắt đầu yếu dần.


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị nhớ rằng tôi không còn nghe rõ như xưa, và dù muốn dù không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu tục ngữ "Trẻ khôn ra, già lú lại".


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị không nổi giận khi tôi đánh rơi và làm vỡ một cái tách, hay năm lần bảy lượt tôi thuật lại mãi một câu chuyện.


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, hỏi tôi về những kinh nghiệm của lứa tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những giòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị cho tôi cảm thấy được một chút tình yêu thương kính trọng.


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị ở lại thăm tôi thêm một giây lát khi trời đã nhá nhem tối.


Phúc cho anh, cho chị, nếu anh chị nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã biệt cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.


Phải, phúc cho anh, cho chị, vì khi tôi lên thiên đàng tôi sẽ thắp cho anh, cho chị những ánh sao".



19 - CHÔN NGƯỜI SỐNG

Một người Do Thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.


Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.


Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:


- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ ông quả thực đã là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.


Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.


*

*    *


Có lẽ tác giả câu chuyện trên đây muốn chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân giữ các lề luật tôn giáo cũng như khi cư xử với nhau.


Thời Chúa Giêsu, những người biệt phái cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ lề luật như những thây chết. Họ trung thành tuân giữ luật lệ đến nỗi hy sinh cả con người.


Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đến để kiện toàn lề luật. Ngài chữa bệnh và làm phúc cho con người trong ngày hưu lễ. Ngài đến với mọi tội nhân.


Qua thái độ ấy, Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, cái tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Không có tình yêu thương thì luật lệ chỉ là những thây chết mà thôi.


Thái độ máy móc và tinh thần nô lệ của người biệt phái khiến cho họ có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Dưới con mắt của họ, Thiên Chúa chỉ là một vị thần so đo tính toán và luôn rình rập con người. Vô tình, họ áp dụng cái lẽ công bằng hẹp hòi của con người cho Thiên Chúa. Họ tưởng nghĩ đến Thiên Chúa như một quan tòa thưởng phạt theo tâm trạng và thái độ của con người.


Chúa Giêsu muốn đánh đổ quan niệm ấy bằng cách đến với những người thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Qua thái độ này, Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.


Tình thương ấy vượt qua mọi thứ cân lường, tính toán theo lẽ công bình của con người.


Thiên Chúa yêu thương con người, đó là chân lý nền tảng trong đạo chúng ta. Tình yêu ấy vượt xa mọi tính toán, đo lường và chờ đợi của con người.


Ngài mời gọi chúng ta đi vào tình yêu của Ngài với trọn niềm tin tưởng phó thác. Ngài mời gọi chúng ta luôn tỉnh thức đón nhận tình yêu của Ngài biểu lộ bằng muôn ngàn cách thế mà con người không mấy khi ngờ được.


Ngài cũng mời gọi con người chia sẻ tình yêu ấy bằng tất cả lòng quảng đại, cảm thông của mình đối với anh chị em chúng ta.



20 - BIẾT MÌNH ÐƯỢC YÊU THƯƠNG

Em Gia-net-ta từ khi mới sinh đã bị sứt môi, mặc dầu đã được giải phẫu, nhưng môi em vẫn còn mang một cái sẹo. Tệ hại hơn, tuy môi được sửa lại nhưng vẫn làm cho em không thể phát âm rõ ràng được.


Vì thế, không lạ gì khi tới tuổi cắp sách tới trường em đã trở thành đối tượng cho các học sinh cùng lớp chế diễu, chọc phá. Trẻ con tuy vô tư, vô ý thức nhưng chúng cũng có thể trở nên rất tàn nhẫn.


Họa vô đơn chí, em bé gái Gia-net-ta lại bị điếc bên tai trái. Ðiều làm em sợ nhất là các thầy cô và lũ học sinh cùng lớp khám phá ra điểm yếu này.


Vì những bất lợi thể lý trên, em cố gắng chăm chỉ học hành để không thua kém các bạn. Tuy nhiên, em không thể giải thoát mình ra khỏi tâm trạng bị bỏ rơi, bị bạc đãi. Vì thế, em rất nhút nhát và đóng kín.


Suốt một thời gian dài, mặc dầu cô giáo làm đủ mọi cách để tỏ lòng thương mến em, cô vẫn không thể giúp em thắng được tính tự ti mặc cảm và nghi ngờ tất cả mọi người chung quanh.


Một ngày kia, cô giáo có sáng kiến làm một cuộc thử nghiệm thính giác. Cô bảo các em học sinh thay phiên bịt lỗ tai bên phải rồi bên trái để viết hai câu cô đọc rất nhỏ gần như thì thầm.


Em Gia-net-ta, vì điếc tai trái, chỉ bịt tai phải nửa chừng để cô giáo thì thầm bên tai cho một mình em nghe.


Cô giáo âu yếm bảo: "Ước gì em là đứa con gái bé nhỏ của cô".


Câu thì thầm gần giống như một lời tỏ tình này đã bắt đầu biến đổi cuộc sống của em Gia-net-ta. Dần dần em trở nên dạn dĩ và cởi mở hơn, vì em biết em được yêu thương.


*

*    *


Con người cần đến con người để có thể phát triển. Trong trường hợp bị đau ốm bệnh tật, con người càng cần đến con người hơn nữa để được chữa lành.


Em Gia-net-ta trong câu chuyện trên đã tự giải thoát mình khỏi tính nhút nhát và đóng kín là nhờ có cô giáo là người không thuộc về những kẻ thân thương trong gia đình tỏ lòng thông cảm và yêu thương em.


Thông thường những người bệnh tật hay bi quan, thụ động, còn những người lành mạnh lại tỏ ra mình trổi vượt hơn những kẻ xấu số tật nguyền. Nhưng thái độ của những người lành mạnh đó là thái độ vô tâm không xứng hợp với tinh thần Kitô giáo.


Người lành mạnh phải đi bước đầu tiên để giúp cho những người bệnh tật lướt thắng được những trở ngại thể lý của họ.


Bài học: "Hãy trao tặng những người bệnh tật và những kẻ xấu số những cử chỉ và lời nói yêu thương chân tình" chúng ta có thể học nơi chính Chúa Giêsu Kitô.


Trong suốt thời Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng, các bệnh nhân và những kẻ tật nguyền luôn thu hút được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những dấu lạ để chữa lành họ, Chúa Giêsu luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến khích để gợi lên hay củng cố niềm tin của họ.



21 - BÀ LÀ AI

Trong cơn hôn mê, một người đàn bà nọ thấy mình bị đưa ra trước tòa Chúa.


Có tiếng hỏi bà:


- Bà kia, bà là ai?


Người đàn bà đáp:


- Thưa, con là vợ của ông thị trưởng.


Nhưng tiếng ấy hỏi lại nghiêm nghị hơn:


- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai, Ta chỉ hỏi người là ai mà thôi?


Người đàn bà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của câu hỏi. Bà tiếp tục thưa: bà là mẹ của bốn đứa con, bà là giáo viên v.v... Nhưng lần nào tiếng nói cũng vẫn hỏi lại:


- Ta không hỏi ngươi làm nghề gì, Ta chỉ muốn biết ngươi là ai mà thôi.


Nghe đến đây người đàn bà liền thưa:


- Con là một Kitô hữu.


Tiếng nói lại tỏ dấu bất bình và hỏi tiếp:


- Ta không hỏi ngươi có đạo hay không có đạo, hoặc theo đạo nào, Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi?


Người đàn bà làm một cố gắng cuối cùng, bà trình bày như sau:


- Thưa, con là người đi lễ mỗi ngày và luôn giúp đỡ những người túng thiếu.


Tiếng nói lại càng bất bình hơn nữa:


- Ta không hỏi ngươi đã làm gì, Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi?


Người đàn bà chợt hiểu được ý nghĩa của câu hỏi:


Sau cơn bệnh, bà quyết tâm trả lời cho bằng được câu hỏi ấy. Và điều đó đã làm cho bà thay đổi hoàn toàn cuộc sống.


*

*    *


Ðể trả lời cho câu hỏi trên đây, có lẽ chúng ta phải thưa bằng chính lời của Chúa Giêsu, Ngài nói về một đầy tớ phải làm việc quần quật suốt ngày, rồi chiều về còn phải hầu hạ chủ mình.


Chúa Giêsu nói như sau: "Các con cũng thế, sau khi đã làm hết tất cả những gì mình phải làm, các con hãy nói: chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng".


Tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan "nhưng không"


Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu nhưng không. Con người cũng phải thờ phượng Thiên Chúa bằng một tình yêu nhưng không. Nói cách khác, con người không thờ phượng lập công để được Thiên Chúa tưởng thưởng.


Chúa Giêsu đã đến để thiết lập mối tương quan đúng đắn giữa con người và Thiên Chúa. Ngài phá đổ thứ tôn giáo dựng trên tính toán so đo, để thiết lập đạo của tình thương. Ngài mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha yêu thương nhân từ, tha thứ, và mời gọi chúng ta đáp trả bằng tất cả tin yêu, phó thác nơi Ngài.


Trong Tin Mừng Chúa Giêsu lên án gắt gao thứ tôn giáo vụ hình thức, khoe khoang, giả hình và tính toán hơn thiệt của những người biệt phái. Tương quan giữa họ và Thiên Chúa chỉ còn là một mớ những tính toán so đo.


Ðối lại với thái độ ấy của người biệt phái, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài hãy sống phó thác, khiêm nhường và phục vụ. Ở đây chúng ta thấy lặp lại cái nghịch lý thông thường của Tin Mừng: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, Ai đi tìm mạng sống mình sẽ mất, ai bỏ mạng sống mình, sẽ gặp lại".



22 - BA ÐIỀU PHẢI CHỌN

Một hôm satan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu nếu không nó sẽ đoạt linh hồn người đó.


Ba điều đó là: một là giết cha, hai là hành hạ người em, ba là uống rượu.


Người đó ngẫm nghĩ: giết cha, đánh đập em là điều trái với đạo lý, anh không thể nào làm được. Còn uống rượu thì dễ quá, ai mà không làm được. Sau khi cân nhắc mọi hơn thiệt, người đó bèn đi mua rượu về uống.


Lúc đầu anh ta còn làm chủ được. Nhưng về sau, không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say lúy túy và kết quả đã diễn ra đúng như quỉ satan mong đợi. Anh ta đã giết cha, hành hạ người em, và còn làm nhiều điều tệ hại tội lỗi khác nữa.


*

*    *


Câu chuyện trên đây có lẽ không chỉ là chuyện ngụ ngôn mà là thực tế xảy ra từng ngày trước mắt chúng ta.


Tội ác nằm trong máu của con người. Rơi vào một hoàn cảnh nào đó, ai cũng có thể là một tên sát nhân. Thế nhưng câu chuyện trên đây không phải chỉ nêu lên mặt trái của con người, nó còn nói lên nét cao quí trong lòng người nữa.


Thật thì người đàn ông trong câu chuyện trên đây đã không lao vào tội ác như một phản ứng bình thường. Ðạo lý và lẽ phải đã đến với anh ta trước tiên.


Từ thâm cung của lòng mình, con người luôn hướng về điều thiện. Con thú cắn xé rồi lăn ra ngủ yên. Nhưng con người thì không như thế. Có kẻ sát nhân nào mà không cảm thấy bị cắn rứt trong lương tâm, có hành động xấu nào mà không dày vò lòng dạ con người.


Con người sinh ra vốn hướng về điều thiện. Không có một tâm hồn nào hư đốn hoàn toàn. Không có một con người nào xấu xa tuyệt đối. Ðâu đó trong tâm hồn mỗi người luôn vang vọng lời mời gọi của thiện hảo.


Trong bộ tiểu thuyết "Những kẻ khốn cùng" văn hào Victor Hugo của Pháp đã gói ghém cái nhìn của ông qua cách cư xử của đức cha Mi-rê-bên. Biết Giăng Vanh-giăng là một tên tội phạm bị truy nã, đức cha Mirêbên vẫn cho tá túc. Và khi Giăng Vanh-giăng ăn cắp những chiếc chân đèn qúy giá của mình, đức cha vẫn khoan hồng tha thứ.


Thái độ của đức cha Mi-rê-bên đã cảm hóa được Giăng Van-giăng và biến anh ta thành một con người hữu dụng.


Thái độ của đức cha Mi-rê-bên là phản ảnh thái độ của Chúa Giêsu đối với con người. Chúa Giêsu luôn có một cái nhìn lạc quan về con người. Những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề, các tội nhân, gái điếm, người thu thuế, tất cả đều được Chúa Giêsu nhìn bằng một ánh mắt trìu mến, thân thương. Tất cả những ai đến với Ngài đều tìm thấy một cơ may để làm lại cuộc đời. Tất cả những ai đến với Ngài đều ra về trong niềm tự tín và phấn khởi về con người của mình.


Ðó là tất cả Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo cho con người. Thiên Chúa yêu thương con người. Mỗi con người là một giá trị độc nhất vô nhị. Thất bại, đau khổ, và ngay cả tội lỗi, không là một ngõ cụt, một chấm hết.



23 - GIỎ TRỨNG GÀ

Nhiều khi một chút nhẫn nại và hy sinh có thể giúp tránh được những tranh chấp và mang lại hòa khí vui tươi cho mọi người.


Có câu chuyện kể về sáng kiến độc đáo của một bác nông dân như sau:


Ngày nào bác nông dân cũng khàn cả tiếng để đuổi bầy gà của những người hàng xóm, chúng cứ chui qua hàng rào và bới nát cả vườn của bác. Bác đã van xin những người láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác ta. Bầy gà cứ thản nhiên chui qua hàng rào và phá nát hoa màu của bác.


Là một con người ưa chuộng hòa bình, bác nông dân không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường. Bác liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo. Bác đi mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần.


Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.


Chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác nông dân đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm.


*

*    *


Hòa bình thường là giá của rất nhiều hy sinh. Sau một cuộc chiến, nhìn lại cái giá đã phải trả để có được hòa bình, người ta tất phải kinh ngạc, vì ai cũng thấy rằng hòa bình đã phải mua bằng nhiều tiền của và xương máu.


Trên bất cứ bình diện và qui mô nào, hòa bình luôn phải được trả bằng hy sinh.


Hòa bình của Chúa Giêsu mang lại cho con người đã được trả bằng chính giá máu của Ngài.


Ban tặng cho con người hòa bình ấy, Chúa Giêsu muốn con người đón nhận bằng chính hy sinh của mình.


Người La Mã thường nói: "Muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh".


Cuộc chiến cam go nhất của người môn đệ Chúa Kitô phải dấn thân vào để xây dựng hòa bình chính là cuộc chiến trong bản thân mình.


Chiến đấu chống lại đam mê, ích kỷ, chiến đấu chống lại ươn hèn, nhỏ nhen nơi bản thân mình, đó là cuộc chiến cam go nhất.


Chúng ta vẫn nói: thắng một vạn quân không bằng làm chủ được chính mình.


Tựu trung, đi tìm bình an cho tâm hồn và xây dựng hòa bình với và cho mọi người, đó là mục đích và lẽ sống của người môn đệ Chúa Kitô. Một cuộc sống như thế đồng nghĩa với chiến đấu và hy sinh không ngừng.


Trong cuộc sống hiện tại với không biết bao nhiêu khó khăn dễ khiến cho chúng ta co cụm trong cái vỏ ốc ích kỷ của ta. Nhưng người ta không thể đi tìm sự bình an khi giam mình trong vỏ ích kỷ.


Bình an đích thực của Chúa Giêsu ban cho chúng ta là giá của mất mát và hy sinh. Nó là kết quả của một công trình mà ta không ngừng cùng với tha nhân xây dựng mỗi ngày. Có đến với tha nhân, có thua thiệt lỗ lã, có mang thương tích vì tha nhân, con người mới tìm được sự bình an đích thực cho tâm hồn.



24 - NGỒI TRÊN GHẾ ÐỨC VUA

Ðại đế Alexandre của Hy-lạp vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên nổi tiếng là một quân vương biết kính trên nhường dưới.


Trong một cuộc chiến vào mùa đông, tuyết phủ tứ bề, giữa cái lạnh như cắt ấy, ông sai binh sĩ nhóm lên một đống lửa trong lều của ông để sưởi ấm. Trong khi ngồi bên đống lửa ông bỗng thấy từ xa một người lính già đang run lập cập. Tức khắc đại đế ra khỏi lều, tiến lại phía người lính ấy, cầm tay ông và dẫn về lều rồi đặt ngồi trên chiếc ghế chỉ dành riêng cho bậc quân vương.


Vừa đặt người lính già ngồi trên chiếc ghế vương giả của mình, Alexandre đại đế vừa mỉm cười vừa nói với cận vệ:


- Ðối với các ngươi ngồi trên ghế của đức vua là một tội đáng chết. Nhưng đối với ta, ngồi trên ghế vua là được cứu sống.


*


*    *


Cử chỉ trên đây của Alexandre đại đế cũng đã được một vị giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ Latinh là đức cha Hen-đơ Ca-mê-ra lặp lại cách đây không lâu.


Tên tuổi của vị Giám mục này được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức trong xã hội.


Ngày nọ đức cha Ca-mê-ra tiếp một số nông dân nghèo tại tòa giám mục. Nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho vị giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một người cao niên đứng gần chiếc ghế bỏ không ấy, đức cha Ca-mê-ra cầm tay người đó và dìu ông ngồi xuống trên chiếc ghế của mình.


Ðối với một con người sống chết cho người nghèo như đức cha Ca-mê-ra thì hẳn đây không phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình với những người nghèo.


Cử chỉ của đức cha Ca-mê-ra và của đại đế Alexandre được người đời ca tụng như thể hiện của một sự quan tâm cao độ đối với người nghèo.


Nhưng với Chúa Giêsu thì cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Chúa Giêsu không chỉ quan tâm và phục vụ người nghèo. Ngài không chỉ ngồi đồng bàn với người nghèo. Ngài còn tự đồng hóa mình với người nghèo.


Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đã đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến chết.


Trong cung cách của Chúa Giêsu, nhất là ở bữa ăn cuối cùng khi Ngài quì xuống rửa chân cho các môn đệ, phục vụ gợi lên thân phận của người đầy tớ. Người đầy tớ của thời xa xưa chỉ có một hiện hữu duy nhất, đó là sống chết cho người khác.


Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn cuộc sống của một người đầy tớ. Và Ngài không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài: "Ai trong các con muốn làm lớn, hãy làm đầy tớ của mọi người".


Kitô hữu là người được xức dầu để nên một với Chúa Kitô. Do đó, phục vụ cũng phải là nghĩa vụ bắt buộc của họ. Ơn gọi làm Kitô hữu chỉ được thực hiện qua việc quên mình để phục vụ mà thôi.



25 - NGƯỜI VỢ PHI THƯỜNG

Trong một túp lều tranh lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô của thành phố Bombay, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại.


Chồng bà là một người cha gia đình tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày. Các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa.


Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo toàn tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con.


Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.


Rồi vào một buổi tối kia ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hiên nhà ông nghe tiếng thì thầm từ trong túp lều ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và ông ta tự nhủ: "Thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta".


Ông liền đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe lá hở. Quanh ngọn đèn dầu leo lét ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông. Ông nghe rõ tiếng bà nói với các con:


"Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con".


Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngụm. Tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng. Mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài.


Ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ, mà còn tìm cách xóa bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt của ông như một người cha.


Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông. Và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thủy và có tinh thần trách nhiệm, như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.


*

*    *


Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới.


Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người mẹ, người vợ trong câu chuyện trên đây là phản ảnh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta qua Kinh Thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu.


Là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta chia sẻ sức mạnh của Ngài.


Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác.


Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và trọn vẹn đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.


BÀI 26 - 50

26 - CÁCH CHỮA CHÁY KỲ DIỆU

Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi, cả đời chưa hề thấy ánh sáng văn minh. Ngày kia ông ta được đưa xuống thăm một đô thị.


Ngay đêm đầu tiên, ông phải giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được những người xung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động thị dân về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố nào đó, người dân miền núi nhìn về ngọn lửa đang bốc cao ở một góc trời rồi trở lại giường ngủ tiếp.


Khi trở về làng, ông ta báo cáo với các vị chức sắc trong bộ lạc:


- Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống và ngọn lửa được giập tắt ngay tức khắc.


Nghe thế, các chức sắc liền hồ hởi sai người đi mua đủ loại trống về phát cho dân chúng trong bộ lạc.


Chẳng bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng. Tin chắc sự hiệu nghiệm của những chiếc trống, tất cả mọi người dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi. Họ tin chắc rằng tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác, trước cái nhìn ngỡ ngàng và bất lực của mọi người.


Tình cờ ghé thăm bộ lạc, nghe kể lại diễn tiến của cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng rằng:


- Các ngươi thật là ngây ngô. Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố người ta đánh trống là để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia vào cuộc chữa cháy, chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tự tắt đi đâu.


*

*    *


Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không ngừng gọi con người tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó, khoanh tay mà chờ đợi.


Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực, đòi hỏi lao tác và đấu tranh.


Tỉnh thức là thái độ cơ bản của con người tín hữu Kitô. Toàn bộ Kinh Thánh là một lời mời gọi tỉnh thức.


Tỉnh thức, vì Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến.


Ngài đến trong từng phút giây của cuộc sống. Ngài đến qua từng sự kiện, từng biến cố. Ngài đến nơi mỗi con người.


Tỉnh thức để nhận ra Ngài, và nhất là để đáp trả cách tích cực tiếng gọi của Ngài. Tiếng gọi ấy không chỉ vang lên trong những lúc cầu kinh ở nhà thờ, mà còn vọng lên giữa chợ đời, giữa những tiếng ồn ào của cuộc sống, trong tiếng khóc than của không biết bao nhiêu người bất hạnh.


Mong sao cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là những tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường của nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ Thiên Chúa qua lòng tín thác vào tình yêu quan phòng của Ngài, và qua những hành động cụ thể của yêu thương đối với mọi người anh em.



27 - CÁNH HOA HY VỌNG

Có một đôi vợ chồng vừa thương người lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột họ còn nhận thêm năm người con nuôi. Và niềm vui chung của mọi người trong nhà là được chăm sóc vườn hoa và các loại cây kiểng. Riêng người vợ thì tưởng như không bao giờ biết thế nào là đau khổ nữa.


Nhưng bỗng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở nên hoang vu tàn lụi, khi người chồng mắc nạn và qua đời. Kể từ ngày đó người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay chăm sóc của bà mảnh vườn cũng mỗi lúc một um tùm cỏ dại.


Mùa đông đến càng làm cho tháng ngày thêm ảm đạm hơn. Nhưng một buổi sáng nọ, người đàn bà nghe có tiếng cười nói và tiếng xới trong vườn. Kéo tấm màn cửa sổ lên, bà thấy các con bà đang đua nhau xới đất.


Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả chỉ mỉm cười đáp:


- Mẹ sẽ biết khi mùa xuân đến.


Và suốt mùa đông ấy, ngày nào các con bà cũng ra vườn xới đất.


Thế rồi khi mùa xuân đến, biết bao là hoa đẹp nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà các con bà âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bùng dậy làm cho thửa vườn tràn ngập muôn cánh hoa rực rỡ tươi vui.


Cùng với những bông hoa nở rộ trong vườn, cánh hoa hy vọng cũng bỗng nhiên khoe sắc trong lòng người phụ nữ. Chính niềm hy vọng đó đã đánh tan nỗi phiền muộn trong tâm hồn bà ta và đưa bà ta trở lại với cuộc sống.


*

*    *


Trong cái thăng trầm của cuộc sống chúng ta, có những tháng ngày mọi sự xem chừng như vô vọng, có những lúc mây mù khổ đau bủa vây tứ phía, ta không còn thấy đâu là bến bờ, không còn tìm đâu ra lối thoát.


Những lúc ấy, ta hãy nhớ đến lời Thánh Phaolô trong thư Rôma: "Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm hy vọng ấy ta nhìn thấy sức sống đang chờ đợi ta. Chính trong niềm hy vọng ấy ta nhìn thấy hoa quả của những hạt giống mà ta đã vất vả gieo vãi".


Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa lá cờ của hai nước. Người Hòa Lan mỉa mai phát biểu:


- Lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Rồi chúng tôi lại run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi nhận được các thứ giấy thuế phải trả. Và sau cùng thì chúng tôi xanh như tàu lá khi đã trả xong hết các thứ thuế ấy.


Người Mỹ cũng nói lên cảm tưởng tương tự khi nhận được các thứ giấy đòi thuế, rồi kết luận:


- Nhưng bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn là những ngôi sao xinh đẹp. (Trên lá cờ Mỹ, mỗi tiểu bang được tượng trưng bằng một hình ngôi sao).


Sao trên bầu trời là biểu trưng của niềm hy vọng. Bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô hữu chúng ta không được mời gọi để nhìn thấy những ngôi sao của niềm hy vọng?


Và chỉ một mình Thiên Chúa của yêu thương mới là Hy Vọng đích thực cho con người.



28 - VỊ GIÁO CHỦ VÀ NGƯỜI THỢ LÀM XÀ BÔNG

Có người ghi lại mẩu đối thoại giữa vị giáo trưởng Do Thái và một người thợ làm xà bông như sau:


Người thợ làm xà bông phát biểu:


- Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo. Tôn giáo nào cũng dạy tín đồ cầu nguyện. Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo có giúp được gì cho nhân loại không?


Vị giáo trưởng giữ im lặng sau lời phát biểu của người thợ làm xà bông. Hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói với người thợ làm xà bông:


- Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông là người sản xuất xà bông. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn coi đứa bé kia. Xà bông của ông để làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn cứ nhơ bẩn mãi mà thôi. Ta chẳng biết xà bông dùng để làm gì?


Dĩ nhiên, người thợ làm xà bông không thể chấp nhận một lối lý luận như thế. Ông ta cãi lại:


- Thưa ngài giáo trưởng, xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không xử dụng nó.


Bấy giờ vị giáo trưởng mới dạy cho người thợ làm xà bông một bài học. Ngài nói:


- Ðúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không xử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy. Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.


*

*    *


Nhìn vào thực trạng xã hội của những nước có đa số dân theo Công Giáo, như các nước tại châu Mỹ Latinh, hay Phi-luật-tân chẳng hạn. Những người có đôi chút thao thức về Giáo Hội không thể không đặt câu hỏi: Tại sao những nước có đa số dân theo Công Giáo lại có thể là những nước có nhiều bất công xã hội hơn cả? Giáo Hội có phải gánh chịu một phần trách nhiệm về những cơ cấu phát sinh bất công chăng?


Có nhiều nguyên nhân đưa đến những bất công xã hội. Nhưng trong một quốc gia có đa số người theo Công Giáo, thì có lẽ những người tín hữu không thể không đấm ngực vì trách nhiệm của mình.


Khi tôn giáo không được sống thực, khi niềm tin chưa nhập thể, thì không gì tai hại cho cuộc sống bằng. Quả thực, không gì nguy hại cho bằng một niềm tin sống nửa vời, hoặc một tôn giáo không thực thi hay là bị lợi dụng.


Trong sách Khải Huyền xem ra Chúa Giêsu rất khắt khe với thái độ nửa vời ấy. Tác giả Gioan đã đặt vào miệng Chúa những lời sau đây:


"Nếu ngưoi nóng thì ra nóng, mà nếu ngươi lạnh thì lạnh hẳn đi. Còn nếu ngươi không nóng mà cũng không lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta".


Một Kitô hữu sống trọn niềm tin của mình là một sức mạnh cải tạo thế giới.



29 - NGƯỜI CON THÔNG MINH NHẤT

Một người cha có ba đứa con trai. Tuy sinh ra trong nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giàu có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con.


Ông muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho nó. Ông gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi người năm đồng bạc và bảo mỗi người hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.


Ba người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ dàng. Khi tới chợ anh mua ngay một bó rơm lớn đem về. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn. Sau khi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.


Người con út suy đi nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha. Sau nhiều suy nghĩ đắn đo, bỗng mắt anh sáng lên, mặt anh hớn hở, anh đi nhanh lại một cửa tiệm nhỏ nằm hun hút trong con hẻm phía sau chợ, mua một cây đèn cầy và một bao diêm. Trở về nhà, anh ta hồi hộp không biết hai anh mình đã mua được gì.


Ngày hôm sau, cả ba người con đều tụ tập trong phòng cha già. Mỗi người mang thứ đã mua đến cho cha. Người con cả mang rơm rải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá rộng, rơm chỉ phủ được một góc. Người con thứ đổ lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng.


Bấy giờ người con út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. Hai người anh tò mò chăm chú nhìn em và hỏi: "mày không mua cái gì sao?" Bấy giờ người em út mới từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng.


Ai nấy đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà tặng của người con út. Ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đấy cũng có thể giúp đỡ các anh nó nữa.


*

*    *


Cuộc sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh ta, cuộc sống của xã hội ta có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối. Chỉ cần một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy ấm áp và phấn khởi hơn.


Một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười. Một tia sáng nhỏ của lời chào hỏi thăm nom. Một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ. Một tia sáng nhỏ của cảm thông, tha thứ. Một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua tâm sự hân hoan chấp nhận cuộc đời.



30 - DẠY ẨN SĨ ÐỌC KINH

Truyện cổ nước Nga thuật lại câu chuyện của một học giả thông thái và một vị ẩn sĩ khiêm tốn như sau:


Một học giả nọ đi dạo theo bờ hồ, bỗng nghe có tiếng cầu kinh của một ẩn sĩ vang lại từ một hòn đảo giữa hồ. Ông lắng tai nghe một lúc rồi tiếp tục đi. Nhưng một lát sau ông cảm thấy khó chịu. Bởi vì lời kinh của vị ẩn sĩ hoàn toàn sai lạc. Từ nội dung cho đến cách phát âm, tất cả đều sai.


Học giả liền thuê một chiếc ghe và chèo sang hòn đảo, cốt chỉ để nhắc nhở cho vị ẩn sĩ thấy được những sai lầm của ông trong lúc cầu kinh. Học giả nói với vị ẩn sĩ:


- Này ông bạn, tôi nghĩ là ông bạn sẽ không chấp nhất khi tôi làm việc này cho ông bạn.


Nói xong, ông đọc một thôi những lời cầu kinh, không sai một chữ, một phẩy, và dĩ nhiên với cách phát âm điêu luyện của một nhà học giả.


Trước khi trở lại ghe, học giả còn giải thích thêm:


- Tôi chèo ghe đến đây cốt để giúp bạn đọc kinh cho đúng cách mà thôi.


Vị ẩn sĩ cám ơn nhà học giả rối rít. Nhưng khi học giả vừa chèo ghe ra đến giữa hồ, ông bỗng nghe có tiếng động trên mặt nước. Quay nhìn lại, ông thấy vị ẩn sĩ đang đi trên mặt nước tiến về phía ông. Và đứng trên mặt nước, vị ẩn sĩ nói với nhà học giả:


- Xin ngài vui lòng chỉ dạy cho tôi một lần nữa. Vừa mới nghe xong lời kinh tôi đã quên cả rồi.


*

*    *


Thiên Chúa là Cha vô cùng yêu thương của mọi người. Ngài biết ta cần gì trước khi ta kêu xin. Ðiều làm cho Ngài ưa thích chưa hẳn là những lời hay ý đẹp của con người, hay những câu kinh đọc đúng cung đúng cách.


Ðiều mà Thiên Chúa hài lòng hơn cả chính là một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, một tâm tình cậy trông và phó thác trọn vẹn cho tình thương của Ngài.


Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây hẳn đã hiểu được bí quyết ấy. Lời cầu kinh của ông không phải là để phô diễn những kiến thức uyên bác, mà chính là tâm tình tin tưởng phó thác của ông. Ðó là sức mạnh có thể khiến ông di chuyển trên mặt nước.



31 - MUỐN GẶP CHÚA

Trong kho tàng văn chương Ấn Giáo, có câu chuyện sau đây:


Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình:


- Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.


Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.


Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bày tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.


Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến giòng sông. Thầy trò cùng dầm xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong giòng nước mát. Bất thần vị linh sư túm lấy cổ anh dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.


Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:


- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?


Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:


- Thưa, con cần không khí để thở.


Lúc bấy giờ vị linh sư mơí giải thích:


- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực con cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.


*

*    *


Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã làm nhiều việc lành, đã xa lánh điều xấu, hay siêng năng cầu nguyện. Chúng ta thánh thiện cũng không phải vì chúng ta đã sống tử tế với mọi người, đã can đảm hy sinh, khổ công rèn luyện ý chí, bận tâm phục vụ... cũng không phải vì bất cứ điều gì cả.


Sự thánh thiện của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nhờ thông hiệp vào sự sống của Ngài mà chúng ta mới có thể tránh điều xấu, làm được điều lành.


Một tâm hồn luôn luôn rộng mở là một tâm hồn có khả năng đón nhận Thiên Chúa và sự sống của Ngài.


Mở rộng lòng cho Thiên Chúa là không ngừng khao khát Ngài. Như một người bị dìm dưới nước khao khát không khí để thở, lòng khao khát Thiên Chúa là bước khởi đầu dẫn ta đến gặp Ngài.


Lòng khao khát ấy cũng phải là động lực không khi nào ngừng thúc đẩy ta tiến lại gần Ngài.


Lòng khao khát ấy càng trở nên mãnh liệt và thúc đẩy ta ráo riết hơn mỗi khi tưởng chừng như ta đã rất gần Chúa, tưởng chừng như ta đã nắm bắt được Ngài.


Lòng khao khát mãnh liệt ấy là sức mạnh phi tường, là khả năng vô biên có thể thu hút và đón nhận sức sống sung mãn khôn lường của Thiên Chúa vào tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Khi ấy ta có thể nói được như Thánh Phaolô rằng: "Sự sống của tôi chính là Chúa Kitô".



32 - CÂY ÐÀN VÀ CỐI XAY BỘT

Sau khi được nổi tiếng, nhạc sĩ Sê-bat Xi-an Bách đã kể lại bước khởi đầu nghèo nàn của dòng họ Bách và cũng là khởi đầu những nguồn hứng cho âm nhạc Bách trong tập sách mang tựa đề "Nguồn gốc của âm nhạc Bách" xuất bản năm 1735.


Ông đã kể lại khởi đầu khiêm tốn đó như sau:


Vếch Bách, ông tổ của dòng họ Bách, sống bằng nghề xay bột tại Hung-ga-ri. Ðể trung thành với đức tin, ông đã phải rời bỏ quê hương đi lánh nạn tại vùng Tuy-bin-gân bên nước Ðức. Ông bán tất cả những gì gia đình có, ngoại trừ cây đàn huyền cầm. Rồi ra đi đến lập nghiệp tại Vếch-ma, vùng Tuy-bin-gân miền tây nước Ðức ngày nay.


Tại quê hương mới, ông vẫn tiếp tục nghề cũ, đó là nghề xay bột. Hàng ngày nơi cối xay bột, ông dùng đàn huyền cầm gảy lên những âm điệu đơn sơ để giữ đều nhịp bước xay bột, như thế ông Vếch-Bách đã học được cách đi nhịp nhàng theo âm điệu, và cũng từ đó âm nhạc được khai sinh trong dòng họ Bách.


*

*    *


Câu chuyện trên đây đã được linh mục Béc-na-Bro dòng Ða Minh chọn làm khai đề cho tập sách nổi tiếng bàn về việc cầu nguyện.


Cha nói rằng đời sống mỗi người chúng ta đều có hai yếu tố được tượng trưng bằng cây đàn và cối xay bột.


Cối xay bột tượng trưng cho những công việc nặng nhọc phải chu toàn hằng ngày, những lo lắng, những buồn phiền do cuộc sống, do anh em chung quanh gây ra cho ta.


Cây đàn tượng trưng cho những gì êm dịu, đẹp đẽ, những dòng nhạc, những bài ca, những mơ mộng, những ước muốn làm cho cuộc đời nên tươi sáng.


Cối xay bột và cây đàn là như hai điều cần thiết không thể không có được trong cuộc sống con người. Cối xay bột mà không có cây đàn thì công việc nặng nhọc hằng ngày sẽ trở thành nặng nhọc hơn. Cây đàn mà không có cối xay bột thì cuộc đời sẽ trở thành quá mơ mộng, không còn thực tế nữa.


Thay vì dùng cây đàn âm nhạc để làm cho những cực nhọc hằng ngày trở nên dễ chịu hơn, người Kitô hữu có thể dùng một cây đàn mới, đó là cây đàn của lời cầu nguyện.


Nếu lời cầu nguyện luôn hòa theo công việc hàng ngày, thì dù có cực nhọc đến đâu đi nữa, người Kitô hữu vẫn luôn có đầy đủ sức mạnh tinh thần để chu toàn và giữ được niềm an vui trong tâm hồn.


Thánh Phaolô tông đồ khuyên các tín hữu của Ngài hãy cầu nguyện luôn, hãy sống kết hợp với Chúa Giêsu Kitô để dù anh em ăn, dù anh em ngủ, dù làm bất cứ điều gì, chúng ta luôn luôn chu toàn tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.


Lời cầu nguyện sẽ giúp chúng ta thực hiện điều đó cách dễ dàng.



33 - Bầu Trời Bé Nhỏ

Ngày kia, tại một làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.


Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.


Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"


Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:


- Tại sao ông lại lo lắng cho con?


Nhà truyền giáo đáp:


- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.


Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:


- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?


Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:


- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.


Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.


Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau:


- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"


*

*    *


Mẫu gương sáng ngời của vị truyền giáo và của em bé gái trên đây khơi dậy trong chúng ta sự cảm phục và niềm hân hoan sâu sắc. Tình yêu thật kỳ diệu! Tình yêu đã làm nên những việc phi thường!


Công khai hay âm thầm, lớn lao hay nhỏ mọn, việc làm của tình yêu luôn luôn là việc phi thường. Bởi lẽ tình yêu đòi buộc chúng ta thoát ra khỏi cái tầm thường ti tiện của ích kỷ, để mở rộng lòng cho những chiều kích vô biên của Thiên Chúa.


"Hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi. Và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình".


Khi cố gắng thực thi lệnh truyền trên đây, chúng ta xác tín rằng mọi hành vi bác ái yêu thương dù nhỏ bé tới đâu cũng đều giúp chúng ta mang lại một chút thực tại Nước Trời cho xã hội trần thế.



34 - ÐỨC THÍCH CA VÀ TÊN CƯỚP

Trong một giai thoại về Ðức Thích Ca, người ta kể lại rằng:


Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp khét tiếng tên là An-gu-li-ma. Sau khi hành hung ngài, tên cướp dọa sẽ giết ngài. Trước khi chết ngài xin tên cướp một ân huệ. Tên cướp đồng ý:


Ngài bảo hắn:


- Ngươi hãy chém đứt một cành cây.


Thoáng một cái, tên cướp vung kiếm chém đứt một cành cây.


Ðức Thích Ca liền nói:


- Nào, ngươi hãy tháp cành cây cho liền vào thân cây.


Tên cướp cười gằn:


- Ngươi quả là tên khùng cho nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.


Ðức Thích Ca bèn dạy cho tên cướp một bài học. Ngài nói với hắn:


- Ngươi mới là tên khùng, khi ngươi nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây thương tích và phá hủy. Ðó là trò chơi của trẻ con. Người có sức mạnh thực sự là người chỉ biết sáng tạo và chữa lành.


*

*    *


Lời nói trên đây của Ðức Thích Ca quả thực đã được thực hiện bởi chính Chúa Giêsu. Ngài đến trong thế gian là để phục hồi lại những gì đã hư mất.


Tin Mừng ghi lại rất nhiều phép lạ của Chúa Giêsu. Thường thấy hơn cả là phép lạ chữa lành bệnh tật. Nhưng những phép lạ chữa lành bệnh tật mà Chúa Giêsu đã thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những đau thương trong thân xác con người, mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Ðó là bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao ban tình yêu ấy.


Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài còn chữa trị tâm hồn con người. Chúa Giêsu muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người thành một tâm hồn quảng đại biết yêu thương. Ðó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm.


Vào thời Chúa Giêsu, những dịch vụ y tế và những săn sóc thân thể đều bị nghiêm cấm trong ngày Sa-bát. Các luật sĩ và những biệt phái chủ trương rằng thà để cho một bệnh nhân chịu đau đớn còn hơn là vi phạm ngày Sa-bát, tức là xúc phạm đến danh dự của Thiên Chúa.


Chúa Giêsu muốn đánh đổ quan niệm sai lầm ấy. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng vinh quang và vinh dự của Thiên Chúa chính là con người được sống. Do đó Chúa Giêsu đã không ngần ngại chữa bệnh trong ngày Sa-bát.


Chúa Giêsu không chỉ giải thoát bệnh nhân khỏi đau khổ trong thân xác. Ngài còn giải phóng con người khỏi những xích xiềng của một thứ tôn giáo vụ hình thức. Tự do đích thực mà Chúa Giêsu mang lại cho con người là tự do của tình thương. Quả thực chỉ có những ai biết sống yêu thương, quảng đại mới thật là những con người tự do, đồng thời là những con người có sức mạnh phi thường để cứu thoát và sáng tạo.



35 - CHÚA GIÊSU, MỘT TÊN VÔ THẦN

Một linh mục Ấn Ðộ chuyên về tu đức đã kể câu chuyện sau đây:


Chúa Giêsu than phiền rằng Ngài chưa hề được xem đá bóng lần nào. Chúng tôi liền đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước: "Một Không!" Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành gỡ hòa một một. Chúa Giêsu lại vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.


Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta đập mạnh vai Ngài và hỏi:


- Ê, ông bạn! Ông bạn ủng hộ bên nào thế?


Xem chừng như còn bị kích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:


- Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi.


Người khán giả khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:


- Hắn là một tên vô thần!


Trên đường về nhà chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:


- Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người theo tôn giáo khác".


Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài bảo:


- Ðó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo nào mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sa-bát. Chúng con nên biết rằng chính những người có tôn giáo đã đóng đinh Ta trên thập tự.


*

*    *


Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại đó là những cuộc chiến tranh tôn giáo xảy ra vì thái độ bất khoan dung của các tín đồ.


Người ta quá bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh hay ý thức hệ của mình để triệt hạ, loại trừ, bách hại người khác. Trong khi đó thì tôn giáo nào mà lại không dạy sự khoan dung, lòng nhân ái đối với con người.


Chúa Giêsu đến mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những ai nhận biết và yêu mến Ngài cũng như những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn các con cái Ngài yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình.


Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta là Ðấng mà người ta sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa ấy là Ðấng mà người ta cũng sẽ xúc phạm, khủng bố, nếu người ta xúc phạm và khủng bố con người.


"Saolô, Saolô! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Lời hạch hỏi ấy, mãi cho tới ngày nay dường như vẫn còn vang vọng khắp nơi giữa những người tin vào Ðức Kitô và tin vào Thiên Chúa, giữa những người hãnh diện về niềm tin của mình.



36 - MÓN TRÀ TUYỆT THƠM NGON

Một nhóm học giả người Nhật thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những buổi gặp gỡ như thế, họ thường đem những món trà quí và đắt tiền nhất để thưởng thức.


Khi đến phiên mình phải chuẩn bị buổi gặp gỡ, người cao niên nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành một nghi thức vô cùng trang trọng.


Ông sử dụng cái bình trà cổ xưa và quí giá nhất của gia đình. Ông lựa lọc và nâng niu từng cánh trà trước khi cho vào bình.


Mọi người đều khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của thứ trà mà họ chưa từng được thưởng thức. Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ thuật pha chế của ông.


Con người cao niên và điệu nghệ mỉm cười nói:


- Trà mà quí vị cho là hảo hạng đây, thực ra chính là trà mà những người làm công trong nông trại của tôi quen uống mỗi ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc sống không đắt tiền cũng không khó tìm lắm đâu, thưa quí bạn.


*

*    *


Nỗi khao khát khôn cùng về hạnh phúc là một thách đố triền miên cho con người. Hoặc là con người bằng lòng với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích thực trong những cái mình đang có. Hoặc nó sẽ mải mê chạy theo những ảo ảnh, như tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền bính và lạc thú.


Chúa Giêsu đến để đặt lại mọi sự vào đúng bậc thang giá trị và chỗ đứng của chúng.


Ngài nói rằng quyền bính không phải là để được phục vụ và hầu hạ mà là để phục vụ và hầu hạ người khác.


Ngài nói rằng tiền của không phải là cứu cánh của cuộc đời, mà chỉ là phương tiện để giúp con người sống xứng với phẩm giá của mình mà thôi.


Tiền của và quyền bính chỉ là phương tiện để giúp con người sống ơn gọi làm người và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.


Ðó là tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã muốn nói với con người khi chọn lựa một cuộc sống bình dân, nghèo khó.


Từ trên núi, khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo" hẳn Chúa Giêsu cũng muốn tất cả mọi người nhìn lên Ngài.


Ngài quả là mẫu mực của con người hạnh phúc đích thực.


Ngài muốn dạy cho ta hiểu rằng trong cái tầm thường, bé nhỏ, nghèo hèn, ta có thể khám phá ra những giá trị cao cả cho cuộc đời.


Chính qua những tầm thường, bé nhỏ và nghèo hèn ấy ta có thể tìm thấy nguyên lý của hạnh phúc, hầu làm nguôi thỏa được nỗi khao khát khôn cùng của ta.



37 - ÔNG BỐ PHI THƯỜNG

Một bác nông dân tên Ðô-min-gô sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi sáng nhằm ngày sinh nhật đứa con trai 10 tuổi của ông, khi ra đồng làm việc, con ông chạy theo mà dặn:


Bố ơi, bố nhớ mang về hai con chim làm quà sinh nhật cho con nhé!


Người cha vốn vui tính và thương con nở một nụ cười tươi gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.


Sau một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác Ðô-min-gô mới đi sang cánh rừng gần đấy lượm một mớ củi.


Ðang lúc bó củi, bác chợt nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật cho con. Bác bỏ vội bó củi lại, tiến sâu vào rừng trèo nhanh lên gềnh đá trên một ngọn đồi, nơi chim thường làm tổ.


Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận thò tay vào. Nhưng vừa đụng tới chim, bác vội rụt tay lại vì thấy đau nhói như kim đâm. Nhìn kỹ thì đó là vết thương có hai lỗ máu rỉ ra. Bác chưa định thần thì một con rắn đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài, giương đôi mắt ghê rợn chực tiếp tục tấn công. Ðó là loài rắn nổi tiếng vì nọc độc vô phương cứu chữa của nó.


Bác nông dân vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng nhằm đầu rắn chặt nhanh một nhát. May cho bác, nhát dao giết được con rắn, nhưng bàn tay bị rắn cắn cũng vụt sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và chặt luôn hai nhát cắt lìa bàn tay.


Buộc xong vết thương bằng chiếc áo của mình và lấy răng phụ với tay còn lại xiết thật chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn không quên cầm hai chú chim nhỏ về làm quà sinh nhật cho con.


*

*    *


Người cha đích thực nào mà không thương con, không cho con những điều tốt đẹp. Như chính Chúa Giêsu đã nhận xét: "Ai trong anh em có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá hay nó xin cá mà lại cho nó con rắn, hoặc nó xin trứng mà lại cho nó con bọ cạp ư?"


Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Huống nữa là Cha các con, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người".


Ban Thánh Thần cho ta có nghĩa là Thiên Chúa ban cho ta chính Tình Yêu sung mãn của Ngài. Ban trọn Tình Yêu cũng có nghĩa là Thiên Chúa tự hiến chính bản thân Ngài cho ta.


Tình yêu đã nhập thể. Thiên Chúa đã trở nên con người. Ngài đến với con người, ở giữa con người để yêu thương con người trọn vẹn, để hiến ban trọn thân mình cho con người.


Nhìn lên thập giá Ðức Kitô, chúng ta sẽ hiểu được điều đó.


Câu chuyện có thật về bác nông phu trên đây, có lẽ khó tin đối với nhiều người. Nhưng câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với nhân loại ai còn có thể nghi ngờ?



38 - VỊ THIÊN THẦN DỄ TÍNH

Với tựa đề "Vị Thiên Thần dễ tính", một câu chuyện ngụ ngôn thuật lại như sau:


Ngày kia có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa, vị thiên thần đồng ý:


Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:


- Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường.


Nhận được điều mình xin, chàng ta rất đắc ý và bắt đầu làm ngay những công việc phi thường.


Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng về những thành công đã đạt được.


Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng. Mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại.


Sau đó cả người vợ cũng âm thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng. Thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa. Nhưng chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe, ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.


Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm:


- Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu.


Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình như trước. Hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha.


Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và tràn trề hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.


*

*    *


Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ.


Từ đấy con người cũng sẽ kín múc được nguồn sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, trong một niềm tri ân sâu thẳm.



39 - TÌNH YÊU ÐÃ GỤC CHẾT

Bốn mươi năm về trước, vào một ngày cuối tháng giêng, Ma-hat-ma Gan-đi, người cha già của dân tộc Ấn Ðộ đã vĩnh viễn ngã gục sau mấy nhát gươm của một thanh niên Ấn Giáo quá khích.


Hôm đó, như thường lệ, Gan-đi được hai người cháu dìu đi cầu nguyện. Cả một đám đông đi theo đàng sau ngài. Bỗng nhiên một chàng trai từ đám đông xấn tới đâm bổ vào người của vị cha già dân tộc. Ba nhát gươm đâm xối xả vào tấm thân đã khô gầy vì không biết bao nhiêu hy sinh cho đất nước.


Kinh ngạc bao trùm đám đông. Người ta chỉ còn nghe được hai tiếng thốt ra từ miệng vị thánh: "Ra-ma! Ra-ma!" nghĩa là "Chúa ơi! Chúa ơi!" Với một cố gắng cuối cùng, ngài giơ tay lên, đan lại trong một cử chỉ nguyện cầu và tha thứ, rồi ngã gục.


Người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại Gan-đi vì chàng ta không thể chấp nhận được sự kiện Gan-đi tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả với những người Hồi Giáo.


Bốn trăm triệu người Ấn Ðộ đã than khóc và để tang vị cha già của dân tộc. Không khí buồn thảm cũng bao trùm khắp thế giới. Mọi người đều cảm nhận rằng ngày hôm đó trái đất bỗng trở nên cằn cỗi, nghèo nàn hơn, vì đã mất đi một người con vĩ đại, một người con đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận thù. Chính Ngài đã từng nói: tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có.


*

*    *


Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dầu thế giới đang có trong tay sức vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết xử dụng.


Mục sư Luther King, người da đen, đã xử dụng khí giới của tình yêu. Ông ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đứng lên làm người như những người da trắng.


Giám mục Ðê-mông Tu-tu, người Nam Phi, cũng đang đi theo vết chân của Gan-đi và Luther King.


Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.


Tất cả những tấm gương trên đây chỉ là phản ảnh của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Ðó là Tình Yêu của Ðấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã nói: "Khi nào bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta".


Người Kitô hữu chúng ta đang ở trong sức kéo ấy. Ngài đã sát nhập chúng ta vào thân thể Ngài và chuyển sang cho ta sức sống của Ngài. Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Ðấng đã sống và chết vì yêu thương ta.



40 - CHỈ CÓ MƯỜI XU

Văn sĩ Bỉ Mac-tren, sống vào đầu thế kỷ 20, đã kể giai thoại sau đây:


Hôm đó là một ngày Chúa Nhật, ông đi tham dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn. Những nỗi thống khổ của người bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại khiến cho cử tọa không cầm nổi nước mắt.


Mac-tren kể lại:


- Khi nhà truyền giáo kêu gọi giúp đỡ, tôi định bỏ vào khay một đô la. Nhưng giọng nói của ông cảm động đến nỗi tôi lại nhủ thầm là tôi sẽ tăng lên năm đô la.


Nhà truyền giáo càng tiếp tục bài thuyết giảng tôi lại càng bị kích thích là sẽ mở hết ví tiền trong túi tôi. Và cuối cùng tôi đã quyết định ký thêm một ngân phiếu vì tiền mặt trong túi của tôi quá ít.


Thế rồi nhà truyền giáo lại tiếp tục phóng đại những nỗi thống khổ của người bản xứ. Ông cứ nói mãi, nói mãi, khiến cho mọi người không còn muốn nghe nữa.


Tự nhiên tôi rút lại ý định ký ngân phiếu. Rồi từ từ giảm xuống còn năm đô la, một đô la, để rồi cuối cùng khi nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái khay được chuyền đến tay tôi thì tôi chỉ bỏ có mười xu.


*

*    *


Câu chuyện trên đây có thể gợi lên cho chúng ta cách thức cầu nguyện của những người biệt phái mà Chúa Giêsu đã không ngừng lên án. Họ gia tăng việc ăn chay, nới rộng các thẻ kinh, họ kể lễ dài dòng, họ phóng đại để tấn công Thiên Chúa.


Cách thức cầu nguyện này xem ra xuất phát từ một quan niệm có tính cách bùa chú. Dường như những người biệt phái nghĩ rằng Thiên Chúa là một vị thần mà người ta có thể hối lộ hay kích thích lòng quảng đại bằng những việc làm đạo đức, những lời kinh kể lễ dài dòng. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt theo lẽ công bình: Có vay có trả, có qua có lại của loài người.


Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người một Thiên Chúa hoàn toàn khác biệt. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là một Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả và nhất là những ai kém may mắn nhất trong xã hội.


Thiên Chúa của Chúa Giêsu là một Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn tình yêu vào một số công thức bùa chú. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta là Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt lên trên mọi tính toán cân lường của con người.


Mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta một thái độ đúng đắn mà con người phải có, đó là lòng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Ngài.


Thiên Chúa của chúng ta sẽ chẳng bao giờ xiêu lòng trước sự thuyết phục của con người, dù là bằng những lý lẽ hùng hồn đến đâu đi nữa. Ngài chỉ chịu khuất phục trước lòng tin tưởng phó thác trọn vẹn mà thôi.



41 - THẤY CHA MÌNH TRONG GƯƠNG

Tại một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhỉ Lan có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến nỗi trong nhà không có được một cái gương soi.


Trong làng chỉ có mỗi một cái quán nhỏ cung cấp lương thực và những gì cần thiết cho việc đánh cá. Một ngày kia người chủ quán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp bác ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó vừa xoay chung quanh vừa thổn thức.


Rồi từ ngày ấy người chủ quán thấy bác ta trở lại quán của mình thường xuyên hơn, và rồi cũng lặp lại từng ấy động tác. Ráng rình rập để nghe những gì bác ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy mỗi lần đưa cái gương soi mặt, ông già đều thì thầm: "Ba ơi! ba ơi!"


Thì ra cả đời, bác ngư phủ chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. Khi nhìn thấy mặt mình trong gương lần đầu tiên ông ta tưởng đó là cha của mình.


Người chủ quán rất đỗi cảm động liền tặng ông già tấm gương, ông cụ hăm hở đưa về. Và từ đó, cứ mỗi khi rãnh rỗi ông lấy tấm gương ra nhìn vào đó và nói chuyện với cha mình.


*

*    *


Tất cả chúng ta, mỗi người đều sống cho một gương mặt. Và gương mặt duy nhất mà chúng ta không bao giờ nhìn thấy, đó là gương mặt của chính mình. Chúng ta hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả, trừ khuôn mặt của chúng ta. Và ngay cả khi soi gương chúng ta cũng chỉ thấy mặt mình theo một hình ảnh đảo lộn.


Chúng ta chỉ có thể biết mình, chỉ có thể khám phá được chính mình nhờ những người khác, và nhờ chính hình ảnh mà họ có thể cho chúng ta thấy về chúng ta.


Vậy đâu là tấm gương đích thực để chúng ta có thể biết mình, hoặc biết mình phải như thế nào?


Chúng ta không nên vội cười bác ngư phủ trên đây. Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể, có lẽ bác là người đầu tiên có lý. Bởi lẽ bác biết nhìn thấy trong gương một cái gì khác hơn chính mình.


Nói như Thánh Phaolô: "Phần chúng ta, chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng ta thấy mình được biến đổi nên giống hình ảnh Người, mỗi lúc một rực rỡ hơn, nhờ quyền năng của Thánh Thần Chúa".


Mỗi Kitô hữu là một tấm gương phản chiếu hình ảnh của Chúa Kitô.


Cuộc sống của họ phải là một phản ảnh cuộc sống của Người.



42 - VỊ KHỔ TU THÀNH NHÀ PHÚ HỘ

Một linh sư Ấn Ðộ rất hài lòng về bước tiến trên đường tu luyện của người đệ tử. Nhận thấy rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt của mình nữa, nên ông bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên bờ sông.


Một buổi sáng khi chỗi dậy, người đệ tử xuống giòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách của mình. Ðó là tài sản duy nhất của anh.


Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn tả tơi. Không còn cách nào nữa anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng lại bị chuột cắn nát từng mảnh. Anh mới đi xin một con mèo. Thế là anh hết phải lo lắng về sự quấy phá của mấy con chuột. Nhưng từ nay không xin áo thì người đệ tử cũng phải xin cơm bánh để độ thân và thêm phần ăn cho con mèo nữa.


Ngày ngày vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh mới tính cánh tậu cho bằng được một bê để nuôi với hy vọng sau này sẽ nhờ con bò này mà gây vốn làm ăn. Nhưng có bò rồi thì lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu anh còn tự mình đi cắt cỏ. Về lâu anh thấy không còn thì giờ để cầu nguyện nữa, anh bèn thuê người cắt cỏ.


Càng ngày bò càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc mảnh đất chung quanh túp lều của anh đã biến thành một nông trại. Con người đã một thời muốn từ bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên là một ông chủ nông trại giàu có.


Có tiền của, có mọi sự, anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của mình. Thế là anh đành phải cưới vợ. Rồi chẳng bao lâu anh đã trở nên một trong những chủ nông trại giàu nhất trong làng.


Vài năm sau, khi có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt anh ngạc nhiên vô cùng, vì thay cho túp lều nghèo hèn bên bờ sông thì nay là cả một cơ nghiệp đồ sộ.


Dò hỏi được tông tích của người chủ trại, vị linh sư mới hỏi đệ tử cũ của mình:


- Thế này nghĩa là gì hả con?


Người đệ tử trả lời:


- Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không làm cách nào giữ được chiếc áo rách.


*

*    *


Vì tiền bạc, của cải, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền bạc, của cải, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì tiền bạc, của cải người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Ðó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.


Chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị của tiền bạc trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, mà san sẻ cho những người anh em khốn cùng.



43 - SỢ MA

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông dân, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình ngày càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước.


Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:


- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.


Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:


- Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu?


Cậu trả lời:


- Con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.


Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo:


- Từ đó con nhìn tới đâu nữa?


- Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.


Ông dục cậu đi thẳng tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa.


Từ hiên nhà người cha nói vọng ra:


- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.


*

*    *


Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ em. Nhưng lòng gan dạ biết thắng vượt sự sợ hãi bóng tối là dấu hiệu em đang khôn lớn. Lớn lên là sự kiện hiển nhiên ai cũng có thể nhận thấy trong đời sống thể lý và tâm lý của con người.


Tuy nhiên, con người không chỉ sống nhờ sự sống thể lý và tâm lý. Con người không chỉ thể hiện mình bằng cuộc sống tâm sinh lý mà thôi. Con người còn có cuộc sống tôn giáo. Con người còn sống bằng một niềm tin tôn giáo nữa. Thể hiện mình qua cuộc sống đức tin là một thể hiện cao qúi nhất của con người.


Mỗi Kitô hữu chúng ta cũng luôn luôn được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình.


Ðức tin vào Chúa Kitô, là một mầm sống phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên mỗi ngày cho tới mức độ trưởng thành, viên mãn của Chúa Kitô, như lời thánh Phaolô mời gọi.


Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa vây ta, có thể làm ta sợ hãi. Những khi ấy đức tin non yếu của ta dễ dàng bị lung lạc.


Chính các tông đồ xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt kêu lên: "Ma kìa!"


Nhưng Chúa bảo: "Thầy đây, đừng sợ!"


Ðức tin của chúng ta chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu. Trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau; khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian!"



44 - BẦU TRỜI VÀ THẬP GIÁ

Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gin-bơ Ches-tơ-tân, qua đời năm 1936, đã mô tả thảm họa của thuyết vô thần trong một cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: "Bầu trời và thập giá". Trong tác phẩm đó, một giáo sư vô thần tên là Lu-xi-phe được ông cho ngồi bên cạnh một tu sĩ tên là Mi-ca-e trên một chuyến bay xuyên qua Anh quốc.


Khi máy bay đi qua Luân-đôn, giáo sư Lu-xi-phe bỗng nhìn thấy thập giá trên tháp chuông nhà thờ chính tòa. Không tự chế được, ông đã thốt lên lời xỉ vả đối với Kitô giáo. Vị tu sĩ mới xin phép kể câu chuyện sau đây:


"Tôi cũng biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách giựt đứt mà liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.


Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gãy thập giá và liệng xuống. Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn.


Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiêc ban công gỗ biến thành một đạo binh thánh giá.


Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới may ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu rụi căn nhà.


Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong giòng sông bên cạnh nhà".


Câu kết luận mà văn sĩ đã đặt trên môi vị tu sĩ là: "Nếu bạn bắt đầu bẻ gãy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này".


*

*    *


Với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Ðạp đổ thập giá có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng cao hận thù.


Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Bất cứ con người có lương tri nào cũng có thể thấy được điều ấy.


Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.


Xúc phạm đến con người là triệt hạ thập giá, là hủy diệt tình yêu và sự sống rồi.



45 - NỮ TU LAI-XƠ

Trong quyển tiểu thuyết mang tựa đề: "Năm nỗi buồn và mười niềm vui", nữ tác giả Gôl-đân thuật lại cuộc đời của một thiếu nữ tên Lai-xơ. Là y tá phục vụ trong quân đội Anh quốc, nàng đã gặp những hoàn cảnh éo le đưa đẩy nàng tới chỗ trở thành một cô gái mãi dâm vào lúc thành phố Paris được giải thoát khỏi sự chiếm đóng của quân phát xít trong thế chiến thứ hai.


Không lâu sau đó, Lai-xơ trở thành một cô gái nổi tiếng trong giới lầu xanh phục vụ những khách hạng sang tại một trong những chỗ ăn chơi nổi tiếng nhất của thủ đô nước Pháp do tên Pa-tơ-rich làm chủ. Nhưng không lâu sau đó, Lai-xơ bị thất sủng, Pa-tơ-rich không còn muốn giữ cô làm tình nhân của hắn nữa và đã nhục mạ nàng.


Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác khỏi số phận hẩm hiu của con đường sa đọa mình đã đi qua, Lai-xơ đã bắn chết tên ma cô Pa-tơ-rich. Nàng bị tống giam.


Trong cảnh ngục tù, Lai-xơ đã gặp các nữ tu Ða Minh quen gọi là các chị Bê-ta-ni-a. Ðây là một dòng tu chuyên làm việc thiện nguyện và thường dấn thân phục vụ nâng đỡ các cô gái sa cơ lỡ bước, các người nghiện ngập ma túy, những kẻ sống lang thang đầu đường xó chợ. Vài nữ tu trước kia cũng là nạn nhân xã hội như những người họ đang phục vụ.


Mãn hạn tù, Lai-xơ xin gia nhập dòng, và sau đó trở nên một trong các chị Bê-ta-ni-a.


*

*    *


Thiết tưởng nữ tu Lai-xơ trong câu chuyện trên đây là một trong muôn vàn hình ảnh của con chiên lạc và đồng tiền bị đánh mất mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng. Nàng đã sa cơ lỡ bước, đã lạc lối lầm đường. Nhưng qua những nữ tu dòng các chị Bê-ta-ni-a, Thiên Chúa đã đi tìm và đã gặp lại nàng.


Khi gặp lại được Lai-xơ, Thiên Chúa đã âu yếm ôm chầm lấy nàng và mời gọi nàng trở nên người bạn chí thiết của mình trong đời sống hiến thân.


Trong dụ ngôn về con chiên đi lạc và về đồng tiền bị đánh mất, thì một con chiên và một đồng tiền chẳng có giá trị là bao so với cả bầy chiên và cả số tiền còn lại. Nhưng lại có giá trị đặc biệt đối với người chăn chiên và người đàn bà mất tiền.


Mỗi người chúng ta cũng thế. Có thể chúng ta là những kẻ vô danh hay chỉ là một con trong số các bản thống kê. Nhưng đối với Thiên Chúa, mỗi người chúng ta có một giá trị đặc biệt và duy nhất.


Giống như người chăn chiên có con chiên lạc và người phụ nữ mất đồng tiền. Không quản gian lao vất vả đi tìm con chiên lạc, đồng tiền bị mất, Thiên Chúa cũng đối xử với mỗi tội nhân như thế. Và khi đã tìm lại được một tội nhân, thì niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao, làm cho cả thiên đàng cùng hân hoan vui sướng.


Nhân vật Lai-xơ trong câu chuyện kể trên, đã kinh nghiệm được một Thiên Chúa như thế, vào cuối cuộc đời của nàng. Còn chúng ta, khi nào kinh nghiệm ấy mới thực sự đến với chúng ta?



46 - CON NGƯỜI, VẤN ÐỀ CỦA NIỀM TIN

Người Ấn Ðộ thường kể lại câu chuyện ngụ ngôn về việc Thiên Chúa sáng tạo con người như sau:


Một hôm Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người, nghĩa là làm nên một tạo vật đẹp nhất trong các tạo vật. Khi Thiên Chúa công bố quyết định ấy, các thiên thần tỏ ra không mấy hồ hởi, một phần vì ganh tị với loài thụ tạo mới này, một phần vì không thể chấp nhận được một ý tưởng xem ra kỳ cục quá như thế. Làm sao tưởng được một thụ tạo vừa thuộc về hạ giới lại vừa tham dự vào đời sống thần linh? Làm sao có thể có được một bản thể vừa là một mảnh của thời gian lại vừa mang tính vĩnh cửu? Làm sao chấp nhận được sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần?


Ðể ngăn cản Thiên Chúa trong ý định của Ngài, các thiên thần mới bầu ra một ủy ban. Sau nhiều ngày ráo riết làm việc, ủy ban đã soạn xong một kiến nghị đệ trình lên Thiên Chúa, gồm những điều sau:


- Tinh thần không thể kết hợp với vật chất.


- Bản tính thiên thần không thể giao kết với bản tính thụ tạo.


- Cái hữu hạn, không thể hòa hợp với cái vô cùng.


- Cái chóng qua không thể đi đôi với điều vĩnh cửu.


- Do đó, yêu cầu Thiên Chúa hãy hủy bỏ ý định ngông cuồng của Ngài đi.


Sau khi đọc kỹ bản kiến nghị, Thiên Chúa đưa ra phán quyết như sau:


- Tất cả những góp ý của các ngươi đều hợp lý. Nhưng điều Ta sắp thực hiện không phải là vấn đề triết học.


Các thiên thần đều nhao nhao hỏi:


- Vậy thì vấn đề đó là gì?


Sau một hồi thinh lặng, Thiên Chúa chậm rãi đáp:


- Con người là vấn đề của niềm tin.


Ngài lại thinh lặng rồi phán quyết:


- Con người là vấn đề của niềm tin!


*

*    *


Trong một xã hội xây dựng trên luật của "Cá lớn nuốt cá bé", trong một xã hội mà nền tảng đã bị đục khoét bởi lọc lừa, gian trá, hận thù, đố kỵ, con người dễ mất đi niềm tin nơi con người. Và khi không tin ở người khác, con người cũng không tin ở chính mình nữa.


Một cuộc sống thiếu vắng niềm tin như thế chẳng khác nào một cuộc tự hủy diệt, một cuộc tự sát tập thể.


Thiên Chúa yêu thương mọi người. Ngài tiếp tục tin tưởng nơi con người mà Ngài đã tạo dựng nên. Ngài cũng mời gọi chúng ta sống niềm tin ấy.


Thay vì tự giam hãm trong khép kín, trong đố kỵ, chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với mọi người. Ðến với mọi người bằng sự cảm thông tha thứ cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn lừa đảo phản bội. Ðến với mọi người bằng những chia sẻ, cho dẫu ta chỉ gặp toàn bội bạc, vong ân. Ðến với mọi người bằng tiếng cười hân hoan, cho dầu chúng ta chỉ gặp toàn đắng cay, sầu khổ.



47 - CHÚA KHÔNG CÓ TAY

Vừa khi cuộc thế chiến thứ hai kết thúc, một toán lính đồng minh đã tình nguyện đến giúp đỡ nhân dân ở một làng nhỏ ở miền Bắc nước Ba-lan tái thiết lại những gì đã bị chiến tranh tàn phá.


Dân làng không yêu cầu họ làm công tác gì, cũng không xin giúp đỡ thuốc men, thực phẩm hay nông cụ. Họ chỉ xin các binh sĩ đồng minh giúp họ tái thiết một pho tượng đã bị bể nát tan tành. Từ nhiều thế kỷ qua, pho tượng này là niềm tự hào của người dân trong làng. Giờ đây pho tượng chỉ còn là những mảnh vụn nằm vung vãi dưới đất. Liệu những người lính đồng minh có thể làm được công tác khó khăn này không?


Qủa thực, công tác khó khăn. Nhưng cuối cùng các binh sĩ cũng nhặt lại được từng mảnh vỡ và dựng lại được pho tượng. Chỉ có điều là có hai phần chi thể trong pho tượng là họ không thể tìm thấy.


Họ dựng pho tượng giữa quảng trường của ngôi làng và phủ lên đó một tấm vải lụa. Tấm vải này chỉ được mở ra bằng một nghi thức do ông xã trưởng chủ tọa.


Khi dân chúng trong làng tề tựu đông đủ trước quảng trường. Ông xã trưởng đọc diễn văn cám ơn các binh sĩ đồng minh và cho mở tấm vải lụa ra. Mọi người kêu lên với tất cả kinh ngạc. Pho tượng tuyệt đẹp nhưng lại không có đôi tay. Dưới chân pho tượng Chúa Kitô Vua không có đôi tay này, mọi người đọc được hàng chữ viết thật lớn sau đây:


"Ta không có tay. Các con có thể cho Ta mượn đôi tay của các con được không?"


*

*    *


Câu chuyện trên đây có thể gợi cho chúng ta một hình ảnh về Giáo Hội của Chúa Kitô. Chúng ta có thể coi Giáo Hội như một nối dài của Chúa Kitô.


Chúa Kitô muốn dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài.


Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội.


Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành vi bên ngoài.


Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi giao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể.


Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.


Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Giêsu, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là những cánh tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.



48 - ÐI TÌM NGƯỜI LÝ TƯỞNG

Ông Na-ru-đin, một tín đồ hồi giáo, là hiện thân của những người đàn ông khó tính.


Lần kia, nhân lúc vui đùa, có người hỏi ông:


- Vì lý do gì mà ông chưa chịu lập gia đình?


Ông Na-ru-đin điềm nhiên giải thích:


- Suốt tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn thời giờ để tìm kiếm một người đàn bà hoàn hảo. Tại Cai-rô thủ đô Ai-cập tôi đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen bóng như hạt ô liu.


Người kia vội ngắt lời:


- Thế sao ông không cưới ngay lấy nàng?


Na-ru-đin ngao ngán đáp:


- Ðẹp, thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào cả.


Rồi ông chậm rãi nói tiếp:


- Tôi đành bỏ Cai-rô đi Bat-đat thủ đô I-rắc để may ra tìm được người đàn bà lý tưởng tôi hằng mơ ước. Tại đây tôi đã tìm thấy người đàn bà hoàn toàn như tôi mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh lại vừa có tâm hồn quảng đại.


- Thế ông đã đính ước với nàng chưa?


- Rất tiếc là chúng tôi lại không bao giờ có thể đồng quan điểm với nhau về bất cứ điều gì.


- Như vậy là ông bỏ cuộc sao?


- Không đâu. Tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm hết người này đến người khác, người thì thiếu điều này, người thì thiếu cái nọ. Tôi tưởng sẽ không bao giờ tìm được một người đàn bà lý tưởng cho đời mình. Thế rồi, một ngày đẹp trời kia tôi đã gặp được nàng. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong muốn, nghĩa là vừa đẹp vừa thông minh vừa dịu hiền, quảng đại.


- Nhưng rồi sao? Ông bị nàng cự tuyệt hả?


- Nhưng cuối cùng tôi đành phải quyết định ở độc thân. Các bạn có biết tại sao không?


Ai cũng tò mò lắng nghe. Và ông Na-ru-đin nói tiếp trong tiếng thở dài thất vọng:


- Bởi lẽ nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông hoàn hảo.


*

*    *


Người đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên mất một trong những qui luật căn bản của cuộc sống, đó là luật thích nghi. Ông Na-ru-đin đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng tiếc rằng ông chưa biết trở thành người đàn ông lý tưởng hầu có thể ăn đời ở kiếp với nàng.


Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn đòi hỏi chính mình.


Chúa Giêsu đã nêu lên một khuôn vàng thước ngọc để ta theo đó mà cư xử trong cuộc sống: "Ðiều gì con muốn người ta làm cho con, con cũng hãy làm cho người ta đi".


Nếu chúng ta muốn được đối xử công bằng, chúng ta hãy sống công bằng đi. Nếu chúng ta muốn được người khác quảng đại với ta, ta hãy đôi xử quảng đại đi. Nếu ta muốn được yêu thương, ta hãy yêu thương đi. Nếu ta muốn người khác tử tế với ta, ta hãy luôn mang bộ mặt vui tươi niềm nở đến với mọi người.



49 - CHÚA MUỐN LÀM GÌ THÌ LÀM

Tại một làng bên Ấn Ðộ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.


Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.


Người này nói với Chúa:


- Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.


Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.


Khi người này qua đời thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lòng những lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.


Ông bèn thưa với Chúa:


- Lạy Chúa, con biết Chúa không giới hạn trong những nơi chốn cố định. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.


Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.


Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ cầu nguyện trong rừng lại cũng chẳng thuộc lòng những lời cầu nguyện.


Ông đã thưavới Chúa:


- Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.


Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ nài nỉ một người mà họ biết là không có đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:


- Chúa là ai mà cứ bắt con người cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa cả. Tùy Chúa muốn làm gì thì làm.


Nói xong, ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.


*

*    *


Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được.


Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài.


Ðiều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.


Ðó là cánh cửa mở rộng để mọi hồng ân của tình yêu Chúa đổ tràn vào tâm hồn và cuộc sống chúng ta.



50 - THÙNG QUÀ KHÔNG NGƯỜI GỬI

Tại miền Nam nước Ý, người ta còn kể câu chuyện về "Chiếc bong bóng mầu hồng".


Chiếc bong bóng này là kết quả của sự bòn nhặt và tiết kiệm từng xu của Bep-pô, một em bé lên tám. Hôm ấy, khi các trẻ em cùng lứa tuổi cắp sách đến trường thì Bep-pô chạy nhanh lên đỉnh đồi thả chiếc bong bóng cho bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng Bep-pô cẩn thận cột theo bức thơ nó đã nắn nón viết từng chữ như sau:


"Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có 6 anh em. Nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường chiếu nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của con một ít quần áo và tã lót. Quần áo cũ đã xài rồi cũng được. Nhà con ở số ... đường ... làng A-côlê miền Nam nước Ý. Tên con là Bep-pô.


Sau khi thả chiếc bong bóng, Bep-pô đứng nhìn mãi cho tới khi chiếc bong bóng mất hút trong mây nó mới thơ thẩn đi về nhà.


Sau đó là những giờ phút hồi hộp nhất đời của Bep-pô. Nhưng nó vẫn tiếp tục cầu xin và hy vọng. Sáu ngày nặng nề trôi qua. Rồi một buổi trưa đang lúc chơi với các trẻ em trong xóm, nó thấy nhân viên bưu điện mang vào nhà nó một thùng quà.


Bep-pô nhanh chân chạy về và nghe cha nói lớn tiếng với nhân viên bưu điện:


- Chắc anh nhầm rồi. Tôi đâu có ai quen ở Ri-vô-gô.


Người trao bưu phẩm phân trần:


- Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gửi cho ông thì còn cho ai nữa?


Cha của Bep-pô trả lời:


- Thôi đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi mang thêm phiền phức sao? Làm gì có tiền mà bồi thường.


Thấy câu chuyện dai dẳng, Bep-pô đánh bạo xen vào:


- Thì bố cứ mở ra thử xem, nếu không phải của mình thì gởi trả lại cũng được thôi.


Thùng đồ được tạm thời mở ra để xem thử, và người ta thấy toàn đồ cho trẻ sơ sinh. Nào tã, nào những chiếc áo nhỏ ti tí, nào băng rốn v.v... Ðôi mắt của bố mẹ Bep-pô bừng sáng lên. Bep-pô vui như ngày tết, vui hơn nữa là người gửi đồ không đề địa chỉ nên không thể gửi trả lại. Bep-pô chạy nhanh ra ngọn đồi nơi nó thả chiếc bong bóng mầu hồng sáu ngày trước đây. Ðến nơi nó ngước mắt nhìn lên trời, miệng thì thầm nói: "Chúa ơi, con cám ơn Chúa!"


*

*    *


Câu chuyện trên đây có thể gợi cho những người lớn chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu quả quyết: "Nếu không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ chẳng vào được nước Trời".


Ðặc tính của tâm hồn trẻ thơ là chân thành, tín nhiệm, phó thác và cậy trông.

Ðây cũng là những đức tính mà Thiên Chúa mong gặp thấy nơi những con người đích thực của Ngài.


BÀI 51 - 75

51 - CON CHIM KHÔN HIẾM CÓ

Một người lái buôn mua được một con chim rất khôn từ Ấn Ðộ. Ngày kia ông phải rời xứ này. Trước khi đi ông hỏi con chim có cần ông nhắc lại cho nó điều gì về xứ sở của nó không. Con chim chỉ ước ao một điều, đó là tự do. Thế nhưng người chủ không đồng ý.


Lúc bấy giờ con chim khôn mới xin người chủ một ân huệ. Nó xin ông đi đến khu rừng quê quán của nó và loan báo cho dòng họ chim của nó biết rằng nó đang bị cầm giữ.


Người lái buôn tìm đến khu rừng, và khi ông vừa loan báo cho bầy chim biết tin đó, thì một con chim giống hệt như con chim của ông bỗng té ngã xuống đẫy đành đạch, rồi chết.


Người lái buôn cảm thấy buồn phiền vô cùng. Vì ông nghĩ mình là người đã gây ra cái chết ấy. Về đến nhà ông thuật lại câu chuyện cho con chim của ông nghe. Vừa nghe xong, nó cũng ngã lăn ra và đẫy đành đạch như sắp chết.


Người lái buôn đứng ngậm ngùi nhìn con chim yêu dấu của ông đang hấp hối. Ðoạn ông kéo nó ra khỏi lồng và đặt bên cửa sổ. Nhưng vừa ra khỏi lồng, con chim liền vỗ cánh bay lên đậu trên một cành cây cao, và nói vọng xuống:


- Bây giờ thì tôi được tự do! Tôi muốn nói cho ông biết rằng, điều mà ông cho là tai họa lại chính là tin mừng đối với tôi. Con chim bạn của tôi đã giả vờ nằm chết để gửi đến cho tôi một tín hiệu. Tôi đã đọc được tín hiệu ấy, và giờ đây tôi được tự do.


*

*    *


Nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo, đó là nhìn vào thập giá như biểu tượng của hy vọng.


Cũng như con chim khôn trên đây, ta đọc ra được tin mừng phục sinh qua cái chết của Chúa Kitô. Kitô giáo nhìn khổ đau và cái chết như khởi đầu của ơn phúc.


Dĩ nhiên, Chúa Kitô không phải là người rao giảng sự chết chóc, Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Chúa Kitô không tự mình đi tìm cái chết. Mãi mãi cái chết ấy vẫn là bản án bất công mà con người dành cho Thiên Chúa.


Chúa Kitô cũng không đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải đi tìm thập giá. Mà chỉ bảo họ: "Hãy vác lấy thập giá mỗi ngày".


Có cuộc sống nào mà không có khổ đau? Có ai thoát khỏi đau thương trong cuộc đời mình?


Chúa Kitô đã vác lấy thập giá và biến nó thành nguồn ơn cứu rỗi. Cái chết đã trở thành tin mừng.


Ðạo của chúng ta là đạo của tin mừng. Ðiều này hẳn phải có nghĩa là người Kitô hữu luôn luôn nhìn vào cuộc sống bằng cái nhìn của tin mừng. Họ không thất vọng trước khổ đau. Họ không đầu hàng trước cuộc sống.


Với họ, mỗi biến cố phải là một tin mừng. Nghĩa là trong tất cả mọi sự, họ đều nhận ra bàn tay dắt dìu đầy yêu thương của Thiên Chúa. Qua thập giá, Ngài dẫn họ từng bước tiến vào cõi vinh quang.



52 - CÒN MUỐN SỐNG

Một người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh.


Không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông ta đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.


Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã quá chán chường, và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thoát.


Ông ta chưa hút xong điều thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn người đàn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:


- Thôi, ông cầm cả lấy. Tôi đâu cần đến tiền làm chi nữa.


Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:


- Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là một kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.


Nói xong, người hành khất ném cái ví trả lại cho người đàn ông rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.


Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn đứng tiếp trên cầu chưa muốn nhảy xuống giòng sông. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại ví tiền để trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.


*

*    *


Không gì buồn chán cho bằng một cuộc đời không định hướng.


Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp riêng cho mình.


Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả.


Hạnh phúc chỉ có được khi ta biết quên mình để nghĩ đến người khác. Khi ta mở rộng vòng tay để trao ban và phục vụ.



53 - CUỘC ÐỜI CHỨNG NHÂN

Một chàng thanh niên trẻ tuổi đi lính thời đệ nhất thế chiến, vẫn thường xuyên tiếp tục quì gối đọc kinh vào mỗi buổi tối trước khi đi ngủ và làm dấu thánh giá trước mỗi bữa ăn.


Các bạn đồng ngũ chế diễu hành vi đạo đức của chàng. Rồi một buổi tối nọ, họ bắt một con rắn bỏ dưới gối chàng thanh niên. Chàng thanh niên vừa làm dấu Thánh Giá, bỗng con rắn từ trong gối bò ra phóng xuống đất và chuồn đi, trong khi đó chàng thanh niên nhảy bổ lên vì sợ hãi.


Ít lâu sau, một người bạn đồng ngũ tìm được cỗ tràng hạt của chàng. Hắn cầm tràng hạt trong tay giơ lên cao trước mặt các bạn lính rồi ngạo nghễ thách đố là sẽ đấm bể mặt anh nào dám nhận tràng hạt đó.


Chàng thanh niên kia không chút sợ hãi, điềm nhiên đến trước mặt anh bạn và nói:


- Cho tôi xin lại. Tràng hạt đó là của tôi.


Anh lính kia nhào tới định đấm vào mặt chàng thanh niên. Nhưng một người bạn khác nhảy tới cản lại.


Qua tấm gương lành nhẫn nhục, tha thứ của chàng thanh niên này, ít lâu sau, cả hai anh lính kia đều bắt đầu tìm hiểu, học hỏi và tin theo đạo Công Giáo.


*

*    *


Với lòng can đảm, nhẫn nhục và quảng đại tha thứ, người lính trẻ trên đây đã nói lên cách cụ thể tình yêu Chúa Kitô là gì và Ngài là ai trong đời sống của chàng. Nhờ tấm gương sáng đó các lính bạn đã được ơn nhận biết và tin vào Chúa Giêsu.


Thánh Giacôbê nhắn nhủ chúng ta rằng, một đức tin đích thực sống động phải diễn tả ra bằng việc làm. Ðức tin không có việc làm là một đức tin đã chết tận gốc rễ.


Người Kitô hữu tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng họ rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai.


Ðức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Ðấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.


Ðời sống đức tin phải là một đời sống chứng tá. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy: "Chúng con sẽ làm chứng". Và Ngài đã sai các tông đồ, các môn đệ, tất cả những ai tin vào Ngài đi làm chứng cho Ngài khắp nơi.



54 - HAI TRÁI TIM VÀNG

Mẹ Têrêsa thuật lại câu chuyện sau đây:


"Ngày kia, một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và tặng cho chúng tôi một số tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.


Ở Calcutta, mọi người đều biết là mỗi ngày tất cả các cơ sở dòng Nữ Tử Bác Ái của chúng tôi phải cung cấp thực thẩm cho khoảng chín ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng số tiền họ tặng vào mục đích trên".


Sau khi giải thích, mẹ Têrêsa kể tiếp:


"Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:


- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?


Họ trả lời:


- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều. Sau cùng, chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình, và chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí cho đám cưới để tặng những người không được may mắn như chúng con".


Mẹ Têrêsa cắt nghĩa:


"Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hin-đu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là một điều nhục nhã. Vì thế, chắc chắn mọi người, nhất là những thân nhân họ hàng của đôi vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc làm gây tủi hổ cho cả hai gia đình, đàng trai cũng như đàng gái".


Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi:


- Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, chúng con không sợ rằng việc làm như thế sẽ làm phật lòng cha mẹ và họ hàng sao?


Hai bạn trẻ ấy trả lời:


- Chúng con yêu nhau tha thiết. Vì thế chúng con muốn tặng cho nhau một món quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều dự phần vào.


*

*    *


May mắn thay! Giữa lúc có biết bao con người tham lam, ích kỷ, dường như chỉ biết có tiền bạc, danh lợi, lạc thú, thì thế giới này vẫn không thiếu những tấm lòng vàng, những con tim cao cả. Họ có mặt khắp nơi, trong mọi tầng lớp xã hội, mọi đoàn thể, tôn giáo.


Những con người biết can đảm chấp nhận hy sinh, biết quảng đại trao ban cả đến hạnh phúc riêng tư, cả đến bản thân mình, những con người ấy đang góp phần làm cho thế giới này thêm tốt đẹp hơn.


Riêng người Kitô hữu chúng ta, như Chúa Giêsu quả quyết: "Chúng con là ánh sáng thế gian", chúng ta sẽ làm gì để thế gian bừng sáng lên ánh sáng của tình thương và hy vọng?



55 - MỘT GIẤC MƠ

Vào cuối thế kỷ 19, một vị giám mục đến thăm một trường công giáo ở một thành phố miền đông Hoa Kỳ. Ngài được mời ngụ tại nhà của chính ông hiệu trưởng, một giáo sư lý hóa có đầu óc phóng khoáng.


Ông hiệu trưởng tổ chức một bữa tiệc để khoản đãi vị giám mục. Ông mời ban giáo sư đến để gặp gỡ giám mục và để học hỏi kinh nghiệm từ một con người nổi tiếng là khôn ngoan và đạo đức.


Sau bữa ăn, mọi người bàn đến viễn ảnh của năm 1900. Xem ra vị giám mục không tỏ ra lạc quan lắm về những gì sẽ xảy đến vào năm 1900. Ngài cho rằng tất cả mọi sự trong thiên nhiên đã được khám phá. Do đó, có lẽ con người không còn gì để phát minh nữa.


Một cách lịch sự, ông hiệu trưởng bác bỏ ý kiến của vị giám mục. Ông cho rằng nhân loại đang đứng trước ngưỡng cửa của những phát minh rạng rỡ nhất.


Vị giám mục cười hỏi:


- Thế thì, theo ông, đâu sẽ là phát minh lớn nhất của thế kỷ 20?


Ông hiệu trưởng trả lời không chút do dự:


- Trong năm mươi năm nữa nhân loại sẽ bay được.


Nghe vậy, vị giám mục bật cười bảo:


- Ông thật là mơ mộng. Nếu Thiên Chúa muốn cho con người bay thì tất Ngài đã cho con người đôi cánh. Bay lượn trên không trung là chuyện của chim chóc và các thiên thần mà thôi.


Ông hiệu trưởng đã nghĩ đến chuyện bay của con người trong câu chuyện trên đây chính là ông Rai-tơ. Ông có hai người con là Vin-bơ Rai-tơ va Oc-vin Rai-tơ. Sau này chính hai người con này đã sáng chế ra chiếc máy bay đầu tiên tại Hoa Kỳ vào những năm 1903-1904.


*

*    *


Có một giấc mơ để đeo đuổi, đó là sức mạnh giúp con người có thể thành công và kiên trì trong cuộc sống.


Trong đời sống đức tin cũng thế, xem ra người tín hữu cũng đeo đuổi một giấc mơ.


Ngay từ khi còn nhỏ, thánh Don Boscô đã mơ được chăm sóc và hướng dẫn các trẻ em lang thang nơi đầu đường xó chợ.


Mục sư Luther King cũng đã từng mơ ước một ngày nào đó, con cái của những người nô lệ da đen sẽ được ngồi đồng bàn với con cái của những người chủ nhân da trắng. Cả cuộc đời ông là một cuộc tranh đấu không ngừng cho đến giọt máu cuối cùng để thực hiện giấc mơ ấy.


Riêng mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đã có lần mơ được lên tới cổng thiên đàng. Nhưng khi thấy thánh Phêrô không cho những người khốn khổ cùng được vào thiên đàng, thì mẹ đã trở lại trần gian để tranh đấu cho tới khi nào những người cùng khổ cũng được vào nơi vĩnh phúc.


Ðâu là giấc mơ của chúng ta?


Ðâu là động lực khiến chúng ta tiêu hao tất cả cuộc sống?


Ðâu là lẽ sống của đời chúng ta?



56 - SỐNG CHO MỘT LỜI THỀ

Một người lính kỵ mã, sau khi tham dự một trận thánh chiến thành công tại Giêrusalem, đã làm một lời thề. Anh thề sẽ đốt một ngọn nến ngay từ trên mộ Chúa Giêsu và mang ngọn nến cháy ấy về tận quê hương của anh là thành phố Phi-ren-xê bên nước Ý.


Quyết định ấy đã đổi mới anh hoàn toàn. Từ một quân nhân hung hãn chuyên cầm gươm giết người, nay anh kỵ mã trở thành một con người hiền hậu, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.


Trên đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy trong tay, người kỵ mã gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề đưa tay động đến thanh gươm mang trong mình. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là họ để cho anh được giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay.


Quân cướp lột hết những gì anh có kể cả chiến bào và con ngựa quí của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng.


Sau khi trải qua biết bao nhiêu thử thách, giờ này người kỵ mã cảm thấy hoàn toàn thảnh thơi nhẹ nhõm, vì đã trút bỏ được những của cải không cần thiết. Nhưng anh còn vui mừng hơn nữa vì vẫn còn giữ được ngọn nến cháy sáng trong tay.


Khi anh về đến giữa thành phố quê nhà, nhiều người nhìn anh như một kẻ khờ dại. Họ chế nhạo anh và tìm đủ cách dập tắt ngọn nến cháy trong tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết hơn là để tắt ngọn nến.


Cuối cùng anh đã mang được ngọn nến cháy tới nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dùng ngọn lửa từ ngọn nến ấy thắp lên tất cả các ngọn đèn trên bàn thờ.


Ðược hỏi về bí quyết đã giúp anh đạt tới thành công này, anh đáp:


- Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn sàng bỏ hết mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy.


*

*    *


Cuộc đời Kitô hữu thường được coi như một cuộc hành trình, trong đó mỗi người chúng ta cầm trong tay ngọn nến cháy sáng của đức tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, chúng ta vẫn còn tiến bước, dù sóng gió, dù tối tăm, không gì cản bước tiến của ta được.


Chúa Giêsu còn quả quyết: "Chúng con là ánh sáng thế gian".


Ước mơ duy nhất củangười kỵ mã trên đây là dùng ngọn nến được đốt từ mồ Chúa Giêsu để thắp lên mọi ngọn đèn trên bàn thờ. Ðó cũng phải là ước mơ của chúng ta. Ánh sáng được trao ban cho ta là để thắp sáng những ngọn đèn khác.


Có biết bao ngọn đèn, biết bao cuộc sống, đang chờ đợi một chút lửa ánh sáng từ ngọn nến của ta để được cháy sáng lên!


Nhưng để duy trì được ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng và để san sẻ ánh sáng ấy cho người khác, chúng ta không thể không chấp nhận hy sinh, hy sinh tất cả, đôi khi phải hy sinh tới mạng sống mình nữa.



57 - HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY

Nhà hiền triết Xê-ni-as là bạn thân của vua Kê-rus nước Pê-pê-rus vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên.


Một hôm Xê-ni-as hỏi vua Kê-rus:


- Tâu bệ hạ, sau khi chinh phục Rôma, bệ hạ sẽ làm gì?


- Xê-xi-li-a nằm sát vách, ta chỉ cần trở bàn tay là có thể thanh toán xong.


Xê-ni-as lại hỏi tiếp:


- Sau Xê-xi-li-a, bệ hạ sẽ làm gì?


Vua Kê-rus trả lời:


- Dĩ nhiên ta sẽ tấn công Phi Châu và Cac-ta-giơ.


Xê-ni-as lại hỏi tiếp:


- Rồi sao nữa, tâu bệ hạ?


Kê-rus quả quyết:


- Sau đó là đến lượt Hy Lạp.


Xê-ni-as như muốn dồn nhà vua vào chân tường. Ông hỏi tiếp:


- Tâu bệ hạ, những cuộc chinh phục ấy rồi ra sẽ đưa chúng ta đến đâu?


Nhà vua trả lời:


- Sau những cuộc chinh phục ấy, chúng ta sẽ nghỉ ngơi.


Lúc bấy giờ hiền triết Xê-ni-as mới nói với nhà vua:


- Tân bệ hạ, tại sao chúng ta không nghỉ ngơi và tận hưởng ngay từ bây giờ đi?


*

*    *


Những người nghèo nghĩ rằng, họ sẽ đạt được hạnh phúc khi trở nên giàu có. Những người giàu lại nghĩ rằng họ sẽ hạnh phúc khi họ không còn bệnh tật.


Ðứng núi này trông núi nọ. Ðó là căn bệnh chung của mọi người. Chúng ta không cảm thấy hạnh phúc vì chúng ta không bằng lòng với hiện tại của chúng ta.


Chúa Giêsu đến để mang lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời này.


Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ.


Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đối, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá.


Thế nhưng Ngài hẳn phải là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó... Phúc cho những ai bị bách hại..."


Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống là nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa.


Chúa Giêsu mời gọi ta sống và hưởng hạnh phúc trong từng phút giây hiện tại mà ta đang có được. Vì chính trong hiện tại ấy, Thiên Chúa đến với ta để trao ban trọn vẹn tình yêu của Ngài.



58 - LINH MỤC GIẢ

Có hai tù nhân đã từng giết người cướp của. Họ bị kết án tử hình. Nhưng từ ngục thất kiên cố, họ chưa bao giờ dám có ý định trốn thoát.


Thế rồi ngày kia, một người tử tội khác đang được chuẩn bị mang lên ghế điện, bỗng cướp súng hạ sát một số viên canh ngục rồi cưỡng bức hai tù nhân kia cùng chạy trốn.


Sau một đêm đào tẩu giữa núi rừng phủ đầy tuyết, hai tù nhân kia tìm đến một ngôi làng. Một lão bà đã lầm tưởng họ là hai linh mục nổi tiếng trong vùng. Bất đắc dĩ họ đành giả dạng đội lốt linh mục và được một tu viện gần đó đón tiếp.


Trong khi ấy cảnh sát đi lùng khắp nơi để bắt lại ba tử tội đã đào tẩu. Người tử tội đã cướp súng giết các viên cai ngục để trốn thoát nay đã bị bắt lại.


Hôm ấy là một ngày rước kiệu trọng thể do tu viện nói trên tổ chức. Nhờ lớp áo nhà tu, một trong hai tên tù đã lẻn vào nhà giam giải thoát cho kẻ vừa bị bắt lại. Thế rồi hắn ta cùng được mặc áo dòng và nép mình trong chiếc kiệu lớn mang tượng Ðức Mẹ.


Bỗng giữa những tiếng cầu kinh sốt sắng của mọi người, hắn xuất hiện và giơ súng uy hiếp đám đông. Một em bé gái trong đám rước bị hắn bắt làm con tin. Ðang khi mọi người ngồi xụp xuống ẩn núp vì sợ hãi, thì một trong hai linh mục giả nhào tới giải thoát em bé gái. Cuộc xô xát làm cho tên tù hung hãn kia thiệt mạng. Còn em bé và tượng Ðức Mẹ thì văng xuống giòng sông giá buốt.


Không chút do dự, linh mục giả thứ hai nhào ngay xuống giòng sông và cứu sống em bé. Mở mắt nhìn vị ân nhân, em bỗng nhận ra ông ta chính là người tù vượt ngục mà hình ảnh được dán đầy trong phố.


Sau đó, một trong hai tù nhân ấy tiếp tục sống đời tu trì trong tu viện, còn người đã cứu sống em bé, thì làm lại cuộc đời, tái hôn với người mẹ góa của em.


*

*    *


Câu chuyện phim mang tựa đề "Chúng ta không phải là thiên thần" trên đây muốn nói rằng: Thiên thần một lần vấp ngã là vĩnh viễn trầm luân. Con người không phải là thiên thần, nên dầu vấp ngã có chồng chất vẫn còn cơ may chỗi dậy và làm lại cuộc đời.


Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Sau mỗi lần ta vấp ngã, Thiên Chúa vẫn ban cho ta một tia sáng hy vọng, mời gọi ta đứng lên và tiếp tục tiến bước.


Ngài mời gọi ta nhìn lên cái chết của Con Ngài trên thập giá. Loài người xem đó là tận cùng của số kiếp, nhưng Thiên Chúa lại coi đó như khởi đầu của nguồn ơn cứu độ.



59 - LÀM BỂ ÐÈN

Lúc còn nhỏ, Don Boscô là một em bé linh hoạt, thích vui chơi. Một hôm, khi mẹ ngài là bà Ma-ga-ri-ta đi chợ, Boscô muốn lấy chiếc mũ trên tủ, nhưng tủ cao quá, lấy không được. Cậu liền kê ghế sát tủ, leo lên rồi vươn người cố với lấy cái mũ. Chẳng may cậu đụng phải chiếc đèn dầu, nó rớt xuống vỡ tan tành, dầu chảy lênh láng.


Ngay lập tức Boscô nảy ra ý nghĩ muốn phi tang để khỏi bị phạt. Nhưng không thể được, vì dầu đã loang ra sàn nhà. Lúc ấy cậu bị giằng co trong tâm hồn: nên nói sự thật hay đổ lỗi cho con mèo? Ðược ơn soi sáng, cậu quyết định phải thành thật thú lỗi và xin tha thứ. Rồi cậu cầm con dao ra vườn chặt một cành cây, tuốt lá làm một cây roi và để sẵn chờ mẹ về.


Khi bà Ma-ga-ri-ta đi chợ về, Boscô chạy ra đón mẹ và hỏi:


- Mẹ ơi, mẹ đi đường có bình an không?


- Bình an, con ạ. Còn con, con ở nhà có ngoan không?


Cậu đưa cành cây cho mẹ và nói:


- Mẹ nhìn đây thì mẹ biết.


Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:


- Cái gì vậy?


- Thưa mẹ, cái roi. Vì lúc nãy con làm bể cái đèn dầu trên tủ. Có sẵn roi đây rồi, xin mẹ cứ phạt con rồi tha cho con.


Nói xong cậu cúi đầu im lặng.


Bà mẹ nhìn lên tủ thấy mất cái đèn dầu. Bà biết lỗi của con, nhưng bà tha thứ ngay. Vì con bà đã biết thành thật nhận lỗi. Bà ôn tồn bảo con:


- Con làm bể đèn, đáng bị phạt.Nhưng con biết thành thật nhận lỗi, mẹ tha thứ cho con. Từ nay phải ý tứ hơn nhé.


Nói rồi bà ôm cậu, xoa đầu âu yếm.


*

*    *


Nhận biết lỗi mình và hết lòng xin tha thứ là bước đầu tiên trên đường tìm gặp lại Ðấng mà con người đã chối bỏ.


Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể xin ơn tha thứ một cách đích thực và đáng được thứ tha nếu chúng ta sống trong sự thật. Lòng chân thành trọn vẹn là điều kiện căn bản để con người có thể nhận biết lỗi mình và khát vọng ơn tha thứ.


Nhưng lòng chân thành chỉ có được trong một tâm hồn khiêm tốn thẳm sâu.


Thiên Chúa thực sự bị khuất phục trước một tâm hồn chân thành và khiêm tốn.


Lần kia, Satan kiêu ngạo càu nhàu với Chúa:


- Con người phạm không biết bao nhiêu thứ tội, sa đi ngã lại không biết bao nhiêu lần, thế mà Ngài vẫn cứ tha, tha hoài. Còn tôi, chỉ một lần mà Ngài phạt vĩnh viễn sao?


Chúa mỉm cười hỏi lại:


- Thế đã bao giờ ngươi biết nhận lỗi và xin ơn tha thứ chưa?



60 - VẾT CHÂN SƯ TỬ

Một nhà khoa học vô thần sang Phi Châu để nghiên cứu. Ông thuê mấy người da đen bản xứ theo giúp việc. Ngày kia ông cùng nhóm người da đen ấy lên đường tới một khu rừng xa xôi. Họ lên một sườn đồi thoai thoải thơ mộng và tìm chỗ dựng lều.


Buổi tối hôm ấy, những người da đen họp lại đọc kinh chung trước khi đi ngủ. Nhà khoa học mới hỏi họ một cách châm biếm:


- Các anh nghêu ngao cái gì vậy?


Một người đáp:


- Chúng tôi cầu nguyện để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chúng ta đến nơi bình an.


Nhà khoa học lại hỏi:


- Thế có bao giờ các anh sờ mó hay nhìn thấy được Thiên Chúa không?


Họ đáp:


- Thưa không.


Ông mỉm cười bảo họ:


- Vậy thì các anh khờ dại quá.


Một đêm trôi qua. Sáng sớm, nhà khoa học rảo quanh căn lều và ông bỗng thốt lên:


- Ðêm rồi có một con sự tử lảng vảng quanh lều của chúng ta.


Nhóm người bản xứ liền hỏi ông:


- Vậy ông có sờ mó hay trông thấy nó không?


Nhà khoa học trả lời:


- Không thấy.


Họ bảo ông:


- Vậy thì ông là một nhà khoa học khờ dại rồi.


Ông vội cãi lại:


- Nhưng tôi có bằng chứng. Tôi đã thấy những dấu chân nó để lại đây mà!


Lúc ấy mặt trời đang lên. Chim hót vang rừng. Cảnh thiên nhiên rực rỡ và tuyệt đẹp. Nhà khoa học không ngớt lời khen ngợi cảnh trí đẹp đẽ ấy. Bấy giờ một người da đen nói với ông:


- Thưa ông, ông thấy cảnh thiên nhiên đẹp lắm ư? Vậy thì đấy chính là dấu vết nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa đó!


*

*    *


Sách khôn ngoan viết: "Ði từ sự hùng vĩ và xinh đẹp của tạo vật, người ta luận ra được ý niệm về Ðấng Hóa Công" (KN 13,5).


Thế nhưng trong thực tế, biết bao người chẳng hề có chút ý niệm về Tạo Hóa trước muôn vàn kỳ diệu của thiên nhiên hằng phơi bày trước mắt họ.


Ngay cả chúng ta, những Kitô hữu, có mấy khi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những tạo vật chúng ta tiếp xúc hằng ngày, nhất là nơi anh chị em chúng ta.


Mỗi con người lại không là một kỳ công tuyệt diệu của Thiên Chúa, không là ánh vinh quang của Ngài giãi tỏa ra đó sao?



61 - NGƯỜI HÀNH KHẤT LẠ THƯỜNG

Một người hành khất có dáng vẻ băn khoăn tiều tụy lạ thường. Sau manh áo rách rưới, ông còn đeo trên cổ một thánh giá vàng mà ai cũng có thể trông thấy.


Ngày ngày ông ta tới xin ăn trước cửa một nhà thờ ở Paris. Người quen thuộc nhất của ông là một linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng Thánh Lễ ở nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, vị linh mục này vẫn hỏi han và giúp đỡ người hành khất.


Rồi một hôm, vị linh mục không thấy người ăn xin trước cửa nhà thờ nữa. Ông đã tìm đến nơi trú ngụ của người hành khất, thăm nom và giúp đỡ ông ta đang trong cơn rét run, vì bệnh tật và đói ăn.


Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, người hành khất đã kể lại cuộc đời mình như sau:


- Khi cách mạng bùng nổ, tôi đang làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Và quân cách mạng tìm đến bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con bị bắt giữ và bị kết án tử hình. Chỉ có người con trai duy nhất là thoát được.


Nghe tới đây, vị linh mục như muốn té xỉu. Nhưng ông cố gắng giữ bình tĩnh. Người hành khất thều thào kể tiếp:


- Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Quả thực tôi là một quái vật khát máu. Nhưng sau đó tôi bỗng ân hận. Tôi bị dày vò. Tôi không thể nào có được sự bình an trong tâm hồn nữa. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để cố quên tội ác của mình... Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá treo ở đầu giường kia là của người chồng. Còn thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ... Xin Chúa tha thứ cho tôi.


Nghe xong những lời tâm sự và cũng là những lời tự thú trên đây, vị linh mục trẻ quì gối xuống cạnh giường người hành khất đang hấp hối. Và thay cho một công thức giải tội, vị linh mục nói:


- Tôi chính là người con trai còn sống sót của gia đình. Ðại diện cho gia đình tôi và với tư cách là một linh mục, tôi tha tội cho ông nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.


*

*    *


Cử chỉ tha thứ là điều đã và đang xảy ra ở mọi thời và mọi nơi. Dù lòng người có cằn cỗi khô héo đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể làm trổ sinh những đóa hoa quảng đại tha thứ.


Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú nhất của lòng người. Tha thứ là hành vi bác ái tuyệt vời hơn cả mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta thể hiện trong cuộc sống mỗi ngày: "Hãy tha thứ cho người khác thì Thiên Chúa sẽ tha thứ cho các con" (Lc 6,37).



62 - CÔ GÁI BÊN ÐƯỜNG

Rải rác trên sườn một ngọn núi nổi tiếng và thơ mộng vào bậc nhất của miền Nam nước Nhật bản, người ta thấy những ngôi chùa cổ kính, những thiền tự trang nghiêm ẩn mình sau những tàn cây lớn bốn mùa xanh tươi mịn màng.


Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tan-đan và Ê-ki-đô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một làng quê.


Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ áo Ki-mô-nô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tan-đan liền bảo:


- Ði lối này, cô bé!


Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tan-đan nhanh tay bồng cô gái, bước qua vũng lầy và đặt cô xuống bên kia đường. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cám ơn, còn nhà sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.


Nhưng từ lúc ấy, Ê-ki-đô không buồn nói gì với bạn nữa. Mãi tới khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, Ê-ki-đô không nhịn lâu hơn được, liền nói với Tan-đan:


- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là những đàn bà trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Trên đường đi, sao anh lại dám bồng cô gái đẹp kia như thế?


Tan-đan mỉm cười và thản nhiên đáp:


- Tôi đã bỏ cô nàng ở bên kia vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn còn mang nàng tới tận nơi đây vậy?


*

*    *


Khi con người thực sự làm chủ được mình, khi họ có được một tâm hồn hoàn toàn siêu thoát, chính là lúc họ không còn bị ràng buộc hay bị chi phối bởi bất cứ điều gì nữa.


Ðây là một con người tự do đích thực. Cuộc sống làm người, cuộc sống đức tin hay cuộc đời tu hành của họ sẽ không ngừng thăng tiến trong an bình và hân hoan.


Ðó cũng chính là cuộc sống mà thánh Phaolô cầu mong cho mọi Kitô hữu khi Ngài nói: "Họ có vợ mà như không có, khóc mà như không khóc, vui mà như không vui, mua sắm mà như không có gì, dùng của đời mà như không dùng chi cả" (xem 1Cr 7,29-31).



63 - MUỐN CÃI NHAU

Lin-đao và Rếch-bec là hai nhà hiền triết. Họ sống chung với nhau dưới một mái nhà từ nhiều năm, mà không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau. Ngày kia, Lin-đao nảy ra ý nghĩ ngộ ngĩnh. Ông bảo bạn:


- Tôi nghĩ rằng ít ra chúng ta cũng nên cãi nhau một lần, như người ta thường quen cãi nhau vậy.


Rếch-bec ngạc nhiên về ý kiến kỳ lạ này. Nhưng vì chiều bạn, ông ta ôn tồn hỏi:


- Cãi nhau thế nào được? Ít ra chúng ta cũng phải làm một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ?


Lin-đao đề nghị:


- Dễ lắm! Tôi sẽ để một hòn đá ở giữa sân rồi quả quyết hòn đá ấy là của tôi. Anh phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: "Làm gì có chuyện ấy, viên đá của tôi mà!" Rồi sau đó chúng ta cãi nhau.


Nói xong ông Lin-đao liền ra vệ đường tìm một viên đá lớn, khệ nệ bê ra đặt ở giữa sân. Ông Rếch-bec bèn lớn tiếng nói ngay:


- Viên đá đó của tôi mà, mắc mớ gì anh lại đưa ra giữa sân?


Lin-đao cãi lại:


- Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?


Nghe nói thế, ông kia đáp:


- À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần đá làm gì cả.


Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không thực hiện được.


*

*    *


Trong cuộc sống của con người, qua mọi thời đại, ở mọi phương trời, đầy dẫy những bất hòa và tranh chấp.


Tranh chấp giữa bè bạn, tranh chấp trong gia đình, tranh chấp ngoài xã hội, tranh chấp trên thế giới. Kết quả của mọi tranh chấp là bất hòa, cãi vả, đánh lộn và chiến tranh.


Ðâu là nguyên nhân những thảm trạng ấy trong cuộc sống con người?


Nguyên nhân đó không là gì khác hơn là tính ích kỷ. Nguyên nhân đó cũng không ở đâu xa, những phát xuất từ nội tâm của con người.


Nếu chỉ biết thu tích cho riêng mình, nếu chỉ lo bảo vệ quyền lợi của riêng mình, thì mãi mãi con người vẫn sống trong bất hòa và tranh chấp.


Chính vì thế mà mối phúc của những người có tinh thần nghèo khó và mối phúc của những ai hiếu hòa có liên hệ nhân quả với nhau.


Chỉ một tâm hồn thanh thoát, không còn dính bén tư lợi mới thực sự sống bình an và đem lại hòa thuận an vui cho mọi người.



64 - TÊN SÁT NHÂN TRUNG THÀNH

Vê-bích, một tên sát nhân, ngày kia hắn đã dùng đá ném chết ông Phi-bua. Hai người con trai của ông Phi-bua là Pin-tô và Xê-bat yêu cầu quan tòa phải xét xử công bằng. Tên sát nhân đã giết cha họ thì cũng phải bị án tử hình.


Trước mặt quan tòa, Vê-bích đã thú nhận tội lỗi. Anh ta chỉ xin một ân huệ là về nhà trong ba ngày để thu xếp việc gia đình. Rồi sau đó anh hứa sẽ trở lại thụ án.


Ðang lúc quan tòa do dự không muốn tin ở lời hứa của tên tử tội, thì trong đám khán giả có người lên tiếng:


- Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tội nhân. Nếu sau ba ngày hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay.


Sau ba ngày, tội nhân trở lại và tuyên bố:


- Tôi đã giải quyết xong mọi việc trong gia đình. Giờ đây tôi trở lại để chịu chết. Tôi trung thành với lời cam kết, để người ta không thể nói: chữ tín trung không còn trên mặt đất nữa.


Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông đứng ra bảo lãnh cho hắn tiến ra giữa đám đông và tuyên bố:


- Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên trái đất này nữa.


Sau hai lời tuyên bố trên, mọi người đều lặng thinh. Dường như ai cũng đang cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao cả nhất trong lòng mình.


Từ đám đông, bất ngờ Pin-tô và Xê-bát tiến ra và nói với quan tòa:


- Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không thể nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất nữa.


*

*    *


Câu chuyện trên đây muốn nhắc chúng ta rằng: giữa một xã hội khô héo tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đang bị chết nghẹt, thì chứng từ của người Kitô hữu cần thiết hơn bao giờ hết.


Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói: Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuộc đời vẫn còn cháy sáng giữa thế gian.


Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói: chữ tín thành, lòng quảng đại, sự tha thứ vẫn còn ngự trị khắp nơi trong xã hội.


Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêu thương con người.


Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói: con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.



65 - HAI NGƯỜI LỮ HÀNH

Mê-hu và Gia-kin, hai người Do Thái, cùng nhau lên đường tới một phương xa. Họ dùng một con lừa để chở hành lý. Ðể cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Ðêm đến thì họ đốt đuốc để soi đường đi.


Mê-hu là một tín hữu rất đạo đức, có lòng tin vào Chúa quan phòng, lúc nào ông cũng nói: "Thiên Chúa là đấng tốt lành trong tất cả mọi sự". Nhưng Gia-kin lại là người rất cứng lòng tin. Ông ta rất bực mình mỗi khi nghe bạn ông nói những lời ca ngợi lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Vừa lên đường được ít phút, ông ta đã cảnh cáo Mê-hu:


- Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào.


Trước khi mặt trời lặn, hai người đến một ngôi làng nhỏ. Họ gõ cửa hết nhà này sang nhà khác nhưng không ai cho họ trú ngụ qua đêm. Họ đành phải tìm đến một ven rừng. Bấy giờ Gia-kin mới thốt lên:


- Như thế này thì liệu Chúa của anh có tốt không?


Vốn luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng Mê-hu bình tĩnh đáp:


- Ðây là chỗ tốt nhất mà Chúa đã dành cho chúng ta để qua đêm nay.


Ðêm đó, họ nằm ngủ dưới gốc một cây lớn. Họ cột chú lừa vào một thân cây bên cạnh. Chưa kịp đốt đuốc lên thì họ nghe một tiếng động mạnh từ xa vang tới. Thì ra, chỉ chớp mắt, một con sư tử đã bổ tới cắn xé chú lừa và lôi đi. Hai người vội leo lên cây để tránh nạn.


Vừa tức giận vừa mỉa mai, Gia-kin hỏi bạn:


- Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?


Mê-hu bình thản trả lời:


- Nếu con sư tử không gặp con lừa trước thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Vì Chúa là đấng tốt lành.


Vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu thất thanh. Hai người trèo lên cao hơn. Dưới ánh đuốc họ nhận ra con gà đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Gia-kin chưa kịp thốt ra lời cay đắng nào thì Mê-hu đã xác định:


- Tiếng kêu của con gà đã một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cảm tạ Chúa là đấng tốt lành.


Liền lúc ấy một cơn gió mạnh làm tắt phụt ngọn đuốc. Thế là hai người chìm trong tối tăm rùng rợn. Gia-kin bực bội nói:


- Xem chừng Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay.


Lần này thì Mê-hu chỉ biết lặng thinh.


Sáng hôm sau, hai người vào làng mua thức ăn, mới hay đêm hôm ấy một bọn cướp đã tấn công làng và vơ vét hết tài sản của dân. Lúc ấy Mê-hu mới giải thích cho Gia-kin:


- Giả như đêm qua chúng ta có nơi trú ngụ trong làng hẳn là đã không thoát khỏi tay bọn cướp. Và nếu gió không thổi thắt ngọn đuốc thì hẳn bọn chúng đã thấy chúng ta. Bạn tin chưa? Trong tất cả mọi sự Thiên Chúa là đấng tốt lành.


*

*    *


Kitô hữu chúng ta có được niềm tin vững mạnh vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa như người Do Thái này chăng?



66 - DÁM CHẾT CHO NHAU

Ngày kia, giáo trưởng A-li-ha-met dõng dạc tuyên bố với các đệ tử của ông:


- Ta thấy đã đến lúc chúng ta phải lên đường. Ta không biết những gì sẽ xảy ra. Các ngươi hãy tuân giữ những điều ta đã truyền đây. Và các ngươi hãy nhớ kỹ điều này: Trong bất cứ cảnh huống nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: "Tôi muốn chết thay cho thầy tôi".


Ðám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một lệnh truyền điên rồ như thế... Tất cả đều rút lui. Chỉ có một người dám chấp nhận và quyết tâm đi theo thầy.


Hai thầy trò lên đường mà không biết sẽ đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Bạo chúa này đã ra lệnh cho binh lính: "Các ngươi phải bắt giữ tên du thủ du thực đầu tiên nào mà các ngươi gặp và điệu tới cho ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này".


Thế là khi vừa đặt chân tới cổng thành, người đệ tử của vị giáo trưởng liền bị lính bắt và điệu tới trước mặt bạo chúa.


Lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu thì vị giáo trưởng mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn:


- Thưa ngài, xin hãy giết tôi. Vì chính tôi đã dụ dỗ thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống cuộc đời lang thang như tôi.


Nói xong, ông giơ tay lên trời.


Vừa thấy cử chỉ ấy của thầy mình, người đệ tử liền hô lên:


- Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi.


Nghe thế, bạo chúa lấy làm lạ, ông mới hỏi các viên cố vấn:


- Chúng là ai mà lại sẵn sàng chết thay cho nhau như thế?


Các cận vệ đều ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ bạo chúa đòi điệu giáo trưởng đến và yêu cầu giải thích lý do.


Vị giáo trưởng bình thản trả lời:


- Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói bất cứ ai bị chết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Vì thế mà thày trò chúng tôi đã hăm hở tới đây để được chết.


Nghe vậy, bạo chúa mỉm cười và ra lệnh thả tự do cho hai người. Cũng lúc ấy, người đệ tử chợt hiểu rằng, ai dám hy sinh mạng sống vì người khác thì sẽ tìm lại được.


*

*    *


Phần chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta đã nghe nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần lời Chúa Giêsu quả quyết: "Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất, ai đành mất mạng sống vì Ta thì sẽ tìm lại được" (Lc 9,24). Nhưng đã mấy lần chúng ta hiểu ra được ý nghĩa đích thực của lời quả quyết ấy?



67 - TẮM RỬA CHO CHÚA KITÔ

Lần kia mẹ Têrêsa thành Calcutta kể:


Một thiếu nữ đã tìm đến Ấn Ðộ xin gia nhập hội Thừa Sai Bác Ái của chúng tôi. Chúng tôi có một qui định là ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống với chúng tôi đều được mời sang nhà hấp hối, tức là nhà đón tiếp những người sắp chết. Bởi vậy tôi đã nói với thiếu nữ:


- Con đã nhìn thấy vị linh mục dâng thánh lễ. Con đã thấy ngài cầm Thánh Thể trong tay cách cung kính và mến yêu chừng nào. Con cũng hãy đi và làm như thế nơi nhà hấp hối. Bởi vì con sẽ tìm gặp được Chúa Giêsu trong thân thể của những người anh em khốn khổ đó.


Người thiếu nữ nghe xong, liền đi tới nhà hấp hối. Một thời gian sau cô trở lại với nụ cười rạng rỡ mà có lẽ tôi chưa bao giờ trông thấy. Cô vui vẻ nói với tôi:


- Thưa mẹ, con đã sờ được thân thể Chúa Giêsu suốt ba tiếng đồng hồ.


Tôi mới hỏi cho biết sự thể đã diễn ra thế nào. Cô đáp:


- Con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang tới một cụ già vừa té xuống một hố sâu. Mình mẩy ông đầy những thương tích và bùn dơ hôi hám. Con đã tắm rửa cho ông thật sạch sẽ và băng bó các vết thương của ông. Con biết rằng làm như thế là con đã chạm đến thân thể Chúa Kitô.


*

*    *


Chúa Kitô là Thiên Chúa đã trở nên con người và sống giữa mọi người, Ngài đã tự đồng hóa với con người và luôn vẫn tiếp tục hiện thân nơi mỗi con người.


Mọi tiếp xúc với tha nhân, nhất là với những người khốn khổ đều là những tiếp xúc với Chúa Kitô.


Nhưng đã mấy khi chúng ta ý thức được sự thật ấy.


Chúng ta đến nhà thờ, đi dự thánh lễ với mục đích gặp gỡ Chúa, với ước mong tiếp xúc thân mật với Ngài.


Nhưng mối tương quan thân tình ấy, sự tiếp xúc gần gũi ấy không chỉ bị giới hạn nơi nhà thờ, trong thánh lễ.


Nó còn phải được kéo dài ra và thể hiện cụ thể trong cuộc sống, mọi lúc, mọi nơi, khi chúng ta hiện diện với và giữa những con người.


Bất cứ họ là ai, những con người ấy đều là những hiện thân của Chúa Kitô đang đến với ta, đang chờ đợi nhận được nơi ta một tiếp xúc gần gũi, một quan hệ thân tình.


Chúng ta không thể quên lời Người đã dạy: "Mỗi khi làm bất cứ điều gì cho những anh em bé mọn của Ta là các con đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).



68 - NGƯỜI THỢ GIÀY THÁNH THIỆN

Ngày kia, từ trong sa mạc hoang vắng, thánh Antôn ẩn tu đã tìm đến gặp một người thợ giày, vì nghe đồn người này có một đời sống đạo đức rất đặc biệt.


Khi thánh nhân hỏi đâu là bí quyết nên thánh, người thợ giày đáp:


- Tôi chỉ biết đóng giày.


Thánh Antôn rất đỗi ngạc nhiên, ngài hỏi tiếp:


- Nếu chỉ có thế thì làm sao mà gọi là thánh thiện được? Tôi đây, tôi nghĩ đến Chúa từng giây phút. Ông có bí quyết nào khác không?


Người thợ giày giải thích:


- Tôi làm việc 8 giờ, cầu nguyện 8 giờ và nghỉ ngơi 8 giờ.


Thánh Antôn cũng chưa cho đó là một cuộc sống trọn lành. Ngài vẫn thắc mắc hỏi:


- Vậy ông sống đức khó nghèo như thế nào?


Người thợ giày đáp:


- Tôi dâng cho Giáo Hội một phần ba của cải, một phần ba tôi tặng người nghèo, một phần ba giữ lại cho tôi.


Thánh Antôn vẫn chưa chịu cho đó là bí quyết trọn hảo nhất, vì chính ngài đã dâng hết của cải cho Giáo Hội và người nghèo.


Vì thánh nhân vẫn hỏi mãi, nên cuối cùng người thợ giày mới bày tỏ bí quyết của ông như sau:


- Mặc dù tôi phân phát một phần ba tiền lương của tôi cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không sao yên được khi tôi nhìn thấy cảnh nghèo chung quanh tôi, đến độ tôi đã thưa với Chúa: Lạy Chúa, thà con phải vào hỏa ngục còn hơn là nhìn thấy những người khốn khổ này phải triền miên trong cảnh nghèo đói!


Nghe đến đây, thánh Antôn bỏ ra về. Ngài chợt hiểu rằng ngài chưa được thánh thiện như người thợ giày này đã dám hy sinh tất cả chỉ vì yêu thương người nghèo.


*

*    *


Có nhiều cách để nên thánh. Có người nên thánh trong cuộc sống giữa trần gian, có người nên thánh trong bậc tu trì...


Tuy nhiên, giữa những khác biệt vẫn có một mẫu sống chung cho tất cả mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.


Thánh Phaolô đã quả quyết:


"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có lòng bác ái thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phùng phèng, hay chũm choe xoang xoảng. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay được cả lòng tin có thể dời non chuyển núi, mà không có lòng bác ái thì tôi cũng chẳng làm gì. Giả như tôi có đem hết tài sản mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có lòng bác ái, thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi"(1 Cr 13,1-3).



69 - MỘT VỞ BI HÀI KỊCH

Vào quãng đầu thế kỷ thứ 19, Na-pô-lê-ông đệ nhất của nước Pháp đã chinh phục hầu hết các nước Âu Châu. Năm 1804 ông lên ngôi hoàng đế.


Ðể được các nước Âu Châu thần phục mình, ông mời Ðức Giáo Hoàng Piô VII đến tấn phong hoàng đế cho ông. Ông cũng cố gắng thuyết phục vị Giáo Hoàng dời tòa thánh về Paris. nghe những lời vừa đe dọa vừa vuốt ve của Na-pô-lê-ông, Ðức Piô VII mỉm cười nói:


- Hài kịch của ông thật là xuất sắc.


Bị chạm tự ái, Na-pô-lê-ông cầm lấy sơ đồ vương cung thánh đường thánh Phêrô vừa xé vừa nói:


- Ðây là điều mà ta sẽ làm cho Giáo Hội. Ta sẽ dẫm nát Giáo Hội ra từng mảnh.


Nghe thế, vị Giáo Hoàng vẫn bình tĩnh nói:


- Bây giờ lại đến lượt bi kịch.


Ðúng vậy, Na-pô-lê-ông đã bắt đầu bi kịch bằng cách tống giam vị Giáo Hoàng, rồi chiếm lấy những lãnh thổ thuộc về Giáo Hội. Nhưng thảm kịch lại xảy ra cho chính ông. Ðúng bốn ngày sau, Na-pô-lê-ông thất trận lần đầu tiên.


Từ trong tù, vị Giáo Hoàng cũng thể hiện quyền lãnh đạo của ngài. Ngài đã dứt phép thông công Na-pô-lê-ông, nghĩa là không cho ông tham dự vào đời sống của Giáo Hội nữa.


Na-pô-lê-ông gầm thét lên cách giận dữ, ông nói với Ðức Giáo Hoàng:


- Ðức Giáo Hoàng nghĩ rằng với việc rút phép thông công ấy binh sĩ của ta sẽ buông súng ư?


Vài năm sau, từ những cánh đồng băng giá bên nước Nga, một bản báo cáo được đánh đi: "Các binh sĩ của chúng ta đang buông súng".


Năm 1812, Na-pô-lê-ông dẫn quân ra khỏi nước Nga, và năm sau đó ông hoàn toàn bị quân đội đồng minh đánh bại. Tại chính biệt thự Phông-ten Bơ-lô, nơi ông đang giam giữ Ðức Giáo Hoàng Piô VII, hoàng đế của nước Pháp đã ký tên từ chức. Và Ðức Piô VII trở lại Rôma giữa tiếng reo hò mừng vui của thế giới Công giáo.


*

*    *


Trải qua hai ngàn năm lịch sử với bao thăng trầm, thử thách, Giáo hội Công giáo vẫn luôn đứng vững. Bất chấp mọi tấn công của quyền lực ma quỉ, Giáo hội vẫn nắm vững niềm tin vào Chúa Kitô để tồn tại và phát triển, hầu nên ánh sáng của muôn dân và mang ơn cứu độ đến cho mọi người.


Ðức Giáo Hoàng là vị đại diện tối cao của Chúa Kitô, nơi ngài, Chúa Kitô đã trao phó trách nhiệm quyền bính cai quản và hướng dẫn Giáo hội.


Là những chi thể của Giáo hội, chúng ta trung thành và trọn tình yêu mến Chúa Kitô, chúng ta cũng hết dạ kính tôn và hiếu thảo đối với đấng đại diện của Người, Ðức Giáo Hoàng, là thủ lãnh tối cao của Giáo hội, và là vị cha chung của mọi tín hữu.



70 - CẦU NGUYỆN VỚI BỨC TƯỜNG

Một du khách đến cầu nguyện bên cạnh bức tường gọi là "bức tường than khóc", dưới chân nền đền thờ xưa kia của thành Giêrusalem. Trước hết, vị du khách cất tiếng kêu xin:


- Lạy Chúa là Cha chúng con, xin Chúa làm cho thế giới này không còn nghèo khổ và đói khát nữa.


Nghe vị du khách cầu nguyện như vậy, người hướng dẫn viên Do Thái khuyến khích:


- Thật là một lời nguyện hay! Ông hãy cầu nguyện thêm một lời nữa đi!


Vị du khách trở lại gần bên bức tường và cầu nguyện thêm:


- Lạy Chúa, xin cho giặc giã, chiến tranh không còn nữa trên mặt đất này.


Anh hướng dẫn viên Do Thái lại khuyến khích người du khách hãy thêm một lời nguyện nữa cho hòa bình trên thế giới. Người du khách liền sốt sắng cầu nguyện tiếp:


- Lạy Chúa, xin cho cuộc tranh chấp hiện nay tại Trung Ðông được giải quyết tốt đẹp, cho người Ả Rập và Do Thái được sống chung hòa bình, và cho người Do Thái biết trả lại cho người Ả Rập tất cả những đất đai họ đang chiếm đóng.


Nghe đến đây, anh hướng dẫn viên Do Thái vội vàng ngắt lời người du khách với giọng giận dữ:


- Xin lỗi ông, ông đang nói chuyện với bức tường đấy!


Nói thế rồi anh ta vội kéo du khách đi nơi khác.


*

*    *


Nhiều khi chúng ta cũng có thái độ như anh hướng dẫn viên Do Thái kia. Chúng ta cầu nguyện, nhưng chỉ cầu những gì hợp với sở thích và có ích lợi cho ta mà thôi.


Chúng ta muốn Chúa thay đổi chiều theo ý mình mà chúng ta lại không muốn thay đổi để chiều theo ý của Chúa.


Trong việc cầu nguyện, người môn đệ của Chúa tin và nói lên thái độ sẵn sàng vâng phục thánh ý Ngài, để cho Ngài toàn quyền tự do quyết định.


Khi cầu nguyện, ta không nên đòi buộc Chúa thực hiện điều ta muốn và theo cách thức ta muốn.


Khi cầu nguyện, ta cũng không thể chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình mà cố tình quên đi quyền lợi và nhu cầu của người khác.


Những lời cầu nguyện kiểu đó đích thực là và chỉ là lời cầu nguyện với bức tường mà thôi.



71 - CON CHIM CHỈ LÀ CON CHIM

Một vị tông đồ nổi tiếng của người nghèo xứ Brazil, đức giám mục Hen-đơ Ca-mê-ra đã ghi lại trong tập thơ của ngài mang tựa đề "Có muôn ngàn lý do để sống" câu chuyện sau đây:


Bên cạnh nhà tôi có một con sáo, quanh năm ngày tháng sống giữa trời. Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm tôi hỏi sáo có nơi ngủ không. Nó ngạc nhiên trả lời:


- Có chứ! Màn là trời, chiếu là đất, có bao giờ thiếu đâu.


Vì những đòi hỏi của trí khôn con người muốn biết mọi chuyện, tôi mới tò mò hỏi nó:


- Thế thì những lúc mưa gió chú ẩn mình nơi đâu?


Sáo nhanh nhẩu trả lời:


- Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?


Tôi hỏi nó có đói không. Con chim chỉ mỉm cười đáp:


- Ðiều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà.


Nói thế rồi nó cất tiếng hót như sau:


- Hỡi loài người kiêu ngạo, hãy nói cho ta biết đi, liệu các ngươi không chết sao?


Có lần, tôi nài nỉ con sáo nhận món quà tôi biếu, đó là một khúc bánh mì kẹp thịt. Thế là sáo lại được dịp cười nhạo sự ngây ngô của tôi. Nó bảo:


- Ông không biết là loài sáo chúng tôi không ăn bánh mì va thịt như các ông à?


Một lần khác, tôi hỏi sáo có cầu nguyện không. Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười và nói:


- Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót.


Ngày kia, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện nhờ các bác sĩ khám bệnh và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.


*

*    *


Với câu chuyện ngụ ngôn trên đây, đức cha Ca-mê-ra muốn nhắc nhở chúng ta rằng: nguyên nhân của những nỗi bất hạnh nơi con người là việc con người không biết chấp nhận tư tưởng, hành động và cách sống của nhau.


Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ hành động và sống như mình. Ý thức hệ nào cũng tự cho là ưu việt và muốn áp đặt trên mọi người bằng mọi cách.


Ý thức và chấp nhận những giá trị của người khác, của những xã hội, những nền văn hóa khác, đó chính là con đường dẫn đưa nhân loại đến hòa hợp, an vui, là phương thế kiến tạo tình liên đới đại đồng giữa các dân tộc.


Ðiều đó mỗi người chúng ta đều có thể thực hiện ngay qua mối tương giao với người khác, trong gia đình, ngoài xã hội, bất cứ nơi nào khác, trong gia đình, ngoài xã hội, bất cứ nơi nào chúng ta có dịp tiếp xúc với tha nhân.



72 - NGƯỜI THỢ ÐỤC ÐÁ

Ngày kia, thi sĩ La-mac-tin đi qua một khu rừng, ông chợt nghe một âm thanh kỳ lạ: cứ mỗi tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng "cám ơn". Tìm đến gần nơi phát ra âm thanh, ông mới thấy một người thợ đập đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần đập vào phiến đá, người ấy lại nói: "Cám ơn".


Thi sĩ nấn ná đến bắt chuyện. Khi nghe ông hỏi lý do, người thợ đập đá trả lời:


- Tôi cám ơn Chúa.


Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lầm than hơn nhiều người khác, thi sĩ mới nói:


- Giả như bác giàu có thì tôi hiểu được tại sao bác không ngừng nói lên hai tiếng "cám ơn". Ðàng này dường như Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có mỗi một lần, đó là lúc Ngài dựng nên bác. Sau đó Ngài lại cũng chỉ ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa. Thế thì tại sao bác lại cứ phải mỏi miệng cám ơn Ngài.


Nghe thế, người thợ đập đá hỏi vặn lại:


- Ông cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi một lần thôi sao?


Thi sĩ quả quyết:


- Ðúng thế, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần thôi.


Người thợ đập đá nghèo nhưng đầy lòng tin mới ung dung nói:


- Tôi nghĩ rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông bảo rằng Thiên Chúa chỉ nghĩ đến người thợ đập đá nghèo hèn như tôi có một lần thôi. Nhưng dù vậy đi nữa, thì lại không đủ cho tôi cám ơn Ngài luôn mãi sao? Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa!


Nói xong, ông để mặc thi sĩ đứng đó, và lại tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đục đá vừa cám ơn Chúa.


*

*    *


Từ muôn thuở, Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi trong một tình yêu vô giới hạn. Trong ý nghĩ đầy yêu thương ấy, Ngài đã tạo dựng nên tôi. Ngài tạo dựng nên tôi không giống ai cả. Dù tôi là một thi sĩ, hay một người thợ đập đá nghèo hèn, hoặc là bất cứ ai, tôi đã được Thiên Chúa tạo dựng nên như một công trình độc đáo.


Một lần nghĩ đến tôi, Ngài không bao giờ quên tôi được nữa. Một lần yêu thương tôi, Ngài sẽ yêu thương đến cùng. Một lần tạo dựng nên tôi, Ngài sẽ tiếp tục công trình của Ngài cho tới độ hoàn hảo.


Tất cả những điều ấy không thể không khơi dậy trong tôi niềm tri ân lớn lao qua từng giây phút, trót cả cuộc đời, và cho đến ngàn thu.


Dù trong hoàn cảnh nào, niềm vui lớn nhất của tôi vẫn là được thành kính dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn phát xuất tự đáy lòng.



73 - VIÊN NGỌC QUÍ

Một vị linh sư Ấn Giáo đang ngồi tĩnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu có đến xin làm đệ tử.


Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quí nhất để làm của lễ ra mắt.


Vị linh sư mở mắt ra nhưng không để lộ một chút thích thú nào. Không cần nhìn kỹ vào món quà quí giá ấy, ông cầm lấy một viên ngọc mà ném xuống giòng sông.


Vì tiếc của, người đàn ông liền lặn xuống lòng sông để tìm lại cho bằng được viên ngọc quí. Nhưng khổ công mất suốt một ngày mà ông ta không tài nào tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi và chán chường, người đàn ông mon men đến bên vị linh sư và nài nỉ:


- Ngài là người ném viên ngọc xuống lòng sông, xin ngài hãy chỉ rõ chỗ nào để tôi lặn xuống tìm lại.


Vị linh sư liền cầm lấy viên ngọc còn lại ném xuống sông rồi nói:


- Ðó, ta ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại đi.


Người đàn ông giàu có kia mãi mê lặn xuống giòng sông tìm lại viên ngọc quí mà quên việc xin theo làm đồ đệ của vị linh sư.


*

*    *


Cử chỉ của vị linh sư Ấn Giáo trên đây biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn xuất gia tu hành: đó là họ phải từ bỏ tất cả.


Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự từ bỏ như thế. Ngài đã nói với người thanh niên giàu có: anh hãy về bán hết gia tài để giúp đỡ kẻ nghèo rồi mới trở lại theo Ta. Chúa Giêsu không đòi hỏi những gì mà chính Ngài đã không thực hiện trước. Ngài không chỉ dạy ta bằng lời nói, nhưng trước hết là bằng gương mẫu của Ngài.


Từ địa vị là một Thiên Chúa, Ngài đã từ bỏ vinh quang để sống kiếp sống con người hèn mọn. Là chủ tể muôn loài, Ngài chấp nhận sống đời trần gian nghèo khó. Là nguồn mạch sự sống, Ngài từ bỏ chính mạng sống mình để sẵn lòng chịu chết ô nhục.


Cuộc đời Ngài đã sống, cái chết Ngài đã chết là cuộc sống và cái chết mà Ngài đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Ngài.


Con đường Ngài đã đi, cũng là con đường mà những ai muốn theo Ngài phải đi.


Chỉ con đường ấy, chỉ cuộc sống ấy, và cái chết ấy mới thực sự dẫn đưa người môn đệ Chúa Kitô tới cõi trường sinh vinh hiển.


Không một Kitô hữu nào lại không cần hiểu hết ý nghĩa của lời khẳng định này:


"Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, rồi vác thập giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34).


Lạy Chúa, xin giúp con đặt lại bậc thang các giá trị phù hợp với danh nghĩa người Kitô hữu, đồ đệ của Chúa. Xin giúp con đặt Chúa vào chỗ đứng thứ nhất, để từ đó, con mới dám liều mất tất cả để theo Chúa cho đến cùng. Amen.



74 - SUY BỤNG TA RA BỤNG NGƯỜI

Một ngày kia, triết gia E-sô-pô người Hy Lạp đang ngồi trước cổng thành A-tê-na, thì một người khách lạ dừng lại trước mặt ông mà hỏi:


- Thưa ngài, dân thành A-tê-na như thế nào?


Triết gia liền hỏi lại:


- Xin ông cho tôi biết ông từ đâu tới và dân thành ở đó như thế nào?


Người khách lạ nhăn mặt càu nhàu:


- Tôi từ Ac-gô đến. Dân Ac-gô toàn là một lũ láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày.


Triết gia Ê-sô-pô mỉm cười và bình thản nói:


- Thế thì tôi rất lấy làm buồn mà báo cho ông biết rằng ông sẽ thấy dân A-tê-na còn tệ hơn thế nữa.


Ngày hômsau, một người khách lạ khác đi qua cũng dừng lại và đột ngột hỏi triết gia:


- Thưa ngài, dân thành A-tê-na như thế nào?


Triết gia Ê-sô-pô cũng hỏi lại:


- Xin ông cho tôi biết ông từ đâu tới và dân thành ở đó ra sao?


Ngườikhách cho biết là ông ta cũng từ Ac-gô tới. Ðó là quê hương của ông, ông rất yêu quí Ac-gô và tỏ ra luyến tiếc vì phải tạm xa rời nó. Rồi ông ta nói tiếp với vẻ tự hào:


- Người dân Ac-gô đều là những người tốt lành phúc hậu, họ rất dễ thương.


Nghe thế, triết gia Ê-sô-pô tỏ dấu biểu lộ đồng tình và vui vẻ nói với người khách lạ.


- Này ông bạn thân mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ thấy dân thành A-tê-na cũng toàn là những người tốt, họ cũng dễ thương như thế.


*

*    *


"Suy bụng ta ra bụng người". Ta dễ xét con người, biến cố xảy ra dựa vào chính thành kiến mình đã có hay theo quan niệm và tình cảm của riêng ta.


Quan niệm ấy có thể là quân bình, khách quan, hay lệch lạc, chủ quan.


Một người sáng suốt và tốt bụng sẽ có cái nhìn lạc quan và ý nghĩ tốt lành về kẻ khác.


Một người thiển cận và bi quan sẽ nhìn kẻ khác với cặp mắt lệch lạc và nghĩ về họ theo mức độ hẹp hòi ích kỷ của lòng mình.


Người Kitô chúng ta thuộc lòng từ tấm bé những lời quả quyết của Chúa Kitô: "Chúng con xét đoán kẻ khác thế nào thì sẽ bị xét đoán như vậy" (Mt 7,2).


Nghĩ  xấu, xét đoán xấu, nói xấu kẻ khác thì làm sao chúng ta không tự đầu độc mình, làm sao chúng ta sẽ không mau chóng để lộ tâm địa xấu của mình? Khi ấy, ai còn có thể nghĩ tốt, xét tốt về ta được?


Nghĩ tốt, xét đoán tốt và nói tốt về người khác, đó chính là phương thế tuyệt hảo để tự cải thiện mình. Và đó cũng là bí quyết làm cho người khác cũng nghĩ tốt về ta, nói tốt về ta.


Làm người, ai mà không có những tật xấu, hay sơ sót. Và dù xấu đến đâu, nơi người đó cũng có điều tốt đáng cho ta bắt chước. Vậy, chúng ta đừng có thái độ đi tìm cọng rác nơi mắt anh em, mà quên mất cây đà nơi mắt mình. Hãy sống theo lời khuyên của thánh Phaolô là hãy dùng điều thiện mà thay thế cho sự dữ.


Lạy Chúa, xin giúp con mặc lên những tâm tình của Chúa, luôn yêu thương con người dù con người không đáp trả tình yêu đó. Xin Cho con đổi mới tâm hồn mình để có thể nhìn thấy điều tốt nơi mọi anh em con.



75 - CÁI GỐI RƠM CỦA NGƯỜI TU SĨ

Một tu sĩ trẻ được sư phụ cho phép xuống núi để đi hành hương. Giữa trưa hè nóng bức, anh ta tìm đến một gốc cây lớn để nghỉ chân. Không có sẵn gối, anh lượm lá cây và rơm rạ cuốn lại làm thành chiếc gối để gối đầu.


Bên gốc cây có một dòng suối, một số người phụ nữ có thói quen đến đó để lấy nước. Nhìn thấy người tu sĩ đang lim dim ngủ, họ mới nó nhỏ với nhau:


- Xem kìa, người thanh niên này đã chọn con đường tu trì, nhưng lại không thể ngủ mà không có gối để gối đầu. Anh ta đã cố gắng lấy rơm rạ để làm cho bằng được một chiếc gối.


Nói thế rồi những người phụ nữ tiếp tục đi xuống suối. Anh tu sĩ trẻ nghĩ thầm: "Những người phụ nữ này có lý khi đưa ra nhận xét như thế". Nghĩ như vậy rồi, anh ta liền quăng cái gối bằng rơm rạ đi và ngả đầu trên mặt đất mà ngủ.


Từ dòng suối đi lên, những người phụ nữ nhìn lại người tu sĩ đang nằm dài trên mặt đất, không chiếu chăn, không gối kê đầu, họ liền mỉm cười và nói với nhau:


- Thật là một chàng trai dễ thương. Nhưng thật đáng tiếc, anh ta quăng cái gối đi chỉ vì lời nhận xét của chúng ta. Anh ta tìm cách làm vừa lòng những người phụ nữ hơn là làm đẹp lòng Thiên Chúa của anh ta.


*

*    *


Không riêng gì vị tu sĩ kia, nhiều người khác cũng đã có thể có thái độ tương tự trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống đức tin của họ.


Nếu người ta chỉ sống đạo vì nể kẻ khác, vì sợ lời bình phẩm, thì cuộc sống đạo ấy có khác chi một vở tuồng.


Nếu người ta chỉ đi tu vì danh dự, vì muốn làm hài lòng bà con thân thích, thì đời tu ấy cũng chỉ là một trò bôi bác mà thôi.


Tuy nhiên, nếu ta biết thành tâm đón nhận những góp ý của người khác để hoàn thiện hóa cuộc sống mình, thì những góp ý ấy sẽ quí báu cho ta biết chừng nào.


Thánh Phaolô Tông đồ đã khuyên những người con tinh thần của ngài nơi (2 Cor 5,9): "Bất cứ điều gì chúng ta làm, hãy làm sao để được đẹp lòng Thiên Chúa". Ngài nhắc cho các tín hữu Galat nơi (Gal 1,10) rằng: "Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người ta, thì tôi không phải là đầy tớ của Chúa Kitô nữa".


BÀI 76 - 100

76 - MỘT KHÁM PHÁ BẤT NGỜ

Hồi sinh thời, văn sĩ Pi-rông người Pháp thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Bu-lô-nhơ giữa thủ đô Paris. Một lần kia, ông ngồi nghỉ chân trên một chiếc ghế đá kê sát một bức tường.


Chỉ lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong số nhưng người đang đi dạo, có mấy người đến gần ông ngả nón chào, có vài người còn bái gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lại cảm tình mà du khách dành cho ông.Ông không ngờ rằng ông được nhiều người mếm mộ như thế. Ông thầm mong một số bạn bè trong văn giới chứng kiến cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt tới...


Nhà văn đang say sưa với vinh quang va danh dự thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một lão bà biểu lộ một thái độ khác thường. Trước nhất, giống như mọi người khác, bà lão cúi chào. Nhưng rồi bà đến gần ghế vừa thì thầm nói điều gì mà nhà văn không nghe rõ, vừa ngước mắt nhìn lên cao.


Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng quay đầu người mắt nhìn lên phía trên tường. Bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu ông có một bức tượng thánh giá.


Quá hổ thẹn vì sự khám phá ấy, nhà văn Pi-rông liền đứng dậy và lặng lẽ bỏ đi nơi khác.


*

*    *


Ðược kính nể, được ca tụng, ai mà không cảm thấy ấm lòng mát dạ.


Danh dự và vinh quang là điều mà không một con người nào lại không mơ tưởng, không âm thầm khát mong.


Tuy nhiên, ta đừng vội gán cho mình những gì mình không có, cũng đừng mưu mô mánh khoé để đoạt lấy vinh quang hay danh dự của kẻ khác. Tệ hơn nữa, đừng tự kiêu loại bỏ Thiên Chúa, để đoạt lấy vinh quang và danh dự của Ngài. Mặc dù con người là vinh quang của Thiên Chúa, như lời thánh I-rê-nê "Vinh quang của Thiên Chúa là con ngưòi được sống", thì trước mặt Thiên Chúa con người chẳng có gì để tự phụ cả.


Thánh Phaolô đã quả quyết: "Ta chẳng có gì mà lại không lãnh nhận được từ Chúa. Mà nếu đã lãnh nhận thì ta có lý gì nữa để mà tự hào, mà hãnh diện đâu?"


Vì thế thánh Tông Ðồ khuyên nhủ ta: "Nếu có vinh quang thì hãy vinh quang trong Chúa".


Ðược tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang nơi mình vinh quang của Ngài. Bổn phận của ta là giãi tỏa vinh quang ấy bằng một cuộc sống đúng như Thiên Chúa muốn, một cuộc sống tốt lành, bày tỏ những nét thiện hảo, xinh đẹp của Thiên Chúa, để thiên hạ thấy mà không phải ngợi khen ta, nhưng "ngợi khen Cha chúng ta, đấng ngự trên trời". "Chúng con hãy nên trọn lành, nhân từ như cha chúng con trên trời là đấng trọn lành". Hơn nữa khi nhận được điều gì tốt lành, chúng ta hãy khiêm tốn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã thương ban cho ta được hưởng những sự tốt lành đó. Nguyện chúc mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Chúa. Amen.



77 - GƯƠNG MẶT ÐẤNG CỨU THẾ

Một trong những tác phẩm nổi tiếng của danh họa Lê-ô-na-đô Ða Vin-si chính là bức tranh diễn tả bữa Tiệc Ly, trong đó nhân vật chính là Chúa Giêsu được vây quanh bởi các tông đồ.


Khi đem bức tranh ra triển lãm, Lê-ô-na-đô Ða Vin-si đã kín đáo đứng trong một góc phòng để quan sát cách thưởng thức của khán giả. Ông ngạc nhiên vô cùng, khi thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt của Chúa Giêsu mà là một cánh hoa nhỏ mà ông đã vẽ ở góc bức tranh theo thói quen của thời đại.


Ông nhận thức được tức khắc rằng mình đã phạm một lỗi lầm rất lớn, đó là đặt thêm vào một cánh hoa đẹp đẽ để lôi kéo sự chú ý ra khỏi trọng tâm của bức tranh.


Ý thức được như thế cho nên khi quan khách đã ra về, ông liền dùng cọ xóa cánh hoa ở góc bức tranh đi.


Ngày hôm sau, nhà danh họa cảm thấy sung sướng vô củng khi tất cả mọi con mắt của quan khách đều chăm chú ngắm nhìn gương mặt của Ðấng Cứu Thế.


*

*    *


Sống cho Chúa Giêsu, đặt Ngài vào trung tâm của cuộc sống, nhìn thấy Ngài trong mọi sự, đó là bí quyết của các thánh.


Chính nhờ bí quyết ấy mà gương mặt của Chúa Giêsu ngày càng nổi bật trong cuộc sống của các ngài, ngày càng giãi tỏa rạng rỡ từ chính bản thân các ngài.


Một vị thánh là một bức tranh tuyệt tác mạc khải trung thực vẻ đẹp siêu phàm của dung nhan Chúa Giêsu. Nơi Phúc Âm Matthêu, Chúa Giêsu dạy các đồ đệ: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14), "hãy để cho ánh sáng chiếu tỏ trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc tốt chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5,16).


Ðấy cũng là lý tưởng mà Kitô hữu chúng ta đang cố gắng vươn tới qua mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh của cuộc đời.


Ðể đạt tới lý tưởng ấy, để trở nên bức chân dung hoàn hảo của Chúa Giêsu, chúng ta cần biết can đảm xóa đi những cánh hoa nhỏ của ích kỷ, của tư lợi, của hư danh.


Ước chi mẫu gương và lời tâm sự của Gioan tẩy Giả trở thành bí quyết sống của mỗi người chúng ta: Ngài phải lớn lên và tôi phải nhỏ lại. Mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Chúa mà thôi.


Lạy Chúa, xin giúp con nhìn thấy những dấu cản trở làm cho chính con và anh chị em không nhìn ra được Chúa trong đời sống chúng con. Xin thương giúp con luôn biết canh tân đời sống để luôn nhìn thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Amen.



78 - BIỂU DIỄN TRỒNG TÁO

Tại một xứ Hồi Giáo, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:


- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.


Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Ðến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:


- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.


Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:


- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.


Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.


Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc còn nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.


Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:


- Tâu bệ hạ, các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con ngưòi khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ hạ thần.


Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.


*

*    *


Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu:


"Tại cao con thấy cọng rác trong mắt anh chị em, còn cái xà trong mắt con thì con lại không thấy?" (Mt 7,3). Với những người biệt phái muốn ném đá người đàn bà bị bắt vì phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói: "Ai vô tội thì hãy ném đá chị này trước!"


Và Ngài từng dạy chúng ta:


"Con đừng kết án thì sẽ không bị kết án" (Lc 6,37).


Làm sao Thiên Chúa có thể kết án chúng ta được, nếu chúng ta biết ý thức thân phận tội lỗi của mình thành tâm sám hối để rồi từ sự khốn cùng của ta, ta nhìn mọi người với tấm lòng khoan dung, nhân hậu và luôn luôn sẵn sàng tha thứ?


Lạy Chúa, xin tha thứ cho con và giúp con sẵn sàng tha thứ cho anh chị em hơn. Amen.



79 - CƯỜI VỚI BẤT CỨ AI

Có lần mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại như sau:


Nhiều người đến thăm tôi tại Calcutta và trước khi ra về thường ngỏ ý với tôi: "Xin cho chúng tôi một lời khuyên để chúng tôi sống tốt đẹp hơn".


Tôi liền bảo họ: "Quí vị hãy về và hãy ban tặng cho nhau những nụ cười. Một nụ cười cho vợ của ông. Một nụ cười cho chồng của bà. Một nụ cười cho con cái của ông bà. Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai. Với những nụ cười tươi như thế quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương.


Nghe vậy một người trong nhóm hỏi tôi:


- Bà có lập gia đình không?


Tôi gật đầu và nói:


- Ðôi khi tôi cũng cảm thấy khó nở một nụ cười với vị hôn phu của tôi.


Và mẹ Têrêsa kết luận:


- Ðúng thế, Chúa Giêsu có thể đòi hỏi rất nhiều. Và chính khi Ngài đòi hỏi như thế thì không gì đẹp cho bằng nở một nụ cười thật tươi với Ngài.


*

*    *


Các sách Phúc Âm không ghi lại một nụ cười nào của Chúa Giêsu mà chỉ đôi ba lần nhắc đến những thổn thức và tiếng khóc nức nở của Ngài. Vậy mà cả cuộc đời, những lời rao giảng, những việc làm và nhất là cái chết của Ngài được gọi là Tin Mừng.


Chúa Giêsu mang đến cho con người một Tin Mừng, bởi vì qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của mình, Ngài đã mang đến cho mọi người con đường hy vọng. Ðau khổ và sự chết đã bị khắc phục, bởi vì hy vọng, niềm vui, sự sống đã bừng dậy từ đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu.


Chúa Giêsu chính là nụ cười của Thiên Chúa được gửi tặng chúng ta. Trong Ngài con người tìm được ý nghĩa của cuộc sống, ngay cả khi gặp thất bại, khổ đau. Trong Ngài con người tìm được niềm vui, ngay cả khi thua thiệt mất mát. Trong Ngài, con người tiếp tục hy vọng, ngay cả giữa những giờ phút tăm tối nhất của cuộc đời.


Nụ cười lôi cuốn nụ cười. Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi con người một nụ cười đáp từ.


Cười vui với Ngài là biết đón nhận từng phút giây trong cuộc sống và mọi biến cố với tất cả tin yêu, hy vọng, phó thác.


Cười vui với Ngài là luôn sẵn sàng nhận ra Ngài với khuôn mặt của mỗi người anh em.


Cười vui với Ngài cũng có nghĩa là biết trao ban một ánh mắt cảm thông, một nụ cười thân thiện, một lời nói ủi an tha thứ với tất cả mọi người.



80 - VIÊN ÐÁ NÓNG BÊN BỜ BIỂN

Người ta kể lại rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao nhiêu quyển sách khác.


Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật của một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng.


Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Hắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, còn viên đá quí này thì lại nóng.


Một nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ Hắc Hải và ngày ngày nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào lạnh ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt lên một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả.


Ông lại tiếp tục làm công việc ấy trong một năm nữa. Nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí. Thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến một viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nổi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển.


*

*    *


"Nước Trời như viên ngọc quí, người ta phải bán tất cả cơ nghiệp để đi tìm cho được viên ngọc ấy" (x Mt 13,45-46).


Mọi Kitô hữu đểu được mời gọi từ bỏ để lên đường tìm Nước Thiên Chúa. Công cuộc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian, hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt chúng ta phải không ngừng tìm kiếm để mong gặp được Nước Trời.


Nhưng Nước Trời là gì nếu không phải là Chính Thiên Chúa đấng đang đến với ta, đang ban tặng chính mình cho ta.


Ðiều quan trọng là ta không để cho những sinh hoạt của cuộc sống trở thành một thói quen vô nghĩa, làm lu mờ đi sự hiện diện của Chúa.


Trong mọi giây phút, mọi công việc, qua mọi biến cố, ta cần tỉnh táo để phát hiện ra Ngài và hân hoan đón nhận Ngài.



81 - NGỒI BÊN ÐỐNG VÀNG

Một người giàu có và tham lam bỗng thấy tiền bạc, của cải của mình biến thành tro bụi. Người ấy đau buồn thất vọng đến nỗi không thiết ăn uống gì nữa.


Hay tin ông ta đau nặng, một người bạn đến thăm. Sau khi hiểu nguyên nhân căn bệnh, người bạn mới nói:


- Anh đã không biết xử dụng tiền bạc của cải anh có. Chính vì thế anh càng thu tích thì chúng càng trở nên tro bụi. Xin anh hãy nghe lời khuyên của tôi đây: anh hãy đưa cả đống tro bụi ấy vào hiệu buôn của anh. Rồi anh ngồi trên đó mà rao bán cho mọi người.


Người giàu có làm theo lời khuyên của bạn. Ông ngồi trên đống tro mà rao hàng. Có người hỏi tại sao ông bán tro, ông trả lời:


- Ðây là tất cả tài sản của tôi.


Ngày kia, một em bé gái mồ côi đi qua trước cửa tiệm. Em nghèo, nhưng lòng không chút vấn vương tiền của. Thấy người giàu có ngồi trên đống tro, em bé nói:


- Thưa ngài, ngài không biết là ngài đang bán vàng và bạc đó sao?


Ngạc nhiên trước lời nói chân thành của em bé, người giàu có mới khẩn khoản van xin:


- Xin cháu chỉ cho chú biết đâu là vàng đâu là bạc trong đống tro này.


Em bé liền đưa tay bốc lấy một nắm tro. Tức khắc vàng liền hiện lên trên tay em trưóc sự ngỡ ngàng của người giàu có.


*

*    *


Câu chuyện ngụ ngôn trong kinh điển nhà Phật trên đây muốn nói đến quan niệm của con người về sự vật. Người ta có thể nhìn sự vật bằng hai cách khác nhau.


Người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thỏa mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa.


Trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải được đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.


Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt vào họ.


Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá hủy giá trị và ý nghĩa của chúng đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình.


Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng ham tích trữ tiền của, đừng lo làm giàu trước mặt người đời, nhưng hãy làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, chuyên chăm tìm kiếm Nước Chúa như gia nghiệp của đời mình.



82 - ÐÔI CÁNH PHƯỢNG HOÀNG

Một ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ để đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật chung quanh.


Thấm thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn đàn con và nói:


- Ðã đến lúc các con phải tập bay.


- Bay như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi.


Chim mẹ trả lời:


- Các con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình xuống và vỗ cánh để gió nâng các con lên.


Ba chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.


Ngày hôm sau chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:


- Ðã đến lúc các phải tập bay.


Một chú chim con sợ hãi nói:


- Vực thẳm sâu quá!


Con khác tiếp lời:


- Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.


Và con thứ ba thú nhận:


- Chúng con sợ quá, mẹ ơi!


Nhưng chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:


- Hãy đi ra bờ vực thẳm!


Thấy đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:


- Hãy đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!


Theo lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Ðến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và tung cánh. Ðược gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời cao rộng.


*

*    *


Trong cuộc đời trần thế có biết bao gian truân nặng nhọc, trong cuộc sống đức tin cũng không thiếu cam go thử thách. Lắm khi chúng ta giống như những con chim non, ngỡ ngàng sợ hãi trước bổn phận làm người, trước ơn gọi làm Kitô hữu.


Nhưng Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta "Ðừng sợ!" Ngài đã trấn an các tông đồ: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước" (Mt 28,18).


Chúng ta không sợ, vì có Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Trước mặt Ngài, chúng ta đáng giá hơn nhiều những con chim sẻ. Với Ngài, mọi sợi tóc chúng ta đều được đếm kỹ cả, chẳng sợi nào rụng đi mà không do Ngài xét định nên hay không nên.


Chúng ta không sợ, vì Thiên Chúa là Cha quyền năng luôn bảo vệ chúng ta trong cánh tay của Ngài. Không sức mạnh thù địch nào thắng được ta, không gian nguy thử thách nào làm ta phải hoảng hốt. Có Ngài nâng đỡ ta "như trên đôi cánh phượng hoàng" (Xh 19,4), đời ta sẽ luôn an toàn vững bước.


Lạy Chúa, xin dạy con sống tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chúa biết những gì chúng con cần. Amen.



83 - CHƠI TRÒ CHƠI NÀO

Ngày kia, ông Mac-sa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi đùa với nhau.


Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:


- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?


Ðám trẻ nhón nháo trả lời:


- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.


Nghe thế ông Mac-sa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:


- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.


Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:


- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.


Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp thuận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng một em bé hỏi:


- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.


*

*    *


Làm sao trẻ em biết chơi trò chơi hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh?


Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ... khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau...?


Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thường thấy trên tivi, tranh ảnh, những cảnh chiến tranh khốc liệt, chém giết dã man?


Chừng nào thế giới của người lớn biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng ấy thế giới trẻ thơ mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình và xã hội.


Chúng ta đừng quên lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: "Ai làm dịp tội cho một trong các trẻ em đã tin Ta, thì thà rằng buộc cối đá vào cổ kẻ ấy và quăng xuống đáy biển còn hơn" (Mt 18,6).


Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhớ lại trách nhiệm của mình, biết giúp đỡ nhau bằng lời nói sự thật và bằng việc làm tốt. Amen.



84 - Cầu Nguyện Trong Tiếng Ếch

Một vị ẩn sĩ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.


Một buổi tối, ông đang cầu nguyện thì một con ếch không biết từ đâu bỗng cất tiếng kêu inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung lòng trí vào lời cầu nguyện để khỏi nghe thấy tiếng ếch. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không chịu nổi nữa, vị ẩn sĩ quát:


- Câm miệng đi cho ta cầu nguyện được không?


Mệnh lệnh đầy uy lực của vị ẩn sĩ đã bịt miệng con ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, như nghe vang vọng trong tâm hồn một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông:


- Có lẽ Chúa không ưa thích tiếng kêu của ếch bằng lời cầu kinh của ngươi chăng?


Ẩn sĩ hỏi lại:


- Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?


Tiếng nói trong tâm hồn đáp:


- Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa dựng nên âm thanh không?


Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm. Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho ếch:


- Nào, hãy hát lên đi.


Tiếng kêu của chú ếch vang lên. Mấy chú ếch chung quanh cũng hòa theo một nhịp, tạo thành một bài ca, lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu lúc tha thiết. Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn. Trái tim nhà ẩn sĩ cũng bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ, và lần đầu tiên trong đời ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.


*

*    *


Nhà ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây tuy đã có được quyền uy sai khiến thú vật, nhưng ông lại vẫn chưa biết cầu nguyện như thế nào.


Thiên Chúa mà chúng ta cầu nguyện không phải là một Thiên Chúa bị giới hạn trong những điều kiện, hay bị nhốt kín trong cái hẹp hòi của con người.


Cầu nguyện không phải là giam hãm Thiên Chúa lại trong cái bé nhỏ ti tiện của mình, nhưng là mở rộng lòng ra cho Thiên Chúa.


Chúng ta chỉ có thể gặp được Thiên Chúa ở nơi Ngài hiển ngự. Mọi công trình Thiên Chúa tạo dựng là ngai tòa vinh quang của Ngài. Với tư cách là một thành phần trong công trình của Thiên Chúa, dẫu là thành phần cao trọng bậc nhất, con người cần phải hòa mình vào van vật, nên một với thiên nhiên để khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và gặp gỡ được Ngài.


Lời cầu nguyện của ta phải hòa nhịp với âm thanh của vũ trụ.


Chỉ lời cầu nguyện đại đồng ấy mới xứng đáng ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, mới có hiệu năng hoàn thiện hóa cuộc đời.


Thánh Phanxicô thành Assisi đã nêu gương cho chúng ta khi ngài mở rộng tâm hồn kêu gọi mọi tạo vật hãy chúc tụng Thiên Chúa. Sách Ðaniel trong chương 3, (x. TV 29/30; TV 72,19; TV 96,3; TV 97,6; TV 108,5) đã ghi lại lời chúc tụng Thiên Chúa của ba người trẻ bị quăng vào lửa đáng nêu gương cho chúng ta như sau:


"Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa. Muôn ngàn đời hãy ca tụng suy tôn.


Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn. Muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn".


Lạy Chúa, xin mở rộng tâm hồn và đôi mắt con, cho con nhìn thấy những kỳ công Chúa và dâng lời chúc tụng Ngài. Amen.



85 - NHÌN THẤY CHÚA

Một vị ẩn sĩ kia khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng chưa bao giờ đạt được ước nguyện. Vẫn còn có cái gì che khuất tầm mắt ông khiến ông không sao nhìn thấy Chúa được. Càng cố gắng đọc kinh cầu nguyện, càng ăn chay hãm mình, ông càng thất vọng. Ông chẳng hiểu tại sao nữa.


Thế rồi, một buổi sáng khi vừa ra khỏi giường ông bỗng reo hò sung sướng. Ông đã tìm ra lý do. Ðó là một cái tách nhỏ nhưng rất đẹp mà gia đình đã gửi tặng ông. Nó là kỷ niệm duy nhất của gia đình mà ông nâng niu giữ gìn như một báu vật. Và dĩ nhiên, nó cũng là của cải trần thế duy nhất mà ông còn bám víu vào.


Thế là không một chút do dự luyến tiếc, vị ẩn sĩ cầm lấy cái tách thân yêu ném mạnh xuống sàn nhà. Từng mảnh vụn tung toé, từng luyến tiếc vỡ tan...


Vị ẩn sĩ ngước mắt nhìn lên. Và sáng hôm ấy là lần đầu tiên ông nhìn thấy Chúa.


*

*    *


Chúng ta được tạo thành cho Chúa. Nên chúng ta chỉ được an nghỉ khi nhìn ngắm dung nhan Ngài mà thôi.


Khao khát thấy Chúa phải là mơ ước duy nhất của người Kitô hữu. Nhưng không ai thấy Chúa mà vẫn còn sống. Có nghĩa là chỉ khi nào chúng ta chấp nhận chết đi cho bản thân ích kỷ, cho đam mê trần tục, cho của cải phù vân, cho trần gian giả trá, khi ấy lòng chúng ta mới trong sáng, cặp mắt đức tin chúng ta mới rạng ngời để nhận ra được dung nhan Thiên Chúa.


Ngài luôn luôn ngự trị trong lòng chúng ta, nơi vạn vật, nơi mọi người, mọi biến cố. Nhưng nếu lòng chúng ta nặng trĩu bản thân, mắt chúng ta lu mờ vì sự vật, làm sao chúng ta nhìn thấy Ngài được nữa?



86 - CÔ GÁI PHI THƯỜNG

Hê-lân Kê-lơ là một cô gái mù, điếc và câm ngay từ khi mới sinh được vài năm. Nhưng nhờ ý chí phi thường, cô đã học hành và tốt nghiệp đại học, trở thành bậc khoa bảng.


Hê-lân kể lại rằng, chính cô giáo của em là Sô-li-vân đã giúp em tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Một buổi sáng, khi Hê-lân lên 8 tuổi, cô Sô-li-vân đã dắt em đến bên cạnh cái giếng, cô kéo nước lên và xối nước vào lòng bàn tay nhỏ bé của em. Rồi cô dùng ngón tay của mình viết chữ "nước" trong lòng bàn tay em. Cô viết đi viết lại chữ "nước" ấy nhiều lần.


Phúc chốc, mắt, tai, miệng, lưỡi và trái tim của Hê-lân như được tháo cởi. Em chợt hiểu rằng cái chất lỏng đang chảy mát rượi trên tay em có tên là "nước".


Cảm nghiệm đầu tiên về nước ấy đã đưa Hê-lân vào thế giới kỳ diệu của ngôn ngữ. Bất cứ vật nào em sờ được, em cũng xin cô giáo Sô-li-vân viết tên gọi trên lòng bàn tay em.


Một hôm, trong một cơn giận dữ, Hê-lân đã liệng con búp bê của em đi. Khi cô Sô-li-vân viết chữ "búp bê" trong lòng bàn tay em, Hê-lân bỗng nhớ lại cơn giận dữ của mình. Hê-lân đã ghi lại rằng đây là lần đầu tiên trong đời em đã cảm nghiệm được thế nào là hối hận, và em đã khóc sướt mướt.


*

*    *


Chúa dựng nên con người, ban cho con người những tài năng rất đặc biệt. Con người biết làm thơ, biết vẽ, biết hát, nhất là biết hối hận và biết khóc. Chỉ có con người có thể ra khỏi thế giới sự vật và nhất là ra khỏi chính mình.


Kinh nghiệm trên đây của cô Hê-lân giúp cho ta hiểu được tính cách siêu việt ấy của con người. Bên kia cái chất lỏng tươi mát trong lòng bàn tay, cô bé mù câm điếc đã đi vào thế giới của ngôn ngữ. Bên kia con búp bê ngã đổ, cô bé đã cảm nghiệm thế nào là hối hận. Một lời nói được lắng nghe, một thế giới mới mở ra, một cuộc sống mới được khởi đầu.


Trên bình diện ngôn ngữ, con người vừa sinh ra mang lấy tội tổ tông, kể như đã bị mù tinh thần. Và có một Lời đã được nói ra, một Lời mở ra cho con người một thế giới mới, một Lời có sức thay đổi cuộc sống con người. Lời ấy chính là Ðức Giêsu Kitô, là Lời Thiên Chúa nói với con người, là Ngôi Lời, Con Thiên Chúa.


Hôm qua, hôm nay và ngày mai, Lời ấy vẫn luôn được nói lên. Ðể có thể lắng nghe Lời ấy, con người phải không ngừng tỉnh thức. Bởi vì Lời ấy chỉ được nói xuyên qua cuộc sống.


Thánh Gioan đã viết: "Và Lời đã trở thành xác thể" (Gn 1,14). Chính trong xác thể, chính xuyên qua cuộc sống mà con người vẫn nghe được Lời ấy.


Thời Chúa Giêsu người ta không chịu lắng nghe, không muốn đón nhận Ngài, bởi vì Ngài cũng mang thân xác như bao người, bởi vì Ngài cũng sống cuộc sống con người như bất cứ ai.


Ngày nay, Lời Thiên Chúa vẫn tiếp tục nhập thể và ở giữa chúng ta. Ngài vẫn ở đó và không ngừng nói với ta. Xuyên qua những con người, xuyên qua những cuộc sống dù lầm than khổ cực, chúng ta hãy lắng nghe Ngài. Vì Lời Ngài là sự thật và là sự sống.


Thánh Gioan đã xác quyết như sau nơi khởi đầu Phúc Âm của ngài:


"Ngôi Lời ở giữa thế gian, thế gian nhờ Ngôi Lời mà có. Song thế gian không biết Ngôi Lời. Nhưng những ai tiếp nhận Ngôi Lời, thì Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa..."


Lạy Chúa, xin giúp con mở rộng đôi mắt tinh thần để đón nhận Chúa vào cuộc sống của con và giúp con trung thành chu toàn thánh ý Chúa. Amen.



87 - GIÁ TRỊ CUỘC ÐỜI

Trong một vở hài kịch nổi tiếng có tên là "Thành Phố Nhỏ", tác giả đã thuật lại câu chuyện sau đây:


Thiên Chúa cho phép cô Ê-mi-li đã chết lúc còn trẻ được trở về sống một ngày với những người quen thuộc trong làng. Bấy giờ mọi giây phút trong ngày đều có ý nghĩa đối với cô. Từng lời nói, từng cử chỉ từng hành động đều được cô coi là quí giá, vì cô đã hiểu được ảnh hưởng của chúng đối với cuộc sống bên kia.


Trong khi đó thì trớ trêu thay những người quen thuộc trong làng vẫn sống như xưa, không hiểu gì cả. Họ để mặc cho những giây phút, những lời nói, những hành động qua đi một cách vô ích.


*

*    *


Ðôi khi chúng ta cũng sống giống như vậy, một cách vô ích, vì quên mất tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau, quên mất tình yêu Thiên Chúa là tình yêu thánh hóa mọi giây phút cuộc đời chúng ta, khi làm việc cũng như khi nghỉ ngơi, khi vui sướng cũng như lúc đau buồn khổ lụy.


Hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta không được sống một cách vô ích, không được quên đi mối tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau.


Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời ta có được giá trị vĩnh cửu.


Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta những khả năng để chúng ta xử dụng mà hoàn thành những trách nhiệm Ngài trao phó. Không ai được sinh ra trong cuộc đời này như một kẻ bàng quang, vô trách nhiệm. Nhưng ai cũng được sinh ra để gánh vác cuộc đời, để chu toàn định mệnh mà Thiên Chúa đã an bài xếp đặt.


Chỉ như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này:


"Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi" (Mt 25,21).



88 - LÒNG THAM KHÔNG ÐÁY

Một chủ đất bên Hoa Kỳ đã nghĩ ra trò chơi tinh quái. Ông dựng trên mảnh đất bên cạnh nhà một tấm bảng có ghi hàng chữ: "Mảnh đất này thuộc về người nào thực sự hài lòng về những gì mình đang có".


Không lâu sau khi tấm bảng được dựng lên, một chủ nông trại tình cờ đi qua mảnh đất ấy. Người này nghĩ thầm: "Ta phải nhanh tay kẻo có người đến trước ta. Là một chủ nông trại, ta có tất cả những gì mình cần, cho nên ta mới xứng đáng hưởng phần đất này" Nghĩ thế rồi ông ta đến trình diện với người chủ đất.


Vừa thấy ông ta, người chủ đất liền hỏi:


- Ông có thật sự hài lòng về những gì ông đang có không?


Người chủ nông trại liền trả lời:


- Dĩ nhiên. Bởi vì tôi có tất cả những gì tôi cần.


Nghe thế, người chủ đất vặn hỏi:


- Này ông bạn, nếu ông bạn đã thực sự hài lòng về những gì ông đang có, vậy thì ông còn muốn lấy thêm mảnh đất này để làm gì?


*

*    *


Của cải vật chất dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ.


Càng giàu có, người ta càng xây thêm kho lẫm, dựng lên các hàng rào và tường lũy.


Ðược bao bọc trong một thứ an ninh giả tạo như thế, người giàu có cũng dễ dàng cắt đứt liên lạc với kẻ khác và co rút trong vỏ ốc ích kỷ của mình.


Người giàu mà tham lam được Chúa Giêsu gọi là kẻ ngu dại. Vì họ tự giam mình trong một thứ mồ chôn chính mình mà không hay biết.


Cái ngu dại của người giàu là nghĩ rằng của cải vật chất có thể bảo đảm cho mình được yên ổn. Cái ngu dại của người giàu chính là thu tích và cất giữ cho mình một thứ kho tàng không bao giờ thuộc về mình cách vĩnh viễn.


Thay cho thứ kho tàng mà mối mọt có thể đục khoét, thay cho một kho tàng mà con người không bao giờ có thể giữ mãi trong tay, Chúa Giêsu loan báo kho tàng vĩnh cửu.


Ðể chiếm được kho tàng ấy, con người phải bán tất cả, phải cho đi tất cả, phải từ bỏ tất cả những gì mình có (x. Mt 19,21).


Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: "Ai trong các con không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta" (Lc 14,33).


Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số người Kitô chúng ta, là có của mà lòng không tham lam, không dính bén, không nô lệ cho của cải. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, biết chia sẻ cho bất cứ ai đang cần sự giúp đỡ của mình.


Ðấy phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ Chúa Giêsu.


Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại, biết chia sẻ với anh chị em xung quanh, dù là qua những việc làm tầm thường bé nhỏ. Amen.



89 - XUA ÐUỔI BÓNG TỐI

Chuyện xưa Ấn Ðộ đã kể như sau:


Ngày kia, các học trò của thầy Ha-xi-đích bên Ấn Ðộ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỉ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỉ.


Thầy Ha-ri-đích đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các học trò ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo.


Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ.


Thầy Ha-xi-đích lại bảo các học trò lấy gậy đập bóng tối để đuổi quỉ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy bảo các học trò hãy xuống hầm gào thét, nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.


Sau cùng thầy bảo các học trò:


- Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến.


Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi. Căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.


*

*    *


Bóng tối của tà thần vây phủ khắp nơi bằng nhiều hình thức: gian dối, hận thù, chiến tranh, bất công, bóc lột, tệ nạn xã hội, sách báo tranh ảnh đồi trụy, v.v...


Người ta đã tốn biết bao công sức, đổ biết bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi. Tất cả hầu như đã không giúp được gì. Bóng tối vẫn nguyên đó. Nhiều khi còn dầy đặc hơn.


Ngoài ánh sáng ra, có gì xua đuổi được bóng tối? Nỗ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi. Cần phải khơi dậy nguồn sáng.


Mỗi con người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Mỗi người cần phải tự mình thắp sáng lên cây đèn của mình.


Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ bớt tối đi. Tất cả mọi người đều thắp sáng ngọn đèn của mình, cuộc đời này sẽ sáng rực lên nguồn sống mới, vui tươi và ấm cúng biết chừng nào.


Hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta phải là những cây đèn sáng đặt trên giá đèn để xua đuổi tối tăm và chiếu sáng cả nhà. Căn nhà thế giới, căn nhà Giáo Hội, căn nhà của mỗi gia đình chúng ta cần thứ ánh sáng ấy biết bao.


Là môn đệ chân chính của Chúa Kitô, chúng ta không thể quên lời Người quả quyết: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14).


Xác tín vào Lời Chúa, chúng ta sẽ gắng công dùng mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên Chúa ban, để giãi sáng ra bằng một cuộc đời gương mẫu, một cuộc sống thánh thiện xứng đáng với tư cách là những người con của Cha trên trời.


Nếu mọi người Kitô đều giãi sáng như thế, thì thế gian này làm sao còn bóng tối, cuộc đời này làm sao không rực sáng lên hy vọng và nguồn sống vui?


Chính trong viễn tượng này, mà thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Roma ở chương 12, câu 21 như sau: "Hãy chiến thắng điều xấu điều dữ bằng điều thiện điều tốt".


Lạy Chúa, xin giúp con sức mạnh thực thi điều tốt, và thực hiện mãi không ngã lòng thất vọng trước cả thái độ vô ơn của con người. Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.



90 - CON PHẢI TRẢ

Bên nước Suđan có một bộ lạc dân A-giăng-ti sống theo niềm tin tôn giáo tự nhiên. Họ tôn thờ linh hồn ông bà theo nhiều nghi lễ đặc sắc khác nhau. Nhưng ở trung tâm niềm tin tôn giáo của họ, dân A-giăng-ti đã dành chỗ nhất cho đấng Tối Cao, đấng đã tạo thành mọi sự.


Các thành phần trong bộ lạc thường cầu nguyện với đấng Tối Cao bằng lời kinh sau đây:


"Mặt trời chiếu sáng và tỏa nắng ấm xuống mặt đất, mặt trăng mọc ban đêm, êm đềm rực rỡ, mưa đổ xuống, nhưng rồi mặt trời lại chiếu sáng. Ðôi mắt Thiên Chúa canh chừng tất cả mọi biến cố này, không gì có thể trốn thoát.


Dầu con đang ở trong nhà hay ngâm mình ngoài sông, hoặc đang ngồi nghỉ dưới bóng cây rừng, Thiên Chúa luôn hiện diện trên con.


Con tưởng có thể lấn át người cô thế, mồ côi, nghèo hèn, hay có thể gạt gẫm dân làng, tham lam của cải kẻ khác, vì nghĩ rằng không ai có thể nhìn thấy. Nhưng con lầm. Hãy nghĩ lại đi. Con đang hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Ngài sẽ bắt con phải trả, phải trả, phải trả... Không phải hôm nay, nhưng ngày mai, ngày mai, ngày mai..."


*

*    *


Chúng ta nghĩ thế nào về lời kinh này?


Bộ lạc A-giăng-ti, một bộ lạc bán khai, cuộc sống của họ còn rất xa vời với cuộc sống văn minh của thế giới quanh họ, nhưng họ đã có được một niềm tin vững chắc và sống động về hiện hữu của đấng Tối Cao.


Không những tin Ngài hiện hữu, họ còn xác tín vào sự hiện diện của Ngài trên con người và trong mọi hoạt động của đời người. Không điều thiện hay điều ác nào mà Ngài không biết và không đánh giá mức độ trách nhiệm của kẻ thực hiện chúng.


Chúng ta văn minh hơn, hiểu biết hơn những người A-giăng-ti này, nhưng chúng ta có thể tự hào được là có niềm tin vững mạnh hơn họ hay ít ra bằng họ không?



91 - THẮP ÐÈN CHO AI

Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể:


Ở Úc Châu có một người thổ dân (Aborigine) sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông ta đã cao niên rồi. Từ bao năm tháng ông chỉ một thân một mình cô đơn trong túp lều tối tăm xiêu vẹo. Lần đầu tới thăm ông, tôi đề nghị:


- Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường chiếu lại cho ông.


Ông ta hờ hững nói:


- Tôi đã quen sống như vậy rồi.


Nhưng tôi bảo ông:


- Tuy vậy, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.


Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ, đẹp nhưng phủ đầy bụi bẩn.


Tôi hỏi ông:


- Có bao giờ ông thắp đèn này không?


Ông ta trả lời với giọng chán ngán:


- Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã lâu rồi mà chẳng hề trông thấy một ai cả.


Tôi hỏi ông:


- Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có bằng lòng thắp đèn lên không?


Ông vui vẻ đáp:


- Dĩ nhiên rồi.


Từ hôm đó, các nữ tu của chúng tôi quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Cũng từ đó, ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa, Trước khi chết ông nhờ các nữ tu nhắn tin cho tôi, ông nói:


- Xin nhắn với mẹ Têrêsa bạn tôi rằng, ngọn đèn mà mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã chiếu lên và vẫn còn tiếp tục sáng mãi.


*

*    *


Trong cuộc đời này, có biết bao những kiếp người cô đơn, có biết bao những cõi lòng băng giá, ngay giữa xã hội ồn ào nhộn nhịp, cũng có khi ngay trong gia đình ta.


Ai cũng muốn được yêu thương, ai cũng muốn được thông cảm. Những con người cô đơn kia đang chờ đợi ở ta một tâm hồn rộng mở. Những cõi lòng băng giá kia đang mong mỏi nơi ta một tình người thân thương ấm áp.


Hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta còn phải nhận ra khuôn mặt khả ái của Thầy mình nơi thân hình tiều tụy, nơi cõi lòng đau thương của những người anh em khốn khổ ấy, và không bao giờ quên lời Thầy đã dạy:


"Bất cứ điều gì chúng con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là chúng con đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).


Mỗi người hãy thắp sáng lên ngọn đèn bác ái nơi lòng mình để mặt đất này rực rỡ ánh huy hoàng của tin yêu và hy vọng.



92 - DÁM CHẾT CHO ÐỨC KITÔ

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ đã đến gắp một vị mục sư.


Viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói:


- Ông biết không? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng ông không bao giờ tin ông Giêsu là con Thiên Chúa.


Vị mục sư cười và trả lời:


- Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.


Viên sĩ quan quát lớn:


- Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!


Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:


- Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông.


Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:


- Tôi không thể nói như vậy, vì đúng, Ðức Kitô thật là Con Thiên Chúa.


Nghe thế, viên sĩ quan liền vất khẩu súng xuống sàn nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói:


- Ðúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng vẫn có người dám chết cho Ðức Kitô.


*

*    *


Dám chết cho Ðức Kitô. Ðó là điều mà qua hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội biết bao nhiêu Kitô hữu ở khắp nơi đã thực hiện. Ngày nay cũng không thiếu những Kitô hữu dám chết cho niềm tin của mình. Không thiếu những người hiểu được lời Chúa:


"Ai dám mất mạng sống vì Ta thì sẽ tìm lại được" (Mt 10,39).


Theo Chúa Kitô là chúng ta chấp nhận đòi hỏi gắt gao của Ngài. Theo Ngài là phải từ bỏ hết, cả đến mạng sống mình nữa.


Ai trong chúng ta dám mất mạng vì thầy mình?


Ai trong chúng ta dám chết để tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô?


Chết cho Ngài đâu luôn luôn phải là máu chảy, đầu rơi.


Chết cho Ngài thường chỉ là chối từ gian trá, để sống chân thật; thắng vượt đam mê ích kỷ để có tấm lòng thanh thoát, vị tha; dẹp bỏ hận thù để yêu thương, chia sẻ; diệt tính ươn lười để chu toàn bổn phận làm người, làm con Chúa.


Chết như thế, mấy ai đã chết được?



93 - CẦU NGUYỆN DỄ LẮM SAO

Ngày kia khi cỡi ngựa đi ngang qua một ngôi làng, thánh Bê-na-đô gặp một nông dân đang đi bộ trên đường. Thấy ngài, người nông dân nói:


- Ông đã chọn một nghề thật an nhàn. Tại sao tôi không trở nên một người tối ngày chỉ biết cầu nguyện để cũng có một con ngựa để cỡi.


Nghe nói vậy, thánh Bê-na-đô bình tĩnh hỏi:


- Thế anh tưởng cầu nguyện dễ lắm sao? Này, tôi đánh cuộc với anh, nếu anh đọc được một kinh lạy Cha từ đầu đến cuối mà không lo ra, tôi sẽ tặng anh con ngựa này.


Người nông dân tỏ vẻ ngạc nhiên đến tột độ, và hỏi:


- Thật không?


Thấy thánh Bê-na-đô gật đầu tái xác nhận lời hứa, người nông dân vội vàng nhắm mắt chắp tay đọc to:


- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến.


Vừa đọc đến đây, bỗng anh ta ngừng lại và hỏi:


- Dĩ nhiên là tôi có thể lấy cả yên ngựa và giây cương nữa chứ?


Thánh Bê-na-đô trả lời:


- Anh không được gì cả. Anh không được ngựa, vì anh đã lo ra rồi!


*

*    *


Cầu nguyện chăm chú và thành tâm không phải là dễ. Mà cầu xin trong kiên nhẫn, không nản lòng càng khó hơn.


Những gì người Kitô đạt được trong cuộc sống phần lớn đều tùy thuộc vào cách người ấy cầu nguyện.


Linh mục Ro-ma-nô Gac-đi-ni, một nhà thần học nổi tiếng đã viết:


"Chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta mọi sự, xin ban cho chúng ta những nhu cầu vật chất của đời sống. Nhưng cũng xin ơn sức mạnh để chu toàn bổn phận. Xin sự nâng đỡ khi tâm hồn cảm thấy yếu đuối. Xin ơn can đảm để chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng. Xin ơn chấp nhận sự thật, ơn thăng tiến trong tình mến Chúa yêu người. Bởi lẽ trong cuộc sống chúng ta luôn thấy có những nhu cầu vượt quá tầm tay chúng ta..."


Nhưng không hiếm khi chúng ta cầu nguyện mà chẳng được gì. Phải chăng chúng ta chưa xác tín trọn vẹn vào lòng nhân từ của Chúa? Không xác tín, làm sao có thể dồn hết lòng trí vào lời cầu? Và khi ấy lo ra là chuyện quá thường xuyên.


Một lời cầu lo ra hoặc lơ đễnh, làm sao Thiên Chúa có thể chấp nhận được?


Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc mỗi người đồ đệ của Ngài như sau:


"Chúng con hãy cầu nguyện luôn. Hãy xin thì sẽ được. Hãy gõ thì sẽ mở cho.


Những gì chúng con nhân danh Thầy mà xin cùng Cha, thì Cha sẽ ban cho chúng con..."


Lạy Chúa, xin giúp con luôn tin tưởng vào Chúa. Con xin đặt trọn cuộc đời con trong bàn tay Chúa. Nguyện danh Chúa được cả sáng. Amen.



94 - Vị Thiền Sư Nổi Tiếng

Mời quý vị và các bạn theo dõi câu chuyện về một vị thiền sư nổi tiếng người Nhật, tên là Ha-cu-in. Sau nhiều năm sống ẩn dật trên núi, thì một ngày kia, một thiếu nữ, con nhà giàu trong làng, tố cáo với mọi người là vị thiền sư đã làm cô mang thai. Vừa nghe tin ấy, cả dân làng do cha mẹ của thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa ông đủ điều.


Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?"


Ai cũng nghĩ rằng đó là một cách nhận tội. Và khi đứa bé chào đời, thiền sư Ha-cu-in lặng lẽ đến nhận nó về. Ông bồng ẵm, nâng niu và chăm sóc như con ruột của mình vậy.


Nhưng khoảng 18 tháng sau, người thiếu nữ bỗng hối hận về hành vi của mình. Cô ta thú nhận rằng bố của đứa trẻ là một ngư phủ trong làng.


Nghe tin ấy, ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Thế là một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ người thiếu nữ, cả làng kéo đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị tu sĩ thánh thiện.


Khi nghe mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và phục hồi danh dự cho mình, vị thiền sư vẫn chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?"


*

*    *


Quý vị và các bạn thân mến,


Thái độ điềm nhiên trước sau như một của vị thiền sư trên đây biểu lộ một tâm hồn đã hoàn toàn làm chủ được mình, và đồng thời cũng làm chủ được mọi tình huống.


Một tâm hồn như thế nói lên sự siêu thoát cao độ. Tâm hồn ấy chẳng còn chấp nệ với ích kỷ nhỏ nhen, với hư danh ảo vọng. Tâm hồn ấy chẳng còn bị lay chuyển bởi bất cứ rủi may, hên xui nào ở đời này.


Không những bởi làm chủ được mình, làm chủ được ngoại vật và hoàn cảnh, thái độ điềm nhiên thanh thoát của người Kitô hữu còn là kết quả của một niềm tin trong sáng, vững mạnh vào tình thương và uy quyền của Thiên Chúa.


Thái độ ấy mở rộng lòng người đón nhận chương trình của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Cho dù có trải qua tối tăm và thử thách, con người vẫn xác tín ở sự thành công mỹ mãn.


Thái độ ấy nói lên niềm tin nơi chính bản thân mình. Dù có yếu hèn, có vấp ngã, con người vẫn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.


Thái độ ấy biểu lộ cái nhìn lạc quan trước cuộc đời và trước tha nhân. Dù có đen bạc tới đâu, cuộc đời vẫn luôn có một ý nghĩa cao cả để vươn tới. Dù gian trá và độc ác tới đâu, tha nhân vẫn luôn là hình ảnh của Thiên Chúa, một hình ảnh tuyệt đẹp và đáng yêu.


Về điểm này, thánh Phaolô tông đồ nêu gương cho chúng ta. Khi bị điệu ra trước quan tổng trấn Phêli, thánh Phaolô đã mạnh mẽ trả lời như sau:


"Tôi xin thưa với quan là tôi phụng thờ Thiên Chúa của tổ phụ chúng tôi... Cũng như những kẻ tố cáo tôi, tôi trông cậy vào Thiên Chúa... Vì thế tôi cố gắng giữ lương tâm ngay chính và sạch tội trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người" (TÐCV 26,14-16).


"Hãy giữ lương tâm ngay chính và trong sạch". Lạy Chúa, xin giúp con mỗi ngày một tiến lên trên con đường trọn lành, gần với mẫu gương Chúa muốn chúng con đạt tới. Amen.



95 - LÀM ÐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊSU

Một buổi tối, vừa khi từ Ma-rốc trở về, Sac-lơ đơ Phu-cô say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu. Người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy mười tuổi.


Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần hỏi:


- Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc lạ quá. Thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?


Câu hỏi ấy như một luồng điện giựt khiến anh bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: "Anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu?" Sac-lơ lục soát tâm hồn mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời gian và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng phù phiếm. Tâm hồn anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ nghèo hèn của mình.


Ngày hôm sau anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Anh vào dòng khổ tu. Rồi ít lâu sau xin đến Nazareth để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.


Một ngày, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng rên rỉ của một người Hồi Giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi, anh có thể giam mình cầu nguyện giữa lúc có những người anh em đang rền rỉ trong đau thương, thất vọng được chăng?


Thế là anh quyết đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn hơn cả.


Những năm cuối đời, Sac-lơ sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ tới giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện.


*

*    *


Mọi Kitô hữu chân chính cũng đều phải tự hỏi: "Tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu?"


Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, với bao nhiêu nghĩa vụ đảm đang, bao nhiêu hồng ân lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng cho Chúa Giêsu đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ.


Tôi tự hỏi, và chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: "Con đã làm được gì cho Cha?" Cũng có nghĩa là "Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha?"


Lạy Chúa, xin dạy con sống quảng đại, biết phụng sự Chúa thật lòng và phục vụ anh chị em như Chúa đã nêu gương. Amen.



96 - LẠC QUAN VUI SỐNG

Vĩnh Khải Kỳ sống như một bậc tiên ông đạo cốt. Mình mặc áo lông cừu, lưng thắt giây, ngày ngày ông giao du sơn thủy, vui thú cầm ca, tay gảy đàn, miệng ca hát không ngừng. Một hôm đức Khổng Tử đi dạo gặp Vĩnh Khải Kỳ, ngài mới hỏi:


- Tiên sinh làm cách nào mà thường vui vẻ ca hát thế?


Khải Kỳ thưa:


- Trời sanh muôn vật, loài người cao quí nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có kẻ đui què, kẻ non yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?


*

*    *


Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu.


Kitô hữu lúc nào cũng lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Lúc nào họ cũng vui sống vì được đón nhận muôn hồng ân, vì được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Lúc nào họ cũng vui sống vì biết rằng đằng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đở, để ủi an và khích lệ.


Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có nhiều niềm vui. Kitô hữu luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận những niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương.


Và cứ thế, ngày này qua ngày khác họ hân hoan đón nhận cuộc đời, chu toàn sứ mệnh để rồi bình thản đi qua cái chết họ tiến vào niềm hân hoan vĩnh cửu.


Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa.


Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa.


Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình, mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội và toàn thế giới nữa.


Thánh Phaolô nơi thơ 1Thess 5,16-18 đã khuyên như sau: "Hãy vui vẻ luôn, hãy cầu nguyện luôn, hãy cảm tạ mọi lúc, vì Thiên Chúa muốn cho tất cả anh chị em làm như vậy trong Ðức Giêsu Kitô".


Sống vui vẻ, cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa mọi lúc, đó là bí quyết sống cho mọi Kitô hữu. Lạy Chúa, xin ban niềm vui sống cho tất cả chúng con. Amen.



97 - THIÊN PHÓNG SỰ LY KỲ

Một ký giả được phép xuống địa ngục và lên thiên đàng để viết phóng sự về đời sống của cư dân tại những nơi đó.


Sau cuộc hành trình vất vả, anh ta lọt được vào địa ngục nhằm đúng giờ ăn trưa. Anh ta rất ngạc nhiên khi thấy nơi phòng ăn bày la liệt những món sơn hào hải vị đang nóng hổi và tỏa hương thơm phức làm anh đến phát thèm.


Nhưng khi các kiều dân hỏa ngục tiến vào phòng ăn, anh ta càng ngạc nhiên hơn nữa vì thấy họ ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương, có những người đi không muốn nổi.


Anh ta lại rất đỗi sửng sốt khi chứng kiến cảnh họ dùng bữa. Vì muỗm nĩa rất dài buộc chặt vào đôi tay nên họ không thể đưa thức ăn vào miệng được. Dầu vậy họ vẫn ra sức cố gắng. Nhưng vô ích, thức ăn chỉ đổ tháo ra bàn hay rơi tung toé xuống đất thôi. Tệ hại hơn nữa là cảnh họ tranh giành nhau. Có những người cố đưa thức ăn vào miệng không được lại trở muỗm nĩa làm khí giới đánh nhau. Thật là một cảnh tuyệt vọng, một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mãn, họ rời phòng ăn mà dạ dày vẫn trống rỗng.


Quá sợ hãi, chàng ký giả vội rời bỏ địa ngục và tìm được lên thiên đàng. Anh ta lại đến nơi đúng vào giờ ăn trưa. Bàn ăn cũng đầy những thức ăn ngon lành. Quan sát cư dân ở đây, anh ta thấy ai cũng phương phi, béo tốt, khỏe mạnh. Hai tay họ cũng bị cột chặt những muỗm nĩa thật dài. Nhưng thay vì cố gắng đưa thức ăn vào miệng mình, ai nấy lại dùng muỗm nĩa đút thức ăn cho người khác. Vì thế mà mọi người đều được ăn uống nô nê. Phòng ăn vang lên những tiếng cười nói vui tươi, mãn nguyện và ấm cúng.


*

*    *


Thánh Phaolô nhắc lại lời Chúa: "Cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh".


Chúng ta cũng không quên lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Các con hãy cho đi thì sẽ được cho lại. Người ta sẽ đong bằng đấu hảo hạng, đã dằn đã lắc mà đổ đầy vạt áo các con".


Câu chuyện trên đây cho ta thấy nguyên nhân của bất hạnh nơi hỏa ngục là tính ích kỷ, và nguyên nhân của hạnh phúc nơi thiên đàng là lòng vị tha.


Bao nhiêu tranh chấp, bao nhiêu khốn cùng, bao nhiêu bất hạnh lan tràn khắp nơi, từng ngày đã làm cho mặt đất tốt đẹp này trở thành hỏa ngục. Cũng chỉ vì sự ích kỷ của con người.


Chỉ có lòng vị tha, quảng đại, biết quên mình để nghĩ đến người khác, biết hy sinh tư lợi để phục vụ tha nhân mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc đích thực. Cũng nhờ thế mà thiên đàng sẽ hiện diện ngay trên mặt đất của chúng ta.



98 - ÐÔI NẠNG CỦA ÔNG TÙ TRƯỞNG

Một ông tù trưởng của một bộ lạc bên Phi Châu không may gặp tai nạn gãy chân. Ông đành phải tập đi bằng đôi nạng.


Không bao lâu thói quen đi nạng của ông đã trở thành điêu luyện. Ông tù trưởng không những có thể chạy bằng nạng mà còn có thể nhảy múa được trên đôi nạng. Việc đi nạng không còn bị xem như là một rủi ro nữa, mà đã biến thành một nghệ thuật với đôi chân của ông tù trưởng.


Ðể cho việc đi nạng không thất truyền, ông tù trưởng bèn dạy cho các con cái của ông xử dụng đôi nạng. Không bao lâu việc đi nạng đã trở thành biểu trưng của một sự khéo léo mà tất cả mọi người dân trong bộ lạc đều phải học cho bằng được.


Sang đến thế hệ thứ tư thì không một người nào trong bộ lạc còn có thể đi đứng mà không dùng đến đôi nạng. Ðể được ghi danh vào học trong bất cứ trường nào của bộ lạc, mọi đứa trẻ phải được chứng nhận là biết đầy đủ về lý thuyết cũng như thực hành của việc đi nạng. Bộ lạc cũng nổi tiếng về sản xuất được những cây nạng có chất lượng cao.


Ngày nọ, có một thanh niên đến trình diện với các bô lão trong bộ lạc và nêu thắc mắc tại sao mọi người trong bộ lạc đều phải đi bằng nạng, trong khi Thượng Ðế đã ban cho mỗi người đôi chân là để đi đứng bình thường. Người thanh niên hứa sẽ chứng minh cho mọi người thấy anh có thể đi đứng mà không cần đôi nạng.


Thế nhưng, khi người thanh niên vừa bỏ đôi nạng ra, anh đã đỗ xầm xuống đất. Ðiều này khiến cho mọi người trong bộ lạc càng xác tín rằng không ai có thể đi đứng mà không cần đến nạng.


*

*    *


Sự lừa dối thường có hai chiều. Kẻ lừa dối không những đánh lừa người khác mà còn lừa dối cả chính mình. Chúng ta dễ thấy được điều đó trong những xã hội xây dựng trên sự dối trá. Khi sự lừa dối đã trở thành một thứ bản năng thì người ta cũng tin rằng tất cả những dối trá lừa lọc của mình đều là chân lý.


Tựu trung, dối trá là chối bỏ hoặc không muốn chấp nhận cái thực tại què quặt, bất toàn của bản thân. Ai cũng muốn che đậy con người nghèo hèn của mình bằng một lớp sơn hào nhoáng.


Bài học cơ bản mà nhà hiền triết Socrate luôn lặp lại cho các môn sinh của ông là "Hỡi người, hãy biết chính mình".


Xem chừng Chúa Giêsu cũng theo phương pháp ấy khi Ngài khởi đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài bằng lời kêu gọi: "Hãy sám hối!"


"Hãy sám hối!" trước tiên có nghĩa là hãy nhìn ra cái thân phận tội lỗi bất toàn, què quặt của mình, để rồi mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.


Nhận biết mình cũng chính là điều kiện tiên quyết, là bước khởi đầu của mọi đổi mới trong đời sống đức tin, của mọi thăng tiến trên con đường hoàn thiện.



99 - PHO TƯỢNG CỦA NGƯỜI LẠ MẶT

Một thành phố nọ đã dựng lên một pho tượng để ghi công một nhân vật lỗi lạc trong nước.


Ngày kia, có một người lạ mặt xuất hiện trước cổng thành. Ông gọi những đứa trẻ đang chơi đùa gần đó lại và xin chúng chỉ đường đi đến nơi có pho tượng.


Theo sự chỉ dẫn của các em bé, người lạ mặt đi vào thành phố. Ði được một đỗi, ông ta dừng lại ở một công viên và hỏi một cụ già đang ngồi sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Ông cụ liền hãnh diện nói:


- Chính tôi đã đề nghị dựng lên pho tượng ấy. Nói thế rồi, ông cụ chỉ đường cho người lạ mặt đi tới chỗ đựng pho tượng. Ði được một đoạn, ông ta lại đến bên một người ăn mặc sang trọng để hỏi đường đi tiếp. Người này chỉ đường và khoe:


- Không ai hiểu rõ pho tượng cho bằng tôi. Vì chính tôi là người thầu đã điều động công trình xây dựng pho tượng ấy.


Người lạ mặt tiếp tục đi, và cuối cùng đã tìm thấy pho tượng. Ông đứng lặng yên trước pho tượng một hồi lâu, rồi lại đi tiếp.


Khi ông vừa ra đến cổng thành thì một em bé nhìn chăm chăm vào mặt ông và nói với các bạn của em:


- Ông này chính là người đã được tạc tượng dựng trong thành phố chúng ta đấy.


Quả thực, ông chính là người mà dân thành đã hy sinh đóng góp công của để tạc tượng. Vậy mà khi ông đi qua giữa các ngã phố, ông gặp gỡ từng người, trò chuyện với từng người, thì lại chẳng ai nhận ra ông.


*

*    *


Câu chuyện trên đây có thể phản ánh phần nào lối sống đạo mà đôi khi chúng ta có thể rơi vào.


Chúng ta không tiếc tiền của, không ngại bỏ công sức để xây dựng thánh đường, đúc tạc tượng ảnh. Nhờ thế, dân Chúa có nơi thờ phượng, có những dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện của Chúa, mà nuôi dưỡng và tăng trưởng niềm tin.


Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ gặp gỡ Chúa được qua những pho tượng đá, chỉ thờ phượng Chúa được nơi nhà thờ, thì đức tin của chúng ta xem ra còn quá giới hạn và chật hẹp.


Một đức tin trưởng thành không thể bị đóng khung, không thể bị nhốt kín, mà cần phải được trải rộng ra, phải đi vào cuộc sống.


Chúng ta không thể nhốt Thiên Chúa của mình nơi thánh đường, hay đóng khung Ngài vào tượng ảnh. Ngoài thánh đường ra, Ngài còn hiện diện sống động nơi tâm hồn ta, giữa cuộc sống ta, nơi người anh chị em ta gặp gỡ, nơi mọi biến cố, mọi hoàn cảnh ta giáp mặt... Chính ở những nơi chốn đó mà ta cần phải quan tâm nhận ra Ngài để gặp được Ngài.


Bằng không, thì mỗi khi đến thánh đường, mỗi khi đứng trước tượng ảnh có lẽ ta cũng chỉ gặp được những bức tượng lạnh lẽo, những pho tượng đá vô hồn mà thôi.



100 - ÐI TÌM CHÉN THÁNH

Theo một câu chuyện cổ nước Anh, thì chén thánh mà Chúa Giêsu dùng trong bữa tiệc ly đã được đem về thành Cas-tân-bơ-ry. Nhưng vì lòng dạ độc ác của dân thành cho nên chén thánh này đã được đưa về trời, và chỉ những ai có tâm hồn trong sạch, quảng đại mới được nhìn thấy chén thánh.


Một người quí tộc trong thành phố này ước ao được nhìn thấy chén thánh một lần trong đời mình. Ông lên đường tiến về lâu đài trước kia đã cất giữ chén thánh.


Trong cuộc hành trình, ông gặp một người phong cùi ngồi ăn xin bên vệ đường. Ông ném cho kẻ khốn khổ một đồng tiền mà không thèm ngó đến anh ta. Và dĩ nhiên ông đã không bao giờ nhìn thấy được chén thánh.


Mấy chục năm sau, người quí tộc giờ đây đã trở thành một cụ già cũng quyết chí trở lại lâu đài một lần nữa. Lần này ông gặp lại người phong cùi cũng ở chỗ cũ, bên vệ đường.


Vừa thấy kẻ khốn cùng, nhà quí tộc liền mở hành trang, Ông rút ra một ổ bánh mì thơm ngon và một chiếc cúp bạc sang trọng. Ông chia cho người phong cùi nửa ổ bánh và ăn phần còn lại. Rồi ông dùng chiếc cúp bạc múc nước nơi dòng suối bên cạnh. Ông đưa cho người phong cùi uống trước rồi uống phần còn lại.


Vừa lúc ấy mắt ông bỗng thấy người phong cùi biến dạng. Rồi ông nghe có tiếng nói như sau:


"Chính Ta đây. Ngươi đã cho Ta ăn và uống. Bởi vì ai trao ban là trao ban cho ba người: cho bản thân mình, cho kẻ đói khát và cho chính Ta".


*

*    *


Cho đi là trước hết cho chính mình.


Một tấm lòng càng rộng mở càng có khả năng lãnh nhận nhiều. Một tác giả đã nói: "Con tim làm giàu bằng cách cho đi".


Nhưng cho người khác không phải chỉ là cho người khác. Người khác ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Người khác ấy chính là hiện thân của Chúa Kitô. Người khác ấy là "Chính Ta đây".


Cho tha nhân là trước hết cho chính mình. Cho tha nhân là tự trở nên giàu có. Nhưng cho Chúa Kitô nơi tha nhân chúng ta sẽ chắc chắn có được kho tàng vĩnh cửu, vượt xa muôn ngàn lần những giàu sang, những giá trị của đời này.


Hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta đã quá hiểu chân lý cơ bản này. Nhưng từ hiểu biết đến thực hành nhiều khi là cả một thách đố lớn lao.


Không có can đảm vượt qua thách đố ấy làm sao chúng ta sẽ là môn đệ chân chính của Chúa Kitô được?


"Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".


Tha nhân khốn khổ nghèo hèn là chén thánh chứa đựng Chúa Kitô, Tìm đến đó vơí tấm lòng quảng đại và bàn tay rộng mở chúng ta sẽ chắc chắn gặp được Ngài.