Một Tâm Hồn Quyển 2

(Thánh nữ TÊRÊSA viết - KIM THIẾU dịch) 

Cùng bạn đọc

MỘT TÂM HỒN cuốn I xuất bản chưa đầy 3 tháng đã tiêu thụ 2/3, tới nay vừa vặn 4 tháng, chỉ còn phỏng vài trăm sót lại ở các hiệu nhận bán. Nghĩa là 6.000 cuốn xuất bản đã tiêu thụ gần hết.


Đó là một trong nhiều lẽ phấn chấn dịch giả cố gắng hơn để tạ lòng các bạn đọc thân thiện.


Dịch giả rất được tự hào vì những thư khen ngợi và đòi hỏi ráo riết MỘT TÂM HỒN cuốn II gởi đến cũng như những thư thành thực yêu cầu thay đổi một vài danh từ ít được thông dụng trong quần chúng, chẳng hạn: hĩ ôi, hỡi ôi, v.v... trong lần tái bản.


Được độc giả mua đọc đã là vinh dự, lại được độc giả không tiếc lời khen ngợi cũng như không ngại kiện toàn ngọn bút dịch giả còn là vinh dự và hy vọng biết mấy! Gia dĩ có những độc giả rất hảo tâm để khích lệ văn nghệ, đã gởi tới 500, 300, 200$ xin mua một cuốn MỘT TÂM HỒN.


Xin trân trọng ghi ơn hết các bạn đọc và dám đặt mình vào ca một người mẹ trẻ đẻ con so:


Đứa con vừa lọt lòng và tắm rửa xong liền được bà con thân thích, chị em láng giềng mừng rỡ thi nhau niềm nở ẵm bế và hôn hít: Từ tay này truyền sang tay nọ, từ miệng nọ thơm tới miệng kia: “Gớm đứa con xinh, đứa con đẹp, đứa con béo mũm mĩm khéo quá!..”.


Nhìn cảnh yêu đương ấy, nghe những lời khen mát lòng mát ruột ấy, người mẹ trẻ hẳn là tự hào, hân hoan và hiên ngang lắm: Quên hết những nặng lòng lúc cưu mang, những đau đớn giờ sinh nở. Rất bằng lòng với công cuộc của mình vừa dựng nên đứa hài nhi cũng như rất hồi hộp trước những tấm thịnh tình không thể quên ơn của lâng bang làng nước.


Người mẹ trẻ sẽ vui vẻ sống và tiến tới đến chỗ sinh thêm mấy đứa con nữa.


Và đây: dịch giả MỘT TÂM HỒN cũng rất hân hạnh để đáp mối thịnh tình, được làm hài lòng các độc giả bằng cống hiến ngay.


--------------------------


MỘT TÂM HỒN - CUỐN II


MỘT TÂM HỒN cuốn II là tiếp tục câu chuyện dài tự thuật của Trinh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu gồm bốn chương và một phụ trương:


Chương IX và X, Trinh nữ đã viết hai chương này kính đệ Mẹ Đáng Kính Marie de Gonzague. Hai chương nói về đàng nhân đức rất cao xa lý thú rất khúc chiết minh bạch và được nổi bật lên vì những thực hành nhân đức của Trinh nữ rất bình tĩnh trong gió bão, rất nồng nàn trong tẻ lạnh (ordinarius in extraordinariis et extraordinarius in ordinariis).


Trinh nữ đã đem dễ dãi vào đàng nhân đức, làm mê mết lòng người ưa thích cái to, cái đẹp, cái cao siêu huyền diệu. Nhất là cái tình yêu nhân loại đã được Trinh nữ căn cứ vào Phúc Âm của Chúa Giêsu mà diễn đạt một cách tuyệt vời tuyệt bút, mà thực hành một cách hoàn mỹ hoàn hảo nhất.


Chương XI, Trinh nữ đã viết kính gởi chị Marie du Sacré Cœ là chị cả Người.


Ở chương XI này, Trinh nữ như đã bị mây đưa gió cuốn trên cánh hy vọng rất xa xăm, không còn bị kềm toả vương vấn một mảy may thế sự nào. Trinh nữ đã lao mình theo ngọn phong tình cực kỳ sôi nổi: bị chi phối, bị chế ngự bởi nguồn Tình ái quá mạnh mẽ quá sâu xa, Trinh nữ đã biến hoá thành người bởi toàn chất tình, rồi xem như không còn lý luận bằng đầu óc nữa, Trinh nữ đã lý luận bằng trái tim.


Trái tim đã đóng vai chính trong người Trinh nữ và Tình ái đứng làm động cơ cho mọi tư tưởng, mọi lỡi lẽ, mọi hành động trong Người.


Trên nhiều trang, ta thấy Trinh nữ đã ngây ngất trong biển Tình và đã có một giây phút chịu sự ngây ngất ấy không thể nổi, Trinh nữ đã vì Tình ngây ngất mà chết...


Chương XII nhà Dòng Lisiux đã viết, tường thuật rất khéo léo, rất cảm động các nhân đức, sự bệnh nạn, giờ lâm tử, mấy phép lạ và lễ án táng Chị Thánh.


Và sau hết, phần Phụ Trương là 54 bức Thư tâm sự rất hay. Chị Thánh đã viết bằng ngọn bút nồng nàn thắm thiết với nhiều lời lẽ đẹp đẽ thiết tha thân gởi các chị ruột và hai cha Thừa Sai – Anh thiêng liêng Người.


Dịch giả hy vọng MỘT TÂM HỒN cuốn II cũng sẽ được các độc giả tiếp nhận nồng hậu, nhanh chóng và sốt sắng như MỘT TÂM HỒN cuốn I vậy.


Quần Phương, ngày 21-XI-1951

KIM THIẾU




CHƯƠNG IX : THANG MÁY THIÊNG


Thưa Mẹ yêu dấu!


Một lần nữa, Mẹ tỏ ý muốn con đồng thanh cùng Mẹ để tiếp tục hoàn tất việc ngợi khen lòng Lân ái hải hà Chúa. Con chẳng dám thoái thác; nhưng con không thể không tự thẹn lại cầm bút viết những điều Mẹ am hiểu tường tận hơn con. Vâng, con xin viết, con chẳng muốn biết tập viết này có ích gì không, và, thưa Mẹ, giả như chưa đọc trang nào Mẹ đã đem đốt trước mặt con, thật, con chẳng tiếc xót khó chịu gì.


Trong nhà, chị em đều ngờ là tự khi con vào Dòng, hàng được Mẹ thương chiều mọi cách; nhưng người ta chỉ nom cái vỏ ngoài, Đức Chúa Trời mới thấu suốt lòng người  . Ôi thưa Mẹ, một lần nữa, con cảm ơn Mẹ vì đã chẳng chiều gì con. Chúa Giêsu đã biết hoa mọn Người phải được tưới nước khiêm nhượng mới trông sống, nó rất yếu ớt, nếu không được chăm thế không thể châm rễ. Chính Mẹ đã làm ơn ấy cho nó.


Thấy mấy tháng nay Chúa đã đổi hẳn cách chăm dẵm hoa mọn Người: có lẽ vì thấy hoa được bón tưới đủ rồi, Người muốn đem giãi nắng cho hoa chóng lớn. Người không muốn vui cười trực tiếp với hoa, nhưng đã dùng Mẹ để niềm nở thay.


Dưới ánh Mặt trời dịu dàng này, hoa không héo rữa, lại tươi tốt và đượm sắc nhiều. Nơi giữa đài, hoa còn giữ được những giọt sương quý hoá xưa, những giọt sương ấy hàng nhắc cho hoa biết phận mình bé mọn yếu ớt. Nhân vật thế gian có thể cúi nhìn hoa hay cho hoa chút lời khen ngợi, cử chỉ đó cũng chẳng thêm được phần nào vào sự vui thoả mà hoa vẫn cảm thấy dịu dàng man mác trong trái tim mỗi khi dưới mắt Chúa, hoa biết tự nhận là chút hư vô hèn mạt.


Thưa Mẹ, khi nói lòng dửng dưng những lời khen ngợi, con chẳng có ý gồm gập tấm lòng yêu dấu và tin cẩn Mẹ dành cho con đâu. Trái lại, con đã cảm động rất nhiều ở chỗ đó mà không e ngại gì hết, con vui sướng nghĩ đến những ơn tốt lành Chúa ban đó và cảm mến lòng Chúa quảng đại. Như Chúa lại muốn làm con xem mình tốt lành hơn con có, con cũng chẳng sao vì Chúa được tự do hoạt động triệt để thánh ý Chúa nơi con.


Lạy Chúa, đường lối Chúa dẫn dắt các linh hồn khác nhau ngần nào!


Trong chuyện các thánh thấy nhiều đấng thác đi, chẳng để lại cho thế gian chút gì, dù một con sách nhỏ, dù một kỷ niệm rất tầm thường. Trái lại nhiều đấng khác chẳng hạn: Mẹ thánh Têrêsa đã làm cho đô thành Văn hoá thiêng và Giáo lý Hội Thánh được giàu có súc tích thêm biết bao tác phẩm rất giá trị. Các thánh đã bạo dạn đem ra ánh sáng những học thuyết bí nhiệm của Vua Cả   đã tuyên truyền cổ võ thiên hạ công nhận và yêu mến Chúa hơn. Trong hai bậc thánh đó bậc nào đẹp lòng Chúa nhiều?


Con trộm nghĩ cả hai đều đẹp lòng Chúa bằng nhau.


Những linh hồn thân thiết Chúa đều sống theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng như tiên tri đã chép: Hãy bảo kẻ lành rằng: mọi sự là tốt cả  . Vâng mọi sự là tốt cả một khi người ta chỉ tìm thánh ý Chúa, vì thế mà con – thân phận một chiếc hoa mọn, con cố vâng theo ý Chúa bằng cách làm đẹp lòng đấng thay mặt Chúa ở thế gian.


Thưa Mẹ, Mẹ đã biết bấy lâu con vẫn một lòng ước ao nên thánh; nhưng cám cảnh! Khi sánh mình cùng các thánh, con thấy còn xa cách quá, tựa hồ trong cảnh thiên nhiên, hòn núi ngất ngọn trên mây sánh cùng hạt cát đen nằm lịm dưới chân khách bộ hành qua lại.


Nhưng chẳng ngã lòng, con nhủ mình rằng:


Không khi nào Chúa mở lòng tôi ước ao những điều không thể thực hiện, cho nên dù là thân phận hèn mọn, tôi ước ao làm thánh lắm. Ước ao làm lớn, dĩ nhiên không có thể rồi; tôi nay có thể nào, khuyết điểm làm sao cũng xin đành chịu; nhưng tôi muốn tìm cách về thiên đàng bằng lối đi nhỏ thẳng đẵng và vắn tắt, một lối đi hoàn toàn mới.


Hiện ta đang sống trong thời kỳ phát minh mạnh mẽ của khoa học, người ta chẳng còn khó nhọc phải trèo từng bậc thang mới lên được nhà tầng: những nhà phú hộ đã đặt máy lên xuống rất tiện lợi, không phải bước một bước mà lên cũng tới. Vậy tôi cũng muốn phát minh một thang máy để cất mình lên cùng Chúa vì tôi bé bủn leo trèo từng bậc su si gồ ghề của thang trọn lành không nổi.


Nghĩ xong, thưa Mẹ, con liền mở Kinh Thánh ra tầm xem có tia sáng gì về máy muốn phát minh kia chăng. Con đã đọc tới lời Đấng Khôn Ngoan vô cùng nói: Nếu ai bé nhỏ nhất hãy đến cùng Ta  . Con nghe vậy liền chạy đến cùng Chúa, nghĩ bụng đã khám phá được điều muốn tra cứu; song lại muốn biết Chúa yêu kẻ bé nhỏ nhất nào, con tiếp tục tìm và tìm đã thấy lời này: Như người mẹ mơn trớn con mình thể nào, Ta cũng sẽ an ủi các ngươi, ẵm bế trong lòng và ru ngồi trên gối Ta thể ấy  . Ôi, linh hồn con chưa khi nào được vui sướng nghe lời ân ái dịu dàng dường ấy! Lạy Đức Chúa Giêsu, thang máy cất tôi lên Thiên đàng là chính hai cánh tay Chúa!


Bởi vậy con chẳng cần phải lớn nữa trái lại cứ nhỏ bé là hơn và càng ngày càng phải nhỏ bé hơn mãi. Lạy Đức Chúa Trời, Chúa đã thương tôi quá lòng mong ước!


Phần tôi chỉ còn biết ngợi khen hát mừng lòng xót thương hải hà Chúa! Từ tuổi xuân xanh, Chúa đã dạy dỗ tôi từng điều, tôi đã cao rao sự tốt lành lạ lùng Chúa cho tới ngày nay, tôi còn sẽ cao rao mãi cho tới tuổi đầu bạc răng long  .


Với con, đầu bạc răng long là tuổi nào?


Con trộm nghĩ tuổi ấy là bây giờ hay sau này cũng thế thôi: dưới mắt Chúa 2.000 cũng chẳng hơn gì 20 năm, cũng chẳng hơn gì một ngày!


Nhưng, thưa Mẹ, Mẹ đừng tưởng là con ước ao bỏ Mẹ vì quý cái chết lúc rạng đông hơn khi xế chiều. Con chỉ quý chỉ cần duy một điều là làm đẹp lòng Chúa Giêsu thôi. Hình như nay Chúa đã tới gần để đưa con vào nghỉ ngơi nơi vinh phước, lòng con vui mừng lắm, con biết và hiểu rằng Đức Chúa Trời chẳng cần nhờ ai, huống nữa là con, để làm sự lành ở dưới đất.


Hay đâu có trẻ

Thưa Mẹ yêu dấu, trong thời gian chờ đợi, con đã hiểu ý Mẹ muốn con giúp Mẹ một việc vừa nhẹ nhàng vừa dịu dàng; việc ấy chỉ khi về thiên đàng con mới làm trọn được. Mẹ đã bảo con như xưa Chúa Giêsu phán cùng thánh Phêrô: Hãy chăn dắt đoàn chiên Thầy  , con đã bỡ ngỡ lắm, con nhận biết mình nhỏ mọn thiếu thốn nên đã nài xin Mẹ cứ chăn dắt lấy và rộng thương cho con được ở cùng đoàn nấp bóng Mẹ.


Yêu cầu mười, Mẹ đã cho được năm ba; Mẹ đặt con làm đầu đàn chiên Mẹ và dặn phải đem đi chăn trong những cánh đồng cỏ xanh tươi và rợp mát, phải chỉ cho chiên biết thứ cỏ ngon và bổ hơn, phải ý tứ đề phòng những thứ hoa đẹp mã mà rất độc, chẳng nên mó đến bao giờ, chỉ nên giày xéo dưới chân và nhắm mắt chạy qua.


Mẹ ơi! Sao Mẹ chẳng sợ con – trẻ người trẻ nết, - chưa có từng trải gì? Sao Mẹ không lo con làm thất lạc chiên Mẹ? Có lẽ vì Mẹ nhớ rằng thường Chúa hay ban sự khôn ngoan cho trẻ nhỏ.


Ở thế gian, người ta hay lấy trí thấp hèn mình mà suy luận quyền phép Chúa! Người ta muốn đâu đâu cũng có luật trừ, chỉ một mình Chúa lại không được thi hành luật trừ! Từ lâu con đã biết loài người quen thói đo kinh nghiệm bằng năm, (hay đâu có trẻ), cái lý do ấy đã làm vua David lúc còn niên thiếu, cất tiếng hát trong kinh thờ phượng Chúa rằng: Tôi là thiếu niên dể duôi. Cũng trong ca vịnh ấy, thánh vương đã bạo dạn hát thêm: Tôi được từng trải hơn người tuổi tác, vì tôi đã tìm theo ý Chúa. Lời Chúa là đèn soi lối tôi đi, tôi hằng sẵn sàng làm chu đáo những mệnh lệnh Chúa, nên chẳng phải thổn thức bối rối gì”  .


Thưa Mẹ, Mẹ đã luận đoán rất khôn ngoan lần bảo con rằng Chúa là Thầy soi sáng lòng con, và cho con biết việc như người tuổi tác. Nay con còn nhỏ lắm, đã biết gì sự phô trương: con càng nhỏ nữa nếu nói đến sự tìm kiểu nói khéo léo cho ai tin mình là khiêm nhượng. Con chỉ biết rằng: Đấng Phép Tắc đã làm sự cả thể trong mình con   mà sự cả thể nhất là đã tỏ cho con biết thân phận con nhỏ mọn, cách thức con vụng về trong mọi việc.


Tiếng gọi thứ nhứt về cõi phước

Linh hồn con đã trải đủ thứ gian nan, con đã phải đau khổ rất nhiều ở thế gian! Lúc còn nhỏ, đâu chỉ biết buồn và khóc; ngày nay đã biết bình tĩnh vui vẻ cầm ăn những quả bồ hòn.


Thưa Mẹ, đọc tới những trang này mà không cười, chắc là vì Mẹ đã hiểu thấu đáo lòng con; bởi vì cứ thường mà nói, con đã chịu khổ hơn ai cái gì? Còn linh hồn nào ít khổ bằng linh hồn con? Ôi! Phải mà sự cơ cực con đã chịu tự một năm nay, được nói ra cho mọi người hay, người ta sẽ ngạc nhiên bỡ ngỡ dường nào! Đây Mẹ dạy con nói, nên con cứ thử nói mặc dầu chẳng đủ lời để tả hết sự phiền muộn ấy, có nói bao nhiêu, sự thật vẫn còn xa ngàn dặm.


Mùa chay năm vừa qua, con thấy mình mạnh khoẻ hơn các năm trước nhiều. Với sức khoẻ ấy, con đã giữ chay rất ngặt được trót của Mùa. Ngày thứ Sáu tuần lễ Thánh, vào lúc một giờ đêm, Chúa Giêsu đã làm con hy vọng như sắp được về hợp hoan cùng Chúa trên Thiên đàng! A! Nhớ đến, lòng êm nhẹ dịu dàng dường nào!


Vậy đêm thứ Năm tuần Thánh, Mẹ Bề Trên chỉ cho phép con được chầu Thánh Thể đến giờ 12. Khi con trở về phòng, vừa ngả đầu nằm nghỉ, máu trong ngực đã đưa lên đến miệng, con ngờ mình sắp được chết thì lòng khấp khởi mừng quá lẽ. Bởi đèn phòng đã tắt, con phải hãm tính tò mò muốn xem đến sáng; con đã bình tĩnh nằm nghỉ.


5 giờ sáng vừa lên hiệu báo thức, con nhớ ngay mình có sự hay hay để xem. Con ra bên cửa sổ, mở mùi soa nhìn, thấy đầy những máu... Mẹ ơi! Hy vọng quá, con đã tưởng trong ngày kỷ niệm Chuộc tội, Đấng YÊU DẤU lên tiếng gọi con đấy, tiếng gọi đầu tiên này, con nghe như tiếng gió rì rào êm nhẹ và xa xa báo tin Người đang đến cùng con.


Sáng ngày ấy, con đã theo kinh rất sốt sắng, con đã đến nhà Hội. Ở đấy con đã trình Mẹ hạnh phúc mới được. Vì trong người con không thấy nhọc, cũng không đau đớn gì, nên con đã được phép cứ giữ chay đến cùng. Ngày thứ Sáu Tử nạn ấy, con được làm mọi việc hãm mình phạt xác nhiệm nhặt theo đúng phép Dòng, chẳng phải chuẩn chước gì hết. Ôi! Chưa khi nào lễ phép nhiệm nhặt nhà Dòng lại trở nên êm ái dịu dàng vui sướng cho lòng con bằng ngày ấy... cái hy vọng về Thiên đàng đã phấn chấn, đã làm sôi nổi sự hoan hỉ trong người con.


Tối ngày hạnh phúc ấy, khi về phòng ngủ, lòng con vẫn còn tràn trề vui sướng và khi thiu thỉu ngủ, Chúa lại cho con thấy dấu sắp được về nơi vui vẻ như đêm trước. Bấy giờ lòng tin tưởng của con càng mạnh mẽ rõ rệt đến nỗi chỉ nguyên một tư tưởng Thiên đàng cũng làm con vui mừng quá sức, con không thể tin có nhiều người vô tín ngưỡng được, con chắc rằng những kẻ chối không có đời sau, không có Thiên đàng, là nói phản với tâm tưởng mình mà chớ!


Đêm tăm tối

Trong những ngày vui vẻ sáng láng mừng Chúa sống lại, Chúa Giêsu đã tỏ cho con biết thực ra cũng có những kẻ vô tín ngưỡng, những kẻ tuyệt vọng, những kẻ ấy vì lạm dụng ơn Đức Chúa Trời, đã làm mất sự Tin Cậy – hai kho của châu báu, hai nguồn phát sinh những vui thú thanh sạch và chân chính. Vậy Chúa đã làm thinh cho sự tối tăm mù mịt giày nặng ập vào linh hồn con, đến nỗi trở về trước, khi nào nghĩ đến Thiên đàng, lòng con cũng vui mừng khoái lạc lắm, từ bấy giờ không thế nữa, hễ nghĩ đến Thiên đàng, con chỉ cảm thấy lòng xung đột và phát sinh sự trầm phiền đau đớn. Lại nữa, cái tâm trạng khổ cực này, phải đâu chỉ là đôi ba bữa hay năm bảy tuần, con đã phải chịu lâu tháng lắm mà hiện nay con còn đang phải mong mỏi giờ giải phóng. Con ước ao bày tỏ sự cơ cực giày vò cõi lòng mà nói chẳng được! Phải là người đã đi đường hầm tăm tối mịt mù ấy mới hiểu biết mà thôi.


Nhưng con cũng xin lấy thí dụ này để cắt nghĩa một đôi chút: Con như đã sinh trưởng ở miền có sương mù u ám quanh năm, không khi nào được ngắm cảnh thiên nhiên tốt đẹp: cây muôn trái, hoa muôn sắc, suối sông rì rào, bước chim rộn rã ríu rít, không khi nào được trông ánh sáng vui vẻ của mặt trời mọc, cả đời chỉ như ở giữa rừng mây mù mịt đen đủi. Nhưng từ thuở bé con đã nghe nói xứ tối tăm mà con trú ngụ đây không phải là quê hương thật, con có quê hương khác tốt đẹp mọi đàng, đầy dẫy mọi sự vui mừng sung sướng mà ngày đêm hằng phải mong mỏi được về hưởng phúc. Chẳng phải mẩu chuyện này được bịa ra bởi người điền dã ở xứ tối tăm này, một là chân lý không thể chối cãi được; vì Vua Cả hằng ngự trên nước hiển vang sáng láng đó đã xuống nơi tăm tối này và trú ngụ tại đây 33 năm trời... song chao ôi! Nơi mù mịt tăm tối đã chẳng hiểu Người là sự sáng thế gian!  .


Nhưng lạy Chúa, con mọn này đã tin Chúa hết lòng, đã hiểu biết sự sáng Chúa! Con nguyện xin Chúa thương thứ tha các anh chị em con còn cứng lòng chẳng tin; con xin nhận ăn bánh đau khổ bao lâu Chúa muốn; và với lòng kính mến Chúa, con xin vui lòng ngồi đồng bàn cùng kẻ tội lỗi, vui nhận sự đắng cay chua chát làm của ăn, lấy nước mắt chan hoà làm của uống, con cam đoan ngồi đấy cho đến khi Chúa lên hiệu chỗi mới thôi. Nào đứa con hèn mọn này chẳng được nhân danh mình, nhân danh anh chị em tội lỗi mình mà than thở cùng Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót đến chúng tôi cùng, bởi vì chúng tôi là kẻ tội lỗi khốn nạn!  . Xin Chúa làm cho chúng tôi được trở lại thanh sạch! Xin Chúa cho hết thảy những kẻ lạc đàng tối tăm được ánh sáng đức Tin soi dẫn! Lạy Chúa tôi, nếu cần một linh hồn nghĩa thiết Chúa để rửa sạch mâm kẻ tội lỗi đã làm nhơ bẩn, tôi xin tình nguyện một mình ngồi lại ăn bánh châu luỵ cho đến khi Chúa muốn đưa tôi về nghỉ ngơi trên nước hằng sống hằng sáng của Chúa. Tôi chỉ nài xin Chúa ơn này: Trọn đời đừng khi nào mất lòng Chúa!


***


Thưa Mẹ, như con vừa nói: từ nhỏ con đã tin chắc có ngày được bỏ chốn tối tăm u mù này, để lên trời sáng láng; con tin chẳng những vì đã nghe người ta nói, lại cảm thấy ở lòng những nguyện vọng thâm thiết hằng hướng chiều về một niềm khác xinh lành tốt đẹp đầy đủ mọi hiển vinh sung sướng, nơi đó mới là chính Quê thật đời đời. Sự linh cảm ấy không khác gì tiếng tâm thần đã linh báo ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) biết còn một tân thế giới.


Ôi ! Bỗng đâu sự sáng đã tan đi hết, sự tối tăm vốn đã vây phủ tứ bề, lại ập vào tới linh hồn, tan lẫn trong cả người con, làm con không còn thể tưởng nhớ được hình ảnh đẹp đẽ của Quê thật nữa... Tất cả đã biến đi hết!


Những khi lòng trí phải mệt mã buồn bã vì sự mù mịt tối tăm bao vây tứ bề trên dưới, muốn nhớ đến phước thanh nhàn khoái lạc cho bớt phiền giải muộn một chút, cũng vô ích, lòng chỉ thêm phiền, thêm cực mà thôi. Con nghe như thần tối tăm mượn tiếng kẻ dữ mà phỉ báng con rằng:


“Mày mơ sự sáng, mày mộng Quê thật, mày chiêm bao hưởng Đấng tạo thành muôn vật đời đời, mày mong mỏi cái ngày hồng phúc kia để thoát ly chốn tối tăm này! Ừ, thì cứ bước tới đi... cứ tiến cho mau!... cứ tha hồ mà nô nức được chết chẳng thí cho mày, sự mày ước mong trông đợi đâu, nó sẽ cho mày một đêm càng đen đủi tối tăm hơn, mày sẽ phải chết cả hồn lẫn xác cho mà xem!”.


Ôi! Mẹ yêu dấu, chút bóng lờ mờ về cơn gian nan cơ cực con phải chịu vừa tạm phác ra đó, còn rất sơ sài như tranh mới chấm mấy nét quệch quạc sáng cũng kiểu mẫu, thật còn xa sự thật lắm! Song mới viết bấy nhiêu mà tay đã run sợ, trí đã bồi hồi, chỉ e mình đã quá lời, mà lộng ngôn phạm thượng, con chẳng dám viết thêm nữa... Lạy Chúa tôi! Có sao chăng nữa, xin Chúa cũng thứ tha con tôi cùng! Chúa đã biết dầu tôi chẳng còn được đức tin soi sáng an ủi mặc lòng; nhưng tôi vẫn làm việc đức tin dạy cách vững vàng. Trong một năm nay, tôi đã giục lòng tin cậy Chúa hơn cả đời tôi vậy.


Thưa Mẹ, mỗi khi ma quỷ tấn công cám dỗ con về đức tin; con cầm mình rất can đảm; nhưng vì biết rằng đánh tay đôi với thù tử là hèn nhát, nên con tháo lui ngay chẳng thèm ngó nó nữa; con chạy đến phân phô cùng Chúa, con sẵn sàng đổ máu đến giọt cuối cùng để minh chứng có Thiên đàng, con vui lòng mất phúc trọng này là con mắt linh hồn chẳng còn suy hiểu được nơi vui vẻ ấy ở thế gian, để xin Chúa đoái thương mở rộng cửa Thiên đàng cho những kẻ chẳng tin được vào hưởng phúc đời đời.


Bởi vậy dù cơn ưu phiền sầu não tràn khắp linh hồn làm mất hết tâm tình vui sướng, con vẫn còn thể than thở cùng Chúa rằng: Lạy Chúa, mọi việc Chúa làm, đều làm thoả lòng tôi lắm!   Nào còn gì vui cho bằng được chịu khổ sở vì lòng kính mến Chúa? Lạy Chúa tôi, đau khổ nào càng dữ dằn mà giấu được mắt người đời thì càng làm vui thoả lòng Chúa. Và giả như một điều chẳng có thể này, nếu chính Chúa cũng chẳng biết đến cái đau khổ ấy nữa, tôi cũng cứ vui lòng chịu đau khổ mà trông rằng bằng những hạt nước mắt thầm kín ấy, có lẽ tôi can ngăn hay là đền được dù chỉ một tội lỗi đã phạm nghịch đức Tin.


Thưa Mẹ, có lẽ Mẹ tưởng con nói quá lời về đêm tối tăm linh hồn con. Vâng, như Mẹ căn cứ vào những bài thơ con làm năm nay mà nhận xét, hẳn Mẹ coi con như được tràn đầy an ủi trong linh hồn, được tin như một trẻ trông thấy rõ ràng trước mắt! Vậy mà!... chẳng phải chỉ có bức màn mỏng che mắt con đâu, thật là cả một bức tường xây cao ngất trời, che kín cả vòm không trung rực rỡ sao sáng!


Khi con hát mừng ngợi khen hạnh phúc Thiên đàng, hạnh phúc hưởng thánh nhan Chúa đời đời, con chẳng cảm thấy lòng vui thú chút nào; con hát là hát sự con muốn tin thôi. Cũng phải thú rằng một đôi khi tia sáng cũng có lập loè trong đêm tối sầu thảm đó, có làm nhẹ được phần nào sự phiền cực; nhưng rồi, yên ủi gì đâu, sự nhớ nhung tia sáng ấy lại càng làm đêm tối thêm mịt mùng đen đủi hơn trước.


Ôi! Chưa khi nào con nhận thấy Chúa dịu dàng và lân mẫn bằng khi này! Lúc con đủ sức vác, Chúa mới trao Thánh giá nặng cho con vác; con trộm nghĩ nếu xưa phải vác Thánh giá nặng nề này, có lẽ con đã sờn lòng nản chí! Nhưng nay vác, con chỉ cảm thấy lòng chẳng còn tự nhiên vui thú mong mỏi về quê Thiên đàng nữa.


Chị Sài Gòn, em Hà Nội

Thưa Mẹ, con tưởng rày chẳng còn gì ngăn trở con bay nữa; con chẳng còn ao ước gì khác ngoài sự ao ước kính mến và chết vì lòng kính mến... Con thấy mình rất thong dong thư sướng, chẳng còn lo ngại gì, dù chính điều xưa kia lo ngại nhất, con muốn nói sự bệnh nạn lâu ngày mà để phiền để thiệt cho nhà Dòng. Nếu là ý Chúa, con rất vui lòng chịu đựng bệnh nạn phần xác, đau khổ phần hồn giai giẳng lâu năm lâu tháng cũng được. Ôi! Không, con chẳng lo phải sống lâu đâu, con chẳng quản ngại sự chiến đấu; vua thánh David đã nói:


Chúa là phiến đá để tôi vịn, Người cầm tay tôi, bắt từng ngón cho biết đàng chiến đấu. Người là thuẫn che cho mình tôi, tôi cậy trông tín nhiệm Người  .


Không khi nào con xin Chúa cho con chết lúc xuân thời; thật sự, tin thì vẫn thế đấy, nhưng tuyệt nhiên con không có hoạt động gì để được thế đâu.


Thường khi một sự ước ao làm sáng danh Chúa, Chúa đã vui thích rồi. Mẹ ôi! Những ước ao của lòng con, Mẹ cũng đã biết là nhiều và cả thể! Mẹ lại biết Chúa đã trao cho con nhiều chén cay đắng vì nhẽ các chị yêu dấu của con.


Quả nhiên, vua Davia đã ca hát rất phải: Tốt lành thay, êm dịu thay, cảnh huynh đệ nhất gia đoàn tụ vui vẻ!  . Nhưng sống ở thế gian này, cái phúc đoàn tụ vui vẻ ấy phải mua bằng bao hy sinh! Không không phải vì muốn chung sống với các chị con, mà con đã đến ở nhà Dòng đây; trái lại, con đã biết trước cái đó càng là lẽ làm con khổ cực, cũng như người ta càng khổ, một khi người ta muốn từ chối tất cả những đòi hỏi của tính tình tự nhiên thúc bách.


Có lẽ nào nói được rằng biệt xa những thân tình cốt nhục là trọn lành hơn? Đã thấy ai dám chê trách những anh em một nhà đã cùng ra giáp trận ở một trường chiến đấu? Hay đã cùng nhau hăm hở chạy đến trường hình để giật ngành lá Tử đạo? Chắc ai cũng phải cứ lý mà công nhận những anh em ấy phấn khởi nhau nên mạnh dạn hăng hái; nhưng cũng phải thảm hại lắm! Có người phải chết hai lần: cái chết người trước cũng là điều cực khổ cho người sau vậy.


Ấy sự sinh hoạt trong nhà Dòng cũng thế đấy, các thầy lý đoán đã gọi sự sinh hoạt ấy là hình khổ tử đạo. Khi dâng mình cho Chúa lòng người chẳng mất tâm ái tự nhiên, trái lại tâm ái ấy càng phát triển mạnh mẽ bởi trở nên thanh sạch hơn, thánh thiện hơn. Thưa Mẹ, bằng tâm ái ấy, con yêu mến Mẹ và yêu mến các chị con. Vâng con rất hân hoan được đứng chiến đấu cùng các chị con để dành phần thắng, phần sáng danh Vua Cả Thiên đàng. Nhưng nếu Quan tướng lại tỏ ý muốn con đi giao chinh ở địa phương khác, con sẵn sàng phục lệnh ngay: không cần phải có lệnh, một cái nhìn, một ám hiệu đã đủ con lên đường ngàn dặm.


Từ khi vào Dòng, con đã nghĩ nếu Chúa không cất con về Thiên đàng mau kíp, số phận con sẽ giống số phận chim câu tàu cụ Noe: sẽ có ngày Chúa mở cửa tàu bảo con ngậm ngành Oliva bay đi rõ xa, bay cho tới những miền dân ngoại. Cái tư tưởng này như tung lòng con lượn bay trên muôn loài tạo vật.


Hiểu rằng dầu ở trong Dòng cũng phải đau xót vì nỗi ly biệt biệt ly, con đã ước ao ở Thiên đàng trước khi chết: con đã vâng nhận trẩy đi phương xa, sống giữa một dân tộc không quen biết; con đã vui lòng nhận sự chia lìa hai chị cũng sắp phải trầy sang đất khách quê người. Đó là chính điều đau xót lòng con gấp bội. Vì chừng nhà Kín Sàigòn – một chi nhánh của nhà Kín Lisieux đã xin đích danh hai chị sang ở. Trong một thời hạn không lâu nữa, hai chị phải sang tới đó rồi. Ôi! Con đã chẳng nói lời gì để giữ hai chị lại, dầu lòng con khi ấy thổn thức quá, trái tim như nứt vỡ ra và nghĩ đến những gian nan đang đó chờ hai chị...


Nay công việc đã qua, lệnh hai chị phải sang ở Sàigòn cũng đình hẳn vì các Bề trên thấy nhiều phương trở; thế là chén đắng này con vừa mới nhấm môi liền thôi không phải uống nữa.


***


Thưa Mẹ, con xin nói lý do con muốn sang Hà Nội, nếu Đức Mẹ chữa khỏi bệnh con. Con thấy rằng để có thể sống ở những nhà Kín ngoại quốc, phải có ơn kêu gọi cách riêng; nhiều linh hồn tưởng mình được ơn đó mà kỳ thực không phải. Phần con, Mẹ đã bảo là có ơn kêu gọi ấy, chỉ vì lẽ sức khoẻ mong manh nên không đi được thôi.


Ôi! Ví thử có ngày mà con phải từ giã chốn viện tu này, thì lẽ nào cho khỏi se lòng được! Con không phải là người ít cảm; và chính vì nhẽ dễ cảm dễ thương ấy, con ước ao dâng Chúa tất cả mọi giống đau khổ lòng con có thể chịu. Ở Nhà đây, con được Mẹ thương, được các chị yêu; cái tình yêu thương này làm êm dịu ngọt ngào lòng con lắm. Chính vì thế mà con mơ ước đến ở một nhà xa lạ chẳng ai quen biết, chẳng quen biết ai, để được chịu cái khổ của cõi lòng tha phương.


Mẹ ôi, nhất định không phải vì có tham vọng giúp ích cho nhà Kín Hà Nội mà con muốn từ giã những nhân vật tha thiết của cõi lòng đâu; con đã quá biết mình thể nào rồi. Muốn đi, sở dĩ là con muốn làm trọn ý Chúa và muốn hy sinh để đẹp lòng Chúa thôi. Con nhận thấy con chẳng nhầm nhỡ ở chốn này; bởi vì một khi ai đã thật tình mong chờ đau khổ, hễ gặp chút vui gì là cũng bỡ ngỡ; và tới khi người ta chú ý tìm đau khổ như tìm báu vật, chính lúc đó đau khổ lại trở nên vui mừng cả thể.


Ngày nay con bệnh và bệnh không lẽ khỏi được; nhưng con vẫn thấy lòng bình an. Từ lâu nay, con đã thuộc hẳn về Chúa chẳng còn chút gì về con nữa... Chúa được thong dong sử dụng con tuỳ sở thích. Người mở lòng con thích đi phương xa, Người hỏi con có bằng lòng uống chén ấy không vừa khi con giơ tay xin nhận. Người lại ngừng tay lại và bảo một sự con muốn đã làm thoả lòng Người rồi.


Lạy Chúa! Kẻ khấn đức vâng lời được khỏi biết bao nỗi lo lắng! Các chị em tu mà ở bậc thường có phúc dường nào! Những chị em ấy cứ theo một la-kinh duy nhất là ý Bề trên; hàng được chắc chắn trong đàng chính chẳng phải lo sợ gì, cho dù Bề trên có nhầm chăng nữa, chị em cũng vô can. Nhưng một khi người ta không căn cứ vào la-kinh không sai nhầm ấy, tức khắc phải lạc đàng ngay, linh hồn phải thiếu nước ơn nghĩa và trở nên lạnh lẽ khô héo.


Thưa Mẹ, Mẹ là La-Kinh Chúa cho con để tìm được về bến nghỉ ngơi đời đời. Được trông Mẹ mà vâng theo ý Chúa, con lấy làm dịu dàng lắm! Chúa để con phải chịu cám dỗ về đức Tin, đồng thời Người đã thêm cho con tinh thần đức Tin rất nhiều; cái tinh thần ấy làm con thấy rõ Người hằng sống trong linh hồn Mẹ và dùng Mẹ để thông đạt sang con những mệnh lệnh chí chính của Người. Mẹ ôi! Con biết lắm, Mẹ làm ê nhẹ dịu dàng gánh nặng đức vâng lời ở nơi con; nhưng trộm nghĩ giả như Mẹ đã xử cùng con cách nghiêm thẳng, con cũng chẳng thay đổi tính nết, và cái tình con yêu quý Mẹ cũng chẳng giảm bớt phân ly; bởi vì trường hợp ấy con lại hiểu ý Chúa muốn cách ấy để làm ích hơn cho linh hồn con.


Luật đức thương yêu

Trong những ơn Chúa ban cho con năm nay, có ơn này trọng lắm - ơn được hiểu thấu đáo lề luật Chúa dạy về đức Thương Yêu. Bấy lâu trước, con chưa suy gẫm rành mạch lời Chúa dạy rằng: Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất: Ngươi phải yêu người ta bằng mình  . Con chỉ chuyên chú một sự kính mến Chúa cho tận tình chí thiết và bởi sự kính mến ấy con đã hiểu ý nhiệm những lời khác này: Chẳng phải những kẻ nói: Lạy Chúa! lạy Chúa! là kẻ được vào nước Thiên đàng đâu, một là kẻ làm theo ý Cha Ta  .


Ý Cha Cả trên trời, Đức Chúa Giêsu đã tỏ cho con biết trong bữa tiệc ly của đêm sau hết. Người truyền một giới răn mới: Người dạy các tông đồ phải thương yêu nhau như Người đã thương yêu phô đấng ấy...  . Con đã tra cứu cho biết cách thức Chúa thương các Tông đồ thể nào, con nhận thấy Chúa thương chẳng phải vì tư cách tự nhiên, bởi vì các Tông đồ mê muội dốt nát lắm, óc chỉ đầy những tư tưởng hèn hạ thế gian. Vậy mà Chúa không tiếc lời gọi các ngài là bạn thân, là anh em với Người, Người ước ao thấy các Tông đồ được cùng mình hưởng phúc thanh nhàn vui vẻ trên nước Cha Người trị và, để mở cửa Thiên đàng cho phô đấng ấy vào. Người cam chịu chết khốn nạn trên Thánh giá; Người nói rằng: Chẳng có tình yêu nào cả thể bằng tình yêu của kẻ bỏ mạng sống vì người yêu  .


Suy những lời tâm huyết Chúa phán đây, con thấy mình thương yêu chị em còn hời hợt ít ỏi lắm, con hiểu mình chưa có yêu chị em như Chúa yêu. Ôi! Nay con mới hiểu nhân đức thương yêu thật ở tại nhịn nết xấu kẻ khác, đừng ngạc nhiên khi thấy ai yếu đuối; phấn chấn bởi nhân đức người ta dù là nhân đức rất tầm thường nhỏ mọn; nhưng rất là con hiểu rõ ràng điều này: Sự thương yêu không phải chỉ khép chặt trong cõi lòng vì chẳng ai đốt đèn mà để dưới đáy thùng, một đặt trên để hầu soi sáng mọi người trong nhà  .


Mẹ ôi! Đèn sáng ấy con hiểu là nhân đức thương yêu tình yêu phải sáng, phải làm vui sướng chẳng những người mình thân thiết mà thôi, lại phải làm vui sướng, tất cả mọi người trong nhà nữa.


Trong luật đạo cũ, Đức Chúa Trời truyền cho dân Người phải yêu nhau bằng mình. Thuở ấy Đấng Cứu Thế chưa xuống thế gian và Người đã biết sức người ta yêu riêng mình đến ngần độ nào, nên Người chẳng muốn truyền dạy thêm gì nữa. Nhưng từ khi Đức Chúa Giêsu ban bố cho môn đệ Người giới răn mới, giới răn riêng của Người  , thì chẳng những Người buộc phải thương yêu và sẽ thương yêu mãi mãi trọn đời.


Ôi! Lạy Đức Chúa Giêsu! Tôi biết chẳng khi nào Chúa truyền làm sự quá mức. Chúa biết sức hèn yếu tôi hơn tôi biết mình: Tôi có sức đâu mà yêu mến chị em tôi như Trái tim Chúa được! Hỡi Chúa Cứu Chuộc tôi, tôi mạn phép nghĩ chỉ có cách này là chính Chúa đến ngự lòng tôi mà yêu dấu các chị em tôi. Hẳn Chúa muốn ban cho tôi ơn đó nên Chúa đã truyền ra giới răn mới này. Ôi! Tôi yêu quý giới răn mới dường nào! Giới răn mới làm tôi hiểu biết ý Chúa dùng tôi để yêu dấu tất cả những người Chúa truyền tôi phải yêu dấu.


Vâng, con nhận thấy khi con làm việc đức ái nhân, chính là Chúa hoạt động trong người con; con càng hợp nhất cùng Chúa chừng nào, con càng được lòng yêu mến chị em chừng ấy. Giả như khi con muốn giục lòng yêu mến ấy mạnh mẽ hơn, mà ma quỷ lại vẽ vời ra trước mắt con những nết xấu chị ấy chị nọ, con liền vội vã nghĩ đến nhân đức, các thiện chí của các chị; con bảo mình: nếu tôi thấy chị sa ngã một lần, chị có thể đã thắng lướt nhiều lần mà đã giấu vì khiêm nhượng; và cái điều tôi cho là lỗi, nhiều khi vì thiện chí, lại là việc nhân đức thật. Con không phải khó nhọc để nhận điều ấy, con đã từng trải nhiều lần.


Ngày kia, đang giờ giải trí, chị giữ bàn xoay có việc cần vào xin một người ra giúp chị. Đã sẵn lòng ước ao được đi làm giúp, lại nghe chị gọi tên mình, con mừng quá. Nhưng con thấy chị bên con cũng thích đi, nên xếp việc đang làm lại cách chậm chạp để chị kia xếp việc mình xong mà đi trước con. Chị giữ bàn xoay thấy con thu xếp chậm chạp đã cười và nói: A! tôi biết lắm! chị chẳng muốn thêm hạt ngọc vào mũ triều thiên chị, chị làm rất uể oải.


Cả nhà đều tưởng là con ngại không muốn đi làm giúp chị.


Con không thể nói hết việc nhỏ mọn này đã giúp con tấn bộ và trở nên người khoan dung độ lượng dường nào! Nhân đó mà còn biết bỏ tính phô trương cậy mình mỗi khi được ai đoán hay đoán khéo cho con, vì như việc nhỏ mọn về nhân đức mà con làm đây đã có thể coi là việc trái, thì những việc trái, người ta cũng có thể nhầm mà cho là việc phải, việc nhân đức; khi ấy con lặp lời thánh Phaolô rằng:


Tôi chẳng lo sự thiên hạ đoán xét tôi; chính tôi cũng chẳng dám đoán xét mình. Đấng đoán xét tôi là Chúa  .


Vâng, chính Đức Chúa Giêsu là Đấng đoán xét việc con! Con mong Chúa đoán xét con cách nhân từ hay đừng đoán xét cách nào hết bởi vậy con hàng dè giữ chẳng dám đoán xét ai, một chỉ tưởng sự lành cho mọi người theo lời Chúa phán: Bay đừng đoán xét ai thì bay sẽ chẳng phải Chúa đoán xét  .


Quan điểm của giới răn mới

Con đọc lại Phúc Âm, thấy Chúa phân trần rất cặn kẽ quan điểm của giới răn mới là thế nào.


Thánh sử Matheo chép:


Các ngươi đã nghe nói: Bây hãy thương người bạn hữu và ghét kẻ thù nghịch! Song Ta phán bảo các ngươi rằng các ngươi phải thương kẻ thù nghịch mình, phải cầu nguyện cho kẻ bắt bớ mình!  .


Dĩ nhiên, trong nhà Dòng chẳng mấy khi gặp kẻ thù nghịch cho thật đâu; dầu vậy cũng chẳng thiếu kẻ mình ưa thích hơn; chị này ta cảm thấy lòng tự nhiên yêu, muốn lui tới chuyện trò; còn chị kia, ta lại muốn đi quanh cho khỏi gặp mặt. Đó là tính tự nhiên; song Đức Chúa Giêsu dạy rằng chị khó yêu kia, khó thương kia, ta phải thương yêu hết lòng, phải cầu nguyện cho nhiều, dầu cho cách chị ăn ở xem ra chẳng yêu gì ta, ta cũng phải thương chị.


Nếu các ngươi chỉ yêu kẻ yêu mình thì có công chi? Kẻ tội lỗi cũng biết yêu kẻ yêu mình  . Lại yêu trong lòng mà thôi cũng chưa đủ, phải có việc làm minh chứng tình yêu ấy. Làm vui lòng người bạn, người ta cảm thấy tự nhiên sung sướng; nhưng sự đó chẳng thuộc về đức thương yêu, bởi vì kẻ tội lỗi cũng làm được.


Đức Chúa Giêsu lại dạy rằng:


- Ai xin, các ngươi cũng cứ cho, ai lấy gì của các ngươi cũng đừng đòi lại  .


Cho mọi người đến xin chưa thoả bằng tự lòng quý mà đem đến đãi; và khi người ta xin tử tế mà cho cũng không khó; nhưng chẳng may, người ta dùng lời khiếm nhã làm cho cái linh hồn chưa phải là biết yêu thuần thục bực tức khó chịu dấy lên, rồi tìm trăm lý nghìn lẽ để thoái thác, hay ít nhất cũng làm cách để người xin hiểu được họ khiếm lễ đã, đoạn mới làm ơn hay là hộ giúp chút việc vặt, chút việc vặt ấy giá mà giúp ngay thì chẳng mấy chốc, thế mà đã mất thì giờ mấy để bả hoẹ, để nói những lẽ không đâu.


Nếu ai xin cũng cho đã là khó, càng khó thay sự để người ta lấy của mình mà chẳng đòi lại. Ôi! Thưa Mẹ, con nói là khó, lẽ thì con phải nói hình như khó mới phải; bởi vì ách Chúa nhẹ nhàng và êm dịu:  Hễ ghé vai gánh liền thấy dịu dàng êm ái.


Con vừa nói Chúa chẳng muốn con đòi lại của đã bị lấy; với con, lẽ đó cũng rất tự nhiên vì thật con chẳng có chút gì là của riêng tư; con lấy sự túng thiếu làm vui lòng vì nhân đức khó khăn mà con đã khấn giữ. Trước đây con đã tưởng mình để lòng chẳng còn dính bén của hèn thế gian; nhưng từ khi biết hiểu thấm thía lời Chúa dạy, con mới nhận ra mình còn hèn kém lắm. Chẳng hạn khi con vào bàn vẽ để làm việc, thấy bút mực lộn xộn, hoặc thiếu cái thước, hoặc mất con dao, thì hầu như không nhịn được. Con phải ép mình hết sức mới khỏi thốt ra những cung giọng chua chát khi đòi lại các vật liệu cần thiết ấy.


Đã hẳn, con có thể đòi lại những vật dụng cần thiết ấy mà chẳng lỗi giới răn Chúa, miễn là đòi lại cách khiêm nhượng vui vẻ; nhưng không, con muốn ở như người ăn xin, giơ tay van của bố thí, chẳng được người thương cho thì cũng chẳng lạ lẫm gì, nào ai nợ gì thứ người ăn mày mà đòi. Ôi! Khi linh hồn biết rướn lên trên những tâm tình tự nhiên đó, sẽ cảm thấy mình được tràn trề bình an khoan khoái dường nào? Nhất định không có sự vui sướng nào sánh được cùng sự vui sướng của tấm lòng khó khăn cho thật.


Kẻ thật lòng khó khăn, khi thành tâm xin một sự cần thiết mà người ta không cho, người ta lại lấy cả chút của mình đang có, sẽ biết làm theo lời Chúa dạy:


- Các ngươi hãy cởi cả áo ngoài cho kẻ cố tranh tụng lấy áo trong  .


Cởi cả áo ngoài, như con hiểu là từ bỏ nốt chút quyền lợi còn lại, suy mình như tôi bộc, như nô lệ người ta. Một khi đã cởi cả áo ngoài, người ta đi càng dễ, chạy càng nhanh cho nên Chúa Giêsu đã phán thêm:


- Vả bất cứ ai bắt ngươi đi theo một cây số, ngươi hãy theo họ cho tới cây số 3  .


Ai xin cũng cho, con chưa lấy đó làm đủ, con phải đi trước lòng ước ao của người, con phải tỏ mình rất hảo tâm, rất hân hạnh được giúp đỡ chị em, và khi ai lấy đồ vật con quen dùng, con ở như sung sướng vì đã bớt được một bận rộn.


Tuy nhiên, chẳng phải là hàng ngày con hằng có thể giữ cặn kẽ từng lời Chúa phán dạy đâu. Gặp nhiều trường hợp con phải bất đắc dĩ từ chối chị em một đôi sự. Nhưng một khi đức ái nhân đã châm sâu rễ trong linh hồn thì giại sáng ra bên ngoài cũng rất dễ; có cách từ chối nhã nhặn không cho cũng làm vui lòng người bằng cho; thường người ta chẳng phải ngượng lắm với kẻ vốn có lòng thơm thảo: nhưng con cũng không vịn cớ phải từ chối đó mà xa lãng những chị em hay xin giúp đáp vì Chúa đã phán:


- Các ngươi đừng lánh mặt những kẻ hay vay mượn các ngươi  .


Con cũng chẳng hảo tâm cho người ta biết, hay là giúp đỡ lần này trông lần sau được chị em giúp lại vì Chúa đã phán:


- Nếu các ngươi cho vạy mượn những người mà các ngươi trông lợi, thì còn công lênh gì nữa? những kẻ tội lỗi cũng cho nhau vay mượn để rồi lại trả nhau cho đủ. Song phần các ngươi thế này: hãy làm phúc, hãy cho vay mà đừng mong mỏi gì thì phần thưởng các ngươi sau này mới cả thể  .


Ôi! Phải gì đời sau, ngay từ đời này phần thưởng Chúa ban cũng đã quá hậu rồi! Trên đường đức thương yêu, gập ghềnh hiểm trở khó nhọc chỉ có bước đầu mà thôi. Cho vay mà đừng trông trả lại điều đó tưởng cũng khó nghe thật; như thế thà rằng nói là cho cho xong, bởi vì của đã cho thì chẳng còn thuộc về người cho nữa. Như khi ai đến nài nẵng cho rằng; chị ơi! em cần chị giúp em vài giờ; em trình Mẹ rồi, chị cứ an lòng, sau em sẽ trả lại thì giờ chị giúp. Thực ra một khi đã biết thì giờ cho mượn chẳng lẽ trả được người ta thích nói thế này hơn: Tôi cho chị đấy! Nhưng nói thế có lẽ lại hợp lòng tự ái lắm rồi; bởi vì cho không, bao giờ chả đại lượng hơn là cho vay, lại cũng làm cho chị kia hiểu được là mình chẳng kể chi sự giúp đáp đó.


Ôi! Lý thuyết Chúa truyền dạy xung khắc mới nhân tình thế thái lắm! Nếu không có ơn Chúa mở lòng soi sáng, hẳn là hiểu cũng chẳng xong, nói chi tới chuyện thực hành.


Cuộc đại thắng của người lính đào

Thưa Mẹ yêu dấu, con nhận thấy lần này con viết kém hơn mọi lần. Đọc những tư tưởng lộn xộn trên đây, chẳng biết Mẹ có lượm được chút hay ho gì! Thật con chẳng có ý viết như một tác phẩm văn chương; nếu cái cách diễn văn về đức ái nhân mà con viết đây làm chán tai Mẹ, ít là Mẹ chiếu tình cho đứa con đã hết lòng vâng lời Mẹ.


Chao ôi! Con xin thú, còn xa còn lâu con mới thi hành nổi những sự con am hiểu; nhưng một sự ước ao thi hành đó đã làm con bình an rồi. Giả như gặp khi lỗi đức thương yêu cách nào, tức thì con chỗi dậy ngay; kể đã mấy tháng nay, con không phải đánh giặc ấy nữa, con có thể nói như Cha Thánh Gioan Thánh Giá rằng: Nhà tôi được thư nhàn an lạc lắm. Con chân nhận sự bình an lặng lẽ này là hiệu quả tốt của một trận kia mà con đã thắng. Từ khi thắng trận ấy, thiên quân hàng đến giúp con, không chịu để con lại bị dấu sau một cuộc chiến đấu rất hăng. Trường hợp ấy thế này:


Trước đây, trong nhà có một chị rất đạo đức, có tài làm mất lòng con trong mọi sự; chắc là ma quỷ đã dây mình trong việc đó nó làm con chẳng ưa chị nhiều điều lắm, thấy chị làm gì con cũng khó chịu; nhưng con đã ra sức cầm mình không chiều theo sự xung khắc tự nhiên đó, con bảo mình rằng nhân đức thương yêu chẳng phải chỉ ở trong lòng thôi, phải tỏ ra trong việc làm nữa. Khi ấy, con cố ép lòng yêu chị, đối đãi cùng chị như một bạn thân thiết nhất. Mỗi lần gặp chị, con cầu nguyện cho chị, dâng Chúa các nhân đức và mọi công nghiệp của chị. Con cảm thấy như Chúa rất bằng lòng con về cách đối đãi đó. Vì chưng nhà nghệ thuật nào lại chẳng vui thích được người ta khen những công trình nghệ thuật mình đã sáng tác; nhà nghệ thuật thiêng liêng đã dựng nên các linh hồn cũng vui thích khi thấy người ta chẳng xem hình dáng bề ngoài, một coi qua rồi nhìn tới mãi thẳm cung trong cùng là nơi Người ngự, để thưởng thức những vẻ đẹp xinh tốt của linh hồn.


Chẳng những con cầu nguyện nhiều cho chị đã nên dịp làm con phải chiến đấu dường ấy, con phải ra công gắng sức đỡ chị trong mọi việc có thể; khi nào bị khiêu khích mà muốn trả lời chị một cách chua chát khó chịu, con liền mau lẹ tươi mặt lại ngay và mỉm cười cùng chị, rồi lựa đưa sang chuyện khác theo lời sách Gương Phúc dạy: Để ai tuỳ nấy thì hơn là nói nhiều lời mà cãi lẫy  .


Nhiều khi bị cám dỗ quá mạnh, mà thấy có thể lánh mặt chị, còn liền lánh ngay như một lính đào ngũ... Có một hôm chị tỏ mặt vui vẻ hỏi con rằng:


- Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu ơi, chị nói cho tôi hay, có gì ở nơi tôi làm chị yêu mến tôi như vậy! Không lần nào tôi gặp chị mà chị chẳng niềm nở vui vẻ!


A! Cái điều làm con yêu quý chị, chính là Chúa Giêsu hàng ngự trong lòng chị. Người ngự đâu thì đấy mọi sự đắng cay chua chát liền trở nên dịu dàng ngọt ngào.


Thưa Mẹ, con vừa kể cái phương thế cuối cùng con hay dùng để tránh thất bại trong những trận chiến thiêng liêng. Con muốn đặt tên cái phương thế ấy là chiến lược đào ngũ. Chiến lược đó chẳng trọng gì thật, nhưng trong trót kỳ Tập, con đã lợi dụng và vẫn kết quả hay, con kể một tích nữa chắc Mẹ phải bật cười.


Hồi ấy Mẹ phải chứng ho suyễn đã khi lâu mà không khỏi, chúng con đã lo cho. Một sáng kia, con đang rất dón dén sẻ bước vào phòng nhà liệt nơi Mẹ đang nghỉ, để cất chìa khoá cửa bao lơn chịu lễ vì khi ấy con giữ việc nhà nguyện. Lòng con vui lắm vì được dịp vào thăm Mẹ; nhưng bề ngoài con không tỏ vẻ gì hết. Cùng lúc đó một chị cũng là lòng ngay tưởng con vào thế có lẽ làm Mẹ mất giấc nghỉ chăng, liền giằng chìa khoá con đang cầm ở tay, con đã hết sức lễ độ thưa lại chị rằng, con sẽ giữ lặng lẽ như chị để Mẹ khỏi mất giấc, con còn nói lý chính là con mới có quyền cất chìa khoá.


Ngày nay con mới biết hiểu rằng, giá khi ấy nhường quách cho chị cất thì có trọn lành hơn không; nhưng hồi ấy làm gì con đã hiểu được thế, thành thử con cứ nhất thiết theo chị vào buồng, mà chị cũng cứ nhất thiết giùn giẫy con lại.


Té ra cái điều cả hai lo sợ để tránh đã vô tình xảy ra: hai chúng con giùng giằng lèo xèo đã làm Mẹ mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con, chị kia liến thoắng nói một thôi dài, mà đại ý bài diễn văn cũng chỉ có thế này: Chính tại Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm om sòm đó! Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay; nhưng may phúc, một tư tưởng liền vụt sáng trong óc, con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bình an trong lòng đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội mà cho mà không thưa lại một vài nhời cho ra nhẽ, con liền tính kế rỹ đào vi thượng sách, nghĩ xong cút liền, con lủi đi như cuốc... nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thành để bình tĩnh toạ hưởng cái thú không chiến mà thắng. Đành rằng cờ chơi nước ấy có cao gì, anh hùng như thế cũng rất kỳ quặc; nhưng con thiết tưởng: nếu chiến mà bại, nếu chơi mà thua thì tính nước ấy là hay hơn hết.


Ôi! Ôn lại thời còn ở nhà Tập, con nhận thấy mình còn mê muội kém cỏi quá; nhiều hành vi nghĩ đến bật cười. Mà Chúa tốt lành thương xót biết bao! Người đã sửa dạy linh hồn con, đã ban cho nó đôi cánh để bay, các dò lưới thế gian buông thả sẽ chẳng thể làm nó sợ sệt nữa. Bởi vì trước mắt những loài có cánh, lưới tung ra cũng là vô ích  .


Sau này đây lại có thể nhận thấy rằng, cái thời con đang sống đây, cũng còn lắm điều khốn nạn nữa; nhưng con không ngạc nhiên cũng không phiền bực vì tài hèn sức mọn, trái lại, con lấy thế làm vinh dự vẻ vang, và ngay đêm những mong mỏi được khám phá tất cả những nhầm lỗi khác trong mình mà hiện chưa biết nhận xét đến. Con thú thực rằng sự nhận biết mình nhầm lỗi thiếu thốn đó, làm ích cho con hơn những ơn soi sáng về đức tin. Con hằng đinh ninh lời sách Dụ Ngôn dạy: Như đức thương yêu che lấp muôn vàn tội lỗi   nên con cứ uống nước suối ngon lành mát mẻ mà Chúa đã khai ngòi trong sách Phúc Âm: con đào bới cho tới nền thẳm sâu những lời vàng ngọc vô giá ấy để hiểu cho thấm thía và cùng vua thánh Davit, con kêu rằng:


- Từ khi Chúa cởi mở lòng tôi, tôi hằng chạy theo trên đàng giới răn Chúa  .


Chỉ có nhân đức thương yêu mới cởi mở được lòng con cho rộng rãi. Lạy Chúa Giêsu, tính từ khi Chúa lấy ngọn lửa ái nhân và nóng và êm một trật này mà thiêu đốt lòng tôi, thì lòng tôi hằng hứng vui chạy theo trên đường giới răn mới Chúa dạy, tôi ước ao chạy mãi một mạch cho tới ngày hạnh phúc là ngày tôi được hợp hoan cùng các thánh đồng trinh mà dõi theo Chúa trên cõi vô biên và hoà tiếng trong trẻo hát bài Tân Ca của Chúa là bài ca Tình Ái.




CHƯƠNG X : NHỮNG DÒNG SÁNG MỚI VỀ ĐỨC THƯƠNG YÊU


Thưa Mẹ Đáng Kính,


Đức Chúa Trời đã cho con hiểu thấu đáo những nét thẳm sâu nhiệm mầu của đức Thương Yêu. Nếu con có tài mà nói hết những ý hội này, hẳn Mẹ sẽ nghe như một điệu nhạc rất vui rất dịu, rất thánh thót tự thiên đàng vang dội xuống. Nhưng đáng tiếc! Con chỉ biết bặp bẹ như trẻ nít, và nếu không được dựa vào những lời Chúa phán để làm đà cho dễ nói, có lẽ xin phép Mẹ con thôi không nói nữa.


Khi suy lời Chúa phán: Ai xin cũng cứ cho, ai lấy của con vật gì cũng đừng đòi lại  , con hiểu lời ấy chẳng những Chúa nói về của cải thế gian, còn ngụ ý chỉ của thiêng liêng nữa. Mà trong hai thứ đó, con chẳng còn có quyền sở hữu của nào hết: Của thế gian con đã từ bỏ khi khấn đức khó khăn; của thiêng liêng là của Chúa cho vay mượn con chẳng có phép phàn nàn tiếc xót một khi Chúa đòi lại. Song le những tư tưởng sâu sắc tự mình nghĩ ra, những lý lẽ khôn ngoan tự trí óc suy luận, những tâm tình cao thượng của trái tim sáng như đuốc, tất cả là như kho của quý giá mà người ta thận trọng giữ gìn như một tư sản. Cái tư sản ấy dĩ nhiên là bất khả xâm phạm.


Thí dụ như con tỏ cho chị nào một tư tưởng con suy luận được trong giờ nguyện gẫm, chị ấy lại đem khoe cái tư tưởng ấy với chị khác như thể mình nghĩ ra được, làm thế há chẳng là chiếm đoạt của con sao? Hay đương giờ giải trí, một chị nói thầm với chị kia một câu nói hay và lý thú, thế rồi gặp dịp chị này cứ nói lại cái câu hay và lý thú ấy cho nhiều người nghe, nói mà không tuyên bố tác giả câu nói, cái đó cũng bị coi như một hành động xâm lăng của người, mặc dầu người ta không nói ra ngay; nhưng không khỏi ngứa miệng muốn nói và rồi người ta sẽ biết khéo léo tìm dịp để làm cho ai nấy hiểu cái câu nói lý thú ấy là câu mình đã nghĩ ra trước hết.


Thưa Mẹ, giá mà chính con đã không trải qua những tính tình buồn bực đó, có lẽ con không thể nói được tỉ mỉ đến thế và, nếu Mẹ không truyền con phải học hiểu rõ rệt những tâm tình tính nết các chị nhà Tập, hẳn là con sẽ nhất thiết cho mình rằng chỉ con mới có những tính tình lặt vặt ấy.


Trong hồi con vâng lời Mẹ giúp đỡ chị em nhà Tập, con học hiểu thêm được nhiều lắm, nhất là con phải ép mình gióng giả tra tay làm những việc con bảo chị em làm.


Vâng, nay con có thể nói con đã được ơn biết dửng dưng với tất cả những điều mà trí khôn con nghĩ ra, hay tâm hồn con cảm thấy, cũng như dửng dưng với những của phù vân thế tục. Nếu con nói hay nghĩ được điều gì hay mà chị em thích và nhận vớ lấy như của riêng mình, con cũng thản nhiên như không: cái điều nghĩ hay đó chẳng phải của con, một là của Chúa Thánh Thần, vì thánh Phaolô đã quyết rằng:


Không có ơn Đức Chúa Thánh Thần, dù gọi Đức Chúa Trời là Cha, ta cũng không có thể  . Chúa Thánh Thần được tự do, thong dong dùng con mà tỏ tư tưởng cho kẻ khác, con lấy lý gì mà cho rằng tư tưởng ấy là tư tưởng của con?


Vả lại lâu nay con vẫn hiểu rằng, nếu con không nên coi thường những tư tưởng tốt đẹp thường hay có sức đưa người ta lên gần Chúa, con cũng phải cầm mình đừng quá căn cứ vào những tư tưởng ấy, bởi vì tư tưởng dù rất cao, rất giỏi nếu không thực hành cũng chẳng ăn thua. Sự thực, những linh hồn biết tư tưởng cao sâu rất có lợi, nếu biết tỏ lòng khiêm nhượng đội ơn Chúa đã thương cho mình được dự phần cả sáng trong tiệc riêng của những kẻ Chúa chọn; nhưng kẻ chỉ biết lấy thế làm tự mãn tự túc, rồi mở miệng cầu xin như người Pharisiêu, thì có khác chi con người phú hộ chịu nằm chết đói trước những mâm cỗ cao lương mỹ vị của mình đã dọn ra thết khách, khách ăn uống no nê ngon lành vui vẻ! Có lẽ với con mắt thèm thuồng khách còn phen bì cái cơ nghiệp to lớn của nhà mình là khác.


Than ôi! Chỉ có Chúa mới thấu suốt lòng người ta! Người ta thiển cận lắm! Vừa thấy ai được giỏi giang, được nhân đức hơn mình đã vội kết luận ngay là Chúa yêu người hơn yêu mình. Sao không nghĩ rằng Chúa có quyền dùng người con này để phân phát các sự cần dùng cho các con cái khác. Trong thời đại thượng cổ, đời vua Pharaon, Chúa đã thi hành cái quyền lợi dụng ấy, vì thấy chép trong Kinh Thánh lời Chúa phán cùng vua Pharaon rằng:


Tao đã tâng mày lên, chỉ để làm vẻ vang lừng lẫy quyền phép Tao và để Danh Tao đồn thổi đi tứ phía  . Từ khi Đấng Cao Cả tuyên bố lời ấy, đã có biết bao ngàn đời kế tiếp mà thái độ Chúa vẫn không thay đổi. Người vẫn chọn trong thế gian một số người để giúp Người hoạt động nơi các linh hồn.


Bút vẽ nhỏ

Một bức vẽ nhỏ của hoạ sĩ, nếu có thể tư tưởng và biết nói, nhất định sẽ không trách móc nhà hoạ sĩ cứ lấy bút, mà tô đi điểm lại mình hoài: bức vẽ cũng không phen bì phận cái bút, vì biết nghĩ rằng chẳng phải là cái bút, một là nhà hoạ sĩ lợi dụng cái bút để tô điểm mình nên xinh nên đẹp đẽ. Cái bút cũng thế, khoe mình làm sao được rằng bức hoạ kia là công tác của mình làm ra, một khi cái bút chỉ là dụng cụ, bởi vì cái bút cũng chẳng nhu đến nỗi không biết nhận rằng nhà hoạ sĩ chẳng khi nào phải lúng túng, biết vẽ như không những chỗ khó, lại nhiều lúc theo cảm hứng thích dùng những đồ vẽ thật xấu, thật xoàng để trổ tài.


Thưa Mẹ, con cũng như một bút vẽ cỏn con. Chúa muốn dùng để vẽ hình Chúa trong những linh hồn Mẹ giao phó con coi sóc. Nhà hoạ sĩ nào cũng nhiều bút, ít nhất phải có tới hai cái, cái thứ nhất cần hơn để dựng nền và chấp phác. Chỉ một lát, bút ấy đã làm nổi hình trên cả mặt bức hoạ; cái thứ hai nhỏ hơn để lấy nét và tô điểm. Mẹ ôi! Con trông Mẹ như bút thứ nhất: to và quý hoá những khi nào Chúa muốn làm đại sự trong linh hồn các con cái Mẹ, Người cầm bút ấy trong tay Người cách âu yếm lắm; còn con dám xin nhận mình là cái bút nhỏ. Chúa đoái thương dùng để sửa chữa những chỗ lặt vặt trong bức hoạ mà thôi.


Lần thứ nhất, Chúa dùng bút nhỏ này là ngày 8-12-1892; con vẫn nhớ thời ấy như một giai đoạn ơn phúc.


Khi con mới dòng Dòng, trong các chị em nhà Tập, con thân với một chị hơn con tám tuổi, mặc dầu tuổi nhiều tuổi ít, hai chúng con cũng yêu nhau thành thực chí thiết lắm. Sự thân thiết cả hai chúng con được coi như có thể giúp nhau trên đàng nhân đức, nên để khuyến khích, chúng con được phép năng nói khó cùng nhau về việc thiêng liêng; con thích chị cái tính ngay thật và dịu dàng hoà nhã; song có điều này làm con lạ, con thấy chị yêu mến Mẹ, một cách khác con lắm, và cách ăn ở hàng ngày, chị còn nhiều điều đáng tiếc; nhưng sau Chúa đã cho con hiểu có nhiều linh hồn Chúa phải cầm lòng chờ đợi, với những linh hồn ấy Chúa chỉ xuống ơn soi sáng dần dần, cho nên con cũng cầm mình không dám đi trước giờ Chúa định.


Một ngày kia khi suy sự hai chúng con được cùng nhau năng trò chuyện sở dĩ là để thôi thúc nhau thi đua mến yêu Bạn Thánh như luật Dòng dạy, con thấy lòng buồn bã quá! Con nhận thấy những mẩu chuyện chúng con đã quen nói cùng nhau không đưa tới mục đích đẹp đẽ ấy; con liền nhất quyết một là không sợ tỏ cho chị biết ý con nghĩ, hai là sẽ thôi hẳn sẽ cắt đứt những câu chuyện giống như chuyện bầu bạn thế gian. Con cầu xin Chúa mở miệng lưỡi con cho biết nói những lời mềm mại thấm thía hay hơn hết xin Chúa nói thay cho con. Chúa đã dắt lời con cầu xin vì những kẻ hướng nhìn về Chúa, sẽ được Chúa soi sáng   và trong nơi tăm tối có ánh sáng dọi chiếu những người thiện chí  . Lời ca vịnh trên con ướm chỉ về mình, lời ca vịnh sau, con mượn chỉ về chị bạn là người có thiện chí.


Khi đến giờ chúng con được gặp nhau nói chuyện, chị bạn nhận thấy con khác ý ngay tự đầu, chẳng còn suồng sẽ như mọi khi, chị ngồi bên con với vẻ ngượng nghịu thẹn thuồng; con liền ôm chị vào lòng cách yêu dấu rồi nói để chị nghe tất cả những điều con nghĩ ngợi về chị. Con cũng nói rõ thế nào là tình yêu thật, lại thuyết lý cho chị hiểu rằng, khi chị cứ theo tình ái tự nhiên mà yêu mến Mẹ Bề trên, thì chỉ là mình yêu mình đó. Con đã kể cho chị nghe, hồi mới vào Dòng con cũng phải nén mình về điều ấy lắm; thế rồi cả hai chúng con cùng bùi ngùi cảm động, nước mắt hoà nước mắt, sùi sụt... Chị rất khiêm nhượng đã nhận lỗi ngay, cho lời con nói là thật, lại hứa sẽ bắt đầu cuộc đời mới; chị còn xin con sau này hễ thấy chị sai lỗi gì, cứ lấy tình mà bảo ban chị. Từ giờ phút ấy, tình thân thiết của hai chúng con mới thật là thiêng liêng cho trọn; và thấy ứng nghiệm nơi chúng con lời Chúa Thánh Thần đã phán: Tình thân ái là bức thành trì kiên cố  .


Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ con đâu dám chủ ý làm chị ấy dứt lòng yêu mến Mẹ, chủ tâm con là nói để chị ấy hiểu tình yêu thật phải được di dưỡng bằng hy sinh, và linh hồn càng từ chối những vui thoả hợp tính tình tự nhiên, thì tình yêu dấu càng trở nên mãnh liệt và liêm chính.


Con nhớ trong kỳ Thử, nhiều lần con bị cám dỗ rất mạnh về sự muốn phỉ tình ham thích những điều vui thú lặt vặt, đến nỗi khi qua phòng Mẹ, con phải nén mình hết sức mới bước đi được, con phải nắm chặt tay vịn ở thang mới khỏi lộn trở lại! Trí con bày vẽ không biết bao nhiêu lẽ để vào xin phép này phép nọ, không biết bao nhiêu lý để bênh vực mình cho thoả tình tự nhiên. Nay con vui mừng vì đã dẹp được tình tự nhiên ấy từ khi vào Dòng, con đã được hưởng phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ chiến đấu can đảm. Con cảm thấy rầy chẳng cần phải chối nhận những điều an ủi lòng nữa, vì lòng con đã hoàn toàn quy thuận Chúa... Bởi lòng con chỉ mải miết yêu mến Chúa cho nên càng ngày càng cởi mở rộng rãi, yêu được tất cả những kẻ Chúa yêu dấu, yêu bằng tình yêu thắm thiết sâu xa, chứ chẳng hẹp hòi trong tình yêu ích kỷ và vô hiệu.


Những mụn bánh rơi

Thưa Mẹ yêu dấu, con đã nói về công tác thứ nhất Chúa Giêsu và Mẹ đã dùng bút vẽ nhỏ này để kiện toàn một công việc rồi; nhưng đó chẳng qua mới chỉ là giáo đầu cho bức hoạ chính mà Mẹ đã bảo con vẽ về sau.


Khi vừa nhận việc giúp đỡ chị em nhà Tập, con thấy mình bất lực ngay; con đã vội vã gieo mình trong tay Chúa tựa hồ con nít lúc kinh khiếp gục đầu xanh trên vai cha, con cầu xin rằng:


Lạy Chúa, Chúa biết tôi hèn mọn yếu đuối, sức đâu mà nuôi dưỡng con cái Chúa được; Chúa muốn dùng tôi để phân phát lương thực cần dùng cho mỗi người chị em tôi, thì xin Chúa trao tay cho tôi rõ nhiều; và cứ nắm tay Chúa, cứ nhìn trông Chúa, tôi sẽ phân chia của châu báu ấy cho linh hồn đến xin của ăn. Linh hồn nào ăn mà thấy ngon lành, tôi sẽ biết không phải là ơn tôi, một là ơn Chúa ban thôi; trái lại, linh hồn nào ăn không thấy ngon lành lại kêu ca trách móc, lòng tôi cũng vẫn bình tĩnh; tôi sẽ giải thích cho linh hồn ấy hiểu, đó là của Chúa ban, phải vui lòng nhận lấy, tôi chẳng còn tìm đâu được của khác mà đổi cho vừa!


Vì hiểu rằng sức riêng mình chẳng làm nổi việc gì hết, nên công viêc giúp đỡ chị em con nhận thấy nhẹ nhàng giản dị. Con hàng tận tâm cố gắng điều này là càng ngày càng kết hợp cùng Chúa cho chân tình chí thiết hơn, còn bao nhiêu gì khác con để mặc Chúa xe định.


Quả thật, sự trông cậy của con không luống công, bao nhiêu lần cần phải có của nuôi chị em, con vẫn thấy có đầy nơi tay con. Mẹ ôi! Con phải thú thực rằng; giả như con đã hoạt động cách nào khác, giả như con đã vịn sức riêng con, thì chẳng mấy chốc con đã phải trao trả việc Mẹ.


Đứng xa xem qua, ta tưởng việc coi sóc giúp đỡ các linh hồn việc làm cho các linh hồn biết yêu mến Chúa hơn, việc dẫn đàng chỉ nẻo cho mỗi linh hồn tuỳ tâm tính, tuỳ trình độ là dễ dàng; nhưng khi phải tra tay vào việc mới rõ không phải là dễ dàng gì. Làm được sự lành, nếu không có ơn Chúa giúp cũng khó như làm được mặt trời mọc ban đêm. Trong việc dẫn dắt linh hồn người ta con nhận thấy rằng, phải bỏ hẳn cái sở thích sở đắc của mình, bỏ cả cái quan niệm cá nhân mình đi nữa, đừng dẫn dắt người ta đi lên đường riêng của mình, hay là đi đường mình chọn, một phải chỉ giáo người ta đi con đường riêng mà Chúa đã muốn mỗi linh hồn phải đi mà chớ.


Nhưng cái đó cũng chưa phải là khó nhất. Với con, điều khó và khổ cực nhất là phải xem xét sửa lỗi chị em dù những lỗi rất nhỏ nhẹ, và phải luôn luôn chỉ vẽ bảo ban chị em cho biết đường chiến thắng. Con đang chực nói: Rủi cho con, nhưng không: Nói thế có lẽ là nớt đảm; con phải nói: may cho các chị em lắm, từ khi con chạy vào lòng Chúa để nương tựa cậy nhờ, con như lính thủ thành đứng trên chòi cao canh gác quân giặc. Dù một lỗi rất nhỏ mọn cũng chẳng lọt mắt con, nhiều khi con phải lạ thấy mình quan sát được rõ ràng thể ấy. Con trộm nghĩ, cái việc tiên tri Jona đã lánh mặt Chúa để khỏi phải nhận công tác đi thông tin thành Ninive sắp bị công phá cũng là có lý lắm chứ. Con thà bị khiển trách nghìn lần chẳng thà khiển trách ai một lần: nhưng dầu sao việc coi sóc chị em cũng vẫn là nỗi khổ cho con, bởi vì một khi ai đã theo tính tự nhiên mà làm việc gì không phải, người ấy không thể hiểu được cái chỗ mình không phải đâu, chỉ nhất thiết cho rằng tại chị coi sóc không ưa mình, không ưa thì dưa hoá khú, không ưa thì xét theo mặt trái chứ việc mình làm thì chỉ làm vì ý ngay lành thôi.


Thưa Mẹ, việc đó cũng như trăm nghìn việc khác; con hằng phải bỏ mình đi và hy sinh rất nhiều; nhân thế con nhận thấy rằng, một lá thư con viết nếu không phải là viết vì vâng lời hay là cưỡng bách nào, lá thư ấy không sinh ích gì hết.


Khi con nói cùng chị em nhà Tập điều gì con cũng phải hãm mình lắm, con tránh hết sức những câu hỏi để thoả tính tò mò tọc mạch. Nếu con nghe chị nào đang kể chuyện gì hay hay, kể chưa xong mà đã bỏ nói sang chuyện khác chẳng hay gì, con cũng cầm mình chẳng hỏi lại với quan niệm này:


Ai tìm theo ý riêng chẳng thể làm nên việc gì hết.


Thưa Mẹ, con cũng hiểu đàn chiên nhỏ của Mẹ lấy con làm nghiêm khắc... nếu các chiên ấy đọc những dòng chữ này, có lẽ sẽ bình phẩm rằng: khó nhọc gì cái việc chạy theo đàn chiên, bảo cho chiên biết chỗ lông bẩn, hay là nhặt những nắm lông chiên đi vướng mức ở bụi gai vệ đường; chị em muốn bình phẩm sao cũng mặc trong đáy lòng, chắc chị em cảm thấy tình yêu dấu thắm thiết của con đối với các chị. Không, nhất định không một nguy hiểm nào có thể làm con sợ hãi mà trốn tránh như kẻ làm thuê, thấy sói rừng đến, liền bỏ đàn chiên ù chạy  , con sẵn sàng hy sinh mạng sống vì con chiên; lòng con yêu dấu đoàn chiên rất thanh bạch: con chẳng muốn chiên nào biết con yêu dấu mình thể ấy.


Với ơn Chúa giúp không khi nào con lại chủ tâm làm các chiên quyến luyến yêu con; con hiểu rằng bổn phận con là hướng dẫn những chiên ấy lại với Chúa và Mẹ, Mẹ là Chúa ở dưới đất mà các chị em phải kính phục và yêu mến.


***


Con đã nói: trong khi dạy người, con đã học người rất nhiều. Trước hết con nhận thấy các linh hồn phải chiến đấu cũng hầu như nhau; nhưng xét theo phương diện khác, giữa các linh hồn lại thấy sự khác nhau xa lắm. Sự khác nhau đó bắt buộc người coi sóc không được gò bó linh hồn nào cũng phải đi theo một lối với một số linh hồn, con thấy mình cần phải biết tự hạ mà tỏ những trận mình phải cầm cự chiến đấu làm sao, và mình đã thua thiệt thế nào nữa. Như thế các linh hồn sẽ tự thú cách dễ dàng những nhầm lỗi mình đã sa ngã, sẽ biết tự hối và vui mừng vì nhận thấy con đã theo kinh nghiệm mà hiểu thấu tâm sự mình; nhưng với một số linh hồn khác nếu muốn thành công, lại phải đối xử nghiêm thẳng, phải nhất ngôn, chớ nên nói lại bao giờ; với những linh hồn ấy, nhân nhượng chỉ là nhu nhược. Chúa thương con được điều này: hễ đã đánh giặc là không biết sợ, dầu phải chết, việc bổn phận con cũng cứ làm. Con đã nghe nói nhiều lần lời này:


Nếu chị muốn em sửa mình, chị đừng ép uổng quá làm gì, một cứ dịu dàng êm ả, chẳng vậy, chăng ăn thua. Nhưng con biết chẳng ai xét xử việc mình cho đúng được, chẳng hạn như trẻ bệnh kia, phải ông bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, mổ xẻ đau đớn, không khỏi kêu khóc ầm ã, kêu rằng chữa gì mà chữa đau hơn bệnh! Nhưng chỉ vài ngày thôi, trẻ thấy bệnh khỏi, rồi chơi được, chạy được thì lòng mừng rỡ biết mấy! Ấy việc linh hồn cũng thế, chẳng bao lâu ta sẽ hiểu và biết công nhận cay đắng một chút quý hơn đường ngọt.


Lắm khi nhận thấy lòng người thay đổi rất chóng: hôm nay mới thế này, ngày mai đã khác hẳn, nghĩ cũng thần tình thiệt.


Lần kia một chị đến nói với con:


Hôm qua chị xử thẳng phép cùng em như thế rất phải; mới đầu em bực quá, nhưng sau nghĩ lại những lời lẽ chị nói, em mới biết nhận là đúng. Khi ở phòng chị bước ra, em định tâm sẽ tuyệt giao với chị em muốn đi tìm ngay Mẹ Bề trên để xin phép rày đi không đi lại với Têrêsa Hài Đồng Giêsu nữa; nhưng sau em hiểu ngay làm thế là nghe chước quỷ cám dỗ. Em lại linh cảm như thể chị có cầu nguyện cho em khi bấy giờ, nên em đã trấn tĩnh được ngay và ánh sáng thấy rạng rỡ soi trong lòng. Bây giờ em đến cùng chị là cốt để xin chịu giúp em biết sửa mình cho thật.


Thấy chị tốt thế, con đã hân hạnh theo sở trường riêng dọn ngay mấy món bớt đắng... Vâng chỉ bớt đắng thôi, vì con thiết nghĩ dầu sao cũng không nên mềm mỏng quá. Một lời nói có thể phá tan cả một công cuộc đã gây dựng bằng bao nhiêu nước mắt! Nếu chẳng may có lần con nói một vài lời dường như nắn lại những lời chân thật đã nói hôm trước; con liền thấy có chị bám ngay lấy để cố chữa mình... Gặp trường hợp ấy, con chỉ biết cầu nguyện. Con đưa trí khôn lên cùng Đức Mẹ bao giờ Chúa Giêsu cũng thắng lợi!


A! Cầu nguyện và hy sinh là tất cả thế lực của con, là những chiến khí vô địch; và nói theo kinh nghiệm: những chiến khí ấy cảm lòng người hơn lời lẽ bội phần.


Ý nghĩa sự cầu nguyện

Cách đây 2 năm, trong mùa Chay, một chị nhà Tập đến gặp con, nói vui vẻ rằng: Chị mà biết được đêm vừa rồi em mơ gì thì hay lắm! Em mơ ở nhà quê với chị em, chị em mê man sự thế gian quá lẽ, bấy giờ em cố dứt lòng chị khỏi trìu mến sự phù vân thế phước. Để đạt mục đích đó, em đã giải nghĩa cho chị ấy nghe mấy vần thơ trong ca Sống vì Tình của chị soạn:


Giêsu chí ái, chí ân,

Yêu như ngọc nở muôn phần tươi xinh

Nữ trang thơm đẹp ở mình,

Em dâng Chúa hết tỏ tình say sưa...


Em đã nhận thấy những lời thơ tình tứ đó xúc động tâm can chị rất nhiều, em vui mừng quá! Sáng nay em có tư tưởng này hay là Chúa muốn em dâng tiến Chúa linh hồn chị! Sao, chị nghĩ thế nào, hay nhân dịp lễ Chúa Sống Lại này em biên thơ cho chị ấy kể lại chiêm bao này và nói Chúa Giêsu muốn kết duyên trao ngãi cùng chị?


Con đã trả lời:


- Chị có thể xin phép biên thư.


Thưa Mẹ, vì khi ấy mùa Chay mà thấy có chị xin phép biên thư, Mẹ đã ngạc nhiên quá và được ơn soi sáng, Mẹ đã trả lời:


- Dòng Kín phải cứu linh hồn bằng lời cầu nguyện hơn bằng thư từ.


Khi con được biết Mẹ đã cương quyết thế, con đã bảo chị kia rằng:


- Phải vào việc ngay đi, cầu nguyện thật nhiều, biết đâu ra Mùa mà Chúa đắt lời, thì đáng mừng chừng nào!


Ôi! Lòng Chúa thương xót quá trí khôn lường! Đúng đến cuối mùa Chay lại một linh hồn nữa xin dâng mình trong Dòng. Đó chính là phép lạ về ơn thánh sủng, phép lạ Chúa làm vì lời cầu nguyện sốt sắng của một chị nhà Tập.


Mạnh mẽ thay lời cầu nguyện! Thật như một Bà Hoàng được tự do lui tới Hoàng Thượng tâu xin gì cũng được. Cầu nguyện để được đắt lời, không cần phải đọc ở sách kinh nọ kinh kia đã soạn sẵn cho một trường hợp nào đâu, nếu cần phải thế mới là cầu nguyện thì ôi ôi! Con phải phàn nàn biết chừng nào.


Trừ sách Nhật Khoá mà con, tuy hèn mọn chẳng xứng đáng, được hân hạnh đọc hằng ngày, con không còn can đảm ép mình để đọc các kinh rất hay, rất sốt sắng trong các sách nữa. Nếu phải đọc con sẽ bị rức đầu đau óc ngay vì có biết bao nhiêu mà nói cho hết? Lại nữa, kinh nào cũng hay cả: chẳng nhẽ đọc được hết, và cũng chẳng nhẽ chọn đọc kinh này hơn kinh nọ!


Con đã ở như một trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình.


Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan túng cực, cũng như khi được bình an thư sướng; và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đi đổi lại tâm tình, để được kết hiệp cùng Chúa cách chí thiết.


Nhiều khi con thấy lòng lạnh lẽo khô khan quá, không thể tìm ra một tư tưởng tốt lành nào, những khi ấy con đọc thong thả kinh Lạy Cha hay Kính Mừng, chỉ hai kinh này là con thích đọc và đầy đủ thần lực để nuôi linh hồn con hằng ngày.


Một món rau trộn không tên

Thưa Mẹ, ở đây con lại lạc đề nói xiên xẹo đến những tư lự rất phức tạp!... Xin Mẹ tha thứ cái tội con không dứt khoát! Con vẫn công nhận chuyện con viết rối như tơ vò, mà khổ quá, không biết bày tỏ sao cho khéo hơn được! Con viết theo nguồn tư tưởng đến tựa hồ úp cá trong lạch tâm trí, may vớ được con nào thì dâng kính Mẹ con ấy.


Vậy câu chuyện con nói đang dở dang ở chỗ các chị nhà Tập. Các chị thường hay bảo con rằng hỏi gì con cũng trả lời dễ dàng, lần này khéo mà con phải lúng túng... Xin chị cho biết những điều dạy dỗ chúng em, chị lấy ở đâu. Gia dĩ có nhiều chị ngay thật còn tưởng là con nom thấy linh hồn các chị vì nhiều lần dù các chị không tỏ dấu gì, cũng thấy con hiểu được tâm sự kín đáo các chị.


Một lần chị đầu nhà Tập phải điều cực lòng quá, mà lại muốn giấu con. Cả đêm ấy chị ưu tư sầu muộn; nhưng không dám để rơi một giọt lệ, vì sợ mắt đỏ mà chị em biết mất.


Đến sáng chị đã gượng sầu làm vui rất khéo: chị niềm nở nói năng như thường, hay có lẽ khéo hơn thường, giòn giã hơn thường.


Bấy giờ con bảo chị ấy có thế này:


- Tôi chắc chị phải sự âu sầu!


Chị đã nhìn con bằng vẻ ngạc nhiên hết sức... đến nỗi làm con cũng phải bỡ ngỡ và như truyền sang con một xúc cảm gì siêu nhiên. Con cảm thấy như Chúa ở đấy, ở giữa chúng con... Bất giác, con đã nói cùng chị lời ấy và đã an ủi được linh hồn chị. Chính là ơn soi sáng đấy chứ con có được xem thấy sự kín linh hồn ai bao giờ!


Thưa Mẹ bây giờ con xin nói về sự tiến tới thiêng liêng quý hơn mà con thâu góp được trong hồi coi sóc chị em nhà Tập.


Mẹ cũng quá biết, các chị nhà Tập được phép tỏ hết mọi tư lự, dù tốt dù xấu, không phải dè dặt gì cả. Riêng với con, các chị không phải trọng kính như trọng kính Mẹ coi sóc chính thức, cho nên sự nói năng lui tới càng được dễ dãi tự nhiên. Con không thể nói Chúa đã bắt con đi đường hổ nhục bề ngoài: không, Chúa chỉ muốn con phải nén lòng bề trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn thôi. Trước mắt người đời, con như được xuôi xắn lắm, được bước lên đi dễ dàng đường nguy hiểm danh vọng - nếu có thể gọi là danh vọng - của những địa vị trong Dòng và cũng nhân thế, con đã hiểu được thái độ Chúa và các Bề trên đối với con. Vì, giả như trước mắt chị em, con bị coi như người bất lực thiển trí, không quyết đáp, hẳn là Mẹ không bảo con giúp đỡ Mẹ đâu. Đó là chính lý do làm Chúa buông xuống một bức màn che kín các khuyết điểm ở nơi con.


Bức màn che ấy đưa lại cho con được ít lời khen ngợi của chị em nhà Tập. Các chị khen con thật chớ không phải nịnh hót gì, vì con biết các chị thật thà nghĩ sao nói vậy; nhưng sự khen ngợi đó chẳng thể làm con phô mình, bởi vì con hằng thấy trước mắt những khốn nạn thiếu thốn trong người con.


Lần kia đang khi con ước ao nghe những lời chua chát cứng cỏi linh hồn như đã ngán thứ đồ ăn quá mỹ vị - lời khen ngợi - thì Chúa đã cho ngay một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát... đĩa rau trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.


Đĩa rau trộn ấy, chị em nhà Tập đã cho con ăn vào một lúc thật không ngờ, Chúa Giêsu vén cái màn che khuất những khuyết điểm của người con, thành thử các chị trông thấy rõ sự thật, liền thôi không ưa thích con nữa. Với lòng chất phác đơn sơ - điều con vốn ưa thích, các chị cảnh cáo con đã làm cớ cho các chị phải chiến đấu nhiều và vạch rõ các chị không ưa không phục ở nơi con; các chị không kiêng nể phê bình con trước mặt dường như phê bình một người khuất mặt vì các chị đã biết tính con ưa thẳng thắn.


A! Đĩa rau trộn này chẳng những con ưa thích, con lại quý như một bữa tiệc sơn hào hải vị, linh hồn con được thoả thuê no nê sung sướng.


Có lý gì một việc trái tính tự nhiên như thế lại có thể coi như một hạnh phúc quý dường này?


Thật con không thể tin, nếu không phải chính mình con đã trải qua khúc nhôi trên đây.


Còn một lần nữa đương lúc con sốt sắng ước ao được hạ mình ở khiêm nhượng thì một chị mới Mặc Áo đến làm cho con một mẻ. Con thoả mãn quá, liên tưởng lần thằng Semei sỉ nhục vua David, con nhẩm lại trong lòng lời Vua thánh đáp: Phải, chính là Chúa khiến sỉ nhục ta như thế  . Đấy là cách thức Chúa săn sóc gìn giữ con. Người không để con luôn luôn hổ nhục bề ngoài; nhưng thỉnh thoảng cũng để con nuôi mình bằng những mụn bánh rơi bởi bàn ăn con nít.


A! Lòng Chúa xót thương hải hà quá trí khôn lường!


Thưa Mẹ yêu dấu, vì con muốn đồng thanh cùng Mẹ ca tụng lòng xót thương hải hà Chúa ngay khi con tại thế, nên con còn phải thưa Mẹ một lợi ích thiết thực cũng như bao lợi ích khác mà con đã thâu lượm được bởi việc Mẹ giao phó con làm.


Người Samaritano tốt lành

Thưa Mẹ, trong hồi con bệnh, cách thức Mẹ thương và săn sóc giúp đỡ con đã dạy con hiểu biết rất nhiều về đức thương yêu. Để chạy chữa con, Mẹ chẳng lấy thuốc nào làm đắt; thuốc nào dùng không chuyển, Mẹ mua ngay thuốc khác. Khi con muốn chỗi dậy đi lại cho khuây khoả đôi chút, Mẹ cũng lo lắng giữ gìn cho khỏi gió mây. Mẹ ôi! Con thiết nghĩ: Con cũng phải thương và săn sóc bệnh nạn linh hồn chị em nhà Tập, như Mẹ đã thương và săn sóc bệnh nạn phần xác con.


Con nghiệm thấy rằng những chị càng nhân đức thường là càng được chị em yêu mến hơn; người ta thích đi lại chuyện trò cùng các chị ấy, vui lòng giúp đỡ dù các chị chưa tỏ lời xin giúp. Đàng khác bởi các chị biết nhịn nhục những cách chị em đối đãi cùng mình không khéo không thiệp, thành ra các chị được lòng yêu quý cả nhà. Có thể chỉ về các chị lời cha thánh Gioan Thánh Giá đã nói:


Khi không theo lòng tự ái mà mua chuộc gì, ta thấy mình được mọi sự.


Trái lại, những chị kém phần đạo đức, chẳng được ai nói đến thoảng hoặc có nói cũng là nói để giữ phép lịch sự thôi. Lại cũng chẳng được ai muốn lui tới chơi với, vì sợ nhỡ mà nói lời gì không khéo sẽ lôi thôi ngay...


Nói về các chị kém phần nhân đức, chẳng những con có ý nói về các khuyết điểm phần hồn mà thôi, vì dù là bậc Thánh, bao lâu còn sống ở thế gian, cũng vẫn còn sai lỗi. Con có ý nói cả những khuyết điểm khác chẳng hạn: Nhẹ trí nhẹ dạ, kém học thức, kém lịch thiệp, hay nghi nan ngờ vực. Tắt rằng tất cả những tính cách làm mất vui cuộc chung sống.


Con hiểu những tính cách ấy cũng như những chứng bệnh thiên thời không chữa được; nhưng suy đến mình khi bệnh nạn lâu năm lâu tháng không trông chữa được, mà Mẹ cũng vẫn ân cần chạy chữa cho bớt phần đau đớn, con đã kết luận cho con rằng: phải tìm cách lui tới và năng trò chuyện cùng những chị mà con ít ưa, con đối đãi với các chị như người Samaritanô tốt lành xưa đã đối đãi cùng người bị thương gặp ở đàng. Thường thường một lời nói yêu, một nụ cười khéo cũng đủ làm tan được nỗi ưu sầu ở lòng người.


Tuy nhiên, không phải chỉ vì hy vọng an ủi được người mà con muốn tỏ tình thương mến, con đã biết nếu chỉ theo đuổi một mục đích ấy, chày kíp sẽ nản lòng ngay, vì biết đâu một câu nói với ý lành có thể bị hiểu xuyên tạc sang ý trái. Cho nên để khỏi mất công mất giờ, con chỉ cốt một ý làm vui lòng Chúa và đáp lời Chúa phán dạy trong Phúc Âm:


Khi các ngươi làm cỗ, các ngươi đừng mời những thân nhân, những bạn hữu, kẻo họ mời lại mà các ngươi không còn công để lĩnh thưởng. Các ngươi hãy mời đón những kẻ bần cùng, tàn tật, đui mù què điếc, các ngươi hãy vui sướng vì những kẻ ấy không có thể mời lại các ngươi, thì Cha các ngươi - Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, sẽ trọng thưởng các ngươi sau này  .


Nào con có cỗ bàn gì mà đãi được chị em, nếu không phải là cỗ bàn thiêng liêng, dọn món tình nghĩa yêu dấu và vui vẻ? Con không biết cách nào khác, con muốn bắt chước thánh Phaolô vui cùng người vui, lại cũng khóc cùng người khóc. Cho nên thỉnh thoảng nước mắt con có rơi xuống bàn tiệc thiết đãi chị em; nhưng con đã luôn luôn cố gắng đổi những hạt lệ sầu ấy ra những giọng cười vui, bởi vì Chúa yêu thích những người cho vui vẻ  .


Mười phút khổ quý hơn ngàn năm sướng

Con nhớ hồi con ở nhà tập, Chúa đã soi lòng con làm một việc bác ái. Việc xem ra nhỏ nhặt mà Cha Cả trên trời - Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, bất tất phải đợi đời sau, đã trọng thưởng con rồi.


Việc xảy ra trước khi chị Sainte Pierre bất toại hẳn. Dạo ấy hôm nào cũng vậy, cứ đến sáu giờ kém mười phút, là lúc còn đang nguyện gẫm, phải một chị đứng lên đi dắt chị liệt kia xuống nhà cơm. Con muốn nhận công tác ấy, nhưng rất ái ngại, vì biết tính chị ấy rất khó chiều, hầu như không thể nào vừa lòng chị được. Song con không đành bỏ dịp tốt lành, vì nhớ lời Chúa đã phán: Cái điều chúng con làm cho người rốt hèn nhất trong chúng con, Cha nhận như làm cho chính Cha vậy  .


Con đã nhún nhường đứng ra xin nhận việc dẫn chị, và đã phải xin mãi mới được nhà ưng cho. Khi tra tay vào việc, con đã cố làm êm nhẹ hết sức và đã được vừa ý chị lắm. Hôm nay cũng vậy, hễ thấy chị lúc lắc đồng hồ cát của chị, con hiểu ngay là đã đến giờ chị đi xuống nhà cơm. Con phải lấy hết can đảm đứng dậy rồi bắt đầu các nghi lễ: trước hết khe khẽ động để kéo ghế ngồi của chị ra, kéo một cách khéo riêng, nhất là đừng làm vội vàng hấp tấp, rồi dắt chị đi. Đi thì phải đi theo sau chị mà đỡ ở thắt lưng, đỡ thì phải đỡ cho rất êm nhẹ, nếu chẳng may mà nhỡ bước một cái, thì chị mắng ngay là vụng về làm suýt ngã chị:


- Ôi! Lạy Chúa! chị đi đâu mà vội thế, tôi ngã rừ xương ra bây giờ!


Nếu nghe chị nói thế mà cố làm cho êm nhẹ hơn, thì chị lại trách:


- Chị phải đi với tôi chứ! Chẳng thấy tay chị đỡ ở đâu sốt, chị bỏ tôi thế này, tôi ngã mất bây giờ... Ôi! Khổ quá! Tôi nói có sai đâu, chị còn trẻ con lắm, không giúp được tôi kia mà!


Thế rồi hai chị em xuống đến nhà cơm. Ở nhà cơm lại có những nhiêu khê khác: còn phải đỡ khéo đặt chị ngồi xuống chỗ chị, đừng để động chạm đau đớn gì, việc xắn tay áo giúp chị cũng phải xắn một cách khéo riêng, sau đó mới có thể đi ăn được.


Nhưng thấy chị cắt miếng bánh khó lòng quá, con lại cắt giúp chị, và lần nào cũng phải cắt bánh rồi mới yên trí đi ăn. Cái việc cỏn con cắt bánh này, chị không bảo làm mà thấy con cũng làm, chị rất cảm động tấm lòng ân cần săn sóc chu đáo của con, và cũng vì cái việc giúp đỡ tự nhiên ấy mà thành thử con đã được lòng chị tin cẩn lắm, nhất là - điều này mãi sau chị mới nói cho biết - mỗi khi giúp đỡ chị những việc lặt vặt ấy xong, con hằng tươi cười vui vẻ cùng chị.


Thưa Mẹ, việc nhỏ mọn về nhân đức này đã qua lâu lắm rồi, song Chúa còn để con vẫn nhớ phảng phất như mùi hương thơm nhẹ nhàng, như cơn gió phe phẩy lúc trưa hè nắng bức.


Một hôm về tiết trời đông, gió lạnh lẽo, trời đen tối... khi con đang làm việc giúp đỡ chị như đã kể trên, bỗng dưng từ xa xa đưa lại như những tiếng âm nhạc nhịp nhàng vui tai khoái trí lắm. Bằng tưởng tượng, con đã hình dung trong óc một gian phòng bài trí rất xa hoa, những ngọn điện sáng quắc tung toé muôn tia sáng ấm áp dọi chiếu trên các đồ vàng sáng nhoáng trang hoàng gian nhà, óng ánh rung rinh như vui cười hí hởn, nơi phòng tráng lệ đó, lại có nhiều thiếu nữ mỹ lệ ăn vận tân thời rất sang rất đẹp niềm nở mời chào đón rước quan khách vào ra bằng muôn cách lịch thiệp nhã nhặn thế gian.


Rồi nhìn vào chị liệt mà con đang ân cần giúp đỡ: thay âm nhạc, con nghe liên lỉ những tiếng rên đau, thay những đồ vàng bạc trang hoàng nhà cửa, con trông lên bốn bức tường gạch cao nghiêm nghị của nhà Dòng đứng chơ vơ, một ngọn đèn lờ mờ sáng!


Hai cảnh đối chọi chan chát đó gợi lên khắp người con một cảm giác êm dịu man mác! Bằng những tia sáng chân lý mạnh gấp mấy những ánh sáng lờ mờ của thú vui trần tục, Chúa soi sáng con biết cương quyết trong tâm trí rằng: giá đổi 10 phút giúp đỡ chị đây lấn ngàn năm dạ hội vui vẻ của thế gian, con cũng không đổi. Chao ôi! Nếu trong chính lúc đau khổ trần phiền, nếu giữa cơn giao chiến gay go ở chốn ba đào, chỉ mới nghĩ đến sự được Chúa cất ra khỏi thế gian, mà đã có thể nếm được những mùi vị sung sướng dường ấy, khi ta đã về quê thiên đàng, ngự giữa những vinh hiển cả sáng, ở giữa nguồn ơn phúc vui vẻ thảnh thơi đời đời, mà suy lại ơn trọng Chúa thương gọi ta vào Dòng - cửa thiên đàng -, lòng ta khi ấy vui mừng hoan hỷ nói sao cho xiết!


Không phải là mỗi khi làm việc về đức thương yêu con đều cảm thấy lòng phấn khởi vui sướng thế đâu, nhưng có điều là từ khi con vào Dòng, Chúa đã làm con biết cảm thấy vui sướng nhìn nhận Chúa trong các bạn tình Chúa! Bởi vậy khi dẫn chị Sainte Pierre con đã tận tâm vui vẻ giúp đỡ chị hết sức đến đỗi giá được dẫn chính mình Chúa, con cũng không còn thể tận tâm hơn, hay vui vẻ hơn được.


Hai hy sinh rất đẹp

Thưa Mẹ, con vừa nói rằng không phải là lần nào làm việc bác ái, con cũng cảm thấy cõi lòng vui sướng. Để minh chứng điều ấy, con xin kể vài trận trong muôn trận mà con đã phải vất và chiến đấu:


Trước đây ít lâu, trong giờ suy ngắm ở nhà nguyện, con ngồi gần một chị, chị ấy hay động đạt luôn, khi động tràng hạt, khi động không biết là động cái gì, có lẽ chỉ mình con nghe thấy vì tai con tinh con lấy làm khó chịu quá sức. Con chỉ chực quay sang nhìn để chị im đi; nhưng lòng lại nghĩ để vậy mà cầm mình chịu khó thì hơn, trước là vì mến Chúa, sau là để khỏi phiền chị.


Vậy rồi con cứ làm thinh im lặng như không biết gì; nhưng thỉnh thoảng thấy bực tức trong mình quá đến nỗi mồ hôi toát ra, và cả giờ suy ngắm phải chịu để làm giờ tập nhịn nhục. Đến sau con đã phải tính cách này: cứ bình tĩnh và vui vẻ chịu khó, ít là trong linh hồn; con lại cố ép lòng để thích nghe những tiếng động rất khó chịu ấy, và thay vì đừng để trí nghe - một sự không có thể - con lại cầm trí nghe cho rõ y như cầm trí nghe một bài âm nhạc rất hay, và việc suy ngắm của con lúc đó chỉ là dâng Chúa bài âm nhạc hay ấy thôi.


Một lần khác ở nhà giặt, con ngồi giặt ở đằng trước một chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào con. Thoạt kỳ thuỷ, con muốn lùi ngay ra lau mặt cho chị ấy biết để giúp con một điều là đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghĩ lại như thế là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng mình một cách rất đại lượng, con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa, con lại cố nén mình để ước ao nước bẩn ấy bắn lên con rất nhiều. Qua nửa giờ, con đã cảm thấy sự vui thú được vẩy nước bẩn, con định bụng sau này hễ có dịp lại đến chỗ đất lành ấy để làm giàu một cách quá ư dễ dàng.


Thưa Mẹ, Mẹ xem đấy, con là một linh hồn rất nhỏ mọn chỉ biết dâng Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã đem lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng lắm. Tuy nhiên, con cũng đã hờ hững mà bỏ qua mất nhiều dịp; song không ngã lòng, con cam chịu mất chút bình an để lần sau biết cố giữ mình cho ý tứ hơn.


Ôi! Phúc con lắm, làm tôi Chúa ở đời này dễ dàng và êm dịu dường nào! Con sẽ nói luôn luôn rằng, con đã ước gì Chúa cũng cho con hết; hơn nữa, Chúa lại soi lòng con ước ao những sự Chúa muốn ban. Bởi vậy, ít lâu trước kỳ con phải cám dỗ rất ghê gớm về đức Tin, con đã nghĩ thầm rằng, thật bề ngoài con không phải gian nan gì, còn sự đau đớn bên trong nếu có, Chúa phải hoán cải sự thể linh hồn con đã; nhưng con không tin Chúa sẽ hoán cải tâm trạng con đâu. Đàng khác, con cảm thấy mình không thể sống bình tĩnh lặng lẽ thế này mãi được. Vậy thì Chúa sẽ se định về con thế nào? Người đã không để con phải đợi lâu, Người đã tỏ ngay cho biết: Đấng con yêu mến không thiếu cách, chẳng phải đổi chác gì hết, trên đường con đi, Người đã để con gặp phải sự gian nan cả thể, với sự gian nan ấy tất cả những cái vui thú đời con đều bị một chất tân toan tuy nhiên lành mạnh pha lẫn vào.


Hai anh làm Thầy Cả

Chẳng phải khi Chúa toan gởi gian nan đến, Người mới soi lòng con biết và ước ao đâu. Đã lâu nay con ước ao một sự mà xem chừng không thể đạt tới: Ước ao được một anh làm Thầy Cả. Con vẫn đinh ninh rằng: Giả như các anh con đừng vội về thiên đàng có lẽ con được hân hạnh xem các anh bước lên tế lễ Chúa trên bàn thờ, con than tiếc cái hân hạnh ấy quá! Thì đây, vượt quá lòng mơ ước, Chúa cho con vinh dự nhận hai Cha sắp đi truyền giáo ở phương ngoại làm anh thiêng liêng mà xưa rày con chỉ ước ao được lấy một.


Hỡi Mẹ yêu dấu, con xin kể lai lịch việc Chúa đã làm thoả lòng con thế nào.


Năm 1895, chính Mẹ Thánh Têrêsa đã gởi cho con người anh thứ nhất, làm như bông hoa mừng lễ. Hôm ấy là ngày giặt: Con đang ngồi giặt, Mẹ Bề trên Angès de Jésus gọi con ra chỗ riêng, đọc cho con nghe bức thư một thầy lý đoán sắp làm Linh mục gởi đến. Thầy nói rằng được ơn soi sáng bởi Mẹ Thánh Têrêsa, thầy xin nhận một chị cầu nguyện riêng cho thầy và cho các linh hồn thầy phải coi sóc sau này. Thầy hứa khi được tế lễ Chúa hằng ngày sẽ không quên chị. Thế là con được chọn làm em một vị sắp sửa làm Linh Mục Thừa sai.


Thưa Mẹ, con không thể nói hết cái hạnh phúc quý hoá này: con đã được mãn nguyện một cách không ngờ, lòng con khi ấy vui mừng hớn hở lắm, vui sướng như con nít. Con so sánh thế, bởi vì con phải trở lại những ngày thơ bé mới tìm ra cái vui bồng bột mà lòng trẻ nhỏ không chứa hết. Đã bao năm trời, con không được nếm mùi hạnh phúc này mà nay được, con cảm thấy linh hồn trở nên mới mẻ quá, dường như có nhiều dây đàn tình tứ rất hay đến nay mới lần tới, nắn lên những cung du dương trầm bổng rất êm tai dịu lòng.


Vì hiểu thấu nghĩa vụ vừa ghé vai gánh lấy, con đã bắt tay vào việc ngay, con đã cố gắng gấp đôi lòng sốt sắng, thỉnh thoảng con viết thơ thăm anh mới của con. Đành rằng: cầu nguyện và hy sinh là hai phương thế giúp việc truyền giáo đắc lực nhất: nhưng một khi Chúa muốn hợp nhất hai linh hồn để làm sáng danh Chúa, cơ hội ấy Chúa cũng cho phép linh hồn được cùng nhau trao đổi tâm tình, tư tưởng, hầu thôi thúc nhau mạnh mẽ tiến tới trên đường nhân đức.


Con cũng biết rằng, phải có phép Bề trên ban tỏ tường mới được thư từ như thế; bằng không, sự thư từ tự tiện đó chỉ có hại hơn có lợi, nếu không hại cho cả đôi bên, ít là hại cho bên chị dòng, vì cái đời tu của chị vốn đã buộc chị hằng phải suy xét đến mình thôi. Lại nữa, sự trao đổi thư từ, dầu là đôi bên xa cách, cũng làm cho chị dòng phải bận tâm trí vô ích và suy sút lòng kính mến Chúa; có lẽ chị tưởng rằng đối đãi như thế sẽ làm được nhiều việc cả thể, mà kỳ thực chẳng ăn thua gì hết, chỉ tổ thêm bận rộn vô ích và thường khi còn nhầm mà ngờ mình sốt sắng là khác.


***


Thưa Mẹ, con đang bình phẩm cái tội chia trí, thì chính con lại đang chia trí! Chẳng những chia trí, còn nói bông lông vô ích... Con mãi không chừa được cái tội nói dai làm Mẹ phải mỏi mắt đọc! Xin Mẹ miễn chấp và ngơ cho con tái phạm lần sau nếu có dịp.


Năm ngoái, vào cuối tháng năm, chính Mẹ đã cho con một anh thứ hai. Khi ấy con đâm ra nghĩ ngợi vì đã dâng tất cả công phúc nhỏ mọn mình cho một vị tông đồ nay mai rồi, con chỉ theo ý một người khác nữa làm sao được. Đang ngần ngại thì được Mẹ bảo ngay rằng con cứ vâng lời nhận, sẽ được công gấp hai.


Lòng con lúc ấy cũng nghĩ thế: cái lòng sốt sắng của chị Dòng Kín phải ôm ấp cả vũ trụ vào mình. Con đã hy vọng với ơn Chúa, con có thể giúp ích chẳng những hai, mà nhiều hơn nữa; con hằng cầu nguyện cho tất cả các đấng linh mục không ngoại trừ đấng nào cả, dù đi hải ngoại, dù ở nước nhà, các ngài đều phải gánh một trách nhiệm rất nặng và khó khăn, nhiều khi trách nhiệm Thầy Cả ở nhà cũng không kém phần khó nhọc các Thầy Cả đi mở đạo cho dân ngoại. Tất rằng: con muốn là Nhi nữ của Giáo Hội như Mẹ Thánh Têrêsa và cầu nguyện theo ý Đấng Đại diện Chúa ở dưới đất. Đó là mục đích chung đời sống của con.


Nhưng giả như hai anh con không mất sớm, hẳn con được kết hợp cách riêng trong mọi công việc làm của hai anh con mà không mất sự kết hợp chung trong mọi công trọng Hội Thánh ở khắp hoàn cầu thể nào thì con cũng kết hợp chặt chẽ với hai anh mà Chúa mới cho con thể ấy. Cái gì của con cũng là của hai anh, con cảm thấy Chúa rất tốt lành, rất rộng rãi để phân phát các ơn, Người giàu có lắm, cho không biết đâu là cùng, dầu con chỉ xin qua loa con cũng được ơn vô vàn vô số.


Tình lực thu hút

Từ khi nhận hai Linh Mục làm anh và nhận việc giúp đỡ các chị nhà Tập, nếu con muốn kể rành mạch tất cả những sự cần thiết của mỗi linh hồn thì kể cả ngày cũng không hết, kể cả ngày cũng vẫn còn sợ quên sót điều quan trọng.


Với những linh hồn đơn sơ, không cần phải dùng phương pháp cầu kỳ. Vậy con là một linh hồn đơn sơ, nên Chúa đã soi sáng con biết dùng một phương pháp rất giản tiện dể làm tròn nhiệm vụ con đã ghé vai gánh lấy.


Một sáng kia sau khi chịu lễ, Chúa làm con hiểu thấm thía lời Ca Đệ Nhất rằng:


Xin Người thu hút tôi, chúng tôi chạy theo hơi thơm Người  . Ôi! Lạy Chúa, thật chẳng cần phải nói: Khi thu hút tôi, xin Chúa thu hút cả những linh hồn tôi yêu dấu. Thiết tưởng một lời đơn sơ thu hút tôi đã đủ. Vâng, một khi linh hồn đã say sưa hơi thơm ngọt ngào Chúa, linh hồn sẽ không muốn chạy một mình đâu, muốn đưa cả các linh hồn mình yêu dấu cùng với mình chạy cho thoả. Đó là công hiệu dĩ nhiên về luật hấp dẫn của tình ái nơi linh hồn yêu mến Chúa cho thực tình chí thiết.


Ví như suối nước chảy mạnh, đem theo xuống lòng biển tất cả những gì gặp trên dòng suối chảy thể nào, linh hồn tôi đã được chìm lặn trong biển tình ái bát ngát không bờ cõi của Chúa, cũng muốn thu hút đem theo mình về Chúa tất cả những kho tàng châu báu của mình thể ấy. Lạy Chúa, Chúa đã biết, của cải châu báu tôi nói đây chính là những linh hồn Chúa đã vui sướng kết nghiệp cùng linh hồn tôi, là chính những linh hồn Chúa đã phó thác tôi coi sóc. Bởi vậy tôi cả dám mượn những lời riêng của Chúa, những lời của đêm sau hết Chúa ở với loài người chúng tôi, ở như khách đày, ở như người hay chết.


Ớ Giêsu, Bạn Chí Thiết! Tôi chẳng biết ngày nào cuộc lưu đày tôi mới hết! Tôi sẽ ngợi khen lòng thương yêu vô cùng Chúa ở chốn khổ hải này bao lâu nữa!... nhưng dầu sao cũng có một đêm... Đêm ấy tôi muốn than thở cùng Chúa những lời này:


Con đã ngợi khen Danh Cha ở dưới đất; con đã hoàn thành công việc Cha uỷ thác làm; con đã nói cho những người Cha phó thác con coi sóc biết Thánh Danh Cha. Rày những người ấy đều nhận biết các lời Cha đã ban bố cho con đều bởi Cha hết, bởi vì con đã nói lại cùng những kẻ ấy mọi lời Cha đã truyền dạy con, những kẻ ấy đã vâng nghe và tin thật là chính Cha đã sai con đến; con hằng cầu nguyện cho những kẻ Cha phó thác con coi sóc, vì là những kẻ thuộc về Cha. Nay con không còn ở thế gian nữa, con trở về cùng Cha, song le những kẻ ấy còn phải lưu lại chốn khách đày này. Vậy nhân Danh Thánh Cha con nguyện xin Cha gìn giữ những kẻ ấy cùng.


Nay toan trở về cùng Cha, con muốn nhắc tới sự đó trong giây phút mà con còn đang ở thế gian, để sự vui mừng bởi Cha nên vui trọn trong lòng những kẻ nghe con nói... Con không nài xin Cha cất những kẻ ấy khỏi thế gian, một xin Cha gìn giữ chúng khỏi mọi sự dữ. Phô con ấy không thuộc về thế gian cũng như con không thuộc về thế gian vậy.


Chẳng những con nguyện xin Cha đoái thương những kẻ ấy mà thôi, con lại nguyện xin Cha thương những kẻ sẽ tin Cha vì lời phô kẻ ấy nói.


Lạy Cha, con nguyện ước rằng, con ở đâu, những kẻ Cha phó thác con coi sóc cũng được cùng con ở đấy, để thế gian được hiểu biết rằng: Cha yêu dấu con thế nào, Cha cũng yêu dấu những kẻ ấy như vậy  .


Vâng, lạy Chúa Giêsu, đó là những lời nguyện của Chúa mà tôi ước ao được nguyện lại trước khi về nghỉ ngơi trong tay Chúa! Có lẽ hơi là lạm dụng càn giở; nhưng không... lâu nay Chúa chẳng cho phép tôi được ở bạo dạn cùng Chúa sau? Cũng như ông bố đứa con phung phá nói với người con cả mình, Chúa phán cùng tôi rằng:


- Mọi sự của Cha là của con  .


Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa cũng là lời tôi, tôi cũng có thể dùng để nguyện xin Cha Cả trên trời ban ơn lành cho những linh hồn thuộc về tôi coi sóc.


Lạy Chúa tôi, Chúa đã biết tôi chỉ ước ao yêu mến một mình Chúa - lòng yêu duy nhất, tôi không ham hố công danh nào khác. Từ bé tôi đã yêu mến Chúa, tình yêu mến ấy đã theo tuổi mà lớn cùng tôi, và ngày nay đã biến thành vực tình thẳm sâu không còn biết lượng đâu là cùng là đáy.


Đã yêu tất nhiên quyến luyến, lòng yêu tha thiết người yêu, lòng tôi tha thiết Chúa, muốn tung mình lên tới Chúa, chỉ những ước mong lấy tình mà lấp đầy Biển tình đã thu hút mình. Nhưng thương hỡi! Trông mình không đáng là giọt sương rơi trong biển cả!


Lạy Chúa Giêsu, để tôi được mến Chúa như Chúa yêu tôi, xin Chúa cho tôi mượn Tình yêu của Chúa, có được thế mới trong tấc lòng tôi an thoả.


Lạy Đức Chúa Giêsu, hình như Chúa không còn thể yêu dấu linh hồn nào hơn linh hồn tôi, nên tôi mới dám xin Chúa yêu dấu cả những kẻ Chúa trao phó tôi coi sóc như Chúa yêu dấu chính mình tôi. Giả như có ngày nào ở Thiên đàng mà tôi nhận thấy Chúa đã yêu dấu những kẻ ấy hơn tôi, hẳn là tôi sẽ vui mừng quá bội! Ngay bây giờ tôi đã công nhận những linh hồn ấy đáng được yêu dấu hơn tôi bội phần; nhưng bao lâu sống ở thế gian này, tôi không thể hiểu và tin được rằng hãy còn có một tình yêu cả thể hơn cái Tình Chúa yêu tôi - yêu không vì một chút công lênh gì.


Thưa Mẹ, con rất bỡ ngỡ vì đã viết ra mấy điều trên đây - những điều mà trước con không hề nghĩ tới.


Khi nhắc lại lời Phúc Âm Con nói lại cùng những kẻ ấy mọi lời Chúa đã truyền dạy con, con không nghĩ gì đến hai anh con; con chỉ nghĩ đến các chị nhà Tập, bởi vì con không tin mình có thể chỉ giáo các vị Truyền giáo đâu. Về phần hai anh, con đã viết lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu: Con không nài xin Cha cất những kẻ ấy khỏi thế gian... Con lại nguyện xin Cha thương những kẻ sẽ tin Cha vì lời phô kẻ ấy nói. Thật thế, lẽ nào con có thể bỏ quên những linh hồn hai anh con đã phải chinh phục bằng bao đau khổ, bao nước mắt và bao lời giảng dạy!


Con xin nói hết ý nghĩa con hiểu về lời Ca Đệ Nhất: Xin Người thu hút tôi, chúng tôi chạy theo...!


Chúa Giêsu đã phán: Không ai có thể đi theo Ta nếu Cha Ta - Đấng đã sai Ta không kêu gọi  . Rồi Người dạy ta chỉ cần gõ sẽ có kẻ mở, chỉ cần tìm sẽ thấy, chỉ cần khiêm nhượng giơ tay xin là sẽ được. Người lại nói thêm hễ sự gì người ta nhân danh Người mà xin cùng Cha Người, Cha Người sẽ cho hết. Chính vì thế nên trước khi Người xuống thế gian, Chúa Thánh Thần đã phán lời tiên tri Xin Người thu hút tôi, chúng tôi chạy theo...


Tình nguyện được thu hút, nghĩa là tình nguyện được hợp nhất chí thiết với người mình đã để lòng quyến luyến. Nói ví dụ như sắt và lửa có trí khôn mà sắt xin cùng lửa để được thu hút, há chẳng là chứng tỏ cái lòng sắt ước ao được hoá chất cùng lửa sao? Ấy chính lời nguyện xin của con bao hàm ý nghĩa đó!


Con nguyện xin Chúa Giêsu thu hút con vào giữa những ngọn lửa nóng nảy của Tình Ái Chúa, xin phối hiệp con lại cùng Người cách nồng nàn chí thiết để chỉ có Chúa sống và hoạt động trong người con. Con cảm thấy rằng lửa yêu dấu càng thiêu đốt trái tim con thì càng mê man nói lời Xin Người thu hút tôi... và các linh hồn tới đến cùng con cũng càng sẽ chạy rất nhanh nhẹn theo hơi thơm của Đấng con yêu mến.


Vâng, những linh hồn ấy chạy, chúng con cùng nhau chạy cả bởi vì một khi linh hồn đã bén lửa tình, không còn thể ở yên hàn được. Nhất định phải hành động như bà Madalena. Các linh hồn ấy ngồi dưới chân Chúa Giêsu nghe lời ngọt ngào êm dịu và tình tứ Chúa phán. Xem thì tưởng là không thiết đãi gì Chúa, mà kỳ thực các linh hồn ấy thiết đãi Chúa nhiều hơn bà Maria rộn rã rối tít nhiều sự  .


Chúa không trách những việc bà Martha làm, Chúa chỉ trách sự bà rộn rã lo lắng quá. Những việc bà Martha làm chính Đức Mẹ cũng đã làm cách êm ả khiêm nhượng trong nhà Nazareth: Đức Mẹ đã phải dọn bữa ăn hằng ngày trong Thánh gia Người. Điều ấy các thánh đều hiểu cả và hiểu rõ rệt hơn ai hết có lẽ là những đấng đi gieo vãi hạt giống Phúc Âm trên khắp hoàn cầu.


Phải chăng cũng là nhờ sự nguyện gẫm mà các bậc đại thánh như Phaolô, Augustinô, Thoma Aquinô, Gioan Thánh Giá, Têrêsa Mẹ và bao nhiêu thánh hiền khác đã hiểu thấu đáo cái khoa học lạ lùng ấy. Cái khoa học làm ngẩn trí những bậc thông minh thượng trí trong đời?


Nhà bác học thời danh kia đã nói: Cho tôi một chỗ vịn, tôi sẽ dùng đòn nạy nâng nổi cả thế gian. Cái điều mà quân tử Archimède yêu cầu không được, các thánh đã yêu cầu được một cách rất hoàn bị. Đấng phép tắc vô cùng đã cho các thánh một chỗ vịn chính Người và chỉ mình Người! Còn đòn nạy mà các thánh dùng là sự nguyện ngắm hằng ngày nung nướng các ngài trong biển lửa Tình Ái nhân thế, các thánh đã nâng nổi thế gian, các kẻ lành đang giao chiến cũng nâng nổi thế gian, và sẽ khả kham mãi cho tới ngày cùng đời tận kiếp.


Theo hương thơm của Đấng Chí Thiết

Thưa Mẹ yêu dấu, còn lời theo hương thơm của Đấng Chí Thiết con hiểu thế này: Vì Chúa Giêsu đã về thiên đàng, con chỉ có thể theo dõi Chúa bằng lốt chân đi để lại đàng. A! Những lốt chân Chúa đi xán lạn lạ lùng! Ngào ngạt hương thơm quá lẽ. Con chỉ đưa mắt nhìn Phúc Âm là cảm thấy ngay mùi thơm ngào ngạt của đời Chúa và hiểu ngay đường nào là đường phải chạy để theo dõi Chúa. Con không chạy đến chỗ cao nhất, nhưng chạy lại chỗ thấp nhất. Con nhường bước cho người Phariseo tiến lên, rồi con với lòng đầy trông cậy, thầm thĩ lại lời cầu nguyện của người Publicano.


A! Nhất là con thích bắt chước thái độ bà Madalena, con cảm phục cái tính bạo lạ lùng của bà, hay nói đúng hơn, cái tình yêu sấn sổ mà bà đã làm vui thoả Trái Tim Chúa Giêsu, cũng làm say sưa lòng con mọn này lắm!


Chẳng phải vì ơn Chúa gìn giữ con vẹn sạch, không khi nào phạm tội trọng, mà con được nhắc lòng lên trông cậy và kính mến Chúa thế này đâu. Con cảm thấy rằng: dầu linh hồn con có rủi mà mắc mọi tội xấu xa ô uế ghê tởm lắm mặc lòng, con cũng chẳng bớt lòng cậy trông Chúa chút nào. Chắc chắn khi ấy trái tim con sẽ nứt vỡ ra vì thống hối, con sẽ đến gieo mình vào lòng Chúa Cứu Chuộc con. Con biết Người đã yêu thương người trai hoang đàng phung phá kia; con được nghe những lời Người đã phán với thánh Madalena, với mụ đàn bà ngoại tình, với người thiếu phụ xứ Samaria. Thật chẳng ai có thể làm con lo sợ được, vì con đã biết tỏ lòng Chúa yêu dấu và thương xót con. Con biết chỉ một nháy mắt thì muôn vàn tội lỗi con đều tiêu tan hết, tựa hồ giọt nước rơi trên than lửa đang hồng hào cháy.


Trong chuyện các thánh tu hành có chép một tích lạ này: Một thầy tu hành đã khuyên bảo trở lại một thiếu phụ mê dâm trắc nết lắm, đã làm gương mù tội lỗi gớm ghiếc trong cả địa phương sinh trưởng.


Nghe thầy tu khuyên bảo, người nữ trắc nết bởi ơn Chúa mạnh mẽ thôi thúc, đã thống hối ăn năn ghét tội hết lòng hết sức, đã quyết xin theo thầy tu hành lên rừng để hãm mình đền tội cách rất nhiệm nhặt. Khi lên đường, mới đi được một đêm, chưa kịp đến nơi đền tội, người nữ tội lỗi đã lăn ra chết ở dọc đàng. Chết vì lòng đau đớn quá sức, chết vì lửa kính mến cháy trong linh hồn quá mạnh! Trong giây phút ấy, thầy tu hành xem thấy nhiều thiên thần bởi trời xuống rước linh hồn thánh ấy lên hưởng phúc vui vẻ thiên đàng và Đức Chúa Trời đã ẵm bế linh hồn thánh ấy vào lòng rất thiết tha yêu dấu:


Trời đất ôi! Đó là một gương vô cùng cảm động, minh chứng những điều con ước ao nói mà chẳng nên lời...




CHƯƠNG XI: LÒNG TRÔNG CẬY CHÚA


(Chương XI là tập III trong chuyện MỘT TÂM HỒN Têrêsa đã viết, kính gởi chị Marie du Sacré Coeur - “Chị Cả Người”.)


Thưa chị yêu dấu.


Chị bảo em để lại cho chị một kỷ niệm...


Vâng, vì Mẹ đã cho phép, em rất vui mừng cởi mở tâm hồn cùng chị - một người xưa khi em chưa biết nói, đã thay em, đã lấy tên em mà hứa với Chúa lòng trung thành của em nhất quyết làm tôi kính mến Chúa, một mình Chúa.


Chị ơi, con trẻ xưa chị tiến dâng Chúa, chiều nay bập bẹ nói chuyện cùng chị, yêu dấu chị như con thơ yêu dấu mẹ... nó mong chờ một ngày kia trên Quê thật, chị sẽ hiểu thấu lòng đứa em út biết ơn chị rất dào dạt.


Chị yêu dấu, em đoán chị muốn nghe em kể lại những mầu nhiệm mà Chúa đã tỏ cùng em, những mầu nhiệm đó, Chúa cũng đã tỏ cùng chị rồi. Em chắc thế vì xưa chính chị đã tập cho em biết trầm mạc những Tâm sự Chúa. Tâm sự Chúa tức là mầu nhiệm, mầu nhiệm thì lưỡi phàm trần không thể nói, chỉ có trái tim mới cảm được phần nào thôi, dầu vậy em cũng cứ xin nói một đôi lời.


Chị đừng nghĩ rằng em đang được vẫy vùng sung sướng trong suối an ủi. Ôi! Không phải thế đâu. Sự an ủi của em là đừng còn được an ủi gì nữa ở thế gian này. Trong im lặng kín đáo, Chúa Giêsu đã dạy dỗ em. Chúa không ra mặt, không lên tiếng, cũng không dùng sách vở nào, vì em chẳng hiểu sách vở nào hết mặc dầu có đọc. Đọc sách, hoạ hoằn lắm em mới gặp được lời an ủi, chẳng hạn như trót giờ ngắm sáng nay khô khan quá, mãi lúc gần xong em mới được lời an ủi này: Đây là Thầy Cha ban để dạy dỗ con. Người sẽ dạy con các việc phải làm. Cha muốn con năng đọc sách Sự Sống là sách chép biên rành mạch khoa học Tình ái và nghệ thuật Yêu đương.


A! Khoa học Tình ái! Nghệ thuật Yêu đương! Những tiếng du dương dịu dàng êm ái dường nào! Nghe như mật rót vào tai, linh hồn cảm khoái vô cùng! Em chỉ ước ao chuyên học một khoa ấy thôi, và để theo học dù đã tốn phí hết cơ hết nghiệp, em cũng còn nói như “Bạn tình” đã nói trong Ca Đệ Nhất: em chưa tốn phí gì hết  .


Em công nhận rằng chỉ có Tình ái mới đủ làm ta được vừa lòng vừa ý Chúa. Vậy Tình ái phải là tất cơ cơ nghiệp của em, em chỉ biết mải miết say sưa yêu mến Chúa cho tận tình tận nghĩa thôi.


Chúa Giêsu đã cho em biết con đường duy nhất đưa ta đến biển lửa Tình ái là Phó thác mình trong tay Chúa, tựa hồ đứa con nít nằm ngủ trên cánh tay cha, không còn biết lo sợ gì nữa. Chúa đã phán qua miệng vua Salomon rằng:


- Ai nhỏ bé nhất hãy đến đây với Cha  . Nơi khác: Lòng xót thương ban cho những trẻ nhỏ  . Tiên tri Isaia cũng đã nhân danh Đấng - Nguồn Tình Ái mà nói:


- Ngày sau hết Chúa sẽ dẫn đoàn chiên Chúa vào cánh đồng cỏ xanh rờn. Người sẽ chọn những chiên nào nhỏ bé hơn để ẵm bế trên ngực.


Và như chưa hả lòng đủ với những cách tỏ tình yêu đương ấy, Chúa lại soi cho tiên tri Isaia - Đấng thánh hằng đắm nhìn và trầm mặc những lẽ cao siêu mầu nhiệm đời đời, nói thêm rằng:


- Như mẹ kia mơn trớn yêu dấu con mình thế nào, Ta cũng sẽ ẵm bế an ủi chúng con, ôm ấp vào lòng và ru trên gối như vậy  .


Chị yêu dấu hỡi, nghe những lời lẽ tha thiết dấu yêu đó, chúng ta biết nói sao? Chúng ta chỉ còn biết im lặng mà khóc vì ơn, vì nghĩa, vì tình... Ôi! Nếu các linh hồn yếu đuối và thiếu thốn như linh hồn em, hiểu thấm thía những điều em chiêm nghiệm đây, chẳng lẽ còn linh hồn nào lại thất vọng trên đường trọn lành! Em dám nghĩ hết thảy sẽ dễ dàng bay tới đỉnh Ái sơn, vì Chúa chẳng buộc ta phải có những hành động to tát, phải làm những việc cả thể phi thường. Người chỉ buộc ta phải phó trót mình mặc Thánh ý Người, và giữ luôn luôn tấm lòng tri ân tri nghĩa cho vuông tròn trọn vẹn.


Chúa đã phán:


Cha chẳng cần những đoàn chiên dê của chúng con, bởi vì tất cả những cầm thú trên rừng, những muông chim trên đồi núi là của Cha hết, Cha biết rõ từng con chim bay lượn trên non nước.


Nếu Cha đói, Cha chẳng phải nói với chúng con đâu, bởi vì trái đất và mọi sự trong trái đất là của Cha. Nào Cha có cần phải ăn thịt bò và uống máu dê? Chúng con hãy tế lễ Thiên Chúa những lời ngợi khen, những hành động đền ơn trả nghĩa  .


Đó là tất cả những sự Chúa đòi hỏi ở ta. Người chẳng cần gì công việc ta làm, chỉ cần ta có tấm lòng yêu mến Người thôi. Chính Đấng đã tuyên bố nếu đói không cần phải nói với ai, đã không quản ngại xin người thiếu phụ Samaritano một chén nước uống. Người đã khát... nhưng khi Người nói cho Ta nước uống   thì lại chính là lòng kính mến, tình ân ái của tạo vật mà Đấng Tạo Hoá nài xin vậy. Ôi! Người khát khao thiên hạ yêu mến Người dường nào!


Thật, cho tới nay Chúa vẫn còn khát và khát hơn bao giờ hết! Nhưng cám cảnh! Trong những môn đệ Chúa ở thế gian, rặt thấy những kẻ bội tình tệ bạc, những kẻ ăn ở dửng dưng gặp chăng hay chớ, gia dĩ trong số môn đệ riêng của Chúa, chao ôi! Cũng rất hiếm những tấm lòng thành thực yêu mến Chúa hết tình hết nghĩa, hầu đáp đền trong muôn một cái Tình Ái to bao la, rộng mênh mông, cao bát ngát của Chúa.


A! Chúng ta mà hiểu thấu những tâm sự tha thiết này của Chúa, của Bạn Thánh, chúng ta sẽ vui sướng hoan lạc chừng nào! Em chắc rằng nếu chị vui lòng viết ra những điều chị lĩnh hội về Tâm sự Chúa, em sẽ có những trang sách rất hay, rất tình để đọc. Nhưng em biết rồi, chị muốn giữ kín trong cõi lòng những Tâm sự Vua Cả... Còn em, chị lại bảo còn gì đáng quý bằng công bố những công việc Đấng Cao Cả làm!   Em cũng xác nhận chị không nói là phải, vì lưỡi phàm nói sao nổi những cao siêu mầu nhiệm trên trời.


Em trộm nghĩ nếu như em đã viết bao nhiêu trang này đến trang khác, cũng vẫn như chưa viết gì hết. Biết bao nhiêu cảnh trời lạ, bày xoá muôn màu sắc mà mắt linh hồn em đã được chiêm nghiệm. Những thiên cảnh màu sắc ấy, phải chờ qua kiếp đoạ đày tăm tối này, khi về thiên đàng mới được thứ bút và thứ thuốc để vẽ xứng đáng.


Nhưng thưa chị yêu dấu, chị đã ngỏ ý muốn hiểu thấu lòng em, tất cả những tâm tình em, và muốn em viết lại đây cái mộng xuân tươi đẹp nhất của đời em, cùng cả cái mà chị kêu là Học thuyết của em, em xin vâng và xin bày giãi trong những trang giấy sau đây. Nhưng để giãi bày tư tưởng cho dễ, em xin viết một ít trang như kể với Chúa.


Rồi đây có lẽ chị sẽ cho những tâm tưởng em sắp nói là quá bày đặt. Thực không, em xin nói trước cùng chị rằng em không bày đặt gì hết: lòng em vẫn bình tĩnh và yên hàn.


Các Thánh xuống thăm

Lạy Chúa Giêsu, ai nói được Chúa đã dìu dắt linh hồn nhỏ mọn tôi cách yêu dấu dường nào, êm dịu dường nào!...


Từ lễ Khải hoàn tưng bừng mừng Chúa sống lại, cơn giông tố đã ầm ầm nổi dậy rất dữ dội trong lòng em và cứ dai dẳng mãi đến tháng năm mới thấy Chúa ban một ơn như một tia sáng loè trong đêm tối.


Khi suy những chiêm bao mầu nhiệm Chúa thường ban cho các linh hồn yêu mến Chúa chí thiết, em tự nhận mình chẳng đáng được an ủi ấy, một chỉ đáng đêm tối tăm mù mịt hoài. Nhưng giữa cơn giông mù mịt triền miên ấy, em cứ ngủ và ngủ bình an!


Hôm sau tức là mồng 10 tháng 5, khi trời mới tảng sáng cả nhà đang còn nghỉ, em mơ đi bách bộ ngoài hiên với Mẹ Bề trên. Bỗng rưng không hiểu tự đâu tiến đến ba chị Dòng khoác áo choàng dài và chùm lúp rộng, em hiểu các chị ở thiên đàng xuống. Em đã thầm nghĩ giá được xem mặt một chị thì sung sướng lắm! Quả nhiêu cầu được ước thấy: một chị lớn nhất đã tiến lại bên em, em liền quỳ xuống. Ôi hạnh phúc! Chị ấy đã vén lúp lên chùm kín cả người em.


Không hồ nghi chút nào, em nhận ra ngay là Mẹ Đáng Kính Anne de Jésus đã lập Dòng Kín trong nước Pháp. Dong nhan Mẹ rất tươi tỉnh đẹp đẽ; vẻ đẹp siêu nhiên ấy tuy nhiên không giãi chiếu một tia sáng nào và khăn lúp dầy đã chùm kín cả Mẹ lẫn em, mà em vẫn nhìn rõ mặt Mẹ tốt đẹp lạ lùng, sáng láng dịu dàng: yếng sáng hình như tự trong người Mẹ giãi ra.


Đấng thánh đã ôm em và mơn trớn mãi, thấy được yêu dấu thiết tha, con đã đánh bạo hỏi mấy câu này:


- Con lạy Mẹ, xin Mẹ bảo con với, Chúa còn để con sống lâu năm nữa chăng? Người đã sắp đến tìm con về chưa?


Trả lời bằng cách tủm tỉm cười đầy yêu đương:


- Phải, sắp rồi... sắp rồi... Mẹ nói thật đấy!...


Con lại hỏi thêm:


- Con lạy Mẹ, Mẹ bảo con điều này nữa: ngoài những việc nhỏ mọn con thường làm và những điều con ước ao. Chúa có muốn con làm gì khác nữa chăng? Chúa có bằng lòng con không?


Đến đây dong nhan Mẹ sáng rực rỡ hơn, và tỏ bộ yêu con quá lẽ lắm. - Mẹ trả lời:


- Đức Chúa Trời không đòi con làm gì khác, Người bằng lòng, rất bằng lòng con rồi!...


Dứt lời, hai tay Mẹ ôm chặt đầu em, hôn em và mơn trớn làm em cảm thấy tất cả sự âu yếm sung sướng không thể tả được. Với lòng vui sướng quá đỗi ấy, em đã nhớ đến các chị em và đang muốn xin cho chị em một vài ơn thì thôi! Giật mình em đã tỉnh dậy ngay.


Em không nói hết sự hoan hỉ tràn trề linh hồn em khi ấy. Chiêm bao này đã qua đi bao nhiêu tháng trường, mà lòng em vẫn nhớ như in, mộng vẫn tươi vẫn đẹp như hoa mới nở...


Nay em còn trông thấy hình như Đấng thánh đang nhìn em, miệng nhoẻn cười yêu dấu, mơn trớn và hôn em nữa.


Lạy Chúa Giêsu, gió rít bão giật nhưng khi Chúa bảo im thì im lặng hết!  .


Khi thức dậy em có cảm tưởng như đã thấy một thiên đàng đầy các linh hồn yêu dấu em, coi em như con thơ mình. Cảm tưởng đẹp này nay hãy còn linh động trong trái tim em, và càng thêm dịu dàng, càng thêm ân ái mỗi khi em suy rằng: Mẹ Anne de Jésus, em xin mạn phép nói là xưa nay em dửng dưng lắm, em không cầu xin Mẹ lần nào, chỉ hoạ hoằn khi ai nói đến Mẹ, em mới nghĩ đến Mẹ một giây phút thôi.


Ngày nay em được biết và hiểu Mẹ yêu quý em lắm. Sự hiểu biết này làm cháy to ngọn lửa yêu mến trong lòng em, chẳng những đối với Mẹ, lại đối với tất cả các Thánh đang hưởng phúc trên Quê thật là thiên đàng.


Ôi! Lạy Chúa Bạn Chí Ái, ơn này mới chỉ là giáo đầu cho muôn vàn ơn cả thể khác mà Chúa khứng ban cho tôi sau này: hôm nay tôi xin nhắc lại những ơn cả thể ấy: nếu có nhầm nhỡ cách nào trong khi tỏ bày lòng cậy trông và ước ao không bờ bến của tôi, thì xin Chúa cũng thứ tha cho tôi cùng... thứ tha và sửa chữa linh hồn tôi cùng ban ơn cho như lòng sở nguyện.


An nghỉ trong tình ái

Lạy Đức Chúa Giêsu, được hân hạnh là Bạn trăm năm Chúa, hân hạnh là chị Dòng Kín, hân hạnh phối hiệp cùng Chúa để sinh sản nhiều linh hồn, lẽ thì tôi phải lấy bấy nhiêu hân hạnh làm quá đủ; nhưng tôi cảm thấy lòng còn ước ao nhiều khác: ước ao làm lính cảm tử để bênh đỡ Giáo Hội; ước ao làm Thầy Cả, ước ao làm Tông đồ; ước ao làm Tiến sĩ và sau hết ước ao làm thánh Tử đạo.


Tôi ước ao làm nổi những việc rất anh hùng.


Tôi cảm thấy mình có can trường như một tinh binh Thánh giá thuở xưa và để bênh đỡ Giáo Hội; tôi ước ao, tôi cầu mong cái chết danh dự ở chốn sa trường, một hồng phúc cao thượng trọng vọng lắm!


Ôi, ơn kêu gọi làm Thầy Cả!


Ớ Chúa Giêsu! tôi ước ao làm Thầy Cả lắm! Phải mà tay tôi được cầm lấy Chúa, miệng tôi vừa đọc lời Truyền Phép, Chúa liền tự trời ngự xuống trên bàn thờ. Chớ gì tôi được trao Thánh Thể Chúa cho các linh hồn chịu lấy! Giờ phút ấy hẳn lòng tôi nóng nảy cháy lửa kính mến Chúa lắm lắm... Nhưng! Tôi ước ao làm Thầy Cả mà lòng lại cảm phục muốn bắt chước thánh Phanxicô Khó Khăn đã khiêm nhượng từ chối lên bậc rất cao trọng của Đấng làm thầy!


Một lòng chật hẹp với những ước ao tương phản đó, tôi biết dung hoà làm sao cho phải được?


Tôi ước ao biết dẫn đàng chỉ lối cho các linh hồn như các Tiên tri, như các Tiến sĩ.


Tôi ước ao chạy rảo khắp năm châu bốn bể để rao giảng Danh Đức Chúa Trời, để dựng cao ngọn cờ Thánh Giá khải hoàn trên các miền dân ngoại. Nhưng lạy Chúa Giêsu yêu dấu, giảng đạo cho một dân, truyền giáo cho một nước thôi, tôi chưa lấy thế làm đủ. Tôi ước ao đồng thời giảng đạo cho khắp cả và thiên hạ, dù những nơi đảo hiu quạnh hẻo lánh chơ vơ giữa trùng dương muôn dặm bát ngát.


Tôi ước ao sống cuộc đời Tông đồ chẳng phải là ít năm vậy, một là đã tận tuỵ đi mở Nước Chúa từ thuở khai thiên lập địa cho đến ngày nay và từ nay cho tới ngày tận thế!...


Mà điều ước ao hơn hết, tôi ước ao phúc Tử đạo.


Ôi, Tử đạo!


Đó là mộng xuân thời của tôi, đó là điều tôi đinh ninh từ bé. Mộng xuân thời đẹp đẽ này vẫn lớn theo tôi trong gian phòng kín đáo nhà Dòng. Nhưng với ước ao thế thôi tôi vẫn chưa thoả, tôi chẳng muốn chết bởi một hình khổ, tôi ước ao chịu hết mọi hình khổ độc dữ hầu mới thoả lòng khát vọng được.


Lạy Đức Chúa Giêsu, lạy Bạn Cực Thánh, chớ gì tôi được phúc chịu đòn đánh nát cả mình, được chịu đóng đanh chân tay như Chúa; chớ gì tôi được lột da như thánh Batôlômeô, được bỏ vào vạc dầu sôi như thánh Gioan, được sư tử cắn nhai rau ráu như thánh Inaxu Antiochia, hầu nên miếng bánh đáng tay Chúa nhìn nhận. Và như hai thánh nữ Ana và Cécilia, tôi ước ao giương cổ cho quân đao phủ vung gươm chém đứt đầu; tôi ước ao được thiêu sinh như vị nữ thánh anh hùng cứu quốc Jeane-d’Are, đứng giữa đống lửa ngùn ngụt bốc cháy, miệng cứ tươi tỉnh tình tứ nhắc tới cái tên người yêu: Giêsu...


Nếu tôi đem trí tưởng tới những khổ hình rất ghê sợ dữ dằn tai chưa từng nghe nói, mà quỷ vương sẽ bày ra để làm khốn các giáo hữu sau này, trái tim tôi lại rung động nhảy mừng ước ao chớ gì được chịu hết những hình khổ ấy bây giờ. Lạy Đức Chúa Giêsu, xin Chúa mở ra pho Sách Hằng Sống của Chúa, trong đó có biên chép tất cả những công nghiệp vĩ đại của các thánh, những công nghiệp ấy, tôi mạn phép ước ao như chính mình tôi đã làm được vì lòng kính mến Chúa.


Ớ Chúa Giêsu rất yêu dấu, với tất cả những ước ao ngộ nghĩnh này, Chúa phân định cho tôi thế nào? Vì thực ra trong thế gian còn có linh hồn nào non tài yếu sức bằng linh hồn tôi! Nhưng lại chính vì lẽ non tài yếu sức mà từ xưa tới nay tôi đã ước ao gì cũng được hết. Chúa đã làm mãn nguyện tôi mọi đàng và ngày nay Chúa lại gợi lên trong lòng tôi những nguyện vọng khác to tát hơn cả vũ hoàn to tát!


Tôi sẽ là tình ái

Những nguyện vọng to tát ấy làm tôi rất bồi hồi thổn thức tựa hồ luôn luôn phải chịu tử hình vì lửa mến Chúa thiêu đốt mạnh mẽ. Vậy một ngày kia tôi đã lục các thư thánh Phaolô để tìm thuốc cứu khổ. Đọc tới đoạn XII và XIII của thư I gởi cho giáo hữu thành Corinthô, tôi thấy thánh Phaolô nói không ai có thể vừa là Tông đồ, vừa là Tiên tri, vừa là Tiến sĩ. Giáo Hội thành hình bởi nhiều thành phần khác nhau: mắt không thể đồng thời lại là tay bao giờ.


Tuy đoạn văn trả lời đã rất sáng sủa; nhưng tâm trí tôi vẫn chưa an thoả. Tôi lại đã làm theo kiểu thánh Gioan Thánh Giá:


Tự hạ rõ thấp,

Để bay rõ cao,

Tới đỉnh ước ao

Cho lòng an thoả...


Không ngã lòng, tôi cứ đọc tiếp và đã gặp được câu Thánh thư khác làm nhẹ lòng tôi nhiều:


Hãy hăng hái tìm cho được những năng lực hoàn mỹ nhất, song Ta còn tỏ cho biết một đàng trọn lành hơn hết  .


Rồi thánh Tông đồ giải nghĩa rằng: những năng lực đã được dù hoàn mỹ tới đâu, nếu thiếu Tình ái cũng đều vô ích. Tình ái là đàng trọn lành nhất, cao thượng nhất, chắc chắn nhất, để đưa ta lên tới Chúa. Thế là hữu chí cánh thành: tôi đã tìm thấy chốn an nghỉ rồi.


Tôi đã thử giải phẫu thân thể mầu nhiệm Hội Thánh mà không nhận được mình là thành phần nào trong các thành phần thánh Phaolô đã tả. Hay nói phải hơn, tôi muốn nhìn nhận mình là tất cả các thành phần, là tất cả các Đấng các Bậc làm nên thân thể mầu nhiệm Hội Thánh.


Tình ái đã cho tôi thìa khoá về ơn kêu gọi của tôi.


Tôi hiểu rằng nếu Hội Thánh là một thân hình thành bởi nhiều cơ thể khác nhau thì cơ thể nào quan trọng nhất, cần thiết nhất, nhất định cơ thế ấy không thể thiếu.


Tôi hiểu Hội Thánh phải có một Trái tim và trái tim ấy phải rất nồng nàn lửa Tình ái. Lửa tình ái ấy một mình làm hoạt động tất cả các cơ quan trong thân thể Hội Thánh. Nếu tắt lửa Tình ái, tự khắc sẽ tắt hết mọi hành động trong Giáo Hội: hết Tông đồ, hết Thầy Cả, hết Phúc Âm, hết thánh Tử đạo... Cũng chẳng còn thể gặp được ai biết sẵn sàng hy sinh máu đào vì Danh Chúa nữa. Tắt rằng: tình ái bao hàm hết mọi phần tử trong Giáo Hội, hết mọi ơn kêu gọi. Tình ái là tất cả, ôm ấp mọi đời và mọi nơi vì Tình ái là bất tử, là đời đời...


Với sự nhận xét đó, tôi như điên như dại, vui mừng quá đỗi đã kêu lên rằng: Lạy Đức Chúa Giêsu - Tình ái nhất của đời tôi, đàng Chúa gọi tôi đi, tôi đã tìm và tìm đã thấy: đàng Tình ái. Vâng, tôi đã tìm thấy địa vị tôi ở trung tâm Giáo Hội: địa vị ấy, lạy Chúa, chính Chúa đã dắt tôi lên, đã đặt tôi vào. Trong trái tim Giáo Hội - người Mẹ nhân lành, tôi sẽ là Tình ái, nhiên hậu tôi sẽ là tất cả và nhiên hậu, mơ ước thiết tha của đời tôi sẽ thành sự thực cả trăm phần.


Tôi đã nói ở trên: tôi như điên như dại bởi vui mừng quá đỗi, sao thế? Không đúng! Tôi phải nói rằng tôi rất bình an thư sướng. Sự bình an thư sướng này như thấp nhập trong khắp người tôi, làm tôi điềm tịnh niềm nở như người vượt biển đã trông thấy ngọn hải đăng rọi sáng tới. Ớ Tình ái là hải đăng chói lói của lòng ta, ta đã biết lối đến cùng ngươi, ta đã tìm thấy bí quyết thâu nhập của những ngọn tia lửa sáng nóng của ngươi bắn giãi ra.


Lạy Chúa Giêsu, phận nữ nhi này rất vụng tài kém sức; nhưng chính sự vụng tài kém sức đó đã làm tôi bạo dạn can đảm dâng mạng sống tôi làm của lễ tế Tình Ái Chúa.


Lạy Chúa, thuở xưa chỉ có những của lễ thanh sạch và vẹn tuyền mới xứng đáng thượng tiến Đấng Cao Cả quyền phép vô cùng nhận, nghĩa là những của lễ tế phải rất hoàn hảo, mới có thể làm nguôi cơn Nghĩa nộ và phép Công thẳng Đức Chúa Trời; nhưng đời nay Ái pháp đã thay thế Uy pháp. Tình ái đã trạch cử tôi làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Chúa mặc dầu tôi chỉ là vật thô hèn nhem nhuốc, khuyết điểm trăm đàng. Sự trạch cử tôi đây có được phần nào xứng đáng với Tình ái chăng? Có được, vì rằng muốn được hoàn toàn thoả mãn, Tình ái cần phải tự nhún sát vật rốt hèn và cải biến chính vật rốt hèn ấy thành tia lửa ái.


Ôi, lạy Chúa! tôi vẫn biết: Nợ tình chỉ có thể trả bằng tình  . Chúa yêu dấu chúng tôi, chúng tôi phải yêu mến Chúa. Tôi đã tra cứu, đã tìm ra một phương pháp làm nhẹ nhõm lòng tôi lắm: Phương pháp lấy Tình ái đáp lại Tình ái.


Các ngươi hãy lợi dụng của phi nghĩa mà mua chuộc bạn hữu, để những bạn hữu ấy đón nhận các ngươi vào chốn nghỉ ngơi đời đời  .


Lạy Chúa, lời ấy xưa Chúa đã khuyên các môn đệ Chúa sau khi chỉ giáo cho biết: Con cái sự tối tăm thông thạo trong việc chúng làm hơn con cái sự sáng  .


Là con cái sự sáng, tôi hiểu rằng lòng ước ao của tôi muốn là hết mọi Đấng bậc trong Giáo Hội, muốn ôm ấp bao quát tất cả các ơn kêu gọi, lòng ao ước ấy là của phi nghĩa có thể xuyên tạc lòng tôi, vậy tôi xin lợi dụng để mua chuộc nhiều bạn hữu thân thiết. Lại nữa, khi tôi nhớ lời tiên tri Eliseo nài xin tiên tri Elia cho mình cái lòng mến kép, tôi cũng tưởng mình như đang ở trước mặt các thần thánh, tôi trần tình cùng các Đấng rằng:


Thân tôi là bé bỏng nhất thiên hạ, phận tôi là hèn kém khốn nạn không ai bằng; nhưng tôi biết những người có tấm lòng cao thượng và độ lượng rất hay thi ân thi phúc cho kẻ bần cùng; vậy tôi nài xin các Thánh đang hưởng vinh phước trên Quê thật chiếu tình thương nhận tôi làm nghĩa tử, thoảng hoặc nhờ ơn các Thánh phù trì mà tôi được vinh sang gì thì vinh sang ấy là cũng là vẻ vang của các Thánh. Xin các Thánh chấp nhận lời tôi yêu cầu mà ban cho tôi được cả hai lòng kính mến của các Thánh.


Đạo thần đồng rất cao

Lạy Chúa, tôi không thể suy được thấu đáo lời cầu xin này. Tôi xem mình đã ước muốn táo bạo quá! Nếu táo bạo thật tôi xin đem lẽ chữa mình thể này: trẻ con hơn người được điều là chẳng ai thèm chấp; chúng nói thì nói chứ biết suy gì lời nói. Nhưng ở trường hợp cha mẹ chúng được phong vương; giàu vàng trăm bạc triệu, hẳn là chẳng ngần ngại làm thoả lòng dù phải phí tốn, những đứa con mình yêu dấu hơn yêu dấu chính mình. Lại để chiều ý con, nhiều khi cha mẹ đã có những cách yêu như điên như dại, thậm chí có lần đã đi tới chỗ nhu nhược.


Ớ Chúa Giêsu - Vua Cả trời đất! Tôi là con cái Hội Thánh, Hội Thánh là Hoàng Hậu, là Hiền Thê của Chúa. Tôi không nài xin Chúa ban của cải, ban vinh quang, cả sự vinh sang thiên đàng tôi cũng chẳng muốn nài xin. Bao vinh sang, xin để nhường các anh chị là các Thiên thần và các Thánh; còn vinh quang của tôi chỉ là quang ánh rọi chiếu trên trán Hội Thánh - Mẹ nhân lành của tôi thôi. Lạy Đức Chúa Giêsu, tôi tha thiết nài xin Chúa một sự Tình ái; Tôi cố gắng hiểu biết một sự: Tình ái. Còn bao nhiêu công việc cả thể lẫy lừng tăm tiếng khác tôi xin hàng hết; tôi không thể đi rao giảng Phúc Âm hay đi đổ máu ra vì Đạo thánh được; nhưng có hệ gì điều đó; đã có các anh tôi làm thay tôi rồi. Với phận nhỏ bé tôi cứ việc đứng hầu bên toà Chúa ngự để yêu mến Chúa thay các binh tướng đang giao chinh ở chiến trường.


Biết vậy rồi nhưng phải làm gì để minh chứng lòng kính mến đó? Tình ái cần phải được minh chứng bằng việc làm. Vậy thì thế này: con bé sẽ tung hoa, sẽ lấy những cánh hoa làm lễ bạc lòng thành dâng tiến Chúa, sẽ lấy hương hoa làm thơm tho toà Chúa ngự, sẽ lấy tiếng hát trong như tiếng chuông vàng để ngâm nga bài ca Tình Ái.


Vâng, lạy Chúa Chí Ái, trót cuộc đời tạm bợ này, tôi chỉ biết làm bấy nhiêu để tỏ tình yêu mến Chúa. Trước Thánh nhan Chúa, đời tôi sẽ qua đi trong khuôn khổ ấy; tôi không còn cách nào khác để tỏ Tình ái ngoài cách kiếm hoa tiến Chúa: nghĩa là tôi không dám bỏ qua dịp nhỏ mọn mà chẳng tế lễ Chúa ý riêng tôi dù một liếc mắt, một hơi thở, một lời nói. Tôi nhất quyết lợi dụng tất cả những việc rất nhỏ nhặt và làm tất cả những việc nhỏ nhặt ấy vì Tình ái. Tôi lấy Tình ái làm then chốt mọi sự: đau khổ vì Tình ái, sướng vui vì Tình ái. Đó là những cánh hoa tôi dâng tiến Chúa đấy. Tôi chẳng bỏ qua hoa nào mà chẳng hái dâng Chúa... Tôi vừa hái vừa hát, hát hoài, hát cả những khi phải chui vào hái hoa hường trong bụi gai góc: gai càng nhọn càng sắc, giọng tôi hát càng trong càng ngân, tiếng tôi ca thanh bai dịu dàng...


Song lạy Chúa Giêsu, nào vật thử gì những cung giọng ấy? Những cánh hoa ấy?


Về phương tiện Tình, như tôi hiểu, những trận mưa hương ấy, những cánh hoa dễ giập nát và vô giá trị ấy, những tiếng hát tình tứ ấy của một trái tim non dầu sao cũng vồn vã, cũng cảm khoái lòng Chúa rất nhiều; những cái không đáng gì đó sẽ làm hài lòng Chúa, sẽ làm mỉm cười Hội Thánh khải hoàn. Và như muốn đáp tình quyến luyến vui chơi cùng đứa con thơ, Hội Thánh nhặt những cánh hoa ấy dâng lên tay Chúa như để ướp lấy một giá trị tuyệt đối rồi lại cầm vất xuống Hội Thánh đau khổ đập dập tắt bớt những ngọn lửa nồng nàn đang nung, đốt các linh hồn. Sau đó lại tung lên mình Hội Thánh Chiến trận để kích thích công cuộc toàn thắng.


Lạy Đức Chúa Giêsu, tôi kính mến Chúa, tôi yêu dấu Hội Thánh là Mẹ tôi. Tôi vẫn đinh ninh lời Thánh Gioan Thánh Giá nói: Một chút xíu Tình ái tinh ròng tấn ích cho Hội Thánh hơn hết những công việc to tát khác tổng hợp lại. Nhưng trái tim tôi có đâu được vẹn tuyền thanh sạch! Những ước ao của lòng tôi phải chăng lại là giấc mộng, là cơn mê mẩm! Than ôi! Nếu quả thật thế, xin Chúa soi sáng cho tôi biết vì chủ ý tôi là tìm chân lý mà thôi.


Nếu những ước ao của tôi càn giở, xin Chúa phá tan đi hết vì những ước ao ấy làm khổ cực lòng tôi lắm lắm. Song tôi cũng thú nhận rằng, nếu chẳng có ngày nào là tôi được tới đến những miền rất cao sang mà linh hồn tôi đang khát khao mong mỏi đây, có lẽ trong cái khổ tâm bởi ước ao như điên như dại này, tôi còn cảm thấy ở cõi lòng chút êm dịu ngọt ngào hơn là khi tôi đã được về vẫy vùng giữa biển khoái lạc vô biên mà còn phải đem theo những ước ao ấy, trừ khi bằng phép lạ, Chúa đã làm tôi quên hẳn lòng ước ao đi.


Ớ Chúa Giêsu! Ớ Chúa Giêsu! Nếu nguyên một sự ước ao kính mến Chúa thôi mà đã làm tôi vui sướng dường này thì một khi thật được quyền sở hữu Tình ái ấy, được vui hưởng thoả thuê vô cùng vô tận trên cõi phúc, còn biết hân hoan sung sướng dường nào!


Tại sao một kẻ yếu đuối thiếu thốn như tôi lại có thể tham vọng yêu mến Chúa dào dạt và mạnh mẽ như thế?


Ôi! Rất lạ lùng!


Lạy Bạn Cực Thánh, thiếu chi những trang anh hùng hào kiệt những bậc trượng phu khí phách khác thể phượng hoàng lượn bay tới trời xanh, sao Chúa chẳng ban cho phô đấng ấy ước ao những công cuộc cả thể lẫy lừng? Vậy thứ gì tôi chỉ là một chim non cánh trần mình trụi, vài chiếc lông lưa thưa, dám đâu sánh so cùng các phượng hoàng. Tôi chỉ được như phượng hoàng cặp mắt và trái tim.


Vâng, dầu là thân phận tiểu ti bần tiện lắm, tôi cũng dám nhìn Mặt Trời thiêng là Đấng mà tôi hàng trìu mến. Tôi nhìn mà chẳng mỏi chẳng chán: càng nhìn càng sốt sắng, chỉ muốn tung mình lên cao tới Đấng yêu dấu. Tôi lăm le muốn bay bổng lên như chim phượng hoàng để đã lòng ao ước, nhưng không sao được, tôi chỉ có sức cất nổi đôi cánh nhỏ của tôi là cùng...


Vậy thì tính làm sao? Có đành chịu chết vì đau đớn nhìn mình bất lực chăng? A! không dám đâu, cả đến phiền tôi cũng chẳng dám phiền một chút. Thôi thì cũng đành nhẽ phó thác mặc ý Bề Trên mà cứ đứng yên yên đấy, cứ trố mắt nhìn Mặt Trời rồi có chết cũng cam lòng đành phận.


Tôi chẳng còn sợ hãi gì hết dù bão gió, dù mưa nắng, mà ví dù mây đen đùn lên che lấp hẳn Mặt Trời yêu dấu đó, đến cái bước phải tin rằng đời tôi không còn gì khác, chỉ còn đêm tối và đêm tối, tôi cũng cứ vui và vui cho trọn vẹn. Giờ phút đó hơn khi nào hết, lòng cậy trông của tôi càng vươn sức đến cùng độ; tôi cũng không cần rời đi nơi khác vì đã nhận biết chắc chắn rằng bên trên những tầng mây đen nghịt nặng nề kia, Mặt Trời tôi trìu mến vẫn đang rực rỡ giãi sáng dịu dàng ấm áp!


Lạy Chúa tôi, tôi nói bấy nhiêu lời là vì đã hiểu lắm lòng Chúa yêu dấu tôi lắm. Như Chúa đã biết, dầu đời tôi đã quyết chuyên lo một việc mến yêu Chúa mà nhiều khi tôi vẫn còn xao nhãng. Tôi rời xa Chúa, tôi mò mẫm vào những vũng nước hôi tanh gặp ở đường, lấm ướt cả đôi cánh non nớt của tôi. Tình cảnh ấy, Tôi chỉ còn biết rên rỉ như chim én   và lạy Chúa - Nguồn yêu đương vô cùng - tiếng rên rỉ ấy như mách bảo Chúa tất cả sự thể cơ cực linh hồn tôi, như nhắc nhở Chúa nhớ lời đã phán xưa: Ta không đến kêu gọi người lành, một kêu gọi kẻ tội lỗi  .


Nhưng ví thử Chúa giả điếc làm ngơ những tiếng rên xiết thảm thiết của vật Chúa đã sinh thành này mà chẳng muốn đoái nhìn nhận nữa, thì tôi cũng bằng lòng chịu ướt chịu rét, tôi lại vui mừng vì được chịu một hình khổ cân xứng với tội.


Lạy Mặt Trời chí ái, tôi sung sướng nhìn nhận phận tôi nhỏ nhen trước nhan Chúa. Lòng tôi thư thái an tịnh lắm... tôi biết các thánh là những phượng hoàng hằng chầu chực trước Cửu trùng Thiên quốc vốn thương hại tôi, phù trì bênh đỡ tôi, xua đuổi loài chim kền - hình bóng ma quỷ chỉ rình chực vồ xé tôi. Ôi! Tôi không sợ loài quỷ dữ ấy, tôi không phải là mồi nuôi chúng, tôi là mồi ngon lành của Phượng Hoàng Cực Thánh đời đời.


Lạy Ngôi Hai Cực Thánh, lạy Đấng Cứu Chuộc tôi, thật Chúa là Phượng Hoàng tôi yêu mến hằng lưu luyến tôi, Chúa đã xuống thế gian, đã chịu tử hình trên Thánh Giá để cứu các linh hồn đem về đặt giữa lò lửa Mến yêu vô cùng là Ba Ngôi Cực Thánh! Dù Chúa đã ngự về ngai vinh hiển cả sáng Thiên đàng; song Chúa còn muốn để Mình lại trong Hình Bánh trắng nhỏ ở khắp thế gian để lấy Thịt Máu Chúa làm của nuôi loài người!


Lạy Chúa Giêsu, tôi mạn phép thưa cùng Chúa rằng: Chúa yêu dấu loài người chúng tôi dường như điên dại rồi... Chúng tôi biết đền ơn trả nghĩa thế nào cho xứng Tình ái ấy? Ôi! Trái tim tôi những chập chờn muốn bay lên tới Chúa! Lòng tôi cậy trông Chúa thật là bát ngát vô cùng vô tận...!


Than tôi! Tôi cũng biết rằng, đáp lại Tình ái hải hà Chúa, các thánh xưa rày cũng đã yêu mến Chúa như điên như dại; với Tình ái, các thánh đã làm nhiều việc cả thể phi thường.


Các thánh là những phượng hoàng sức vóc mạnh mẽ, chí như phận tôi - con chim non hèn mọn yếu đuối, làm việc cả thể sao được!


Với Tình ái, tôi chỉ biết điên dại bằng cách riêng này là ước ao khao khát được Chúa thương tình nhận tôi làm của lễ toàn thiêu, tôi xin nhờ các thiên thần và các thánh cầu bầu cho tôi được mượn đôi cánh của Phượng Hoàng Cực Thánh là Chúa, để bay lên cùng Chúa. Dầu Chúa còn muốn để tôi đứng nhìn Chúa bao lâu nữa cũng xin mặc thánh ý Chúa, tôi chỉ ước ao được Chúa đoái nhìn lại tôi; cho tôi say sưa mê thiếp đi vì cái liếc nhìn của Chúa, tôi khát vọng được trở nên mồi ngon lành thơm tho cho phỉ tình Chúa yêu dấu. Tôi trông rằng có ngày kia Chúa sẽ cúi xuống ôm lấy tôi lên trời, bỏ tôi vào biển lửa Tình ái, dìm tôi xuống tới đáy vực yêu đương để tôi được hả hê say mê vui sướng biến thành của lễ tình tứ phúc lộc đời đời trong Biển Tình.


Kêu gọi các linh hồn thơ ấu

Lạy Đức Chúa Giêsu, chớ gì tôi nói hết được cùng các linh hồn thơ ấu cách Chúa thương yêu chiều đãi chúng tôi lạ lùng ấy! Tôi tin thật rằng ví dù Chúa gặp một linh hồn nào yếu đuối hơn linh hồn tôi, mà linh hồn ấy biết hoàn toàn cậy trông ở Tình ái hải hà Chúa, hẳn Chúa sẽ vui lòng thi ân thi phúc cho linh hồn ấy nhiều và cả thể hơn bội phần.


Song lạy Đấng Chí Thiết, lạy Bạn Chí Ái, cớ sao tôi lại ước ao cổ võ phép nhiệm Tình ái hải hà Chúa như thế? Nào chính Chúa đã dạy tôi Tình ái, há chẳng biết chọn người khác để sai đi cổ võ phép mầu nhiệm này sao? Thôi, tôi hiểu rồi, tôi xin im lặng vâng theo ý Chúa se định.


Tôi chỉ tha thiết nài xin Chúa đoái nhìn đến số đông những linh hồn thơ ấu, nài xin Chúa chọn lấy trong thế gian một đoàn quân gồm hết thảy những linh hồn đơn sơ bé mọn, hầu làm của lễ xứng đáng dâng tế Tình ái hải hà Chúa!


Ớ Chúa Giêsu! Cúi xin Chúa hãy thẩm nhận lời tôi cùng.


Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã phải đau khổ rất nhiều ở thế gian, mấy ngày cuối đời, Người đã trối cùng chị em nhà Dòng để khi Người qua đời rồi hẳn nói sự ấy cho các linh hồn biết. Hẳn là Người đã nhận thấy dấu Thánh giá - ấn tín đóng trên cuộc đời Người sẽ là tang chứng để thiên hạ hiểu rõ cái thiên chức của Người. Nhưng chẳng vì những khổ cực hằng ray rứt trái tim mà Người tưởng mình đã nên của lễ toàn thiêu đáng cho Tình ái hải hà Chúa nhận: Người tin tưởng thế, chỉ vì Người cảm thấy những làn sóng yêu đương vô cùng, chất chứa trong Trái Tim Chúa cuồn cuộn rẫy lên tràn ngập linh hồn Người.


Thật sự, Người có thể nói để trả lời những linh hồn thiếu lòng đại lượng trong việc làm tôi kính mến Chúa rằng: Dâng mình làm lễ tế Tình Ái Chúa tức là dâng mình chịu mọi nỗi tân toan khổ nhục; bởi vì sống mà không phải đau khổ vì Tình Ái, không kể là sống  . Tuy nhiên, đã có lần Người nói với một linh hồn khát khao sự trọn lành, sự yêu mến, mà còn run sợ trước Thánh giá rằng:


- Sao chị lại run sợ dâng mình làm lễ tế Tình Ái Chúa? Giá dâng mình làm lễ tế phép Công Thẳng Chúa mà run sợ, còn có nghĩa lý; chí như Tình Ái Chúa sẽ xử đãi chị cách rất êm dịu và thương xót vì đã biết phận chị giòn mỏng yếu đuối.


Chúng tôi đã được mục kích lòng hy sinh to tát của Têrêsa lúc vĩnh biệt cha yêu dấu và quý gia đình - nơi Người đã được sung sướng lắm. Nhưng có lẽ người ta nghĩ sự hy sinh đó an ủi nhiều vì vào Dòng, Têrêsa được gặp hai chị, ở cùng hai chị - những người tâm sự của Người khi trước. Lẽ đó không thật đâu; trái lại lẽ đó, càng là dịp để Têrêsa sống trong Dòng phải cầm mình khổ sở.


Sự ở một mình và giữ im lặng là hai điều luật Dòng buộc rất ngặt, nên Têrêsa chỉ được thấy hai chị trong giờ giải trí. Giả mà ít hãm mình, Người có thể năng đến trò chuyện cùng hai chị giờ đó lắm; nhưng Người lại quý sự lui tới cùng những chị Người không ưa mấy, bởi vậy người ta đã nói: không thấy Người có dấu gì là dấu quyến luyến riêng hai chị ruột.


Vào Dòng ít lâu, Têrêsa được lệnh giúp bàn ăn với chị Agnès de Jésus - chịu ruột Người (Pauline). Phận sự này đã là nguồn mới cho rất nhiều hy sinh khác. Người đã biết luật cấm nói lời hư từ vô ích, nên chẳng hề hé miệng thở than một điều. Mãi đến sau Người mới nói rằng:


- Ôi thưa Mẹ, khi ấy con đau đớn quá... con không thể cởi mở lòng cùng Mẹ thì những nghĩ Mẹ không còn biết con là ai!...


Sau 5 năm im lặng anh hùng đó, chị Agnès de Jésus được chọn làm Mẹ Bề trên. Chiều ngày trúng cử, trái tim Têrêsa rung động vui mừng với ý nghĩ: rày đi mình sẽ được tự do than thở cùng Mẹ yêu dấu như xưa còn ở ngoài thế gian. Nhưng trái lại, Đức Chúa Trời đã định Têrêsa chỉ được gặp Mẹ Bề trên ít nhất nhà.


Mấy năm sau, cái tinh thần siêu nhiên cả thể của Têrêsa đã khiến Người nói câu này:


- Ước gì tôi được phúc chết trong tay Mẹ Bề trên khác, để có thể thi hành trọn hơn cái tinh thần kính phục quyền phép đấng Bề trên.


Trinh Nữ hằng muốn tu tác đàng trọn lành theo đúng luật phép của Đấng thánh Sửa Dòng. Một khi làm công việc gì không phải cầm trí lắm, tự nhiên trí khôn Người tư lự về Chúa. Ngày kia, một chị nhà Tập vào phòng Người, đang đi phải dừng bước lại vì nhìn thấy dong nhan Người xán lạn tươi tốt lạ lùng. Người đang mải miết khâu mà hình như đã trầm mặc đắm đuối trong tư tưởng cao siêu nào đó.


Chị nhà Tập hỏi:


- Chị suy ngắm gì đấy!


- Tôi đang ngắm kinh Lạy Cha! Người trả lời, Ôi! Ta gọi Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, êm ái dịu dàng dường nào!... Nói đoạn, đôi mắt Người long lanh rướm lệ.


Lần khác Trinh Nữ nói:


- Tôi không hiểu về thiên đàng có còn được gì hơn bây giờ không, tôi sẽ xem thấy Chúa, cái đó dĩ nhiên; còn sự được ở cùng Chúa, tôi đã được đầy đủ ở thế gian rồi.


Ngọn lửa ân ái nóng nảy hằng thấu nhập nung nấu lòng Têrêsa. Đây lời Người:


- Ít ngày sau khi tôi đã dâng mình tế lễ Tình Ái Chúa, có lần kia khi ngắm đàng Thánh giá, tôi đã cảm xúc như có tên lửa bắn vào người tôi nóng nảy quá sức đến nỗi tôi tưởng mình phải chết khi ấy. Tôi không biết lấy lời gì để bày tỏ lòng cảm hứng này: Chẳng có so sánh nào làm dễ hiểu được sự nồng nàn ngọn lửa! Ra như có sức nhiệm ghìm cả người tôi vào lò lửa đang bầng bầng cháy. Ôi! Lửa ấy vừa nóng vừa êm dường nào!


Khi Mẹ Bề trên hỏi Têrêsa có phải lần ấy mới là nhất sơ chăng, Người thưa thật thà rằng:


Thưa Mẹ! Con được thế này là nhiều lần rồi, nhất là lần khi con còn ở nhà Tập; cả một tuần lễ dường như con đã lìa xa cõi trần; con nhận thấy khó nói quá! Con đã sống như sống với một thân thể mượn, như có bức màn to tung ra che khuất mắt con mọi sự thế gian, con không còn trông thấy gì. Nhưng lần ấy, con không phải nóng nảy lắm trong mình, con có thể hưởng sự ngọt ngào vui sướng mà không lo chết, chí như lần này, chỉ một phút nữa, một giây nữa thôi, linh hồn con phải lìa xác hẳn... Ôi! Sau giây phút, con lại thấy mình còn ở thế gian, và sự khô khan lạnh lẽo lại nhập vào lòng con ngay!


Hỡi Têrêsa là lễ tế ngoan lành của Tình ái Chúa! Khoan khoan chịu đựng ít lâu nữa! Tay Chúa đã rút thanh hoả kiếm ra khỏi lòng; nhưng với vết thương tình kia, rồi đây cũng được chết!...




CHƯƠNG XII: NÚI SỌ


Ta phải rèn luyện Tình Ái rất nhiều để chóng được tiêu hao nơi khách địa, mà mau mau bay về hưởng Chúa nhãn tiền trên cõi thọ: Đó là điều rất quan trọng (Thánh Gioan Thánh Giá).


Chuyện MỘT TÂM HỒN còn nhiều trang sẽ chẳng khi nào đọc ở thế gian...


Đó là lời Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói và chúng tôi xin hết sức giẽ giàng nhắc lại đây lời nói ấy. Có nhiều đau khổ không được phép nói cho thế gian biết, Đức Chúa Trời đã dành lấy để một ngày kia - ngày mà các màn che sẽ vén lên hết, giữa sự cả sáng Thiên đàng, Người mới trưng bày công nghiệp và sự hiển vinh những đau khổ ấy.


Hầu hết những đau khổ đã chạm tới tim ruột non nớt Đầy tớ Chúa còn trong phạm vi thầm kín. Nhân thế, nhiều người đã lầm tưởng: Thánh Nữ Têrêsa đã được sống cuộc đời đầy vui tươi, đầy yêu đương, chỉ biết những ánh nắng ấm dịu mùa xuân, mà không hay những trận mưa buồn thảm mùa thu, những ngày gió rét cắt thịt mùa đông.


Những gương trong sáng của một tâm hồn


Trong cuộc hiệp tình tha thiết này với Chúa, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được một ơn lạ: làm chủ quyền mọi hành động về sau và các nhân đức từ đó cũng thi đua nở rực rỡ trong vườn thiêng liêng mát mẻ linh hồn Người.


Nhưng ta đừng tưởng cái mùa hoa đẹp siêu nhiên muôn vẻ rực rỡ ấy nẩy nở và khai hoa kết quả tốt lành không phải nhờ công cố gắng nào.


Lầm!


Cha Dom Guêranger đã nói: Đời này chẳng làm gì có cây sinh chồi nẩy lộc mà không phải dày công vun tưới, không phải vất vả phần thân thể, lo lắng phần trí khôn, lại còn gian truân là khác; có điều người đời hay, có điều chỉ mình Chúa biết.


Khi đọc chuyện thánh, ta thấy nẩy nở trong tâm hồn những tư tưởng đạo hạnh, những quyết định can trường, ta đừng lấy sự tỏ một vài lời khen ngợi tài trí tác giả làm đủ như khi đọc sách đời, ta suy cho thấu đáo cái chân giá trị về công phu tác giả đem lại cho mỗi người chúng ta.


Ngày nay nếu chuyện MỘT TÂM HỒN cảm hoá lòng người được sâu xa lạ lùng, nếu ơn ích Hạnh thánh thi thố cho thế gian là man vàn cả thể, thì người ta có tin tưởng chắc chắn rằng: Thánh Trẻ đã phải mua sắm những của ấy cho ta bằng giá rất đắt: Đau khổ và Thánh giá, cũng là giá xưa Chúa Giêsu đã mua chuộc loài người.


Người đã cầm cự rất can đảm những đòi hỏi của tâm tình tự nhiên nóng nảy trong mình. Người từ chối tất cả những cái vừa ý xác thịt, đó là một đau khổ không vừa. Từ nhỏ ở ngoài đời, Người đã tập nhân đức này, không hề chữa mình một câu, không hề năn nỉ một lời; đến khi vào Dòng, lại muốn làm tôi tớ các chị em!


Theo đuổi các tinh thần khiêm nhượng và nhẫn nại ấy, Trinh Nữ đã cố sức vâng lời mọi người, không phân biệt ai hết.


Trong hồi Người bệnh, một hôm chị em Nhà phải đến hội trước bàn thờ Rất Thánh Trái Tim để hát vãn. Tuy nhiên vừa mới bị sốt rét mệt nhọc lắm, Đầy tớ Chúa cũng chịu khó đi hội, nhưng khi đến nơi, mệt mã quá, phải ngồi ngay để thở, một chị liền làm hiệu cho Người đứng lên hát, Người vâng lời đứng dậy ngay và đứng mãi cho đến khi xong hội, dù trong mình nhọc mệt và khó chịu quá sức!


Chị coi nhà liệt khuyên Người mỗi ngày nên đi bách bộ một khắc ngoài vườn. Người coi lời khuyên đó như lệnh truyền. Bữa kia vào lúc quá trưa, một chị trông thấy Người bước đi khó lòng quá, thương hại bảo rằng:


- Chị về nằm nghỉ có lẽ lợi hơn đi bách bộ, đi thế chỉ thêm mệt.


Người thưa lại:


- Vâng, chính thế, nhưng chị có biết em lấy sức gì mà đi được thế này chăng?... Này! Em đi để chỉ cho một vị truyền giáo. Với ý nghĩ: ở cùng cõi xa xăm kia, có vị truyền giáo, có lẽ đã kiệt sức vì mải miết theo đuổi công cuộc mở đạo, em muốn dâng Chúa những bước đi mệt nhọc này để vị tông đồ ấy đỡ nhọc.


***


Hồi coi sóc nhà Tập, Têrêsa đã làm nhiều gương sáng về sự bỏ ý riêng để chị em bắt chước.


Khi Mẹ Đáng kính Geneviève de Sainte Thérèse lập Nhà Kín Lisieux qua đời, gia quyến chúng tôi và những người giúp việc nhà Dòng có gởi phúng nhiều vòng hoa. Têrêsa bày biện đã khéo, thế mà một chị nhà dưới, với giọng chua chát khó chịu đã nói:


- Ai chả biết mấy vòng hoa to kia là của nhà chị, còn những vòng của các nhà nghèo không đáng trưng bày sao?


Chị Thánh đã trả lời bằng một nụ cười gọn ghẽ lắm, rồi đi bày lại ngay, lấy vòng hoa của những gia đình nghèo đặt lên trên, mặc dầu cách bày lại thế làm kém vẻ bài trí mỹ thuật rất nhiều.


Ngạc nhiên cái lòng nhân đức cao thượng của Têrêsa, chị kia hối hận chạy đi thú lỗi cùng Mẹ Bề trên, và hết lòng khen ngợi cảm phục đức nhẫn nại và khiêm nhượng của chị Thánh.


Bởi vậy, khi Têrêsa bỏ khách đày lên hiệp hoan cùng Bạn Thánh trên Quê thật, chị này đầy lòng tin tưởng vào quyền thế Người, đã gục trán lên bàn chơn lạnh lẽo Đầy Tớ Chúa xin ơn tha thứ tội xưa. Trong giây phút ấy, chị thấy mình được khỏi hẳn bệnh rức óc là bệnh đã mắc lâu năm làm chị không thể đọc sách và nguyện ngắm được.


***


Têrêsa không trốn tránh những việc khiêm nhượng nhịn nhục, Người lại nhanh nhẹn tìm làm, chính vì thế mà Người đã đứng ra xin nhận việc giúp một chị bệnh nạn mà cả nhà ai ai cũng biết là khó chiều hết sức, Người đã được làm việc bác ái ấy như tình sở nguyện.


Một hôm Người vừa bị quở trách nặng lời thì một chị nhà Tập hỏi Người sao mà coi hớn hở thế, chị nhà Tập phải lạ lùng khi nghe Người trả lời:


- Em niềm nở vì vừa được nghe chị X. quở trách những lời chua chát. A! Em vui sướng lắm! Ước gì bây giờ được gặp chị để cùng nhau vui vẻ.


Vừa dứt lời, chị này liền gõ cửa vào, chị nhà Tập được đứng xem hai người Thánh tha thứ cho nhau. Đến sau Người đã nói: “Xưa nay tôi hằng lượn bay trên mọi phù vân thế phước đến nỗi càng bị nhục nhã lòng tôi càng mạnh dạn can đảm.


Khuôn vàng thước ngọc của luật phép nhà


Thêm vào những nhân đức ấy, Người có tấm lòng can đảm phi thường. Từ khi vào Dòng mười lăm tuổi, trừ sự giữ chay, còn bao nhiêu luật phép nghiêm khắc của Dòng, Người đã tuân giữ hết.


Thỉnh thoảng chị em nhà Tập thấy Người võ vàng xanh xao quá, có xin Mẹ Bề trên chước chuẩn cho Người giờ đọc Kinh Đêm hay khỏi phải dậy sớm. Mẹ Bề trên không cho, bảo rằng:


- Linh hồn gang thép ấy không phải xử như một trẻ: Chị ấy không phải chuẩn chước gì hết, cứ để mặc Chị, đã có Chúa giúp sức. Vả lại, nếu Chị có bệnh, Chị phải đến trình bệnh.


Nhưng Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã ra luật riêng cho mình rằng: Khi nào hết sức chịu mới được kêu. Biết bao lần chóng mặt lắm, nhức đầu lắm mà Người đã cứ đi nguyện Giờ Đêm! Người thường nói:


- Hễ còn thể đi thì tôi còn phải làm việc bổn phận.


Với lòng dũng cảm sẵn có ấy, Người đã làm dễ dàng những việc rất anh hùng.


Tì vị Người yếu, nên rất khó tiêu những món ăn khem khổ nhà Dòng, có nhiều món ăn sinh bệnh cho Người, nhưng Têrêsa đã rất khéo giữ chẳng để ai biết gì hết. Một chị ngồi bên Người ở nhà cơm nói đã cố dò xem Người ưa ăn món gì mà không sao dò được. Các chị nhà bếp thấy Người dễ dãi trong việc ăn uống thế ấy, lại hay dọn cho Người những món ăn thừa thãi.


Đến lần bệnh sau hết, nhà Dòng buộc Người phải tỏ căn do bệnh, Người mới chịu nói việc hy sinh ấy cho Nhà biết, Người thêm rằng:


- Khi Chúa muốn ai chịu khó nhất định người ấy phải chịu khó, không tránh được. Vì lẽ đó, trong khi chị Marie du Sacré Coeur (chị ruột Người) còn giữ kho, đã săn sóc chiều đãi tôi như tình mẹ thương con, mà ngờ đâu cách chiều đãi đó càng làm tôi phải hy sinh gấp bội! Chị hay dọn cho tôi ăn những món chị ưa; lại là những món tôi không ưa chút nào!


Cái tinh thần hy sinh cao cả của Têrêsa là một tinh thần bao quát: Tất cả những cái gì nặng nhọc hơn, khó chịu hơn, trái ý hơn, Người đã nhanh nhẹn nhận lấy như khẩu phần mình. Tất cả những điều Chúa xin, Người dâng hết, không tỏ chút gì ngần ngại tiếc xót. Người nói:


- Trong Kỳ Thử, tôi lấy mấy việc hãm mình bề ngoài phép Dòng dạy làm khó chịu lắm; dầu vậy cũng không khi nào dám chiều ý riêng: tôi xem hình như Tượng Chuộc Tội treo ở nhà chơi hằng nhìn tôi bằng đôi mắt nài nẵng, xin những việc hãm mình trái ý ấy.


Têrêsa rất ý tứ tuân giữ từng lời Mẹ Bề trên răn dạy, không dám bỏ qua lời nào; thi hành triệt để phép Dòng, dù là điều rất tầm thường nhỏ mọn. Một chị tuổi tác thấy Người trung thành lạ lùng trong việc vâng giữ luật phép Nhà, đã nhìn nhận Người như một chị Thánh.


Ngoài sự đánh tội phạt xác theo phép Dòng, Têrêsa ít khi hãm mình phần xác, vì Chúa Thánh Thần đã soi cho Người biết sự hãm trí và cầm lòng cho sức thánh hoá hơn bội phần. Tuy nhiên, Người đã mắc bệnh vì mang trong mình lâu ngày một thánh giá sắt có nhiều mũi nhọn đâm vào thịt đau đớn lắm. Người nói:


- Tôi phải bệnh sở dĩ là Chúa muốn cho tôi biết những cách các Thánh dùng để làm khốn xác, tôi không thể làm được, cả những linh hồn nhỏ mọn đi đàng thơ ấu như tôi cũng không làm được.


Têrêsa lấy điều trong Dòng không được sưởi mùa đông làm khổ cực cho xác nhất. Ta dễ hiểu thân hình yếu đuối của Người đã phải giá rét cực khổ biết bao trong tiết đông, sương tuyết lạnh lùng của xứ Mormandie, khí hậu ẩm thấp của thành Lisieux.


Chỉ khi nào khí trời lạnh buốt quá, mà cả ngày đã phải rét như cắt thịt thì Đầy Tớ Chúa, sau giờ Kinh Đêm mới vào nhà Hội sưởi một lát. Nhưng sưởi rồi mà về phòng nghỉ, Người phải đi qua một quãng gió lùa dài năm mươi thước ngoài hiên nhà, lại lần mấy bậc thang và đi hết cái hè rất lạnh lẽo để về tới phòng, chút nóng vừa sưởi được cũng chẳng còn, lại càng thêm cóng!


Cho nên khi nằm nghỉ trên bó rơm làm đệm với vài chiếc chăn mỏng mảnh, yên giấc sao được, chỉ những chợt mơ chợt tỉnh trằn trọc cả đêm, nhiều lần suốt năm canh không chợp mắt một phút, chỉ nằm mà rên rét cho đến sáng. Phải mà mấy năm đầu Người tỏ sự thể ấy cho Mẹ nhà Tập biết hẳn là đã được thêm chăn cho bớt khổ; nhưng Người đã muốn hy sinh cho đau khổ, không muốn hé miệng kêu ca một lời, mãi lúc gần sinh thì Người mới nói mấy lời thắm thiết này:


- Vào ăn mày nhà Dòng, phần xác tôi phải khổ cực nhất là chịu giá rét, nhiều khi rét có thể chết đi được!


Tuy nhiên, với lòng đại độ can đảm, Người đã phạt xác rất nghiêm nhặt cách vui vẻ: nhưng với sự khôn ngoan chín chắn, Người cũng biết, sự hãm mình dường ấy, Chúa cho phép nhưng phần nào cũng là phải. Người suy nghĩ rằng, bắt giữ luật Nhà mà không đắn đo cân nhắc tuỳ người, tuỳ nơi, điều đó là trái ý Chúa, và nghịch đức khôn ngoan.


Nhà Kín Hà Nội mong Chị Thánh

Chúng tôi đã biết ngày 3 tháng 4 năm 1896 là thứ Sáu Tuần Thánh, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được hân hạnh nghe như từ xa xa có tiếng thì thầm báo tin Bạn Thánh đang đến với Người. Nhưng từ ngày ấy, Người còn phải chờ đợi nhiều tháng lâu dài đau đớn nữa mới được thấy giờ hạnh phúc của ngày giải phóng đến.


Sáng ngày ấy Người đã khéo trình Mẹ Bề trên sự máu ứa lên đó không can gì. Mẹ Bề trên không rõ sự thể đau đớn trong mình Người nên cứ ban phép cho Người được hãm mình nhiệm nhặt trót ngày theo Phép Dòng.


Lúa quá trưa, một chị nhà Tập thấy Người lau cửa sổ, mặt mũi võ vàng coi bộ kiệt sức lắm, chị ấy đã tràn nước mắt thương hại và ngỏ ý muốn đi trình Mẹ Bề trên để xin cho Người nghỉ hay ăn chút gì kẻo yếu sức quá, Têrêsa đã can rằng:


- Hôm nay Đức Chúa Giêsu chịu muôn vàn sự cực vì em, em cũng có thể chịu một chút nhọc mệt vì Người...


Mãi đến tháng 5 sau (1897), các chị Người mới biết việc này, Mẹ Agnès de Jésus trách Người đã giấu mình việc đó, Người thưa:


- A! Thưa Mẹ, xin Mẹ đội ơn Chúa điều ấy lắm, vì giả như Mẹ đã biết sự thể con, và thấy con ít được trông coi săn sóc, hẳn Mẹ đã đau lòng nhiều.


Ít lâu sau, Mẹ Bề trên thấy Người ho luôn, đã lo lắng thuốc thang và ra sức điều dưỡng, bệnh ho đã bớt được vài tháng. Thời gian ấy, Người than thở rằng:


- Thật, bệnh hướng dẫn chậm chạp lắm, tôi chỉ còn hy vọng sự nhanh chóng ở Tình Ái.


Hồi ấy nhà Kín Hà Nội mong Người sang lắm. Người cũng rất ước ao đi. Người đã bắt đầu làm tuần Cửu nhật kính thánh Théophane Vénard cầu xin cho bệnh khỏi hẳn. Than ôi! Tuần cửu nhật bắt đầu thì bệnh cũng bắt đầu chuyển sang giai đoạn trầm trọng!


***


Bấy lâu trước Têrêsa đã theo gương Chúa Giêsu - Đấng đi tới đâu làm ơn lành tới đấy mà rút cục cũng đã bị thế gian bạc đãi rất phũ phàng, Têrêsa còn muốn theo Chúa leo lên tới đỉnh núi Sọ. Nhận thấy Người đau đớn mà vẫn can đảm, Mẹ Bề trên cho phép Người được làm các việc chung trong Nhà như các chị em. Bởi đó có nhiều việc làm Người phải mệt nhọc lắm.


Cứ đến tối, Nữ anh hùng lại phải trèo thang lên phòng nghỉ, bậc nào cũng phải đứng lại để thở, có lần lên tới phòng đã hầu hết sức và cởi được chiếc áo cũng phải mất từng giờ. Sau bấy nhiêu nhọc mệt Đầy Tớ Chúa mới nằm nghỉ trên chiếc giường rơm cứng rắn!


Xem đó, sự đau khổ về đêm cũng không vừa. Có chị hỏi Người nếu cần phải ai giúp đỡ khi ấy chăng. Người trả lời:


- Không! Em lấy thế làm phúc lắm, em ở phòng xa vắng cho khỏi phiền chị em những khi động đạt rên rỉ. Em rất vui lòng được chịu khổ một mình, nếu ai tỏ lòng thương em hay an ủi cách nào em sẽ mất vui ngay.


Têrêsa thường phải chịu chích và úp cốc nơi mông. Ngày kia Người đau đớn quá, giờ chơi phải nằm nghỉ trong nhà, lúc ấy Người nghe trong bếp có tiếng ai nói:


- Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu sắp chết rồi! Chị qua đi không biết Mẹ Bề trên phải nói chuyện chị làm sao! Chắc Mẹ sẽ lúng túng lắm, vì thực ra chị Têrêsa đáng yêu thì đáng yêu thật, nhưng Chị chẳng làm gì nên chuyện đáng nói.


Chị coi nhà liệt cũng nghe thấy nói điều ấy, có bảo lại Têrêsa rằng:


- Nếu Chị để tâm lời người ta bình phẩm, hẳn Chị sẽ nhận thấy rất sai lầm.


- Lời bình phẩm! A! Phúc cho em lắm! Đức Chúa Trời đã ban cho em ơn dửng dưng với lời người ta bình phẩm. Em kể chuyện này để chị nghe vì đâu em đã hiểu rõ cái giá trị của lời bình phẩm.


Khi em mặc áo Dòng được mấy hôm, em lên hầu Mẹ Bề trên. Lần ấy một chị nhà dưới cũng đang đứng đấy, trông thấy em vào đã nói ngay cùng Mẹ Bề trên rằng:


- Thưa Mẹ, Mẹ được chị này vào nhà Tập hân hạnh thật! Chị coi tươi tỉnh lắm! Chắc Chị có thể giữ phép Dòng được đến cùng! Em đang hài lòng vì mấy lời khen ấy thì tiếp ngay một chị lúp trắng đến, nhìn em và nói:


À, Chị Têrêsa! Sao coi mệt mã thế? Nhìn Chị em phải giùng mình! Nếu thế này mãi, chắc Chị chẳng giữ luật Dòng tới cùng được!...


Dù khi ấy mới mười sáu tuổi, nhưng nhận xét nhỏ mọn này đã làm em hiểu đời lắm, đến nỗi từ đó, em không còn kể gì lời người ta bình phẩm nữa.


- Người ta dư luận chẳng bao giờ Chị phải đau đớn lắm?


Têrêsa cười, chỉ ngón tay vào cốc đựng nước thuốc đỏ chói:


- Chị xem này, chiếc cốc đây người ta tưởng là đựng nước ngọt ngào lắm, mà kỳ thực em không lấy gì lắm đắng cay hơn. Đó chính là tượng trưng cuộc đời em: ai cũng cho là vui tươi như hoa đẹp đẽ, ai cũng nhờ là được uống của ngon lành mỹ vị, mà tựu kỳ trung cay đắng chừng nào! Thật là cay đắng lắm: nhưng cay đắng mà đời em vẫn được thấy ướp hương vị dịu ngọt: em đã biết gia giảm của đắng ấy thành chất ngon lành thơm tho.


- Bây giờ Chị phải đau đớn lắm chăng?


- Vâng! Mà em cũng ước ao đau đớn lắm!


Các chị nhà Tập thưa Người rằng:


- Chúng em thấy Chị đau mà thương lòng quá, rất lo ngại Chị còn phải đau đớn hơn nữa!


- A! Xin chị em đừng vì em mà phiền đến thế, em đã đi tới chỗ hết biết đau rồi, các đau khổ đã trở nên sự êm dịu vui thú cho lòng em. Vả, sao chị em lại nghĩ đến cái đau chưa đến thế? Không nên đâu, như vậy chỉ là gợi thêm sầu. Chúng ta đang cùng nhau thi đua chạy trên đường Tình ái không phải lo lắng chi hết. Giá em mà không được chịu đau khổ từng giây phút, có lẽ đã mất lòng nhẫn nại; song em chỉ thích nhìn hiện tại, quên dĩ vãng, không nghĩ tới tương lai. Tuy nhiên, xin chị em cầu nguyện nhiều cho em, bởi vì thường khi em cầu xin Chúa, em hơn khi nào hết!


- Trong những khi Chị thấy Chúa bỏ như thế, Chị đã làm gì để khỏi sờn lòng nản chí?


- Em hướng về Chúa tốt lành vô cùng, hướng về các Thần Thánh với hết lòng cảm đội ơn. Em suy rằng, Chúa và các Thánh muốn xem lòng cậy trông của em tới ngần nào đó... Rồi lời thánh Gióp nói xưa đã vang dội nơi em: Dù khi Chúa chém giết tôi, tôi vẫn còn trông cậy ở Chúa!  . Em thú thật, em đã phải lâu ngày luyện tập lắm mới được lòng cậy trông phó thác này, và nay sống yên hàn trong cánh hy vọng, em không quên ơn Chúa đã dìu dắt em xưa?


Trinh Nữ lại nói tiếp:


- Lòng em hằng đầy đủ Thánh ý Chúa, ai muốn đổ gì vào cũng không thể lắng xuống đáy được, chỉ trơn trượt đi như giọt dầu rơi trên mặt nước trong trẻo. Ôi nếu linh hồn em không được đầy tràn Thánh ý Chúa, lại cứ luôn luôn thắc mắc tới những vui buồn bày xoá hằng kế tiếp xảy ra, thì thật là nguồn sầu nguồn khổ cho em biết mấy! Nay tất cả những chuyển biến ghê sợ chỉ phớt qua linh hồn em như gió thoảng, em hằng được yên hàn điềm tĩnh hưởng bình an sâu xa trong cõi lòng. Có thể nói không còn gì có thể xao xuyến lòng em nữa.


Tuy thị thế, linh hồn Têrêsa vẫn bị màn tối dày đặc vây phủ tứ bề. Những cơn cám dỗ về đức Tin dù Người vẫn thắng mà vẫn hằng phải chiến, đã làm Người mất hết tâm tình hứng vui khi nghĩ đến mình sắp được chết. Người đã nói:


- Nếu tôi không bị cám dỗ cách dữ dằn quá lẽ đó có lẽ với ý nghĩ sắp được chết, tôi vui mừng quá mà chết!


Đức Chúa Giêsu muốn dùng cơn cám dỗ để lọc luyện linh hồn Người cho tinh ròng óng ánh để Người chẳng những có thể đi mau lẹ, lại vút bay trên đàng Tiểu lộ Cây trông và Phó thác. Đã có nhiều lời Người nói trong nhiều trường hợp minh chứng sự đó:


Tôi chẳng còn ước ao được chết hơn được sống, nếu Chúa cho phép chọn, tôi chẳng chọn đàng nào: Tôi chỉ muốn sự Chúa muốn, chính sự Chúa làm là sự tôi thích!


Tôi chẳng lo ngại những cuộc giao chinh sau hết, cũng chẳng sợ khiếp những đau khổ bởi bệnh nạn dù đau khổ đến đâu.


Đức Chúa Trời hằng bang trợ tôi. Người đã giơ tay nâng đỡ tôi, dắt dìu tôi. Từ buổi sơ sinh, tôi vẫn một lòng cậy trông ở Chúa. Đau khổ có thể vươn sức đến cùng độ cực, nhưng tôi vẫn đinh ninh Chúa không khi nào bỏ tôi.


***


Với tấm lòng cậy trông mạnh mẽ ấy, ma quỷ không thể không hậm hực căm hờn! Hẳn là trong phút giao chinh chúng sẽ huy động toàn lực hoả ngục với mọi mưu sâu độc, quyết một phen được thua với linh hồn cậy trông rắn như thép sắt ấy.


Ngày kia Têrêsa đã trình Mẹ Agnès de Jésus rằng:


- Chiều qua con phải một cơn sầu cay cực lắm, sự tối tăm trong mình cũng thêm dày đặc mịt mùng. Con nghe không biết tiếng từ đâu sỉ báng con rằng:


- Mày chắc mày được Đức Chúa Trời yêu ư? Đức Chúa Trời có hiện đến bảo mày thế không? Thiển ý của mấy người nghĩ tốt cho mày chẳng đủ làm mày lành thánh trước mặt Chúa đâu.


- Thưa Mẹ! Con đã phải băn khoăn buồn bã rất nhiều vì những lời này rồi mới tiếp được thư Mẹ viết cho, thật như quà của Trời gởi xuống. Trong thư Mẹ nhắc lại những ơn riêng con đã được Chúa ban, và như được ơn hiểu biết lòng con cơ cực, Mẹ nói Đức Chúa Trời yêu con lắm, Người sắp trao mũ triều thiên vinh hiển đời đời cho con đội. Đọc xong thư Mẹ, trái tim con được yên hàn vui vẻ ngay. Nhưng con lại nghĩ mà sinh ngờ vực rằng thư Mẹ viết thế là do bởi lòng Mẹ yêu con xui khiến. Vừa nghi ngờ vừa như có thần báo, con cầm sách Phúc Âm mở đọc, gặp ngay một câu mà con chưa khi nào để ý tới: Kẻ Chúa sai đến nói cũng như chính Chúa nói, Chúa đã thông đạt tư tưởng cho họ  .


Khi ấy con mới yên lòng an nghỉ. Mẹ ôi! Chính Mẹ là kẻ Chúa sai đến với con, con phải tin tưởng ở Mẹ; lời Mẹ nói cũng là Chúa nói!


Hồi tháng tám, Têrêsa phải qua nhiều ngày như mê mẫn trầm phiền lắm, chỉ xin chúng tôi cầu nguyện cho mình luôn. Chúng tôi chưa khi nào thấy Người ở cách ấy bao giờ. Trong những ngày khổ cực quá lẽ ấy, chúng tôi hay nghe thấy Người than thầm rằng:


- Ôi! Ôi! Phải cầu nguyện nhiều cho kẻ mong sinh thì! Chớ gì người ta hiểu thấu sự cần thiết đó!


Một đêm kia, Người xin chị nhà liệt, sái nước thánh trên giường Người:


- Quỷ nó chạy xung quanh em, em không thấy nó, nhưng hiểu nó lắm... nó quấy quất em, hình như nó có bàn tay sắt nắm chạt người em không để nghỉ yên phút nào, nó cứ thêm sự đau đớn hầu làm em ngã lòng trông cậy... Em không còn thể cầu nguyện! Chỉ còn thể nhìn Đức Mẹ Đồng Trinh và kêu: Giêsu! mà thôi. Ôi! Lời cầu nguyện trong kinh Tối: Xin Chúa hãy khử trừ những tà ma đêm tối cần thiết dường nào!


Em cảm thấy trong mình có sự mầu nhiệm; em không đau đớn cho em, em đau đớn cho linh hồn nào ấy... mà ma quỷ hậm hực tấm tức quá!


Chị coi nhà liệt liền đốt nến phép, quỷ biến ngay và không dám bén mảng nữa. Nhưng Đầy tớ Chúa vẫn phải sầu cực đớn đau cho đến khi tắt nghỉ.


Ngày kia khi Têrêsa trông lên trời, một chị bảo Người rằng:


- Chị sắp về nghỉ trên trời, nên chị ngắm trời cách yêu quý lắm!


Chị Thánh chỉ mỉm cười rồi sau thưa Mẹ Agnès de Jésus rằng:


- Mẹ ôi! Các chị em không hiểu nỗi cực lòng con! Khi nãy nhìn trời xanh, con chỉ nghĩ trời xanh đẹp còn thiên đàng con thấy càng xa tắp tít... Lời chị em nói đã làm con áy náy thổn thức... nhưng sau đó, có tiếng lòng trả lời rằng:


Chuyện! có yêu Trời mới nhìn Trời chứ! Linh hồn một khi đã phó trót cho Tình ái, bất cứ hành động gì dù rất tầm thường nhỏ mọn cũng là hành động cho Tình ái hết. Được nghe lời ấy, con đã an lòng ngay.


Bức tranh đẹp lý thú

Tuy màu tối tăm vẫn vây phủ tứ bề, thỉnh thoảng Đấng canh ngục giam Têrêsa cũng hé cửa ngục thiêng cho Người thấy trong giây phút một vài tia sáng. Những giây phút đó, tinh thần phó thác cậy trông và mến yêu càng hứng thú và sôi trăm độ.


Có lần kia một chị dẫn Người dạo chơi ngoài vườn; đang đi, Người liền dừng bước trước bức tranh: Một con gà mái trắng ấp ủ đàn con - cả gia đình yêu dấu của nó - dưới đôi cánh xoè không biết mỏi, Người chảy nước mắt chạnh lòng, quay sang nói cùng chị dẫn Người:


- Em không thể đứng lại đây nữa, xin chị cho em về ngay...


Vừa đi vừa khóc, về phòng Người còn nức nở khóc, nói chẳng nên lời. Mãi sau mới cầm nổi lòng mà nói:


- Khi nãy em nghĩ đến Chúa, nhớ đến bài ví dụ Chúa đã dùng trong Phúc Âm để so sánh lòng Chúa yêu dấu ta và thôi thúc ta hết lòng tín nhiệm Người. Thật trọn đời em, Chúa đã thương em đúng như thế: Người ấp ủ em trong cánh Người! Em không thể nói hết cảm xúc mạnh mẽ sâu xa lúc nhìn gà mẹ ấp ủ đàn con. Ôi! Em thấy rằng: cõi lòng nhỏ hẹp em không thể chịu nổi sự ngọt ngào vui sướng nếu nhìn xem Chúa, nên Chúa đã khéo léo giấu mình đi chỉ thỉnh thoảng để ẩn hiện thấp thoáng qua hàng rao thưa  .


Yêu Mẹ Maria Đồng Trinh

Ngày mồng 5 tháng 6 năm 1897, nhà Dòng chúng tôi không đành lòng mất kho nhân đức này, đã bắt đầu tuần cửu nhật khấn Đức Mẹ Thắng Trận cho Chị thánh khỏi bệnh. Một lần nữa, chúng tôi hy vọng Rất Thánh Đức Mẹ làm phép lạ chữa Hoa mọn yêu dấu của Người. Nhưng Đức Mẹ đã trả lời như Cha thánh Vénad tử đạo. Chúng tôi phải ngậm ngùi tiếc xót chờ giờ vĩnh biệt đang lừ đừ đến.


Vào đầu tháng bảy, bệnh tình Têrêsa ra nặng lắm, phải đưa Người xuống nằm nhà liệt.


Mẹ Agnès de Jésus đưa mắt nhìn phòng Têrêsa thanh lạnh, lại nghĩ Têrêsa không còn trở lại phòng này nữa, đã cảm động quá nên nói cùng Người rằng:


- Mai ngày Chị bỏ chúng tôi, mỗi khi nhìn phòng này, chúng tôi đau đớn biết chừng nào!


- Ôi! Mẹ yêu dấu, con xin an ủi Mẹ thể này, Mẹ sẽ nghĩ con đang được sung sướng trên thiên đàng mà một phần lớn hạnh phuc ấy con sắm được là tại nơi đây.


Rồi ngửa mặt lên trời, Người nói thêm:


- Bởi con đã phải đau khổ tại phòng này nhiều lắm, con ước gì được chết tại phòng này!


Khi bước vào nhà liệt, hai mắt Têrêsa nhìn thẳng lên tượng Đức Mẹ mà chúng tôi đã trưng bày ở đó, Người nhìn cách yêu dấu thiết tha không lời tả xiết. Chị Marie khi xưa đã được chứng kiến lần Người ngất trí, khi ấy đã hỏi Người rằng:


- Em nhìn gì thế?


Người thưa:


- Chưa khi nào em thấy Đức Mẹ đẹp quá thế này!... Nhưng lần này là tượng, còn lần xưa, chị đã biết không phải là tượng đâu...


Từ ngày ấy trở đi, thỉnh thoảng Đầy tớ Chúa lại được Đức Mẹ an ủi thể ấy. Một chiều kia, Người kêu rằng:


- Ôi! Tôi mến Đức Mẹ lắm! Giả như tôi là Thầy cả, tôi sẽ giảng về Đức Mẹ dịu dàng lắm! Người ta cứ nói Đức Mẹ rất cao sang không thể lui tới được. Phải chi cứ giảng rằng: Đức Mẹ bình dân rất dễ bắt chước! Người là Mẹ hơn là Nữ Vương! Đã có lần tôi nghe nói: sự sáng láng Đức Mẹ che lấp các Thánh như mặt trời mọc lấn át hết các vì sao trên trời. Lạy Chúa! Sao lại kỳ dị thế được? Người Mẹ lại nhẫn tâm lấn át sự vẻ vang con cái mình ư? Tôi không thể nghĩ thể ấy, tôi tin thật rằng Đức Mẹ sẽ ban thêm sự sáng láng cho những con cái được về thiên đàng Đức Mẹ Đồng Trinh. A! Cuộc đời Người giản dị đơn sơ dường nào!


Têrêsa còn nói thêm nhiều lời và nhắc lại rất khéo, rất dịu dàng sự vui thú của đời sống êm ấm ân ái trong nhà Nazareth. Chúng tôi nghe, thấy lòng hứng vui và khoan khoái lạ lùng!


Mến Chúa Giêsu Thánh Thể

Têrêsa còn phải chịu một đau đớn cơ cực nữa. Số là từ ngày 19 tháng 8 cho đến 30 tháng 9 - ngày hiệp hoan đời đời cùng Chúa, Người ho thổ luôn không thể chịu lễ được. Dĩ nhiên, còn ai ước ao mong mỏi ăn Bánh các Thiên thần bằng Têrêsa là Thiên thần sốt mến dưới đất? Biết bao lần trong năm sau hết, dù là tiết đông lạnh lẽo lắm, cả đêm phải khổ cực vì buốt rét, mà sáng sớm vẫn thấy Người lên rước lễ! Ra như được kết hiệp cùng Chúa dù phải mua giá cực khổ ngần nào, Người cũng không cho là đắt.


Song trước ngày Têrêsa không còn thể rước lễ, nhiều lần Chúa đã đến thăm viếng Người trên giường bệnh đau đớn rồi. Ngày 16 tháng 7 - lễ Đức Bà núi Carmel, Têrêsa đã được rước lễ rất sốt sắng và cảm động phi thường.


Trong đêm dọn mình rước lễ lần ấy, Têrêsa đã dọn bài ca này để than thở cùng Chúa:


Thân con bé bỏng dường nào,

Chúa Trời biết rõ, ngự vào quản chi.

Hãy đến! hỡi phép Sang ti

Lòng con yêu mến khác gì mê say...


Con mong, ớ Chúa khoan thay!

Lòng vừa rước Chúa, chết ngay vì Tình!

Tim con trơ trọi một mình,

Giêsu hãy đến, nghe tình con thưa...


Đến sáng khi kiệu Thánh Thể cho Người, những lối đi trong Nhà tung rắc đầy hoa thơm cho tươi đẹp. Một cha thanh niên, sáng ngày ấy làm lễ Mở Tay ở nhà Nguyện chúng tôi, đã đưa Mình Thánh cho Người chịu. Trong khi ấy, chị Marie de l’Euchaistie cất giọng thanh bay nhẹ nhàng trong trẻo, ngâm nga hát bài thơ Têrêsa vừa dọn ban đêm và khi rước lễ đoạn, chị lại hát mấy câu thơ này trong bài ca Sống vì Tình cũng của Chị Thánh:


Chết vì tình, ôi tử đạo êm ái!

Phúc trọng này em mong mãi từ xưa.

Hỡi Chérubim! Đã bắt đầu chưa?

Tiếng đàn mừng... xem chừng em sắp chết!


...


Chết vì tình, lý tưởng con tha thiết,

Thực hiện đi, Giêsu lạy Chúa!


Mấy ngày sau tức là 30 tháng 7, Têrêsa đã chịu phép Xức Dầu Thánh. Với giọng niềm nở, Người đã nói:


- Cửa ngục giam tôi đã hé mở, tôi vui mừng lắm, nhất là từ lúc nghe cha Bề trên Dòng quả quyết: Linh hồn tôi rầy giống linh hồn một trẻ vừa chịu phép Rửa tội.


Chắc khi ấy Têrêsa đã tưởng mình được bay ngay về cùng Chúa, có ngờ đâu còn phải giam cầm hai tháng nữa mới mãn hạn tù rạc! Một lần kia, Người đã thưa Mẹ Bề trên rằng:


- Mẹ ôi! Xin Mẹ cho phép con chết. Mẹ để con dâng sự sống con như ý...


Mẹ Bề trên không cho, Người lại thưa thêm:


- Giờ đây con cảm thấy Chúa đang muốn được một chùm nho nhỏ mà chẳng ai dâng tiến Chúa, có lẽ Chúa phải buộc lòng xuống hái trộm... con không dám nài xin gì kẻo lạc đàng phó thác, con chỉ cầu xin Đức Mẹ Đồng Trinh nhắc Chúa Giêsu nhớ lại các danh từ kẻ trộm Chúa đã tự xưng trong Phúc Âm mà đến lấy trộm con về.


Lần khác có chị đem cho Người nắm lúa mì, Người cầm một bông nặng trĩu hạt, ngắm nghía hồi lâu rồi nói:


- Mẹ ơi! Bông lúa này là hình bóng linh hồn con! Đức Chúa Trời đã cho con nhiều ơn lắm, con đặng phúc, nhiều người khác cũng đặng nhờ!... Ôi! Con muốn nghiêng mình sát đất như đã được đầy nặng ơn Trời ban, con nhận biết các ơn thảy đều bởi Trời ban xuống hết.


Têrêsa nói thế thật chẳng lầm: Linh hồn Người nặng nề tràn trề ơn Chúa... Bởi vậy ai nấy đều dễ hiểu: Chúa Thánh Thần đã dùng miệng thanh tịnh Người Thánh để ngợi khen mình.


Cũng là Chúa Thánh Thần xưa đã soi sáng Mẹ Thánh Têrêsa viết những lời này:


“Với cái lòng tự hào khiêm nhượng và thánh thiện, những linh hồn đã lên tới bậc hiệp tình chặt chẽ thiết tha cùng Chúa, được tự vinh cho thoả tình ái; những linh hồn ấy hãy luôn luôn mặc niệm nguồn ân đã được; đừng lầm mà e lệ rằng vì khiêm nhượng mình chẳng nhìn nhận những ơn Chúa ban. Nào còn gì rõ bằng sự thành thực nhớ ơn càng tăng gia lòng quý mến kẻ làm ơn? Kẻ có của mà không biết của mình có, sẽ biết phân phát rộng rãi cho kẻ khác làm sao được?


Chẳng phải lần này Chị Thánh mới nói những lời được soi sáng thể ấy.


Tháng Tư năm 1895 khi còn khoẻ mạnh, Người đã tỏ cùng một chị tuổi tác đáng tín nhiệm rằng:


- Em sắp chết rồi, chẳng phải là nội nhật vài ba tháng, nhưng cũng chỉ vài ba năm nữa thôi. Em cảm thấy thế là do sự nhận xét tình thế của linh hồn em.


Các chị nhà Tập thường hay lạ lẫm khi thấy Người đoán đúng tâm ý kín nhiệm mình, Người nói với chị em rằng:


- Bí thuật của em là thế này: không bao giờ em nhắn nhủ chị em điều gì mà không cầu xin Đức Mẹ Đồng Trinh trước, em xin Người soi sáng để biết phải bảo thế nào cho chị em được ích hơn. Chính em nhiều khi cũng tự lạ vì những điều biết nhắn nhủ chị em. Em chỉ biết chắc điều này: khi khuyên bảo chị em điều gì, hẳn em không nhầm, Đức Chúa Giêsu dùng miệng lưỡi em để nói cùng chị em.


Trong hồi Têrêsa bệnh, một chị buồn bã rầu rĩ quá, dường như ngã lòng với ý nghĩ sắp phải vĩnh biệt Người. Khi có việc phải vào nhà liệt, chị ấy đã cố ý cầm mình không tỏ vẻ gì âu sầu buồn bã, thế mà rồi cũng phải ngạc nhiên hết sức khi nghe Têrêsa nói với chị cách nghiêm và không hài lòng lắm rằng:


- Chị ôi! Ta chẳng nên buồn rầu khóc lóc như người tuyệt vọng, như người không có tin tưởng đời sau!


Một Mẹ đến thăm Chị Thánh, được dịp đỡ đần Người chút việc, có nghĩ thầm rằng, giá mà bây giờ Thiên Thần này nói cùng tôi trên thiên đàng sẽ trả công cho thì tôi vui sướng dường nào! Lạ quá! Mẹ ấy vừa nghĩ thế, Têrêsa liền quay lại nói ngay rằng:


- Mẹ ôi! Trên thiên đàng con sẽ trả công Mẹ ơn này!


Nhưng điều lạ nhất - Têrêsa tỏ mình đã có ý thức rõ rệt về thiên chức Chúa uỷ nhiệm thi hành ở thế gian. Với Người, màn che tương lai hình như đã trụt xuống, nhiều điều tiên tri Người nói rầy đã nên trọn cả. Chẳng hạn:


- Tôi chỉ biết dâng tiến Chúa chút Tình Ái, Chúa cũng sẽ đáp tình thương lại tôi.


Chết đoạn, tôi sẽ làm những trận mưa Hoa Hồng.


Có một chị nói về phúc thiên đàng cho Người nghe, Người đáp lại:


- Chẳng phải điều ấy lôi kéo lòng em đâu...


- Vậy thì cái gì lôi kéo Chị lên đó?


- Ôi! Chính là Tình Ái! Yêu và được yêu, và trở lại thế gian thôi thúc người ta say sưa yêu!


Một hôm Người tiếp Mẹ Agnès de Jésus cách vui vẻ khác thường lắm: Mẹ ôi! Con vừa nghe từ xa đưa lại mấy cung đàn dịu dàng, con nghĩ ngay mình sắp được nghe những điệu nhạc giéo giắt hay vô cùng; nhưng ý nghĩ ấy chỉ làm vui con giây phút rồi trái tim con lại trở lại ấp ủ cái điều: Con sẽ được yêu và con sẽ yêu! Con cảm thấy đã đến ngày phải thi hành thiên chức Chúa đã uỷ nhiệm con - cái thiên chức thôi thúc người ta kính mến Chúa như con... thu hút các linh hồn vào đàng “Tiểu lộ” - đàng con đã đi. Con ước ao ở trên trời chỉ những làm lành cho thiên hạ. Như thế chẳng phải là chẳng có thể vì, như các thiên thần hàng hưởng phúc. Thiên đàng mà vẫn trông nom coi sóc loài người ta được. Không, nhất định con không nghỉ tay cho đến ngày tận thế! Nhưng đến khi thánh thiên thần loan báo: Hết thì giờ rồi! Con mới chịu nghỉ tay mà hưởng phúc vui vẻ: khi ấy số kẻ Đức Chúa Trời chọn về thiên đàng đã đầy đủ.


- Đàng Tiểu lộ con muốn dạy các linh hồn là đàng thế nào?


- Thưa Mẹ, chính là đạo thần đồng, chính là đàng hoàn toàn cậy trông Chúa và phó thác mặc thánh ý Người. Xưa nay con đã dùng phương thế nào hiệu nghiệm, con cũng muốn truyền lại cho các linh hồn, làm các linh hồn hiểu biết ở thế gian chỉ có một việc phải làm là tế lễ mình trong những việc nhỏ mọn, dường như những hoa thơm tho dâng tiến Chúa, và tỏ hết tình ái thắm thiết cùng Người. Với những việc nhỏ mọn tình tứ đó, con đã được lòng Chúa lắm, và Chúa yêu con vô cùng, Người sẵn sàng ẵm bế con cách tình nghĩa dường nào!


Têrêsa đã nói cùng chị em nhà Tập rằng:


- Ví bằng con đàng Tình Ái em dẫn chị em đi đàng lạc, chị em chớ ngại, em không để chị em lầm lạc lâu ngày đâu. Em sẽ hiện về cải chính để chị em bỏ mà theo đàng khác; nhưng nếu em chẳng trở lại cùng chị em nữa, thì chị em cứ chắc tâm tiến hành những lời em đã nói. Đức Chúa Trời phép tắc và lòng lành vô cùng, ta trông cậy Người chẳng khi nào phải lo quá! Ta trông cậy Chúa ngần nào, ta được phỉ nguyền ngần ấy!...


Tối ngày áp lễ Đức Bà núi Carmel một chị Nhà tập nói cùng Chị rằng:


- Ví bằng sáng mai chị rước lễ rồi sinh thì ngay, có lẽ sự chết tốt lành này an ủi em khỏi hết mối phiền.


Têrêsa trả lời:


- Rước lễ rồi chết! Chết trong ngày lễ trọng! Không, không phải thế đâu; những linh hồn thơ ấu không thể học đòi thế được. Trong đàng tiểu lộ em đi, chỉ có những tầm thường giản dị, việc gì mà em đã làm, phải là việc các linh hồn thơ ấu cũng làm được hết.


Chị em năng đến thăm Người nhiều hoa mân côi, Người vẽ ra từng cánh một âu yếm ấp ủ Tượng Chuộc Tội đeo trước ngực: một lần cánh hoa quý ấy rơi xuống đất. Người đã bảo chị em rằng:


- Các chị nhặt lấy những cánh hoa ấy, sau này có thể dùng làm vui lòng người ta được. Đừng bỏ đi cánh nào.


Quả thật những cánh hoa ấy chẳng những đã làm vui lòng, lại làm nhiều phép lạ nữa!


Có lần Trinh Nữ đã thưa Mẹ Bề trên:


- Trên thiên đàng, con sẽ xin Chúa ban nhiều ơn cho những kẻ làm ơn cho con. Còn phần Mẹ, Mẹ ôi! Chẳng những Mẹ sẽ được đầy đủ các ơn, lại được nếm mùi vui vẻ ngọt ngào thiêng liêng nữa.


Cười trước và trong đau khổ

Một chị kia hồ nghi lòng nhẫn nại chịu khó của Têrêsa, khi vào thăm thấy dong nhan Người tươi tỉnh niềm nở lạ lùng, chị muốn biết duyên cớ làm sao. Trinh nữ đã trả lời:


- Em vui vẻ vì trong mình đang phải đau đớn lắm, em vẫn phải cố gắng yêu quý sự đau khổ và tiếp nhận đau khổ cách niềm nở tươi tỉnh.


Trinh nữ nói thêm:


- Khi phải đau đớn lắm hay khi lâm luỵ những điều cực phiền quá, thay vì tỏ mặt buồn bã, em hằng mỉm cười chịu đựng. Khi đầu nhiều lần chẳng sao giữ được; nhưng nay mỉm cười trước đau khổ và trong đau khổ, với em đã là tập quán rồi.


Mẹ Agnès de Jésus hỏi Người:


- Sao sáng này con vui vẻ thế?


- Con vui vì đã được chịu hai sự khó nhỏ; không gì làm con vui tươi bằng những sự khó cỏn con như thế.


Lại lần khác:


- Hôm nay con đau đớn lắm phải chăng?


- Vâng! Nhưng... con thích lắm! Chúa ban gì con cũng thích.


- Sự đau đớn con chịu có dữ dằn lắm chăng?


- Thưa Mẹ! Không dữ dằn gì, một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi đãi làm sao? Lúc nào con chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau đớn, Người cũng gởi thêm sức chịu đựng.


Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì con hèn sức yếu đuối lắm! Con mà xin thế, những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ?


Đó là ít lời khôn ngoan và nhân đức Chị Thánh đã nói trên giường hấp hối. Thật là ngọn đèn đầy dầu nhân đức cháy sáng mãi mãi cho tới khi ngàn.


Nếu lời Đức Chúa Thánh Thần đã phán trong sách Dụ Ngôn: Cái tâm đạo của người nào, người ấy phải lấy nhẫn nại của mình mà minh chứng   thì những ai ai đã đọc Một Tâm Hồn của Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đều có thể tin tưởng vào Học thuyết của mình nêu ra, cái Tâm Đạo cổ võ theo đuổi bằng một đức Nhẫn nại vô địch.


***


Bác sĩ chữa bệnh Têrêsa, lần nào đến thăm cũng tỏ bộ rất bỡ ngỡ trong câu nói:


- Chà! Các Bà mà hiểu được sự đau đớn của Người! Tôi chưa thấy ai phải đau đớn thế mà lại vui vẻ được thế! Lạ lùng! Chính là một thiên thần!


Chúng tôi tỏ lòng tiếc xót phải mất kho của châu báu thì bác sĩ trả lời:


- Tôi không thể chữa được Người nữa, linh hồn ấy đã bất phục thuỷ thổ thế gian!


Thấy Người kiệt sức yếu đuối quá, bác sĩ bảo phải uống thuốc bổ. Người nghe nói thì buồn vì thuốc bổ rất đắt tiền; nhưng Người lại nói:


- Tôi cũng chẳng buồn vì phải dùng thuốc đắt tiền nữa: đọc chuyện bà thánh Gertrude tôi thấy Người đã vui lòng uống thuốc vì nghĩ như thế là làm lợi cho kẻ làm ơn cho mình theo lời Chúa Giêsu phán:


Sự gì ngươi làm cho kẻ rốt hèn của Ta, chính là làm cho Ta đó  .


Tôi nhận thấy, với tôi thuốc nào bây giờ cũng là vô ích hết, song tôi đã thưa cùng Chúa, tôi uống thuốc đây là uống thay cho các Tông đồ đang mở Nước Chúa tất tưởi nghèo khổ không có giờ mà nghỉ, không có thuốc mà dùng!


Những biệt đãi cuối cùng

Bị kích thích bởi những tâm tình nồng hậu của Bạn mọn, Chúa Giêsu - Đấng không khi nào chịu thua ai cái lòng độ lượng càng ân cần săn sóc Têrêsa: khi thì khiến gia đình Người gởi hoa vào, khi thì sai chim bạc má bay đến nhảy nhót trên giường Người nhìn Người như ân tình quý hoá và vắt vẻo bay lộn trăm cách khéo léo. Thấy thế, Trinh Nữ đã thưa Mẹ Bề trên rằng:


- Mẹ ôi! Con rất cảm động những cách Chúa Trời đất tỏ tình chiều đãi con. Bề ngoài, thật con được nâng niu chiều chuộng rất nhiều mà ôi! Lòng con càng đắm chìm vào cõi tối tăm mịt mùng! Con đang đau đớn lắm... đau đớn lắm! Nhưng càng đau lại càng thấy lòng an vui lạ lùng! Mọi sự con ước ao rầy đã nên trọn... giờ đây con đang ngoi lặn trong suối cậy trông.


***


Một láu sau, Têrêsa đã kể câu chuyện cảm động này:


- Một hôm đang giờ ở lặng, chị coi nhà liệt đến để một chai nước nóng lên chân con, lại bôi thuốc nóng cả lên ngực.


Nhằm lúc con đang lên cơn sốt nặng lắm, trong người nóng như lửa, khát nước quá chừng, con phải chịu áp vào mình nóng nảy mấy thứ thuốc nóng nảy ấy nữa, thành thử bất giác đã để thốt ra mấy lời này cùng Chúa:


Lạy Chúa, Chúa biết đấy, tôi đang nóng như lửa, người ta lại đưa thêm lửa, nóng nảy dường nào! Phải chi người ta đem cho tôi một chén nước lã thì tôi được nhẹ lòng nóng khát biết bao... Lạy Chúa Giêsu! Nhi nữ Chúa đang phải khát lắm; nhưng cũng biết vui thú vì được dịp chịu khó cực này, hầu nên giống Chúa hơn và cấp cứu các linh hồn.


Khi chị coi nhà liệt giúp đỡ con xong mà đi, con đang nghĩ lại đến sáng mai mới được gặp chị, thì! đã thấy chị trở lại đem cho con một bát nước mát. Chị mới nghĩ ra, có lẽ khi nãy con khát lắm. Vậy từ này, chị sẽ giữ lệ chiều nào cũng đem nước này cho con.


Con nhìn chị miệng chẳng nói được nửa lời, và khi chị đã đi, con chẳng cầm nổi nước mắt. Ôi! Chúa Giêsu, tình nghĩa Chúa dịu dàng êm ả dường nào! Trái Tim Chúa dễ động tình thương yêu ta quá bội.


***


Một lần nữa Trái Tim Chúa tỏ tình biệt đãi Têrêsa, làm Người hân hoan mừng rỡ lắm. Số là ngày 6 tháng 9, cũng là bởi ý Chúa khiến định, Têrêsa được một chút xương cha thánh Vénard tử đạo. Đã nhiều lần Người tỏ lòng ước ao được chút di vật của đấng thánh mà Người coi như Bạn chí thiết; nhưng thấy khó lòng quá, Người đã phải cắt đứt vấn đề ấy rồi. Nay thấy Mẹ Bề trên trao cho mình chút báu vật ấy thì lòng cả mừng cả lạ lắm! Người tỏ lòng cung kính yêu quý xương Thánh hôn đi hôn lại không còn muốn rời tay lúc nào.


Sao Têrêsa lại yêu mến cha thánh Vénard thể ấy? Lý do đó, Người đã nói với mấy chị thân thiết:


- Cha Theophane Vénard là một Đấng thánh nhỏ. Cha có cuộc đời giản dị hết sức, cha kính mến Đức Mẹ Đồng Trinh lắm. Và tình lưu luyến gia đình của cha không thể tả.


Rồi Têrêsa nhấn mạnh mấy lời sau đây:


- Em cũng thế, em quyến luyến gia đình em lắm! Em không hiểu sao các thánh không thiết gì đến gia đình mình! Muốn để lại chút kỷ niệm vĩnh biệt các chị, em đã chép vài đoạn trong mấy thư sau hết cha thánh đã viết về thăm cha mẹ Người, tình ý và lời lẽ của cha cũng là của em, vì linh hồn em giống hệt linh hồn cha.


Chúng tôi xin sao lại đây nguyên văn những đoạn thư ấy, đọc tới ai cũng cho là chính bởi ngọn bút và trái tim Chị Thánh viết ra. Thư rằng:


Thế gian chẳng còn gì làm vui sướng đời con nữa, tâm hồn con đã được cởi mở rộng rãi, những cái người ta kêu là hạnh phúc trên đời, con nhìn như rơm rác hết. Lòng trí con đang bay về cõi thiên thai, thời gian sắp mãn cuộc! Lòng trí con bình lặng như chiếc hồ lặng lẽ, hay như vòm trời thanh dịu, con chẳng còn tiếc xót gì ở kiếp phù trần, chỉ khát khao mong mỏi về uống nước trường sinh cõi phước...


Không lâu đâu, linh hồn con sắp được từ giã thế gian rồi, cuộc đày đoạ sắp qua, những ngày u ám giao chinh sắp hết. Con lên thiên đàng! Con đi đến chốn an nghỉ, thảnh thơi đời đời của các Thánh, xem những tốt đẹp mắt chưa từng xem, nghe những nhạc điệu êm du dương khoái trá, tai chưa từng nghe, vui hưởng những hoan lạc trái tim chưa từng có hưởng... Nay con đã hầu tới các giây phút mà ai ai cũng tha thiết mong đợi, cầu ước. Quả thật Chúa đã chọn những kẻ bé mọn để mỉa mai những người quyền hành thế gian. Con không dám cậy sức riêng con, một cậy sức Đấng đứng trên Thánh Giá đã chiến thắng mọi quyền phép hoả ngục.


Con là bông hoa xuân, nay Chủ vườn muốn hái đem về làm cảnh. Chúng ta hết thảy là hoa Chúa vun trồng trong vườn thế gian, sẽ có ngày Chúa hái về hết, nay hoa này, mai hoa khác, chày kíp rồi cũng hết. Thân con là chiếc phù dung, dám xin mạn phép hồi hương trước.


Hẹn một ngày kia hết thảy chúng ta sẽ cùng gặp nhau tay bắt mặt mừng trên thiên quốc, vui thú thú vui trong vinh phước trường cửu.


Ký tên:


TÊRÊSA HÀI ĐồNG GIÊSU


(Viết theo lời cha thánh Théophane Vénard tử đạo)


--------------------------


Cuối tháng chín, khi Têrêsa nghe mấy chị đến thuật lại cùng mình vài điều đã cùng nhau thảo luận trong giờ chơi có liên can đến trách nhiệm những kẻ phải coi sóc chị em, Người hồi tâm một lát rồi nói những lời đẹp đẽ này:


- Những kẻ nhỏ mọn sẽ được phán xét rất êm nhẹ!   ta có thể ở nhỏ mọn lắm, dầu khi phải gánh những trách nhiệm quá nặng nề to tát. Nào vua David đã chẳng nói: Ngày sau hết, Đức Chúa Giêsu sẽ đứng ra bênh đỡ các kẻ hiền lành và khiêm nhượng thuở bình sinh ru?  . Thánh Vương không nói phán xét, chỉ nói bênh đỡ thôi.


Tuy nhiên, làn sóng đau khổ càng ngày càng rẫy lên mạnh mẽ trong lòng Trinh Nữ. Sức đã hao kiệt lắm, Người không còn thể tự động chút nào. Ai đứng bên Người mà nói dù nói rất khẽ cũng là đau đớn quá cho Người; lại bởi bệnh sốt rất nặng và chứng đau tức cho nên Người không thể nói lời gì mà không phải nhọc mệt hết sức. Cơ cực thế mà dong nhan Trinh Nữ vẫn tươi như hoa nở. Thoảng hoặc đôi khi trên gương mặt Người có gợn nét buồn thì cũng chỉ là buồn vì lo mình làm phiền chị em trong Nhà mà thôi. Cho nên mãi đến chiều áp qua đời, Người còn muốn ở một mình ban đêm. Nhưng đêm hôm, chị coi nhà liệt vẫn năng đến thăm Người luôn. Một lần vào thăm, thấy hai tay Người chắp lên ngực, mặt ngửa lên trời, chị liền hỏi Người rằng:


- Chị làm gì thế? Phải nhắm mắt mà ngủ đi chứ!


- Chị ôi! Em đau đớn quá, không thể ngủ được nên em cầu nguyện.


- Chị cầu nguyện gì nữa?


- Em chẳng cầu xin gì, em chỉ yêu mến Chúa thôi!


***


Thỉnh thoảng Trinh Nữ lại kêu:


- Ôi! Đức Chúa Trời tốt lành dường nào!... Thật Người nhân từ thương xót lắm, mới ban sức cho chịu đau đớn dường này!


Ngày kia Chị Thánh thưa Mẹ Bề trên rằng:


- Mẹ ôi! Con ước ao tỏ cùng Mẹ sự thể linh hồn con, nhưng con không biết làm cách nào được, con đang cảm động quá!


Chiều ngày ấy, Người trao cho Mẹ Bề trên một mảnh giấy viết bằng bút chì có những dòng chữ run rẩy này:


- Lạy Chúa tôi, Chúa xử đãi tôi là lễ mọn của Tình Ái Chúa cách nhân lành lắm lắm! Bấy giờ Chúa dung hoà những đau đớn thân xác với những cơ cực linh hồn. Tuy dù tôi chưa có thể nói: Cơn phiền giờ hấp hối đã bao vây tôi tứ phía  ; nhưng với tất cả lòng biết ơn, tôi xin kêu rằng: Tôi đã xuống tới vực u ám sự chết, song tôi không e lệ gì, vì Chúa hằng ở cùng tôi  .


Mẹ Agnès de Jésus bảo Têrêsa rằng:


- Có mấy chị tưởng con sợ chết lắm?


Trinh nữ thưa:


- Cái đó có thể lắm! Con không dám nhất thiết tự tin đâu, con vẫn tự nhận mình hèn hạ yếu đuối; nhưng hiện giờ đây con hẳn cứ hưởng cái tâm tình vui vẻ Chúa ban cho đã, hoặc sau Chúa định thể khác, cũng còn giờ mà vui chịu cách khác.


Cha Tuyên uý nhà Dòng hỏi con có cam lòng chết chăng, con đã thưa cha rằng:


- Ôi chao! Lạy cha, con trộm nghĩ chỉ phải cam lòng mà sống chứ được chết thì con mừng rỡ lắm.


- Mẹ ơi! Nếu Mẹ thấy con phải đau đớn quá, và dù lúc tắt hơi con cũng không tỏ dấu gì vui, Mẹ cũng đừng phiền nhé.


Chúa chúng ta há đã chẳng chết vì Tình Ái? Mà Mẹ xem đấy giờ hấp hối của Chúa đã thế nào?


Ngày 29 tháng 9 là áp ngày Têrêsa qua đời, 9 giờ tối thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và chị Genveviève de la Sainte Face (Céline), cả hai chị em được nghe rõ rệt lắm tiếng rào rào chim bay ở ngoài vườn, rồi chẳng biết từ đâu đến, một chim Cu bay tới đỗ trên thềm cửa sổ mà gáy cù cú cu... cu một lúc, rồi vỗ cánh tạch tạch bay bổng lên không trung.


Giây phút ấy hai chị em thấy tê mê trong mình những cảm xúc êm dịu nhẹ nhàng lắm, đã liên tưởng đến lời Ca Đệ Nhất:


Tiếng chim cú đã nghe gáy vang lừng. Bạn tình ân ái hỡi, hãy chỗi dậy! chim bồ câu Ta ơi, lại đây với Ta, vì tiết đông lạnh lẽ đã qua rồi.


Sau hết, vầng đông tươi sáng của ngày thiên cổ đã mọc! - ngày thứ năm 30 tháng 9 năm 1897.


Lúc tang tảng sáng Trinh Nữ nhìn tượng Đức Mẹ mà nói chuyện cùng chị em về đêm sau hết ở chốn khách đày rằng:


- Ôi! Tôi đã cầu xin Đức Mẹ rất sốt sắng!... Nhưng đây là cơn hấp hối rồi, chẳng được chút gì an ủi!...


Tôi không thở được không khí thế gian nữa, bao giờ tôi mới được hô hấp không khí thiên đàng?


Đã mấy tuần lễ, Têrêsa không thể nhấc mình ngồi dậy, mà hôm ấy, 2 giờ rưỡi chiều, Người ngồi lên được và kêu:


- Mẹ ôi! Chén đắng đến đầy miệng rồi! Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới chừng này... Con chỉ có thể hiểu rằng, con chịu được tân toan này là bởi lòng con rất thiết tha phần rỗi các linh hồn.


Một lát sau, Người lại nói:


- Mọi lời con đã viết về lòng ao ước chịu đau khổ là thật hết. Con không hối hận vì đã hiến thân tế lễ Tình Ái Chúa.


Chị Thánh đã năng nhắc đi nhắc lại lời ấy nhiều lần.


Một lát sau, Người thưa Mẹ Bề trên rằng:


- Mẹ ôi! Xin Mẹ giúp con dọn mình chết lành!


Mẹ Bề trên an ủi rằng:


- Con ơi, con đã rất sẵn sàng để ra trước toà Chúa rồi, vì xưa nay con đã hiểu nhân đức khiêm nhượng lắm.


Trinh Nữ cũng tự minh chứng rằng:


- Vâng, con biết thế lắm, linh hồn con chỉ những ước ao tìm sự thật của lòng khiêm nhượng.


Đến tư rưỡi chiều, bệnh bắt đầu chuyển sang cơn hấp hối. Người thấy chị em vào phòng, đã mỉm cười yêu dấu lắm, chào và giã ơn chị em, đoạn hai bàn tay rời rạc nắm chặt lấy Tượng Chuộc Tội, ráng hết sức để chiến trận lần sau hết. Khi ấy mồ hôi toát ra đầy mặt. Người run rẩy cả mình.


Nhưng! Như người vượt biển, thuyền ngàn dặm đã trải qua, đã hòng tới bến, thì dù phong ba dữ dội nổi lên ngần nào, cũng phấn lực xông lướt không mất can tràng; nay tấm thân quả cảm của Trinh Nữ thấy mình đã gần cửa phúc thanh nhàn, thấy ngọn hải đăng trên bãi thường sinh đã rực rỡ giãi sáng tới, hẳn là cũng cố gắng can đảm cầm cự mà chèo thêm mấy mái cho chiếc thuyền lan tới bến chờ mong, tới cửa phần rỗi đời đời phúc lạc.


Khi nhà Dòng đánh chuông nguyện tối, Trinh Nữ ngước mắt nhìn lên Đức Mẹ Đồng Trinh là Sao Mai dẫn đàng vượt biển, Người nhìn cách yêu đương thiết tha lắm lắm. Có lẽ giây phút ấy, Chị Thánh đã thở than cùng Đức Mẹ mấy vần thơ này:


Mẹ ôi! Xưa buổi sơ sinh

Thương tình Mẹ đến mỉm cười cùng con

Chiều nay bóng đã về non

Mẹ ôi! Mong Mẹ héo hon tấc lòng!...


Đến bảy giờ vài phút, Trinh Nữ quay mặt lại thưa Mẹ Bề trên rằng:

- Mẹ ôi! Phải đây là giờ hấp hối?... Con sắp chết ư?

- Phải! Hỡi con, giờ hấp hối đấy; nhưng Chúa Giêsu muốn con chịu cơn trầm phiền hấp hối ít giây phút nữa.


Bấy giờ Têrêsa than thở thảm thiết lời này:

- A! vâng... vâng... con xin vui lòng chịu!

Vừa dứt lời! Người ngửa mặt lên nhìn ảnh Chuộc Tội và than thở:


- ÔI... TÔI MẾN CHÚA!... LẠY CHÚA TÔI...

TÔI... MẾN... CHÚA!... LẮM!!!


Chị Thánh sinh thì

Đó là mấy lời sau hết Trinh Nữ đã nói. Nói rồi, Trinh Nữ gục đầu xuống bên hữu mà thiếp đi, trông như đấng thánh đồng trinh Tử đạo cúi đầu nghiêng cổ chịu lưỡi gươm bén sắc của lý hình đang vung chém, hay là như một quý Nữ muốn hy sinh mạng sống cho Tình Ái, đang nằm đợi Bạn Thánh bắn tên lửa Ái vào mình cho dễ chết...


Rồi bỗng dưng Têrêsa ngửa mặt lên như có tiếng nhiệm gọi. Người mở mắt ra, gương mặt sáng láng bình an vui vẻ lạ thường, đôi mắt cứ đăm đăm nhìn lên phía trên ảnh Đức Mẹ lâu bằng đọc kinh Tin Kính. Đoạn linh hồn thánh ấy trở nên mồi ngon cho Phượng Hoàng Cực Thánh tha về tổ phước thiên đàng.


...


Mấy ngày trước ly trần, Đầy tớ Chúa đã nói rằng:


- Tôi mong ước được chết vì Tình Ái, chính là mong ước được chết như Chúa Giêsu đã chết trên Thánh Giá.


Sự ước mong ấy đã nên trọn. Trong lúc Trinh Nữ hấp hối sinh thì, màn đen càng não nùng thảm đạm, sự bi đát của lòng chua xót càng ứa lên như sóng biển cuồn cuộn. Tuy nhiên, chúng ta có thể lấy lời sấm sâu nhiệm mà thánh Gioan Thánh Gia đã nói về những linh hồn được chết bởi hao mòn vì lửa Ái Chúa thiêu đốt để chỉ về Trinh Nữ rằng:


- Những linh hồn ấy chết trong cơn khoái trá lạ lùng, chết trong lúc Tình Ái sôi nổi xô đẩy mạnh mẽ vào chỗ sung sướng phỉ chí phỉ tình, ví như chim Hạc khi sắp chết, tiếng hót càng du dương réo rắt càng thiết tha yểu điệu.


Ấy chính vì thế mà Vua thánh David đã nói: Sự chết của kẻ lành thánh rất quý báu trước mặt Đức Chúa Trời vì giây phút ấy, các nguồn Tình Ái trong linh hồn đều phát bung ra hết, dồn dập trôi chảy về Biển cả là Tình Ái hải hà vô biên của Chúa.


Khi Trinh Nữ đã thở hơi sau hết, gương mặt còn in được nguyên vẻ tươi lúc tắt thở, nơi miệng còn để nụ cười làm tươi tỉnh cả bộ diện trông như người sống. Chúng tôi đặt vào tay Chị Thánh một ngành lá vạn tuế, ngành lá ấy mười ba năm sau, khi bốc xác thánh lần thứ nhất, thấy vẫn còn xanh tươi nguyên vẹn trong quan tài.


Trong lúc Têrêsa sinh thì, nhà Dòng chúng tôi xảy thấy mấy việc rất phi thường như: một chị nhà dưới mà chúng tôi đã nhắc tới ở trên, cúi xuống hôn chân Trinh Nữ, áp trán vào, tỏ lỏng trông cậy Người cầu bầu cho mình, chị đã được khỏi bệnh rức óc ngay.


Một chị khác lúc ấy đang ở phòng riêng, tự nhiên ngửi thấy ngào ngạt mùi thơm tho hoa má tía, mà nơi đó thật chẳng có bông hoa nào hết.


Và một chị thấy trong mình có cảm giác ngọt ngào khoan khoái y như có người vô hình nào đến hôn mặt mình vậy.


Còn hai chị nữa, chị này thấy một tia sáng rực rỡ trên trời; chị kia xem thấy một vòng sáng như mũ triều thiên tự đất bay lên không trung rồi biến mất trong vòm trời xanh biếc!


Lễ an táng Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Trong hai ngày thứ Bảy và Chúa nhật giáo hữu lũ lượt rất đông tới đến kính viếng xác vị Công chúa nhỏ uy nghi và tươi tỉnh đặt nằm bên trong phên giậu sắt nhà Nguyện Dòng. Người ta đua nhau lấy tràng hạt, lấy ảnh đeo, lấy cả đồ nữ trang mà đá đến xác Thánh.


Trong đám đông người đến kính viếng, có một em bé mười tuổi ngửi thấy mùi hoa huệ thơm lắm, mùi thơm bát ngát không thể nói được, mà những hoa bày chung quanh xác lại đều là hoa giả hết!


Ngày mồng 4 tháng 10 là ngày lễ An táng, các Thầy cả đến vĩnh biệt Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất đông, đứng đầy chung quanh quan tài. Cái vinh dự vẻ vang này, Chị Thánh thật rất đáng được; đó là vinh dự vẻ vang, vì Chị Thánh đã hãm mình và cầu nguyện biết bao cho hàng Giáo sĩ, cho các Thầy cả!


Sau hết, khi đã cử hành trọng thể các lễ nhạc An táng xong. Hạt giống tốt lành này lại được chính tay Hội Thánh là Mẹ nhân lành cầm tra vào luống đất, đợi ngày nở bông rườm rà tươi tốt...


Thật, từ ngày Têrêsa từ trần tới nay, đã thực hiện lạ lùng lời Chúa phán xưa:


- Hạt lúa gieo xuống đất, nếu không chết đi sẽ cứ trơ trơ mãi; nhưng nếu chết, nó trổ sinh biết bao bông hạt.


Ở thế gian, thường thường những hạt trổ sinh đó Chúa không tỏ cho biết đâu. Nhưng trường hợp đây, Chúa chẳng muốn đợi ngày chung thẩm mới đưa ra ánh sáng những hoa trái tốt tươi của Hạt đã gieo trồng; Chúa đã muốn ta thưởng ngoạn ngay khi nay một vụ lúa bông mẩy hạt đang gió chín đỏ ối trên khắp tứ phương thiên hạ...


Muôn đời tán tụng ngợi khen lượng hải hà Tình Ái Chúa! Phụng thờ mến yêu, đã làm nên những kỳ quan huyền diệu như vậy. Amen.