PHẦN HAI: VỌT LÊN

15-Thánh Thần Hiện Xuống: Một Tỏ Hiện Ðầy Quyền Năng của Thiên Chúa

Kiến thức của chúng ta về Chúa Thánh Thần được căn cứ vào những gì Chúa Giêsu nói cho chúng ta hay về Ngài, nhất là khi Chúa Giêsu nói về việc Người ra đi của mình và việc Người trở về cùng Cha Người: "Khi nào Thày ra đi... Thánh Thần sẽ đến cùng các con" (x Jn.16:7). Cuộc "ra đi" của Chúa Kitô vượt qua thập giá, phục sinh và thăng thiên đạt tới tuyệt đỉnh của mình nơi ngày Lễ Hiện Xuống, tức là nơi việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Các vị đã "đồng tâm nhất trí chuyên chú nguyện cầu" nơi nhà tiệc ly "cùng với mẹ của Chúa Giêsu" (x.Acts 1:14) cũng như với nhóm người lập thành nhân trung của Giáo Hội nguyên thủy.

Trong biến cố này, Chúa Thánh Thần vẫn là một Thiên Chúa kín nhiệm (x.Is.45:15), và Ngài cứ như thế qua trọn lịch sử của Giáo Hội cũng như của thế giới. Có thể nói rằng Ngài ẩn mình nơi bóng dáng của Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa Ngôi Con, Ðấng cùng bản thể với Chúa Cha, Ðấng "đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn.1:14) trong một dạng thức hữu hình.

Nơi mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã không tỏ mình ra một cách hữu hình - Ngài vẫn là một Thiên Chúa ẩn thân - và Ngài đã bao phủ Mẹ Maria cách mầu nhiệm. Thiên thần đã nói cùng Ðức Trinh Nữ, người nữ được đặc tuyển cho việc Thiên Chúa đến với con người là: "Thánh Thần sẽ đến trên trinh nữ và quyền phép của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ" (Lk.1:35).

Tương tự như thế, vào ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần "bao phủ" Giáo Hội sơ sinh, để, dưới ảnh hưởng của Ngài, Giáo Hội được ban quyền năng để "loan báo những công việc quyền uy của Thiên Chúa" (x. Acts 2:11). Ðiều đã xẩy ra nơi cung dạ Mẹ Maria trong mầu nhiệm Nhập Thể giờ đây càng được nên trọn. Thần Linh tác hành như một vị "Thiên Chúa ẩn thân", vô hình theo thân phận của mình.

Tuy nhiên, Ngày Lễ Hiện Xuống cũng là một cuộc hiển linh, nói cách khác, là một cuộc tỏ hiện thần linh đầy quyền năng. Cuộc tỏ hiện này hoàn tất cuộc tỏ hiện ở núi Sinai, lúc mà dân Yến Duyên sau khi đã được Moisen lãnh đạo giải thoát cho khỏi cảnh làm tôi cho người Ai Cập. Theo truyền thống của dân Do Thái thì cuộc tỏ hiện ở núi Sinai đã xẩy ra 50 ngày sau biến cố Vượt Qua trong cuộc Xuất Ai Cập, đó là Ngày Lễ Ngũ Tuần.

"Núi Sinai được phủ khói, vì Chúa ở trong lửa mà xuống trên nó; và khói của nó bốc lên như khói của một lò đúc, toàn thể ngọn núi chuyển động mãnh liệt" (Ex.19:18). Sự siêu việt tuyệt đối của "Ðấng hiện hữu" (x.Ex.3:14) bấy giờ đã biểu lộ ra. Ở chân Núi Horeb, Moisen đã nghe thấy từ giữa bụi gai cháy những lời: "Chớ đến gần; hãy cởi giầy ra, vì nơi ngươi đang đứng là thánh địa" (Ex.3:5). Giờ đây, tại chân Núi Sinai, Chúa cũng phán cùng ông: "Hãy đi xuống cảnh giác dân chúng kẻo họ tranh nhau nhìn xem Chúa mà phải chết" (Ex.19:21).

Cuộc hiển linh của Ngày Lễ Ngũ Tuần là cuộc hiển linh cuối cùng trong các cuộc tỏ hiện Thiên Chúa đã tuần tự tỏ mình ra cho con người biết. Với cuộc tỏ hiện này, việc tự mạc khải mình ra của Thiên Chúa đã đạt đến tột đỉnh; nhờ cuộc tỏ hiện này, Ngài muốn làm cho con người tin vào uy linh và sự siêu việt của Ngài, cũng như vào sự hiện diện hòa nhập của Ðấng "Emmanuel", của một vị "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Cuộc hiển linh vào Ngày Lễ Hiện Xuống, cùng với Mẹ Maria, đã trực tiếp chạm đến toàn thể Giáo Hội nơi những thành phần nồng cốt ban đầu của Giáo Hội, nhờ đó làm hoàn tất cái tiến trình kéo dài được bắt đầu dưới thời cựu ước. Nếu phân tích những chi tiết của biến cố diễn ra tại nhà tiệc ly được sách Tông Ðồ Công Vụ (2:1-13) ghi nhận này, chúng ta thấy có những yếu tố khác nhau gợi lại những cuộc hiển linh trước đó, nhất là cuộc hiển linh ở núi Sinai, cuộc hiển linh mà thánh Luca dường như đã liên tưởng đến khi trình thuật lại cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần. Theo thánh Luca diễn tả thì cuộc tỏ hiện ở nhà tiệc ly đã diễn ra bằng những thể thức của một hiện tượng tương tự như những gì ở núi Sinai: "Ðến ngày Lễ Ngũ Tuần, khi mà các vị tất cả đang cùng nhau ở một nơi. Thình lình một tiếng phát ra từ trời như gió thổi mạnh, tràn vào đầy nhà nơi các vị đang ở. Thế rồi có những lưỡi như lửa xuất hiện và tản ra đậu trên mỗi một người trong các vị. Vậy các vị được đầy Thánh Linh và bắt đầu nói tiếng lạ, như Thần Linh cho họ nói" (Acts 2:1-4).

Ba yếu tố đánh dấu biến cố này là tiếng gió mạnh, những lưỡi như lửa, và đặc sủng nói những ngôn ngữ khác nhau. Tất cả những yếu tố này đều có một giá trị tiêu biểu phong phú cần phải lưu ý. Theo ý nghĩa của những sự kiện này, người ta hiểu rõ hơn điều mà tác giả sách Tông Ðồ Công Vụ nghĩ tưởng khi viết rằng những người hiện diện ở nhà tiệc ly bấy giờ "được tràn đầy Thánh Linh".

"Một tiếng như gió thổi mạnh". Theo quan điểm ngôn ngữ học, ở đây có một sự liên hệ giữa gió (hơi gió) và "thần trí". Theo tiếng Do Thái, cũng như tiếng Hy Lạp, "gió" đồng nghĩa với "thần trí": "ruah - pneuma". Chúng ta đã đọc thấy trong sách Khởi Nguyên (1:2): "Thần trí (ruah) của Thiên Chúa bấy giờ chuyển vận trên mặt của các giòng nước", và trong Phúc Âm thánh Gioan: "Gió (pneuma) thổi đâu thì thổi" (Jn.3:8).

Theo Thánh Kinh, luồng gió mạnh "loan báo" sự hiện diện của Thiên Chúa. Nó là dấu hiệu của một cuộc hiển linh. Chúng ta đã đọc thấy trong Quyển Samuen Thứ Hai: "Ngài được thấy trên những cánh gió" (22:11). "Này, một cơn gió mạnh thổi đến từ phía bắc, một đám mây lớn quang tỏa, và một ngọn lửa liên tục chớp chớp" là một cuộc tỏ hiện được diễn tả ngay đầu cuốn Sách Tiên Tri Ezekien (1:4). Hơi gió là một biểu hiệu đặc biệt cho quyền lực thần linh là quyền lực làm cho cuộc biến động trở thành nề nếp tạo dựng (x.Gn.1:2). Nó còn là biểu hiệu cho tự do của Thần Linh: "Gió thổi đâu thì thổi, ông nghe được tiếng nó, song ông không biết nó từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Jn.3:8). "Một tiếng như gió thổi mạnh" là yếu tố thứ nhất trong cuộc hiển linh của Ngày Lễ Ngũ Tuần, một cuộc tỏ hiện của quyền năng thần linh tỏ tường trong Chúa Thánh Thần.

Yếu tố thứ hai của biến cố Lễ Ngũ Tuần là lửa: "Có những lưỡi như lửa xuất hiện" (Acts 2:3). Lửa luôn luôn hiện diện trong các cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa nơi Cựu Ước. Chúng ta thấy điều này ở cuộc giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham (x.Gn.15:17); cũng thế, khi Thiên Chúa tự tỏ mình cho Moisen trong bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi (x.Ex.3:2); rồi trong các cột lửa dẫn dân Yến Duyên qua sa mạc ban đêm (x.Ex.13:21-22). Lửa đặc biệt hiện diện nơi cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa ở Núi Sinai (x.Ex.19:18), cũng như ở những cuộc hiển linh được các tiên tri diễn tả (x.Is.4:5,64:1; Dan.7:9 v.v.). Bởi thế, lửa là biểu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Ở một vài nơi, Sách Thánh còn nói rằng "Thiên Chúa của chúng ta là một ngọn lửa thiêu" (Heb.12:29; Dt.4:24,9:3). Nơi những lễ nghi toàn thiêu, việc tiêu hủy của vật được hiến dâng không quan trọng bằng mùi thơm ngọt ngào tượng trưng cho việc hiến dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trong khi đó, lửa, cũng được gọi là "thừa tác viên của Thiên Chúa" (x.Ps.104:4), biểu hiệu cho việc thanh tẩy sạch tội lỗi của con người, giống như bạc được nung và vàng được thử bằng lửa vậy (x.Zech.13:8-9).

Nơi cuộc hiển linh ở Ngày Lễ Ngũ Tuần còn có một biểu hiệu là những lưỡi như lửa đậu trên mỗi một người hiện diện tại nhà tiệc ly. Nếu lửa biểu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những lưỡi lửa phân tán và đậu trên đầu của các vị như nói lên việc "ngự xuống" của Thánh Thần Thiên Chúa trên thành phần hiện diện, hiến ban chính mình cho từng người trong các vị để sửa soạn các vị thực hiện sứ vụ của mình.

Tặng ân của Thần Linh, lửa của Thiên Chúa, mặc lấy một hình thể đặc biệt, đó là hình thể của "lưỡi". Ý nghĩa của nó được cắt nghĩa ngay sau đó khi tác giả thêm: "Các vị bắt đầu nói tiếng lạ, như Thần Linh cho các vị nói" (Acts 2:4). Những lời nói phát xuất từ Thánh Linh mà ra thì "như lửa" (x.Jer.5:14,23:29). Chúng có một hiệu năng mà những lời nói thuần túy loài người không có được. Nơi yếu tố thứ ba của cuộc Thiên Chúa tỏ hiện trong Ngày Lễ Ngũ Tuần này, Thánh Thần Thiên Chúa, trong việc ban mình cho con người, đã làm phát sinh nơi họ một hiệu qủa vừa thực hữu vừa biểu trưng. Nó thực hữu ở chỗ nó liên quan đến cơ năng phát ngôn là sở hữu tự nhiên của con người. Tuy nhiên, nó cũng có tính cách biểu trưng vì những con người "từ Galilêa" này, trong khi nói tiếng của họ hay thổ âm của họ, lại nói "bằng những ngôn ngữ khác", làm cho đám tụ họp càng đông thì mỗi người đều "nghe thấy tiếng của mình", mặc dù bấy giờ có các đại diện của nhiều dân khác nhau chứng dự (x.Acts 2:6).

Tính cách biểu trưng của "việc nói nhiều ngôn ngữ" này rất là quan trọng. Theo Thánh Kinh, tình trạng khác biệt nhau về ngôn ngữ là một dấu hiệu tăng thêm các thứ dân và các nước, mà họ đã thực sự tản mác ra sau biến cố xây tháp Babel (x.Gn.11:5-9). Bấy giờ một ngôn ngữ chung mọi người hiểu được bị chia thành nhiều thứ ngôn từ khác nhau, do đó, gây ra tình trạng lầm lẫn trong việc thấu hiểu nhau. Nay tính cách biểu trưng của tháp Babel được thay thế bằng biểu trưng của một thứ ngôn ngữ của Ngày Lễ Ngũ Tuần, một thứ ngôn ngữ ngược lại với tình trạng lầm lẫn trong ngôn từ. Người ta có thể nói rằng nhiều thứ ngôn ngữ không hiểu được đã bị mất đi đặc tính riêng của mình, hay ít là, đã không còn là biểu hiệu cho sự chia rẽ nữa. Chúng đã nhường bước cho công việc mới mẻ của Chúa Thánh Thần, Ðấng mà qua các tông đồ và Giáo Hội mang lại sự hiệp nhất linh thiêng cho các dân nước khác nòi giống, ngôn ngữ và văn hóa, theo ý niệm hiệp thông trọn vẹn trong Thiên Chúa như Chúa Giêsu loan báo và nguyện cầu (x.Jn.17:11,21-22).

Ðể kết luận chúng ta hãy đọc lại những lời của Công Ðồng Chung Vaticanô II qua Hiến Chế về Mạc Khải Thần Linh: "Chúa Kitô đã thiết lập vương quốc của Thiên Chúa trên trái đất, đã tỏ Cha của Người và chính Người ra bằng việc làm cũng như bằng lời nói, và đã hoàn tất công cuộc của Người bằng việc chết đi, phục sinh và thăng thiên vinh hiển của Người, cũng như bằng việc sai đến Chúa Thánh Thần. Ðược treo lên khỏi mặt đất Người đã kéo tất cả con người lên với Người (x.Jn.12:32), chỉ một mình Người là Ðấng có những lời sự sống đời đời (x.Jn.6:68). Mầu nhiệm này đã không được tỏ ra cho các thế hệ nào khác như bấy giờ đã được tỏ ra cho các thánh tông đồ và tiên tri trong Chúa Thánh Thần (x.Eph.3:4-6), để các vị có thể rao giảng Phúc Âm, khơi lên lòng tin nơi Chúa Giêsu là Ðức Kitô và là Chúa, và tụ họp họ lại thành Giáo Hội" (đoạn 17). Ðây là một công việc cao cả của Chúa Thánh Thần cũng như của Giáo Hội nơi cõi lòng con người và nơi lịch sử.

(Bài Giáo Lý thứ 8 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 12-7-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


16-Thánh Thần Hiện Xuống: Một Biến Cố Tràn Lan Sự Sống Thần Linh

Biến cố Ngày Lễ Hiện Xuống tại nhà tiệc ly ở Gialiêm là một việc tỏ hiện thần linh đặc biệt. Chúng ta đã xét đến những yếu tố bề ngoài của biến cố này, như "tiếng gió thổi mạnh", những "lưỡi lửa" đậu trên đầu những người tụ họp tại nhà tiệc ly, và sau hết là việc "nói tiếng của những ngôn ngữ khác". Tất cả những yếu tố này chẳng những nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, mà còn nói lên việc Người đặc biệt hiện xuống trên những ai có mặt, tức là "việc tự hiến ban" của Ngài, một việc làm phát sinh nơi họ một cuộc biến đổi trông thấy, như được sách Tông Ðồ Công Vụ thuật lại tỏ tường (2:1-12). Ngày Lễ Hiện Xuống đã kết thúc một tiến trình dài trong việc tỏ hiện thần linh nơi Cựu Ước, mà cuộc tỏ hiện thần linh quan trọng nhất là cuộc tỏ hiện cho Moisen trên Núi Sinai.

Ngay từ ban đầu của loạt suy niệm về thánh linh học này, chúng ta cũng đã đề cập đến mối liên hệ giữa biến cố Hiện Xuống của Chúa Thánh Thần và Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nhất là về phương diện Người ra đi về với Cha qua cái chết của Người trên thập giá, cuộc phục sinh và thăng thiên của Người. Việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là việc làm hoàn tất lời Chúa Giêsu loan báo cho các tông đồ vào ngay trước cuộc tử nạn của Người trong "bài từ biệt" tại nhà tiệc ly ở Gialiêm. Bấy giờ Chúa Giêsu đã nói về một "Ðấng An Ủi mới": "Thày sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Ðấng An Ủi khác để mãi mãi ở cùng các con, Ngài là Thần Chân Lý" (Jn.14:16). Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: "Khi nào Thày đi, Thày sẽ sai Ngài đến với các con" (Jn.16:7). Nói về việc ra đi của mình nơi cái chết cứu độ trên thập giá, Chúa Giêsu đã nói: "Chẳng còn bao lâu nữa thế gian sẽ không còn thấy Thày, song các con sẽ thấy Thày vì Thày vẫn sống" (Jn.14:19).

Ðến đây chúng ta tiến đến một phương diện mới của mối liên hệ giữa cuộc Vượt Qua và việc Hiện Xuống, ở chỗ là "Thày sống". Chúa Giêsu bấy giờ nói về cuộc phục sinh của Người. "Các con sẽ sống", một sự sống sẽ được tỏ hiện và bảo đảm bằng cuộc phục sinh của Thày là sự sống của các con. Việc thông truyền sự sống này, được tỏ hiện nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, cuối cùng đã có công hiệu nơi việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Thật thế, những lời của Chúa Kitô đã làm âm vang phần kết thúc của sách tiên tri Ezekien, trong đó có lời Thiên Chúa hứa rằng: "Ta sẽ đặt Thần Linh của Ta nơi các ngươi, và các ngươi sẽ sống" (37:14). Bởi vậy, việc Hiện Xuống được liên kết một cách khít khao với cuộc Vượt Qua. Nó dính dáng với mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô: "Thày sống và các con cũng sẽ sống".

Nhờ việc Chúa Thánh Thần đến mà lời nguyện của Chúa Kitô ở nhà tiệc ly cũng được nên trọn: "Lạy Cha, đã đến giờ rồi; xin hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha cũng được tôn vinh Cha, vì Cha đã ban cho Người quyền năng trên tất cả mọi xác thể, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người" (Jn.17:1-2).

Trong mầu nhiệm vượt qua, Chúa Giêsu Kitô là nguyên lý của sự sống này. Chúa Thánh Thần ban phát sự sống này, bằng cách rút lấy từ việc cứu chuộc được hiệu thành bởi Chúa Kitô: "Ngài sẽ lấy những gì bởi Thày" (Jn.16:14). Chính Chúa Giêsu đã nói: "Chính Thần Linh mới ban sự sống" (Jn.6:63). Cũng thế, Thánh Phaolô tuyên xưng rằng: "luật thành văn thì giết hại, song Thần Linh lại ban sự sống" (2Cor.3:6). Việc Hiện Xuống đã làm sáng tỏ sự thật mà Giáo Hội tuyên xưng bằng những lời của Kinh Tin Kính: "Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Chúa và là Ðấng ban sự sống". Cùng với cuộc Vượt Qua, việc Hiện Xuống là tột đỉnh công cuộc cứu chuộc của Ba Ngôi thần linh nơi lịch sử loài người.

Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã hội họp tại nhà tiệc ly ở Gialiêm cùng với Maria, Mẹ Chúa Giêsu, cùng các "môn đệ" khác của Chúa, nam cũng như nữ. Các vị này là thành phần đầu tiên cảm nghiệm được những hoa trái phục sinh của Chúa Kitô.

Ðối với các vị, Ngày Hiện Xuống là ngày phục sinh, ngày của một sự sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ðó là một cuộc phục sinh thiêng liêng mà chúng ta có thể thấy được nơi việc các tông đồ được biến đổi trong thời gian của tất cả những ngày ấy; từ Thứ Sáu Chúa Kitô tử nạn, qua ngày Phục Sinh, cho đến ngày Hiện Xuống. Việc Thày bị bắt và bị tử giá đã quất một đòn chí tử trên các vị, làm các vị khó lòng phục hồi được. Ở chỗ, nhận được tin về việc phục sinh, các vị vẫn không tin và còn nghi ngờ, ngay cả khi các vị đối diện với Ðấng phục sinh. Các Phúc Âm đã nhắc lại sự kiện này một số lần: "Các vị không tin" (Mk.16:11); "một số hồ nghi" (Mt.28:17). Chính Chúa Giêsu đã nhẹ nhàng trách các vị: "Tại sao các con hoảng hốt và tại sao lòng các con còn thắc mắc?" (Lk.24:38). Người đã cố gắng làm cho các vị nhận thức được mình, bằng cách tỏ cho các vị thấy rằng Người không phải là "một con ma" song "có xương thịt" đàng hoàng. Và vì có xương thịt mà Người ăn một miếng cá đã nấu chín trước mắt họ (x.Lk.24:37-43).

Cuối cùng biến cố Hiện Xuống đã đưa các môn đệ đến việc chế ngự được thái độ thiếu tin tưởng này: sự thật về cuộc phục sinh đã hoàn toàn thấm nhập lý trí các vị và chiếm cứ lòng muốn của các vị. Ðúng là lúc bấy giờ "từ lòng họ tuôn ra những giòng sông chảy nước sự sống" (x.Jn.7:38), như chính Chúa Giêsu đã bóng bảy báo trước khi nói về Chúa Thánh Thần.

Nhờ công việc của Chúa Thánh Thần, các tông đồ cùng với các môn đệ khác đã trở nên một "thành phần Phục Sinh", những người tin tưởng và làm chứng cho việc phục sinh của Chúa Kitô. Các vị đã không ngại lấy biến cố quyết liệt này làm của mình. Từ ngày Lễ Hiện Xuống, các vị đã trở thành tin mừng cho "những việc uy quyền của Thiên Chúa" (Acts 2:11). Từ nội tâm của mình, các vị đã được ban cho khả năng này. Chúa Thánh Thần đã hiệu thành việc biến đổi nội tâm các vị bằng một sự sống mới phát xuất từ cuộc phục sinh của Chúa Kitô, một sự sống giờ đây được Ðấng An Ủi mới truyền sang cho các môn đồ của Người. Chúng ta có thể áp dụng vào cuộc biến đổi này với điều mà Isaia đã bóng bẩy nói tiên tri: "cho đến khi Thần Linh từ trên cao được đổ xuống trên chúng ta thì nơi hoang dã sẽ trở thành cánh đồng trù phú, và cánh đồng trù phú được coi như là một khu rừng" (Is.32:15). Thật thế, vào Ngày Lễ Hiện Xuống, chân lý phúc âm đã chiếu tỏa ánh quang: Thiên Chúa "không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" (Mt.22:32), "vì tất cả đều sống cho Ngài" (Lk.20:38).

Cuộc hiển linh Hiện Xuống đã khai mở cho tất cả quan niệm về nét mới mẻ của sự sống. Biến cố này là khởi sự việc Thiên Chúa lại "tự hiến ban mình" cho nhân loại. Các tông đồ là dấu hiệu và là bảo chứng không những cho một "tân Yến Duyên" mà còn cho một "tân thụ tạo" được hiệu thành bởi mầu nhiệm vượt qua. Thánh Phaolô viết: "việc làm công chính của một người đem tất cả con người đến sự trắng án và sự sống... Ở đâu tội lỗi tăng lên thì ở đó ân sủng lại càng tràn trề" (Rm.5:18-20). Cuộc chiến thắng của sự sống trên sự chết này, ân sủng trên tội lỗi này, do Chúa Kitô chiếm được, thực hiện nơi nhân loại nhờ Chúa Thánh Thần. Bởi Ngài, cuộc chiến thắng này làm cho mầu nhiệm cứu chuộc (x.Rm.5:5; Gal.5:22) sinh hoa kết trái nơi cõi lòng chúng ta.

Việc Hiện Xuống là khởi đầu cho một tiến trình canh tân linh thiêng, một tiến trình thể hiện công cuộc cứu chuộc theo chiều kích lịch sử và cánh chung của nó, nhắm vào toàn thể tạo vật.

Trong Thông Ðiệp về Chúa Thánh Thần, Dominum et Vivificantem, Tôi đã viết: "Ðó là một khởi sự mới có liên quan tới lúc khởi sự nguyên thủy đầu tiên của việc hiến ban mình cứu rỗi của Thiên Chúa, một việc được coi như đồng nhất với chính mầu nhiệm tạo dựng. Ðây là điều chúng ta đã đọc thấy ngay những lời đầu tiên của Sách Khởi Nguyên: "Từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên các tầng trời và đất... và Thần Linh của Thiên Chúa (ruah Elohim) bấy giờ di chuyển trên mặt của các giòng nước" (1:1f). Ý niệm theo thánh kinh về việc tạo dựng này chẳng những bao gồm ơn gọi hiện hữu chính hữu thể của vũ trụ, tức là việc ban phát sự hiện hữu, mà còn bao gồm cả sự hiện diện của Thần Linh Thiên Chúa nơi việc tạo dựng nữa, tức là bao gồm cả việc Thiên Chúa thông ban mình cứu độ cho mọi sự Ngài tạo thành. Ðiều chân thật này liên quan trước hết đến con người, thành phần đã được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (x.câu 12). Vào Ngày Lễ Hiện Xuống, cuộc "khởi sự mới" của việc Thiên Chúa ban mình cứu độ được liên kết với mầu nhiệm vượt qua, nguồn mạch của sự sống mới.

(Bài Giáo Lý thứ 9 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 22-7-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


17-Thánh Thần Hiện Xuống: Tặng Ân Ðược Thiên Chúa Thừa Nhận

Chúng ta đã phân tích những yếu tố bề ngoài được Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi nhận về cuộc tỏ hiện thần linh trong cuộc hiển linh của Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Gialiêm, đó là, "tiếng gió thổi mạnh", "những lưỡi lửa" đậu trên những người tụ họp tại nhà tiệc ly, và cuối cùng là hiện tượng tâm-ngôn làm cho các tông đồ được các người nói "những ngôn ngữ khác" nghe hiểu. Chúng ta cũng thấy rằng, trong số tất cả những tỏ hiện bề ngoài đó, yếu tố quan trọng và chính yếu là việc biến đổi nội tâm nơi các tông đồ. Chính việc biến đổi này đã nói lên sự hiện diện và tác động của Ðấng An Ủi Thần Linh, Ðấng đã đến theo lời Chúa Kitô hứa với các tông đồ vào lúc Người trở về cùng Cha.

Việc hiện xuống của Chúa Thánh Thần gắn liền với mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm được hiệu thành nơi hiến tế cứu chuộc trên thập giá của Chúa Kitô cũng như nơi cuộc phục sinh của Chúa Kitô, một cuộc phục sinh phát sinh sự sống mới. Vào ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ - qua công việc của Chúa Thánh Thần - đã hoàn toàn được tham phần vào sự sống này, và nhờ đó, các vị cảm thấy được đủ quyền năng cho việc minh chứng để làm sáng tỏ việc Chúa phục sinh.

Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tỏ mình ra như Ðấng ban sự sống. Ðây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính khi chúng ta nhận Ngài là "Chúa, Ðấng ban sự sống". Ðiều này làm hoàn tất công cuộc tự thông mình ra của Thiên Chúa, một công cuộc được bắt đầu khi Ngài hiến mình cho con người, tạo dựng họ theo hình ảnh và tương tự như Ngài. Tặng ân thần linh ban mình này - một tặng ân từ đầu đã làm nên mầu nhiệm tạo dựng con người và nâng con người lên một phẩm vị siêu nhiên - sau khi tội lỗi xẩy ra được dự phóng nơi lịch sử nhân loại như là một lời hứa cứu rỗi. Nó được hoàn tất nơi mầu nhiệm cứu chuộc do Chúa Kitô, Thiên Chúa Làm Người, hiệu thành qua hiến tế của Người. Liên kết với cuộc vượt qua của Chúa Kitô, "việc ban mình của Thiên Chúa" được hoàn tất trong biến cố Hiện Xuống. Cuộc hiển linh ở Gialiêm biểu hiệu cho một khởi sự mới nơi việc tự ban mình của Thiên Chúa trong Thánh Linh. Các tông đồ và tất cả những người hiện diện cùng với Mẹ Maria vào ngày đó ở nhà tiệc ly là thành phần đầu tiên cảm nghiệm được việc tràn tuôn mới của sự sống thần linh này, một sự sống mà - nơi các vị và qua các vị, cũng như nơi Giáo Hội và qua Giáo Hội - đã được dành sẵn cho mọi người. Ðó là một sự sống phổ quát như ơn cứu độ phổ quát.

Việc khởi sự của một sự sống mới có được là nhờ tặng ân thừa nhận thần linh. Tặng ân này Chúa Kitô, bằng việc cứu chuộc của mình, đã chiếm hữu cho tất cả mọi người và Chúa Thánh Thần đã ban phát cho tất cả mọi người. Bằng ân sủng, Thần Linh đã tái tạo, đúng hơn, tân tạo con người theo hình ảnh của Con Một Cha. Nhờ thế, Lời nhập thể canh tân và làm cho bền vững "tặng ân ban mình" của Thiên Chúa, nơi việc hiến ban cho con người, bằng công cuộc cứu chuộc, "ơn được tham dự vào sự sống thần linh", như được đề cập đến trong Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô (x.2Pt.1:4). Trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng nói đến Chúa Giêsu Kitô "theo Thần Linh thánh thiện, được ấn định là Con Thiên Chúa bằng quyền năng do việc Người phục sinh từ kẻ chết" (1:4).

Thế nên, hoa trái của việc phục sinh, một thể hiện tầm mức trọn vẹn của quyền năng Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, như một tặng ân mới của việc thừa nhận thần linh đã được thông chia cho tất cả những ai cởi mở cho tác động của Thần Linh. Sau khi nói đến việc Lời nhập thể, trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình, Thánh Gioan đã viết là "tất cả những ai tiếp nhận Người, tức những ai tin vào danh Người, Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa" (1:12). Hai vị tông đồ Gioan và Phaolô đã hiểu được ý niệm của việc thừa nhận thần linh, một thừa nhận thần linh Chúa Giêsu đã lập được bởi Chúa Thánh Thần, như là một tặng ân của sự sống mới ban cho con người.

Việc thừa nhận này là một tặng ân từ Chúa Cha mà có, như chúng ta đã đọc thấy trong Bức Thư Thứ Nhất của thánh Gioan: "Hãy nhìn xem Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta là dường nào, cho chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa; và chúng ta qủa là như vậy" (1Jn.3:1). Trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã quảng diễn chân lý này theo ý nghĩa của dự định đời đời nơi Thiên Chúa: "Với những ai Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định cho được nên giống hình ảnh Con Ngài, để Con làm trưởng tử của nhiều anh em (8:29). Cũng thánh Phaolô, trong Bức thư gửi giáo đoàn Eâphêsô, đã nói về thân phận làm con cái nhờ việc thừa nhận thần linh, vì Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta "được là những đứa con thừa nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô" (1:5).

Hơn nữa, trong Bức Thư gửi giáo đoàn Galata, thánh Phaolô còn nói về ý định đời đời của Thiên Chúa đã được cưu mang trong nội tâm sự sống ba ngôi của Ngài. Ý định đời đời này được hoàn thành trong sự "viên mãn của thời gian", bằng việc Chúa Con đến nơi mầu nhiệm Nhập Thể để làm cho chúng ta nên những đứa con thừa nhận của Ngài: "Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến, được hạ sinh bởi một người nữ... để chúng ta được thừa nhận làm con cái" (Gal.4:4-5). Theo thánh Tông Ðồ, sứ mệnh của Chúa Thánh Thần gắn liền với "sứ mệnh" của Chúa Con trong công cuộc ba ngôi. Thánh Tông Ðồ thêm: "Và vì chúng ta là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Linh của Con Ngài vào trong lòng chúng ta, để kêu lên 'Abba, Lạy Cha'" (Gal.4:6).

Ðến đây chúng ta chạm đến đích điểm của mầu nhiệm được thể hiện nơi Ngày Lễ Ngũ Tuần: Chúa Thánh Thần xuống "trong lòng chúng ta" như Thần Linh của Con. Chính vì Ngài là Thần Linh của Con mà Ngài làm cho chúng ta cùng với Chúa Kitô kêu lên Thiên Chúa: "Abba, Lạy Cha".

Tiếng kêu này nói lên sự thật là chúng ta chẳng những được gọi là con cái Thiên Chúa, "mà chúng ta thực sự là thế", như tông đồ Gioan đã nhấn mạnh trong Bức Thư Thứ Nhất của ngài (3:1). Nhờ tặng ân này, chúng ta thực sự thông phần với thân phận làm con xứng hợp với Con Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô. Ðây là một chân lý siêu nhiên về mối liên hệ của chúng ta với Ðức Kitô, một chân lý có thể nhận thức bởi những ai "nhận biết Cha" (x.1Jn.2:13) mà thôi.

Việc nhận thức chỉ có thể khả đạt nhờ Chúa Thánh Thần, qua chứng cớ Ngài tác động bên trong tâm linh con người. Ở đó, Ngài hiện diện như nguyên lý của sự thật và của sự sống. Thánh Tông Ðồ Phaolô đã nói với chúng ta rằng: "Chính Thần Linh làm chứng cho tâm linh của chúng ta, chúng ta là con cái Thiên Chúa, và nếu chúng ta là con cái, thì chúng ta cũng là những người được thừa kế, những người thừa kế của Thiên Chúa cùng với Ðức Kitô" (Rm.8:16-17). "Anh em đã không lãnh nhận một thần trí nô lệ để lại chìm ngập trong sợ hãi, song anh em đã lãnh nhận thần trí con cái để chúng ta nhờ đó kêu lên 'Abba! Lạy Cha'" (Rm.8:15).

Thần Linh làm phát sinh nơi con người hình ảnh của Chúa Con, nhờ đó, Ngài thiết lập một mối liên hệ huynh đệ thân tình với Ðức Kitô khiến chúng ta "cùng với Người kêu lên: 'Abba! Lạy Cha!'". Bởi vậy vị Tông Ðồ viết "tất cả những ai được Thần Linh của Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái của Thiên Chúa" (Rm.8:14). Như Thần Linh của Chúa Con, Chúa Thánh Thần "thở" vào lòng các tín hữu, để thiết lập nơi con người thân phận con cái thần linh theo hình ảnh Ðức Kitô và nên một với Ðức Kitô. Chúa Thánh Thần khuôn đúc từ bên trong tâm linh con người theo mẫu mực thần linh là Ðức Kitô. Nhờ đó, bởi Thần Linh, một Ðức Kitô được biết đến nơi những trang Phúc Âm đã trở nên "đời sống của linh hồn". Trong việc suy tưởng, yêu thương, phán đoán, tác hành và ngay cả cảm xúc, con người được nên giống Ðức Kitô và trở nên "như Ðức Kitô".

Việc làm này của Chúa Thánh Thần đã được khởi sự từ Ngày Lễ Hiện Xuống ở Gialiêm, một biến cố là tột đỉnh của mầu nhiệm vượt qua. Từ đó trở đi, Chúa Kitô ở với chúng ta và hoạt động trong chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, làm hiệu thành ý định đời đời của Thiên Chúa, Ðấng đã tiền định chúng ta "làm những người con cái thừa nhận của Ngài nơi Chúa Giêsu Kitô" (Eph.1:5). Vậy chúng ta đừng bao giờ thôi lập lại và suy niệm chân lý diệu vợi này của đức tin chúng ta.

(Bài Giáo Lý thứ 10 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 26-7-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


18-Thánh Thần Hiện Xuống: Lề Luật Thần Linh

Việc hiện xuống của Chúa Thánh Thần vào Ngày Lễ Ngũ Tuần là một hoàn tất trọn vẹn mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu Kitô. Ðó là việc hiện thực hoàn toàn những lời loan báo trong Cựu Ước, nhất là những lời loan báo của các tiên tri Giêrêmia và Ezekien, liên quan đến một giao ước mới Thiên Chúa sẽ thiết lập với con người trong Ðức Kitô và việc "tuôn đổ" Thần Linh của Ngài xuống "trên tất cả loài người" (Joel 3:1). Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là một ghi khắc mới của lề luật Thiên Chúa nơi thâm cung của hữu thể con người, hay, như lời tiên tri nói, nơi "tâm can" (x.Jer.31:33) con người. Như thế là chúng ta có một lề luật mới, hay một lề luật của thần trí, một lề luật mà giờ đây chúng ta phải tìm hiểu để có một sự hiểu biết trọn vẹn về mầu nhiệm của Ðấng An ủi.

Chúng ta đã nhấn mạnh sự kiện là cựu ước giữa Thiên Chúa và dân Yến Duyên, được thiết lập nhờ cuộc hiển linh ở núi Sinai, căn cứ vào lề luật. Ở tâm điểm của lề luật này, chúng ta thấy Mười Ðiều Răn. Chúa đã huấn dụ dân Ngài giữ các giới răn: "Nếu các ngươi nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta giữa mọi dân nước; vì tất cả trái đất này là của Ta, và đối với Ta các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân tộc thánh hảo" (Ex.9:5-6).

Vì giao ước này không được trung thành nắm giữ, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri loan báo rằng Ngài sẽ thiết lập một giao ước mới: "Ðây là giao ước mà Ta sẽ thiết lập với nhà Yến Duyên sau những ngày đó, Chúa phán: Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong họ, và Ta sẽ viết nó trên tâm can họ". Những lời này của tiên tri Giêrêmia, như đã được trích dẫn trong các bài giáo lý trước đây, được gắn liền với lời hứa: "và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân của Ta" (Jer.31:33).

Bởi thế, giao ước mới (giao ước trong tương lai) do các tiên tri loan báo đã cần phải được thiết lập bằng việc thay đổi sâu xa trong mối liên hệ giữa con người với lề luật của Thiên Chúa. Thay vì là một lề luật bề ngoài, được viết trên đá, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần nơi tâm can con người, lề luật phải trở nên một hướng dẫn nội tại, được thiết lập "sâu xa nơi hữu thể của con người".

Theo Phúc Âm, lề luật này được tóm tắt nơi giới răn kính mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân. Khi Chúa Giêsu nói rằng "tất cả lề luật và lời các tiên tri đều ở tại hai giới răn này" (Mt.22:40), Người muốn làm sáng tỏ là chúng đã được chất chứa nơi Cựu Ước (x.Dt 6:5; Lev.19:18). Kính mến Thiên Chúa là "giới răn thứ nhất và cao trọng"; yêu thương tha nhân là "giới răn thứ hai cũng như giới răn thứ nhất" (Mt.22:37-39). Giới răn thứ hai cũng là điều kiện để giữ giới răn thứ nhất: "vì ai yêu thương tha nhân là làm hoàn tất lề luật" (Rm.13:8).

Giới răn kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là yếu tính của lề luật mới được Chúa Kitô thiết lập bằng lời nói cũng như gương lành (cho đến hy hiến "cả mạng sống mình vì bạn hữu": x.Jn.15:13). Nó được Chúa Thánh Thần viết trong tâm can của chúng ta. Vì lý do này, nó trở nên "lề luật của Thần Linh".

Như thánh Tông Ðồ viết cho giáo đoàn Côrintô: "Anh em chứng tỏ anh em là bức thư Chúa Kitô nhờ chúng tôi gửi đến, không được viết bằng mực mà bằng Thần Linh của Thiên Chúa hằng sống, không phải trên các tấm đá mà là trên những tấm lòng con người" (2Cor.3:3). Thế nên, lề luật Thần Linh là một giới lệnh nội tâm của con người. Ðúng hơn, chính Thánh Thần là Ðấng trở nên thày dạy và nên vị hướng dẫn trong thâm cung của cõi lòng con người.

Một thứ lề luật hiểu như thế không còn hình thức gò bó trói buộc bề ngoài nào là những gì con người tác hành phải lụy thuộc. Lề luật của Phúc Âm, được chứa đựng trong lời nói và được xác nhận bởi cuộc sống cũng như sự sống của Ðức Kitô, là do mạc khải thần linh, một mạc khải bao gồm tầm mức viên trọn của chân lý về sự thiện nơi tác hành con người. Ðồng thời, nó cũng chữa lành và làm hoàn hảo tự do nội tâm của con người, như lời Thánh Phaolô viết: "Lề luật của Thần Linh sự sống nơi Chúa Giêsu Kitô đã giải thoát tôi khỏi lề luật tội lỗi và sự chết" (Rm.8:2). Theo thánh Tông Ðồ, Chúa Thánh Thần, Ðấng ban sự sống, vì nhờ Ngài, tâm linh con người được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, cũng trở nên một nguyên lý mới và nguồn mạch cho hoạt động con người: "để việc đòi hỏi chính đáng của lề luật được hoàn thành nơi chúng ta là những người không bước đi theo xác thịt song theo Thần Linh" (Rm.8:4).

Có thể Thánh Phaolô đã căn cứ giáo huấn của mình vào chính Chúa Giêsu, Ðấng đã nói thẳng ra trong Bài Giảng trên Núi rằng: "Ðừng tưởng Thày đến để hủy bỏ lề luật và lời các tiên tri; Thày đến không phải để hủy bỏ chúng mà là để làm cho chúng được nên trọn" (Mt.5:17). Việc Chúa Giêsu Kitô hoàn tất lề luật như thế, bằng lời cũng như bằng gương lành, đã cấu tạo nên một mẫu thức cho việc bước đi theo Thần Linh. Như thế, lề luật của thần trí, được Người viết trên những tấm lòng con người, hiện hữu và hoạt động nơi những ai tin vào Chúa Kitô và thông phần với Thần Linh của Người.

Chúng ta đã thấy trong sách Tông Ðồ Công Vụ, toàn thể cuộc sống của Giáo Hội sơ khai là một cuộc biểu hiện chân lý như Thánh Phaolô đã nói đến. Theo thánh nhân, "tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thần Linh là Ðấng được ban cho chúng ta" (Rm.5:5). Bất chấp những giới hạn và khiếm khuyết nơi các phần tử của Giáo Hội, cộng đoàn Gialiêm đã thông phần vào cuộc sống mới được "Thần Linh ban cho"; Giáo Hội đã sống tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng đã lãnh nhận sự sống này như một tặng vật đến từ Chúa Thánh Thần, Ðấng làm cho chúng ta tràn đầy tình yêu - yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân - nội dung chính yếu của giới răn trọng nhất. Như thế, lề luật mới, được in ấn nơi tâm can nhân loại bằng tình yêu như một tặng ân của Chúa Thánh Thần, là lề luật của Thần Linh nơi họ. Ðó là một thứ lề luật ban tự do, như Thánh Phaolô viết: "Lề luật của thần trí sự sống nơi Chúa Giêsu Kitô đã giải thoát tôi khỏi lề luật tội lỗi và sự chết" (Rm.8:2).

Vì lý do này, tức bởi "việc tuôn đổ vào lòng chúng ta" tình yêu của Thiên Chúa (x.Rm.5:5), mà Ngày Lễ Hiện Xuống đánh dấu một cuộc khởi sự của một nền luân lý nhân bản mới được dựa trên lề luật Thần Linh. Nền luân lý này vượt ra ngoài việc chỉ biết tuân giữ lề luật theo lý trí truyền khiến hay theo chính mạc khải mà thôi. Nó còn phát xuất từ và tiến đến một cái gì đó sâu xa hơn. Nó phát xuất từ Chúa Thánh Thần và có thể sống bằng tình yêu đến từ Thiên Chúa. Nó trở nên một thực tại trong đời sống của chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần là Ðấng "được tuôn đổ vào lòng chúng ta".

Thánh Tông Ðồ Phaolô là một vị tông đồ đệ nhất truyền đạt nền luân lý cao trọng hơn này, một nền luân lý được ăn rễ trong lề luật của Thần Linh. Thánh nhân đã từng là một người Pharisiêu nhiệt thành, một nhà thông luật, một người giữ luật từng li từng tí và là một kẻ chuyên bảo vệ cho chữ nghĩa của lề luật cũ, và cũng là vị sau này đã trở nên một tông đồ của Chúa Kitô, mới có thể viết về mình rằng: "Thiên Chúa... đã tuyển chọn chúng tôi làm những thừa tác viên cho một giao ước mới, không phải bằng văn tự luật mà là bằng Thần Linh: vì văn tự luật chỉ sát hại, còn Thần Linh mới ban sự sống" (2Cor.3:6).

(Bài Giáo Lý thứ 12 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 9-8-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


19-Thánh Thần Hiện Xuống: Dân Thiên Chúa, Một Dân Thánh

Vào ngày Lễ Ngũ Tuần ở Gialiêm, các tông đồ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, cùng với cộng đồng môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô, tụ họp ở nhà tiệc ly cùng với Mẹ Maria, Mẹ của Chúa. Như thế, đối với các vị, lời Chúa Kitô hứa cùng các vị khi Người bỏ thế gian này trở về cùng Cha được nên trọn. Vào ngày ấy, Giáo Hội, phát sinh từ cái chết của Chúa Cứu Thế, đã tỏ mình ra cho thế giới. Tôi sẽ nói về sự kiện này vào bài giáo lý lần tới.

Giờ đây Tôi muốn trình bày cho thấy rằng việc Chúa Thánh Thần đến, như việc hoàn tất của giao ước mới nơi máu Chúa Kitô, làm phát sinh một Dân Chúa mới. Ðây là cộng đồng của những ai đã được "thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô" (1Cor.1:2); những ai Chúa Kitô đã làm họ nên "một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa cũng là Cha của Người" (Rev.1:6; x.5:10; 1Pet.2:9). Tất cả những điều này đã xẩy ra là do Chúa Thánh Thần.

Ðể nắm được trọn vẹn tính cách quan trọng của chân lý này, như được các Tông Ðồ Phêrô và Phaolô cùng Sách Khải Huyền loan báo, chúng ta phải trở về trong giây lát việc thiết lập giao ước cũ giữa Chúa là Thiên Chúa với dân Yến Duyên. Ðại diện là Moisen, vị lãnh đạo của dân Yến Duyên, sau cuộc giải phóng khỏi cảnh làm tôi bên Ai Cập. Những bản văn nói về việc thiết lập cựu ước này xác định rõ ràng là giao ước đúng nghĩa không được giảm thiểu thành một hiệp ước trên căn bản bổn phận song phương. Chính Chúa là Thiên Chúa đã chọn Yến Duyên như dân của Ngài, để dân trở nên sản vật của Ngài, trong khi chính Ngài sẽ là Thiên Chúa của họ từ đấy về sau.

Bởi thế chúng ta mới đọc thấy rằng: "Vậy nên, giờ đây, nếu các ngươi nghe tiếng của Ta và giữ giao ước của Ta, các ngươi sẽ là gia sản của riêng ta giữa mọi dân nước; vì tất cả trái đất này là của Ta, và các ngươi đối với Ta sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh" (Ex.19:5-6). Sách Nhị Luật lập lại và xác nhận điều Thiên Chúa công bố trong sách Xuất Hành. "Vì các ngươi (Yến Duyên) là một dân thánh đối với Chúa là Thiên Chúa các ngươi; Chúa là Thiên Chúa của các ngươi đã chọn các ngươi để làm một dân tộc cho sở hữu riêng của Ngài, hơn hết mọi dân tộc sống trên mặt đất" (Dt.7:6; x.26:18).

Một chọn lựa như thế về phiá Thiên Chúa chỉ hoàn toàn phát xuất từ tình yêu của Người mà thôi, một tình yêu hoàn toàn nhưng không. Chúng ta đọc thấy: "Không phải vì các ngươi đông nhiều hơn các dân nước khác mà Chúa đã động lòng thương các ngươi và chọn các ngươi, các người chỉ là đám dân ít nhất trong các dân; nhưng chính vì Chúa yêu thương các ngươi và giữ lời hứa mà Ngài đã thề với cha ông các ngươi, đó là, bằng bàn tay dũng mãnh, Chúa mang các ngươi ra khỏi và đã cứu các ngươi khỏi nhà nô lệ" (Dt.7:7-8). Sách Xuất Hành cũng đã nói lên điều này bằng một ngôn ngữ tượng hình: "Các ngươi đã được thấy điều Ta đã làm cho người Ai Cập, và Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng để đem các ngươi đến với Ta ra sao" (Ex.19:4).

Thiên Chúa đã tác hành vì tình yêu nhưng không. Tình yêu này nối kết Yến Duyên lại với Chúa là Thiên Chúa một cách đặc biệt và phi thường. Bởi tình yêu, Yến Duyên đã trở thành tài sản của Thiên Chúa. Thế nhưng, một tình yêu như vậy lại đòi phải đáp trả, bởi thế, cũng đòi hỏi một đáp ứng yêu thương về phía Yến Duyên: "Các ngươi phải kính mến Chúa là Thiên Chúa các người hết lòng của mình" (Dt.6:5).

Theo giao ước, một dân mới, Dân Thiên Chúa được hình thành là như thế. Là "tài sản" của Chúa là Thiên Chúa, nghĩa là được thánh hiến cho Ngài, phải là một dân thánh. Ðó là điều mà Chúa là Thiên Chúa tỏ ra cho toàn thể cộng đồng dân Yến Duyên qua Moisen: "Các ngươi phải là thánh, vì Ta, Chúa là Thiên Chúa của các ngươi, là thánh" (Lev.19:2). Bằng việc chọn lựa này, Thiên Chúa đã ban mình cho dân của Ngài trong thánh thiện là đặc tính chính của Ngài, và Ngài đòi hỏi sự thánh thiện này nơi Yến Duyên như một tính chất của đời sống.

Là một dân được thánh hiến cho Thiên Chúa, Yến Duyên được gọi là một dân tư tế: "Các ngươi sẽ được gọi là các tư tế của Chúa; người ta sẽ nói đến các ngươi như những thừa tác viên của Thiên Chúa chúng ta" (Is.61:6).

Giao ước mới, một giao ước mới mà lại vĩnh cửu, chỉ hình thành "trong máu của Ðức Kitô" (x.1Cor.11:25). Nhờ hy hiến này, một "Ðấng An ủi khác" (Parákletos) (x.Jn.14:16) - đó là Chúa Thánh Thần - được ban cho những ai được "thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô, gọi là các đấng thánh" (1Cor.1:2). "Cùng tất cả những người yêu dấu của Thiên Chúa ở Rôma, những người được kêu gọi là những vị thánh" (Rm.1:7), đó là lời ngỏ Thánh Phaolô viết gửi cho Kitô hữu ở Rôma. Thánh nhân cũng nói tương tự như thế với giáo đoàn Côrintô: "Cùng Giáo Hội của Thiên Chúa tại Côrintô, cùng tất cả các thánh, những người ở khắp Achaia" (2Cor.1:1); với giáo đoàn ở Philiphê: "Cùng tất cả các thánh trong Chúa Giêsu Kitô, những người ở Philiphê" (Phil.1:1); với giáo đoàn ở Côlôsê: "Cùng các thánh và anh em trung thành trong Ðức Kitô tại Côlôsê" (Col.1:2); và với giáo đoàn ở Eâphêsô: "Cùng các thánh, những người ở Eâphêsô" (Eph.1:1).

Chúng ta còn thấy cùng một cung cách diễn đạt như vậy trong sách Tông Ðồ Công Vụ: "Phêrô... cũng đến với các thánh sống ở Lydda" (Acts 9:32; x.9:41; và 9:13 "cùng các thánh của anh em ở Gialiêm").

Tất cả những trường hợp này ám chỉ Kitô hữu, hay thành phần tín hữu, đó là thành phần anh em với nhau, những người đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Vị chính tay xây cất sự thánh thiện này, một sự thánh thiện mà, nhờ việc tham dự vào sự thánh thiện của chính Thiên Chúa, cả đời sống Kitô hữu mới được đắp xây lên: "Anh em đã được thánh hóa... trong Thần Linh của Thiên Chúa chúng ta" (1Cor.6:11; x.Thess 2:13; 1Pet.1:2).

Cũng phải nói như thế đối với việc thánh hiến mà, nhờ Chúa Thánh Thần, làm cho thành phần lãnh nhận bí tích rửa tội trở nên "một vương quốc tư tế đối với Thiên Chúa cũng là Cha của họ" (x.Rev.1:6,3:10,20:6). Bức Thư thứ nhất của thánh Phêrô hoàn toàn khai triển sự thật này: "Như những viên đá sống động, chính anh em được xây thành một ngôi nhà thiêng liêng, thành một chức phận tư tế thánh hảo, để nhờ Chúa Giêsu Kitô hiến dâng những hy tế linh thiêng đáng Thiên Chúa chấp nhận" (1Pet.2:5). "Anh em là một chủng tộc được tuyển chọn, một giòng dõi tư tế vương giả, một dân tộc thánh hảo, dân riêng của Thiên Chúa, để anh em công bố những việc lạ lùng của Ngài, Ðấng đã kêu gọi anh em từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Pet.2:9). Chúng ta biết rằng: "họ đã được tỏ cho biết" bằng tiếng nói của Phúc Âm "nhờ Thánh Thần được sai đến từ trời" (1Pet.1:12).

Hiến Chế Lumen Gentium của Công Ðồng Chung Vaticanô II đã diễn đạt sự thật này bằng những lời sau đây: "Chúa Kitô, vị thượng tế được chọn giữa loài người (x.Heb.5:1-5), đã làm cho dân mới thành 'một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa, Cha của Người' (Rev.1:6;x.5:9-10). Thành phần được rửa tội, nhờ việc tái sinh và xức dầu của Chúa Thánh Thần, được thánh hiến thành một tòa nhà thiêng liêng và một chức phận tư tế thánh hảo, để nhờ tất cả những việc làm là những việc làm của Kitô hữu, họ có thể hiến dâng các hiến tế thiêng liêng và công bố quyền năng của Ðấng đã kêu gọi họ từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng (x.1Pet.2:4-10)" (đoạn 10).

Ở đây chúng ta tiến đến chính yếu tính của Giáo Hội là Dân Thiên Chúa và là một cộng đồng các thánh, một đề tài chúng ta sẽ trở lại vào bài giáo lý lần tới. Tuy nhiên, những câu được trích dẫn ở đây cũng đã làm sáng tỏ việc xức dầu, tức quyền năng và tác động của Chúa Thánh Thần, được thể hiện trong điều kiện thánh thiện và thánh hiến của dân tộc mới.

(Bài Giáo Lý 13 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 16-8-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


20-Thánh Thần Hiện Xuống: Khai Mào cho Sứ Vụ của Giáo Hội

Trong Sắc Lệnh Ad Gentes của Công Ðồng Chung Vaticanô II về việc Truyền Giáo của Giáo Hội thì biến cố Hiện Xuống và việc khai mào lịch sử của Giáo Hội được liên kết chặt chẽ với nhau: "Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần (Chúa Thánh Thần) đã hiện xuống trên các môn đệ... Bởi thế kể từ Ngày Lễ Hiện Xuống này các 'Tông Ðồ Công Vụ' đã được bắt đầu" (đoạn 4). Do đó, nếu từ giây phút hạ sinh của mình, qua việc vào đời trong ngày Lễ Hiện Xuống, Giáo Hội tỏ ra mình là "truyền giáo", thì việc vào đời này là việc của Chúa Thánh Thần. Chúng ta còn có thể nói rằng Giáo Hội luôn luôn là như thế: Giáo Hội vẫn "ở trong tình trạng truyền giáo" (in statu missionis). Ðặc tính truyền giáo thuộc về chính yếu tính của Giáo Hội. Nó là một tính chất làm nên Giáo Hội Chúa Kitô, vì Thánh Thần đã làm cho Giáo Hội nên truyền giáo ngay từ ban đầu.

Phân tách bản văn của sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại biến cố Hiện Xuống (Acts 2:1-13) cho chúng ta thấy được chủ trương của công đồng trên đây là đúng, hợp với truyền thống của các vị giáo phụ Hội Thánh.

Chúng ta biết rằng các tông đồ và các môn đệ cùng với Mẹ Maria tụ họp tại nhà tiệc ly đã nghe thấy "một tiếng như gió thổi mạnh", và các vị thấy xuất hiện "những lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người" (x.Acts 2:2-3). Theo truyền thống Do Thái, lửa là dấu hiệu tỏ hiện đặc biệt của Thiên Chúa, Ðấng phán truyền để chỉ dạy, hướng dẫn và cứu độ dân của Ngài. Hình ảnh cuộc tỏ hiện huyền diệu ở núi Sinai vẫn còn tồn tại trong tâm hồn dân Yến Duyên và giúp cho họ hiểu được ý nghĩa của những thể thức thông đạt mới được hàm chứa nơi biểu hiệu đó, như cũng được chứng thực trong Jerusalem Talmud (xem Hag.2,77b,32; cũng xem Midrash Rabbah 5,9 về Exodus 4:27). (Phụ chú của người dịch: Jerusalem Talmud là cuốn sách ghi lại những giáo huấn của các bậc thày ở Palestina, khác với cuốn Babylonian Talmud). Cũng truyền thống Do Thái này đã dọn đường cho các tông đồ hiểu được rằng "các lưỡi" ám chỉ sứ vụ loan báo, chứng nhân và giảng dạy mà chính Chúa Giêsu đã ủy thác cho các vị. "Lửa" chẳng những liên hệ với lề luật Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã xác nhận và hoàn tất, nó còn liên hệ với chính Người nữa, với bản thân của Người, cũng như với đời sống, cái chết và phục sinh của Người, vì Người là một tân Huấn Dụ Thư cần phải được loan báo cho thế giới. Theo tác động của Chúa Thánh Thần, "những lưỡi lửa" đã trở nên ngôn từ phát ra từ môi miệng các vị tông đồ: "Họ được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng lạ như Thần Linh làm cho họ nói" (Acts 2:4).

Trong lịch sử Cựu Ước cũng đã có những tỏ hiện tương tự như thế khi thần linh Chúa được ban cho để tuyên phán sấm ngôn (x.Mic.3:8; Is.61:1; Zech.7:12; Neh.9:30). Tiên tri Isaia đã cho chúng ta biết rằng một trong những thần Seraphim bay đến với tiên tri, "cầm trong tay một cục than hồng mà ngài đã gắp trên bàn thờ". Thiên thần đã chạm cục than này vào môi tiên tri để thanh luyện tiên tri khỏi mọi lầm lỗi, trước khi Chúa ủy thác cho tiên tri sứ vụ nói với dân của Ngài (x.Is.6:6-9ff). Các vị tông đồ đã nhận thức được biểu hiệu truyền thống này, và vì thế đã thấu hiểu được ý nghĩa của điều đang xẩy đến cho các vị trong ngày Lễ Ngũ Tuần hôm ấy, như thánh Phêrô đã chứng thực trong bài diễn từ đầu tiên của thánh nhân, khi thánh nhân nối kết tặng ân nói tiếng lạ với lời tiên tri Joel liên quan đến việc sau này Thần Linh Thiên Chúa được tuôn tràn xuống để làm cho các môn đệ tuyên phán sấm ngôn (Acts 2:17ff; Joel 3:1-5).

Nhận lãnh "những lưỡi lửa" (Acts 2:3), mỗi một vị tông đồ đã lãnh nhận một tặng ân đa dạng của Thần Linh, như những người đầy tớ trong một dụ ngôn Phúc Âm đều lãnh nhận một số tài năng để sinh hoa kết trái (x.Mt.25:14ff). "Lưỡi" ấy là dấu hiệu nhận thức nơi các tông đồ và các vị giữ lấy nhận thức này để thực hiện việc truyền giáo như các vị được kêu gọi và dấn thân làm. Vừa khi các vị được "tràn đầy Thánh Thần, các vị liền bắt đầu nói tiếng lạ, như Thần Linh ban cho các vị nói". Quyền năng của các vị do Thần Linh mà có, và các vị thực hiện công việc được ủy nhiệm cho các vị theo sự thôi thúc nội tâm từ trời.

Sự kiện này xẩy ra ở nhà tiệc ly, thế nhưng, chẳng bao lâu thì việc công bố truyền giáo và việc nói tiếng lạ hay tặng ân nói tiếng lạ đã vượt ra khỏi nơi các vị trú ngụ. Hai biến cố phi thường đã diễn ra, và cả hai đã được sách Tông Ðồ Công Vụ diễn thuật. Trước hết sách Tông Ðồ Công Vụ diễn thuật tặng ân nói tiếng lạ làm cho các vị nói lên những lời liên quan đến hiện tượng đa ngôn ngữ, và các vị cũng thường dùng tặng ân này để chúc tụng Thiên Chúa (x.Acts 2:11). Ðám đông tuôn tụ lại theo tiếng động và lạ lùng trước sự thể như thế là "những người Do Thái đạo đức" đến Gialiêm dự lễ Vượt Qua. Họ thuộc về "mọi quốc gia dưới gầm trời này" (Acts 2:5), và họ nói ngôn ngữ của các dân tộc mà họ, mặc dù vẫn là người Do Thái, được hội nhập với tính cách dân sự và theo hành chánh. Thế mà đám đông tụ họp chung quanh các tông đồ đó "đã bị ngỡ ngàng vì mỗi một người trong họ đều nghe thấy các vị nói tiếng thổ âm của mình. Họ lạ lùng hỏi nhau mà nói: 'Tất cả những vị này không phải là nói tiếng xứ Galilê ư? Vậy mà sao mỗi người chúng ta lại nghe thấy tiếng điạ phương của mình nhỉ?'" (Acts 2:6-8). Trình thuật tới đây, thánh Luca liền phác họa một bản đồ của miền Ðịa Trung Hải, nơi sinh sống của thành phần Do Thái đạo đức có mặt hôm đó. Trình thuật như thế chẳng khác gì thánh nhân muốn nói lên rằng thế giới của thành phần trở về cùng Chúa Kitô là thế giới nghịch đảo với tháp Babel đa ngôn ngữ cũng như với thành phần được nói đến trong sách Khởi Nguyên (11:1-9), trong số những thành phần được nhắc đến, kể cả "những khách hành hương từ Rôma", gồm có "những người Parthia, Media, Elamita và các dân cư Mesopotamia, Giuđêa và Capacêđônia, Pontia và Á Châu, Phrygia và Phamphilia, Ai Cập và các vùng Lybia thuộc Cyrênê, cùng các khách hành hương từ Rôma, cả người Do Thái lẫn tân tòng, người Cêtan và Ả Rập" (Acts 2:11-19). Như muốn làm sống lại biến cố đã xẩy ra tại Gialiêm được Kitô hữu sơ khai lưu truyền, thánh Luca đã đặt vào miệng lưỡi của tất cả mọi thành phần ấy những lời này: "Chúng ta nghe thấy (các tông đồ chính gốc Galilêa) nói bằng ngôn ngữ riêng của chúng ta về các công việc quyền năng của Thiên Chúa" (Acts 2:110.

Biến cố của ngày hôm ấy quả là một mầu nhiệm mang đầy những ý nghĩa. Chúng ta có thể nhận thấy nơi ngày này dấu hiệu phổ quát của Kitô giáo cũng như dấu hiệu nói lên đặc tính truyền giáo của Giáo Hội. Tác giả sách thánh tỏ cho chúng ta thấy điều này, để nhận thấy rằng sứ điệp cần phải được rao giảng cho hết mọi dân nước. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng nhúng tay vào việc bảo đảm làm cho mỗi người phải hiểu ít là một chút gì đó theo ngôn ngữ của mình: "Mỗi người trong chúng ta nghe bằng ngôn ngữ bản xứ của mình" (Acts 2:8). Ngày nay, chúng ta muốn nói đến một sự thích ứng vào tình trạng ngôn ngữ và văn hóa của mỗi người. Thế nên, người ta có thể thấy trong toàn bộ biến cố này một hình thức căn bản về việc hội nhập văn hóa được Chúa Thánh Thần làm cho thành đạt.

Một sự kiện phi thường khác là lòng can đảm đã làm cho thánh Phêrô cùng với 11 vị "đứng lên" và bắt đầu giải thích ý nghĩa liên quan đến kitô vụ và thánh linh vụ điều đang xẩy ra trước mắt đám đông ngỡ ngàng đó (Acts 2:14ff). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này khi tới lúc của nó. Ở đây chúng ta suy niệm đúc kết về mối tương khắc (một thứ so sánh đảo nghịch) giữa những gì xẩy ra trong ngày Lễ Hiện Xuống với những gì chúng ta đọc thấy trong sách Khởi Nguyên về vấn đề Tháp Babel (x.Gen.11:1-9). Nơi đoạn sách Khởi Nguyên này, chúng ta thấy sự kiện phân tán ngôn ngữ, và do đó, phân tán con người là thành phần không hiểu nhau khi nói các ngôn ngữ khác nhau. Ngược lại, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, theo tác động của Thần Linh là "Thần Chân Lý" (x.Jn.15:26), cái khác biệt ngôn ngữ đã không còn ngăn trở việc hiểu biết những gì được công bố nhân danh Thiên Chúa để chúc tụng Thiên Chúa nữa. Nhờ đó, mối liên hệ trong niềm hiệp nhất loài người với nhau đã vượt ra ngoài biên giới ngôn ngữ và văn hóa, một niềm hiệp nhất được Chúa Thánh Thần mang lại cho thế giới.

Thế là hoàn tất ngay từ đầu những lời Chúa Kitô nói với các tông đồ trước khi Người lên cùng Cha: "Các con sẽ nhận được quyền lực khi Thánh Thần xuống trên các con; và các con sẽ là những chứng nhân của Thày ở Gialiêm, khắp Giuđa và Galilêa, cho đến tận cùng trái đất" (Acts 1:8).

Công Ðồng Chung Vaticanô II nhận định: "Giáo Hội được Thần Linh hướng dẫn vào tất cả sự thật và được Ngài liên kết trong mối hiệp thông cũng như bằng những tác vụ, thì Ngài cũng trang bị cũng như điều khiển bằng những tặng ân phẩm trật và đặc sủng" (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 4), "để ban sự sống làm hồn sống cho các cơ cấu của hội thánh, và để từ từ làm nẩy sinh trong lòng tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thôi thúc chính Chúa Kitô" (Sắc Lệnh Ad Gentes, đoạn 4). Từ Chúa Kitô, đến các tông đồ, sang Giáo Hội, tới toàn thế giới: theo tác động của Chúa Thánh Thần mà tiến trình liên kết phổ quát trong chân lý và yêu thương có thể và phải được khai mở.

(Bài Giáo Lý 17 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 20-9-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


21-Thánh Thần Hiện Xuống: Vương Quốc Chúa Kitô Hiện Diện trong Lịch Sử

Những suy niệm về thánh linh học đã từ từ hé mở cho chúng ta thấy Chúa Thánh Thần đã tỏ mình ra bằng quyền năng cứu độ của Ngài trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Ngài đã tỏ mình ra như là "một Ðấng An Ủi khác" (x.Jn.14:16), Ðấng "nhiệm xuất từ Cha" (Jn.15:26), Ðấng "Cha nhân danh Con sai đến" (x.Jn.14:26). Ngài đã tỏ mình ra như "Một Vị" khác biệt với Cha và Con, mà lại đồng bản thể với Cha và Con. Ngài đã tỏ mình ra qua Con cho dù Ngài vẫn vô hình. Ngài đã tỏ mình ra qua quyền năng và tác động được gán cho Ngài, khác với quyền lực và tác động của Con song lại là quyền lực và tác động liên kết chặt chẽ với Ngài. Ðó là Thánh Thần Chúa Kitô đã nói đến vào trước ngày khổ nạn của Người: "Ngài sẽ tôn vinh Thày vì Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:14). "Ngài sẽ không tự mình mà nói, mà Ngài nói những gì Ngài nghe thấy, và Ngài sẽ truyền đạt cho các con những gì phải đến" (Jn.16:13).

Ðấng An-Ủi-Dẫn-Dụ không đến chiếm chỗ của Chúa Kitô. Ngài đến sau Chúa Kitô là do hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô. Ngài đến để Chúa Kitô có thể ở trong Giáo Hội và hoạt động nơi Giáo Hội như Ðấng Cứu Chuộc và như Chúa.

Tôi đã viết trong Thông Ðiệp Dominum et Vivificantem: "Như thế, trong công cuộc cứu chuộc, giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Kitô luôn luôn hiện diện một mối liên hệ sâu sa mà nhờ đó Thần Linh hoạt động nơi lịch sử loài người như 'một Ðấng An Ủi khác', để bảo đảm mãi mãi cho việc truyền đạt và truyền bá Tin Mừng do Chúa Giêsu Nazarét mạc khải. Bởi vậy, trong Chúa Thánh Thần, nơi mầu nhiệm và hoạt động của Giáo Hội, làm cho Ðấng Cứu Thế cùng với công cuộc cứu độ của Người liên tục hiện diện theo lịch sử trên thế gian, cho vinh quang của Chúa Kitô chiếu tỏa, như những lời sau đây chứng thực: 'Ngài (Thần Chân Lý) sẽ tôn vinh Thày, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thày mà truyền đạt cho các con'" (đoạn 7).

Chân lý được chứa đựng trong lời Chúa Giêsu hứa này đã được sáng tỏ trong Ngày Lễ Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần "bày tỏ" trọn vẹn mầu nhiệm Chúa Kitô, sứ vụ thiên sai cũng như cứu chuộc của Người. Giáo Hội sơ khai đã nhận thức được sự kiện này, như bài giảng thứ nhất của thánh Phêrô cũng như nhiều đoạn sau đó được sách Tông Ðồ Công Vụ ghi nhận nói lên điều đó.

Một điều đáng chú ý là, để trả lời cho câu hỏi "Chúng tôi phải làm gì đây?" của thành phần nghe mình trong Ngày Lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô đã kêu gọi họ: "Mỗi người trong anh em hãy thống hối và lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô" (Acts 2:38). Ðể sai các tông đồ đi khắp thế gian, Chúa Giêsu đã truyền cho các vị ban phép rửa "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt.28:19). Thánh Phêrô đã trung thực làm vang vọng lời của Thày mình, và kết qủa là, vào dịp đó, đã có "chừng ba ngàn người" (Acts 2:41) được rửa tội "nhân danh Chúa Giêsu Kitô" (Acts 2:38). Lời diễn tả "nhân danh Chúa Giêsu Kitô" này, cùng với đức tin, nói lên yếu tố then chốt cho việc đạt đến mức độ trọn vẹn của mầu nhiệm Ba Ngôi, mà nhờ đó con người trở nên sở hữu của Chúa Kitô như những người được thánh hiến cho Người. Theo chiều hướng ấy, sách Tông Ðồ Công Vụ nói đến việc kêu cầu danh Chúa Giêsu để được cứu rỗi (x.2:21,3:16,4:10,8:16,10:48,19:5,22:16). Trong các bức thư của mình, Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh cùng một điều kiện để được cứu rỗi (x.Rm.6:3; 1Cor.6:11; Gal.3:27; cũng xem James 2:7). Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã hứa ban tặng ân Ba Ngôi khi Người nói với các tông đồ: "Thần chân lý... sẽ tôn vinh Thày, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thày mà truyền đạt cho các con. Tất cả những gì Cha có là của Thày; bởi thế Thày mới nói Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:13-15). Tặng ân Ba Ngôi này được hiện thực nơi phép rửa "trong Thánh Thần", được hiến ban "nhân danh Chúa Kitô".

Trong tất cả hoạt động của mình thực hiện sau ngày Lễ Hiện Xuống dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đều hướng về Chúa Kitô như căn do, nguyên lý và tác quyền của chúng. Thế nên, trong việc chữa người què "gần cổng đền thờ gọi là Cửa Ðẹp" (Acts 3:2), thánh Phêrô nói với anh ta: "Tôi không có vàng bạc, song tôi cho anh cái tôi có; nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazarét, anh hãy bước đi!" (Acts 3:6). Phép lạ này đã lôi kéo nhiều người đến trụ lang Solomon, và thánh Phêrô đã nói với họ, như trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, về Chúa Kitô tử giá "Ðấng Thiên Chúa làm cho sống lại từ trong kẻ chết, và chúng tôi là những chứng nhân cho sự việc này" (Acts 3:15). Chính đức tin nơi Chúa Kitô đã chữa lành người què: "Ðức tin nơi danh Người đã làm cho người này mạnh khỏe như anh em thấy và biết đấy; và đức tin vào Chúa Giêsu đã làm cho người này hoàn toàn lành mạnh trước mặt tất cả qúi vị đây" (Acts 3:16).

Khi các tông đồ lần đầu tiên được triệu đến trước Hội Ðồng Do Thái, "thánh Phêrô, được đầy Thánh Thần", trước mặt "các vị lãnh đạo dân chúng và các kỳ lão" (Acts 4:8) lại làm chứng cho Chúa Kitô tử giá và phục sinh. Thánh nhân đã tóm tắt câu trả lời của mình cho Hội Ðồng Do Thái như sau: "Không có ơn cứu độ nơi một ai khác, vì không có một danh hiệu nào dưới gầm trời này được ban cho con người để nhờ đó chúng ta được cứu độ" (Acts 4:12). Khi các vị được thả về, tác giả Tông Ðồ Công Vụ kể cho chúng ta biết rằng "các vị đến với đồng bạn của mình" rồi cùng với họ chúc tụng Chúa (Acts 4:23-24). Bấy giờ lại diễn ra một biến cố Hiện Xuống nho nhỏ: "Khi họ cầu nguyện, nơi họ đang tụ họp chuyển động; họ được đầy Thánh Linh và hiên ngang rao giảng lời Thiên Chúa" (Acts 4:31). Sau đó, trong cộng đồng Kitô hữu tiên khởi và trước mặt dân chúng, "bằng quyền năng cao cả, các tông đồ đã làm chứng cho việc phục sinh của Chúa Giêsu và mọi người đều nhận được ân sủng dồi dào" (Acts 4:33). Thày sáu Stêphanô là một thí dụ điển hình về việc hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô. Thánh nhân là vị tử đạo tiên khởi, và chúng ta đọc thấy đoạn về cái chết của thánh nhân: "Stêphanô, đầy Thánh Thần, ngước mắt lên trời và thấy vinh quang Thiên Chúa, có Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa; ngài nói: 'Kìa, tôi xem thấy các tầng trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa'. Thế nhưng, họ la lớn lên, bịt tai lại và cùng nhau xông vào ngài" (Acts 7:55-59).

Những đoạn trình thuật này hay tương tự như thế trong sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho thấy giáo huấn của các tông đồ, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, được bắt nguồn từ và đặt nền tảng nơi Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần đã làm cho các tông đồ và các môn đệ của các ngài đi sâu vào chân lý của Phúc Âm do Chúa Kitô loan báo, nhất là vào mầu nhiệm vượt qua của Người. Ngài khêu lên nơi họ lòng mến Chúa Kitô đến độ hy hiến mạng sống mình. Ngài đã bảo đảm việc Giáo Hội, Ngay từ ban đầu, làm cho vương quốc do Chúa Kitô hình thành trị đến. Theo tác động của Chúa Thánh Thần cùng với việc hợp tác của các tông đồ, các vị thừa kế các ngài và toàn thể Giáo Hội, vương quốc này sẽ phát triển trong lịch sử cho đến tận cùng thời gian. Không có một dấu vết nào trong các Phúc Âm, trong sách Tông Ðồ Công Vụ hay trong những bức thư của các tông đồ nói về một thứ mộng tưởng thánh linh chủ trương rằng vương quốc của Cha (Cựu Ước) và của Chúa Kitô (Tân Ước) phải được tiếp nối bởi vương quốc của Thánh Thần, một vương quốc được biểu hiệu bằng những chủ trương của "các thành phần thần khí", bất chấp mọi luật lệ, kể cả lề luật phúc âm được Chúa Giêsu rao giảng. Như Thánh Tôma Aquinô viết: "luật cũ không phải chỉ bởi Chúa Cha, mà còn cả Chúa Con nữa, vì luật cũ ám chỉ về Chúa Kitô... Cũng thế, luật mới không phải chỉ bởi Chúa Kitô, mà còn cả Chúa Thánh Thần nữa, theo lời của Thánh Phaolô: 'Luật thần linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô...' (Rm.8:22). Vì thế, chúng ta không được trông đợi một thứ luật khác, một thứ luật Thánh Thần" (Summa Theol.I,II,q.106,a.4,ad3). Vào thời Trung Cổ, có một số người, bị ảnh hưởng bởi những dự đoán khải huyền của đan sĩ Gioakim đạo hạnh thành Fiore người Calabrian (d.1202), đã mơ tưởng và tiên đoán về một "vương quốc thứ ba" sẽ được hiện thực (x.Mt.14:4) để canh tân hoàn vũ trong việc sửa soạn cho ngày tận thế đã được Chúa Giêsu báo trước. Thế nhưng, Thánh Tôma đã nhấn mạnh hơn nữa là "ngay từ ban đầu của việc rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã phán: 'Nước trời đã gần đến' (Mt.4:17). Bởi thế hết sức đần độn mới nói Phúc Âm của Chúa Giêsu không phải là Phúc Âm của nước trời" (Summa Theol., I,II,q.106,a.4,ad 4). Ðây là một trong vài trường hợp làm cho vị Tiến Sĩ thánh thiện đã phải dùng đến những lời nặng nề để luận xét một ý kiến sai lầm như vậy, vì trong thế kỷ 13 cuộc tranh luận này rất sôi nổi, một cuộc tranh luận được bùng lên bởi những lời lẽ cuồng si của "các thành phần thần khí". Họ làm lệch lạc đi giáo thuyết của Gioakim, và thánh nhân đã thấy được sự nguy hiểm nơi những chủ trương biệt lập và đổi mới dựa trên giả tưởng được đặc sủng của họ. Họ đã tác hại đến nền tảng của Phúc Âm cũng như của vương quốc Thiên Chúa chân thật. Do đó, họ đã phải trở về với việc đòi hỏi cần có một "cuộc rao giảng Phúc Âm hoàn toàn thành đạt trên khắp thế giới, tức là Giáo Hội phải được thành lập nơi mọi dân nước. Và như thế thì... Phúc Âm chưa được rao giảng trên toàn thế giới; tận thế sẽ không xẩy ra sau việc rao giảng Phúc Âm này" (Summa Theol., I,II,q.106,a.4 ad4).

Ðó cũng là truyền thống tư tưởng của Giáo Hội ngay từ ban đầu, căn cứ vào bài giảng của thánh Phêrô cũng như của các tông đồ khác. Trong những bài giảng này, người ta không thấy một u mờ biệt phân nào giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Trái lại, lời các ngài giảng dạy xác nhận điều Chúa Giêsu đã nói về Ðấng An Ủi trong Bữa Tiệc Ly: "Ngài sẽ không tự mình mà nói, nhưng Ngài nói những gì Ngài nghe thấy, và Ngài sẽ truyền đạt cho các con những gì phải xẩy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thày, vì Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:13-14).

Tới đây, chúng ta không thể nào không vui mừng khi thấy thần học Chính Thống Ðông Phương có một số suy tưởng về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Mối liên hệ này đã được thể hiện sâu xa nhất nơi Chúa-Kitô-Thần-Khí sau biến cố phục sinh và Hiện Xuống, hợp với những lời của Thánh Phaolô: "tân Adong đã trở nên một thần linh ban sự sống" (1Cor.15:45). Ðây là một lãnh vực mở ra để học hỏi và chiêm ngắm mầu nhiệm về cả Kitô học và Ba Ngôi học. Thông Ðiệp Dominum et Vivificantem viết: "Việc Thiên Chúa tự mạc khải hết mình ra cách trọn vẹn được hoàn thành nơi Chúa Kitô và được minh chứng bởi lời các tông đồ rao giảng, vẫn còn tiếp tục được tỏ hiện nơi Giáo Hội qua sứ vụ của vị An Ủi vô hình là Thần chân lý. Sứ vụ của Ngài và sứ vụ của Chúa Kitô gắn bó với nhau biết bao, một sứ vụ hoàn toàn xuất phát từ sứ vụ của Chúa Kitô, bằng cách liên kết và bao bọc những hoa trái cứu độ trong giòng lịch sử, một sứ vụ được diễn tả bằng động từ 'lấy': 'Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con'. Như để cắt nghĩa những lời 'Ngài sẽ lấy' bằng cách diễn tả rõ ràng nguồn mạch sự hiệp nhất thần linh ba ngôi, Chúa Giêsu đã thêm: "Tất cả những gì Cha có là của Thày; bởi thế Thày mới nói là Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con'. Bằng chính việc 'lấy' những gì 'nơi Thày' này mà Ngài cũng sẽ rút ra 'những gì là của Cha'" (đoạn 7).

Chúng ta hãy ý thức rõ ràng như thế này: mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện nơi nhân loại trong vương quốc của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần là một chân lý tuyệt đẹp và mừng vui nhất Giáo Hội có thể trao ban cho thế giới.

(Bài Giáo Lý 22 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 22-11-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


22-Thánh Thần Hiện Xuống: Ðời Sống của Giáo Hội Sơ Khai

Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một biến cố chuyên nhất, song cũng không phải thế là hết. Trái lại, đó mới là khởi đầu cho một tiến trình kéo dài mà những giai đoạn đầu tiên đã được ghi nhận nơi Sách Tông Ðồ Công Vụ. Những giai đoạn này trước hết liên quan đến đời sống của Giáo Hội tại Gialiêm. Sau khi đã minh chứng cho Chúa Kitô cũng như cho Chúa Thánh Thần làm cho một một số trở lại đầu tiên, các tông đồ đã tự vệ trước Hội Ðồng Do Thái. Các vị đã tự vệ quyền hiện hữu của cộng đồng đầu tiên cho các môn đệ và tín đồ của Chúa Kitô. Sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho chúng ta biết rằng ngay trước mặt các kỳ lão, các tông đồ cũng đã được hỗ trợ bởi cùng một quyền lực các vị đã lãnh nhận trong ngày Lễ Ngũ Tuần: các vị "được đầy Thánh Thần" (như ở đoạn Acts 4:8).

Quyền lực Thần Linh này tỏ hiện ở một vài thời điểm cũng như ở một số phương diện đời sống của cộng đồng Gialiêm được Sách Tông Ðồ Công Vụ đặc biệt đề cập tới.

Chúng ta hãy cùng nhau tóm gọn chúng như sau, bắt đầu từ buổi cầu nguyện chung cộng đồng. Từ Hội Ðồng Do Thái trở về, các tông đồ đã tường thuật cho anh em mình điều các vị nói với các trưởng tế và kỳ lão. "Sau đó họ đồng thanh dâng lên Thiên Chúa..." (Acts 4:24). Trong buổi cầu nguyện tuyệt vời của mình, như được thánh Luca ghi nhận, họ đã nhận biết ý định thần linh nơi sự bắt bớ, khi nhớ lại lời Thiên Chúa đã phán "qua Chúa Thánh Thần" (4:25). Họ đã trích lại lời Thánh Vịnh 2 (từ câu 1 đến câu 2) về việc các vua chúa cùng các dân nước nổi cơn lên "chống lại Chúa và Ðấng Ngài Xức Dầu". Họ đã nói lên những lời ấy để ám chỉ về Chúa Giêsu: "Trong thành này qủa thật cả Hêrôđê và Phongxiô Philatô cùng với Dân Ngoại và dân Yến Duyên đã hợp nhau chống lại Giêsu người tôi tớ thánh của Chúa, Ðấng Chúa đã xức dầu, để thực hiện những gì bàn tay Chúa và ý định của Chúa đã tiền định phải xẩy ra. Vậy giờ đây, Lạy Chúa, xin hãy nhìn đến những gì họ đe dọa mà ban cho các tôi tớ Chúa đây được hiên ngang rao giảng lời Chúa" (Acts 4:25-29). Ðây là một buổi cầu đầy đức tin và lòng phó thác cho Thiên Chúa, để rồi, vào lúc kết thúc, lại xẩy ra một cuộc tỏ hiện mới của Thần Linh và một biến cố Hiện Xuống mới, như thực sự đã diễn tiến.

"Khi họ cầu nguyện xong, nơi họ tụ họp chuyển động" (Acts 4:31). Bấy giờ đã xẩy ra một cuộc tỏ hiện mới của quyền lực Chúa Thánh Thần mà giác quan có thể thấy được như đã diễn tiến trong Ngày Lễ Hiện Xuống đầu tiên. Hơn nữa, việc đề cập đến địa điểm tụ họp của cộng đồng này nhấn mạnh tính cách tương tự như ở nhà tiệc ly. Ðiều này nói lên rằng Chúa Thánh Thần muốn cả cộng đồng được bao gồm trong tác động biến đổi Ngài làm. Bấy giờ "tất cả được đầy Thánh Thần": chẳng những nơi các tông đồ là những vị đương đầu với thành phần lãnh đạo dân chúng mà còn nơi tất cả mọi "anh em" (4:23) cùng tụ họp lại với các vị nữa, thành phần làm nên nhân trung chính yếu tiêu biểu nhất cho cộng đồng tiên khởi. Sách Tông Ðồ Công Vụ cho chúng ta thấy rằng, lòng nhiệt thành bùng lên là bởi được tràn đầy Thánh Thần, "họ đã hiên ngang rao giảng lời Thiên Chúa" (Acts 4:31). Như thế là lời họ cầu cùng Chúa đã được đáp ứng: "Xin ban cho các tôi tớ Chúa biết hết sức hiên ngang rao giảng lời Chúa" (Acts 4:29).

Tiểu biến cố Hiện Xuống này vì thế đã làm nên một khởi sự mới trong sứ vụ truyền bá Phúc Âm sau khi Hội Ðồng Do Thái xét xử và tống giam các tông đồ. Quyền lực của Chúa Thánh Thần tỏ hiện đặc biệt qua sự hiên ngang được thành phần Hội Ðồng Do Thái nhận thấy nơi thánh Phêrô và Gioan, "bởi họ thấy rằng hai ông là những người thất học, tầm thường" (Acts 4:13). Rồi Sách Tông Ðồ Công Vụ lại nhấn mạnh: "các vị được đầy Thánh Thần và hiên ngang rao giảng lời Thiên Chúa".

Hơn nữa, cả đời sống của cộng đồng sơ khai ở Gialiêm đã mang những dấu hiệu của Chúa Thánh Thần là Ðấng hướng đạo và soi động vô hình. Thánh Luca đã cho chúng ta cái nhìn đại quan về cộng đồng này một mẫu thức của các cộng đồng Kitô giáo sẽ được hình thành qua các thế kỷ. Mẫu thức này bao gồm cả các giáo xứ và các hội dòng là những cơ cấu làm cho hoa trái của việc "đầy tràn Thánh Thần" được thể hiện bằng một hình thức cụ thể qua một số khuôn mẫu tổ chức căn bản kết lại thành yếu tố cho luật Giáo Hội.

Có thể kể đến những khuôn mẫu chính yếu sau đây: "hiệp thông" (koinonia) trong huynh đệ và yêu thương (x.Acts 2:42), đến nỗi có thể nói về Kitô hữu rằng họ "đồng tâm nhất trí" (Acts 2:32); tinh thần cộng đồng trong việc dâng nộp sản vật của mình cho các tông đồ để các ngài phân phối tùy theo nhu cầu của từng người, hay trong cả việc sử dụng theo chủ quyền của mình cũng "không ai cho rằng họ có gì là của riêng họ" (4:32;x.2:44-45,4:34-37); hiệp thông trong "việc chuyên chú vào giáo huấn của các tông đồ" (Acts 2:42) cũng như vào "việc các ngài làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô phục sinh" (Acts 4:33); hiệp thông trong "việc bẻ bánh" (Acts 2:42), tức là trong bữa ăn chung theo truyền thống Do Thái mà Kitô giáo lợi dụng đưa nghi thức Thánh Thể vào (x.1Cor.11:16,11:24; Lk.22:19,24:35); hiệp thông trong các buổi cầu nguyện (x.Acts 2:42,46-47). Lời Thiên Chúa, Thánh Thể, nguyện cầu và bác ái huynh đệ đã kiến tạo nên một thiết diện bốn chiều, làm sống động, phát triển và vững mạnh cộng đồng Giáo Hội.

Về phần mình, các tông đồ "với quyền năng mạnh mẽ đã làm chứng cho việc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô" (4:33). Các vị đã thực hiện "nhiều sự lạ và dấu lạ" (5:12), như các vị đã xin trong buổi cầu nguyện ở nhà tiệc ly: "Xin Chúa hãy giang tay của Chúa ra để chữa lành, và hãy làm những sự lạ cùng dấu lạ vì danh Giêsu tôi tớ Chúa" (Acts 4:30). Chúng là những sự lạ cho việc hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần, Ðấng mà toàn thể đời sống của cộng đồng sơ khai phải căn cứ vào. Ngay cả tội lỗi của Ananias và Sapphira là hai vợ chồng đã giữ lại một phần trong tổng số gia tài họ bán đi để dâng cho các tông đồ và cho cộng đồng mà lại làm như dâng hết tất cả vậy, cũng bị thánh Phêrô coi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần: "Ngươi đã lừa dối Chúa Thánh Thần" (5:3); "Tại sao các ngươi lại cùng nhau thử thách Thần Linh của Thiên Chúa?" (Acts 5:9). Ðây không phải là trường hợp "tội phạm đến Chúa Thánh Thần" theo nghĩa Phúc Âm nói đến (x.Lk.12:10) và là tội đã được lưu lại nơi luân lý của Giáo Hội cũng như nơi các sách giáo lý. Mà là một tội không còn hiệp nhất với Thần Linh bằng mối giây an bình, như Thánh Phaolô nói (Eph.4:3). Bởi thế, phải thú nhận rằng Chúa Thánh Thần là linh hồn của cộng đồng Kitô giáo trong đức ái.

Việc nhận thức sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ nơi việc chọn lựa 7 thày sáu, những nam nhân "đầy Thần Linh và khôn ngoan" (Acts 6:3), đặc biệt là Stêphanô, "một con người đầy đức tin và Thánh Thần" (Acts 6:5). Thánh nhân đã bắt đầu nhiệt thành, hăng hái và hiên ngang giảng dạy về Chúa Giêsu Kitô rất sớm, thực hiện "những dấu lạ và sự lạ trong dân chúng" (Acts 6:8). Gây cho một số người Do Thái vốn ra mặt chống đối mình phải nổi giận và ghen tức, thánh Stêphanô vẫn không thôi giảng dạy và cũng không ngần ngại tố cáo đối phương của mình là những người thừa kế cha ông mình trong việc "cưỡng cự lại Thánh Thần" (Acts 7:51). Bởi thế thánh nhân đã hớn hở đón nhận ngành lá tử đạo, như chúng ta đọc thấy trong Sách Tông Ðồ Công Vụ: "Ðầy Thánh Thần, Stêphanô ngước mắt lên trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa..." (Acts 7:55). Thánh nhân đã bị ném đá chết trong tư thế đó. Như thế là Giáo Hội sơ khai, theo tác động của Thánh Thần, đã cho thêm việc tử đạo vào kinh nghiệm hiệp thông của mình.

Cộng đồng Gialiêm được kết cấu bởi nam nhân và nữ giới gốc Do Thái, như chính các vị tông đồ và Mẹ Maria. Chúng ta không thể quên sự kiện ấy, mặc dù sau này thành phần Kitô hữu này, sau khi thánh Phêrô lên đường đi Rôma, tập trung lại bên thánh Giacôbê, rồi bị phân tản và dần dần tiêu tán. Tuy nhiên, những gì chúng ta biết được nơi Sách Tông Ðồ Công Vụ đó phải khơi dậy trong lòng chúng ta niềm tôn kính và tri ân đối với những "người anh chị em lão thành" xa xưa ấy, vì họ thuộc về thành phần ở Gialiêm tỏ lòng mộ mến các tông đồ (x.Acts 2:47) là các vị "làm chứng cho việc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô" (Acts 4:33). Chúng ta cũng không quên là biến cố thánh Stêphanô bị ném đá và việc trở lại của thánh Phaolô, một Giáo Hội tiến triển từ nhóm cộng đồng tiên khởi ấy "đã được bình an và thiết lập khắp Giuđêa, Galilêa và Samaritanô; rồi được gia tăng nhờ bước đi trong sự kính sợ Chúa và trong niềm an ủi của Chúa Thánh Thần" (Acts 9:31).

Vậy những chương đầu tiên của sách Tông Ðồ Công Vụ chứng thực cho việc hoàn tất lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ ở nhà tiệc ly trước cuộc khổ nạn của Người: "Thày sẽ cầu cùng Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Ðấng An Ủi khác là Thần chân lý để ở cùng các con luôn mãi" (Jn.14:16-17). Như chúng ta thấy trước đây, "Ðấng Dẫn Dụ" (theo Hy ngữ là Parákletos) cũng có nghĩa là Ðấng Bầu Chữa hay Ðấng Bảo Vệ. Vừa là Ðấng Bầu Chữa hay Bảo Vệ vừa là Ðấng Dẫn Dụ, Chúa Thánh Thần tỏ mình hiện diện và làm việc trong Giáo Hội ngay từ những ngày đầu tiên của Giáo Hội trong lòng Do Thái giáo. Rồi chúng ta sẽ thấy rằng cũng vị Thần Linh này sẽ dẫn các tông đồ và thành phần hợp tác viên của các vị lan truyền cảm nghiệm Hiện Xuống cho tất cả mọi dân nước.

(Bài Giáo Lý 23 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày Thứ Tư, 29-11-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)