PHẦN BA: SỰ SỐNG ÐỜI ÐỜI

23-Phép Rửa Trong Thánh Thần

Bắt nguồn từ hiến tế thập giá, khi Giáo Hội khởi hành cuộc lữ thữ trần thế của mình nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống ở nhà tiệc ly vào ngày Lễ Ngũ Tuần, là lúc Giáo Hội khai mở cho "thời điểm của mình". "Ðó là thời điểm của Giáo Hội" như một cộng tác viên của Thần Linh trong sứ mệnh làm cho ơn cứu chuộc của Chúa Kitô từ đời nọ đến đời kia sinh hoa kết trái nơi nhân loại. Trong sứ mệnh này và trong việc hợp tác với Thần Linh, Giáo Hội nhận thức được tính cách bí tích mà Công Ðồng Chung Vaticanô II nói về Giáo Hội khi dạy rằng: "Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như là một bí tích hoặc như là một dấu hiệu và là một dụng cụ cho việc kết hợp chặt chẽ với Thiên Chúa cũng như cho việc hiệp nhất nơi cả loài người" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội "Lumen Gentium", đoạn 1). Tính cách bí tích này có một tầm quan trọng sâu xa liên quan đến mầu nhiệm Hiện Xuống là mầu nhiệm làm cho Giáo Hội kiên cường và đầy đặc sủng để sinh động một cách hữu hình giữa gia đình nhân loại.

Trong bài giáo lý này, chúng ta muốn chú trọng đến mối liên hệ giữa Lễ Hiện Xuống với bí tích rửa tội. Chúng ta biết rằng, tại sông Ðược Ðăng việc Chúa Thánh Thần đến đã được loan báo làm một với việc Chúa Kitô đến. Thánh Gioan đã liên kết hai việc đến này, và đã thực sự tỏ cho thấy mối liên hệ mật thiết của hai việc đến này khi thánh nhân nói về phép rửa: "Người (Chúa Kitô) sẽ rửa qúi vị trong Thánh Thần" (Mk.1:8). "Người sẽ rửa qúi vị trong Thánh Thần và trong lửa" (Mt.3:11). Mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và lửa này được thấy nơi sự tương giao của ngôn ngữ kinh thánh, một sự tương giao của ngôn ngữ kinh thánh trong Cựu Ước đã cho thấy lửa như là phương tiện được Thiên Chúa dùng để thanh tẩy lương tâm (x.Is.1:25, 6:5-7; Zech.13:9; Mal.3:2-3; Sir.2:5 v.v.). Về phần mình, phép rửa được thực hành nơi Do Thái giáo cũng như nơi các tôn giáo cổ thời khác là một việc dìm mình theo lễ nghi tượng trưng cho một cuộc thanh tẩy tái sinh. Thánh Gioan Tẩy Giả đã lợi dụng việc thực hành làm phép rửa trong nước này, để nhấn mạnh đến giá trị của nó không phải chỉ là một việc thuần túy theo lễ nghi mà còn là một việc thú nhận nữa, vì nó là việc "để thống hối" (x.Mt.3:2,6,8,11; Lk.3:10-14). Ngoài ra, nó còn là việc khai nhập để những ai lãnh nhận nó được trở nên môn đệ của Vị Tẩy Giả và cùng với thánh nhân hợp thành một cộng đoàn mang đặc tính mong đợi tối chung hướng về Ðấng Thiên Sai (x.Mt.3:2,11; Jn.1:13-14). Tuy nhiên, nó chỉ là một phép rửa trong nước. Vì thế, nó không có quyền năng thanh tẩy theo bí tích. Một quyền năng thanh tẩy theo bí tích như thế phải là đặc tính của phép rửa bằng lửa - một yếu tố tự nó mãnh lực hơn nước nhiều - do Chúa Kitô mang tới. Thánh Gioan đã công bố việc sửa soạn và chức phận biểu hiệu nơi phép rửa của thánh nhân liên quan đến Ðấng Thiên Sai, Ðấng làm phép rửa "trong Thánh Linh và trong lửa" (Mt.3:11;x.3,7,10,12; Jn.1:33). Thánh nhân còn cho biết Ðấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy trong lửa của Thần Linh những ai thật xứng đáng, những người được thu góp lại như "thóc trong kho" (Mt.3:12). Tuy nhiên, Người sẽ đốt đi "rơm rạ... trong lửa không hề tắt" (Mt.3:12), như trong "hỏa ngục" (x.Mt.18:8-9), một biểu hiệu tận cùng dành cho tất cả những ai không để cho mình được thanh tẩy (x.Is.66:24; Jdt.16:17; Sir.7:17; Zeph.1:18; Ps.21:10 v.v.).

Ðang khi thực hiện vai trò của mình như là một vị tiên tri và như là một vị tiền hô theo truyền thống của việc làm tiêu biểu trong Cựu Ước, một ngày kia Vị Tẩy Giả đã gặp gỡ Chúa Giêsu ở gần sông Dược Ðăng. Thánh nhân đã nhận ra Người là Ðấng Thiên Sai, đã công bố rằng Người là "Chiên Thiên Chúa, Ðấng gánh tội trần gian" (Jn.1:29), và đã làm phép rửa cho Người như Người yêu cầu (x.Mt.3:14-15). Tuy nhiên, thánh nhân cũng đã làm chứng cho vai trò thiên sai của Chúa Giêsu, Ðấng mà thánh nhân nhận mình chỉ là kẻ loan báo và làm tiền hô cho Người thôi. Chứng cớ này của thánh Gioan còn được phụ thêm bằng lời thánh nhân công bố với các môn đệ của thánh nhân cũng như với những kẻ nghe thánh nhân, về cảm nghiệm thánh nhân có được vào dịp ấy, có lẽ cũng là cảm nghiệm đã gợi lại nơi thánh nhân trình thuật trong sách Khởi Nguyên về việc kết thúc của trận hồng thủy (x.Gn.8:10): "Tôi đã thấy Thần Linh như chim câu từ trời xuống và đậu trên Người. Tự tôi không biết Người, thế nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước phán cùng tôi: 'Người nào mà ngươi thấy Thần Linh đậu xuống thì đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Linh...'" (Jn.1:32-33; x.Mt.3:16; Mk.1:8; Lk.3:22).

"Làm phép rửa trong Thánh Thần" nghiã là tái sinh nhân loại bằng quyền năng của Thần Linh Thiên Chúa. Ðó là phép rửa Ðấng Thiên Sai thực hiện. Như tiên tri Isaia (11:2;42:1) đã báo trước, Thần Linh ở trên Người, làm cho nhân tính của Người đầy sức mạnh thần linh, từ khi Người nhập thể cho tới mức viên trọn của việc Người phục sinh sau khi Người chết trên thập giá (x.Jn.7:29,14:16,16:7,8,20:22; Lk.24:49). Bởi chiếm được mức viên trọn này, Chúa Giêsu Thiên Sai có thể ban một phép rửa mới trong Thần Linh, Ðấng mà Người tràn đầy (x.Jn.1:33; Acts 1:5). Từ nhân tính hiển vinh của Người, như từ một mạch nước trường sinh, Thần Linh sẽ tràn lan khắp thế giới (x.Jn.7:37-39,19:34; x.Rm.5:5). Ðây là điều mà Vị Tẩy Giả đã loan báo khi làm chứng cho Chúa Kitô trong dịp Người lãnh nhận phép rửa, một phép rửa bao gồm các biểu hiệu nước và lửa, nói lên mầu nhiệm về năng lực ban sự sống mới mà Ðấng Thiên Sai cũng như Thần Linh đã đổ tràn xuống trên thế giới.

Trong khi thực hiện sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng nói về cuộc khổ nạn và tử nạn của Người như là một phép rửa mà chính Người phải lãnh nhận: đó là một phép rửa, vì Người phải hoàn toàn bị trầm mình trong khổ đau, được biểu hiệu bằng chén Người phải uống (x.Mk.10:38,14:36). Thế nhưng, đó là một phép rửa mà Chúa Giêsu đã gắn cho nó một biểu hiệu khác nữa là lửa. Nơi biểu hiệu khác là lửa này sẽ dễ nhận thấy rằng Thần Linh, Ðấng "trào tràn" nhân tính của Người, và cũng là Ðấng một ngày kia, sau ngọn lửa thập giá, sẽ tràn lan thế giới. Ngài sẽ làm cho phép rửa lửa thiêu này lan ra, một phép rửa mà Chúa Giêsu đã mong nhận lãnh đến nỗi Người chịu sầu thương cho đến khi nó được hoàn tất nơi Người (x.Lk.12:50).

Trong Thông Ðiệp Dominum et Vivificantem (về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt Giáo Hội và Thế Giới ban hành ngày 18-5-1986), Tôi đã viết: "Có một số trường hợp Cựu Ước đã nói về lửa từ trời thiêu đốt những của lễ hiến dâng của con người. Tương tự như thế, người ta cũng có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là lửa từ trời xuống làm việc nơi thâm cung của mầu nhiệm thập giá. Chúa Thánh Thần, như Ngọn Lửa và như Tặng Ân, theo một nghĩa nào đó, xuống ngay giữa của hiến tế được dâng tiến trên thập giá. Ở đây, dựa vào truyền thống thánh kinh, chúng ta có thể nói: Ngài làm tiêu tan hiến tế này bằng lửa yêu thương hiệp nhất Con với Cha trong cuộc hiệp thông Ba Ngôi. Mà vì hiến tế thập giá là một việc hợp với Chúa Kitô nên cũng trong hiến tế này Người nhận lãnh Thánh Linh. Người lãnh nhận Thánh Linh ở chỗ, sau đó - chỉ có mình Người cùng với Thiên Chúa Cha - có thể ban Ngài cho các tông đồ, cho Giáo Hội, cho nhân loại. Chỉ có một mình Người từ Cha sai Thần Linh đến. Chỉ có một mình Người hiện ra với các tông đồ ở nhà tiệc ly, thở hơi trên các vị mà nói: 'Hãy nhận lấy Thánh Linh; nếu các con tha tội cho ai thì họ sẽ được tha tội' (x.Jn.20:23)" (đoạn 41).

Lời loan báo về Ðấng Thiên Sai của thánh Gioan ở sông Dược Ðăng: "Người sẽ rửa qúi vị trong Thánh Linh và trong lửa" (Mt. 3:11;x.Lk.3:16) được nên trọn là như thế. Ở đây còn thấy hiện thực những biểu hiệu mà chính Thiên Chúa được tỏ lộ như một cột lửa hướng dẫn dân chúng qua sa mạc (x.Ex.13:21-22); như lời nóng bỏng khiến cho "núi (Sinai) bốc lửa cháy ngất trời" (Dt.4:11); như một ngọn lửa quang vinh nồng nhiệt yêu thương Yến-Duyên (x.Dt.4:24). Trong lời Chúa Kitô hứa khi Người nói rằng Người đã đến để làm cho thế gian bốc cháy (x.Lk.12:49) được hoàn tất, thì Sách Khải Huyền lại nói về Người rằng mắt của Người toé sáng như một ngọn lửa (x.Rev.1:14,2:18,19:12). Như thế lửa rõ ràng là biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần (x.Acts 2:3). Tất cả điều này xẩy ra nơi mầu nhiệm vượt qua, khi Chúa Kitô "lãnh nhận phép rửa mà chính Người phải được rửa" (x.Mk.10:38) trong hy tế trên thập giá, cũng như trong mầu nhiệm Hiện Xuống, khi Chúa Kitô phục sinh và hiển vinh đổ Thần Linh của Người xuống trên các tông đồ và trên Giáo Hội.

Theo thánh Phaolô, nhờ "phép rửa trong lửa" nơi hy tế của mình này, trong việc Người phục sinh, Chúa Kitô đã trở nên "Adong mới", nên "một thần trí ban sự sống" (x.1Cor.15:45). Vì lý do này, Chúa Kitô phục sinh đã loan báo cho các tông đồ: "Gioan làm phép rửa trong nước, thế nhưng trong một ít ngày nữa thôi, các con sẽ được rửa trong Thánh Linh" (Acts 1:5). Nhờ công việc của "Adong mới" là Chúa Kitô này, "Thần Linh ban sự sống" (x.Jn.6:63) sẽ được ban cho các tông đồ cũng như cho Giáo Hội.

Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, phép rửa này được tỏ hiện. Ðó là một phép rửa mới và cuối cùng, một phép rửa thanh tẩy và thánh hóa bằng một sự sống mới. Ðây là một phép rửa nhờ đó Giáo Hội được hạ sinh trong chiều hướng cánh chung kéo dài "cho đến tận thế" (Mt.28:20); không phải chỉ có Giáo Hội ở Gialiêm của các tông đồ và của các môn đệ trực tiếp với Chúa, mà là cả Giáo Hội mang trong mình tính cách phổ quát, được hiện thực qua thời gian và nơi các địa điểm Giáo Hội hình thành trên trái đất này.

Những lưỡi lửa nơi biến cố Hiện Xuống tại nhà tiệc ly ở Gialiêm là dấu hiệu của thứ lửa mà Chúa Giêsu Kitô đã mang xuống và đã châm lên trên trái đất này (x.Lk.12:43): thứ lửa Thánh Linh.

Trong ý nghĩa của ngày lễ Hiện Xuống, chúng ta cũng có thể hiểu rõ hơn tính cách quan trọng của Phép Rửa như là một bí tích đầu tiên, ở chỗ nó là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Giêsu đã ám chỉ về phép rửa này khi đàm đạo với ông Nicôđêmô: "Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho ông hay, không ai có thể vào được vương quốc của Thiên Chúa, trừ phi họ được sinh bởi nước và Thần Linh" (Jn.3:5). Cũng trong cuộc nói chuyện này, Chúa Giêsu đã đề cập đến cái chết sau này của Người trên thập giá (x.Jn.3:14-15) cũng như đến vinh hiển thiên quốc của Người (x.Jn.3:13). Ðó là phép rửa hiến tế mà phép rửa bởi nước, bí tích đầu tiên của Giáo Hội, đã nhận được quyền năng để làm cho cuộc hạ sinh bởi Thánh Linh của Giáo Hội được hiệu thành, cũng như để mở đường cho nhân loại "tiến vào vương quốc của Thiên Chúa". Thật thế, như thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Rôma, "Anh em không biết rằng tất cả chúng ta đã được rửa trong Chúa Kitô là được rửa trong cái chết của Người hay sao? Bởi thế, chúng ta đã được mai táng với Người bằng phép rửa trong sự chết, để như Chúa Kitô được phục sinh từ trong kẻ chết nhờ vinh hiển của Cha thế nào, chúng ta cũng được bước đi trong một đời sống mới như vậy" (Rm.6:3-4). Bước đi của phép rửa trong một đời sống mới này đã bắt đầu từ ngày Lễ Hiện Xuống ở Gialiêm.

Trong những bức thư của mình, nhiều lần thánh Tông Ðồ vạch ra sự quan trọng của Phép Rửa (x.1Cor.6:11; Tit.3:5; 2Cor.1:22; Eph.1:13). Thánh nhân thấy nó như là một "việc rửa cho sự tái sinh và một việc canh tân trong Thánh Linh" (Tit.3:5); một dấu báo cho sự công chính "nhân danh Chúa Giêsu Kitô" (1Cor.6:11; x.2Cor.1:22); một "ấn tín của Thánh Thần được hứa ban" (x.Eph.1:13); "một bảo đảm của Thần Linh nơi lòng của chúng ta" (x.2Cor.1:22). Nhắc đến việc hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi thành phần lãnh nhận phép rửa như thế, thánh Tông đồ khuyên các Kitô hữu thời bấy giờ cũng như cho chúng ta hôm này là: "Ðứng làm phiền lòng Thánh Linh của Thiên Chúa, nơi Ngài anh em đã được đóng ấn cho ngày cứu độ" (Eph.4:30).

(Bài Giáo Lý thứ 15 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 6-9-1989, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


24-Thần Linh: Nguồn Mạch Sự Sống Bí Tích

Thánh Thần là nguồn chân lý và là nguyên lý ban sự sống để làm cho Giáo Hội thật sự là một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Thánh Thần cũng là nguồn và là nguyên lý sự sống bí tích, một sự sống bí tích mà nhờ đó Giáo Hội lấy được sức mạnh của Chúa Kitô, thông phần với sự thánh thiện của Người, được nuôi dưỡng bằng ân sủng của Người và tăng tiến trong cuộc hành trình hướng về vĩnh cửu của mình. Chúa Thánh Thần, Ðấng là căn nguyên cho việc Nhập Thể của Ngôi Lời, là nguồn sống của tất cả mọi bí tích do Chúa Kitô thiết lập và đang làm việc trong Giáo Hội. Liên kết với Giáo Hội như cộng tác viên trong hoạt động cứu độ, Ngài ban cho con người "sự sống mới" qua chính các bí tích.

Chúng tôi không có ý giải thích bản chất, đặc tính và tác dụng của các bí tích là những gì, nếu Chúa muốn, chúng tôi sẽ trình bày vào những buổi giáo lý sau này. Thế nhưng, chúng ta vẫn có thể sử dụng câu giáo lý cũ đơn gọn này: "các bí tích là phương tiện ban ân sủng do Chúa Giêsu thiết lập cho phần rỗi của chúng ta". Chúng ta cũng có thể lập lại một lần nữa rằng Chúa Thánh Thần là tác giả, là dung thể và hầu như là hơi thở ân sủng của Chúa Kitô trong chúng ta. Trong bài giáo lý này chúng ta sẽ thấy, theo các bản văn Phúc Âm, mối liên kết ấy có thể thấy được nơi mỗi một bí tích.

Mối liên kết này đặc biệt sáng tỏ nơi Bí Tích Rửa Tội, Bí Tích Chúa Giêsu diễn tả trong cuộc nói chuyện với ông Nicôđêmô như là một việc "được hạ sinh bởi nước và Thần Linh": "Ðiều gì sinh bởi xác thịt là xác thịt và điều gì sinh bởi thần linh là thần linh... Qúi vị cũng phải tái sinh từ trên cao" (Jn.3:5-7).

Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo và giới thiệu Chúa Kitô như "Ðấng rửa trong Thánh Thần" (Jn.1:33), "trong Thánh Thần và trong lửa" (Mt.3:11). Nơi Sách Tông Ðồ Công Vụ, và những thư của các tông đồ sự thật này đã được diễn tả một cách khác nhau. Vào Ngày Lễ Hiện Xuống, những ai lãnh nhận sứ điệp của thánh Phêrô đều nghe thấy một lời mời gọi: "Mỗi người trong anh em hãy thống hối và lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để anh em được thứ tha tội lỗi; rồi anh em sẽ lãnh nhận tặng ân Thánh Thần" (Acts 2:38). Những thư của Thánh Phaolô nói đến một "bồn nước tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần" được tuôn dội bởi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế của chúng ta (x.Titus 3:5-6). Người lãnh nhận phép rửa được nhắc nhớ rằng "anh em đã được rửa sạch, anh em đã được thánh hóa, anh em đã được công chính hóa nhân danh Chúa Giêsu Kitô và trong Thần Linh của Thiên Chúa chúng ta" (1Cor.6:11). Họ còn được bảo cho biết rằng "trong cùng một Thần Linh tất cả (họ) được rửa để làm nên một thân thể" (1Cor.12:13). Theo giáo huấn của thánh Phaolô, cũng như theo Phúc Âm, Chúa Thánh Thần và danh hiệu của Chúa Giêsu Kitô được liên kết với nhau trong lời công bố Phép Rửa, trong việc ban Phép Rửa và trong việc đề cập đến Phép Rửa như nguồn mạch thánh hóa và cứu độ - tức đến sự sống mới như Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô.

Bí Tích Thêm Sức, bí tích gắn liền với Phép Rửa, được sách Tông Ðồ Công Vụ trình bày với thể thức đặt tay để các tông đồ nhờ đó thông ban tặng ân Thánh Thần. Thánh Phêrô và Gioan "đã đặt tay trên" những Kitô hữu tân tòng, những người mới lãnh nhận Phép Rửa "và họ đã nhận được Thánh Thần" (Acts 8:17). Sách Tông Ðồ Công Vụ cũng nói về thánh Tông Ðồ Phaolô như vậy đối với những người tân tòng khác: "Và khi Phaolô đặt tay (mình) trên họ, thì Thánh Thần đến với họ" (Acts 19:6).

Bởi thế, nhờ đức tin và các bí tích, chúng ta "đã được đóng ấn Thánh Thần hứa ban, Ðấng là bảo chứng đầu tiên cho gia nghiệp của chúng ta" (Eph.1:13-14). Thánh Phaolô đã viết gửi giáo đoàn Côrintô: "Thế nhưng, Ðấng làm cho chúng tôi cùng với anh em được an toàn trong Ðức Kitô và xức dầu cho chúng ta, đó là Thiên Chúa; Ngài cũng đã đóng ấn trên chúng ta và ban Thần Linh cho lòng chúng ta như bảo chứng mở đầu" (2Cor.1:21-22; x.1Jn.2:20,27,3:24). Bức thư gửi cho giáo đoàn Eâphêsô còn thêm lời kêu gọi can hệ là đứng làm buồn lòng Thánh Thần là Ðấng nhờ Ngài chúng ta "được niêm ấn cho ngày cứu độ" (Eph.4:30).

Căn cứ vào sách Tông Ðồ Công Vụ chúng ta có thể suy ra rằng bí tích Thêm Sức được ban phát qua việc đặt tay theo sau phép rửa "nhân danh Chúa Giêsu" (x.Acts 8:15-17,19:5-6).

Nơi bí tích Hòa Giải (hay Thống Hối), sự liên hệ với Chúa Thánh Thần được thiết lập nhờ quyền năng của lời Chúa Giêsu sau khi Người sống lại. Thật thế, thánh Gioan chứng thực rằng Chúa Giêsu đã thở hơi trên các tông đồ má phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần; các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại" (Jn.20:22-23). Những lời này còn có thể chỉ về cả bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, liên quan đến "việc cầu nguyện bởi đức tin" mà chúng ta đọc thấy trong Thư của thánh Giacôbê, cùng với việc được vị tư tế xức dầu "nhân danh Chúa", "sẽ cứu người bệnh và Chúa sẽ nâng họ lên. Nếu có phạm tội gì họ cũng được thứ tha" (Jas.5:14-15). Truyền Thống Kitô Giáo đã thấy được nơi việc xức dầu và việc cầu nguyện này một thể thức mở đầu cho bí tích (x.St.Thomas, Contra Gentes, IV,C.73). Nhận định này đã được Công Ðồng Chung Triđentinô tuyên nhận (x.DS 1695).

Còn đối với Thánh Thể, theo Tân Ước, mối liên quan với Thánh Thần được ghi nhận, không nhiều thì ít, ngay nơi bản văn của Phúc Âm thánh Gioan, đoạn kể lại lời loan báo của Chúa Giêsu ở hội đường Caphanaum về việc thiết lập bí tích Mình Máu Người: "Chính Thần Linh mới là Ðấng ban sự sống chứ các thịt thì chẳng có ích lợi gì; những lời Thày nói với các con đều là thần linh và là sự sống" (Jn.6:63). Chính bởi Chúa Thánh Thần mà cả lời ban bí tích lẫn bí tích đều có sự sống và mang lại hiệu năng.

Truyền Thống Kitô Giáo nhận thức được mối liên hệ giữa Thánh Thể và Thánh Thần này, một mối liên hệ được diễn đạt, cho tới ngày hôm nay, trong Thánh Lễ, nơi phần epiklesis Giáo Hội xin ơn thánh hóa những lễ vật được hiến dâng trên bàn thờ: "bởi quyền phép của Thần Linh Chúa" (Kinh Nguyện Thánh Thể III); "xin Thần Linh Chúa xuống trên những lễ vật này" (Kinh Nguyện Thánh Thể II); "xin Chúa chúc lành và chuẩn nhận lễ vẫt của chúng tôi" (Kinh Nguyện Thánh Thể I). Giáo Hội nhấn mạnh đến quyền năng nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần trong việc hoàn tất sự thánh hiến Thánh Thể, nơi việc biến đổi bí tích của bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, và nơi việc thông ban ân sủng cho những người thông phần Mình Máu Chúa cũng như cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.

Về bí tích Truyền Chức Thánh, Thánh Phaolô nói đến "đặc sủng" (hay tặng ân Thánh Linh) đưa đến việc đặt tay (x.1Tim.4:14; 2Tim.1:6). Thánh nhân tuyên bố mạnh mẽ rằng chính Thánh Thần là Ðấng "chỉ định" các vị giám mục trong Giáo Hội (x.Acts 20:28). Ở những đoạn thư Thánh Phaolô cũng như các đoạn sách Tông Ðồ Công Vụ khác chứng thực cho một mối liên hệ hòa hợp giữa Chúa Thánh Thần với các vị thừa tác viên của Chúa Kitô, tức là với các tông đồ và các hợp tác viên của các vị, cũng như với thánh phần thừa kế của các vị là các giám mục, linh mục và phó tế. Họ là những người thừa kế chẳng những cho sứ vụ của các vị mà còn cho cả đặc sủng của các vị nữa, như chúng ta sẽ thấy trong bài giáo lý lần tới.

Sau hết, Tôi muốn ôn lại bí tích Hôn Phối, đây là "mầu nhiệm cao cả... liên quan đến Chúa Kitô và Giáo Hội" (Eph.5:32). Nơi bí tích hôn nhân, nhân danh Chúa Kitô và nhờ Người, một giao ước đã được thiết lập giữa hai người, một nam và một nữ, một cộng đồng yêu thương ban sự sống. Bí tích này là việc con người được thông phần với tình yêu thần linh là những gì "được đổ đầy vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần" (Rm.5:5). Theo Thánh Augustinô, Ngôi Ba trong Ba Ngôi nơi Thiên Chúa là "mối hiệp thông đồng bản thể" (communion consubstantialis) của Chúa Cha và Chúa Con (x.De Trinitate, VI,5.7, PL 42,928). Nhờ bí tích Hôn Phối, Thần Linh hình thành "cộng đồng con người" nhân loại giữa người nam và người nữ.

Ðể tóm lại bài giáo lý này, chúng tôi ít nhất đã làm cho thấy được một bố cục đại quan về chân lý đối với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần làm việc nơi sự sống bí tích của Hội Thánh, như chúng ta thấy nơi Thánh Kinh, Thánh Truyền và nhất là nơi phụng vụ bí tích, chúng ta không thể không nhấn mạnh đến sự cần thiết trong việc tiếp tục đào sâu kiến thức về giáo huấn diệu vợi này. Chúng ta cũng không thể bỏ qua việc khuyên giục mọi người thực hành bí tích, một thực hành càng ngày càng dễ dạy và trung thành một cách ý thức hơn đối với Chúa Thánh Thần, Ðấng mà, đặc biệt nhờ "những phương tiện cứu rỗi do Chúa Giêsu Kitô thiết lập", làm hoàn tất sứ vụ đã ủy thác cho Giáo Hội trong việc thực hiện ơn cứu rỗi phổ quát.

(Bài Giáo Lý thứ 66 của Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 30-1-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


25-Thần Linh: Cư Ngụ nơi Từng Người

Trong bài giáo lý lần trước, Tôi đã loan báo là chúng ta sẽ trở lại đề tài về việc hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi linh hồn. Căn cứ vào thần học và kho tàng tu đức, những đề tài này có một sức hấp dẫn nào đó, nói được là, gây nên một khoái thú tự nhiên cho những ai thích sống nội tâm. Những đề tài này thu hút những ai dễ dạy và chú tâm đến tiếng của Ðấng ở bên trong họ như trong một đền thờ, và cũng là Ðấng sáng soi họ trong lòng và bảo trì họ trên những nẻo đường hợp với Phúc Âm. Vị tiền nhiệm của Tôi là Ðức Lêô XIII đã nghĩ đến những người này khi viết Thông Ðiệp Divinum Illud về Chúa Thánh Thần (ngày 9-5-1897), cũng như sau đó khi viết bức thư Ad Fovendum về lòng tôn sùng của Kitô hữu đối với Ngôi Vị Thiên Chúa của Thần Linh (ngày 18-4-1902), để thiết lập việc làm tuần chín ngày kính Ngài, nhất là nhắm đến việc để xin ơn lành cho sự hiệp nhất Kitô giáo (ad maturamdum Christianae unitatis bunum). Vị giáo hoàng của Thông Ðiệp Rerum Novarum cũng là vị giáo hoàng của lòng sùng kính Chúa Thánh Thần. Ngài cũng biết cần phải lấy nghị lực từ nguồn mạch nào để có thể mang lại sự thiện hảo chân thật cho lãnh vực xã hội nữa. Tôi cũng kêu gọi Kitô hữu của ngày hôm nay đây chú ý đến nguồn mạch này trong Thông Ðiệp Dominum et Vivificantem (ngày 18-5-1986), và giờ đây Tôi sẽ dùng phần kết thúc giáo lý thánh linh để bàn về vấn đề này.

Kinh nghiệm Kitô hữu sống nội tâm, nguyện cầu và hiệp nhất với Thiên Chúa đã cho thấy một thực tại - như tất cả khoa thần học và giáo lý về thánh linh - một thực tại được bắt nguồn từ các bản văn Thánh Kinh, nhất là từ những lời của Chúa Kitô và của các tông đồ: đó là thực tại về việc Chúa Thánh Thần cư ngụ trong linh hồn các kẻ lành như một vị khách thần linh.

Thánh Tông Ðồ Phaolô, trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô (3:16) đã đặt vấn nạn: "Anh em không biết rằng... Thần Linh của Thiên Chúa ngự trong anh em sao?" Dĩ nhiên, Chúa Thánh Thần hiện diện và làm việc trong toàn thể Giáo Hội, như chúng ta đã nghe trong các bài giáo lý trước đây. Thế nhưng, việc hiện diện và hoạt động của Ngài hoàn toàn cụ thể nơi mối liên hệ với con người, với linh hồn kẻ lành, thành phần mà nơi họ Ngài thiết lập chỗ trú ngụ của mình và tràn ban tặng ân do Chúa Kitô lập được nhờ việc cứu chuộc. Hành động của Chúa Thánh Thần thấu nhập thâm cung con người, tâm can tín hữu, và tuôn xuống trên họ ánh sáng cũng như ân sủng ban sự sống. Ðây là điều chúng ta xin Ngài trong ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống: "Ôi thần linh ánh sáng chứa chan hồng phúc, xin chiếu soi nơi những tâm hồn này".

Còn thánh Tông Ðồ Phêrô, trong bài diễn từ của mình vào Ngày Lễ Hiện Xuống, sau khi thôi thúc thính giả ăn năn trở lại và lãnh nhận phép rửa, đã thêm lời hứa: "Anh em sẽ lãnh nhận tặng ân Thánh Thần" (Acts 2:38). Ở đây chúng ta thấy rằng lời hứa này liên quan riêng đến từng người ăn năn trở lại và lãnh nhận phép rửa bấy giờ. Thánh Phêrô đã nói rõ là "mỗi một người" trong thành phần hiện diện (x.2:38). Sau này, phù thủy Simon xin các tông đồ ban cho mình quyền năng có tính cách bí nhiệm này: "Hãy ban cho tôi quyền năng ấy để tôi đặt tay trên ai thì người đó được nhận lãnh Thánh Thần" (8:19). Tặng ân Thánh Thần được coi như là một tặng ân ban cho từng người. Việc xác định này còn được chứng thực trong đoạn thuật lại việc trở lại của Cornêliô cùng với cả nhà ông. Khi thánh Phêrô đang cắt nghĩa mầu nhiệm Chúa Kitô cho họ, thì "Thánh Thần đã xuống trên mọi người đang lắng nghe" (10:44). Bởi thế, thánh Tông Ðồ nhận thức rằng: "Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một tặng ân Ngài ban cho chúng ta" (Acts 11:17). Theo thánh Phêrô, việc Chúa Thánh Thần xuống biểu hiệu việc Ngài hiện diện nơi những ai Ngài thông ban chính mình Ngài cho.

Về việc Chúa Thánh Thần hiện diện nơi con người như thế, chúng ta cần phải nhớ lại những cách thế tiếp nối nhau làm cho chúng ta thấy được nơi chúng việc hiện diện thần linh trong lịch sử cứu độ. Thời cựu ước, Thiên Chúa hiện diện và tỏ hiện sự có mặt của mình đầu tiên ở trong "lều" giữa sa mạc, rồi sau đó ở nơi "Cực Thánh" trong Ðền Thờ Gialiêm. Thời tân ước, việc hiện diện của Ngài được hoàn trọn nơi và đồng nhất với biến cố Nhập Thể của Ngôi Lời. Thiên Chúa hiện diện giữa loài người nơi Con hằng hữu của Ngài, qua nhân tính được Con Ngài mặc lấy, trong sự hiệp nhất của con người với bản tính thần linh của Người. Nhờ việc hiện diện hữu hình nơi Chúa Kitô này, Thiên Chúa sửa soạn cho một hiện diện mới qua một Ðấng vô hình, một hiện diện sẽ được nên trọn khi Thánh Thần hiện xuống. Thật vậy, việc hiện diện của Chúa Kitô "ở giữa" người ta đã mở ra con đường dẫn đến việc hiện diện của Thánh Thần, một hiện diện nội tại, một hiện diện trong tâm can con người. Như thế là hoàn tất lời tiên tri Ezekien (36:26-27): "Ta sẽ ban cho các ngươi một con tim mới và đặt một thần trí mới trong các ngươi... Ta sẽ đặt thần trí Ta trong các ngươi".

Vào ngay đêm trước khi bỏ thế gian mà ra đi về cùng Cha, qua thập giá và lên trời của mình, chính Chúa Giêsu đã loan báo việc Chúa Thánh Thần đến với các tông đồ: "Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Ðấng Bầu Chữa khác là Thần Chân Lý để luôn ở cùng các con... Ngài sẽ ở trong các con" (Jn.14:16-17). Thế nhưng, chính Chúa Giêsu cũng phán rằng việc Chúa Thánh Thần hiện diện này, một việc hiện diện trong tâm can con người còn hàm ngụ cả việc hiện hiện của Chúa Cha và Chúa Con, cần phải có một điều kiện, đó là tình yêu: "Ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày, và Cha Thày sẽ yêu thương người ấy, rồi chúng ta sẽ đến cùng người ấy mà lấy họ làm nơi trú ngụ" (Jn.14:23).

Việc đối chiếu với Chúa Cha và Chúa Con được nói đến trong diễn từ của Chúa Giêsu bao gồm cả Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô và truyền thống giáo phụ cũng như thần học qui việc trú ngụ ba ngôi cho Thần Linh vì Ngài là Ngôi-Vị-Tình-Yêu, ngoài ra, việc hiện diện nội tâm này phải là một sự hiện diện linh thiêng. Việc hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con bởi tình yêu mà có, thế nên, việc hiện diện này cũng là việc hiện diện trong Thánh Thần. Chính ở nơi Thánh Thần mà Thiên Chúa, trong mối hiệp nhất ba ngôi của mình, truyền đạt chính mình cho tâm linh mỗi người.

Thánh Tôma Aquina nói rằng chỉ có nơi tâm linh con người (và thiên thần) mà cách hiện diện thần linh này mới khả thực (nhờ việc cư ngụ), vì chỉ có loài thụ tạo biết suy nghĩ mới có khả năng để được thông phần hiểu biết, ý thức yêu thương và hoan hưởng Thiên Chúa như một vị khách nội tại. Cách hiện diện thần linh này được thực hiện là do Chúa Thánh Thần, Ðấng mà chính vì thế mới là tặng ân tối yếu đệ nhất (Summa Theol.,I,q.38,a.1).

Tuy nhiên, qua việc cư ngụ này, người ta được trở thành "đền thờ của Thiên Chúa" (của Thiên Chúa Ba Ngôi), vì chính "Thần Linh của Thiên Chúa (là Ðấng) cư ngụ trong" họ, như thánh Tông Ðồ nhắc nhở Kitô hữu giáo đoàn Côrintô (1Cor.3:16). Thiên Chúa là thánh và là Ðấng thánh hóa. Thánh Phaolô sau đó chút xíu đã viết rằng: "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh em, Ðấng anh em lãnh nhận bởi Thiên Chúa hay sao?" (1Cor.6:19). Bởi thế, việc Chúa Thánh Thần cư ngụ bao hàm cả việc hiến thánh đặc biệt toàn thể con người (cả phương diện thân xác như được thánh Phaolô nhấn mạnh) giống như một đền thờ. Sự hiến thánh này là việc thánh hóa. Nó là chính yếu tính của ân sủng cứu độ mà con người nhờ đó có thể thông phần vào sự sống ba ngôi của Thiên Chúa. Như thế, một nguồn mạch nội tại của sự thánh thiện mở ra nơi con người, phát sinh ra cuộc sống "theo Thần Linh", như thánh Phaolô viết trong Thư gửi giáo đoàn Rôma (8:9): "Anh em không ở trong xác thịt; trái lại, nếu duy có Thần Linh Thiên Chúa ở trong anh em thì anh em ở trong Thần Linh". Ðây là căn gốc của niềm hy vọng mong chờ việc thân xác phục sinh, vì "nếu Thần Linh của Ðấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ kẻ chết cư ngụ trong anh em, thì Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô từ kẻ chết cũng sẽ ban sự sống cho thân xác chết chóc của anh em như vậy, nhờ Thần Linh của Ngài là Ðấng cư ngụ trong anh em" (Rm.8:11).

Chúng ta phải lưu ý là việc cư ngụ của Chúa Thánh Thần, Ðấng thánh hóa toàn thể con người, thân xác lẫn linh hồn, ban cho con người một phẩm vị cao trọng hơn. Việc thánh hóa này ban cho những mối tương giao của con người, cả những mối tương giao thể lý nữa, một giá trị mới, như Thánh Phaolô đề cập đến trong bản văn của Bức Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô (6:9) chúng ta đã trích dẫn.

Thế nên, nhờ việc Chúa Thánh Thần cư ngụ mà Kitô hữu được tham dự vào một mối lên hệ đặc biệt với Thiên Chúa, một mối liên hệ cũng bao gồm tất cả những mối tương giao loài người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Khi thánh Tông Ðồ nói: "đứng làm phiền lòng Thánh Thần" (Eph.4:30), là thánh nhân dựa vào nền tảng của chân lý được mạc khải này: sự hiện diện riêng tư của vị khách nội tại là Ðấng có thể "buồn phiền" vì tội lỗi - vì mọi tội lỗi - bởi tội lỗi luôn luôn đối nghịch lại với tình yêu. Chính Ngài, như Ngôi-Vị-Tình-Yêu cư ngụ trong con người, tạo nên trong linh hồn một đòi hỏi nội tâm phải sống trong tình yêu. Thánh Phaolô nói lên điều này khi viết cho Kitô hữu giáo đoàn Rôma rằng: "Tình yêu của Thiên Chúa" (tức là, mạch suối mãnh lực của tình yêu từ Thiên Chúa mà đến) "được tuôn tràn vào lòng chúng ta nhờ quyền năng Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta" (Rm.5:5).

(Bài Giáo Lý thứ 70 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 20-3-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


26-Thần Linh: Nguồn Mạch Sự Sống Mới

Chúa Thánh Thần, vị khách của linh hồn, là nguồn mạch sự sống mới bên trong đã được Chúa Giêsu thông chia với những ai tin vào Người. Ðó là sự sống theo "lề luật của Thần Linh", tức là một sự sống bằng quyền lực của sự phục sinh đã chế ngự quyền lực tội lỗi và sự chết vẫn hoành hành nơi con người từ cuộc sa phạm nguyên thủy. Chính thánh Phaolô đã nhận mình bị một nỗi giằng co xâu xé giữa cảm nhận nội tâm về điều thiện với sức lôi cuốn của sự dữ, giữa khuynh hướng của "tâm trí" muốn giữ lề luật Thiên Chúa với sức lấn át của "xác thịt" bị lụy thuộc tội lỗi (x.Rm.7:14-23). Thánh nhân than lên: "Tôi là một con người khốn khổ là chứng nào! Ai sẽ cứu tôi khỏi thân xác chết chóc này?" (Rm.7:24).

Bởi thế đã phát sinh một cảm nghiệm nội tâm mới liên quan đến thực tại về tác động cứu rỗi của ân sủng: "Vì vậy, giờ đây những ai ở trong Chúa Giêsu Kitô thì không bị luận phạt. Vì lề luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô đã giải thoát anh em khỏi lề luật của tội lỗi và sự chết" (Rm.8:1-2). Ðó là một tình trạng mới của sự sống được bắt đầu trong lòng chúng ta "nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta" (Rm.5:5).

Tất cả cuộc sống Kitô hữu là sống trong đức tin và đức ái, cũng như trong việc thực hành mọi nhân đức, theo tác động bên trong của Thần Linh canh tân này, Ðấng ban ơn công chính, linh hoạt và thánh hóa. Nhờ ơn này đã phát sinh tất cả những nhân đức mới tạo nên nề nếp cho cuộc sống siêu nhiên. Cuộc sống này được tăng trưởng không phải chỉ bởi những tài năng tự nhiên của con người - trí khôn, lòng muốn và cảm quan - mà còn bởi cả những năng lực mới được phú ban cùng với ơn ấy, như Thánh Tôma Aquina dẫn giải (Summa Theol., I-II,q.62,aa.1,3). Những năng lực mới này ban cho trí khôn khả năng gắn bó trong đức tin với Thiên-Chúa-Chân-Lý; cho tâm can khả năng yêu thương trong đức ái, một đức ái nơi con người như là "một việc tham dự vào chính Tình Yêu thần linh là Chúa Thánh Thần" (II-II,q.23,a.3,ad3). Những năng lực mới này cũng ban cho tất cả mọi năng lực của linh hồn, cũng như bằng một cách nào đó cho cả thân xác nữa, được tham dự vào sự sống mới bằng những hành động xứng với một con người đã được nâng lên thông phần với bản tính và sự sống của Thiên Chúa trong ân sủng: consortes devinae narures, như Thánh Phêrô viết (2Pet.1:4).

Tình trạng này giống như một cơ cấu nội tâm mới để lề luật của ân sủng được tỏ hiện: một lề luật được viết trong lòng hơn là trên các phiến đá hay nơi các văn bản. Thánh Phaolô đã gọi lề luật này, như chúng ta thấy, là "lề luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô" (Rm.8:2; x. Thánh Augustinô, De Spiritu et Littera, c.24; PL 44:225; Thánh Tôma, Summa Theol., I-II,q.106,a.1).

Trong loạt bài giáo lý trước đây về ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần nơi đời sống Giáo Hội, chúng ta đã nhấn mạnh đến một số tặng ân khác nhau mà Ngài ban phát để làm cho cả cộng đồng phát triển. Các tặng ân khác nhau này cũng được thể hiện rõ ràng nơi cuộc sống riêng tư của Kitô hữu: mọi người đều nhận được những tặng ân của Chúa Thánh Thần qua những trường hợp sống cụ thể mà họ là nam nhân hay nữ giới trải qua, tùy theo mức độ yêu thương của Thiên Chúa đã làm nên ơn gọi, cuộc hành trình và lịch sử thiêng liêng của mỗi người.

Chúng ta đọc nơi đoạn về Ngày Lễ Hiện Xuống thấy Chúa Thánh Thần chẳng những tràn đầy toàn thể cộng đồng mà còn từng người có mặt bấy giờ nữa. Nếu gió, biểu hiệu cho Thần Linh, được tả là "đầy cả nhà nơi các vị đang ở" (Acts 2:2), thì cũng đúng với những lưỡi lửa, một biểu hiệu khác của Thần Linh, "đến đậu trên từng người trong các vị" (2:3); thế là, "tất cả mọi người họ được đầy Thánh Thần" (2:4). Mức độ trọn đầy này được ban cho mỗi một người; mức độ trọn đầy này hàm chứa một số những tặng ân khác nhau đối với hết mọi lãnh vực đời sống cá nhân của con người.

Trong số những tặng ân này, chúng ta muốn nhắc lại và nhấn mạnh ngắn gọn đến những tặng ân được giáo lý và lưu truyền thần học đặc biệt gọi là các tặng ân của Chúa Thánh Thần. Ðúng thế, mọi sự đều là tặng ân, nơi cả cấp trật ân sủng cũng như tự nhiên, nói chung hơn nữa, nơi toàn thể tạo vật. Tuy nhiên, theo ngôn ngữ thần học và giáo lý, danh xưng các tặng ân của Chúa Thánh Thần được dành cho những năng lực thần linh chuyên biệt mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn để kiện toàn những nhân đức siêu nhiên, nhờ đó, tâm linh con người nhận được khả năng tác hành (theo thể thức thần linh) in modo divino (x.Summa Theol., I-II,q.68,aa 1,6).

Cần phải nói rằng các tặng ân này đầu tiên được nhắc đến và liệt kê trong Cựu Ước, đúng hơn, trong sách Isaia, vị tiên tri đã ghép cho đức vua thiên sai "thần linh khôn ngoan và thâm hiểu, thần linh dẫn dụ và dũng mãnh, thần linh minh luận và kính sợ Chúa". Thế rồi vị tiên tri gọi tên của tặng ân thứ sáu một lần nữa mà rằng "niềm hân hoan của đức vua là lòng kính sợ Chúa" (Is.11:2-3).

Bản dịch Bảy Mươi tiếng Hy Lạp cũng như bản dịch Vulgata tiếng Latinh của Thánh Giêrônimô đều tránh việc lập lại này. "Lòng hiếu thảo" được liệt kê như tặng ân thứ sáu thay thế cho tặng ân "kính sợ Chúa", do đó mà lời tiên tri thành như sau: "thần linh minh luận và thảo hiếu, và ngài được đầy thần linh kính sợ Chúa" (các câu 2-3). Thế nhưng, người ta có thể nói rằng việc lập lại thần linh kính sợ và hiếu thảo này cũng không tách khỏi truyền thống thánh kinh liên quan đến những nhân đức của các đại nhân vật trong Cựu Ước. Theo truyền thống thần học, phụng vụ và giáo lý Kitô giáo, việc lập lại này làm cho lời tiên tri có ý nghĩa hơn khi áp dụng lời tiên tri ấy cho Ðấng Thiên Sai cũng như để làm phong phú ý nghĩa từ chương của lời tiên tri. Tại hội đường Nazarét, chính Chúa Giêsu đã áp dụng cho mình một đoạn sách của tiên tri Isaia về đấng thiên sai (x.61:1): "Thần Linh Chúa ngự trên tôi..." (Lk.4:8). Lời Chúa Giêsu áp dụng về mình này tương đương với đoạn đầu của lời tiên tri vừa được trích dẫn, với lời lẽ như sau: "Thần Linh Chúa sẽ ở trên ngài" (Is.11:2). Theo truyền thống được Thánh Tôma sử dụng thì những tặng ân của Chúa Thánh Thần "được Sách Thánh đặt tên như những tặng ân này hiện diện nơi Chúa Kitô, theo như bản văn của tiên tri Isaia", nhưng những tặng ân phát xuất từ Chúa Kitô này lại gặp nhau một lần nữa nơi linh hồn Kitô hữu (x.Summa Theol., I-II,q.68,a.1).

Những đoạn thánh kinh vừa trích dẫn đã được so sánh với những cấu tạo căn bản nơi linh hồn con người, liên quan đến việc linh hồn con người được nâng lên tầm mức siêu nhiên và được phú bẩm cho chính các nhân đức. Thế là khoa thần học trung cổ về bảy tặng ân này đã phát triển, cho dù nó chưa hoàn toàn có tính cách tín điều, cũng như chưa xác nhận hẳn con số các tặng ân này và chưa xác nhận cả những phân cấp rõ ràng trong việc phân phối các tặng ân ấy, song đã và vẫn hữu dụng để chẳng những hiểu được tính cách đa loại của các tặng ân nơi Chúa Kitô cùng các thánh, mà còn tạo nên được một kiến trúc đẹp đẽ cho đời sống tu đức nữa.

Thánh Tôma (x.I-II,q.68,aa.4,7) và các nhà thần học cũng như chuyên viên giáo lý đã tìm thấy nơi những câu nói của tiên tri Isaia trên đây một bản chỉ nam để có thể sắp xếp các tặng ân theo mối liên hệ của những tặng ân này với đời sống tu đức, bằng một cắt nghĩa có thể được tổng tắt như sau:

1) Trước hết là tặng ân khôn ngoan mà Chúa Thánh Thần dùng để soi sáng lý trí. Ngài làm cho lý trí biết được "những lý do sâu xa nhất" của mạc khải cũng như của đời sống tu đức, nhờ đó lý trí có được những phán đoán lành mạnh và chính đáng liên quan đến đức tin và cuộc sống Kitô hữu, chẳng hạn như liên quan đến con người "thiêng liêng" hay ngay cả đến con người "nhục thể" (x.1Cor.2:14-15; Rm.7:14).

2) Ðến tặng ân thâm hiểu, một sự sâu sắc đặc biệt do Thần Linh ban cho để hiểu ngay được Lời Chúa một cách thấu đáo.

3) Tặng ân minh luận là một khả năng siêu nhiên để thấy và xác định một cách đích đáng nội dung của mạc khải, cũng như để phân biệt được những sự thuộc về Thiên Chúa nơi kiến thức về vũ trụ của con người.

4) Với tặng ân dẫn dụ, Chúa Thánh Thần ban khả năng siêu nhiên để điều hành cuộc sống cá nhân của con người liên quan đến những việc khó khăn cần phải hoàn thành và đến những chọn lựa khó khăn cần phải quyết định, cũng như để điều khiển và hướng dẫn người khác.

5) Với tặng ân dũng mãnh, Chúa Thánh Thần nâng đỡ lòng muốn và khiến nó phản ứng nhanh nhẹn, chủ động và kiên trì đương đầu với những khó khăn thử thách, dù có phải khổ đau đến đâu đi nữa. Ðiều này đặc biệt xẩy ra nơi việc tử đạo: việc tử đạo bằng máu, kể cả việc tử đạo trong lòng và tử đạo chịu yếu bệnh, yếu đuối và yếu đau.

6) Với tặng ân hiếu thảo, Chúa Thánh Thần điểu khiển con tim con người hướng về Thiên Chúa với những cảm xúc, cảm tình, tâm tưởng và nguyện cầu nói lên tình con cái đối với Cha là Ðấng được Chúa Kitô mạc khải cho biết. Tặng ân hiếu thảo này khiến cho chúng ta thấu nhập và biến hóa trong mầu nhiệm "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", nhất là trong niềm hiệp nhất với Chúa Kitô, Lời nhập thể, trong mối liên hệ con cái với Ðức Trinh Nữ Maria cùng với các thần thánh trên trời, trong mối hiệp thông với Giáo Hội.

7) Với tặng ân kính sợ Chúa, Chúa Thánh Linh đặt vào linh hồn Kitô hữu một niềm tôn kính sâu xa đối với lề luật của Thiên Chúa cũng như đối với những đòi hỏi của đời sống Kitô hữu. Tặng ân này giải thoát linh hồn khỏi những chước cám dỗ "sợ hãi của một người tôi tớ", thay vào đó, thăng tiến linh hồn bằng một "niềm kính sợ của một người con cái" bắt nguồn từ lòng mến yêu.

Giáo huấn về các tặng ân của Chúa Thánh Thần tiếp tục là một giáo huấn hữu dụng của đời sống tu đức. Giáo huấn này giúp chúng ta hướng dẫn chính mình cũng như huấn luyện người khác, thành phần chúng ta có trách nhiệm đào tạo, bằng một cuộc liên tục đối thoại với Chúa Thánh Thần và bằng một lòng tín thác yêu thương cho sự dẫn dắt của Ngài. Giáo huấn này được nối kết với và luôn luôn qui chiếu về đoạn sách tiên tri Isaia nói về Ðấng Thiên Sai. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, giáo huấn này nói đến sự cao cả nơi tầm mức thiện toàn của Người. Khi áp dụng cho linh hồn Kitô hữu, giáo huấn này dạy cho chúng ta biết những giây phút quan trọng nơi sinh hoạt của đời sống nội tâm: để hiểu biết (khôn ngoan, thâm hiểu và minh luận); để quyết định (dẫn dụ và dũng mạnh); để ở lại và tăng tiến trong mối liên hệ riêng tư với Thiên Chúa, trong đời sống cầu nguyện và trong đời sống ngay thẳng theo Phúc Âm (hiếu thảo và kính sợ Chúa).

Như thế, thật là quan trọng trong việc cần phải sống hòa hợp với Thần-Linh-Tặng-Ân vĩnh cửu là Ðấng phải được nhận biết theo như mạc khải từ Cựu Ước cũng như Tân Ước. Ngài là Tình Yêu chuyên nhất bất tận được ban cho chúng ta bằng muôn vàn hình thức tỏ hiện và tặng ân khác nhau, hợp với chương trình tạo dựng bao quát.

(Bài Giáo Lý thứ 71 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 3-4-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


27-Thần Linh: Nguồn Mạch Sự Sống Nội Tâm

Trong bài giáo lý lần trước, Thánh Phaolô đã nói với chúng ta về "lề luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô" (Rm.8:2). Chúng ta phải sống theo lề luật này nếu chúng ta muốn "theo Thần Linh" (Gal.5:25), hoàn thành những công việc của Thần Linh chứ không phải là những công việc của "xác thịt".

Thánh Tông Ðồ nhấn mạnh đến sự tương khắc giữa "xác thịt" và "Thần Linh", cũng như giữa hai loại việc làm, tư tưởng và đời sống từ hai lãnh vực này mà ra: "Ðối với những ai sống theo xác thịt thì hứng theo xác thịt, còn những người sống theo Thần Linh thì hứng theo Thần Linh. Hứng theo xác thịt thì chết, còn hứng theo Thần Linh thì sống và bình an" (Rm.8:5-6).

Thật là nản khi thấy được "những việc làm của xác thịt" cùng với những tình trạng thoái lui về tâm linh cũng như về văn hóa nơi con người thú tính (homo animalis). Thế nhưng, cái nhìn này dầu sao cũng không được làm cho chúng ta quên rằng thực tại của đời sống "theo Thần Linh" rất khác nhau, một thực tại cũng có mặt trong thế gian và chống lại với việc lan tràn của sự dữ. Thánh Phaolô nói về điều này trong Thư gửi giáo đoàn Galata, khi ngài liệt kê "hoa trái của Thần Linh" phản lại với "những việc làm của xác thịt" là việc làm khiến cho con người bị loại trừ khỏi "vương quốc Thiên Chúa", những hoa trái đó là "yêu thương, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, từ tâm, quảng đại, trung thành, dịu hiền và tự chủ" (x.5:19-22). Theo Thánh Phaolô, những hoa trái này nơi các tín hữu phát xuất từ bên trong, từ "luật của Thần Linh" (Rm.8:2), một thứ luật ở bên trong người tín hữu và là luật hướng dẫn đời sống nội tâm của họ (x.Gal.5:18,25).

Vấn đề được nói đến ở đây là nguyên lý của đời sống thiêng liêng cũng như của hành vi Kitô hữu, một nguyên lý vừa nội tại vừa siêu việt, căn cứ vào lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thần Chân Lý, Ðấng thế gian không thể tiếp nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Ngài... sẽ ở trong các con" (Jn.14:17). Chúa Thánh Thần từ trên cao xuống nhưng thấu nhập và ở trong chúng ta để làm cho đời sống nội tâm của chúng ta linh động. Chúa Giêsu không chỉ nói: "Ngài ở với các con", nghĩa là sát với ý nghĩa của một sự hiện diện, nhưng còn nhấn mạnh đó là một sự hiện diện ở trong chúng ta (Jn.14:17) nữa. Phần Thánh Phaolô ước mong các Kitô hữu giáo đoàn Eâphêsô được Chúa Cha làm cho họ "tăng cường bằng Thần Linh ở bên trong mình" (Eph.3:16). Ðối với con người, cái đáng kể không phải là sự sống ngoại tại, thường nông nổi, mà là ý hướng sống trong "thâm cung của Thiên Chúa", nơi Chúa Thánh Thần thấu suốt (1Cor.2:10).

Việc Thánh Phaolô phân biệt giữa con người "tâm lý" (spychic) với con người "tâm linh" (spiritual) giúp chúng ta hiểu được sự khác nhau và cách biệt giữa sự trưởng thành tự nhiên nơi những năng lực của linh hồn con người với sự trưởng thành Kitô giáo đích thực phát xuất từ sự tăng triển của cuộc sống theo Thần Linh, một sự trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Kiến thức về Nguồn Mạch thần linh nơi cuộc sống thiêng liêng này, một nguồn mạch bắt nguồn từ trong linh hồn phát tỏa vào tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống, ngay cả những lãnh vực bề ngoài và xã hội, là một phương diện sâu xa và cao cả của nhân loại học Kitô giáo. Cốt lõi của kiến thức này là chân lý đức tin khiến cho chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần ngự trong tôi (x.1Cor.3:16), cầu nguyện trong tôi (x.Rm.8:26; Gal.4:6), hướng dẫn tôi (x.Rm.8:14) và làm cho Chúa Kitô sống trong tôi (x.Gal.2:20).

Ngay cả sự so sánh mà Chúa Giêsu đã dùng trong cuộc nói chuyện với người phụ nữ Samaritanô ở bờ giếng Giacóp về nước hằng sống mà Người sẽ ban cho những ai tin vào Người, thì nước "sẽ trở nên nơi họ một mạch nước vọt lên sự sống đời đời" (Jn.4:14), cũng có ý nói đến mạch nước bên trong của đời sống thiêng liêng. Chính Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ điều này vào dịp "lễ Lều Tạm" (Jn.7:2), khi Người "đứng mà kêu lên: 'Ai khát hãy đến cùng Tôi mà uống. Ai tin vào tôi, như Sách Thánh nói (x.Is.55:1), các giòng sông nước hằng sống sẽ từ bên trong lòng họ chảy ra'". Thánh Gioan chú giải rằng "Người nói điều này ám chỉ Thần Linh mà những ai tin vào Người phải được nhận lãnh" (Jn.7:37-39).

Nơi người tín hữu, Chúa Thánh Thần khai triển toàn bộ cơ động của ân sủng ban sự sống mới cũng như toàn bộ cơ động của các nhân đức làm cho sức sống này mang lại nhiều hoa trái thiện hảo. Từ "bên trong" người tín hữu, Chúa Thánh Thần cũng hoạt động như một ngọn lửa, theo một so sánh khác Thánh Gioan Tẩy Giả đã ví liên quan đến phép rửa: "Người sẽ rửa qúi vị trong Thánh Thần và trong lửa" (Mt.3:11). Chính Chúa Giêsu cũng sử dụng biểu hiệu lửa trong mối tương quan với sứ vụ thiên sai của Người: "Thày đã đến để đốt lửa trên thế gian" (Lk.12:49). Bởi thế, Thần Linh làm cho đời sống bừng lên lòng sốt sắng, như lời Thánh Phaolô khuyên ở bức thư gửi giáo đoàn Rôma: "Hãy sốt sắng trong Thần Linh" (12:11). Ðây là một "ngọn lửa yêu thương sống động" có tác dụng thanh tẩy, soi sáng, nung nấu và thiêu đốt, như Thánh Gioan Thánh Giá đã giải nghĩa rất rõ ràng minh bạch.

Dước tác động của Chúa Thánh Thần nơi người tín hữu sẽ tiến triển một sự thánh thiện nguyên vẹn đến nỗi có khả năng tiếp thụ, thăng hoa và hoàn hảo, chứ không hủy hoại, cá tính nơi mỗi một người. Bởi thế mọi thánh nhân đều có một bộ mặt riêng biệt. Với Thánh Phaolô chúng ta có thể nói rằng: "Tinh tú tỏa sáng khác nhau" (1Cor.15:41), chẳng những nơi "việc phục sinh sau này", như được Thánh Phaolô ám chỉ, mà còn nơi tình trạng hiện tại của thành phần con người không còn thuần tâm lý (theo sự sống tự nhiên), song linh thiêng (theo Thánh Thần khơi động) (x.1Cor.15:44ff).

Sự thánh thiện hệ tại mức độ trọn hảo của tình yêu. Tuy nhiên, sự thánh thiện này được chia ra tùy theo các phương diện khác nhau được tình yêu thể hiện qua một số hoàn cảnh của đời sống cá nhân. Theo tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi người dùng tình yêu để chế ngự bản năng của cái tôi, và tăng phát những mãnh lực mạnh nhất theo kiểu cách thế riêng trong việc hy hiến bản thân mình. Khi mãnh lực bộc lộ và trải rộng này trở thành mạnh mẽ đặc biệt thì Chúa Thánh Thần sẽ khiến cho có những nhóm môn đệ và hậu duệ qui tụ lại chung quanh những con người ấy (cho dù có những lúc họ là những con người thầm kín). Thế nên mới có những trào lưu sống thiêng liêng, những trường phái tu đức học và những tổ chức tu trì, với tính cách khác biệt nhau theo tác dụng của ảnh hưởng thần linh. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng làm thực dụng những khả năng của tất cả các thành phần này, nơi những nhân vật và những nhóm hội, nơi những cộng đoàn và những tổ chức, nơi các vị linh mục cũng như nơi giáo dân.

Giá trị mới của tự do là đặc tính của đời sống Kitô hữu bắt nguồn từ nguồn mạch nội tâm này. Như Thánh Phaolô nói: "Ở đâu có Thần Linh Chúa ở đấy có tự do" (2Cor.3:17). Thánh Tông Ðồ đang cố ý nói đến chính niềm tự do mà thành phần theo Chúa Kitô có được so sánh với lề luật Do Thái, hợp với giáo huấn và thái độ của chính Chúa Giêsu. Thế nhưng, nguyên tắc thánh nhân nói đó có một ý nghĩa tổng quát. Thánh nhân thường nói đến tự do như ơn gọi của Kitô hữu: "Anh em ơi, anh em đã được kêu gọi để sống tự do" (Gal.5:13). Và thánh nhân đã cắt nghĩa rõ ràng những gì ngài có ý nói. Theo Thánh Tông Ðồ, ai "sống bởi Thần Linh" (Gal.5:16) là sống trong tự do, vì người đó không còn bị áp lực của gông cùm xác thịt nữa: "Hãy theo Thần Linh mà sống thì anh em chắc chắn sẽ không tìm thỏa mãn ước muốn của nhục thể" (Gal.5:16). "Hứng theo xác thịt thì chết, còn hứng theo Thần Linh thì sống và được bình an" (Rm.8:6).

"Những việc làm của xác thịt", mà thành phần Kitô hữu trung thành với Thần Linh được giải thoát, là những việc làm của cái tôi và đam mê nhục dục, những việc làm cản trở con người tiến vào vương quốc của Thiên Chúa. Những việc làm của Thần Linh là những việc làm của tình yêu: "Không có luật lệ đối với những điều như vậy" (Gal.5:23).

Theo Thánh Tông Ðồ, những việc làm của Thần Linh sẽ mang lại là "nếu anh em được Thần Linh hướng dẫn, thì anh em không lệ thuộc lề luật" (Gal.5:18). Viết cho Timôthêu, thánh nhân không ngần ngại nói: "Lề luật không có nghĩa gì với một con người chính trực" (1Tim.1:9). Và Thánh Tôma cắt nghĩa: "Lề luật không có một mãnh lực áp đặt nào trên người công chính như nơi kẻ gian ác" (Summa Theol., I-II,q.96,a.5 và 1), vì người công chính không làm gì trái với lề luật cả. Trái lại, được hướng dẫn bởi Thánh Thần, họ tự do làm mọi sự như lề luật ấn định (x.Rm.8:4; Gal.5:13-16).

Ðó là một hòa điệu tuyệt vời giữa tự do và lề luật, kết qủa của tác động Thánh Thần nơi người công chính. Tiên tri Giêrêmia và Ezekien đã nói trước điều này, khi loan báo việc nội tâm hóa lề luật của tân ước (x.Jer.31:31-34; Ez.36:26-27).

"Ta sẽ đặt Thần Linh của Ta trong các ngươi" (Ez.36:27). Lời tiên tri này đã được hiện thực và tiếp tục hoạt động nơi tín hữu cũng như trong cộng đồng Giáo Hội. Chính Thần Linh là Ðấng làm cho lời tiên tri này được thực hiện, không phải thành một người thuần túy giữ luật, mà là một người tự do, sốt sắng và trung thành hoàn thành ý định của Thiên Chúa. Họ làm theo tất cả những gì Thánh Tông Ðồ nói: "Những ai được Thần Linh dẫn dắt đều là con cái của Thiên Chúa. Vì anh em không lãnh nhận một thần trí nô lệ để lại sống trong lo âu sợ hãi, song anh em lãnh nhận một thần trí thừa nhận để chúng ta kêu lên: 'Abba, Lạy Cha!'" (Rm.8:14-15). Chúa Giêsu đã công bố niềm tự do của con cái là niềm tự do đích thực (x.Jn.8:36). Nó là một niềm tự do sâu xa ở bên trong, song cũng là một niềm tự do luôn luôn hướng về tình yêu thương, một tình yêu thương có khả năng và hầu như tự động (x.Eph.2:18) dẫn con người đến cùng Chúa Cha trong một Thần Linh duy nhất. Ðó là một niềm tự do sáng suốt tỏa ra nơi đời sống của các vị thánh.

(Bài Giáo Lý thứ 72 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 10-4-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


28-Thần Linh: Nguồn Mạch Ðời Sống Cầu Nguyện

Thể thức đệ nhất và tuyệt nhất biểu hiệu đời sống nội tâm là việc cầu nguyện. Các thày dạy và các nhà thông thạo đời sống tu đức đã thâm tín điều này đến nỗi họ thường nói về đời sống nội tâm như là một đời sống cầu nguyện. Tác giả chính yếu của đời sống này là Chúa Thánh Thần, như Ngài đã đóng vai trò này nơi Ðức Kitô. Thật vậy, chúng ta đã đọc thấy sự kiện này trong Phúc Âm thánh Luca: "Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu hứng khởi trong Thánh Thần thốt lên: 'Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin chúc tụng Cha'" (Lk.10:21). Ðây là một lời cầu chúc tụng và tạ ơn, mà, theo thánh ký, thoát lên từ nỗi hân hoan "trong Thánh Thần".

Chúng ta biết rằng, trong cuộc hoạt động thiên sai của mình, Chúa Giêsu thường lui vào nơi cô quạnh để cầu nguyện, và Người đã cầu nguyện cả đêm (x.Lk.6:12). Ðể cầu nguyện, Người thích những nơi hoang vắng như thế, nơi giúp cho con người chuyện vãn với Thiên Chúa, Ðấng hết lòng đáp ứng nhu cầu và xu hướng của mọi thần trí biết nhạy cảm đối với mầu nhiệm siêu việt thần linh (x.Mk.1:35; Lk.5:16). Cựu Ước (x.Ex.34:28; 1Kgs.19:8) cho chúng ta thấy Moisen và Elia đã hành động theo cung cách này. Sách tiên tri Hosea cũng cho chúng ta thấy rằng những nơi hoang vắng giúp cho việc hứng khởi cầu nguyện. Thiên Chúa "sẽ dẫn (chúng ta) vào trong sa mạc mà nói với lòng (chúng ta)" (x.Hos.2:16).

Trong cuộc sống của chúng ta, cũng như trong cuộc sống của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần tỏ mình ra như là một Thần Linh của việc nguyện cầu. Thánh Tông Ðồ Phaolô đã nói với chúng ta một cách hùng hồn trong đoạn thư gửi giáo đoàn Galata như chúng ta đã trích dẫn trước đây: "Ðể chúng ta thấy được mình là con, Thiên Chúa đã sai Thần Linh Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu lên 'Abba, Lạy Cha!'" (Gal.4:6). Như thế, bằng một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã chuyển sang lòng chúng ta lời nguyện cầu của Con là Ðấng đã dâng Chúa Cha tiếng kêu lên này. Cả lời cầu nguyện của chúng ta nữa cũng diễn tả "việc chúng ta được thừa nhận làm con" là việc được ban cho chúng ta trong Ðức Kitô và nhờ Ðức Kitô (x.Rm.8:15). Cầu nguyện là tuyên xưng niềm tin của chúng ta nhận thức được chân lý "chúng ta là con cái" và là "những người thừa tự của Thiên Chúa", "những người cùng được thừa tự với Ðức Kitô". Cầu nguyện khiến cho chúng ta sống thực tại siêu nhiên này nhờ tác động của Chúa Thánh Thần là Ðấng "làm chứng cho tâm linh chúng ta" (x.Rm.8:16-17).

Từ khi Giáo Hội mới bắt đầu, các môn đồ của Ðức Kitô đã sống chính niềm tin này, một niềm tin cũng được thể hiện vào lúc lâm chung. Chúng ta thừa biết lời cầu nguyện của thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi, một con người "đầy Chúa Thánh Thần". Ðang khi bị ném đá, Ngài đã chứng tỏ mối hiệp nhất đặc biệt giữa ngài với Ðức Kitô qua lời than, như Vị Tôn Sư tử giá của mình, liên quan đến thành phần hành hình mình: "Lạy Chúa, xin chớ chấp tội họ!". Thế rồi, vẫn trong trạng thái nguyện cầu, thánh nhân chăm chú nhìn lên vinh quang của Ðức Kitô đứng "bên hữu Thiên Chúa" mà kêu lên: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy tâm thần của con" (x.Acts 7:55-60). Lời nguyện cầu này là hoa trái của tác động Thánh Thần nơi lòng của vị tử đạo.

Người ta cũng thấy cùng một hứng khởi nguyện cầu nội tâm nơi hành động tử đạo của các vị khác, thành phần tuyên xưng Ðức Kitô. Những vị sứ giả đồng loạt này đã nói lên ý thức Kitô giáo được đào luyện nơi trường học Phúc Âm cũng như nơi những bức thư của các tông đồ là những gì làm nên ý thức của chính Giáo Hội.

Thực tế cho thấy, nhất là theo giáo huấn của Thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần tác hành như tác giả của đời sống nguyện cầu Kitô giáo, trước hết, là vì Ngài thúc đẩy chúng ta cầu nguyện. Ngài chính là Ðấng làm phát sinh nơi chúng ta, nhất là lúc bị cám dỗ, nhu cầu và ước muốn thực hiện việc "tỉnh thức và cầu nguyện" như Chúa Kitô kêu gọi, vì "tinh thần thì linh hoạt song xác thịt lại yếu nhược" (Mt.26:41). Lời Chúa Kitô kêu gọi này như được âm dội nơi lời huấn dụ của Bức Thư gửi giáo đoàn Eâphêsô: "Bằng tất cả nguyện cầu và kêu xin, anh em hãy cầu nguyện trong Thần Linh ở mọi hoàn cảnh. Ðể được như thế, anh em hãy hết sức kiên tâm coi chừng... hầu tôi nói lên những lời hiên ngang làm tỏ hiện mầu nhiệm Phúc Âm" (Eph.6:18-19). Thánh Phaolô nhận thức rằng thánh nhân đang ở trong tình trạng của những người cần cầu nguyện để chống lại chước cám dỗ, và để khỏi trở thành mồi ngon cho nỗi yếu hèn loài người, cũng như để nhìn thẳng vào sứ vụ được kêu gọi. Thánh nhân luôn luôn nhớ và đôi khi rùng mình nhận thức được trách nhiệm ủy nhiệm cho ngài trong việc làm chứng nhân cho Ðức Kitô và cho Phúc Âm trên thế giới, nhất là giữa thành phần dân ngoại. Thánh nhân biết rằng điều ngài được gọi để làm và để nói cũng là và thực ra là công việc của Thần Chân Lý mà Chúa Giêsu nói đến: "Ngài sẽ lấy những gì từ Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:14). Chúa Thánh Thần dùng "những gì từ Chúa Kitô" để "tôn vinh Người" qua sứ điệp truyền giáo. Bởi thế mà chỉ khi nào con người đi sâu vào lãnh vực Chúa Kitô liên kết với Thần Linh của Người trong mầu nhiệm nên một với Chúa Cha, họ mới có thể hoàn thành cùng một sứ vụ như thế. Cầu nguyện là đường lối để tiến vào mối hiệp thông này, một mối hiệp thông được Thần Linh khơi dậy trong chúng ta.

Bằng những lời hết sức sâu xa trong Thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Tông Ðồ cho thấy cách thức "Thần Linh đến trợ giúp nỗi yếu hèn của chúng ta; vì chúng ta không biết mình phải cầu nguyện ra sao, nên chính Thần Linh đã chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả" (Rm.8:26). Thánh Phaolô cũng nghe thấy những lời than tương tự vang lên ngay từ thâm cung của thế giới tạo vật, thành phần "đang ngong ngóng mong đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" trong hy vọng được "giải cứu khỏi bị làm tôi cho hư hoại, quằn quại kêu lên cho đến nay" (Rm.8:19,21-22). Trước bối cảnh linh thiêng có tính cách lịch sử này, Chúa Thánh Thần đang hoạt động: "Ðấng dò thấu tâm can thì biết được ý hướng của Thần Linh, vì Ngài chuyển cầu cho các thánh theo ý muốn của Thiên Chúa" (Rm.8:27). Ðến đây chúng ta đang ở ngay nguồn mạch của việc cầu nguyện thân tình và sâu xa nhất. Thánh Phaolô cắt nghĩa cho chúng ta thấy và làm cho chúng ta hiểu rằng Chúa Thánh Thần chẳng những thôi thúc chúng ta cầu nguyện mà chính Ngài còn cầu nguyện trong chúng ta nữa!

Chúa Thánh Thần ở ngay mạch nguồn của lời cầu nguyện, một lời nguyện cầu nói lên tuyệt hảo nhất mối liên hệ hiện hữu giữa các Ngôi Vị Thần Linh trong Ba Ngôi: lời cầu nguyện tôn vinh và tạ ơn, làm hiển danh Chúa Cha cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Lời cầu nguyện này đã là lời cầu nguyện ở trên môi miệng của các vị tông đồ vào ngày Lễ Hiện Xuống, khi các vị loan báo "những công việc quyền năng của Thiên Chúa" (Acts 2:11). Những điều này cũng đã xẩy ra nơi trường hợp của viên đại đội trưởng Cornêliô, lúc mà thánh Phêrô đang diễn giải, thì những ai hiện diện bấy giờ đều đã nhận được "tặng ân Chúa Thánh Thần" và rồi "đã tôn vinh Thiên Chúa" (x.Acts 10:45-47).

Trong Thư gửi cho giáo đoàn Côlôsê, Thánh Phaolô đã giải thích cảm nghiệm Kitô giáo đầu tiên này, một cảm nghiệm đã trở thành gia sản chung của Giáo Hội sơ khai. Sau khi biểu lộ ước mong sao cho "lời của Chúa Kitô dồi dào ở trong anh em" (Col.3:16), thánh nhân đã kêu gọi các Kitô hữu giữ việc cầu nguyện, bằng việc "ca hát với niềm tạ ơn Thiên Chúa trong lòng anh em", chỉ dẫn và thúc giục nhau hát "những thánh vịnh, thánh ca và những khúc ca linh thiêng" (Col.3:17). Và thánh nhân xin họ chuyển lối sống nguyện cầu này sang bất cứ những gì họ làm trong lời nói cũng như trong hành động. "Hãy nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà làm mọi sự, nhờ Người tạ ơn Thiên Chúa là Cha" (Col.3:17). Trong Thư gửi giáo đoàn Êphêsô thánh nhân cũng khuyên tương tự như thế: "Anh em hãy làm cho mình đầy thần trí, ngỏ lời với nhau bằng các bài thánh vịnh và các bản thánh ca... hát mừng Chúa trong lòng anh em, nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà luôn tạ ơn Thiên Chúa là Cha về mọi sự" (Eph.5:18-20).

Ðiều này mang chúng ta về lại với chiều kích Ba Ngôi của lời cầu nguyện Kitô giáo theo giáo huấn và huấn dụ của thánh Tông Ðồ. Người ta cũng có thể thấy, cùng với thánh Tông Ðồ, chính Thánh Linh là Ðấng thôi thúc loại cầu nguyện này và hình thành nó nơi lòng con người. "Ðời cầu nguyện" của các thánh, các nhà thần bí, các trường phái và trào lưu tu đức được phát triển qua các thế hệ Kitô giáo cũng hợp với cảm nghiệm của các cộng đồng sơ khai. Phụng vụ của Giáo Hội cũng thể hiện như thế, chẳng hạn trong kinh Vinh Danh chúng ta đọc: "Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa"; tương tự nơi cả kinh Tạ Ơn (Te Deum), chúng ta chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Ngài là Chúa. Trong phần mở đầu là một lời mời gọi giống nhau: "Chúng ta hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa của chúng ta", và giáo hữu được kêu gọi để tỏ lòng đáp ứng và tham dự: "Thật là phải lẽ và chính đáng". Ðẹp đẽ biết bao khi lập lại, cùng với Giáo Hội nguyện cầu, vào cuối mỗi một thánh vịnh cũng như vào cuối nhiều dịp khác như thế, một đoản khúc Gloria Patri ngắn gọn và uy linh: "Sánh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần..."

Việc tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi theo tác động của Chúa Thánh Thần là Ðấng cầu nguyện trong chúng ta và cho chúng ta, diễn ra ở ngay cõi lòng. Thế nhưng, việc tôn vinh này cũng được chuyển thành việc chúc tụng bằng lời nói để đáp ứng những bộc lộ cá nhân cũng như chung cộng đồng trong việc cử hành những kỳ công của Thiên Chúa. Linh hồn kính mến Thiên Chúa tự bộc phát bằng những lời lẽ, và cũng dễ dàng bằng các bài hát, như vốn thực hiện trong Giáo Hội kể từ các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi. Thánh Augustinô cho chúng ta biết rằng "Thánh Ambrôsiô đã mang ca hát vào Giáo Hội Milan" (x.Tự Thú,9,c.7: PL 32,770). Thánh nhân nhớ rằng ngài đã khóc khi nghe "những bài thánh ca và những bài hát âm vang ngọt ngào trong Giáo Hội Chúa, và cảm thấy hết sức xúc động" (x.Tự Thú,9,c.6: PL 32,769). Ngay cả âm thanh cũng có thể góp phần vào việc chúc tụng Thiên Chúa, khi những khí cụ giúp vào việc "nâng cảm tình con người lên" (Thánh Tôma Aquinô, Expositio in Psalmos,32,2). Tác dụng này nói lên giá trị của các bài hát và ca nhạc trong phụng vụ của Giáo Hội, vì "chúng giúp khơi động cảm tình đối với Thiên Chúa ... bằng những cung điệu khác nhau" (Summa Theol., II-II,q.92,a.2; x.Thánh Augustinô, Confessions,10,c.22: PL 32,800). Nếu những tiêu chuẩn phụng vụ được tuân hành, ngày nay người ta cũng có thể cảm nghiệm được điều Thánh Augustinô gợi lại ở một đoạn Tự Thú khác của ngài (9,c.4,n.8): "Ôi Chúa Trời con ơi, con sẽ dâng lên Chúa những bài ca nào khi đọc các thánh vịnh Ðavít, các ca vịnh của đức tin, bản nhạc của lòng đạo đức... Con sẽ dâng lên Chúa những bản nhạc nào đây khi đọc những thánh vịnh ấy! Con cảm thấy nóng nẩy yếu mến Chúa biết bao và muốn đọc những thánh vịnh này trước mặt toàn thể thế giới, nếu con làm được..." Tất cả những điều này xẩy ra khi linh hồn con người hay cộng đoàn chiều theo hoạt động sâu xa của Chúa Thánh Thần.

(Bài Giáo Lý thứ 73 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 17-4-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


29-Thần Linh: Ánh Sáng của Tâm Hồn

Ðời sống thiêng liêng cần được soi sáng và hướng dẫn. Bởi thế, để thiết lập Giáo Hội và sai các tông đồ vào trần gian, Chúa Giêsu đã ủy thác cho các vị công việc giảng dạy mọi dân nước, như chúng ta đọc thấy trong Phúc Âm theo thánh Mathêu (x.28:19-20), cũng như công việc "công bố Phúc Âm cho mọi tạo vật", như bản văn Phúc Âm thánh Marcô viết (16:15). Thánh Phaolô cũng nói về việc làm tông đồ như một "việc sáng soi cho tất cả mọi người" (Eph.3:9).

Thế nhưng, công việc truyền bá Phúc Âm và giảng dạy của Giáo Hội thuộc về sứ vụ của các vị tông đồ và các người thừa kế các vị, cũng như, thuộc về mọi phần tử của Giáo Hội theo một cách thế khác nhau. Chính là để tiếp tục qua mọi thời đại công cuộc của Chúa Kitô, "Thày dạy duy nhất" (Mt.23:8), Ðấng đã mang đến cho nhân loại mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa. Tuy nhiên vẫn cần có một thày dạy bên trong, vị thấu nhập cõi lòng và tâm linh con người bằng giáo huấn của Chúa Kitô. Vị thày này là Chúa Thánh Thần, Ðấng chính Chúa Giêsu gọi Ngài là "Thần Chân Lý", và cũng là Ðấng Người đã hứa như Ðấng sẽ dẫn các vị vào tất cả sự thật (x.Jn.14:17,16:13). Nếu Chúa Giêsu nói về mình: "Thày là sự thật" (Jn.14:6), thì Thánh Thần làm cho sự thật Chúa Kitô này được nhận biết và truyền bá ra: "Ngài sẽ không tự mình mà nói, song Ngài sẽ nói những gì Ngài nghe thấy... Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:13-14). Thần Linh là ánh sáng của linh hồn: Lumen cordium, như chúng ta gọi Ngài trong ca tiếp liên Lễ Hiện Xuống.

Chúa Thánh Thần là ánh sáng và là vị thày nội tâm đối với các tông đồ, thành phần đã nhận biết Chúa Kitô sâu xa để có thể hoàn tất công việc của mình là những nhà rao giảng Phúc Âm. Ngài đã và vẫn như thế đối với Giáo Hội và trong Giáo Hội, với các tín hữu qua mọi thế hệ, và đặc biệt với các thần học gia và các vị linh hướng, với các giáo lý viên cũng như với những người có trách nhiệm nơi các cộng đồng Kitô giáo. Ngài đã và vẫn như thế đối với tất cả mọi người, cả bên trong hay bên ngoài những phân cách hữu hình của Giáo Hội, thành phần thật lòng muốn theo đường lối của Thiên Chúa, và không do lỗi tại mình, đã không tìm kiếm một người nào đó để giúp họ giải quyết những nan giải của cuộc sống và khám phá ra sự thật đã được mạc khải. Xin Chúa ban cho tất cả mọi anh chị em chúng ta - cả hàng triệu, thậm chí cả hàng tỉ con người - ơn chấp nhận và dễ dạy đối với Chúa Thánh Thần vào những giây phút định đoạt cuộc sống của họ.

Ðối với Kitô hữu chúng ta, việc giảng dạy bên trong của Chúa Thánh Thần là một sự thật phấn khởi. Sự thật này dựa vào lời của Chúa Kitô về việc "Ðấng An Ủi khác" đến, Ðấng Người nói "Cha sẽ nhân danh Thày sai đến - Ngài sẽ dạy các con mọi sự và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thày đã nói với các con" (Jn.14:26). "Ngài sẽ hướng dẫn các con vào tất cả sự thật" (Jn.16:13).

Căn cứ vào đoạn văn này người ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu đã không ký thác lời của Người cho trí nhớ của nhân loại mà thôi. Trí nhớ này phải được Chúa Thánh Thần hỗ trợ, Ðấng sẽ tiếp tục làm sống lại nơi các vị tông đồ việc tưởng nhớ đến những biến cố cùng ý nghĩa của các mầu nhiệm Phúc Âm.

Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các vị tông đồ trong việc lưu truyền lời nói và cuộc sống của Chúa Giêsu. Thần Linh đã linh ứng cho cả việc giảng dạy bằng ngôn từ lẫn các văn bản của các vị, cũng như việc nhuận sắc các Phúc Âm, như chúng ta đã thấy trong bài giáo lý về Chúa Thánh Thần và việc mạc khải.

Ngài cũng giúp cho các người đọc Thánh Kinh hiểu được ý nghĩa thần linh trong bản văn mà Ngài khơi động viết lên và là tác giả chính. Một mình Ngài làm cho con người biết được "thâm cung của Thiên Chúa" (1Cor.2:10) được hàm chứa trong văn bản thánh. Chính Ngài là Ðấng được sai đến để chỉ dẫn các môn đệ theo những giáo huấn của Thày mình (x.Jn.16:13).

Chính các vị tông đồ là những vị đầu tiên lưu truyền lời của Chúa Kitô đã nói về việc dạy dỗ bên trong này của Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan viết: "Thế nhưng, anh em nhận lãnh việc xức dầu từ Ðấng Thánh (Chúa Kitô), và tất cả anh em đều có kiến thức. Tôi viết cho anh em không phải vì anh em không biết chân lý mà là vì anh em biết và vì mọi gian dối tương khắc với chân lý" (1Jn.2:20-21). Theo các Giáo Phụ của Hội Thánh và đa số các nhà dẫn giải Thánh Kinh hiện đại thì "việc xức dầu" này (chrisma) biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan còn nói rằng những ai sống theo Thần Linh không cần thày dạy nào khác: "Ðối với anh em, việc xức dầu anh em đã lãnh nhận từ Ngài vẫn ở nơi anh em, nên anh em không cần ai dạy dỗ anh em. Song việc xức dầu của Ngài dạy dỗ anh em mọi sự chân thật và không sai lầm; vậy anh em hãy ở lại nơi Ngài và giữ điều anh em đã học biết từ việc xức dầu" (1Jn.2:27).

Cả thánh Tông Ðồ Phaolô cũng nói đến một sự hiểu biết theo Thần Linh không phải là hoa trái của sự khôn ngoan loài người, mà là do được thần linh soi sáng: "Cả con người tự nhiên cũng có thể phán đoán mọi sự mà không bị phán đoán bởi bất cứ người nào" (1Cor.2:14-15).

Bởi thế, một khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được xức dầu bởi Chúa Kitô, Kitô hữu chiếm hữu nơi bản thân mình một nguồn mạch của kiến thức về chân lý, và Chúa Thánh Thần là thày dạy tối cao, Ðấng soi sáng và hướng dẫn họ.

Một khi Kitô hữu dễ dạy và trung thành với giáo huấn thần linh của mình, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ họ khỏi lầm lẫn, bằng cách làm cho họ vượt qua cuộc đối chọi liên lỉ giữa "thần trí chân lý" và "thần trí gian tà" (x.1Jn.4:6). Thần trí gian tà không công nhận Ðức Kitô (x.1Jn.4:3), lan tràn bởi những "tiên tri giả", thành phần luôn luôn có mặt trên thế gian, ngay cả giữa Kitô hữu, bằng một hoạt động, đôi khi tỏ tường, thậm chí cảm kích, hay đôi khi ngấm ngầm và tinh khéo. Như Satan, có lúc chúng cũng mặc lốt như "các thần sáng láng" (x.2Cor.11:14) và tỏ mình ra bằng những đặc sủng sấm ngôn và cảm hứng khải huyền. Sự kiện này đã xẩy ra từ thời các tông đồ. Bởi thế, Thánh Gioan đã cảnh giác: "Anh em đừng có tin vào mọi thứ thần trí, song hãy trắc nghiệm xem các thần trí đó có từ Thiên Chúa mà ra chăng, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian" (1Jn.4:1). Như Công Ðồng Chung Vaticanô II nhắc nhở (xem Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 12) , Chúa Thánh Thần bảo vệ Kitô hữu khỏi lầm lẫn, bằng cách làm cho họ nhận thức được điều chân thật nơi điều sai trái. Kitô hữu luôn luôn sẽ cần đến những tiêu chuẩn đúng đắn để có thể nhận thức những gì họ nghe thấy hay đọc thấy về những vấn đề tôn giáo, Sách Thánh, những hiện tượng siêu nhiên, v.v. Những tiêu chuẩn này phải đúng với Phúc Âm, hợp với giáo huấn của Giáo Hội là cơ cấu được Chúa Kitô thiết lập và đặt định để giảng dạy sự thật của Người, hợp với tác hành luân lý của người nói hay viết, và hợp với hoa trái thánh thiện như kết qủa của những gì được trình bày hay chủ trương.

Chúa Thánh Thần dạy Kitô hữu biết được chân lý là nguyên lý sự sống. Ngài tỏ cho họ thấy những áp dụng cụ thể lời của Chúa Giêsu nơi cuộc sống mỗi người. Ngài làm cho con người khám phá ra giá trị hiện đại của Phúc Âm đối với mọi hoàn cảnh sống nhân loại. Ngài làm cho kiến thức về chân lý thích ứng với mọi hoàn cảnh sống, để chân lý này không chỉ thuần túy trừu tượng và lý thuyết suông, song giải thoát con người khỏi những hiểm nguy của ngụy tạo và giả hình.

Ðể đạt được mục đích này, Chúa Thánh Thần soi sáng cho từng người một, hướng dẫn việc họ làm, bằng cách tỏ cho họ con đường phải đi và bằng cách ban cho họ một thoáng nhìn thấy ý định của Chúa Cha đối với cuộc đời của họ. Thánh Phaolô tìm kiếm ơn soi sáng cao trọng này cho Kitô hữu giáo đoàn Côlôsê, đó là một "thứ kiến thức thiêng liêng", một kiến thức làm cho họ hiểu được ý định thần linh. Thật vậy, thánh nhân đã cam đoan với họ rằng: "Chúng tôi không thôi cầu nguyện cho anh em và xin cho anh em được đầy dẫy kiến thức về ý định của Ngài (Thiên Chúa), nhờ hoàn toàn khôn ngoan cùng với kiến thức linh thiêng, để anh em sống theo cung cách xứng với Chúa, cho anh em được hoàn toàn mãn nguyện, trong mọi việc thiện sinh hoa kết trái..." (Col.1:9-10). Ðối với tất cả chúng ta, ơn soi sáng này cần thiết để chúng ta có được một hiểu biết rõ ràng ý định của Thiên Chúa dành cho chúng ta cũng như để có thể sống trọn vẹn ơn gọi riêng mình.

Thế nhưng vẫn không bao giờ thiếu những trục trặc và đôi khi những trục trặc này lại nan giải nữa là đàng khác. Thế nhưng, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta trong những lúc khó khăn của chúng ta và ban cho chúng ta ánh sáng. Ngài có thể tỏ cho chúng ta thấy việc giải quyết thần linh, như Ngài đã làm nơi cuộc truyền tin, liên quan đến vấn đề dung hòa giữa việc làm mẹ với ước muốn giữ mình đồng trinh. Ngay cả đến vấn đề đối với một mầu nhiệm đặc thù như vai trò của Mẹ Maria trong Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời, có thể nói được rằng, Chúa Thánh Thần cũng có cách sáng tạo vô cùng hợp với lý trí thần linh, để con người biết cách tháo gỡ những khúc mắc, cho dù có phức tạp và khôn thấu nhất đi nữa.

Tất cả những ơn này được ban và hoàn tất nơi linh hồn bởi Chúa Thánh Thần, nhờ những tặng ân của Ngài, nhưng ân sủng mà con người có thể để ý thấy được, không theo tiêu chuẩn khôn ngoan loài người là sự ngu dại trước nhan Thiên Chúa, nhưng theo khôn ngoan thần linh dường như ngu dại trước mắt thế gian (x.1Cor.1:18-25). Chỉ có Chúa Thánh Thần mới "thấu suốt mọi sự, kể cả thâm cung của Thiên Chúa" (1Cor.2:10-11). Và nếu có sự tương phản giữa tinh thần thế gian và Thần Linh Thiên Chúa, thì thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu rằng: "Chúng ta không lãnh nhận thần trí của thế gian mà là Thần Linh từ Thiên Chúa, để chúng ta có thể hiểu được những gì Thiên Chúa nhưng không ban cho chúng ta" (1Cor.2:12). Không như "con người tự nhiên", "con người thiêng liêng" thì đơn thành cởi mở đối với Chúa Thánh Thần, dễ dạy và trung thành với những khơi động của Ngài (x.1Cor.2:14-16). Nhờ đó, họ thường có khả năng thực hiện những phán đoán đúng theo sự hướng dẫn khôn ngoan thần linh.

Dấu hiệu cho chúng ta thấy mình thực sự gắn bó với Chúa Thánh Thần là và sẽ luôn luôn là, việc chúng ta gắn bó với chân lý mạc khải như Huấn Quyền Giáo Hội dạy. Vị thày nội tâm không bao giờ gợi lên bất mãn, bất phục hay ngay cả chống đối bất chính đối với các vị chủ chăn và thày dạy do Ngài đặt định trong Giáo Hội (x.Acts 20:29). Giáo Hội có thẩm quyền, như Công Ðồng Chung Vaticanô II nói đến trong Hiến Chế Lumen Gentium (đoạn 12), "thử nghiệm mọi sự và giữ lại điều gì thiện hảo, mà không dập tắt Thần Linh" (x.Thes 5:12,19-21). Ðó là hướng đi của đức khôn ngoan thuộc phạm vi giáo hội và mục vụ cũng bởi Chúa Thánh Thần mà có.

(Bài Giáo Lý thứ 74 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 24-4-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


30-Thần Linh: Nguồn Tình Yêu Mới Ban Sự Sống

Nơi linh hồn Kitô hữu có một thứ tình yêu mới mẻ làm cho họ thông phần với tình yêu của Thiên Chúa: "Tình yêu của Thiên Chúa", thánh Phaolô nói, "đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta" (Rm.5:5). Tình yêu này tự bản chất là thần linh, nên nó cao hơn những khả năng theo tự nhiên nơi linh hồn con người. Theo ngôn từ thần học, nó được gọi là đức ái. Tình yêu siêu nhiên này đóng một vai trò trọng yếu nơi đời sống Kitô hữu, như Thánh Tôma cho thấy khi thánh nhân nhấn mạnh một cách tỏ tường rằng đức ái không phải chỉ là một "nhân đức cao qúi nhất trong mọi nhân đức" (excellentissima omnium virtutum), mà còn là "mô thức của mọi nhân đức, vì nhờ đức ái mà hành động của họ mới qui hướng về cùng đích chân thực và tối thượng của chúng" (Summa Theol., II-II, q.23 aa.6 và 8).

Bởi thế, đức ái chiếm được một địa vị then chốt nơi con người mới "được dựng nên theo đường lối của Thiên Chúa trong chính trực và thánh thiện phát xuất từ chân lý" (Eph 4:24; x.Gal 3:27; Rm.13:14). Nếu đời sống Kitô hữu được đem so sánh với một tòa nhà đang được xây cất, thì thấy ngay được rằng đức tin là nền tảng của mọi nhân đức hợp với nó. Công Ðồng Chung Triđentinô dạy rằng "đức tin là khởi sự ơn cứu rỗi con người, là nền tảng và nguồn mạch của tất cả sự công chính" (x.DS 2532). Thế nhưng, việc hiệp nhất với Thiên Chúa bằng đức tin nhắm đến mục đích của mình là việc hiệp nhất với Ngài trong yêu thương của đức ái, một tình yêu thần linh mà linh hồn con người được tham dự vào như là một sinh lực linh hoạt và liên kết.

Trong việc thông truyền sinh lực này cho linh hồn, Chúa Thánh Thần đã làm cho nó có khả năng, nhờ đức ái siêu nhiên, nhờ việc tuân giữ giới răn yêu thương lưỡng đôi do Chúa Giêsu ban truyền: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.

"Các ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng mình..." (Mk.12:30; x.Dt 6:4-5). Chúa Thánh Thần làm cho linh hồn thông dự vào tình yêu con cái đối với Chúa Cha nơi Chúa Giêsu, để, như Thánh Phaolô viết: "Những ai được Thần Linh hướng dẫn đều là con cái của Thiên Chúa" (Rm.8:14). Ngài làm cho Chúa Cha được yêu mến như chính Chúa Con vẫn yêu mến Ngài, chẳng hạn như, bằng một tình yêu con cái được tỏ ra trong tiếng kêu "Lạy Cha" (x.Gal 4:6; Rm 8:15), thế nhưng tình yêu này chan hòa toàn thể hoạt động của những ai là con cái Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. Dưới ảnh hưởng của Thần Linh, cả đời sống của họ trở nên một của lễ đầy trân trọng và thảo hiếu dâng lên cho Chúa Cha.

Khả năng để tuân giữ giới răn kia, là yêu thương anh em mình, cũng bởi Chúa Thánh Thần nữa. "Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con", Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và tất cả những ai theo Người như thế. Những lời "như Thày đã yêu thương các con" đã làm phát hiện một giá trị mới của tình yêu siêu nhiên, đó là được thông dự vào tình yêu của Chúa Kitô đối với loài người, và vì thế, cũng được tham phần vào đức ái đời đời là chính cội nguồn của nhân đức bác ái. Như Thánh Tôma viết: "Yếu tính thần linh tự mình là tình yêu, như yếu tính thần linh này là khôn ngoan và thiện hảo. Thế nên, như người ta có thể nói rằng chúng ta tốt lành bởi sự thiện hảo là Thiên Chúa, và khôn ngoan bởi sự khôn ngoan là Thiên Chúa, vì sự thiện hảo làm chúng ta thực sự tốt lành là sự thiện hảo của Thiên Chúa và sự khôn ngoan làm cho chúng ta thực sự khôn ngoan là khôn ngoan được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa; cũng thế, đức ái làm cho chúng ta thực sự yêu thương anh em mình là đức ái được thông dự vào đức ái thần linh" (Summa Theol., II-II,q.23,a.2,ad 1). Việc tham phần này được tác động bởi Chúa Thánh Thần, Ðấng dùng việc chúng ta tham dự này làm cho chúng ta có thể chẳng những yếu mến Thiên Chúa mà con yêu thương tha nhân mình nữa, như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương họ. Phải, chúng ta có thể yêu thương cả tha nhân của mình vì, nếu tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ tràn vào lòng chúng ta, nhờ tình yêu này, chúng ta có thể yêu thương người khác và, bằng một cách nào đó, yêu thương cả những tạo vật vô tri nữa (x.Summa Theol., II-II, q.25,a.3) như Thiên Chúa đã yêu thương chúng.

Kinh nghiệm lịch sử đã cho chúng ta thấy việc thực hành cụ thể các huấn thị này khó khăn biết bao. Tuy nhiên, nó lại nằm ngay tâm điểm của đạo đức học Kitô giáo, như một tặng ân do Thần Linh ban phát mà chúng ta cần phải xin với Ngài. Thánh Phaolô xác nhận điều này trong Thư gửi giáo đoàn Galata với lời khuyên dụ họ sống trong tự do mà họ đã lãnh nhận bằng một thứ lề luật yêu thương mới: "Thế nhưng anh em đứng sử dụng tự do này để thỏa mãn xác thịt; trái lại, hãy lấy tình yêu mà phục vụ lẫn nhau" (Gal 5:13). "Vì trọn lề luật được gói gọn trong lời này, đó là 'Anh em phải yêu thương tha nhân như chính bản thân mình'" (Gal 5:14). Sau đó, thánh nhân nhắn nhủ: "Bởi thế tôi mới nói là anh em hãy sống bởi Thần Linh và anh em chắc chắn sẽ không chiều theo ước muốn của xác thịt" (Gal 5:16), thánh nhân nhận thấy tình yêu của đức ái (agápe) như là "hoa trái (đầu tiên) của Chúa Thánh Thần" (Gal 5:22). Thế nên, chính Chúa Thánh Thần là Ðấng làm cho chúng ta bước đi trong tình yêu và thắng vượt mọi trở ngại vì đức ái.

Trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô như có ý kéo dài hơn bản liệt kê và diễn tả những đặc tính của đức ái đối với tha nhân. Thật vậy, sau khi đề nghị người ta mong được "những tặng ân thiêng liêng cao cả nhất" (1Cor 12:31), thánh nhân đã ca tụng đức ái như là một sự thiện hảo cao hơn mọi tặng ân phi thường có thể được Chúa Thánh Thần ban cho, và như là một điều thiết yếu hơn những tặng ân ấy đối với đời sống Kitô hữu. Bài ca ngợi đức ái xuất phát từ lời thánh nhân và linh hồn thánh nhân, có thể được coi như một bài ca được Chúa Thánh Thần tác dụng nơi hành vi con người. Theo ý nghĩa này, đức ái có một chiều kích đạo đức học thực dụng: "Yêu thương thì kiên nhẫn, yêu thương thì từ ái. Yêu thương chẳng ghen tị hay huyênh hoang, yêu thương chẳng lên mặt, yêu thương chẳng hung bạo, yêu thương chẳng tìm mình, yêu thương chẳng dễ cáu kỉnh, yêu thương chẳng chấp nhất tổn thương, yêu thương chẳng mừng vì gian ác nhưng vui với lẽ phải. Yêu thương thì chấp nhận mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự" (1Cor.13:4-7).

Trong danh sách "các hoa trái của Thần Linh" (Gal 5:22), có thể nói rằng Thánh Phaolô, đi đôi với bài ca của đức ái trên đây, muốn đề cập đến một vài thái độ chính yếu thuộc về đức ái. Trong đó có những thái độ sau đây:

1) Nhẫn nại, trước hết: "Yêu thương thì nhẫn nại" (1Cor 13:4). Người ta có thể thấy rằng chính Thần Linh làm gương nhẫn nại đối với các tội nhân cũng như với việc làm sai quấy của họ, như chúng ta đọc thấy trong các Phúc Âm về Chúa Giêsu, Ðấng được gọi là "bạn bè của phường thu thuế và bọn tội nhân" (Mt.11:19; x.Lk.7:34). Ðức nhẫn nại này là phản ảnh chính tình yêu Thiên Chúa, Thánh Tôma nhận định, "Ðấng tỏ lòng thương bằng tình yêu, vì Ngài yêu thương chúng ta như những gì thuộc về Ngài" (Summa Theol., II-II,q.30,a.2,ad 1).

2) Từ ái là hoa trái của Thần Linh: "Yêu thương thì từ ái" (1Cor.13:4). Từ ái cũng là phản ảnh của lòng từ ái thần linh đối với người khác, bằng việc chấp nhận cũng như đối xử một cách thiện cảm và thông cảm.

3) Thiện hảo nữa: "Yêu thương chẳng tìm tư lợi" (1Cor 13:5). Tình yêu này sẵn sàng cho đi quảng đại, khi tình yêu của Chúa Thánh Thần tăng thêm những tặng ân của Ngài và thông ban tình yêu của Ngôi Cha cho các tín hữu.

4) Sau hết là hiền dịu: "Yêu thương chẳng dễ cáu kỉnh" (1Cor 13:5). Chúa Thánh Thần giúp Kitô hữu làm tái sinh nơi mình "sự hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" của Chúa Kitô và thực hành mối phúc hiền lành mà Người đã rao giảng (x.Mt.5:5).

Trong việc kể ra "những việc làm của xác thịt" (x.Gal 5:19-21), Thánh Phaolô làm sáng tỏ những đòi hỏi của đức ái, làm nên những phận sự cụ thể, như đối nghịch với những xu hướng của con người thú tính (homo animalis) là nạn nhân cho đam mê của mình. Hơn nữa, điều này có nghĩa là tránh lánh những ghen tương và tranh chấp, mong cho anh em mình được điều tốt lành, tránh hiềm thù, bất mãn, chia rẽ, cải cọ và đề cao những gì mang lại hiệp nhất. Ở đây chúng ta đừng hiểu lầm một câu trong ca khúc yêu thương của Thánh Phaolô nói rằng đức ái "chẳng chấp nhất tổn thương" (1Cor 13:5). Chúa Thánh Thần thúc giục quảng đại thứ tha về những tổn thương phải hứng và những mất mát phải chịu; là Thần Linh soi sáng và yêu thương, Ngài cho phép tín hữu làm điều này khi Ngài tỏ cho họ thấy những đòi hỏi vô hạn của đức ái.

Lịch sử cũng xác nhận sự thật về điều chúng ta vừa dẫn giải. Ðức ái chiếu tỏa nơi đời sống các vị thánh và nơi Giáo Hội, từ ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cho đến nay. Tất cả các thánh và mọi thời sử của Giáo Hội đều mang dấu vết đức ái và Chúa Thánh Thần. Có thể nói được rằng, vào một số thời đoạn lịch sử, theo sự soi động và hướng dẫn của Thần Linh, đức ái đã mặc những thể thức có tính cách đặc biệt hoạt động trong việc tổ chức trợ giúp và nâng đỡ những người chịu đói khổ, bệnh hoạn và dịch tễ cả cũ lẫn mới. Thế nên mới có nhiều "vị thánh bác ái", như các ngài đặc biệt được gọi trong thế kỷ 18 và trong thế kỷ của chúng ta đây. Các ngài là những vị giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và Kitô hữu giáo dân. Tất cả các ngài là "những tôi tớ" đức ái. Nhiều vị đã được Giáo Hội tôn phong, và các vị khác được các tiểu sử gia và sử gia là những người đã có thể chứng kiến tận mắt, hay đã nhận ra từ những văn liệu của các vị, sự cao cả chân thực nơi những môn đồ của Chúa Kitô cũng như những người tôi tớ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đa số vẫn còn vô danh ẩn tính trong đức ái, một đức ái vẫn tiếp tục làm thế giới tràn đầy thiện hảo một cách tốt đẹp. Vinh danh những vị chiến sĩ vô danh này, những chứng nhân đức ái âm thầm ấy! Thiên Chúa biết đến các vị; Thiên Chúa mới thực sự tôn vinh các vị! Chúng ta phải biết ơn các vị vì các vị là chứng cớ lịch sử về "tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào lòng chúng ta" nhờ Chúa Thánh Thần, chuyên viên thủ công lành nghề đầu tiên và là nguyên lý sống còn của tình yêu Kitô giáo.

(Bài Giáo Lý thứ 76 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 22-5-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


31-Thần Linh: Nguyên Lý Bình An

Hòa bình là ước vọng rất khát mong của nhân loại ngày nay. Nó hiện thân nơi hai thể thức chính, đó là việc loại trừ chiến tranh như chính sách để giải quyết những tranh chấp giữa các dân nước hay chính quyền, và việc sử dụng công lý để giải quyết những xung đột về xã hội. Ai có thể phủ nhận sự kiện tiến triển trong tâm lý xã hội, trong tâm thức chính trị và trong chính cơ cấu tổ chức song hành giữa quốc gia và quốc tế, được thể hiện là nhờ sự bành trướng của những cảm tình mong ước này? Nhất là đối với những kinh nghiệm bi thảm trước đây, Giáo Hội, với nhiệm vụ giảng dạy và nguyện cầu cho hòa bình, không thể nào không vui mừng khi thấy có những thành đạt mới trong luật lệ, trong các cơ cấu xã hội và chính trị, và nhất là trong chính nhận thức con người về hòa bình.

Tuy nhiên, những xung đột vẫn còn trên thế giới cho đến ngày hôm nay, và là căn nguyên gây ra nhiều tranh chấp về sắc tộc và văn hóa, thêm vào những tranh chấp về kinh tế và chính trị. Thực tế và thành thực mà nói, người ta không thể không nhận thấy cái khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, trong việc bảo trì hòa bình mà không cần đến một nguyên lý cao hơn có thể tác động sâu xa trong tâm trí con người bằng quyền lực thần linh.

Theo giáo huấn mạc khải thì nguyên lý này là Chúa Thánh Thần, Ðấng ban bình an thiêng liêng cho mỗi người, một bình an nội tâm là nền tảng cho hòa bình trong xã hội.

Chính Chúa Giêsu, khi nói với các môn đệ của mình ở nhà tiệc ly, đã loan báo bình an của Người: "Thày ban cho các con bình an của Thày" (Jn.14:27). Bình an này được Người chia sẻ với các môn đệ của Người nhờ tặng ân của Chúa Thánh Thần, Ðấng ban cho cõi lòng con người niềm bình an ấy. Theo bản văn của thánh Gioan, lời hứa ban bình an theo sau lời hứa về việc Ðấng An Ủi đến (x.Jn.14:26). Công việc tạo bình an của Chúa Kitô được thực hiện do Chúa Thánh Thần, Ðấng được sai đến để hoàn tất sứ vụ của Ðấng Cứu Thế.

Nên chú ý là bình an của Chúa Kitô được loan báo và tặng ban cùng với việc thứ tha tội lỗi, như đã thấy qua những lời Chúa Giêsu phục sinh nói với các môn đệ của Người: "Bình an cho các con... Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì họ sẽ được tha tội" (Jn.20:21-23). Bình an này là kết qủa của hiến tế cứu chuộc được hoàn tất trên thập giá, một hiến tế viên trọn để làm vinh danh Chúa Kitô.

Ðó là kiểu bình an thứ nhất mà con người cần: bình an đạt được bằng việc thắng vượt chướng ngại tội lỗi. Nó là một niềm bình an chỉ Thiên Chúa ban cho mới có, bằng việc Ngài nhờ hy hiến của Chúa Kitô thứ tha tội lỗi. Ðối với con người, Chúa Thánh Thần, Ðấng thực hiện việc tha tội này nơi mỗi người, là nguyên lý tác động của niềm bình an sâu xa này, một niềm an bình ở tại việc làm hòa với Thiên Chúa.

Theo Thánh Phaolô, bình an là một "hoa trái của Chúa Thánh Thần" có liên hệ với đức ái: "Hoa trái của Thần Linh là yêu thương, hoan lạc và bình an..." (Gal 5:22). Nó nghịch lại với các việc làm của xác thịt, trong đó, theo thánh Tông Ðồ, có "hận thù, cãi cọ, ghen hờn, nổi giận, tranh giành, bất hòa, bè phái, ganh tị..." (Gal.5:20). Ðó là danh sách liệt kê những chướng ngại nội tâm căn bản làm cản trở bình an tâm hồn và hòa bình xã hội. Chính Chúa Thánh Thần cũng khơi dậy một thái độ bình an căn bản trên thế giới để biến đổi những tình trạng nội tâm. Thánh Phaolô đã nói về Chúa Kitô rằng "Người là niềm bình an của chúng ta" (Eph.2:14), và cắt nghĩa là Chúa Kitô đã thực hiện niềm bình an bằng việc hòa giải mọi người với Thiên Chúa bằng hy hiến của Người, nhờ đó đã sinh ra một con người mới từ tro bụi bất hòa và thù hận con người. Thế nhưng, chính thánh Tông Ðồ nhấn mạnh là niềm bình an này được thành đạt trong Chúa Thánh Thần: "Nhờ Chúa Kitô chúng ta đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần" (Eph.2:18). Bao giờ cũng chỉ có một niềm bình an chân thật của Chúa Kitô, song lại được đổ vào lòng và được cảm nghiệm dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần.

Trong Thư gửi giáo đoàn Philiphê, thánh Tông Ðồ nói về niềm bình an này như một tặng vật được ban cho những ai, cho dù gặp những nỗi khó khăn nơi cuộc sống, hướng về Thiên Chúa "bằng mọi kiểu cách nguyện cầu và kêu khấn đầy lòng biết ơn..." Thánh nhân bảo đảm với họ rằng: "Bình an riêng của Thiên Chúa, một bình an ngoài mọi hiểu biết, sẽ canh giữ lòng trí anh em trong Ðức Giêsu Kitô" (Phil 4:6-7).

Ðời sống của các thánh là chứng minh và chứng cớ của căn nguyên bình an thần linh. Các ngài cho chúng ta thấy một sự bình lặng giữa những cơn thử thách và bão tố thương đau nhất có thể nhận chìm các ngài xuống. Có một cái gì đó - đúng hơn là Một Ai Ðó - đang hiện diện và làm việc nơi họ để bảo vệ họ chẳng những khỏi những cơn sóng của biến cố bên ngoài nổi lên, mà còn khỏi chính nỗi yếu hèn và sợ hãi của họ nữa. Chính Chúa Thánh Thần, Ðấng là tác giả của niềm bình an này, niềm bình an là hoa trái của tình yêu Ngài tuôn đổ vào lòng con người (x.Summa Theol., II-II,q.29,aa.3-4).

Theo Thánh Phaolô, "vương quốc của Thiên Chúa... là sự công chính, niềm bình an và nỗi hoan lạc trong Chúa Thánh Thần" (Rm.14:17). Thánh Tông Ðồ phác lên nguyên tắc này khi ngài khuyên răn các Kitô hữu đừng phán đoán những kẻ hèn kém nhất trong họ một cách gắt gao, khi thành phần này không tránh được những việc hãm mình theo chủ trương sai lầm về sự tinh tuyền, chẳng hạn cấm không được ăn thịt và uống rượu là những việc mà một số dân ngoại (như người Pythagoreans) và một số người Do Thái (như nhóm Essenes) vẫn giữ. Thánh Phaolô kêu gọi họ tuân theo lề luật của một lương tâm khôn sáng và vững chắc (x.Rm.14:5-6,23), nhất là được đức ái thúc đẩy, một đức ái phải điều khiển việc làm của kẻ mạnh: "Không gì tự nó là ô uế... Nếu cái anh em ăn lại là cái làm hại đến người khác thì việc làm của anh em không còn hợp với tình yêu thương nhau nữa. Anh em đứng vì của ăn uống của mình mà hủy diệït con người đã được Chúa Kitô chết cho!" (Rm.14:14-15).

Như thế, lời khuyên của thánh Phaolô là đừng tạo nên rắc rối trong cộng đoàn, đừng khêu lên xung khắc và đừng làm gương mù cho kẻ khác. Thánh nhân huấn dụ: "Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì dẫn đến bình an và xây đắp cho nhau" (Rm.14:19). Mọi người phải quan tâm đến việc bảo trì sự hòa hợp, không phải bằng cách sử dụng tự do xúc phạm hay tác hại đến tha nhân. Nguyên tắc thánh Tông Ðồ lập nên này là ở chỗ đức ái phải điều khiển và kèm kẹp tự do. Khi đương đầu với vấn đề chuyên biệt, thánh Phaolô công bố một nguyên tắc chung: "Vương quốc của Thiên Chúa là bình an trong Chúa Thánh Thần".

Kitô hữu phải nỗ lực để tuân theo hoạt động của Chúa Thánh Thần, bằng cách nuôi dưỡng trong linh hồn mình "hướng chiều Thần Linh về sự sống và bình an" (Rm.8:6). Ðó là lý do làm cho thánh Tông Ðồ huấn dụ Kitô hữu nhiều lần là "phải bảo trì niềmï hiệp nhất phát xuất từ Thần Linh và được thắt nối bằng sự bình an" (Eph.4:3); tác hành "với tấm lòng hoàn toàn khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại, ưu ái chịu đựng lẫn nhau" (Eph.4:2); và tiếp tục tránh lánh "hướng chiều xác thịt đối nghịch với Thiên Chúa" cũng như xung khắc với hướng chiều Thần Linh "về sự sống và bình an" (Rm.8:6-7). Chỉ khi nào được hiệp nhất trong "thắt nối bình an", Kitô hữu mới "hiệp nhất trong Thần Linh" và mới là môn đồ đích thực của Ðấng đã mang bình an đến thế gian.

Ước mong của thánh Tông Ðồ là họ được Thiên Chúa ban cho tặng ân cao cả làm nên yếu tố chính của đời sống trong Thần Linh: "Xin Thiên Chúa của niềm cậy trông làm cho anh em tràn đầy hoan lạc và bình an trong lòng tin tưởng... nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần" (Rm.15:13).

Ðể kết thúc bài giáo lý này, Tôi cũng chúc bình an trong Chúa Thánh Thần cho mọi Kitô hữu cũng như cho mọi người. Và Tôi cũng muốn nhắc lại một lần nữa là, theo giáo huấn của thánh Phaolô và chứng tá của các linh hồn thánh thiện, Chúa Thánh Thần làm cho những soi động của Người được nhận biết bằng sự bình an nội tâm mà những soi động của Ngài mang lại cho cõi lòng. Những khơi động của Chúa Thánh Thần hướng đến bình an chứ không phải lo âu, bất hòa, bất mãn và thù hận về điều thiện hảo. Không tránh được có những ý kiến khác nhau sâu xa về những điểm đặc biệt và về đường lối tiến đến công ích, nhưng việc phấn chấn của đức ái được thông phần với Chúa Thánh Thần thì bao giờ cũng hướng chiều về sự hòa hợp và hiệp nhất sâu xa trong sự thiện hảo như Chúa muốn. Thánh Phaolô đã phân biệt: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của bất hòa mà là của bình an" (1Cor.14:33).

Ðiều này rất đúng đối với bình an của tâm trí nơi các cộng đồng Kitô giáo. Thế nhưng, khi Chúa Thánh Thần cai trị cõi lòng, Ngài sẽ khơi dậy ước vọng sử dụng mọi nỗ lực để thiết lập bình an liên quan đến người khác trên mọi lãnh vực: gia đình, dân sự, xã hội, chính trị, sắc tộc, quốc gia và quóc tế (x.Rm.12:18; Heb.12:14). Nhất là, Ngài thúc đẩy Kitô hữu biết suy nghĩ khôn ngoan để hòa giải xung khắc giữa con người và dùng việc đối thoại như phương tiện cần phải có thay cho những cám dỗ cần phải sử dụng đến chiến tranh và hăm dọa chiến tranh.

Chúng ta hãy cầu nguyện để Kitô hữu, Giáo Hội và tất cả mọi người thiện chí được càng ngày càng trung thành nghe theo Thần Linh bình an hơn nữa.

(Bài Giáo Lý thứ 77 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 29-5-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


32-Thần Linh: Nguồn Lực cho Kitô Hữu

Con người của ngày hôm nay đặc biệt bị thế gian tấn công, cám dỗ và khiêu dụ rất cần đến tặng ân dũng mãnh. Tặng ân này ban lòng dũng cảm và kiên trì trong việc đương đầu với thần dữ là thành phần ra tay công hãm những ai sống trên trái đất này. Thần dữ này đang nỗ lực kéo con người ra khỏi con đường về trời. Nhiều người đang bị lung lạc và rời bỏ hàng ngũ, nhất là trong những lúc thử thách khổ đau. Cả nơi thành phần Kitô hữu nữa cũng không thôi gặp phải nguy cơ làm rơi rụng ơn gọi cao qúi của mình, làm lệch lạc đi nền tảng của ơn rửa tội được ban cho họ như mầm sống đời đời. Chính vì lý do này Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết và hứa ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần để làm Ðấng An Ủi và Bảo Vệ chúng ta (x.Jn.16:5-15). Bởi Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta tặng ân dũng mãnh siêu nhiên, làm cho chúng ta được thông phần quyền năng và sức mạnh của Hữu Thể thần linh (x.Summa Theol., I-II, q.61, a.5; q.68, a.4).

Trong Cựu Ước, chúng ta đã thấy được các chứng cớ về tác động của Thần Linh, Ðấng bảo trì không những cá nhân mà còn cả một dân tộc, vào những cơn khó khăn họ gặp phải trong giòng lịch sử của họ. Tuy nhiên, đặc biệt trong Tân Ước, chúng ta thấy tỏ hiện quyền năng của Chúa Thánh Thần và tín hữu nhận được lời hứa về sự hiện diện cùng hoạt động của Ngài trong mọi cuộc đương đầu cho đến khi toàn thắng. Chúng ta đã nói về sự kiện này một số lần ở những bài giáo lý trước đây. Bây giờ, Tôi chỉ đề cập đến việc Chúa Thánh Thần, trong ngày truyền tin, đã được mạc khải và ban cho Mẹ Maria như "quyền năng của Ðấng Tối Cao", Ðấng cho thấy rằng "đối với Thiên Chúa không gì mà không làm được" (x.Lk.1:35-37).

Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Ðấng thể hiện quyền năng của Ngài ra bằng dấu hiệu tiêu biểu của một luồng gió thổi mạnh (x.Acts 2:2), đã ban cho các vị tông đồ cùng với tất cả những ai họp quanh các vị, "mọi người ở một chỗ" (Acts 2:1), sức mạnh mới như Chúa Giêsu hứa trong bài giã biệt của Người (x.Jn.16:8-11) cũng như ngay trước khi thăng thiên: "Nhưng các con sẽ lãnh nhận quyền năng khi Chúa Thánh Thần xuống trên các con" (Acts 1:8; Lk.24:49).

Ðây là vấn đề sức mạnh nội tâm được bắt nguồn từ tình yêu (x.Eph.3:17), một sức mạnh như Thánh Phaolô viết gửi cho tín hữu Ephêsô: chớ gì Chúa Cha "theo vinh quang dồi dào của Ngài ban cho anh em được mạnh sức bằng quyền năng bởi Thần Linh của Ngài nơi con người nội tâm" (Eph.3:16). Thánh Phaolô nguyện cầu cùng Chúa Cha ban cho thành phần ngài viết thư cho được quyền năng cao cả hơn này. Truyền thống Kitô giáo đã liệt kê quyền năng này vào số "những tặng ân của Chúa Thánh Thần", lấy từ bản văn của tiên tri Isaia là bản văn cho biết những tặng ân này như đạc tính của Ðấng Thiên Sai (x.Is.11:2ff). Trong số những tặng ân mà linh hồn chí thánh của Chúa Kitô được tràn đầy này, Chúa Thánh Thần cũng ban cho thành phần theo Chúa Kitô lòng dũng cảm đã làm cho Chúa Kitô làm chủ cuộc sống và cái chết của Người. Người ta có thể nói rằng Kitô hữu đang nhập "trận chiến linh thiêng" được thông phần sức mạnh của thập giá!

Bằng một tác động kín nhiệm liên tục, trong mọi lúc và ở mọi lãnh vực của cuộc sống Kitô hữu, Thần Linh nhúng tay vào việc điều khiển các ước muốn loài người, theo đúng chiều hướng của một lòng yêu thương quảng đại đối với Thiên Chúa và tha nhân, theo gương Chúa Giêsu. Ðể đạt được mục đích này, Chúa Thánh Thần tăng sức cho ý muốn, khiến con người có khả năng chống lại các chước cám dỗ và chiếm phần thắng trong những cuộc đụng độ nội ngoại. Thần Linh làm cho Kitô hữu chế ngự được quyền lực sự dữ, nhất là Satan, như Chúa Giêsu đã được Thần Linh đưa vào sa mạc (x.Lk.4:1), và làm cho họ hoàn thành những đòi hỏi của một đời sống theo Phúc Âm.

Chúa Thánh Thần ban cho Kitô hữu sức mạnh trung thành, nhẫn nại và kiên trì trên con đường thiện hảo và trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Trong Cựu Ước, tiên tri Ezekien đã nói với dân chúng về lời hứa của Thiên Chúa: "Ta sẽ đặt thần linh của Ta nơi các ngươi". Mục đích là để chiếm được lòng trung thành của dân chúng đối với giao ước mới (x.Ez.36:27). Trong Thư gửi cho giáo đoàn Galata, Thánh Phaolô đã liệt kê "nhẫn nại", "trung thành" và "tự chủ" (x.Gal.5:22) trong số "các hoa trái của Chúa Thánh Thần". Những nhân đức này cần thiết cho thành phần Kitô hữu liên lỉ sống đạo. Trong số những nhân đức này, nổi bật nhất là "nhẫn nại"; nó là một đặc tính của đức ái (x.1Cor.13:4) và được Chúa Thánh Thần phú bẩm vào trong linh hồn cùng với chính đức ái (x.Rm.5:5), như một phần của tặng ân dũng cảm cần phải được thực hiện để đối phó với sự dữ và những cơn hoạn nạn của cuộc đời, khi sống cũng như lúc chết. Nhân đức nhẫn nại được hỗ trợ bởi nhân đức "kiên trì" là việc liên tục trong sự thực hành các điều thiện hảo, thắng vượt những khó khăn xuất hiện trên cuộc hành trình dài phải trải qua. Nhân đức "bền tâm" cũng thế, một nhân đức làm cho con người tiếp tục hành thiện, bất chấp mọi trở ngại bên ngoài. Cả hai nhân đức này đều là hoa trái của ân sủng Chúa Thánh Thần ban cho con người để họ đạt đến mục tiêu của đời sống trên con đường tiến đến thiện hảo (xem Thánh Augustinô De Perseveratia, c.1: PL 45:993; De corr. et gratia, c.12: PL 44:937)

Việc làm can đảm của các nhân đức này cần phải có nơi mọi Kitô hữu, thành phần cho dù đang ở trong tình trạng ơn thánh, cũng vẫn yếu đuối trong ý muốn tự do, nơi cả nam lẫn nữ. Thánh Augustinô nhấn mạnh điều này trong cuộc tranh luận với các người theo bè phái Pelagiô (x.De corr. et gratia, c.12 cit.). Tuy nhiên, chính Chúa Thánh Thần là Ðấng ban sức mạnh siêu nhiên để hoàn thành ý muốn thần linh và làm cho đời sống Kitô hữu của chúng ta ăn khớp với các huấn thị của Chúa Kitô. Thánh Phaolô viết: "Vì luật thần linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô đã giải thoát anh em khỏi luật tội lỗi và sự chết". Nhờ đó, Kitô hữu có thể "bước đi trong Thần Linh" và hoàn tất "sự công chính của lề luật", tức là hoàn tất ý muốn thần linh (x.Rm.8:2-4).

Chúa Thánh Thần cũng ban cho con người sức mạnh để hoàn thành sứ vụ tông đồ ủy thác cho những ai được chỉ định loan báo Phúc Âm, cũng như, ở một mức độ nào đó, cho tất cả mọi Kitô hữu. Thế nên, lúc sai các môn đệ đi truyền giáo, Chúa Giêsu xin các vị chờ cho tới Ngày Lễ Hiện Xuống, để các vị nhận được quyền lực Thánh Thần: "Rồi các con sẽ nhận được quyền lực khi Thánh Thần xuống trên các con" (Acts 1:8). Chỉ nhờ quyền lực này các vị mới có thể là những chứng nhân Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất, theo lệnh truyền của Chúa Kitô mà thôi.

Vào mọi thời điểm, ngay cả cho đến ngày hôm nay, chính Chúa Thánh Thần là Ðấng làm con người dấn thân trong việc sử dụng tất cả mọi quan năng và khả năng của con người, sử dụng mọi tài năng của con người, trong việc dấn thân và nếu cần, trong việc hiến mạng cho sứ mạng đã đảm nhận. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng thực hiện những diệu kỳ nơi hoạt động tông đồ, được thực hiện bởi các con người nam nữ của Thiên Chúa và của Giáo Hội, thành phần đã được Ngài tuyển chọn và thúc động. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng, hơn hết mọi sự, bảo đảm hiệu năng cho một tác động như vậy, bất kể đến khả năng nhân loại nơi thành phần được kêu gọi để làm. Thánh Phaolô đã nói như thế trong bức Thư Thứ Nhất viết gửi cho giáo đoàn Côrintô, khi nói về việc rao giảng của mình như là một "biểu lộ của thần trí và quyền năng" (1Cor.2:4). Bởi thế, nó là một việc tông đồ được thực hiện "bằng lời nói và việc làm, bằng quyền năng của các dấu lạ và điềm lạ, bằng quyền năng của Thần Linh" (Rm.15:18-19). Thánh Phaolô qui giá trị của công việc mình rao giảng phúc âm cho quyền lực này của Thần Linh.

Ngay cả giữa những cơn khốn khó khủng khiếp, vào một lúc nào đó gặp phải trong việc làm tông đồ, Chúa Thánh Thần cũng ban sức mạnh sống kiên trì, bằng cách làm nổi dậy lòng can đảm và bằng cách trợ giúp những ai bị cám dỗ bỏ cuộc trong việc hoàn thành sứ vụ của mình. Ðó là kinh nghiệm của cộng đồng Kitô hữu ngay từ ban đầu, lúc mà anh chị em Kitô hữu bị các kẻ thù đức tin bắt bớ đã cầu nguyện rằng: "Vậy giờ đây, lạy Chúa, xin hãy lưu tâm đến những đe dọa của họ mà làm cho các tôi tớ của Chúa hiên ngang rao giảng lời Chúa" (Acts 4:29). Thế là, "khi họ đang cầu nguyện, nơi họ đang tụ họp chuyển động, và họ được tràn đầy Thánh Thần để tiếp tực hiên ngang rao giảng lời Thiên Chúa" (Acts 4:31).

Chúa Thánh Thần bảo trì những ai bị bắt bớ, thành phần mà Chúa Giêsu đã hứa: "Vì không phải các con nói mà Thần Linh của Cha các con nói qua các con" (Mt.10:20). Việc tử đạo mà Công Ðồng Chung Vaticanô II gọi là "tặng ân cao trọng nhất và là một thách đố tuyệt đỉnh của tình yêu" (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 42), đặc biệt là một tác động anh hùng của lòng dũng cảm, do thần hứng của Chúa Thánh Thần. Tác động anh hùng của lòng dũng cảm này được thể hiện nơi các vị tử đạo ở mọi thời đại, thành phần chạm trán với cái chết, bởi đức ái tràn lan nung nấu trong tâm can họ. Khi nghiên cứu đa số trường hợp tử đạo xưa kia, bao gồm cả những cuộc tử đạo của những trẻ em nhỏ tuổi, và những bản văn giáo phụ liên quan đến những cuộc tử đạo này, Thánh Tôma đã kết luận rằng tử đạo là "hành vi loài người tuyệt hảo nhất", vì nó là kết qủa của tình yêu đức ái và là chứng cớ của mức độ trọn lành cao cả nhất (x.Summa Theol., II-II, q.124,a.3). Ðây cũng là hành động đã được chính Chúa Giêsu xác nhận trong Phúc Âm: "Không ai có tình yêu nào cao cả hơn là bỏ mạng sống mình cho bạn hữu của mình" (Jn.15:13).

Ðể kết luận, chúng ta cần phải đề cập đến Bí Tích Thêm Sức, bí tích để Chúa Thánh Thần ban sức mạnh. Mục đích của bí tích này là để thông truyền lòng dũng cảm cần thiết cho cuộc sống Kitô hữu cũng như cho công cuộc làm tông đồ bằng chứng tá và việc làm mà tất cả mọi Kitô hữu được kêu gọi thực hiện. Lễ nghi làm phép dầu thánh ám chỉ rất quan trọng việc Thần Linh xức dầu cho các vị tử đạo. Việc tử đạo là thể thức cao nhất trong việc làm chứng tá Chúa Kitô. Giáo Hội nhận biết điều này và ký thác cho Thần Linh công việc bảo trì chứng tá nơi tín hữu, nếu cấn, cho đến dộ anh hùng.

(Bài Giáo Lý thứ 79 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 26-6-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)


33-Thần Linh: Bảo Chứng của Hy Vọng Cánh Chung

Hy vọng là một trong số những tặng ân tồn tại cao cả nhất (tin, cậy, mến), như Thánh Phaolô nói với Kitô hữu giáo đoàn Côrintô (x.1Cor.13:13). Nó đóng một vai trò nền tảng trong đời sống Kitô hữu, cũng như đức tin và đức ái, mặc dầu "cao trọng nhất trong ba là yêu mến" (x.1Cor.13:13). Dĩ nhiên hy vọng không được hiểu theo ý nghĩa hạn hẹp của nó như là một tặng ân chuyên biệt, ngoại lệ được ban cho một số người để mưu ích chung cộng đồng, mà là một tặng ân Chúa Thánh Thần ban cho từng người đang tìm kiếm Chúa Kitô trong đức tin. Tặng ân này phải được chú trọng đặc biệt, nhất là trong thời của chúng ta đây. Ngày nay nhiều người, bao gồm một con số khá đông, đang chới với trong ảo tưởng và hoang đường về khả năng bất tận trong việc tự cứu rỗi mình và tự hoàn thiện mình, cũng như trong chước cám dỗ bi quan khi thấy mình thường bị thất vọng và thua bại.

Mặc dầu bao gồm cả niềm phấn chấn về tâm lý nơi tâm hồn trong việc nỗ lực hướng về sự thiện khó đạt hơn, niềm hy vọng Kitô giáo vẫn được xây trên tầm mức siêu nhiên của các nhân đức. Nó phát xuất từ ân sủng (x.Summa Theol., III, q.7,a.2), như một tặng ân Thiên Chúa ban cho tín hữu trong cấp trật của sự sống đời đời. Nó là một nhân đức, một thứ nhân đức của homo viator, tức của con người đang lữ hành, thành phần mà, mặc dầu nhờ đức tin nhận biết Thiên Chúa và ơn gọi đời đời của Ngài, vẫn chưa đạt tới tình trạng hưởng kiến Thiên Chúa. Theo một nghiã nào đó, niềm hy vọng làm cho con người tiến "vào bên trong, vượt bức màn chắn", như được đề cập đến trong Thư gửi giáo đoàn Do Thái (x.Heb.6:19).

Tuy nhiên, chiều kích cánh chung mới là chiều kích chính yếu cho nhân đức này. Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã đến để hoàn tất những lời hứa được gói ghém trong việc công bố ơn cứu độ, như chúng ta đọc thấy trong Sách Tông Ðồ Công Vụ: "Ðược tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, (Chúa Giêsu) đã lãnh nhận lời Chúa Cha hứa ban Chúa Thánh Thần và đã tuôn đổ Chúa Thánh Thần xuống" (Acts 2:33). Thế nhưng, việc hoàn tất lời hứa này được dự phóng trên toàn bộ lịch sử, cho đến ngày cùng tháng tận. Ðối với thành phần tin vào lời của Thiên Chúa được vang dội nơi Ðức Kitô và được các tông đồ rao giảng, thì việc cánh chung đã bắt đầu thực hiện, hay chúng ta có thể nói, đúng hơn nó đã được thực hiện ở một phương diện sâu xa: đó là ở việc hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi lịch sử con người, một lịch sử mà kể từ biến cố Hiện Xuống, mang một ý nghĩa và một sinh lực hướng về một mục đích thần linh dành cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại. Niềm hy vọng của Cựu Ước, như nguồn gốc của việc cánh chung, chứa đựng lời hứa về sự hiện diện và quan phòng bền bỉ của Thiên Chúa, một sự hiện diện và quan phòng bền bỉ sẽ được biểu hiện nơi Ðấng Thiên Sai. Trong Tân Ước, niềm hy vọng đã mang lại cho chúng ta sự ngưỡng vọng đến vinh quang sau này, nhờ ơn Chúa Thánh Thần là nguồn gốc của nó.

Theo quan điểm này, Thánh Phaolô xác định là tặng ân Thánh Thần giống như lời đoan hứa cho hạnh phúc tương lai. Gửi cho Kitô hữu Ephêsô, thánh nhân viết: "Anh em đã được niêm ấn bằng Thánh Thần hứa ban, Ðấng là đệ nhất bảo chứng cho gia nghiệp hướng đến phần rỗi của chúng ta như sở hữu của Thiên Chúa, để chúc tụng vinh quang của Ngài" (Eph.1:13-14; x.4:30; 2Cor.1:22).

Chúng ta có thể nói rằng nơi cuộc sống Kitô hữu trên trần gian, nó giống như một cuộc khởi hành để tiến vào việc trọn vẹn thông phần với vinh quang của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần kiến tạo nên một sự bảo đảm trong việc chiếm đạt được tầm mức viên trọn của sự sống đời đời, nhờ tác dụng của ơn cứu rỗi, tất cả mọi hậu qủa của tội lỗi, như khổ đau và sự chết, cũng sẽ được chế ngự. Như thế, niềm hy vọng Kitô giáo không phải chỉ là một bảo đảm, mà còn là một ngưỡng vọng về thực tại mai hậu.

Niềm hy vọng mà Chúa Thánh Thần khêu lên nơi Kitô hữu còn có một chiều kích có thể gọi là vũ trụ, bao gồm cả trời đất, là những gì có thể cảm nghiệm thấy và cũng là những gì ngoài tầm với của chúng ta, những gì được biết đến cũng như không được biết đến. Thánh Phaolô viết: "Chính tạo vật cũng đang thiết tha mong chờ việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm cho phải lụy thuộc sự hư hoại, không phải tự nó muốn như thế, mà vì Ðấng đã bắt chúng phải lụy thuộc, hy vọng rằng cả tạo vật cũng sẽ được giải cứu cho khỏi tình trạng làm tôi cho sự suy vong và được thông phần tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng toàn thể tạo vật quằn quại rên rỉ cho đến nay; chẳng những tạo vật mà cả chúng ta nữa, những hoa trái đầu mùa của Thần Linh, chúng ta cũng rên xiết nơi bản thân chúng ta khi chúng ta trông đợi được thừa nhận, trông đợi việc cứu độ thân xác của chúng ta" (Rm.8:19-23). Nhận thức được ơn gọi của con người và định mệnh của vũ trụ, Kitô hữu hiểu được ý nghĩa việc thai nghén này của hoàn vũ và biết được rằng nó là một vấn đề của việc thừa nhận thần linh dành cho tất cả mọi người, thành phần được kêu gọi để tham dự vào vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang được phản ảnh qua toàn thể tạo vật. Kitô hữu biết rằng họ đã chiếm hữu được những hoa trái đầu mùa của việc thừa nhận này trong Chúa Thánh Thần, và vì thế, với một niềm hy vọng trông mong, họ tin tưởng vào định mệnh thế giới, ngay cả giữa những cơn hoạn nạn của lịch sử.

Ðược đức tin soi sáng, Kitô hữu hiểu được ý nghĩa và hầu như cảm được sự thật nơi đoạn thư tiếp theo (đoạn trên đây) trong Thư gửi giáo đoàn Rôma, đoạn Thánh Tông Ðồ bảo đảm với chúng ta rằng "Thần Linh đến trợ giúp chúng ta trong nỗi yếu hèn của chúng ta; vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng như chúng ta phải cầu, song chính Thần Linh chuyển cầu bằng những lời than khôn tả. Ðấng dò xét tâm can biết được ý hướng của Thần Linh, vì Ngài chuyển cầu cho các thánh theo ý muốn của Thiên Chúa" (Rm.8:26-28).

Như anh chị em đã thấy, chính trong nơi thâm cung của linh hồn mà Chúa Thánh Thần sống động, nguyện cầu và làm việc. Ngài làm cho chúng ta càng ngày càng tiến vào, một cách trọn vẹn hơn, quan điểm về cùng đích tối thượng là Thiên Chúa, bằng cách làm cho cả cuộc sống của chúng ta hợp với dự án cứu rỗi của Ngài. Bởi thế, chính Chúa Thánh Thần là Ðấng giúp cho chúng ta cầu nguyện, khi Ngài cầu nguyện trong chúng ta, bằng những cảm tình và lời lẽ của những người con cái Thiên Chúa (x.Rm.8:15,26-27; Gal.4:6; Eph.6:18), trong mối liên hệ thiêng liêng sâu xa có tính cách cánh chung với Chúa Kitô, Ðấng ngự bên hữu Thiên Chúa, nơi Người chuyển cầu cho chúng ta (x.Rm.8:34; Heb.7:25; 1Jn.2:1). Như thế là Chúa Thánh Thần đã cứu chúng ta cho khỏi ảo tưởng, cũng như khỏi các con đường cứu độ lầm lạc. Trong khi hướng lòng về mục đích chân thật của cuộc sống, Ngài giải thoát chúng ta khỏi khuynh hướng bi quan và hư vong. Những chước cám dỗ này đang nhiễm hại những ai không bắt đầu bằng căn bản đức tin, hay ít là bằng một ước vọng chân thành trong việc tìm kiếm Thiên Chúa.

Chúng ta cần phải thêm là thân xác cũng được bao gồm trong chiều kích hy vọng này, một niềm hy vọng Chúa Thánh Thần ban cho loài người. Thánh Phaolô nói với chúng ta như vậy: "Nếu Thần Linh của Ðấng làm cho Chúa Giêsu phục sinh từ trong kẻ chết ngự nơi anh em, thì Ðấng làm cho Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết cũng sẽ ban sự sống cho thân xác chết chóc của anh em nữa, nhờ Thần Linh của Ngài ngự trong anh em" (Rm.8:11; x.2Cor.5:5). Chúng ta hãy tạm thời dừng lại đây với những suy diễn về phương diện hy vọng này, theo chiều kích nhân loại học liên quan đến con người, cũng như theo chiều kích vũ trụ cánh chung của nó. Chúng ta sẽ trở lại với phương diện hy vọng này, nếu Chúa muốn, ở những buổi giáo lý mà chúng ta sẽ chú ý đến những tín điều Kitô giáo hấp dẫn và sâu xa: đó là tín điều về việc phục sinh của thân xác và sự sống đời đời của toàn thể con người, bao gồm cả hồn lẫn xác.

Còn một điều nữa cũng cần phải để ý là: cuộc hành trình trần gian của đời sống sẽ tiến đến tận điểm, một tận điểm mà người nào tiến tới đó còn ơn nghĩa với Thiên Chúa, thì cũng là giây phút đầu tiên của cuộc vĩnh phúc. Cho dù trong cuộc chuyển tiếp về trời này, linh hồn phải chịu thanh tẩy cho sạch mọi vết nhơ cuối cùng nơi luyện ngục, linh hồn cũng đã được tràn đầy ánh sáng, an toàn và hân hoan, vì con người biết rằng họ là người nam hay nữ đã muôn đời thuộc về Thiên Chúa. Vào lúc tối chung này, linh hồn được Chúa Thánh Thần dìu dắt, Ngài là tác giả và là Ðấng ban phát, chẳng những "ơn đầu tiên" được công chính hóa, cũng như ơn thánh hóa suốt cả cuộc đời trần gian của con người, mà còn cả ơn vinh hiển trong giờ lâm tử. Ðó là ơn kiên trung đến cùng theo giáo huấn của Công Ðồng Orange (x.DS 183,199) và Công Ðồng Chung Triđentinô (x.DS 806,809,832). Tín điều này căn cứ vào giáo huấn của các Tông Ðồ, mà theo đó thì "muốn và làm" việc lành (Phil.2:13) phải tùy thuộc vào Thiên Chúa, và con người phải cầu nguyện để được ơn làm lành cho đến cùng (x.Rm.14:4; 1Cor.10:12; Mt.10:22,24:13).

Những lời của Thánh Tông Ðồ Phaolô dạy cho chúng ta thấy được là nơi tặng của Ngôi Ba Thiên Chúa, sự bảo đảm cho việc chúng ta mãn nguyện nơi niềm hy vọng cứu độ: "Niềm hy vọng không làm cho chúng ta bị thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta" (Rm.5:5). Thế nên, "Cái gì sẽ tách lìa chúng ta khỏi tình yêu của Chúa Kitô?" Câu trả lời là một lời dứt khoát: không có gì "sẽ có thể tách lìa chúng ta khỏi tình yêu Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm.8:35,39). Do đó mà ước muốn của Thánh Phaolô là chúng ta được tràn đầy "niềm hy vọng bởi quyền lực của Chúa Thánh Thần" (Rm.15:13). Ðây là nguồn lạc quan Kitô giáo, một lạc quan về định mệnh thế giới, về việc khả thủ ơn cứu độ ở mọi thời, ngay cả trong những thời ngặt nghèo nhất, trong những lúc khó khăn nhất nơi tiến trình lịch sử tiến đến vinh quang trọn hảo của Chúa Kitô ("Ngài - Thánh Thần - sẽ tôn vinh Thày" - Jn.16:14), cũng như tiến đến việc người tín hữu hoàn toàn tham dự vào vinh hiển của con cái Thiên Chúa.

Theo quan điểm này, Kitô hữu có thể ngước mặt lên cao và hợp tiếng kêu cầu, một tiếng kêu cầu mà, theo Sách Khải Huyền, là một tiếng kêu sâu thẳm nhất được Chúa Thánh Thần làm vang lên qua suốt giòng lịch sử, đó là tiếng kêu: "Thần Linh và Hiền Thê nói, Hãy Ðến!" (Rev.22:17). Giờ đây hãy lắng nghe lời mời gọi cuối cùng của Sách Khải Huyền cũng như của toàn thể Tân Ước: "Ai nghe thì hãy nói lên, Xin Hãy Ðến! Ai khát thì hãy tiến lên cũng như ai muốn lãnh nhận tặng ân nước ban sự sống... Xin Hãy Ðến, lạy Chúa Giêsu!" (Rev.22:17-20).

(Bài Giáo Lý thứ 80 của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 3-7-1991, trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)