Chú Giải Tin Mừng Luca 

VII. TƯỜNG THUẬT ĐỨC GIÊSU CHỊU NẠN

Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

CUỘC CHỊU NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU THEO THÁNH LUCA (22,14-23,56)

4 quyển Tin Mừng đều tường thuật cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, mỗi bài chứa đựng những suy nghĩ độc đáo của tác giả. Bài tường thuật chịu nạn theo Thánh Lc chứa đựng những suy nghĩ độc đáo của ngài qua một số chi tiết mà chỉ một mình ngài ghi nhận.

1/ Một mình Lc ghi nhận Đức Giêsu lo sợ đến toát mồ hôi và Thiên Chúa phải sai thiên thần xuống nâng đỡ tinh thần Ngài (Lc 22,43-44 so sánh với Mt 26,38-46; Mc 14,32-42).

2/ Cả 4 quyển Tin Mừng đều ghi nhận việc Phêrô chém đứt tai một người trong bọn đến bắt Đức Giêsu, nhưng một mình Lc ghi thêm chi tiết Đức Giêsu chữa lành cho hắn (Lc 22,50-51 so sánh với Mt 26,51; Mc 14,47; Ga 18,10-11)

3/ Sau khi Phêrô chối Thầy, ông đã hối hận. Nhưng một mình Lc ghi nhận Phêrô hối hận lúc Đức Giêsu đưa mắt âu yếm nhìn ông (Lc 22,61 so sánh với Mt 26,75; Mc 14,72; Ga 18,27).

4/ Cả 4 Tin Mừng đều ghi việc Đức Giêsu vác thập giá, nhưng một mình Lc ghi thêm chi tiết có Simon Kyrênê vác thập giá ‘theo sau’ Đức Giêsu (Lc 23,26 so sánh với Mt 27,32; Mc 15,21; Ga 19,17). Trong ngôn ngữ Tin Mừng, ‘theo sau’ có nghĩa là ‘làm môn đệ’ Simon là hình mẫu những người môn đệ Đức Giêsu.

5/ Một mình Lc ghi nhận cảnh Đức Giêsu dừng lại an ủi các phụ nữ đang than khóc (Lc 23,28-31 so sánh với Mt 27,33-34; Mc 15,21-23; Ga 19,17-18)

6/ Một mình Lc chép lời Đức Giêsu xin tha cho các lý hình (Lc 23,34 so sánh với Mt 27,35; Mc 15,24-25; Ga 19,23-24). Khi các sách Công vụ Tông đồ , tường thuật cái chết của Têphanô. Lc chép lời cầu nguyện của Têphanô trước khi chết giống lời cầu nguyện của Đức Giêsu.

7/ Một mình Lc phân biệt trong hai tên gian ác cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu, có một tên lên tiếng bênh vực Ngài, và Đức Giêsu đã hứa ban thiên đàng cho anh (Lc 23,39-43 so sánh với Mt 24,44; Mc 15,32).

 Qua những chi tiết trên, chúng ta hiểu được Đức Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Lc:

 – Là một Đức Giêsu có nhiều nhân tính: cảm thấy cố đơn cần được nâng đỡ (chi tiết 1).

 – Nhưng dù yếu đuối, Đức Giêsu quên nỗi khổ của mình để quan tâm cứu chữa người khác: tên đầy tớ (chi tiết 2), Phêrô (chi tiết 3), các phụ nữ (chi tiết 5), các lý hình (chi tiết 6), tên trộm lành (chi tiết 7).

 Và Lc khuyên mỗi người chúng ta, nếu muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải:

 * Làm như Simon Kyrênê vác thập giá đi theo Đức Giêsu (chi tiết 4).

 * Làm như Têphanô: tha thứ cho những kẻ làm khổ mình (chi tiết 6)

BÀI 93: GIUĐA PHẢN THẦY (22,1-6)

1Lễ Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. 2Các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giê-su, vì họ sợ dân.

3Xa-tan đã nhập vào Giu-đa, cũng gọi là Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai. 4Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp Người cho họ. 5Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. 6Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông.

------------------

Trong Đền thờ, Đức Giêsu vừa tiên báo án phạt Giêrusalem (21,20) và những vị hữu trách của thành này (20,19). Việc này khiến những người đó càng căm ghét Ngài và tìm cách hại Ngài. Tuy nhiên Đức Giêsu luôn là kẻ chủ động tình hình. Chỉ khi tới giờ đã định thì kẻ thù mới có thể ra tay mà thôi. Và bây giờ chính là giờ đó.

c 1 Hoàn cảnh là Lễ Bánh không men, cũng trùng với Lễ Vượt qua, cuộc lễ tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai cập.

c 2b Từ lúc Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy trong Đền thờ (19,47-48), Ngài đã nói chuyện với các Thượng tế và kinh sư nhiều lần và về nhiều vấn đề (20,1-47), nhưng họ vẫn không tiến bộ chút nào trong sự hiểu biết về con người và sứ mạng của Ngài. Trái lại họ luôn muốn hại Ngài. Tuy nhiên họ chưa biết làm sao để hại. Hôm nay cơ hội đến với họ: Giuđa.

c 3 Giuđa là công cụ của Satan. Còn nhớ. theo quan điểm của Lc, Satan đã rời Đức Giêsu sau 3 lần cám dỗ Ngài thất bại. Bây giờ nó quay lại, dùng chính một người tông đồ của Ngài để hại Ngài.

c 4 Giuđa đi nói chuyện với các Thượng tế và lãnh binh đền thờ về cách thức ‘nộp’ Ngài: Trong các sách Tin Mừng, động từ ‘nộp’ làm nổi bật ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu như một cuộc hiến tế.

c 5-6 Hai bên đã đi đến thỏa thuận: Giuđa nhận tiền và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ. Một lần nữa Lc dùng động từ ‘nộp’.

BÀI 94: CHUẨN BỊ TIỆC LY (22.7-13)

7Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. 8Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua." 9Hai ông hỏi: "Thầy muốn chúng con dọn ở đâu? " 10Người bảo họ: "Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, 11thì các anh vào thưa với chủ nhà: "Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 12Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó." 13Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua. 

------------------

c 7 – Câu này xác định thời điểm của sự việc, đó là “ngày phải sát tế chiên vượt qua”. Lc xác định việc này để cho thấy ý nghĩa của nó có liên quan tới ý nghĩa lễ vượt qua. Sau này Phaolô sẽ nói rõ ra rằng ‘Đức Kitô, Lễ Vượt qua của chúng ta, đã được sát tế’ (1Cr 5,7-8).

 * Tuy nhiên có một điểm quan trọng mà các sách Tin Mừng chưa xác định rõ là bữa tiệc ly này diễn ra vào ngày thứ mấy của tuần. Chúng ta nên biết rằng ngày chính lễ vượt qua ngày 14 tháng Nisan. Năm đó ngày này là thứ Bảy (Ga 19,31). Người Do thái có thói quen ăn tiệc vượt qua (trong đó phần chủ yếu là ăn thịt chiên) vào ngày áp (năm đó là thứ Sáu). Tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm khiến chúng ta có cảm tưởng là Đức Giêsu ăn tiệc vượt qua vào hôm thứ Sáu ấy (như mọi người Do thái khác). Tuy nhiên điều này không thể được, vì thứ Sáu là ngày Ngài bị giết chết rồi. Vậy thì năm đó Đức Giêsu đã ăn tiệc vượt qua sớm hơn một ngày, tức là ngày thứ Năm.

c 8-13 Trong các đoạn Tin Mừng nhất lãm thuật chuyện này, chỉ có Lc ghi rõ tên hai môn đệ được Đức Giêsu sai đi chuẩn bị bữa tiệc, là Phêrô và Gioan.

 – Các chi tiết trong những câu này hơi lạ lùng:

a) tự nhiên gặp một người đang đội vò nước.

b) mà người đó lại là đàn ông (thông thường đi lấy nước là việc của phụ nữ).

c) người đó chỉ cho một căn phòng đã dọn sẵn sàng (về việc tìm phòng: những người Do thái từ chỗ khác về hành hương Giêrusalem phải lo tìm một phòng để ăn tiệc Vượt qua).

 Ta sẽ hiểu những chi tiết lạ lùng trên nếu chú ý tới 2 điều sau:

* Chuyện này được viết theo mẫu của chuyện trong 1Sm 10,1-10 (ngôn sứ Samuel chỉ trước cho Saulê những chi tiết lạ lùng mà ông sẽ gặp để ông tin rằng Thiên Chúa đã chọn ông làm vua Israel)

* Chuyện này và chuyện Đức Giêsu chuẩn bị vào thành Giêrusalem giống nhau.

 Như thế ngụ ý của cách viết này: Đức Giêsu là một tiên tri thấy trước từng chi tiết sự việc tương lai. Ngoài ra Đức Giêsu coi trọng sự việc sắp tới cho nên tự mình thu xếp từng chi tiết của sự việc đó. (cũng có thể có một giải thích rất tự nhiên là: Đức Giêsu đã có hẹn trước với người sẽ cho Ngài mượn phòng nên đã thỏa thuận với người đó về những ám hiệu cho các môn đệ dễ nhận ra).

Qua tường thuật ngắn này Lc muốn nói: Đức Giêsu chính là Con Chiên Vượt qua mới, sẽ dùng cái chết của Ngài để thực hiện một cuộc Giải phóng mới cho mọi người.

BÀI 95: TIỆC LY – DIỄN TỪ GIÃ BIỆT (22,14-38)

14Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa."

17Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến."

19Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." 20Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.

21"Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. 22Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người." 23Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.

24Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. 25Đức Giê-su bảo các ông: "Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. 26Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.

28"Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. 29Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, 30để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en."

31Rồi Chúa nói: "Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. 32Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh." 33Ông Phê-rô thưa với Người: "Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng." 34Đức Giê-su lại nói: "Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy."

35Rồi Người nói với các ông: "Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không? " Các ông đáp: "Thưa không." 36Người bảo các ông: "Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. 37Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất." 38Các ông nói: "Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây." Người bảo họ: "Đủ rồi! "

------------------

Đoạn này gồm nhiều chuyện:

A. Ăn tiệc vượt qua (cc 14-18).

B. Lập phép Thánh Thể (cc 19-20).

C. Tiên báo sự phản bội của Giuđa (cc 21-23).

D. Bài học phục vụ (cc 24-27).

E. Phần thưởng cho các Tông đồ (cc 28-30).

F. Tiên báo Phêrô chối Thầy (cc 31-34).

G. Tiên báo tới giờ chiến đấu quyết liệt (cc 35-38).


A- ĂN TIỆC VƯỢT QUA (14-18)

c 14 “Đức Giêsu vào bàn ăn”: nguyên bản là ‘ngã người xuống’. Như thế đây là một bữa tiệc chứ không phải là bữa ăn thường (trong bữa ăn thường thì người ta ngồi).

c 15-18 Ý nghĩa bữa tiệc vượt qua là tưởng niệm việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập. Nhưng bữa tiệc mà Đức Giêsu ăn với các môn đệ hôm nay mang thêm một ý nghĩa mới nữa:

 – Đó là một bữa tiệc chia ly với các môn đệ (Tiệc ly), vì Đức Giêsu cùng ăn với họ ‘trước khi chịu khổ hình’ và ‘sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt qua này nữa’

 – Loan báo một cuộc giải phóng khác, cuộc giải phóng tối hậu và chung cục mà chính Đức Giêsu sẽ thực hiện, như lời Đức Giêsu nói: “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”.


B- LẬP PHÉP THÁNH THỂ (19-20)

c 19 – Đức Giêsu làm như một người chủ nhà đang chủ tọa bữa ăn vượt qua. Đang bữa ăn, Ngài đứng dậy, cầm lấy bánh và dâng lên Thiên Chúa một lời nguyện chúc tụng tạ ơn vì những ơn lành đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Sách Haggada (sách lễ nghi) về bữa ăn vượt qua có ghi như sau: ‘Chúng ta mang một món nợ, đó là phải tạ ơn, tán dương… chúc tụng Đấng đã làm những dấu lạ cho cha ông chúng ta và cho hết thảy chúng ta. Ngài đã kéo chúng ta từ nô lệ đến tự do,từ tang tóc đến lễ hội, từ thảm sầu đến mừng vui, từ tối tăm đến ánh sáng và từ áp bức đến giải phóng. Và chúng ta hãy hát trước nhan Ngài một bài ca mới. Alleluia’. Sau khi đọc xong lời nguyện này, Đức Giêsu bẻ bánh và phân phát cho những người cùng bàn mỗi người một miếng, đồng thời nói: “Hãy cầm lấy, đây là mình Thầy”.

 – “Mình” tiếng Pháp là corps. Trong tiếng Aram, chữ ‘mình’ này không có nghĩa là xác thịt (chair) mà chỉ toàn vẹn con người. Như thế Đức Giêsu không bảo môn đệ ăn thịt của Ngài, mà là loan báo rằng con người của Ngài sắp bị nộp cho sự chết, và mời gọi họ tham dự vào việc đó.

 – “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”: Câu này không có trong Mt và Mc nhưng cũng được Phaolô nhắc lại (1Cr 11,24-25). Nó định nghĩa Thánh Thể là lễ tưởng niệm cuộc hiến tế của Đức Giêsu.

c 20 Tiếp theo Ngài cầm chén rượu nho và nói ‘chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”

 – “Giao ước”: Ngày xưa trên núi Sinai, Môsê sau khi kết Giao ước với Thiên Chúa, đã lấy máu bò để đóng ấn Giao ước đó (Xh 24,3-8). Nay Đức Giêsu cũng lập một Giao ước và đóng ấn nó bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá. Chữ ‘mới’ không có trong Mt và Mc, chỉ có trong Thánh Lc (22,20) và Thánh Phaolô (1Cr 11,25).

 – “Máu”: trong tiếng Aram, chữ ‘máu’ có nghĩ là ‘mạng sống’ (Lv 17,14). Như thế Đức Giêsu không bảo các môn đệ uống máu tươi mà là thông phần vào việc Ngài hiến dâng mạng sống trên Thập giá (1Cr 11,17-34).

 Tóm lại, bằng những hành động làm trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu báo trước cái chết sắp tới của Ngài, đồng thời giải nghĩa cái chết ấy và kêu mời các môn đệ thông phần vào đó.


C- TIÊN BÁO SỰ PHẢN BỘI CỦA GIUĐA (21-23)

c 21 “Bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”: Đức Giêsu không nói rõ tên Giuđa, Câu này cũng ám chỉ tới Tv 41,10 (kẻ cùng ăn với tôi quay lại phản bội tôi) nói tới số phận Người Công Chính của Thiên Chúa

c 22 “Đã hẳn Con Ngài ra đi như đã ấn định. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người”: Ngày nay nhiều người thắc mắc về ‘sự tiền định cho Giuđa phạm tội phản Thầy’. Thực ra điều này các Kitô hữu của cộng đoàn Lc không hề bận tâm (cho nên ta cũng không thể tìm được lời giải đáp trong Tin Mừng Lc). Điều họ quan tâm chính là tại sao Đấng Messia lại bị phản bội và chịu chết. Lc đã trả lời rằng đó chính là kế hoạch của Thiên Chúa đối với Người Công Chính của Ngài.

 – Nhiều người cũng dựa vào câu này mà cho rằng Đức Giêsu kết án Giuđa, vì thế chắc chắn hắn phải xuống hỏa ngục. Ta cần lưu ý 2 điểm này:

a) Đức Giêsu không hề nêu rõ tên Giuđa

b) Những lời này Ngài thốt ra theo mẫu của những khúc ai ca mà các ngôn sứ thường dùng để than về số phận của mình (Is 1,4). Như thế Đức Giêsu chỉ than cho mình chứ không phải Ngài lên án Giuđa.


D- BÀI HỌC PHỤC VỤ (24-27)

c 24 Các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người được coi là lớn nhất. Chuyện này Mt và Mc ghi lại trong một bối cảnh khác (Mt 20,25-27; Mc 10,42-45), còn Lc lại cho vào diễn từ sau bữa tiệc vượt qua. Có lẽ vì những lời này của Đức Giêsu thường được nhắc lại trong các buổi bẻ bánh thời GH sơ khai.

c 25 Để giáo dục các môn đệ mình, trước tiên Đức Giêsu nói tới cách cư xử của các thủ lãnh thế gian (cụ thể là các quan chức của đế quốc Rôma). Họ hay lộng quyền và độc tài.

c 26 – Phần các môn đệ Đức Giêsu, những lãnh tụ tương lai của GH thì phải cư xử khác hẳn: “Ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất”. Trong xã hội Do thái, người nhỏ tuổi nhất là người đứng cuối cùng trong phẩm trật xã hội. Những lãnh tụ GH phải sẵn sàng phục vụ người ta trong tư thế như vậy.

c 27 – Và Đức Giêsu đưa gương của chính Ngài: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”.


E- PHẦN THƯỞNG CHO CÁC TÔNG ĐỒ (28-30)

Tiếp theo, Đức Giêsu hứa sẽ thưởng cho các tông đồ, là những người ‘vẫn một lòng gắn bó với Thầy giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan’. Phần thưởng đó là họ được chia sẻ vương quốc mà Chúa Cha sẽ ban cho Ngài sau khi Ngài sống lại (‘trao vương quốc cho anh em’, ‘đồng bàn ăn uống với Thầy trong vương quốc’‘ngự tòa xét xử 12 chi tộc Israel’)

Lời hứa này rất đáng ngạc nhiên vì Đức Giêsu nói ngay sau khi báo tin Giuđa sắp phản bội 21-23) và ngay trước khi Ngài lại báo tin Phêrô sắp chối Thầy (31-34). Nhưng ta hãy lưu ý:

a) Giuđa đã ‘bỏ chỗ’ của hắn và sẽ có một người khác thay vào đó (Cv 1,15-26).

b) Còn Phêrô thì sau khi chối Thầy đã biết ăn năn nên được tha thứ.

Như thế, đây là lời hứa ban cho các tông đồ vẫn luôn trung tín (‘một lòng gắn bó’) với Ngài, mà lòng trung tín được xét theo đường dài lịch sử cuộc đời chứ không theo những yếu đuối nhất thời.


F- TIÊN BÁO PHÊRÔ CHỐI THẦY (31-34)

c 31 “Simon, Simon ơi”: Khi báo tin Phêrô sẽ chối Thầy. Đức Giêsu gọi ông bằng tên cũ, tên của con người cũ.

c 32b – Đức Giêsu cho biết ông sẽ rơi vào bẫy của Satan, nhưng cũng cho biết Ngài sẽ cầu nguyện cho ông và ông sẽ trở lại, đồng thời Ngài còn bày tỏ hy vọng sau khi trở lại ông sẽ củng cố anh em.

c 34“Hôm nay gà chưa kịp gáy thì đã 3 lần anh chối là không biết Thầy”: Lời này không giống nhau nơi các Tin Mừng.

Trong Mt 26,34 là ‘khi gà chưa gáy 2 lần con đã 3 lần chối Thầy’

Trong Ga 13,38: ‘Khi gà chưa gáy con đã 3 lần chối Thầy’

Nhưng chú ý tất cả đều nói Phêrô sẽ chối Thầy ‘Khi gà chưa gáy’. Gà gáy là kiểu nói trời sáng. Ý Đức Giêsu là Phêrô sẽ chối Thầy trước khi trời sang.


G- GIỜ CHIẾN ĐẤU QUYẾT LIỆT (35-38)

Đức Giêsu kết thúc diễn từ giã biệt bằng cách so sánh hai giai đoạn trong sứ vụ của Ngài và của các môn đệ.

c 35-36a Giai đoạn đầu của sứ vụ (‘Mùa xuân Galilê’). Khi đó các môn đệ không cần thủ sẵn tiền bạc, giày dép (9,3-4) thế mà vẫn có đủ mọi sự cần thiết, vì khi đó các ông đi đến đâu cũng được đón tiếp nồng nhiệt.

c 36b Giai đoạn hiện tại: một giai đoạn thù nghịch, một thời kỳ khủng hoảng (thời kỳ Đức Giêsu chịu nạn, mà cũng là thời sau này GH bị bắt bớ). Bởi đó Đức Giêsu sửa đổi các chỉ thị người tông đồ cần phải mang theo tiền (vì không ai đón rước họ vào nhà nữa); còn phải mang theo bao bị (để đựng thức ăn, vì người ta sẽ không chịu bán cho họ nữa); hoàn cảnh khó khăn đến nỗi thay vì vậy, họ phải thủ sẵn gươm, thậm chí nếu chưa có gươm thì phải bán áo đi mà mua.

c 37 Lý do khiến hoàn cảnh đổi ngược hoàn toàn như thế là Đức Giêsu ‘bị liệt vào hàng phạm pháp’. Tuy nhiên các môn đệ cũng đừng ngạc nhiên về điều đó, bởi vì chính Thiên Chúa đã dự định như thế và đã nói trước trong Thánh Kinh (Lời Ngài nói là trích từ Is 53,12).

c 38 Các môn đệ chẳng hiểu ý Đức Giêsu gì cả. Họ cứ tưởng là Ngài sắp ‘khởi nghĩa’ nên báo cáo là đã có sẵn 2 thanh gươm! Đức Giêsu thấy không cần giải thích dài dòng với họ. Ngài nói ‘Đủ rồi’ chỉ là để cắt đứt câu chuyện.

BÀI 96: TRÊN NÚI CÂY DẦU (22,39-53)

39Rồi Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. 40Đến nơi, Người bảo các ông: "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ."

41Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng: 42"Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha." 43Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. 44Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.

45Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền, 46Người liền nói với các ông: "Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ."

47Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. 48Đức Giê-su bảo hắn: "Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao? " 49Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: "Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không? " 50Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51Nhưng Đức Giê-su lên tiếng: "Thôi, ngừng lại." Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.

52Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? 53Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm."

------------------

c 39b – “Ngài đi ra núi Ôliu như đã quen”: Đức Giêsu quen tới nơi này để cầu nguyện, nhất là ban đêm (21,37).

 – Nhưng lần này Ngài không hoàn toàn đi một mình mà có đem theo các môn đệ. Mc 14,33 cho biếtđó là 3 môn đệ thân tín mà Ngài đã một số lần đem riêng theo: Phêrô, Giacôbê và Gioan.

c 41 “Ngài quỳ gối”: tư thế cầu nguyện thông thường là đứng thẳng. Đức Giêsu quỳ gối có lẽ vì lần này Ngài cầu nguyện khẩn thiết hơn.

c 42 “Cha ơi”: Abba, tiếng thân mật của trẻ con gọi cha mình (ba ba). Nên lưu ý rằng người Do thái không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Abba trong những lời kinh nguyện. Đức Giêsu dám gọi chứng tỏ một sự thân mật tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha.

 – “Xin cho con khỏi uống chén này”: Trong Thánh Kinh ‘chén’ tượng trưng cho đau khổ(Tv 74,9; Is 51,17).Lúc đó nhân tính yếu đuối của Ngài nổi lên mạnh mẽ khiến Ngài sự cuộc thương khó sắp tới. Nhưng đàng khác lòng hiếu thảo thúc đẩy Ngài thi hành trọn ý Chúa Cha. Nghĩa là Ngài đang bị giằng co. Nhưng cuối cùng Ngài bỏ ý riêng mà chọn ý Chúa Cha.

c 43 – Một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Đức Giêsu: chỉ có Lc ghi lại chi tiết này, nhằm so sánh Đức Giêsu với Êlia (1V 19,4-8).

c 44 – Mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất: chi tiết này cũng riêng của Lc.

c 45“Các ông đang ngủ, vì buồn phiền”: Lc tìm lý do chữa lỗi cho các môn đệ (Mc 14,40 cũng bàu chữa tương tự ‘Vì mắt họ nặng nề’).

 – “Dậy mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”: Đây là lần thứ hai trước đoạn ngắn này Đức Giêsu nói tới sự cần thiết phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.

c 47“Kẻ dẫn đầu là Giuđa, một người trong Nhóm 12”: Lc (và cả Mc) vẫn còn coi Giuđa là tông đồ. Nhưng phần Giuđa trong tư cách tông đồ mà làm như vậy thì càng khả ố.

 – “Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài”: a) Hôn là cách chào thông thường của môn đệ đối với Thầy; b) là cử chỉ thân ái giữa những người thân nhau.

 Vì toán lính chưa biết mặt Đức Giêsu nên Giuđa ra ám hiệu quy ước ấy.

c 48 “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn để nộp Con Người sao?”: Đức Giêsu nói một cách hiền từ đánh thức lương tâm của Giuđa.

c 50 “Một môn đệ rút gươm chém đứt tai phải của tên đầy tớ vị Thượng tế”: Ga cho biết người ấy là Phêrô và tên đầy tớ ấy là Mancô (Ga 18,10).

c 51 – Nhưng Đức Giêsu vẫn nhân từ: Ngài bảo môn đệ ấy ngừng tay, và Ngài còn chữa lành tên đầy tớ ấy.

c 52 “Tên trộm cướp”: có lẽ là một người ‘đoàn trưởng cách mạng’ như Baraba (Ga 18,40). Vì thế mà Đức Giêsu rơi vào tình trạng ‘phạm pháp’. Hằng ngày Ngài vẫn ‘giảng dạy trong Đền thờ’ cách công khai nhưng họ đã không bắt, nay lại vào vườn Cây Dầu lùng bắt như bắt một tên tội phạm.

c 53 “Nhưng đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm”: Việc Đức Giêsu bị bắt như một tên tội phạm là một sự vấp phạm đối với các tín hữu. Nhằm xóa bỏ cớ vấp phạm đó, Lc ghi lời Đức Giêsu cho biết đó chỉ là chiến thắng tạm thời của Satan (Còn Mc 14,49 ghi ‘Nhưng thế là ứng nghiệm lời Thánh Kinh’ để giải thích Đức Giêsu bị bắt là đúng chương trình của Thiên Chúa đã được Thánh Kinh nói trước). 

BÀI 97: TRƯỚC TÒA ÁN ĐẠO (22,54-23,1)

54Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. 55Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: "Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy! " 57Ông liền chối: "Tôi có biết ông ấy đâu, chị! " 58Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: "Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng! " Nhưng ông Phê-rô đáp lại: "Này anh, không phải đâu! " 59Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: "Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê." 60Nhưng ông Phê-rô trả lời: "Này anh, tôi không biết anh nói gì! " Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần." 62Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

63Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: "Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó? " 65Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.

66Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng 67và hỏi: "Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết! " Người đáp: "Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; 68tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. 69Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng." 70Mọi người liền nói: "Vậy ông là Con Thiên Chúa sao? " Người đáp: "Đúng như các ông nói, chính tôi đây." 71Họ liền nói: "Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!"

23  1Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô.

------------------

Tường thuật Đức Giêsu trước tòa án Do thái gồm ba cảnh. Hai cảnh đầu diễn ra ban đêm:

– Phêrô chối Thầy (cc 54-62).

– Đức Giêsu bị hành hạ (cc 63-65).

Cảnh thứ ba diễn ra lúc tảng sáng: Thượng Hội đồng nhóm họp (cc 66-71).

Như thế Lc khác với Mc (chỉ có 2 phiên họp của Thượng Hội đồng tại dinh Thượng tế vào ban đêm và tảng sáng), và Ga (Đức Giêsu bị điệu ra trước Thượng Tế Khanna và Thượng Tế Caipha đều vào ban đêm.


A- PHÊRÔ CHỐI THẦY (54-62)

c 54 – Đang lúc Đức Giêsu bị bắt dẫn đi thì Phêrô ‘đi theo’, đó là đặc tính của ông (5,27-28 22,39); nhưng lần này ông theo ‘xa xa’.

c 56-62 Về 3 lần chối của Phêrô:

– Lần 1: ‘Tôi có biết ông ấy đâu chị’.

– Lần 2: ‘Này anh, không phải tôi đâu’.

– Lần 3: ‘Này anh,tôi không biết ông nói gì’.

 Ta thấy 2 lần đầu (lần thứ nhất chối trước một phụ nữ; lần thứ hai trước một người đàn ông), ông phủ nhận biết Đức Giêsu và là môn đệ Ngài, tức là cắt đứt sự liên hệ với Đức Giêsu và các môn đệ khác vì cho rằng liên hệ đó sẽ có hại cho ông; lần thứ ba ông bảo không hiểu người ta nói gì cả. Mặc dù Lc đã tránh ghi chi tiết Phêrô đã thề,nhưng vẫn ghi đúng sự kiện Phêrô đã chối trước mặt ‘từ hai nhân chứng trở lên’ (Đnl 19,15), để cho thấy sự trầm trọng của việc làm này.

 – Về tiếng gà gáy: so sánh 4 sách Tin Mừng (Mt 26,69-75; Lc 22,26-62; Ga 18,17. 25,27) thì ta thấy Mt, Lc và Ga chỉ ghi một lần thôi vì một chi tiết mà Đức Giêsu đã báo trước nay xảy ra đúng như thế mà Phêrô chưa hối hận thì thực khó hiểu.

Tại sao Mc ghi 3 lần? Có lẽ Mc có trong tay nhiều mẩu chuyện thuộc nhiều truyền thông khác nhau và ông đã phối hợp chúng lại. Cũng nên ghi chú rằng lời Đức Giêsu báo trước việc Phêrô chối Thầy trong Mc là ‘gà gáy 2 lần’ (Mc 14,30). Còn trong các Tin Mừng kia chỉ nói ‘gà gáy’ mà thôi (Mt 26,34; Lc 22,34; Ga 38)

“Đức Giêsu quay lại nhìn ông”: chi tiết riêng của Lc cho thất Đức Giêsu là người rất nhân từ, vẫn còn thương đến người môn đệ yếu đuối của mình. Chính cái nhìn đã giúp Phêrô sám hối: ‘Ông sực nhớ lời Chúa… và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết’.


B- ĐỨC GIÊSU BỊ HÀNH HẠ (63-64)

Toán lính bảo Đức Giêsu ‘nói tiên tri’, nghĩa là họ không tin Ngài là một tiên tri. Thế nhưng mỉa mai thay chính trong lúc đó Ngài mới thực sự là tiên tri vì đang ứng nghiệm nhiều lời tiên tri chính Ngài đã nói trước, như:

a/ Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được (13,33).

b/ Lời tiên tri về việc Phêrô chối Thầy (22,34).


C- TRƯỚC THƯỢNG HỘI ĐỒNG (22,66-23,1)

c 66 – Thượng Hội Đồng là Tòa án tối cao của do thái gồm 71 thành viên thuộc 3 giới Tư tế (dòng tộc Sađốc, 1V 2,35), Kinh sư (từ mọi giai cấp trong dân miễn là thông luật), và Kỳ mục.

 – Hãy chú ý cách viết của Lc: trong phiên xử này không có người chủ tọa (Mc 14,61-64: người chủ tọa là vị Thượng tế), cũng không có nhân chứng (Mc 14,58: có những người làm chứng gian). Lc chỉ ghi nhận cách rõ rang một nhân vật thôi là Đức Giêsu (những nhân vật khác được nói chung là ‘họ’, ‘mọi người’, ‘cử tọa’).

c 67-70 – Cuộc hỏi cung rất ngắn ngủi (không hỏi về lời Đức Giêsu nói sẽ phá Đền thờ: Mc 14,57-58) và tập trung vào bản thân Đức Giêsu: Ngài có thật là Messia không? Và có phải là Con Thiên Chúa không?

 – Thực ra hỏi là cho có hỏi, chứ họ đã nuôi ý định ‘mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời để nộp Ngài cho nhà chức trách có thẩm quyền là Tổng Trấn’ (20,20).

 – Đức Giêsu cũng biết thế nên Ngài nói ‘Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin. Tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời’I.

 – Dù vây, Ngài cũng sẽ cho họ biết một điều quan trọng ‘Từ nay Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng’. Họ hỏi Ngài nói thế có phải ngụ ý rằng Ngài là Con Thiên Chúa chăng. Đức Giêsu khéo léo đáp ‘Chính các ông nói’, nghĩa là do tự miệng họ nói ra sự thật.

 – Thế là họ đã tìm ra được cớ để đưa Ngài đến Philatô hầu xin ông này ký án tử.

BÀI 98: TRƯỚC PHILATÔ VÀ HÊRÔĐÊ (23,2-25)

2Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: "Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa." 3Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông là Vua dân Do-thái sao? " Người trả lời: "Chính ngài nói đó." 4Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông: "Ta xét thấy người này không có tội gì." 5Nhưng họ cứ khăng khăng nói: "Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây." 6Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.

8Vua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. 9Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. 10Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. 12Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.

13Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại 14mà nói: "Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo. 15Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. 16Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra." 17Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. 18Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi! " 19Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người.

20Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá! " 22Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra." 23Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.

24Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.

------------------

A- TRƯỚC TÒA PHILATÔ (2-7)

c 2 Đức Giêsu bị tố cáo 3 tội:

a/ ‘Xách động dân’

b/ ‘ngăn cản không cho nộp thuế cho Xêsa’: Hai tội này có tính cách chính trị. Ở phía trước Lc đã cho thấy ‘Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giêsu nói lỡ lời để nộp Ngài cho nhà chức trách có thẩm quyền là Tổng trấn’ (20,20), nhưng ‘chúng không tài nào bắt quả tang Ngài lỡ lời trước mặt dân… (nên) làm thinh luôn’ (20,26). Cho nên hai tội danh này chỉ là vu khống, nhằm tác động lên Philatô vì nếu Đức Giêsu quả thật phạm những tội đó tức là Ngài chống lại quyền của hoàng đế La Mã.

c/ Tội thứ ba là ‘xưng mình là Messia, là Vua nữa’: tội danh có tính cách tôn giáo (xưng mình là Messia), nhưng họ cũng liên kết với chính trị (xưng mình là vua), nghĩa là họ muốn Philatô coi Đức Giêsu là một con người nguy hiểm trực tiếp thách thức uy quyền của hoàng đế La Mã.

c 3 Nhưng Philatô không vội tin, ông hỏi Đức Giêsu ‘Ông là vua Do thái sao?’. Philatô hỏi vậy là do lời kết án của của các thượng tế. Khi Đức Giêsu đáp ‘Chính Ngài nói đó’, Philatô hiểu đây không phải là vua theo nghĩa chính trị và kết luận rằng Đức Giêsu không có tội.

c 4 Do đó Philatô nói với các Thượng tế ‘Ta xét thấy người này không có tội gì’.

c 5-7 Sau đó, mặc dù các Thượng tế cứ khăng khăng cáo tội. Philatô vẫn giữ kết luận của mình không hề hỏi cung Đức Giêsu về vấn đề vua nữa. Dựa theo lời các Thượng tế nói Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động ‘từ Galilê đến đây’. Philatô liền giao Đức Giêsu cho kẻ có thẩm quyền ở miền ấy, tức là Hêrôđê Antipas, lúc ấy đang có mặt tại Giêrusalem.


B- TRƯỚC TÒA HÊRÔĐÊ (8-12)

c 8 – Cảnh thứ hai gồm hai nhân vật chính: một là Hêrôđê. Đây là Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả. Thái thú miền Galilê (3,1); hai là Đức Giêsu. Cảnh này đã được Lc chuẩn bị từ lâu trước bởi vì không phải đến hôm nay Hêrôđê mới ‘muốn gặp’ Đức Giêsu mà đã muốn như vậy ‘từ lâu’. Ông cũng đã có suy nghĩ về Ngài (9,7-9). Động từ ‘gặp’ đã được dùng ở 9,9, nay lại được tác giả dùng 2 lần trong câu 23,8. Ông cũng mong được ‘xem Ngài làm một vài phép lạ’.

c 9 – Những câu hỏi của Hêrôđê chẳng có nội dung nào đáng kể nên Đức Giêsu không thèm trả lời. Ta nên nhớ rằng Đức Giêsu đã từng từ chối làm phép lạ theo yêu cầu của người hiếu kỳ (11,16-29).

c 11 – Hêrôđê quay sang chế giễu Ngài cùng với bọn lính bằng cách khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ, nhằm nói Ngài là một ông vua cỏ, rồi giao Ngài lại cho Philatô.

c 12 – Nhờ vụ án Đức Giêsu mà từ hôm đó Hêrôđê và Philatô thân thiện lại với nhau sau một thời gian thù nghịch. Trong cuộc chịu nạn, Đức Giêsu đã hòa giải những kẻ thù địch nhau.


C- LẠI RA TRƯỚC TÒA PHILATÔ (13-25)

c 13-16 – Trong đoạn này tội chối từ Đức Giêsu lên tới cao điểm, vì tham gia vụ án gồm có ‘thượng tế, thủ lãnh và dân’. Dân Giêrusalem đòi giết chết Đấng được sai đến với họ!

 – Philatô vẫn nghĩ Đức Giêsu vô tội. Nhưng vì các thượng tế cứ khăng khăng đòi lên án Ngài, nên ông tìm một cách để ve vuốt họ: sẽ đánh đòn Đức Giêsu rồi thả ra. Làm như vậy là Philatô dựa theo một tục lệ thả một người tù vào mỗi dịp lễ lớn.

c 18-25 Khi đó họ đòi thả Baraba. Baraba không phải là một tên cướp thường mà là lãnh tụ một nhóm cách mạng quá khích và đã từng giết người.

 – Cách viết của tác giả trong đoạn này muốn nêu rõ nhiều điều:

a/ Sự xảo trá của những kẻ thù ghét Đức Giêsu, họ đã từng kết án Đức Giêsu xách động dân chúng, nay chính họ xách động dân chúng đòi tha cho một tên sát nhân.

b/ họ quyết tâm giết chết một người vô tội (chữ ‘vô tội’ được tác giả dùng 3 lần trong cc 14-22)

c/ thấy trách nhiệm của ‘tất cả’ dân chúng Giêrusalem (c 18)

d/ và trách nhiệm của các thủ lĩnh Do thái nặng hơn của Philatô.

BÀI 99: ĐƯỜNG THẬP GIÁ, HÀNH HÌNH, ĐÓNG ĐINH (23,26-49)

26Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. 27Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. 28Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: "Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. 29Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: "Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm! " 30Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi! , và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! 31Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao? " 32Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.

33Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.

35Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! " 36Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi! " 38Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do-thái."

39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! " 40Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! " 42Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! " 43Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."

44Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 45Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. 46Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.

47Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính! " 48Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.

49Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.

------------------

Có thể chia đoạn này thành 4 phần:

a/ Đường lên núi Sọ cc 26-32

b/ Đóng đinh cc 33-34

c/ Nhục mạ Đức Giêsu cc 35-38

d/ Đức Giêsu trên thập giá  cc 39-49


A- ĐƯỜNG LÊN NÚI SỌ (26-32)

c 26 – Đúng theo lịch sử thì chính những người lính Rôma điệu Đức Giêsu đến nơi hành hình. Nhưng Lc viết là các thủ lãnh Do thái (‘họ’) điệu Đức Giêsu, để cho thấy rõ phần trách nhiệm của họ trong vụ này.

 – Simon xứ Kyrênê vác thập giá:

a) Vì Đức Giêsu đã quá yếu

b)Ngoài ra Lc muốn trình bày Simon như một hình mẫu của người môn đệ: ông ‘vác thập giá’ ‘đi theo’ Ngài. Đó chính là những điều mà Đức Giêsu muốn những môn đệ của Ngài phải làm (9,23 14,27).

c 27-31 Những lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ thương khóc Ngài rất giống với những lời Ngài than tiếc cho thành Giêrusalem (19,41-44). Như thế việc Ngài lưu lại Giêrusalem được đánh đấu bằng một lời than tiếc, và việc Ngài kết thúc chuyến lưu lại ấy cũng được đánh dấu bằng một lời than tiếc nữa.

 – Chi tiết họ ‘vừa đi vừa đấm ngực vừa than khóc’ cho ta thấy dân chúng sau khi đòi lên án tử Đức Giêsu nay đã bắt đầu hối hận.

 – “Phúc thay những đàn bà hiếm hoi, những lòng dạ không sinh không đẻ”: vào thời mà đông con được coi là một mối phúc thì câu này quả là đi ngược hẳn lại. Lý do những người son sẻ cảm thấy hạnh phúc hơn những người có con là vì tai họa sắp giáng xuống trên đầu họ.

 – “Cây xanh mà người ta còn đối xử như thế thì cây khô héo sẽ ra sao”: ‘Cây xanh’ chính là Đức Giêsu, một kẻ vô tội mà bị giết chết. ‘Cây khô héo’ là dân thành Giêrusalem, họ đã không chấp nhận Đấng Thiên Chúa sai đến, mà còn đóng đinh Ngài.


B- ĐÓNG ĐINH (33-34)

c 33 – Nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh được gọi là ‘đồi Sọ’ vì có hình dáng giống chiếc sọ người.

 – Sự hiện diện của hai tên gian phi bên cạnh Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh Is 53,7 (Đức Giêsu là Người Tôi Tớ) mà chính Đức Giêsu đã từng trích dẫn trong bữa tiệc ly (22,37): Tv 22,19 (Đức Giêsu là Người Công Chính).

 – Lời Đức Giêsu cầu nguyện xin tha cho những kẻ hành hạ Ngài: đây là điều mà những kẻ làm môn đệ Ngài phải noi theo (Têphanô: Cv 7,60).

– Những kẻ hành hạ Ngài ‘chẳng biết’, sự chẳng biết này không phải không có lỗi, nhưng sau Phục sinh Thiên Chúa dùng lời rao giảng của các Tông đồ để phá tan sự chẳng biết đó và mời họ sám hối tội lỗi của họ (Lời rao giảng của Phêrô: Cv 3,17-19).


C- ĐỨC GIÊSU BỊ NHỤC MẠ (35-38)

c 35 “Dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh chế nhạo”: Lc phân biệt hai thái độ khác nhau của dân chúng và các thủ lĩnh.

 Hai động từ ‘nhìn xem’ và ‘chế nhạo’ cũng là một cách trích dẫn mặc nhiên Tv 22,8 ‘Mọi người nhìn tôi đều chế nhạo tôi’. Như thế, theo Lc cảnh này không phải là một cảnh tự nhiên mà là thực hiện lời tiên tri trong Sách Thánh.

 – “Nếu ông thật là Messia, là kẻ ưu tuyển của Thiên Chúa thì hãy tự cứu mình đi”: Đây không phải là một sự công nhận, nhưng là một sự mỉa mai. Ý của các thủ lĩnh là Đức Giêsu chỉ là một kẻ mạo danh Messia.

c 36 Trao giấm: đây cũng là một chi tiết ứng nghiệm Tv 69,22 ‘Lúc tôi khát, chúng đã cho tôi uống giấm’.

c 37 “Nếu ông là vua Do thái”: trong đoạn Tin Mừng này tư cách Vua của Đức Giêsu luôn được Lc nhắc tới. Chữ ‘Vua’ được dùng nhiều lần. Ở đây c 38 và c 42, có kẻ gọi Ngài là vua để chỉ mỉa mai (thủ lĩnh, quân lính), có kẻ gọi thế vì tin thực sự (trộm lành).


D- ĐỨC GIÊSU TRÊN THẬP GIÁ (39-49)

c 39 Mt và Mc đều nói cả hai tên trộm đều chửi bới Đức Giêsu, còn Lc thì nói chỉ có một tên sỉ nhục Ngài thôi.

 Tên trộm dữ này cũng gọi Ngài là Messia, nhưng theo nghĩa mỉa mai.

c 40 Nhưng tên kia lên tiếng mắng lại: đây là một chi tiết riêng của Lc.

c 42 Lạy Đức Giêsu: người trộm lành gọi Ngài bằng tên, chứng tỏ một sự thân tình, một sự phó thác.

 – Xin nhớ đến con: những lời này giống như lời kinh của người hấp hối đọc trong đạo Do thái.

 – Khi Ngài sẽ lên làm vua: người trộm lành in rằng Đức Giêsu là vua thật, mặc dù hoàn cảnh lúc đó cho thấy một tình thế hoàn toàn ngược lại.

1/ Ý tưởng của đoạn Tin Mừng này là tư cách Vua của Đức Giêsu: có người gọi Ngài là vua chỉ để mỉa mai, có những người gọi Ngài như thế một cách đầy tin tưởng.

2/ Những kẻ mỉa mai Ngài là các thủ lĩnh Do thái và binh lính, tấm bảng phía trên thập giá và tên trộm dữ.Vừa mỉa mai họ vừa khích Ngài hãy ‘điệu võ giương oai’. Đây là cám dỗ mà Đức Giêsu nhiều lần đã gặp (4,3  4.23).

 Đức Giêsu là vua thật nhưng dứt khoát không làm vua theo kiểu phô trương thế lực như vậy.

3/ Thái độ của người trộm lành rất đáng ngưỡng mộ: anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua trong tình thế mà mọi sự xem ra đã sụp đổ hết.

4/ Lời của Đức Giêsu còn nhiều ý nghĩa hơn nữa (c 43)

“Ta nói thật”: công thức mở đầu rất trang trọng chứng tỏ điều Ngài sắp nói rất nghiêm chỉnh.

“Ngay hôm nay”: ơn cứu độ ban cho anh này là lập tức chứ không phải là một sự đợi chờ cho đến sau khi Ngài sống lại, hay cho đến ngày tận thế.

“Anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”: hạnh phúc thiên đàng chủ yếu là được ở với Chúa, sống trong tình thân thiết của Chúa.


KẾT LUẬN

Những kẻ mỉa mai, thách thức Đức Giêsu tỏ quyền làm vua bằng cách xuống khỏi thập giá, nhưng Đức Giêsu chứng tỏ quyền làm vua của mình bằng cách kéo người ta lên với Ngài! Ngay trên thập giá Vua Giêsu đã bắt đầu chinh phục các tâm hồn. Trước hết là người trộm lành, kế đó là viên sĩ quan (23,47), rồi đến dân chúng (23,48).

BÀI 100: TÁNG XÁC (23,50-56)

50Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. 51Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng.

55Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.

56Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.

------------------

c 50-51 Lc không nhắc đến các môn đệ Đức Giêsu trong việc mai tang Ngài (so sánh với Mc 6,29: các môn đệ của Gioan Tẩy giả lo mai táng ông). Người đứng ra lo cho Đức Giêsu là một nhân vật mới xuất hiện: Giuse thành Arimathê. Lc mô tả ông với hai nét: “lương thiện”“công chính”. Ông còn “là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa đến”. Như thế ông có điểm giống ông Simêon (2,25) và là một trong những người mà bà Anna đã nói đến (2,38). Mặt khác, tuy là thành viên Thượng Hội Đồng ông ‘đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng’ (22,4-5 22,71 23.1).

c 52 Giuse đến gặp Tổng trấn để xin lãnh xác Đức Giêsu. Lc không ghi lại câu trả lời của Philatô, vì việc trao xác là đương nhiên và hợp với cảm tình Philatô sẵn có với Đức Giêsu.

c 53-54 Lc mô tả việc mai tang cách sơ sài: hạ xác, liệm bằng vải gai và đặt vào mộ đục sẵn trong đá. Không nói đến xức thuốc thơm và bằng vải có tẩm thuốc thơm (Ga 19,40). Lý do phải vội vã là vì ‘hôm đó là ngày áp lễ và ngày Sabbat đã ló rạng’.

c 55 Câu này trở lại đề tài mà Lc thường nhấn mạnh: sự hiện diện của các phụ nữ. Với chi tiết họ ‘đã theo Đức Giêsu từ Galilê’. Lc muốn nói họ là những ‘môn đệ’ trung thành; và với chi tiết ‘các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào’, ông cũng muốn nói họ là những nhân chứng quan trọng.

c 56 Rồi các bà về nhà chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Với chi tiết này, Lc chuẩn bị trước cho bài tường thuật sáng Chúa nhật các bà trở lại mồ và được biết Đức Giêsu đã sống lại.