Chú Giải Tin Mừng Luca 

VI. SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU TẠI GIÊRUSALEM

Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

BÀI 82: THƯƠNG KHÓC GIÊRUSALEM (19,28-44)

28Nói những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem. 29Khi đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: 30"Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. 31Nếu có ai hỏi: "Tại sao các anh cởi lừa người ta ra", thì cứ nói: "Chúa có việc cần dùng! 32Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. 33Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông: "Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra? " 34Hai ông đáp: "Chúa có việc cần dùng."

35Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên. 36Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. 37Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. 38Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!

39Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ! " 40Người đáp: "Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên! "

41Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương 42mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. 44Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm."

------------------

GIẢI THÍCH

c 28-34 Cuộc chuẩn bị cho Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với các chi tiết tỉ mỉ do chính Đức Giêsu đưa ra và đã xảy ra đúng như vậy nhằm cho thấy:

a/ Việc này là quan trọng nên Đức Giêsu phải đích thân thu xếp từng chi tiết.

b/ Đức Giêsu là một ngôn sứ thấy trước mọi việc. Thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng: “Chúa cần đến nó”. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu áp dụng cho mình tước hiệu ‘Chúa’, vì Ngài đã đi đến giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình lên Giêrusalem.

c 35-38 Lc ghi nhiều chi tiết nhằm làm nổi bật vương quyền Đức Giêsu:

a/ Tước hiện “Đức Vua” (c 38).

b/ Các môn đệ “đặt Ngài lên lừa”, ‘xuống núi Ô-liu’ ám chỉ đến cuộc phong vương Salomom (1V 1,38-40).

c/ Các môn đệ lấy áo trải lên lưng lừa cũng ám chỉ lễ phong vương Salomon (2V 9,13)

d/ “Lừa con chưa ai cỡi”: thích hợp với vị vua Messia (1Sm 6,7)

e/ Lời tung hô ‘bình an’ nói đến phúc lành cao quý nhất thời Messia.

 * Nhưng có vài điểm khác với Mt, Mc và Ga:

a) Lc không nói đến dân thành Giêrusalem tung hô Đức Giêsu: chỉ có các môn đệ tung hô.

b) Họ không tung hô ‘chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít tổ phụ chúng ta’ (Mc 11,10). Ta thấy Lc vẫn tiếp tụctriển khai đề tài dân Giêrusalem không chấp nhận vương quyền Đức Giêsu. Và một lần nữa Lc muốn người ta hiểu rằng việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem chưa phải là lúc thiết lập lại vương quyền. Ngài thực là vua đấy, nhưng chưa thiết lập vương quyền ngay đâu.

c 39-40 Một số người pharisêu khó chịu khi nghe các môn đệ Đức Giêsu tung hô Ngài là vua. Họ yêu cầu Ngài bảo các ông ấy im đi. Thêm một chi tiết cho thấy dân Giêrusalem không chấp nhận vương quyền Đức Giêsu.

 – Nhưng Đức Giêsu nói: “Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng kêu lên”:

a/ Việc Đức Giêsu làm vua là một việc hiển nhiên không cần ai phong vương, kể cả các môn đệ.

b/ Cho dù các môn đệ có bị áp lực phải câm miệng (Kb 2,11) thì Ngài vẫn là vua.

c/ Tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá, khi đó những viên đá đã bị nằm rải rác trên mặt đất sẽ là một lời cáo tội dân thành đã không nhìn nhận Ngài.

c 41-44 Nên biết rằng Đức Giêsu 3 lần nói tiên tri về Giêrusalem: đây là lần thứ nhất; lần thứ hai là khi Ngài đang giảng trong Đền thờ (21,20-24); và lần thứ ba khi Ngài đang vác Thập giá (23,28-31).

 – Đức Giêsu khóc: đây là lần duy nhất các sách Tin Mừng nói Đức Giêsu khóc.

 – Sau đó Ngài loan báo thảm họa sẽ đổ xuống trên thành Giêrusalem. Ngài liệt kê 5 việc: quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây, công hãm, đè bẹp dân chúng, không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào. Những chi tiết này là trích dẫn những lời tiên tri trong Cựu Ước (Er 29,3; Tv 137,9). Đây không phải là chuyện may rủi mà có lý do được Đức Giêsu nói rõ. Vì thành này đã không nhận ra “thời giờ được Thiên Chúa viếng thăm” nghĩa là không đón nhận ơn cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nó. Thiên Chúa muốn đem cho nó sự ‘bình an’, tức là sự hòa thuận với mọi dân nước chung quanh. Nhưng vì nó không đón nhận cho nên nó mới nị các nước chung quanh thành kẻ thù công hãm nó.

BÀI 83: THANH TẨY ĐỀN THỜ (19,45-48)

45Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán 46và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp! "

47Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. 48Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.

------------------

c 45 – Đức Giêsu vào Đền thờ: Ngài làm ứng nghiệm lời tiên tri Malakhi 3,1: “Này Ta sai thần sứ của Ta… thình lình sẽ đến nơi Đền thờ của Ngài”, Đền thờ này chính là của Ngài. Trước đây Ngài chỉ mới ghé đó một lần lúc 12 tuổi (2,49). Hôm nay Ngài lại đến. không phải chỉ để ‘nhìn chung quanh’ (Mc 11,11) mà để tiếp nhận nó trong tư cách của một chủ nhân đích thực.

 – Ngài đuổi những kẻ đang buôn bán: Lc chỉ dùng một động từ chung chung là ‘đuổi’ chứ không mô tả cách Ngài đuổi như Mt và Mc, có lẽ để tránh hình ảnh một Đức Giêsu hung dữ.

c 46 – Thực ra việc buôn bán này là cần thiết vì phục vụ cho nhu cầu lễ vật của tín hữu. Tuy nhiên giới tư tế quản lý Đền thờ đã càng ngày càng ít chú trọng phương diện phục vụ hơn phương diện lợi nhuận. Thành thử dần dần mục tiêu kinh tế chiếm ưu thế. Và như thế Đền thờ đã mất ý nghĩa (“Nhà Ta là nhà cầu nguyện mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp”); các tư tế cũng không làm như lời Đức Giêsu đã chỉ: ‘Không thể phụng thờ Thiên Chúa đồng thời với tiềng bạc được’ (16,13); và thay vì nuôi dân, họ lại cố nuôi bản thân mình.

c 47Sau khi thanh tẩy Đền thờ cho sạch khỏi những gì nghịch với bản chất của nó. Đức Giêsu trả lại cho nó bản chất đích thực: “Hằng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ… và toàn dân say mê nghe Ngài”.

c 48 – Nhưng các thượng tế và các thân hào trong dân – những kẻ mà quyền lợi bị chạm- tìm cách giết Ngài.

BÀI 84: QUYỀN BÍNH CỦA ĐỨC GIÊSU (20,1-8)

1Một hôm, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến 2và nói với Người rằng: "Xin ông cho chúng tôi biết: ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai là người đã cho ông quyền ấy? " 3Đức Giê-su đáp: "Tôi cũng vậy, tôi hỏi các ông một điều, xin nói cho tôi biết: 4phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? " 5Họ liền bàn tính với nhau: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 6Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín rằng ông Gio-an là một Ngôn Sứ." 7Họ mới trả lời là họ không biết do đâu. 8Đức Giê-su liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy." 

------------------

c 1 “Đức Giêsu giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ”: Sau khi đã thanh tẩy ‘nhà của Ngài’ là Đền thờ. Đức Giêsu thường xuyên vào đó để rao giảng. Và cũng tại đây Ngài gặp những người chống đối đến chất vấn Ngài. Những cuộc chất vấn này mang tính cách những cuộc thẩm vấn bị cáo trước khi đưa ra tòa xét xử. Những hành động của Đức Giêsu cách riêng là việc thanh tẩy Đền thờ, đã khiến vụ án của Ngài đến nhanh hơn.

 – Những người đến chất vấn là 3 nhóm hợp lại: thượng tế, kinh sư và kỳ mục.

* Thượng tế: các tư tế được làm thành viên của Thượng hội đồng. Đa số họ thuộc phái Sađốc.

* Kinh sư: những người thông thạo luật. Đa số thuộc phái pharisêu.

* Kỳ mục (hay kỳ lão): không nhất thiết là những người già mà là những người đứng đầu các gia tộc, họ rất được kính trọng.

 Đó là 3 thành phần tạo thành Thượng hội đồng Do thái giáo , tức là những kẻ nắm quyền trong tôn giáo Do thái.

 – Đề tài chất vấn sẽ lần lượt là: quyền của Đức Giêsu (20,1-8) vấn đề nộp thuế cho Xêsa (20,20-27), và vấn đề kẻ chết sống lại (20,27-40), ở đây là cuộc chất vấn thứ nhất.

c 2 “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”: theo Mt 21,23 thì các đối thủ hỏi về quyền giảng dạy bởi vì họ tự cho họ nắm độc quyền giảng dạy, họ nghĩ việc Đức Giêsu giảng dạy trong Đền thờ là bất hợp pháp. Theo Lc thì họ chất vấn về việc Đức Giêsu loan Tin Mừng, nghĩa là cũng tương tự như trong Mt. Còn theo Mc thì họ chất vấn về việc Ngài thanh tẩy Đền thờ. Thực ra 3 quyển Tin Mừng bổ xung cho nhau: vì Đức Giêsu rao giảng và thanh tẩy Đền thờ nên các đối thủ cho rằng Ngài đã lấn quyền họ nên tới chất vấn. Lc đã cho thấy ngay từ lúc bắt đầu giảng dạy. Đức Giêsu đã tỏ ra quyền của mình (4,32), và dân chúng cũng nhận xét Ngài giảng dạy như một kẻ có quyền, họ lại còn đánh giá lời Ngài giảng dạy là uy quyền hơn các kinh sư (19,47). Bởi thế các lãnh tụ Do thái rất căm ghét Ngài, đến nỗi họ muốn giết chết Ngài (19,47). Hôm nay thì họ đến để chất vấn ‘Ông lấy quyền nào mà làm như thế?’.

c 3-4 – Đức Giêsu thấy chẳng cần trả lời cho họ nên Ngài vặn lại bằng một câu hỏi lắt léo: việc Gioan thanh tẩy là do quyền bởi trên hay bởi người ta? ‘Bởi trên’ là một cách nói quanh thay vì nói thẳng là ‘bởi Thiên Chúa’. Đây không phải là Đức Giêsu tránh né câu hỏi, nhưng là một thái độ tiên quyết mà Đức Giêsu gợi lên cho họ: Thượng hội đồng phải có đủ thiện chí để đón nhận sứ mệnh của ông Gioan – vị tiền hô của Đức Giêsu – thì mới có thể thừa nhận quyền bính của Đức Giêsu. Điểm này rất quan trọng đối với Lc, tác giả đã gắn liền sứ mạng của hai vị này với nhau trong phần đầu sách Tin Mừng (1-2) và trong sách Công vụ (1,22 10,37 13,24-25 19,4)

c 5-6 Câu hỏi của Đức Giêsu khiến họ bối rối: nếu đáp là ở trên thì sẽ bị vặn thêm ‘Vậy tại sao các ông không tin Gioan?’. Đáp như thế cũng là thừa nhận Thiên Chúa cũng ban quyền giảng dạy cho một người ngoài khung khổ của họ (Gioan không phải là thượng tế, thông giáo và kỳ lão), thế thì Thiên Chúa cũng có thể ban quyền cho Đức Giêsu (huống hồ Ngài còn là Messia) và như thế sự dành độc quyền và sự ganh tị của họ không có cơ sở vững chắc.

 – Còn nếu đáp là bởi loài người ta thì dân sẽ phản đối họ.

c 8 – Vì thế họ tránh né trả lời bằng câu “Chúng tôi không biết”. Và Đức Giêsu cũng không thèm trả lời cho câu hỏi của họ.

BÀI 85: DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN (20,9-19)

9Rồi Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này: "Có người kia trồng được một vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời gian khá lâu.

10"Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng bọn tá điền đánh anh ta rồi đuổi về tay không. 11Ông lại sai một đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh anh ta, hạ nhục, rồi đuổi về tay không. 12Ông còn sai thêm một người thứ ba, nhưng họ cũng đánh trọng thương, rồi quăng ra ngoài. 13Ông chủ vườn nho mới nói: "Ta phải làm gì đây? Ta sẽ phái người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta. 14Nhưng vừa thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Ta giết quách nó đi, rồi gia tài sẽ về tay ta. 15Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài vườn nho, rồi giết đi.

16Ông sẽ đến tru diệt các tá điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác". Nghe vậy, họ nói: "Mong đừng có chuyện ấy! " 17Nhưng Đức Giê-su đưa mắt nhìn họ và nói: "Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì:

           Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ,
          lại trở nên đá tảng góc tường?

18"Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt."

19Ngay giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy.

------------------

I- BỐI CẢNH CỰU ƯỚC

 Đức Giêsu đã mượn dụ ngôn vườn nho của Is 5,1-7 nhưng thay đổi vài chi tiết để thành dụ ngôn của Ngài.

– Trong dụ ngôn của Isaia, sau khi thất vọng về vườn nho, ông chủ đã tàn phá nó; còn trong dụ ngôn của Đức Giêsu, ông chủ không tàn phá nhưng trao nó cho người khác.

Ý tưởng so sánh ông chủ trong cả 2 dụ ngôn đều rõ: đó là hình ảnh của Thiên Chúa.

Nhưng vườn nho thì so sánh với ai? Trong dụ ngôn của Is, đó rõ ràng là hình ảnh của dân Israel. Nhưng ta không thể hiểu vậy được đối với dụ ngôn của Đức Giêsu, vì thật là phi lý nếu Thiên Chúa đem dân Israel trao cho người khác. Vậy phải hiểu vườn nho là hình ảnh của Nước Trời: ban đầu Thiên Chúa ban Nước Trời cho dân Israel mong họ sẽ làm sinh hoa lợi, nhưng vì họ đã không làm nên Thiên Chúa trao Nước Trời cho ‘người khác’ là GH.

– Những tá điền: các lãnh tụ tôn giáo Do thái (Ez 3,4). 

Những đầy tớ chủ sai đi thu hoa lợi: đó là các ngôn sứ.

– Đứa con của ông chủ: Đức Giêsu.

– Những ‘người khác’ mà ông chủ sẽ giao vườn nho: một dân mới (GH) thế chỗ cho dân cũ (Israel)


II- GIẢI THÍCH

c 9a Đức Giêsu nói dụ ngôn này cho dân chúng nghe. Nhưng các lãnh tụ Do thái thì hiểu Đức Giêsu muốn nhắm tới họ (c 19).

c 9b-10 Ông chủ cho các tá điền thuê vườn nho, họ được canh tác nó với điều kiện là sinh ‘hoa lợi’. Lc thường nhắc tới hoa lợi mà Thiên Chúa trông đợi nơi dân Ngài (3,8-9 6,43-44 8,8 13,6-9)

c 10-12 Ông chủ 3 lần sai đầy tớ đến thu hoa lợi. Nhưng đám thợ chẳng những không nộp, mà việc làm của họ ngày càng quá đáng và trầm trọng, đuổi về sau khi đánh đập (lần 1); đuổi, đánh đập và hạ nhục (lần 2); quăng ra ngoài sau khi đánh trọng thương (lần 3).

 Ngoài cách đối xử tàn ác của tá điền đối với các tôi tớ của chủ, dụ ngôn còn nhấn mạnh đến thất bại hoàn oàn của sứ mạng các tôi tớ: bị ‘đuổi về tay không’.

c 13-15 Bọn tá điền giết con trai yêu dấu của chủ không chút ngần ngại và đầy đủ ý thức. Không phải chúng giết lầm người, vì vừa thấy cậu đến thì họ biết ngay đó là đứa con thừa tự của ông chủ. Như thế tội của chúng càng nặng hơn.

 – “Quăng ra bên ngoài vườn nho”: ám chỉ việc Đức Giêsu bị giết ngoài thành Giêrusalem.

 – “Trao cho người khác”: Nước Trời không còn trao độc quyền cho dân Israel nữa mà trao cho GH.

 – “Đã trở thành viên đá góc tường”: Động từ trong nguyên bản có nghĩa là ‘đã được làm thành’, nghĩa là thể thụ động, hiểu ngầm túc từ tác động là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu trở thành đá góc.

BÀI 86: THIÊN CHÚA VÀ HOÀNG ĐẾ (20,20-26)

20Họ rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn. 21Những người này hỏi Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. 22Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? " 23Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ, nên Người nói: 24"Cho tôi coi một quan tiền! Quan tiền này mang hình và danh hiệu của ai đây? " Họ đáp: "Của Xê-da." 25Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."

26Họ không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân; nghe câu trả lời của Người, họ ngạc nhiên và làm thinh luôn.

------------------

c 20 Tuy Lc không nói rõ những đối thủ lần này của Đức Giêsu là ai, nhưng Mc 12,13 và Mt 22,16 thì nói rõ đó là pharisêu và nhóm Hêrôđê. Hai phái thường ngày đối nghịch nhau nhưng nay bắt tay nhau để hại kẻ thù chung là Đức Giêsu.

 – Biệt phái đã chống chính quyền Rôma và khinh ghét những người hợp tác với Rôma.

 – Nhóm Hêrôđê trái lại cầu thân với Rôma để củng cố đặc quyền đặc lợi của họ.

 Sau trận tấn công đầu tiên (về quyền giảng dạy: 20,1-8) bị thất bại,lần này họ cẩn thận hơn: ‘rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời…’.

c 21 Để bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời, họ gài một cái bẫy. Nhưng họ ch đậy cái bẫy đó rất khéo bằng những lời tâng bốc Đức Giêsu: ‘nói và dạy cách thẳng thắn, không thiên vị ai, theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa’.Nhưng đặc biệt nhất họ gọi Ngài là ‘Thưa Thầy’, nguyên bản là Rabbi, một tước vị mà chỉ có một số ít người làu thông Thánh Kinh mới được gọi mà thôi.

c 22 – Tiếp đó họ mới thò cái đuôi đầy nọc độc ra: ‘Có nên nộp thuế cho Xêsa không?’ Đây là một cái bẫy nguy hiểm vì Đức Giêsu trả lời nên hay không đều bị kẹt hết: nếu Ngài nói nên nộp thuế cho Rôma thì sẽ bị nhóm biệt phái lên án phản quốc; nếu Ngài nói không nên thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài phản động chống Rôma.

 c 23-24 Đức Giêsu không bị những lời tâng bốc làm mờ mắt khiến không nhận ra nọc độc trong cái bẫy họ giăng ra. Đấng đã từng dạy các môn đệ mình hãy ‘khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu’ làm sao vướng bẫy họ được. Ngài chưa vội trả lời nhưng bảo họ đưa cho Ngài xem đồng tiền. Dĩ nhiên đây là đồng tiền để nộp thuế. Ta nên biết rằng người Do thái phải nộp thuế cho 2 phía: thuế nộp cho Đền thờ thì phải bằng đồng tiền do Đền thờ phát hành, còn thuế nộp cho Rôma thì phải bằng đồng tiền do Rôma phát hành, gồm một mặt in hình hoàng đế tại vị và một mặt in hàng chữ hiệu của hoàng đế. Khi Đức Giêsu hỏi thì đương nhiên họ phải đưa ra đồng tiền Rôma này.

 – Và khi Ngài hỏi hình và chữ này của ai? Họ cũng công nhận như thế.

c 25 “Của Xêsa thì trả cho Xêsa”: nguyên việc họ đang sử dụng đồng tiền Rôma cũng đã cho thấy một cách nào đó họ tòng phục quyền bính Rôma. Câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là họ đã đặt cho Ngài một thắc mắc vô ích và giả hình nữa. Ngài không thèm đi sâu vào vấn đề đó vì coi nó là không cần thiết.

 – “Của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa”: Nhưng Đức Giêsu nhắc họ phải lưu ý tới một điều quan trọng hơn mà họ đã bỏ quên, đó là phải lo những bổn phận đối với Thiên Chúa. Đừng vì bận tâm chính trị hay vì lòng thù ghét đối với Ngài mà bỏ quên điều quan trọng này.

 Như thế, Đức Giêsu vừa không mắc bẫy mà vừa dạy lại cho các đối thủ của Ngài một bài học đích đáng. Chính vì thế mà họ ‘ngạc nhiên và làm thinh luôn’.

BÀI 87: PHỤC SINH CHO KẺ CHẾT (20,27-40)

27Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. 28Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 29Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30Người thứ hai, 31rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? "

34Đức Giê-su đáp: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. 36Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống."

39Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm." 40Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 27“Bè Sađốc”: Đây là lần duy nhất nhóm này xuất hiện trong Tin Mừng Lc (sau này họ sẽ xuất hiện nhiều hơn trong sách Công Vụ: Cv 4,1 23,6-9). Họ là một trong ba phái tôn giáo Do thái (hai phái kia là Pharisêu và Essêni). Họ là dòng dõi của tư tế Sađốc thuộc bộ tộc Lêvi (Xh 40,46). Họ là giới trưởng giả của hàng tư tế. Họ chỉ quan tâm tới lễ nghi tế tự và ít quan tâm tới những vấn đề liên hệ tới các giáo điều.

 – “Nói rằng kẻ chết không sống lại”: Cách chung, bè Sađốc chỉ công nhận Ngũ thư. Mà niềm tin vào việc kẻ chết sống lại chỉ xuất hiện khoảng năm 165 tr cn.. trong sách Macabê và sách Đaniel. Do đó, bè Sađốc không công nhận Cv 23,8 nói họ không tin có thiên sứ, thần khí và sự sống lại. Tuy nhiên vì họ tin rằng sau khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại trong Shéol.

 Phần Đức Giêsu thì về điểm này Ngài cùng lập trường với bè Biệt phái, nghĩa là tin rằng kẻ chết sẽ sống lại.

 Do đó bè Sađốc coi Đức Giêsu là đối thủ, và hôm nay họ tới chất vấn Ngài.

c 28-33 “Ông Môsê đã dạy chúng tôi”: Vì tất cả mọi người Do thái đều tin nơi Môsê, cho nên bè Sađốc viện dẫn Môsê để mở đầu cuộc tấn công. Đoạn mà họ viện dẫn là Luật Lêvirat trong Đnl 25,5t. Mục đích của họ là chứng minh rằng nếu có sống lại thì thật là lố bịch. Con số 7 mà họ đưa ra cũng cho thấy sự lố bịch trầm trọng của vấn đề.

c 34-36 Thực ra khi bè Sađốc không tin vào việc kẻ chết sống lại và những người Do thái kia tin vào việc đó là họ dựa vào một quan niệm rất thô thiển và duy vật về sống lại: họ cho rằng cuộc sống sau khi sống lại cũng giống cuộc sống hiện giờ (do đó cũng cần ăn uống, cũng có vợ có chồng, có con) nhưng lại phong phú hơn. Từ quan niệm thô thiển đó, Rabban Gamalien đã viết ‘lúc đó sau khi sống lại phụ nữ sẽ sinh con mỗi ngày’. Ông đã lý luận rằng hiện nay ngay cả gà mái còn để trứng mỗi ngày, không lẽ con người lúc đó lại thua kém con vật sao! (Talmud Shabbat 30b). Khoảng năm 150, một rabbi khác còn tiên báo rằng đến lúc đó mỗi người Israel sẽ có ít nhất là 600.000 đứa con, nghĩa là tương đương với số người Israel đã xuất hành khỏi Ai cập!

 Phần Đức Giêsu thì quan niệm rằng cuộc sống sau khi sống lại không phải chỉ là trở lại cuộc sống cũ, nhưng là một cuộc tạo dựng mới hoàn toàn, một sự đổi mới tận căn thân phận con người khiến con người mang lấy thân phận thượng giới giống như thân phận các thiên thần (Ga 6,2). Khi đó con người không còn mải lo về điều gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa ‘giống như thiên thần’.

 Riêng việc lấy vợ lấy chồng, thì mục đích là để lưu tồn sự sống qua việc sinh con. Nhưng trong cõi đời sau, vì người ta sẽ không còn chết nữa nên việc sinh con không còn ý nghĩa, và do đó cũng không có chuyện lấy vợ lấy chồng. Ở đây Đức Giêsu đưa vấn đề đi xa hơn để tới chỗ đúng đắn của nó: đừng chỉ nghĩ đến sự sống lại, mà phải nghĩ đến sự bất tử nữa.

c 37-38 Và để củng cố cho lập luận của mình, Đức Giêsu viện dẫn thêm Thánh Kinh. Đúng lý ra Ngài có thể viện dẫn sách Macabê hoặc sách Đaniel, nhưng vì bè Sađốc chỉ chấp nhận Ngũ thư thôi cho nên Ngài viện dẫn Ngũ thư.

 Đại khái lý luận của Đức Giêsu như sau: lúc Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai thì các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp đã khuất bóng. Hế nhưng Thiên Chúa đã phán rằng Ngài là Thiên Chúa của các Tổ phụ đó, tức là các Tổ phụ đó còn sống. Như thế Thiên Chúa là Chúa của những người sống và những người mà ta tưởng chết thật ra vẫn còn sống, họ sống trong một thế giới khác. Hơn nữa Thiên Chúa tạo dựng loài người là để cho loài người được sống (St 2,23-24)

c 39 “Mấy Thông giáo liền thưa Ngài rằng…”: Lời lẽ của Đức Giêsu khiến các luật sĩ hài lòng, vì một mặt họ thấy đối thủ của họ là bè Sađốc đã bị thua. Mặt khác họ cũng thán phục cách chú giải Thánh Kinh tuyệt vời của Đức Giêsu.


II- KẾT LUẬN

Lời tuyên bố của Đức Giêsu về việc kẻ chết sống lại như một sự mở màn cho thấy Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng về sự sống, và hơn nữa còn cho thấy chính Ngài là kẻ nắm giữ bí mật của sự sống vĩnh cửu ấy.

BÀI 88: ĐỨC GIÊSU VÀ VUA ĐAVÍT (20,41-44)

41Nhưng Người hỏi họ: "Sao người ta lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 42Vì chính vua Đa-vít đã nói trong sách Thánh vịnh: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 43Để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con.

44"Như vậy, vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng; thế thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được? "

------------------

Đức Giêsu vẫn còn giảng dạy ở Đền thờ. Sau khi bị các phe nhóm thay nhau chất vấn Ngài về nhiều vấn đề (về quyền giảng dạy của Ngài: 20,1-8; về việc nộp thuế cho Xêsa: 20,20-26; về vấn đề kẻ chết sống lại: 20,27-40), bây giờ chính Ngài đặt ra vấn đề.

c 41 “Ngài hỏi họ”: câu 40 của đoạn trước cho biết những cuộc chất vấn đã kết thúc. Nay chính Đức Giêsu lên tiếng hỏi.

 – Ngài hỏi ai? Đối tượng khác nhau tùy mỗi quyển Tin Mừng. Trong Mt thì là hỏi Biệt phái; trong Mc thì hỏi ‘đám đông dân chúng đang thích thú nghe Ngài giảng’; còn trong Lc thì hỏi giới Thông giáo (có khi còn được dịch là Kinh sư). Sở dĩ Ngài đặt vấn đề với giới này vì họ vừa lên tiếng tán thưởng Ngài đã có ý kiến hay về việc kẻ chết sống lại (c 39).

 – “Sao người ta lại nói Đức Kitô là con vua Đavít”: Đức Giêsu mở đầu vấn đề bằng cách nhắc lại quan niệm chung của nhiều người Do thái (‘người ta’) rằng Đấng Kitô (tức Messia) là con của vua Đavít. Có một truyền thống được giới thông giáo rao giảng là Đấng Messia là con cháu của vua Đavít. Truyền thống này dựa trên 2Sm 7,14-17. Người bình dân thường gọi như vậy (người mù thành Giêrikhô 10,48-49; dân thành Giêrusalem 11,10). Chính Tin Mừng Lc cũng đã nhiều lần viết như thế (1,27 1,32-33 2,4.11 3,11 18,38-39…)

 Nhưng Đức Giêsu không tự xưng mình như vậy vì tước hiệu này dễ gây hiểu lầm về một Đấng Messia chính trị và quân sự. Cho nên Ngài sẽ giải thích rõ hơn cho dân hiểu.

c 43 Sau khi đặt vấn đề Đức Giêsu bắt đầu đưa ra một chú giải mới cho câu Tv 110,1

 – Nguyên văn hipri của câu này là: ‘Sấm ngôn của YHWH phán cùng chúa tôi rằng’. Chữ ‘chúa’ (seigneur) trong câu này chỉ Đavít, câu này không tạo thành vấn đề gì cả vì YHWH mà coi Đavít là ‘con’ thì là đương nhiên.

 – Thế nhưng khi người ta dịch lại sang tiếng hy lạp và aram thì do muốn tránh nói thẳng tới YHWH, dịch giả đã thay chữ YHWH bằng chữ ‘Chúa’. Thành ra câu này có tới hai chữ ‘Chúa’: “Chúa phán cùng chúa của tôi rằng…”

 – Khi đọc Tv này trong nhãn giới messia, người do thái hiểu chữ ‘chúa’ thứ nhất là Đavít (mà người ta coi là tác giả của Tv 110), và chữ ‘chúa’ thứ hai (‘chúa của tôi’) là Đấng Messia. Khi đó ý nghĩa câu này sẽ đảo ngược lại là: Vua Đavít nói cùng Đấng Messia(mà Đavít gọi bằng ‘chúa của tôi’) rằng con hãy ngự bên hữu ta. Cách hiểu này dẫn tới 2 điểm không ổn:

a/ Đavít coi Đấng Messia vừa là ‘chúa của tôi’ vừa là ‘con’!

b/ Đấng Messia sẽ có tính cách chính trị (vì chia quyền cai trị của Đavít).

 – Rồi Đức Giêsu kết luận ‘Nếu vua Đavít gọi Đấng Messia là Chúa thì làm sao Đấng Messia lại làm con của Đavít được?’. Câu này không phải là một câu giải đáp cho vấn đề được nêu lên. Nhưng nó có tác dụng là khiến giới thông giáo hiểu rằng Đức Giêsu cũng là một chuyên viên chú giải Thánh Kinh. Phần Đức Giêsu thì chỉ hỏi mà không trả lời, khiến họ phải xét lại cách họ hiểu Tv 110.

 – Khi đưa câu hỏi mà không trả lời, Đức Giêsu muốn chờ thời gian trả lời hộ. Thực vậy, sau khi Ngài sống lại, ý nghĩa của Tv 110 này dần dần được sáng tỏ: khi hiện ra với hai môn đệ Emmau. Đức Giêsu đã dùng Thánh Kinh để cho họ thấy rằng Đấng Messia phải trải qua đau khổ rồi mới vào trong vinh quang (24,26) và ngự bên hữu Thiên Chúa (là YHWH ‘Đức Chúa’ đích thực); Ngày lễ Ngũ tuần Phêrô đã dựa vào Tv 110 để khẳng định rằng ‘Đấng đã chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã làm cho Đấng ấy trở thành Chúa và Messia( Cv 2,34-36).

 – Khi đó câu hỏi bỏ lửng của Đức Giêsu đã có một giải đáp: Đấng Messia mà Tv 110 nói đến ấy chính là Đức Giêsu.Tuy nhiên Ngài không phải là một Messia chính trị, nhưng là một Messia Tôi tớ.

 – Xét về huyết thống thì Messia ấy quả thực là con cháu Đavít.

 – Nhưng xét về thiên chức thì Messia ấy trổi vượt Đavít. Ngài là ‘chúa’ của vua Đavít. Messia ấy được quyền cai trị, nhưng không phải quyền cai trị của Đavít, mà là quyền cai trị của chính Thiên Chúa.

 – Rốt cuộc Đức Giêsu đưa Tv 110 trở lại đúng ý nghĩa nguyên thủy của nguyên bản hipri: phải hiểu chữ ‘Chúa’ thứ nhất là Thiên Chúa (YHWH) và chữ ‘chúa’ thứ hai là Đấng Messia, hay nói rõ ra là chính Đức Giêsu.

 – “Để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con”: Trong phần thứ hai của câu Tv 110,1, những ‘địch thù’, hiểu theo ý nghĩa mới của Đức Giêsu, chính là các quyền lực của sự dữ, cách riêng là sự chết (1Cr 15,24-27).

BÀI 89: KHIỂN TRÁCH CÁC KINH SƯ (20,45-47)

45Toàn dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ: 46"Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 47Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn." 

------------------

c 47 Sau khi đặt vấn đề buộc các kinh sư phải xét lại xem Đấng Messia là con vua Đavít theo nghĩa nào, Đức Giêsu quay sang nói với các môn đệ để cảnh giác họ về một số thói xấu của các kinh sư:

 1/ Thói phô trương:

 – “Ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng”: Mt 23,6-7 mô tả rõ hơn: chiếc áo này được họ đính thêm những ‘thẻ kinh’ và những ‘tua’:

 * ‘Thẻ kinh’: là Phylactères, tức là những hộp nhỏ hình vuông bằng da trong đó đựng 4 đoạn Thánh Kinh: Đnl 11,13-22 6,4-9; Xh 13,11-16 và Xh 13,2-10. Những đoạn thánh kinh này tóm nội dung chính của Luật. Một người Israel từ lúc 13 tuổi phải mang một thẻ kinh trên trán và một thẻ kinh trên cánh tay trái. Mỗi ngày thường (ngày lao động) vào buổi sáng họ phải đọc rằng ‘Xin chúc tụng Yavê, Thiên Chúa, Vua vũ trụ vì Ngài đã dùng các giới răn của Ngài mà thánh hóa chúng con, và đã truyền chúng con mang những thẻ kinh’.

 * ‘Tua áo’: Ds 15,37-39 dạy rằng người Israel phải buộc những tua vải vào 4 góc gấu áo để nhắc họ nhớ thi hành những giới răn Thiên Chúa.

 Điều Đức Giêsu tố cáo không phải là sự kiện họ mang thẻ kinh và tua áo. Nhưng là cách họ cố tình làm cho những thẻ kinh và tua áo ấy lớn hơn, rộng hơn với dụng ý là cho người ta thấy mà khen họ đạo đức.

 – “Ưa chiếm ghế danh dự trong Hội đường”: những ghế này quay lưng về giảng đài và quay mặt về dân chúng. Nghĩa là ghế chủ tọa.

 – “Thích được chào hỏi ở những nơi công cộng”:Luật Rbbi buộc ‘phải chào kẻ cao hơn mình về phương diện hiểu biết Luật’. Như vậy thích được chào có nghĩa là thích được người ta nhìn nhận mình hiểu biết luật hơn người.

 2/ Thói lợi dụng chức vụ: 

 – Lc còn thêm câu 47: “Nuốt hết tài sản các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh lâu dài”. Đây là thói xấu lợi dụng chức vụ để tự tư lợi.

BÀI 90: ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA (21,1-4)

1Ngước mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. 2Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. 3Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." 

------------------

Sau khi mô tả những thói xấu của bọn kinh sư trong đó có việc lợi dụng chức vụ đẻ nuốt chửng tài sản của các bà góa. Đức Giêsu lấy một bà góa ra nêu gương. Chữ ‘bà góa’ là từ móc nối 2 đoạn Tin Mừng này lại với nhau.

c 1“Thùng tiền”: Đây là những thùng tiền được đặt ở cửa vào Đền thờ để người ta dâng cúng tiền (2V 12,10).

c 2 “Bà góa”: Xã hội Do thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ cho nên họ rất bị thiệt thòi: tài sản của chồng thì họ không được hưởng (con cái họ hưởng), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất (Đnl 24,17-22).


KẾT

1/ Cho đi không phải của dư thừa mà là chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế rất quý vì cũng là sự cho đi chính bản thân mình.

2/ Đoạn Tin Mừng này liên hệ chặt chẽ với đoạn liền phía trước. Đức Giêsu càng khen ngợi bà góa bao nhiêu thì càng làm lộ rõ cái xấu của các kinh sư bấy nhiêu.

3/ Qua chuyện này, Đức Giêsu cũng bày tỏ lòng ưu ái của mình đối với những người chịu nhiều thua thiệt trong xã hội. Đức Giêsu là như thế đó, một Đấng Messia rất nhân từ và ưu ái những kẻ bị bỏ rơi (4,25-26 7,12 18,3-5 20,47).

4/ Đồng thời đây cũng là những lời kết án của Đức Giêsu đối với hệ thống xã hội thời đó: các vị hữu trách tôn giáo chẳng những không nâng đỡ các bà góa mà còn lợi dụng họ và khai thác họ. 

BÀI 91: LOAN BÁO ĐỀN THỜ GIÊRUSALEM VỊ PHÁ HỦY (21.5-24)

5Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: 6"Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào." 7Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước? "

8Đức Giê-su đáp: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. 9Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". 10Rồi Người nói tiếp: "Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.

12"Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. 13Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. 14Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. 15Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. 16Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. 17Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. 18Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.

20"Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. 21Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. 22Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm.

23Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!

"Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này.

24Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 5Lúc đó Đức Giêsu đang ở trong Đền thờ Giêrusalem. Đây là đền thờ thứ hai do Hêrôđê Cả khởi công xây dựng từ năm 19 tr cn. đến năm 63 cn. mới hoàn thành. Nhưng đến năm 70 cn. nó lại bị phá hủy.

Vì vậy khi chuyện này xảy ra thì Đền thờ đang trong giai đoạn xây dựng. Có nhiều trang trí và đồ dâng cúng rất đẹp khiến người ta phải trầm trồ.

c 6 Nhân dịp đó Đức Giêsu nói rằng Đền thờ này sẽ bị phá hủy tan tành. Lời tiên tri này sẽ ứng nghiệm vào năm 70.

Thời Cựu Ước, nhiều ngôn sứ cũng tiên tri về việc phá hủy Đền thờ. Theo họ là vì dân đã hủy bỏ giao ước giữa dân với Thiên Chúa. Nay Đức Giêsu tiên báo về Đền thờ bị phá hủy, tức là Ngài tiếp nối truyền thống ngôn sứ. Lý do của lần phá hủy này là vì dân đã không nhận Ngài là Messia.

c 7 Một số người ở đó nghe Đức Giêsu nói thế liền hỏi thêm về thời giờ (‘khi nào’) và dấu chỉ báo trước (‘dấu nào’) việc phá hủy ấy

c 8 Đức Giêsu không trả lời về hai điểm này, nhưng chuyển sang đề tài tận thế.

Tại sao Đức Giêsu chuyển đề tài? Vì nhiều người quen liên kết ba biến cố lại với nhau: phá hủy Đền thờ – tận thế – Con Người quang lâm. (Mt và Mc cũng liên kết như thế). Trong Lc, Đức Giêsu tuy chuyển sang đề tài Tận thế những nhằm phá bỏ sự liên kết ấy.

Vì nhằm phá bỏ sự liên kết ấy, Đức Giêsu lần lượt đưa ra và đánh tan hai sự lầm tưởng:

– Lầm tưởng thứ nhất: là do những kẻ mạo danh Ngài để lừa gạt mọi người rằng Tận thế sắp đến (‘thời hạn đến rồi’). ‘Thời hạn’ nghĩa là tận thế.

Nếu tin theo bọn đó thì người ta sẽ bị cuốn hút vào một cơn sốt chuẩn bị tận thế. Nhưng cơn sốt này tai hại vì sua đó người ta sẽ chẳng thấy tận thế gì cả và sẽ thất vọng hoặc bất mãn, không tin.

Do đó Đức Giêsu căn dặn ‘các con đừng có đi theo họ’

c 9 – Lầm tưởng thứ hai: là do những tin đồn về rôi loạn chiến tranh.

Có lẽ Đức Giêsu nghĩ tới những cuộc chiến tranh giành độc lập mà người Do thái sẽ phát động chống lại đế quốc Rôma. Nhiều người khi nghe tin chiến tranh thì nghĩ rằng đó là dấu báo sắp tận thế. Mc 13,8 cũng công nhận chiến tranh là dấu chỉ của tận thế, nhưng khẳng định nó chỉ là dấu chỉ xa mà thôi. Phần Lc thì nói dứt khoát đó không phải là dấu chỉ tận thế, chúng cần phải xảy ra trước ngày tận thế nhưng chúng không phải là dấu chỉ tận thế.

c 10-11 Sau khi đánh tan hai sự lầm tưởng về ngày tận thế, bây giờ Đức Giêsu đưa ra một số dấu chỉ về ngày giờ đó.

  Đức Giêsu lấy lại những hình ảnh trong văn chương Khải huyền Do thái (Is 19,2; 2Sb 15,6): các dân nước chống đối nhau, động đất, ôn dịch, đói kém, những điềm lạ.v.v…

Xét cho cùng thì những dấu chỉ này cũng rất mơ hồ, vì thực ra thời nào cũng có thể thấy những dấu đó.

Như thế Đức Giêsu tuy là đưa ra những dấu chỉ, cũng không phải những dấu chỉ rõ ràng. Tại sao vậy? Vì Ngài không muốn người ta bận tâm về tận thế.

c 12 Điều Đức Giêsu muốn chúng ta quan tâm là ‘trước bấy nhiêu điều ấy’, nghĩa là giai đoạn hiện tại của GH trước khi tới ngày tận thế.

Lc lưu ý tới hoàn cảnh đặc biệt của GH hiện tại là bị bắt bớ: bắt bớ bởi Do thái giáo (‘Hội đường’) và bởi những kẻ cầm quyền các nước (‘vua chúa quan quyền’)

Trong hoàn cảnh bị bắt bớ như vậy, Kitô hữu phải sống thế nào?

Trước hết hãy lạc quan nghĩ rằng: những khổ sở mình phải chịu sẽ là những bằng chứng có lợi cho mình trước Tòa phán xét của Thiên Chúa. (Lời dịch: ‘nhờ thế các con có dịp làm chứng’ cho thấy các Kitô hữu ra trước tòa làm chứng đức tin. Nhưng dịch như thế không đúng với quan điểm của Lc thường nghĩ đến sự thay đổi hoàn cảnh ở đời sau: đến đời sau, chính những đau khổ đời này sẽ trở thành bảo chứng cho Kitô hữu về sự trung thành của họ. Vì thế phải dịch câu này là: “Nhờ thế chúng con sẽ có bằng chứng” – (Cela aboutira pour vous en témoignage)

c 14-15 Thứ hai là hãy an tâm đừng lo phải bào chữa thế nào khi bị bắt bớ, vì chính Đức Giêsu sẽ ban cho họ ‘Lời nói’, ‘sự khôn ngoan’ mà kẻ thù không thể nào thắng được.

c 16-17 Sự bắt bớ có thể xảy ra ngay giữa những người thân thiết như cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn hữu…khiến cho một số Kitô hữu phải chết.

c 18 Ở điểm này Lc khác với Mt 10,21 và Mc 13,12 vì xác định không phải hết mọi người sẽ bị giết. Có lẽ Lc muốn nói rằng sự bắt bớ không thể nào làm im tiếng các Kitô hữu được.

Nhưng dù thế nào đi nữa, các Kitô hữu hãy vững tin rằng mình được Thiên Chúa che chở. Đức Giêsu diễn tả ý này bằng một thành ngữ “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng không hư mất”.

c 19 “Chính nhờ sự vững vàng kiên nhẫn mà các con sẽ được cứu mạng sống mình”: Đức tính cần thiết trong giai đoạn hiện tại của GH là phải kiên trì trước những gian lao, khổ sở lúc bị bắt bớ, cũng như trước nhịp sống tẻ nhạt đều đều lúc bình thường. Kiên trì là điều Lc thường nhấn mạnh (Lc 8,15; Cv 14,22).

BÀI 92: CON NGƯỜI QUANG LÂM – BÀI HỌC TỈNH THỨC (21,25-38)

25"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."

29Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: "Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. 30Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi. 31Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. 32Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 33Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.

34"Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."

37Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. 38Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.

------------------

I- VĂN THỂ KHẢI HUYỀN

1/ Văn thể Khải huyền được thành lập khoảng 200 năm trước công nguyên. bởi sách Đanien, sau đó được sử dụng rất nhiều trong các tác phẩm khác như sách Hénoch. Cuộc lên trời của Môsê, những bí mật của Hénoch, các sách Khải huyền của Êlia, của Sophonie, của Abraham, của Esdras và của Baruch.

Mục đích: người ta sử dụng văn thể này để loan báo về lúc tận cùng của thời gian.

Đặc điểm: khi loan báo về lúc tận cùng ấy, người ta sử dụng những hình ảnh quy ước như trật tự trên trời xáo trộn, trật tự dưới đất cũng xáo trộn và trật tự dưới biển cũng xáo trộn.

2/ Đã là những hình ảnh quy ước, nên chúng không phải là mô tả chính xác cũng không phải là nói tiên tri rằng sẽ xảy ra đúng như vậy. Chúng ta hãy đọc ba đoạn văn theo văn thể Khải huyền viết về ba biến cố lịch sử như sau:

  – Is 13,9-10: nói về lúc Babylon sụp đổ.

  – Is 34,3-4: nói về lúc Edom sụp đổ.

  – Ed 32,7-8: nói về thảm họa sẽ giáng xuống cho Ai cập.

Ba việc này đều xảy ra trong lịch sử, nhưng đâu có đúng từng chi tiết như ba đoạn Khải huyền trên mô tả.

3/ Những lời nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này là để trả lời cho câu hỏi các môn đệ đặt ra về ngày tận thế, cho nên Đức Giêsu cũng nói theo giọng điệu Khải huyền.


II- GIẢI THÍCH

c 25 Vũ trụ quan thời đó: vũ trụ gồm ba phần: trời – đất – biển.

 Đến lúc tận thế trật tự ở cả ba phần đó đều bị xáo trộn: dưới đất mọi người kinh hoàng, dưới biển thì sóng thét gào, còn trên trời (c 26) thì ‘các năng lực’ (mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao) chuyển động.

c 26b Quan điểm đa thần thời đó coi các tinh tú trên bầu trời đều là các vị thần. Đến ngày tận thế, thế lực của các thần trên đó đều bị Thiên Chúa đánh bại.

c 26a Trước cảnh nọi trật tự cũ đều xáo trộn, và trước cảnh các thần đều tiêu tan, mọi người đều sợ hãi.

c 27 Tại sao mọi trật tự đều xáo trộn, mọi thế lực tà thần đều sụp đổ? Đó là vì chúng bị đánh bại bởi Con Người.

“Con Người”: nhân vật chính trong sách Đanien (Đn 7,13-14) trong sách này Con Người là hình ảnh của dân Israel sau bao thử thách đã được phục hồi và được tôn vinh. Đức Giêsu đã mượn hình ảnh này áp dụng cho mình: sau khi chịu nạn chịu chết, Ngài cũng sẽ được Phục sinh, được trao cho quyền hành tối cao trên vạn vật.

“Đến giữa đám mây”: theo văn thể khải huyền, mây được coi là xa giá để chở Thiên Chúa.

“Quyền thế và vinh quang”:tất cả bức họa về sự xáo trộn các thế lực cũ và sự ngự đến của Con Người đều nhằm nổi bật hai khía cạnh của Đức Giêsu trong ngày tận thế: quyền thế – vinh quang.

c 28 Người thế gian thì sợ hãi trước những cảnh vừa nói, nhưng môn đệ Đức Giêsu thì vui mừng, bởi vì họ biết rằng những cảnh ấy là dấu cho họ biết Thiên Chúa sắp đến giải thoát họ khỏi mọi thế lực của gian tà. Do đó họ đứng thẳng và ngẩng đầu chờ Ngài mau đến.

c 34-35 So với các đoạn khải huyền khác, và ngay cả so với các đoạn song song trong Mt và Mc, đoạn Tin Mừng này của Lc không dừng lâu ở việc mô tả các dấu chi, nhưng chú ý đến thái độ mà môn đệ Đức Giêsu phải có.

Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian… và bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến, dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.

c 36 Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lỉ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.

– Hầu thoát xa mọi điều sắp tới và vững tâm đứng vững trước mặt Con Người hầu được mọi sự tốt lành trong cuộc Phán xét của Chúa.

c 37-38 Những ngày sau hết của Đức Giêsu: Ban ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ; đến tối Ngài qua đêm tại múi Ô-liu; sáng hôm sau lại vào Đền thờ giảng dạy.