Chú Giải Tin Mừng Luca 

V. HÀNH TRÌNH CỦA ĐỨC GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM

Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

Bài 43: NHỮNG ĐIỀU KIỆN LÀM TÔNG ĐỒ (9,51-62)

51Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? " 55Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

57Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." 58Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu."

59Đức Giê-su nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi! " Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." 60Đức Giê-su bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."

61Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." 62Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."

------------------

Đoạn này mở đầu phần thứ III của Tin Mừng Lc (9,51-19,28): cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem để chịu tử nạn, chịu chết, sống lại và lên trời.

Đoạn này gồm hai chuyện: một làng Samaria không tiếp đón Đức Giêsu và những điều kiện đặt ra cho những ai muốn làm môn đệ Ngài. Nhưng câu nhập đề (c 51) có tầm quan trọng đặc biệt nên cần được nghiên cứu kỹ.


I- NHẬP ĐỀ:

c 51 “Khi tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời”: dịch sát nguyên văn là ‘Đến lúc hoàn thành những ngày của cuộc cất lên của Ngài’:

 * ‘Lúc hoàn thành’: kiểu nói này được Lc dùng đến 7 lần trong phân đoạn chương 1-2, với ý nghĩa việc thực hiện những lời Thiên Chúa hứa. Do đó kiểu nói này không phải đơn thuần là một chỉ dẫn về thời gian, mà còn mang tính chất thần học.

 * ‘Cuộc cất lên của Ngài’: tiếng Hy lạp là analempsisb. Đây là chữ đặc biệt Lc dùng để chỉ việc Đức Giêsu ‘thăng thiên’. Nghĩa là trở lên với Chúa Cha (Cv 1,2.11.22 10,16). Đây cũng là chữ mà bản LXX dùng để dịch sự cất lên trời của ngôn sứ Êlia (2V 2,9-11). Lc dùng kiểu nói này.

 – “Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem”: dịch sát nguyên bản là ‘Ngài làm cứng mặt mình lại’ (Il durcit sa face hoặc Il affermit son visage). Trong ngôn ngữ Hy Bá Lai ‘mặt’ là một cách nói để chỉ ‘con người’. Đức Giêsu ‘làm cứng mặt mình lại’ nghĩa là Ngài rất cương quyết. Hơn nữa, kiểu nói này cũng gợi nhớ Is 50,7 nói về ‘Người Tôi Rớ cương quyết chịu khổ’ lên thành Giêrusalem là nơi các người công chính thường bị hành hạ và giết chết.

 * Thay vì viết cách đơn giản ‘Khi đó Đức Giêsu quyết định lên Giêrusalem’, Lc đã dùng một câu trịnh trọng như trên. Kiểu nói trịnh trọng này có ba ý nghĩa.

a) Thời giờ Chúa Cha ban cho Đức Giêsu để thực hiện sứ mạng ở trần gian đã đến lúc sắp kết thúc.

b) Đức Giêsu sắp bước vào một giai đoạn quan trọng nhất của đời Ngài là đi vào sự chết, sống lại và lên trời.

c) Ngài làm việc này trong tư cách một ngôn sứ bị bách hại như Êlia và như Người Tôi Tớ mà Isaia đã tiên báo.


II- MỘT LÀNG SAMARIA KHÔNG TIẾP (51-56)

c 52 “Ngài phái mấy anh em đi báo tin trước”: đây cũng là một kiểu nói trịnh trọng mang âm hưởng của Mt 3,1 nói về việc Yavê sai Sứ giả đi trước để dọn đường. Nhưng ở đây Lc đã thay đổi ý nghĩa: Đức Giêsu chính là Yavê, các người dọn đường chính là vài môn đệ.

 – “Hầu sửa soạn cho Ngài”: ngoài ý nghĩa thần học vừa nói trên, việc vài môn đệ được sai đi trước cũng có ý nghĩa thực dụng là chuẩn bị những nhu cầu cần thiết cho Đức Giêsu và đoàn tùy tùng.

 – “Một làng đất Samaria”: có một sự căng thẳng thường xuyên giữa người Do thái và người Samaria.

c 53 “Nhưng dân làng không tiếp rước, bởi vì Ngài muốn đi Giêrusalem”: do sự căng thẳng đó nên đương nhiên dân làng này không tiếp rước Đức Giêsu, nhất là họ biết Ngài muốn đi lên Giêrusalem, bởi vì họ không công nhận tư cách của Đền thờ Giêrusalem và do đó không muốn người ta hành hương lên Giêrusalem.

 Lc đã mở màn cho phân đoạn sứ vụ tại Galilê với chuyện dân Nagiarét từ chổi Đức Giêsu vì lý do Ngài rao giảng một chương trình cứu độ phổ quát (4,14-30). Bây giờ, để mở màn cho phân đoạn hành trình lên Giêrusalem. Lc ghi chuyện một làng Samaria không tiếp rước Ngài. Lý do không phải là họ từ chối bản thân Ngài, mà là vì Ngài muốn lên Giêrusalem, thủ đô của dân Do thái mà họ không thích. Tức là cũng cái tính toán chia rẽ và cục bộ đó.

c 54 – Tinh thần cục bộ cũng ăn sâu trong chính các môn đệ của Đức Giêsu, ngay cả trong Giacôbê và Gioan, 2 trong số 3 môn đệ thân tín nhất của Ngài. Hai ông này xin cho lửa từ trời xuống thiêu đốt chúng: phản ứng này rất đúng tình cảm của hai ông này, những người mà Mc 3,17 đã gọi là ‘con của sấm sét’. Phần Lc thì dùng chi tiết chi tiết này để một lần nữa liên kết Đức Giêsu với mô hình ngôn sứ Êlia (2V 1,9-12): Lửa từ trời đã xuống thiêu đốt các sứ giả của vua Ochozias.

c 55-56 – Nhưng Đức Giêsu không phải là một Messia thẩm phán (như Gioan Tẩy Giả từng hình dung: 3,16-18). Ngài là Đấng nhân từ không muốn trừng phạt ai trước khi tới thời hạn mà Thiên Chúa ấn định.

 – “Đức Giêsu quay lai quở mắng các ông”: Lc cũng dùng động từ ‘quở mắng’ này cho ma quỷ (4,35). Sở dĩ Ngài cứng rắn như thế với các môn đệ, là vì họ tỏ ra không hiểu giáo huấn của Ngài về lòng yêu thương kẻ thù (6,29) và về thân phận bị người ta từ chối (9,22).

 – và cũng như sau chuyện bị từ chối ở Nagiarét, Đức Giêsu lại tiếp tục con đường của mình.


III- MÔN ĐỆ PHẢI TỪ BỎ (57-62)

Tiểu đoạn này gồm ba chuyện nhỏ. Hai chuyện đầu cũng có trong các Tin Mừng Nhất lãm khác, chuyện thứ ba là riêng của Lc. Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Đức Giêsu nhân những dịp này.

c 57-58 – Người thứ nhất muốn đi theo Đức Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (Ga 1,37-49).

 – Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi, cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, mà Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, mộ làng Samaria không tiếp rước Ngài).

 “Không có chỗ gối đầu”: khác với Mt và Mc, Lc không bao giờ cho thấy Đức Giêsu có một chỗ trọ nào cả, nghĩa lý nếp sống của Ngài là không dựa vào những bảo đảm vật chất.

 – Chú ý: ở đây Đức Giêsu tự xưng bằng tước hiệu ‘Con Người’. Hiểu theo cách dùng tước hiệu này ở hai chỗ 9,22 và 9,44. ‘Con Người’ chính là kẻ bị từ chối và thậm chí bị giết chết nhưng không có gì để tự bảo vệ.

 – Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Đức Giêsu là phải giống như Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.

c 59-60 “Hãy theo Ta”: {r Mt 8,21-22 chính người này xin theo Đức Giêsu, còn ở đây lời kêu gọi xuất phát từ chính Đức Giêsu. Chính Ngài là người đưa ra sáng kiến.

 – “Xin cho con về chôn cất cha con trước đã”: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Đức Giêsu, nhưng xin một thời gian chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.

 – “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: Tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts”.

 – Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Đức Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (Mt 15,3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.

c 61-62 – Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1V 19,19-21). Lời đáp của Đức Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày ‘đầu ngoái lại sau’: còn luyến tiếc quá khứ.

 – Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị…), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.

 – Nếu so sánh với chuyện Êlisêvà Êlia thì chuyện này cho thấy Đức Giêsu đòi hỏi nhiều hơn Êlia (Êlia cho phép Êlisê về).


KẾT LUẬN CHUNG

Đức Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài.

Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria: hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ. 

BÀI 44: SAI PHÁI 72 MÔN ĐỆ (10,1-20)

1Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2Người bảo các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.

3Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! " 6Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." 10Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11"Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." 12Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó."

13"Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. 14Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!

16"Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy."

17Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." 18Đức Giê-su bảo các ông: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 1 – Cần lưu ý rằng Mt và Mc chỉ ghi lại một bài sai truyền giáo của Đức Giêsu cho nhóm 12 (Mt 10,1-16; Mc 3,16-19). Phần Lc thì ghi một bài sai cho nhóm 12 (9,1-6), và một bài sai khác cho các môn đệ (ở đây). Khi được sai đi truyền giáo, các môn đệ này chẳng thua kém gì các tông đồ: họ cũng được Đức Giêsu tôn trọng trao trách nhiệm (9,16) cũng được coi là đại diện của Đức Giêsu (10,16), cũng có quyền trên ma quỷ (10,17), và cũng rao giảng về Nước Trời (10,9.11). Sau khi sống lại, Đức Giêsu lại sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ này nữa (24,33-36). Lc muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72.

 – “Bảy mươi hai”: nhiều thủ bản ghi 70. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê (bản Hy Bá Lai ghi 70, bản Hy Lạp ghi 72). Vậy 72 hoặc 70 môn đệ, ngụ ý Đức Giêsu muốn sai họ đi truyền giáo cho tất cả nhân loại.

 Tóm lại, việc chọn và sai 72 môn đệ có nghĩa là sứ mạng loan Tin Mừng không phải chỉ được Đức Giêsu giao cho các Tông đồ, mà còn giao cho mọi người tín hữu.

 – “Chúa”: Lc gọi Đức Giêsu là ‘Chúa’, nghĩa là Ngài sai họ đi trong tư cách Ngài là chủ của mọi tác vụ trong GH.

 – “Từng nhóm hai người”:

a) Theo luật thì lời chứng của từ hai người trở lên mới có giá trị (Đnl 19,15; Mt 18,16). Vậy các môn đệ được sai đi với tư cách nhân chứng.

b) Việc loan Tin Mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

c) Sách Công vụ cung cấp nhiều minh họa cho chi tiết này: cặp Phaolô và Barnabê (Cv 13,2-4), Barnabe và Marcô, cặp Phaolô và Sila (cv 15,39-40).

 – “Đi trước Ngài”: như những sứ giả dọn đường.

 – “vào tất cả các thành, các nơi mà chính Ngài sẽ đến”: thêm một chi tiết nữa về tính phổ quát.

c 2 “Mùa màng, thợ gặt”: hình ảnh mùa gặt (cũng như hình ảnh lưới cá) mốn nói đến việc quy tụ nhiều người lại thành một cộng đoàn dân Chúa.

 – “Hãy cầu xin”: việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là ‘cầu xin’, Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Đức Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.

c 4a “Như chiên non vào giữa sói rừng”: có 2 ý nghĩa:

a) Đức Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.

b) Ngài dạy họ sống như ‘những người nghèo chẳng có gì che chở, chẳng có tiền, bao bị, giày dép. Một sự nghèo nàn tuyệt đối, bởi vì ‘nghèo’ là điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa (6,20) cho nên người loan báo Nước Thiên Chúa cũng phải nghèo.

c 4b “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin Mừng đòi phải gấp. Nên lưu ý là tất cả những người lãnh sứ mạng trong Lc đều vội vã: Maria, các mục tử Philip (Cv 8,30).

c 5-6“Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23).Người rao giảng Tin Mừng phải là ‘con cái của sự bình an’. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.

c 7 “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.

 – “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: Sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những của ăn uống người t lo cho mình)

 – “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).

c 8 “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27)

c 9 “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: Đây là dấu hiệu ước Thiên Chúa gần đến.

c 11“Phủi bụi chân”: Người Do thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Đức Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.

c 12 – Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn cả Sodoma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin Mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.

c 17 – Sau một thời gian đi rao giảng, các môn đệ trở về và báo cáo kết quả. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Thành công của các môn đệ là đã chữa được bệnh, được người ta đón nghe, nhưng quan trọng hơn cả là khuất phục được quyền lực Satan. Bởi đó họ hớn hở. Họ đã cảm nghiệm được rằng: Vương triều Thiên Chúa đã bắt đầu hoạt động nơi Thầy mình. Do đó họ gọi Ngài là Chúa.

c 18“Thầy đã thấy Satan như tia chớp từ trời sa xuống”: đây không phải là một thị kiến của Đức Giêsu, mà chỉ là một cách nói bóng bẩy rằng: Satan đang bị đánh bại. Chiến thắng của các môn đệ trên Satan là tiền vị của hoa quả sẽ gặt hái được sau này qua sự chết và sống lại của Đức Giêsu (Ga 12,31).

c 19 “Giẫm trên rắn và bọ cạp”: Thánh Kinh coi những thứ này là công cụ của Satan. Đức Giêsu đã cho các môn đệ thông phần quyền lực của Thiên Chúa, họ không còn nằm trong vòng quyền lực của Satan nữa mà nằm trong quyền lực của Thiên Chúa (Rm 8,37-39).

c 20 – Nhưng niềm tin lớn nhất của thừa sai chính là tên họ được ghi trên trời. Các thành phố thời xưa ghi tên công dân của mình vào sổ bộ của thành. Được ghi tên, tức là được quyền công dân. Thừa sai được nhận vào cuộc sống vĩnh cửu.


II- KẾT LUẬN

Những đòi hỏi đối với các môn đệ và đối với nhóm 12 đều như nhau (9,1-6). Đó cũng là những đòi hỏi cho tất cả mọi tín đồ đối với nhiệm vụ truyền giáo, loan báo sự bình an của Đấng Cứu Thế trong cung cách nghèo nàn, dịu hiền, phục vụ vô vị lợi, chấp nhận thiếu thốn. Chỉ với giá đó thì quyền lực Satan mới bị khuất phục và người thừa sai được ghi tên trên trời.

BÀI 45: MẶC KHẢI CHO NHỮNG KẺ BÉ MỌN (10,21-24)

21Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

22"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho."

23Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! 24Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe."

------------------

Thành công của các môn đệ trong chuyến đi rao giảng đã khiến Đức Giêsu vui mừng thốt lên lời tạ ơn Thiên Chúa.


GIẢI THÍCH

c 21 “Ngay giờ ấy”: ngay sau khi các môn đệ từ chuyến công tác truyền giáo trở về báo cáo kết quả (x. bài trên)

 – “mặc khải cho những kẻ bé mọn”: Trong Lc, kiểu nói ‘những kẻ bé mọn’ chỉ những người nghe lời loan báo của các môn đệ. Trong bài trước, chúng ta đã thấy các môn đệ được sai đi loan báo Tin Mừng cho những làng mạc xa xôi và lời loan báo đó được nhiều người đón nhận. Sự việc này khiến Đức Giêsu ‘vui mừng hớn hở’, một sự vui mừng hớn hở được tác động bởi chính ‘Thánh thần’. Trong tâm tình ấy, Đức Giêsu lên tiếng ‘ngợi khen Chúa Cha’.

 – “Vì đó là điều đẹp ý Cha”: việc những kẻ bé mọn đón nhận Tin Mừng không những là niềm vui của Đức Giêsu, đó còn là điều đẹp ý Chúa Cha nữa.

c 22 – Đón nhận Tin Mừng tức là được ‘biết’ Chúa Cha. Thực ra đây là chuyện độc hữu của Thiên Chúa: chỉ Chúa Cha biết Chúa Con, cũng như chỉ Chúa Con biết Chúa Cha. Thế nhưng vì yêu thương, Chúa Cha đã để cho Chúa Con mặc khải cho những kẻ bé mọn, cho họ được chia sẻ sự ‘biết’ này. Vì thế, được ‘biết’ Thiên Chúa là một đặc ân rất quý, đến nỗi Đức Giêsu phải vui mừng hớn hở và cảm tạ Thiên Chúa vì những kẻ bé mọn được chia sẻ đặc ân ấy.

c 23 – Sau khi nói đến đặc ân của ‘những kẻ bé mọn’, Đức Giêsu nói đến đặc ân của chính các môn đệ mình. Họ cũng rất hạnh phúc vì nhận được mặc khải về Thiên Chúa: biết bao người khác, kể cả các bậc ngôn sứ và vua chúa đã từng ước ao như vậy mà không được.

BÀI 46: NGƯỜI SAMARIA TỐT LÀNH (10,25-37)

25Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"

26Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? " 27Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." 28Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."

29Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? " 30Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." 36Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? " 37Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 25 “Hỏi thử Ngài”: luật sĩ này hỏi Đức Giêsu không phải vì thành tâm muốn tìm hiểu, mà nhằm gài bẫy Ngài.

 Câu hỏi của luật sĩ: Mt 22,36 ghi “Thưa Thầy, trong Luật mệnh lệnh nào trọng nhất?”. Mc 12,28 ghi “Trong các mệnh lệnh, điều nào trọng nhất?”. Nghĩa là Mt và Mc chú ý đến phương diện luật pháp. Còn Lc sửa lại “Con phải làm cho để được hưởng sự sống muôn đời?”. Nghĩa là Lc thích nghi với độc giả của mình, nhấn mạnh đến mục đích của Luật.

c 26 – Đức Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng hỏi lại, làm như thế Ngài buộc kẻ đối thoại phải tỏ lập trường.

c 27 – Luật sĩ trả lời bằng cách trích phần đầu của kinh Shema mà mọi người Do thái phải đọc mỗi ngày hai lần ‘Hãy yêu mến Thiên Chúa… hết cả tâm tư con nữa’ (Đnl 6,5). Nhưng anh ghép thêm một câu trong sách Lêvi ‘và thương yêu cận thân như chính bản thân mình’ (Lv 19,18).

 Hai khoản luật này có sẵn trong Cựu Ước nhưng nằm xa nhau. Điều đặc biệt là anh đã nối kết chúng lại với nhau. Thực ra anh không phải là người đầu tiên nối kết như thế, mà là chính Đức Giêsu. Phải chăng luật sĩ này là người đã thấm nhuần giáo huấn của Đức Giêsu? Chưa chắc, vì c. 25 đã nói rõ là anh muốn ‘thử’ nghĩa là gài bẫy Đức Giêsu. Để dễ gài bẫy anh khởi sự bằng cách nói đúng giáo huấn của Ngài mà anh đã được nghe, để rồi sau đó lừa dịp quật ngược lại.

c 28 – Đức Giêsu công nhận anh nói thế là đúng (dù nói với thiện chí hay nói với ý đồ gài bẫy), nhưng Ngài thêm: điều quan trọng không phải là anh nói mà là thực hành.

c 29 – Luật sĩ chưa chịu bỏ cuộc vì ý định gài bẫy chưa thực hiện, anh hỏi câu thứ hai ‘nhưng ai là cận thân của tôi?’.

 Câu hỏi thứ nhất của anh (c. 25) thực ra không quan trọng, vì giáo huấn của Đức Giêsu và của nhóm luật sĩ hầu như giống nhau, có khác là ở chỗ Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật lại. Chính câu hỏi thứ hai này mới rắc rối và có thể mở ra một cuộc tranh luận giữa anh với Đức Giêsu, bởi vì đối với người Do thái từ trước tới giờ, ‘cận nhân’ nghĩa là bất cứ người Do thái nào ở bên cạnh mình, trừ ra người ngoại (Xh 20,16-17 21,14.18.35; Lv 19,11.13.15-18…) còn đối với Đức Giêsu thì, như phần sau sẽ cho thấy, Ngài hiểu kiểu nói này rộng hơn nhiều..

c 30 – Một lần nữa Đức Giêsu không trả lời thẳng mà dùng một dụ ngôn. Đây là kiểu paradygme, nghĩa là đưa ra một câu chuyện mẫu mực cho người ta sống theo.

 Làm như thế Đức Giêsu đã chuyển trọng tâm của cuộc tranh luận: người luật sĩ muốn tranh luận về lý thuyết (định nghĩa ai là cận nhân), Đức Giêsu chuyển sang giai đoạn thực hành: ta phải cư xử thế nào để chứng tỏ mình là ‘cận nhân’ của kẻ khác. Chính vì chú ý tới phương diện thực hành nên đoạn Tin Mừng này đã dùng rất nhiều chữ ‘làm’ (c 28.37a.37b).

 – “Giêricô”: Giêrusalem nằm ở độ cao 740m trên mực nước biển. Còn Giêricô thì ở 350m dưới mực nước biển. Do đó Lc viết là ‘xuống’ Giêricô. Khoảng cách giữa hai thành phố này chứng 27km, con đường vừa hẻo lánh vừa lởm chởm nên bọn cướp thường rình sẵn để cướp bóc.

 – “Người kia”: có thể suy đoán rằng đây là một người Do thái (bởi vì người xuất phát từ Giêrusalem). Nhưng ta nên lưu ý rằng Lc không muốn xác định quốc tịch người đó mà muốn gửi đến độc giả: ‘cận nhân’ là bất cứ ai chứ không riêng gì người Do thái.

c 31-32 – Khi đưa hai nhân vật đầu là một Tư tế và một Lêvi, Đức Giêsu không có ý hạ thấp giai cấp lãnh đạo tôn giáo thời đó, mà chỉ nhằm làm nổi bật hình ảnh người thứ ba là một người Samaria. Nếu có ngụ ý điều gì thì chỉ là Ngài muốn cho thấy hai người đầu có nhiều điều kiện để thực hiện tình cận nhân, nghĩa là thể hiện bác ái (hiểu biết đạo lý, có tiền bạc nhiều hơn). Thế nhưng đáng tiếc là họ đã ‘tránh né đi qua’.

c 33 “Người Samaria” vốn bị coi là lạc giáo, không thông luật như các Tư tế và Lêvi, thế mà lại thực hành đúng tinh thần các khoản luật yêu thương và có quan niệm rộng rãi, đại đồng về ‘cận nhân’.

 Đây chính là giáo huấn mà Đức Giêsu đã nhiều lần giảng dạy: Trong bài giảng trên cánh đồng (6,32-34), trong chuyện người phụ nữ Samaria (Ga 4,23-24), khi nói về những ‘con cái thật của Thiên Chúa’ (Ga 11,53).

 – “Chạnh lòng thương”: động từ này trong Tân Ước thường được áp dụng cho Đức Giêsu.

c 34 “Rượu nho và dầu”: Y khoa thường đó thường dùng rượu nho để tẩy trùng và dầu để làm dịu đau (Is 1,6).

c 34b-35 – Chẳng những ‘sơ cấp cứu’, người Samaria này còn tận tình lo sao cho nạn nhân khỏi hẳn thì mới an tâm.

c 36 – Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu đặt một câu hỏi trong đó Ngài đã chuyển trọng tâm của vấn đề: Ai đã tỏ ra là ‘cận nhân’?

 Câu chuyện trước đó đã chứa sẵn câu trả lời: chính lòng bác ái khiến người ta trở thành cận nhân đối với mọi người. Kể cả đối với những kẻ mà xét theo dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm.v.v… không có gì là ‘cận’ với mình cả.

c 37b – Người Luật sĩ đành chịu thua giáo huấn của Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu nhấn mạnh không phải chỉ hiểu như thế mà còn phải làm theo như thế.


II- KẾT LUẬN

Bài học của Đức Giêsu trong câu chuyện này là:

 – Bất cứ ai đang cần thì đều là ‘cận nhân’ của tôi và đều có quyền được tôi thể hiện lòng bác ái bằng những việc làm cụ thể.

 – Lòng bác ái không thể bị ngăn cách bằng bất cứ rào cản nào như chủng tộc, tôn giáo, quan điểm.v.v…

BÀI 47: MATTA VÀ MARIA (10,38-42)

38Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay! " 41Chúa đáp: "Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 42Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." 

------------------

I- CHIỀU HƯỚNG GIẢI THÍCH

 Nhiều người có lập trường khác nhau về chiều hướng giải thích câu chuyện này:

1/ Đây là một bài học phải sống đơn giản và ăn uống đạm bạc cho hợp với đức thanh bần mà Đức Giêsu thường khuyên dạy.

2/ Origène và Ambroise: Matta đại biểu cho lối sống hoạt động, Maria đại biểu cho lối sống chiêm niệm. Người môn đệ vừa phải hoạt động vừa phải chiêm niệm, nhưng hoạt động phải hướng tới chiêm niệm.

3/ Augustinô: Matta là đại biểu cho GH hiện tại đang đón nhận Đức Giêsu trong nhà mình. Maria đại biểu cho GH tương lai không còn bận tâm lo cho người nghèo nữa, mà chỉ còn ở bên Chúa để hưởng sự khôn ngoan của Ngài (GH chiến đấu và GH vinh quang)

4/ Cyrille d’Alexandre: một bài học về sự đón tiếp các sứ giả Lời Chúa

a) Chủ nhà đừng bận tâm đãi ăn cho ngon, chỉ cần thức ăn đơn giản và thanh đạm.

b) Sứ giả đừng đòi hỏi, phải đáp trả bằng những ơn lành mình mang đến.

II- TÌM HIỂU Ý CỦA LUCA

c 38 “Một làng kia”: có thể đoán là làng Bêtania. Nhưng cũng nên lưu ý là Lc đã không xác định như thế. Điều này chứng tỏ tác giả không quan tâm đến những chi tiết địa dư, mà quan tâm đến bài học ông sẽ đưa ra ở câu chót (c 42: Chỉ có một điều cần, phần tốt nhất)

 – “Một phụ nữ tên Matta”: văn mạch cho ta đoán rằng bà này là chị cả và là chủ nhà.

c 39 “Người em gái ten là Maria”:cũng như các Tin Mừng Nhất lãm khác. Lc ít khi nêu tên những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng ở đây ông lại nêu tên hai chị em, chứng tỏ ông có một quan tâm đặc biệt.

a) Lc thường đề cao vai trò các phụ nữ trong đời Đức Giêsu và trong sinh hoạt GH.

b) Hai chị em này phản ánh hai thái độ đón tiếp Đức Giêsu

 – “Ngồi bên chân Chúa”: nhiều lần Lc cho thấy đây là thái độ phải có của người môn đệ (8,35 7,38 8,41 17,16; Cv 22,3).

 – “Chúa”: cho thấy uy quyền của Đức Giêsu

 – “Lắng nghe Lời Ngài”: nhiều lần Lc cũng đề cao việc lắng nghe Lời Chúa (5,1 8,11.21 11,28). Đặc biệt câu chuyện ở Cv 6,1-6 cho thấy GH sơ khai đã coi Lời Chúa là điều quan trọng bậc nhất, quan trọng duy nhất, nên mới đặt thêm 7 Phó tế để lo việc khác, cho các Tông đồ chuyên chăm lo Lời Chúa.

c 40 – “Macta mắc lo nhiều việc”: lo những bổn phận của chủ nhà đối với khách.

 Hai chị em phản ảnh hai thái độ của người môn đệ đối với Đức Giêsu:

a) Đón tiếp và phục vụ Chúa cách nhiệt tình.

b) Lắng nghe Lời Chúa.

 Cả hai thái độ đều tốt và đúng. Nhưng sai lầm là ở chỗ tưởng rằng đón tiếp thôi cũng đủ, lại còn muốn bỏ đi việc lắng nghe Lời Chúa ‘xin bảo em con đi giúp đỡ con’.

c 41 – Lời Đức Giêsu như một phán quyết của trọng tài: điều quan trọng nhất, có thể nói là duy nhất của người môn đệ là lắng nghe Lời Chúa.

 Nhiều lần Đức Giêsu đã cảnh cáo thói quá lo lắng 12,11 12,22-25 8,14 21,34. Thực ra lo lắng không hẳn là xấu, nhưng phải cảnh giác vì nó khiến người môn đệ quên điều chính yếu.

 Tóm lại, Đức Giêsu đón nhận sự phục vụ của Matta cũng như Ngài đã từng nhận sự đón tiếp của những người biệt phái (7,36t 11,37 14,1) đã từng nhận việc đón tiếp của Giakêu (19,5) và đã từng dạy phải đón tiếp các sứ giả Tin Mừng (9,4 10,5-9). Nhưng Ngài đưa ra một bậc thang các giá trị. Người môn đệ phải coi trọng Lời Chúa hơn hết. Đó chính là “phần” của họ (Tv 119,57).


III- KẾT LUẬN

Trong chuyện này Lc muốn đưa ra một quy luật sống cho người môn đệ. Quy luật này là: phải dành chỗ ưu tiên cho việc lắng nghe Lời Chúa. Những hoạt động phục vụ không phải là xấu, nhưng phải coi chừng kẻo chúng làm ta phân tâm không để ý đến điều quan trọng duy nhất kia.

BÀI 48: TẦM QUAN TRỌNG CỦA CẦU NGUYỆN (11,1-13)

1Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông." 2Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:

"Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến,

3xin Cha cho chúng con
ngày nào có lương thực ngày ấy;

4xin tha tội cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi với chúng con,
và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."

5Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả"; 7mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.? 8Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.

9"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? 12Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? "

------------------

I- SO SÁNH VỚI MATTHÊU 6,9-13

1/ Về văn mạch:

– Kinh Lạy Cha trong Mt nằm trong một đơn vị văn chương kéo dài từ 6,1 đến 6,18, trong đó Đức Giêsu dạy môn đệ mình đừng làm những việc đạo đức thông thường với ý hướng khoe khoang như người Do thái (bố thí, cầu nguyện và ăn chay), nhưng kín đáo chỉ cần Cha trên trời biết mà thôi.

– Còn Kinh Lạy Cha trong Lc nằm trong đơn vị văn chương 11,1-13, trong đó Đức Giêsu nhấn mạnh đến hiệu quả của lời cầu nguyện kiên trì, bởi thế tiếp theo Kinh Lạy Cha, Lc còn ghi thêm dụ ngôn về người bạn thân ban đêm kiên trì gõ cửa vay bánh, và lời kết luận của Đức Giêsu khuyên kiên trì cầu nguyện.

2/ Về số lượng lời xin: Kinh Lạy Cha trong Lc chỉ có 2 ước nguyện và 3 lời xin, trong Mt tới 7 lời xin.

3/ Riêng lời xin tha thứ:

– Mt: “Xin Cha tha nợ của chúng con, như chúng con đã tha nợ cho những kẻ mắc nợ chúng con”.

– Lc: “Xin Cha tha tội cho chúng con, vì chúng con cũng tha cho những kẻ phạm tội đối với chúng con”.


II- GIẢI THÍCH CHI TIẾT

c 1 “Lần kia Đức Giêsu cầu nguyện”: Lc thường nói tới việc Đức Giêsu cầu nguyện. Đây là lần thứ sáu trong Lc nói về việc này.

“Như ông Gioan đã dạy môn đệ mình”: thời đó có nhiều nhóm tín ngưỡng, mỗi nhóm có một lời cầu nguyện riêng. Khi các môn đệ của Đức Giêsu xin Thầy dạy cho mình một lời cầu nguyện riêng, nghĩa là họ đã ý thức mình thuộc về một cộng đoàn Messia có nét độc đáo hơn những nhóm khác.

c 2 – Lời kinh Đức Giêsu dạy gồm một lời kêu Chúa, hai ước nguyện và ba điều xin.

– Lời kêu Chúa là “Lạy Cha”: từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, nhiều dân tộc cũng đã biết gọi thần linh của họ là Cha. Nhưng Cựu Ước không muốn người ta coi Thiên Chúa cũng giống như con người nên rất ít khi gọi Thiên Chúa là Cha (tất cả Cựu Ước chỉ gọi như thế có 14 lần), bởi thế không có một lời nguyện Cựu Ước nào dám gọi Thiên Chúa là Cha. Phần Đức Giêsu thì ngược lại, Ngài luôn gọi Thiên Chúa là Cha (10,21). Đặc biệt hơn nữa, tiến Ngài dùng trong nguyên ngữ Aram là Abba tức là tiếng mà trẻ thơ gọi ba của nó (Abba-Imma ba ba – má má). Chính vì tính cách quá thân mật của tiếng Abba nên trước đó chẳng ai dám dùng nó để gọi Thiên Chúa. Thế mà Đức Giêsu lại dùng, vì thế có thể nói Abba là ipsissima Vox của Đức Giêsu, Mt 11,27 “Chẳng ai biết Cha trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho”, tiếng Abba biểu lộ cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Hi Đức Giêsu dạy cho chúng ta kinh Lạy Cha và ban quyền cho ta cũng được gọi Thiên Chúa là Abba thì Ngài cũng cho ta chia sẻ quyền làm con và sự hiểu biết sâu sắc ấy.

– Tiếp theo là hai ước nguyện: nguyện cho Danh Cha vẹn hiển và Triều đại Cha mau đến. Chúng rất giống phần cuối của kinh Qaddish của người Do thái: “Xin cho Đại Danh của Ngài được tác thành trong thế giới mà Ngài tạo dựng theo ý Ngài. Xin cho Vương quyền của Ngài được thành lập trong đời sống chúng con một cách nhanh chóng và sớm sủa. Amen”.

Như thế hai lời xin này có màu sắc cánh chung vì nhắm tới lúc Danh Chúa và Vương quyền của Ngài được tác thành vĩnh viễn (Kh 11,15). Chỉ có điều khác nhau là người Do thái không biết rằng thời cánh chung ấy đã đến, còn Kitô hữu thì tin rằng nó đã đến rồi, họ cầu xin là cho nó được hoàn tất trọn vẹn.

“Ước nguyện thứ nhất”: Danh là biểu thị chính người mang nó ‘được tác thành’, bản dịch tiếng pháp là ‘soit sanctifié’ ở thể thụ động, ám chỉ tác nhân là Thiên Chúa. Thực ra Thiên Chúa tự bản chất đã là ‘Thánh’ chẳng ai có thể thêm chút gì vào sự thánh thiện ấy. Ta chỉ xin Thiên Chúa làm cho nọi người nhận biết sự thánh thiện của Ngài. Nghĩa là biết Ngài là chủ tể vạn vật. Hiện nay còn nhiều người chưa biết, ta xin cho tới ngày mọi người đều biết.

“Ước nguyện thứ hai”: theo luật của bút pháp sóng đôi, ta có thể hiểu lời xin này có cùng nội dung và cùng viễn tượng với lời xin thứ nhất. Cựu Ước vẫn tin rằng Thiên Chúa là Vua của họ. Đến thời Đức Giêsu, dân chúng càng mong ước Thiên Chúa đến thiết lập vương quyền trên thế giới. Lời xin này của Đức Giêsu đáp ứng đúng nguyện vọng ấy, nhưng Đức Giêsu thanh lọc nó khỏi những yếu tố trần gian và chính trị (Lc 13,29; Mt 8,11). Thực ra khi Đức Giêsu đến thì Vương quyền của Thiên Chúa cũng đến, ta cầu xin cho Vương quyền ấy được hoàn thành trọn vẹn.

c 3 – Sau hai ước nguyện là ba lời xin. Đại từ chỉ người xin ở số nhiều (“chúng con”) nhắc các môn đệ rằng họ thuộc về một cộng đoàn huynh đệ, và họ có cầu xin là cầu xin trong tư cách là thành phần của cộng đoàn ấy.

– Lời xin thứ nhất là về “Lương thực”: nghĩa là chính lương thực vật chất, nhưng cũng hàm ý xin những ơn cần thiết khác. Mt ghi ‘lương thực hôm nay’. Còn Lc ghi ‘lương thực mỗi ngày’ để hợp với tâm thức lương dân hơn.

c 4 – Lời xin thứ hai:

“Xin Cha tha tội của chúng con”: Mt thì dùng chữ ‘nợ’. Thực ra tội cũng giống như nợ, nhưng cũng có khác: nợ thì con người có thể trả, còn tội thì con người không thể trả, chỉ biết xin tha mà thôi.

“Vì chúng con cũng tha”: có liên hệ chặt chẽ giữa việc ta tha thứ kẻ khác với việc Thiên Chúa tha thứ cho ta. Về động từ diễn tả việc con người tha thứ, Mt đặt ở thì quá khứ (chúng con đã tha) để nhấn mạnh ta phải tha thứ trước rồi Thiên Chúa mới tha cho ta. Còn Lc đặt ở thì hiện tại để cho thấy cần phải tha thứ trong cả cuộc đời.

“Kẻ phạm tội đối với chúng con”: TOB dịch quiconque nghĩa là tha cho bất cứ ai, tha cho mọi người. Ý nghĩa mạnh hơn.

– Lời xin thứ ba là “Đừng để chúng con sa cơn cám dỗ”: thực ra Thiên Chúa không cám dỗ ai cả (Gcb 1,13) sở dĩ động từ ở thể chủ động (actif) là vì viết theo quan niệm chung của người Do thái vốn gán mọi việc cho Thiên Chúa mà không phân biệt nguyên nhân đẹ nhất và các nguyên nhân đệ nhị. Trong lời này, ta xin Chúa giúp ta đừng sa ngã lúc bị cám dỗ.

Cám dỗ nào? Không chỉ là những cám dỗ thường ngày, mà nhất là cám dỗ từ chối Đức Giêsu Kitô (8,12 22,40). Chính vì nghĩ tới cơn cám dỗ quan trọng này, do Satan xúi giục nên Mt ghi thêm vào lời nguyện một câu nữa ‘nhưng cứu chúng con khỏi Ác thần’.

* Có hai điểm đáng chú ý trong lời kinh này:

a/ Mọi lời nguyện đều quy về Chúa Cha, không một lời nào nhắc tới Chúa Con là Đấng Cha sai đến. Đức Giêsu không hề nghĩ tới bản thân mà chỉ nghĩ tới Chúa Cha.

b/ Lời kinh Qaddish của người Do thái thường nhắc tới ‘nhà Israel’, ‘thành Giêrusalem’, ‘Đền thánh’ hay ‘Đất thánh’. Còn lời kinh Đức Giêsu dạy không nói tới một nơi, một địa danh nào cả. Như thế tức là lời kinh này mang tính cách phổ quát, có thể cầu nguyện ở mọi nơi, và ai ai cũng cầu nguyện được (không riêng gì dân Do thái).

c 5-8 Tiếp theo lời kinh Lạy Cha, Lc ghi một dụ ngôn nhằm soi sáng cho một cách cầu nguyện: cầu nguyện để xin ơn.

– Về dụ ngôn người bạn vay bánh, ta cần biết một chi tiết về phong tục: ở Palestine thời Đức Giêsu, nhà ở thường chỉ có một cửa duy nhất, ban đêm cả gia đình trải thảm trên nền nhà và ngủ trên đó. Khi có người nào đi mở cửa thì thường gây ồn ào vừa động giấc ngủ của những người khác.

– Câu chuyện dụ ngôn gồm 3 vai: Anh A đột ngột đến xin tá túc nhà anh B; anh B rất muốn làm tròn nghĩa vụ hiếu khách nhưng kẹt trong nhà không còn bánh cho khách ăn. Bởi thế B đổ đường chạy đến nhà của C (có lẽ vì A đến vào lúc ngày đã xế, nên khi B tới nhà của C thì đã tối và C đã lên giường ngủ). Dù vậy B cũng kêu cửa để vay C 3 chiếc bánh. Thực ra B không xin gì cho mình mà chỉ xin cho người bạn đường xa của mình. Tuy nhiên C đâu có coi A là bạn nên từ chối. Bởi đó trong phần kết của dụ ngôn, Đức Giêsu phân biệt hai thái độ cho: nếu không vì tình bạn (A không phải là bạn của C) thì ít ra cũng phải cho vì người kia cần. Lý do khiến sau cùng C chịu cho là sự kiên trì của B.

– Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu dùng lý luận a fortion: người phàm đối với nhau mà cũng còn phải mở cửa cho dù trong lòng rất khó chịu, huống chi Thiên Chúa; nếu ta cầu xin cách kiên trì thì chắc chắn Ngài sẽ ban cho ta.

c 9 – Các câu 9-13 là áp dụng dụ ngôn

– Đức Giêsu dùng 3 động từ mô tả 3 cách cầu xin ‘xin.. tìm.. gõ cửa’ và kết quả của 3 cách đó “Xin thì sẽ được; tìm thì sẽ thấy; gõ thì sẽ được mở”: những động từ này trong nguyên ngữ ở thì thụ động ‘sẽ được ban… sẽ được mở’ ngụ ý tác nhân là Thiên Chúa. Như thế tuy sự việc khởi đầu do sự kiên trì của người xin những kết quả cuối cùng (ơn ban) là do lòng tốt của người ban (Thiên Chúa) chứ không phải do công lao kiên trì của người xin. Bởi đó cần phải trông cậy vào Đấng ban ơn.

c 12 – Đức Giêsu đưa thêm những hình ảnh để minh họa cho thái độ trông cậy.

“Ai trong anh em là một người cha”: từ liên hệ bạn bè của dụ ngôn, Đức Giêsu chuyển sang liên hệ Cha Con trên thực tế với Thiên Chúa.

“Xin cá mà cho rắn”; “Xin trứng mà cho bọ cạp”: vì theo hình dáng bên ngoài, đối với người không nhìn kỹ hay người không biết rõ thì có thể lẫn lộn con rắn với con cá, con bọ cạp với cái trứng. Kẻ nào làm như thế thực chất là lừa gạt người xin.

c 13 – và Đức Giêsu dùng lý luận a fortion ‘các con dù là người xấu…’: chữ ‘xấu’ này không phải là một phán đoán về luân lý mà chỉ vì yêu cầu của bút pháp song đôi nghịch nghĩa, chữ ‘xấu’ tương phản mạnh hơn với chữ ‘tốt’ ở vế thứ hai.

– Lý luận a fortion của Ngài như sau: cha mẹ thế gian còn sẵn sàng ban của tốt cho con cái, huống chi là Thiên Chúa. Ngài không tiếc bất cứ thứ gì đối với chúng ta, thậm chí sẵn sàng ban thứ tốt nhất là chính ‘Thánh Thần’ cho chúng ta. Theo Lc, Thánh Thần là ơn ban tuyệt hảo nhất.


III- KẾT LUẬN

  Từ chìa khóa của đoạn này là Cha. Đây chính là nền tảng của sự cầu nguyện. Kitô hữu vì là con nên phải thường xuyên cầu nguyện với Abba của mình và cũng vì là con nên hãy tin tưởng rằng lời nguyện của mình chắc chắn sẽ được Abba nhậm.

BÀI 49: QUỶ VƯƠNG BÊENDÊBUN (11,14-26)

14Bấy giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ." 16Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. 18Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? ... bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.

23"Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.

24"Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi." 25Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước."

------------------

GIẢI THÍCH

c 14 – Một lần nữa Đức Giêsu bị các đối thủ của Ngài bắt bẻ. Hoàn cảnh lần này là Ngài cứu một người bị quỷ câm ám. Trường hợp người này bị câm không giống như trường hợp ông Dacaria (1,20), anh bị câm do ‘quỷ’ gây nên.

– Lc không chú ý mô tả việc trừ quỷ, nên chỉ nói rất gọn “Khi quỷ câm xuất rồi thì người câm nói được”. Điều Lc quan tâm mô tả ở đây là phản ứng của quần chúng, một phản ứng chia rẽ: Đa số dân chúng thì ‘lấy làm ngạc nhiên’, sự ngạc nhiên thán phục và tin tưởng.

c 15 – Nhưng một nhóm không phục. Họ xuyên tạc rằng Ngài đã dùng tà thuật, do dựa thế của Bêendêbun. Bêendêbun là một vị thần chính của dân Canaan, mà người Do thái coi là quỷ vương.

c 16 – Nhóm thứ ba không xuyên tạc như trên, nhưng đòi Đức Giêsu đưa ra một dấu lạ ‘từ trời’, tức là một kiểu nói tránh ‘từ Thiên Chúa’.

– Tóm lại cả hai nhóm đối thủ đều phủ nhận quyền lực của Đức Giêsu trong việc Ngài trừ một người bị quỷ câm ám.

c 17-20 – Đức Giêsu trả lời ngay cho nhóm thứ hai. Nhưng đối với nhóm thứ ba (đòi một dấu từ trời) thì chúng ta phải đợi đến 11,29 mới gặp câu trả lời của Đức Giêsu. Cách bố cục này của tác giả rất hợp để triển khai chủ đề ‘phép lạ’ của đơn vị 9,51-19,28: bước thứ nhất, trong những đoạn trước Đức Giêsu làm phép lạ để khơi lên những thắc mắc về căn tính của Ngài (thí dụ 8,25); từ nay sang bước thứ hai, các phép lạ ấy sẽ gây nên tranh luận và qua những cuộc tranh luận ấy, tác giả sẽ vạch trần nguyên do tại sao có người đã chống lại Đức Giêsu.

– Lập luận của Đức Giêsu để trả lời cho nhóm thứ hai là: ma quỷ chẳng dại gì mà đi phá hủy chính nước của nó, vì thế lý luận của các đối thủ chỉ là ngụy biện. Thực ra chính do thái giáo (“con cái các ông”) cũng trừ quỷ. Thế mà các đối thủ này đâu có gán việc ấy cho ma quỷ. Vậy họ lấy quyền gì mà bảo Ngài dựa thế Bêendêbun để trừ quỷ! Như thế việc Ngài trừ quỷ là do quyền phép Thiên Chúa, cốt để thiết lập Nước Thiên Chúa giữa nhân loại.

– Thực ra lý luận của nhóm thứ hai này cũng có cơ sở Thánh Kinh. Đó là Đnl 13,2-6 mà đại ý như sau: Nếu có một ai xưng mình là ngôn sứ rồi làm một phép lạ, nhưng sau đó dùng phép lạ ấy để khuyên người ta đi theo một vị thần khác ngoài Thiên Chúa độc nhất, thì đó chỉ là một ngôn sứ giả. Người đó phải bị xử tử về tội loan truyền tà giáo chống lại Thiên Chúa. Theo tinh thần của khoản luật này, tiêu chuẩn giúp phân biệt một người có phải là ngôn sứ hay không phải là tầm vóc của phép lạ mà là lời rao giảng của người đó có trung thành với Thiên Chúa hay không: một việc lạ khiến người ta không tin Thiên Chúa nữa thì không phải là một phép lạ xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng chấp nhận tiêu chuẩn mà khoản Đnl trên đưa ra. Cho nên hậu ý đằng sau lập luận của Ngài là: cũng như ‘xem quả thì biết cây’ (6,43-45), thì cũng thế, ta phải đánh giá những phép lạ dựa theo chúng có liên hệ hay không tới việc Nước Thiên Chúa đến. Áp dụng vào vụ này: bằng chứng Đức Giêsu không hành động dựa thế Satan là Ngài rao giảng về Nước Thiên Chúa chứ không hề kêu gọi người ta không tin vào Thiên Chúa.

c 21-22 – Đức Giêsu nói thêm về kết luận người ta phải rút ra từ phép lạ Ngài vừa làm: Từ trước tới nay, ma quỷ từng khống chế thế gian như một kẻ mạnh. Nhưng nay Đức Kitô xuất hiện như kẻ “mạnh hơn” nên đã tống khứ hắn ra ngoài và giải thoát loài người.

c 23 – Sự kiện Đức Giêsu đến tống khứ Satan để thiết lập Nước Thiên Chúa khiến từ nay người ta phải chọn lựa chứ không thể đứng trung lập nữa: không tin theo Đức Giêsu là đứng về phe ma quỷ.

c 24-26 – Phía trên Đức Giêsu đã cho biết Ngài đã tống khứ Satan. Bây giờ Ngài khuyến cáo các môn đệ đừng vì thế mà không cảnh giác. Một người đã được cứu thoát khỏi quyền lực Satan vẫn có thể bị rơi lại vào tròng của hắn, và khi đó tình hình càng tồi tệ hơn.

BÀI 50: HẠNH PHÚC THẬT (11,27-28)

27Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm! " 28Nhưng Người đáp lại: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." 

------------------

Trong bài trên (11,14-24), Lc cho thấy có những người xuyên tạc Đức Giêsu và hoài nghi quyền năng của Ngài. Bây giờ Lc cho thấy một hình ảnh ngược lại: một phụ nữ ngưỡng mộ cất lời ngợi khen Ngài.

c 27 – Nguyên văn lời khen ngợi là “Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú”: ‘dạ’ và ‘vú’ tượng trưng cho người mẹ. Ý người này là: phúc thay người phụ nữ nào được làm mẹ của Thầy, tức là Đức Maria.

c 28 – Đức Giêsu không phủ nhận hạnh phúc của kẻ làm mẹ Ngài, nhưng Ngài cho biết còn một thứ hạnh phúc lớn hơn nữa: đó là hạnh phúc của người lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Như thế Đức Giêsu coi trọng liên hệ đức tin hơn liên hệ huyết nhục.

Câu này không hạ giá Đức Maria vì Lc 1,45 đã cho thấy Maria là ‘kẻ đã tin’. Ngược lại câu này càng đề cao Đức Maria hơn nữa, vì Ngài quả thực là gương mẫu của việc lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.

BÀI 51: DẤU CHỈ GIÔNA (11,29-32)

29Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa. 

------------------

Ở bài 49, chúng ta đã biết rằng sau khi Đức Giêsu làm phép lạ cứu một người bị câm thì dân chúng chia ra thành 3 nhóm phản ứng khác nhau: nhóm thứ nhất (đa số) tin Ngài; nhóm thứ hai không tin, cho rằng Ngài đã làm tà thuật do dựa vào thế lực Bêendêbun. Đức Giêsu đã trả lời cho họ; nhóm thứ ba cũng không tin, họ đòi phải đưa ra một dấu chỉ ‘từ trời’ chứng mình Ngài là kẻ được Thiên Chúa sai đến. Trong đoạn này, Đức Giêsu sẽ đưa ra dấu chỉ đó

c 29 – Nhân dịp có “đám đông tụ họp đông đảo”. Đức Giêsu trả lời cho đòi hỏi của một số người muốn thấy dấu lạ rồi mới tin theo lời giảng của Ngài.

“Thê hệ này”: kiểu nói trong Thánh Kinh có nghĩa xấu hàm ý về những người cứng tin (Đnl 1,30).

– Đối với những người cứng tin, Thiên Chúa sẽ chẳng cho dấu lạ nào ngoài dấu lạ Giôna. Ta biết Giôna là một ngôn sứ ban đầu không vâng lệnh Chúa để đi rao giảng cho dân thành Ninivê, nhưng sau khi phải bị một con cá nuốt vào bụng 3 ngày thì ông đành vâng theo. Kết quả là toàn dân thành ấy đã hối cải. Khi nhắc chuyện Giôna, Đức Giêsu không nhắm đến việc ông bị cá nuốt, mà nhắm đến sự hoán cải của dân thành Ninivê, để khuyên người Do thái hãy nghe theo lời rao giảng của Ngài như dân Ninivê xưa nghe lời Giôna.

– Ta cũng dựa vào câu này để suy rằng Thiên Chúa không thích cho dấu lạ. Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô (16,31) cho biết đối với kẻ cứng tin thì cho dù họ có thấy người chết hiện về họ cũng không tin.

c 31-32 – Tiếp theo Đức Giêsu dùng hai thí dụ để cho thấy Ngài biết trước người Do thái sẽ không chịu nghe lời giảng của Ngài như dân Ninivê ngày xưa đã chịu nghe lời giảng của Giôna (Nữ hoàng Phương Nam và dân Ninivê). Bởi thế, tới ngày phán xét, tội của họ sẽ nặng hơn.


KẾT LUẬN

  Nhóm thứ ba đòi một dấu lạ, Đức Giêsu nói chính thân Ngài là dấu lạ, Ngài chính là ngọn đèn và ánh sáng (cc 33-36) được đặt ở nơi cao để soi sáng cho mọi người thấy đường mà ‘vào nhà’. Vấn đề có thấy đường để vào nhà hay không là tùy ở cặp mắt người ta có nhận ánh sáng đó hay không, tùy người ta có để cho ánh sáng đó soi dẫn mình hay không. Điều này Đức Giêsu sẽ giải thích rõ hơn trong đoạn tiếp theo. 

BÀI 52: NÓI VỀ ĐÊM (11,33-36)

33"Chẳng có ai đốt đèn lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.

34"Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. 35Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. 36Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh."

------------------

Kết thúc đoạn nói về Giôna là 2 hình ảnh: cây đèn và ánh sáng. Cây đèn tượng trưng cho bản thân Đức Giêsu, được đặt trên cao cốt cho ánh sáng là lời rao giảng của Ngài soi đường chỉ lối cho con người.

c 33 – Mục đích của đền là soi sáng, cho nên người ta đặt đèn ở chỗ cao để cho mọi người đều thấy nó và được nó soi sáng.

c 34 Mắt được so sánh với cây đèn vì tác dụng soi sáng. Tuy nhiên muốn soi sáng rõ thì phải có điều kiện là đèn phải sang

“Khi mắt anh sáng”: nguyên ngữ chữ ‘sáng’ là ‘đơn sơ’ hàm ý tinh tuyền, không bệnh hoạn, không sai lệch. Khi ‘con mắt’ (nghĩa là cái nhìn) của con người đơn sơ tinh tuyền và đúng đắn thì ‘toàn thân’ (nghĩa là cách sống) sẽ ‘sáng’ (nghĩa là tốt) và trái lại.

c 35-36 – Hai câu này đã chịu nhiều đợt tam sao thất bản. Nhưng ý chính là: sứ điệp của Đức Giêsu rất rõ ràng ai cũng có thể đọc được, với điều kiện là phải có cái nhìn tinh tuyền và lòng không được cứng tin. 

BÀI 53: KHIỂN TRÁCH PHARISÊU VÀ THÔNG LUẬT (11,37-54)

37Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: "Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? 41Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người. 42Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ. 43Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng. 44Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay."

45Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa! " 46Đức Giê-su nói: "Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.

47"Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! 48Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.

49"Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: "Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.

52"Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản."

53Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.

------------------

GIẢỈ THÍCH

Ta có thể chia đoạn này làm 4 phần:

a) Hoàn cảnh (cc 37-38)

b) Những lời khiển trách Pharisêu (cc 39-44).

c) Những lời khiển trách nhóm luật sĩ (cc 45-52).

d) Phản ứng (cc 53-54).


a) Hoàn cảnh

c 37 Một người pharisêu mời Đức Giêsu đến nhà dùng bữa. Lc không có ác cảm với người pharisêu vì nhiều lần chép việc người pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa (ở đây và 14,1), báo tin cho Ngài hay Hêrôđê hăm dọa Ngài (13,31). Về điểm này Lc gắn bó với lịch sử hơn Mt và Mc vì thực ra sự thù nghịch từ phía nhóm pharisêu chỉ thực sự gay gắt sau năm 70.

– Vừa vào nhà, Đức Giêsu ‘tiến vào bàn ăn’, nghĩa là Ngài không rửa tay trước. Nhóm pharisêu coi các nghi thức thanh tẩy rất quan trọng, không phải vì lý do vệ sinh mà vì lý do luân lý, nhằm tẩy xóa những ô uế mà ta có thể vô tình bị lây nhiễm khi tiếp xúc với những kẻ tội lỗi. Trong câu chuyện này, không phải Đức Giêsu quên, mà đó là lập trường cố hữu của Ngài (11,14.29)

c 38 Dĩ nhiên người pharisêu ấy ngạc nhiên và thầm khó chịu trong long.


b) Khiển trách nhóm pharisêu

c 39-41 “Nhưng Chúa nói với ông ấy”: Tước hiệu Lc dành cho Đức Giêsu ngay từ đầu bài khiển trách là ‘Chúa’, nhằm đề cao tư cách của Ngài và cũng nhằm cho thấy những lời sau đó rất quan trọng.

– Vấn đề được Ngài đề cập là cặp bên ngoài/bên trong: bên ngoài là việc tuân thủ những quy định về nghi thức; bên trong là lòng đạo đức thật. Nhóm pharisêu chỉ chú trọng tới cái bên ngoài và bỏ quên cái bên trong.

– Tiếp theo Đức Giêsu nói về ‘sự bố thí’. Đây là chủ đề được Lc rất quan tâm. Đức Giêsu khẳng định rằng bố thí có thể thay thế mọi quy định lề luật; đối với người bố thí cho kẻ nghèo thì mọi cái đều tinh sạch.

c 42-44 – Rồi Đức Giêsu nêu đích danh 3 điều lầm lạc của nhóm pharisêu, thể hiện việc họ đã sai lầm trong vấn đề ‘bên ngoài và bên trong’ ấy:

a/ Quan tâm đến việc nộp thuế thập phân về cả những rau cỏ tầm thường vốn không có ghi trong những bộ luật xưa (Nkm 13,10-13) mà lại bỏ quên những nhân đức rất lớn như công bình và yêu thương.

b/ Thích danh vọng bề ngoài, bằng cách chọn ghế đầu trong hội đường. Thực ra trong buổi họp ở hội đường thì phải có người ngồi ghế đầu. Việc những người pharisêu được ngồi như thế chưa phải là đáng trách; điều đáng trách là họ ‘thích’ và nhất là họ không xứng đáng mà lại thích như thế.

c/ Thích được chào ở nơi công cộng. Và Ngài đúc kết: họ giống như những nấm mồ. Mồ là cái chôn dấu xác chết vốn là một thứ ô uế. Do đó ai đạp lên mồ mả thì cũng bị nhiễm ô uế. Vì thế các nấm mồ cần phải có các dấu hiệu cho người ta biết để tránh đạp lên. Người pharisêu vì trong lòng đầy sự xấu xa, nên cũng chứa đựng nhiều thứ ô uế những người khác lại không biết.


c) Khiển trách nhóm luật sĩ

“Một luật sĩ lên tiếng”: sở dĩ người này lên tiếng bênh vực cho nhóm pharisêu là vì cách sống của pharisêu chính là dựa theo cách giải thích luật của các luật sĩ.

c 46 Đức Giêsu cũng trách nhóm luật sĩ 3 điều: a) ‘chất gánh nặng lên vai người khác’. Trong Thánh Kinh, chữ ‘gánh nặng’ ám chỉ luật lệ. Các luật sĩ cứ miệt mài nghiên cứu luật và càng ngày càng đưa thêm nhiều khoản luật khiến người ta không làm nổi, trong khi chính họ lại không tuân giữ.

c 47-51 b) “Xây lăng cho các ngôn sứ”: có một truyền thống truyền khẩu rằng các ngôn sứ thường bị bách hại: Isaia đã bị cưa làm hai khúc, Giêrêmia bị dân ném đá chết, Amos bị đập đến chết (Dt 11,32-40; 2Sb 24,22). Khi người Do thái thời Đức Giêsu xây lăng cho các ngôn sứ thì họ chứng tỏ họ chẳng ăn năn gì về việc tổ tiên họ đã giết chết các vị ấy mà lại còn tán thành. Thái độ ấy còn cho thấy rằng sứ điệp của các vị ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, cùng lắm chỉ là những sứ điệp cho các thế hệ xa xưa thời trước.

– Đức Giêsu duyệt lại lịch sử: Chương trìch của Thiên Chúa(‘Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa’) là gửi ‘các ngôn sứ và các tông đồ đến với loài người để kêu gọi loài người ăn năn. Thế nhưng loài người đã chẳng đón nhận sứ điệp ấy, lại bách hại các vị ấy. Mặc dù Đức Giêsu chỉ nêu tên hai người là Aben và Dacaria, những vì trong Cựu Ước hippri, tên Aben ở đầu sách và tên Dacaria ở cuối sách, nên ý của Ngài là nói đến toàn bộ tội giết các ngôn sứ trong lịch sử. Và Đức Giêsu cảnh cáo: nếu người Do thái thời nay không chấm dứt thái độ ấy thì họ sẽ bị Thiên húa công bình hỏi tội (‘thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu’)

c 52 c) “Cất giấu chìa khóa sự hiểu biết”: do những kiến thức về Thánh Kinh, các luật sĩ đã nắm trong tay chìa khóa mở cửa vào Nước Trời. Nhưng do thái độ của họ, chẳng những họ không vào đó được mà lại còn ngăn cản người khác nữa.


d) Phản ứng

c 53-54 Những lời khiển trách của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp các biệt phái và luật sĩ ăn năn, nhưng trái lại, họ ‘căm giận’ Ngài và tìm cách ‘gài bẫy’ Ngài.

BÀI 54: KHÔNG NGẠI TUYÊN XƯNG (12,1-12)

1Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: "Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.

4"Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. 6Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

8"Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. 9Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.

10"Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.

11"Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, 12vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói."

------------------

Trong phân đoạn này Lc gom lại nhiều lời của Đức Giêsu mà Mt ghi rải rác ở nhiều nơi. Cho nên các ý tưởng không được mạch lạc lắm. Dù sao cũng có một chủ đề chung: đừng sợ trước sứ mạng loan báo Tin Mừng.

c 1-3 Đoạn trước (11,37-54) đã cho ta thấy Đức Giêsu bị nhóm pharisêu và nhóm luật sĩ bắt lỗi trong một bữa ăn. Câu chuyện đó khiến Ngài muốn cảnh giác các môn đệ mình hai điều. Điều thứ nhất là hãy coi chừng thói giả hình của người pharisêu: một mặt là đừng giả hình như họ, mặt khác các môn đệ hãy đặt mình vào hang ‘các ngôn sứ và các tông đồ’ (c 49) để lo rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa và sẵn sàng chịu bách hại vì sứ mạng đó.

“Men pharisêu”: chữ ‘men’ được Đức Giêsu dùng ở đây muốn nói lên một thứ ẩn giấu trong bột để từ từ làm cho bột bị hư đi không còn là bột tinh tuyền nữa. Thái độ giả hình của người biệt phái cũng giống như vậy vì nó có thể lây lan làm hại nhiều người khác. Các môn đệ hãy coi chừng đừng để mình bị lây nhiễm thói xấu đó vì nếu bị nhiễm thì đến phiên họ cũng sẽ lây nhiễm sang nhiều người khác trong GH.

– Không giả hình tức là ta như thế nào thì tỏ ra thế ấy, bởi vì ‘Không có gì che dấu mà không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết’. Chú ý, câu này cũng được Mt ghi lại (Mt 10,27) nhưng trong một văn mạch khác nên mang ý nghĩa khác: Trong Mt nó muốn nói đến việc rao giảng Tin Mừng.

– Đức Giêsu quảng diễn thêm ý tưởng trên bằng hai kiểu nói nữa: “Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín sẽ được công bố trên mái nhà”. Nên nhớ mài nhà ở do thái là nóc bằng nên cũng là nơi người ta thường lên để trò chuyện và thông báo tin tức cho nhau.

c 4-7 – Điều thứ hai Ngài khuyên là đừng sợ sự thù địch của thế gian đối với người tông đồ của Chúa. Ngài đưa ra nhiều lý do để thuyết phục các môn đệ:

– Lý do thứ nhất là các quan quyền thế gian cùng lắm chỉ giết được thân xác của ta chứ không giết được sự sống thật của ta là điều thuộc về quyền độc hữu của Thiên Chúa. Bởi vậy nên sợ Thiên Chúa hơn.

– Không những đừng sợ các quan quyền thế gian, mà còn phái phó thác vào Thiên Chúa quan phòng: Đấng luôn chăm sóc từng con chim sẻ và từng sợi tóc trên đầu chúng ta lẽ nào lại không chăm sóc những người làm sứ mạng Ngài giao hay sao! (Về chi tiết chim sẻ: Mt 10,29 ghi hai con chim sẻ bán được một xu. Ở đây Lc ghi năm con bán một xu, Lc muốn nhấn mạnh hơn nữa ý tưởng Thiên Chúa chăm sóc những vật rất tầm thường).

c 8-10 – Lý do thứ hai để đừng sợ là trong ngày phán xét chính Đức Giêsu sẽ tuyên bố nhận kẻ can đảm làm chứng cho Ngài. Lời trấn an này đi kèm với lời đe dọa: Đức Giêsu sẽ không nhìn nhận kẻ nào vì sợ mà chối Ngài.

– Ý tưởng ‘chối’ ở c 9 kéo theo ý tưởng ‘nói phạm’ ở c 10: “Ai nói phạm đến Con Người thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần thì sẽ chẳng được tha”. Câu này gây khá nhiều khó khăn. Ta cần tìm hiểu kỹ.

Phần sau của tác phẩm Lc cho thấy nhiều kẻ đã ‘chối’ Đức Giêsu: Phêrô (22,34.57.61), dân thành Giêrusalem (Cv 3,13-14). Cũng có các Kitô hữu bị Phaolô cưỡng ép ‘nói phạm’ (Cv 26,11). Tại sao họ được tha? Thưa vì họ đã làm chỉ vì yếu đuối và sau đó đã hối hận (Phêrô: 22,62), vì không biết (dân Giêrusalem: Cv 3,17-19), hoặc vì bị ép (các Kitô hữu: Cv 26,11). Còn kẻ cố tình cứng lòng nghĩa là không ăn năn, không đón nhận ơn tác động của Thánh Thần (Cv 7,51: ‘Chống lại Thánh Thần’) thì không gì cứu vãn được. Họ không được tha là như thế.

c 11-12 – Lý do thứ ba để đừng sợ sẽ có Thánh Thần soi sáng cách ăn nói và ứng phó khi người môn đệ bị đưa ra trước những nhà cầm quyền thế gian. Chú ý: Mt 10,20 và Mc 13,11 ghi: “Chính Thánh Thần sẽ nói”. Còn ở đây Lc ghi: “Thánh Thần sẽ dạy anh em biết những điều phải nói”. Lc muốn cho thấy vai trò chủ động hơn của các tông đồ sau khi đã được Thánh Thần dạy dỗ.

BÀI 55: THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI (12,13-34)

13Có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi." 14Người đáp: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh? " 15Và Người nói với họ: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu."

16Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: "Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! 18Rồi ông ta tự bảo: "Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? 21Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó."

22Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; 23vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. 24Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! 25Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay? 26Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? 27Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 28Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 29Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. 30Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. 31Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho.

32"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.

33"Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.

------------------

Trong đoạn này, Đức Giêsu dạy về thái độ phải có đối với của cải vật chất. Có hai bài học: bài học cho mọi người là ‘đừng thu tích của cải cho mình’ (cc 1-21); bài học cho các môn đệ là ‘tin tưởng vào Chúa quan phòng’. Như thế đoạn này gồm hai phần:


I- ĐỪNG TÍCH TRỮ

c 13– Người ta thường chạy đến các lãnh đâọ tôn giáo xin giúp giải quyết những vụ tranh chấp cho dù việc đó thuộc phạm vi dân sự hoặc tôn giáo. Người trong dụ ngôn này đã chạy đến Đức Giêsu vì ông coi Ngài cũng là một lãnh đạo tôn giáo.

Vấn đề tranh chấp đây là về quyền thừa kế. Theo Đnl 21,17 người trưởng nam được phần thừa kế gấp đôi các em trai khác. Trong vụ này có lẽ người trưởng nam đã chiếm trọn tài sản cha mẹ mà không chia gì cả cho các em.

c 14 – Khi người ta đến xin Đức Giêsu giúp đỡ lúc họ gặp khó khăn về bệnh tật phần xác hoặc về tội lỗi phần hồn thì Ngài sẵn sàng. Tại sao trong trường hợp này Ngài lại từ chối? Cần phân biệt rõ hai lĩnh vực: việc giải quyết những bất công xã hội là trách nhiệm của các viên chức thế quyền, phần Đức Giêsu thì lo hướng dẫn tinh thần người ta dựa theo tinh thần của Nước Chúa. Thế quyền có thể cưỡng chế người ta làm theo luật, nhưng không thể làm cho người ta nên tốt, và một khi người ta đã nên tốt rồi thì không cần đến sức cưỡng chế của luật thế quyền nữa. Vả lại Ngài cũng không muốn lên án ai cả, mà chỉ muốn giúp cho người ta tự thấy được sai lầm của mình mà sửa chữa, cho nên dụ ngôn sau đây không phải là một lời phán quyết, mà đúng hơn là một lời khuyên.

c 15 – Đức Giêsu đã khuyên gì?

a) Ở câu 15 này Ngài khuyên người ta chớ lầm tưởng rằng hạnh phúc đời mình là tùy thuộc vào của cải vật chất.

b) Ở câu 21, Ngài lại khuyên những người có của cải vật chất chớ chỉ dùng nó cho lợi ích bản thân mà phải dùng nó để “Làm giàu nơi Thiên Chúa”.

c 17“Suy tính trong lòng”: trong các dụ ngôn của Lc, các nhân vật thường tự nói những suy nghĩ của mình. (Xem thêm 15,17-19 16,13 18,14 20,13).

c 19 “và tôi sẽ nói với linh hồn tôi”: chữ linh hồn có nghĩa là đại diện cho cả con người. Như thế ‘nói với linh hồn’ nghĩa là ‘nói với chính mình’.

c 20 “Đồ ngu dại”: trong Cựu Ước chữ ‘ngu dại’ thường áp dụng cho những kẻ không nhìn nhận có Thiên Chúa (Tv 13,1: ‘đứa ngu dại tự nhủ rằng chẳng có Thiên Chúa’). Người giàu của dụ ngôn này không hề nghĩ đến Thiên Chúa mà chỉ nghĩ đến của cải, cho nên rất đáng gọi là ‘ngu dại’.

“Đêm nay họ sẽ đòi linh hồn ngươi”: chữ ‘họ’ (ils) đại từ ngôi thứ ba số nhiều ở đây là một cách nói của người do thái để chỉ tới Thiên Chúa (6,30 và 16,9) ‘đòi linh hồn’ nghĩa là ‘bắt phải chết’.

c 21 Trong Tân Ước, động từ ‘làm giàu’ được sử dụng 12 lần, trong đó 9 lần có nghĩa là lo cho bản thân một cách ích kỷ. Trong Rm 10,12 thì chính Thiên Chúa làm giàu, nhưng không phải ích kỷ cho Ngài, nhưng là để ban phát cho kẻ khác. Như thế có hai cách làm giàu:

  Một là để sống ích kỷ cho mình

  Hai là để ban phát cho kẻ khác.

Trong 1Tm ‘làm giàu nơi Thiên Chúa’ có nghĩa là dùng của cải để chia sẻ cho người khác. Nhờ thế ta được kho tàng không hư nát là chính cuộc sống muôn đời.

Như thế c 21 này là lời khuyên thứ hai của Đức Giêsu: những ai có của cải thì đừng chỉ lo cho bản thân mình vì đến lúc chết thì bao nhiêu của cải cũng phải để lại. Tốt hơn là nên chia sẻ với người khác để sau khi chết đi ta lại được hưởng một cuộc sống muôn đời.


II- TIN TƯỞNG CHÚA QUAN PHÒNG

  Việc thu tích của cải là một cách tự lo cho ngày mai. Đức Giêsu dạy những ai muốn làm môn đệ Ngài hãy để Thiên Chúa lo cho ngày mai của họ. Ở đây Đức Giêsu chỉ tiếp nối giáo huấn của Cựu Ước về Năm Sabbat(Lv 25,2-7). Trong năm thứ bảy người ta phải để cho đất nghỉ ngơi và phó thác cho Thiên Chúa lo cho cuộc sống mình. Đối với kẻ thắc mắc ‘Năm thứ bảy chúng tôi sẽ ăn gì nếu chúng tôi không gieo không gặt?’ Thiên Chúa trả lời rằng Ngài ‘sẽ chúc lành cho năm thứ sáu khiến đất đai sản xuất cho cả 3 năm (Lv 25,18-24).

c 22-23 Trước tiên Đức Giêsu nói đến những nhu cầu vật chất sơ đẳng là cái ăn và cái mặc; Ngài dạy khỏi cần lo những thứ đó, vì: mạng sống là thứ thiết yếu hơn nhiều mà Thiên Chúa cũng đã ban, huống chi những thứ sơ đẳng kia!

c 24-30 Và Đức Giêsu lý luận cho thấy Thiên Chúa chăm sóc cái ăn (cc 24-26) và cái mặc (cc 27-28) cho các thụ tạo của Ngài. Thụ tạo dù có tự lo bao nhiêu đi nữa cũng không thể kéo dài đời mình ra được (ngược lại càng lo thì càng giảm thọ!). Kẻ quá lo những chuyện đó cũng giống dân ngoại, vì họ không biết Thiên Chúa.

c 31 Và Đức Giêsu đúc kết lại: điều duy nhất cần lo tìm Nước Thiên Chúa, đó mới chính là điều quan trọng nhất, là giá trị tối thượng

c 32 Tiếp theo là những lời khích lệ

“Hỡi đán chiên nhỏ bé”: hình ảnh thường gặp trong Cựu Ước, có khi áp dụng cho dân Thiên Chúa (St 48,15; Hs 4,16 13,46; Mk 2,12-13 4,6-7 7,14; Sp 3,19; Gr 31,10 50,19; Ed 34; Is 40,11 49,9-10) có khi áp dụng cho tội nhân Do thái (Mt 10,6 15,24; Lc 15,4-6 19,10) còn ở đây là áp dụng cho các môn đệ (Mt 16,31; Mc 14,27; Ga 10,1-16 21,15-17).

“Các con đừng sợ”: Đức Giêsu hiểu các môn đệ mình dù đã đi theo Ngài, nhưng cũng còn e sợ vì một mặt sự chia sẻ công việc với Ngài có khó khăn, và mặt khác hy vọng chiến thắng còn xa vời. Do đó, Đức Giêsu trấn an họ: Đừng xem Nước Thiên Chúa như một thế giới khác đang còn trong mơ, nhưng hãy xem Nước ấy là hiện thực đã được Thiên Chúa ban cho họ rồi. Không phải là do công việc họ làm mà chỉ là ơn ban của Thiên Chúa.

c 33 Điều các môn đệ cần lo là hãy bán của cải mà đem bố thí cho người nghèo, đây là điều mà Lc thường xuyên nhấn mạnh (12,33 16,9 19,8; Cv 9,36 10,2.4.31 11,23 24.17)

Tóm ý: các môn đệ đừng lo lắng gì cả, bởi vì Thiên Chúa đã ban Nước Trời cho họ rồi, đừng vương vấn của cải trần gian nữa, hãy bán đi mà bố thí cho người nghèo để rồi sắm được kho tàng không hư nát trên trời. 

BÀI 56: CÁC DỤ NGÔN VỀ SỰ TỈNH THỨC (12,35-48)

35"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. 36Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. 39Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."

41Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người? " 42Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 43Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.

47"Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

------------------

Tiếp tục bài giáo huấn các môn đệ. Đức Giêsu sang một đề tài khác: tỉnh thức và trung thành, Ngài và họ đang trên đường đi Giêrusalem để hoàn tất cuộc ‘xuất hành’ của Ngài. Do đó Ngài thấy cần chuẩn bị tâm lý cho họ tước tình huống sẽ xảy đến sau khi Ngài phục sinh: khi đó Ngài sẽ vắng mặt, nhưng họ phải biết chờ đợi trong tỉnh thức và trung thành.

  Đức Giêsu dạy điều này bằng 3 dụ ngôn:


I- DỤ NGÔN TÔI TỚ TỈNH THỨC (35-48)

c 35“Áo xắn đai lưng”: cách ăn mặc gọn gàng của người đấy tớ để tiện làm việc, đây cũng là cách ăn mặc của người Do thái khi ăn tiệc Vượt qua, vừa chờ Thiên Chúa đến giải phóng.

“Chong đèn cháy sáng”: lý do thứ nhất là vì ban đêm. Lý do thứ hai là vì đang chờ chủ về, soi đèn cho ông chủ thấy đường-vào nhà.

c 36 – Ông chủ đi ăn cưới: đám cưới Do thái thường tổ chức về đêm và không biết kéo dài bao lâu. Do đó khi đi ăn cưới thì không biết trước lúc nào trở về.

c 38 “Canh hai hoặc canh ba”: người Rôma chia một đêm thành 4 canh (Mc 13,35; Mt 14,25), còn người Do thái thì chia một đêm thành 3 canh. Trong dụ ngôn này các tôi tớ sẵn sàng tỉnh thức cho tới canh hai hoặc canh ba, nghĩa là hầu như suốt đêm.

 Vấn đề: c 37b làm câu chuyện ra khó hiểu

a/ Nếu chỉ chờ chủ về thì chỉ cần một người đầy tớ thức cũng đủ (cho nên cùng dụ ngôn này Mc 13,33-37 ghi chỉ một người đầy tớ), cần gì huy động tất cả đầy tớ?

b/ Khi chủ đã về thì cả ông và đầy tớ đi ngủ là xong, tại sao đích thân ông chủ là ‘áo xắn, đai lưng’ và phục vụ cho các đầy tớ?

Chính vì hai điểm khó hiểu đó nên ta phải giải thích dụ ngôn này theo hướng ngụ ngôn:

1- Ông chủ đây chính là Đức Giêsu. Lúc ông trở về là ngày Quang Lâm, tất cả mọi người đều phải tỉnh thức chờ ngày Quang lâm ấy.

2/ Đức Giêsu chính là kẻ phục vụ (Lc 22,2) đối với những ai tỉnh thức đón Ngài trong ngày Quang lâm thì sẽ được dự tiệc Messia (Mt 8,11).


II- DỤ NGÔN CHỦ NHÀ TỈNH THỨC (39-40)

Dụ ngôn này không so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa và tên trộm đến cũng bất ngờ như nhau. Vì bất ngờ nên phải tỉnh thức.

c 39 “Đào ngạch”: vách nhà Do thái làm bằng đất trộn với vài vật liệu khác và rất mỏng nên dễ đào.


III- DỤ NGÔN QUẢN GIA TRUNG THÀNH (41-48)

c 41 Câu hỏi của Phêrô “Dụ ngôn này Chúa nói cho chúng con hay là cho mọi người?” đánh dấu một sự thay đổi thính giả. Phần trên là Đức Giêsu nói với tất cả các môn đệ, phần này là nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo.

c 42 – “Quản lý”: Lc dùng danh từ này để chỉ một nhân vật quan trọng (16,1.3.8) nên ở đây nó chỉ các Tông đồ.

– Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người đó sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chức vụ càng cao thì hình phạt càng nặng.


KẾT LUẬN

Trong khi chờ ngày Chúa Quang lâm, thái độ căn bản của tín hữu phải là tỉnh thức và trung thành. 

BÀI 57: TẠI SAO ĐỨC GIÊSU ĐẾN (12,49-50)

49"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

------------------

Qua bài 55, chúng ta đã thấy Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ Ngài đừng tích trữ của cải (12,13-21), nhưng phải tuyệt đối phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa ngay cả trong những tình huống rất khó khăn (12,22-32). Bài này sẽ cho ta hiểu tại sao Ngài đòi hỏi như thế: vì Ngài có sứ mạng đặc biệt. Sứ mạng ấy là gì?


I- GIẢI THÍCH

c 49 Đức Giêsu dùng 2 hình ảnh để mô tả sứ mạng của mình: Lửa và phép rửa.

* Ta còn nhớ Gioan Tẩy Giả đã nghĩ rằng Đức Giêsu là một Đấng Messia ‘làm phép rửa trong Thánh Thần và Lửa’. Trong suy nghĩ của Gioan, làm phép rửa bằng lửa có nghĩa Đức Giêsu là một Messia Thẩm Phán. Bây giờ chính Đức Giêsu dùng lại 2 hình ảnh này. Phải chăng quan niệm của Đức Giêsu về sứ mạng Messia của mình cũng giống quan niệm của Gioan?

Ta hãy tìm hiểu kỹ ý Đức Giêsu qua 2 hình ảnh này:

“Lửa”: Hình ảnh này có nhiều nghĩa:

a) Sự trừng phạt (Lc 3,9.16-17 17,29): ở đây không phải nghĩa này, vì Đức Giêsu đã khiển trách Giacôbê và Gioan muốn dùng lửa để trừng phạt một làng Samaria (9,54-56).

b) Sự thanh luyện (Lửa thử vàng, gian nan thử đức)

c) Những gian truân đang chờ sẵn các môn đệ, tuy khổ nhưng có ích vì thánh hóa họ. Ở đây không phải nghĩa này, vì không lẽ Đức Giêsu ‘mong muốn xiết bao’ cho các môn đệ mình gặp gian truân.

d) Thánh Thần: cũng hợp với văn mạch.

Vậy ý nghĩa câu này là: Thầy đến thế gian này với mục đích là thanh luyện thế gian, và Thầy rất mong cho công việc thanh luyện này sớm hoàn thành để cho Thánh Thần đến (dưới hình dáng ngọn lửa Cv 2,3).

c 50 Hình ảnh thứ hai Đức Giêsu dùng là “Phép rửa” (phép dìm). Mc 10,37-38 cho thấy từ này có nghĩa là dìm mình trọn vẹn trong đau khổ.

“Nhưng”: chữ này diễn tả một ý nghịch với ý phía trước. Nối kết hai ý lại như sau: Thầy rất mong cho việc thanh luyện thế gian sớm hoàn thành,nhưng chỉ khi nào Thầy làm xong công việc thụ nạn và Phục sinh thì việc thanh luyện ấy mới hoàn thành được.

“Bồi hồi khắc khoải”: nguyên ngữ Hy lạp là sunechomai. Chữ này có thể hiểu theo hai nghĩa:

a) Lo âu khắc khoải

b) Bồn chồn ao ước

Trong câu này ta có thể hiểu theo bat hai nghĩa đó: khi Đức Giêsu nói tới cuộc thụ nạn và Phục sinh. Ngài vừa cảm thấy lo lắng vừa cảm thấy nôn nóng cho việc đó mau hoàn thành.

*Hình ảnh ‘phép rửa’ bổ túc ý nghĩa hình ảnh lửa: sứ mạng của Đức Giêsu là thanh luyện thế gian. Nhưng Ngài thanh luyện bằng cách chính bản thân Ngài phải chìm ngập trong đau khổ. Nghĩ đến sứ mạng ấy, một mặt Ngài lo lắng nhưng mặt khác Ngài lại nôn nóng cho sứ mạng chóng hoàn thành, vì nếu sứ mạng Ngài hoàn thành thì Thánh Thần mới đến khai mạc giai đoạn sứ mạng của GH.

Khi mô tả sứ mạng của mình là một sứ mạng của một Messia đau khổ, Đức Giêsu cũng nghĩ đến quan niệm của nhiều người về một Đấng Messia Hòa Bình (Is 9,5). Cho nên Đức Giêsu thấy cần giải thích thêm. Đúng thực, sứ mạng của Đấng Messia là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Hơn nữa, hòa bình chính là ơn ban tuyệt hảo trong thời cánh chung (2,14.29 7,50 8,48 10,5-6 11,21 19,38.42 24,36). Nhưng chữ ‘hòa bình’ có nhiều nghĩa: hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa.

– Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2,35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra)


KẾT LUẬN

  Lời Đức Giêsu nói về sứ mạng của Ngài cũng là một lời khuyên các môn đệ (và cũng khuyến cáo GH): Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ (và GH) hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là thứ bình an mà họ phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân nhưng không cùng niềm tin với mình.

  Phaolô và Barnabê đãz hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).

BÀI 58: THỜI ĐIỂM (12,54-59)

54Đức Giê-su cũng nói với đám đông rằng: "Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: "Mưa đến nơi rồi", và xảy ra đúng như vậy. 55Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: "Trời sẽ oi bức", và xảy ra đúng như vậy. 56Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?

57"Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải? 58Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. 59Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng."

------------------

Sau khi nói riêng với các môn đệ (12,1-12.22-53), bây giờ Đức Giêsu nói với đám đông dân chúng. Khác với các môn đệ, đám đông dân chúng chưa hiểu được rằng, với sự kiện Đức Giêsu xuất hiện, thời gian đã hoàn toàn thay đổi màu sắc; họ cũng chưa hiểu rằng, với Đức Giêsu, người ta đã đi vào thời kỳ cuối cùng của lịch sử.

c 54-55 Đức Giêsu khởi sự bằng một kinh nghiệm dân gian: khi thấy mây kéo đến dày đặc ở phía Tây thì người ta hiểu là trời sắp mưa; và khi thấy gió nồm thổi, người ta cũng biết là trời sắp oi bức.

c 56 và Ngài áp dụng vào dân chúng: Họ giỏi giải thích dấu chỉ thiên nhiên để biết thời tiết, thì tại sao lại không biết giải thích dấu chỉ việc Ngài xuất hiện để hiểu đây là thời kỳ cuối cùng để mà lo ăn năn sám hối?

“Hỡi những kẻ giả hình”: chữ ‘giả hình’ ở đây được áp dụng cho dân chúng theo nghĩa họ cũng giống các người pharisêu ở chỗ chỉ lo những chuyện vặt vãnh đâu đâu mà không lo điều quan trọng.

c 57 – Điều quan trọng ấy là phải nhận ra ý nghĩa việc Đức Giêsu đến, để rồi tự vấn xem mình phải làm gì. Và Ngài cũng ngầm cho biết là phải nhanh chóng ăn năn sám hối. Điều này Ngài nói bằng một dụ ngôn.

c 58-59 Dụ ngôn này Mt cũng dùng (Mt 5,25-26) nhưng nhấn mạnh đến tính huynh đệ trong nếp sống cộng đoàn. Còn ở đây Lc dùng để nhấn mạnh đến sự cấp bách phải ăn năn hoán cải để lo hòa giải với đối phương trước khi ra tòa chịu xét xử.

BÀI 59: KÊU GỌI SÁM HỐI – DỤ NGÔN CÂY VẢ (13,1-9)

1Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."

6Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."

------------------

Một lần nữa Đức Giêsu kêu gọi gấp rút lo ăn năn sám hối.


GIẢI THÍCH

c 1 Biến cố Philatô: không thấy sử sách ghi gì về biến cố này, nhưng cũng dễ hiểu. Thời đó người Do thái thỉnh thoảng nổi loạn chống lại đế quốc Rôma, đặc biệt người miền Galilê còn hăng hái hơn nữa. Philatô với tư cách bảo vệ quyền lợi của đế quốc Rôma cũng thường xuyên thẳng tay trừng trị, không ngại đổ máu.

 Chuyện này có lẽ như sau: một số người Galilê lên Giêrusalem dâng lễ tế rồi gây lộn xộn và bị Philatô sai quân Rôma tới đàn áp.

c 2 Quan niệm thông thường: kẻ gặp tai nạn là người tội lỗi bị phạt. Vậy ai không bị nạn tức là người công chính (hoặc ít ra là ít tội lỗi hơn).

 Theo quan niệm đó, người Do thái trước biến cố trên đã một mặt coi các nạn nhân là tội lỗi, mặt khác coi mình là công chính hoặc ít tội.

c 3 Biến cố thứ hai về tháp Silôa: Ở Giêrusalem có một con kênh dẫn nước từ ngoài vào một cái hồ nhỏ mang tên Silôa. Bên bờ kênh này có nhiều tháp. Cái tháp nói trong chuyện này cũng là một trong số đó và cũng mang tên Silôa. ột hôm nó sập và đè chết 18 người dân Giêrusalem.

 Chuyện thứ nhất liên quan tới một số người Galilê, thì chuyện này liên quan trực tiếp tới người Giêrusalem. Trước đây họ dửng dưng trước tai nạn xảy đến cho những người ‘ở xa’, bây giờ thì chuyện xảy đến cho chính những người trong thành phố của họ.

 Đức Giêsu dùng biến cố này để dạy cùng một bài học, nhưng với giọng điệu mạnh mẽ hơn.

c 6-9 Dụ ngôn cây vả:

 – Trong Cựu Ước nhiều lần Israel được sánh với cây vả (Ga 1,7; Gr 8,3).

 – Đây là một dụ ngôn với nhiều chi tiết ẩn dụ hóa:

 * Cây vả là Israel.

 * Ông chủ là Thiên Chúa.

 * Người làm vườn là Đức Giêsu.

 – Dụ ngôn này cũng là hình tượng hóa bài học sám hối ở trên: Israel tội lỗi lẽ ra phải bị phạt, nhưng Đức Giêsu đã xin Thiên Chúa cho họ một thời gian nữa để ăn năn, nếu họ không lo ăn năn thì hình phạt sẽ đến.

 Tuy bài học nhắm trực tiếp tới dân Israel, nhưng cũng nhằm gián tiếp tới chúng ta: mọi người đều tội lỗi, nên mọi người đều phải ăn năn sám hối.

BÀI 60: CHỮA MỘT PHỤ NỮ CÒNG LƯNG – CÁC DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI (13,10-21)

10Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. 12Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: "Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! " 13Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.

14Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: "Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! " 15Chúa đáp: "Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? 16Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? " 17Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.

18Vậy Người nói: "Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì? 19Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được."

20Người lại nói: "Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? 21Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."

------------------

I- CHỮA MỘT PHỤ NỮ CÒNG LƯNG (10-17)

 Sau tường thuật Đức Giêsu chữa một đứa trẻ bị kinh phong (9,37-43), Lc tạm ngưng suốt 3 chương, không tường thuật các phép lạ nữa. Mãi đến bây giờ, Lc mới lại ghi các phép lạ và từ đây cho đến lúc Đức Giêsu chết, chỉ có phép lạ này và 3 phép lạ nữa (14,1-6 17,11-19 18,35-43). Những phép lạ của loạt mới này không còn để dẫn khán giả đến câu hỏi ‘Giêsu là ai?’ nữa (11,14tt), nhưng mỗi phép lạ có một mục tiêu riêng.

c 10-11 Câu này giới thiệu khung cảnh và nhân vật

 – Khung cảnh: vào một ngày ‘sabbat’ và trong ‘hội đường’.

 – Nhân vật: một phụ nữ bị còng lưng đã 18 năm. Câu 16 phía sau cho thấy thêm tại sao Đức Giêsu chọn bà này để cứu chữa; đó là một ‘con cháu của Abraham’, nhưng ‘bị Satan trói buộc’.

 Trong khung cảnh như thế đó và với một nhân vật như thế đó, việc Đức Giêsu chữa bệnh có nghĩa là: điều mà Do thái giáo bất lực không làm nổi thì Đức Giêsu đã làm được. Do đó Ngài mới chính là trọng tâm của tôn giáo mới.

 Vài chi tiết khác:

 – “bà không thể đứng thẳng lên được”: hầu như mất nhân cách. Khi Đức Giêsu đặt tay trên bà thì ‘tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa’: Đức Giêsu trả lại tư cách làm người và làm con Thiên Chúa cho bà.

c 14 Phản ứng: Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày sabbat nhưng không dám nói thẳng với Ngài mà bói xiên xéo qua đám đông “Đã có 6 ngày làm việc thì đến mà xin chữa bệnh trong những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabbat”. Nhiều người Do thái, nhất là nhóm pharisêu và luật sĩ, cho rằng việc chữa bệnh cũng là một việc không được phép làm trong ngày sabbat (6,7 và 14,1-2). Họ nghĩ vậy vì họ dựa vào Xh 20,9.

c 15-16 Phản ứng của Đức Giêsu:

 – Chú ý: Lc dùng tước hiệu ‘Chúa”. Với tư cách là ‘Chúa’ là chủ của ngày sabbat. Đức Giêsu có thẩm quyền giải thích luật về ngày đó. Ngài dùng lý luận a fortiori: luật rabbi cũng cho phép cởi dây bò lừa và dắt chúng đi uống nước trong ngày sabbat, huống chi bà này: bà không phải là súc vật mà là ‘con cháu Abraham’, bà không chỉ khát bước mà còn ‘bị satan trói buộc đã 18 năm’, chẳng lẽ lại không cởi trói cho bà sao! Việc làm và lời giải thích của Đức Giêsu giúp cho người ta hiểu đúng ý nghĩa của luật ngày sabbat: đó là ngày giải phóng, để tưởng niệm ơn giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập xưa (Đnl 5,14).

c 17 Bởi thế tất cả những kẻ chống đối Ngài phải xấu hổ, còn đám đông thì vui mừng.


II- NHỮNG DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI (18-21)

 Tiếp theo Đức Giêsu nói 2 dụ ngôn (các chuyên viên gọi là dụ ngôn sinh đôi, nghĩa là cùng một ý nghĩa) để so sánh với Nước Thiên Chúa.

 – Hai hình ảnh: hạt cải được gieo xuống vườn, nấm men được vùi vào thùng bột.

 – Những chi tiết có ý nghĩa: a) nhỏ trở thành lớn b) quá trình phát triển tuy âm thầm nhưng chắc chắn.

 Những dụ ngôn về Nước Thiên Chúa này được Đức Giêsu nối liền sau phép lạ chữa một phụ nữ còng lưng nên cũng có liên hệ với nhau: Hiện tại xem ra Nước Thiên Chúa còn quá nhỏ bé, nhưng vì nó có sức phát triển nội tại nên chắc chắn sau này nó sẽ lớn mạnh. Việc giải thóat một người con cháu Abraham hôm nay là dấu chỉ cho việc Nước Thiên Chúa giải phóng tất cả mọi người sau này.

 Ta cũng nên biết, ý tưởng về sức phát triển mạnh mẽ của Nước Thiên Chúa là một ý tưởng quan trọng của Lc. Ông sẽ triển khai ý tưởng này trong sách Công vụ.

BÀI 61: CỬA HẸP – BỎ DO THÁI VÀ GỌI CHƯ DÂN (13,22-30)

22Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23Có kẻ hỏi Người: "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? " Người bảo họ: 24"Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25"Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: "Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào! , thì ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến! 26Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. 27Nhưng ông sẽ đáp lại: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!

28"Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. 30"Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 22 “Tiến lên thành Giêrusalem”: Đây là hướng đi của Đức Giêsu trong Tin Mừng Lc. Ở đây Lc nhắc lại một lần nữa điệp khúc này, hình như để đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc hành trình ấy (13,22-17,10)

c 23 Câu hỏi được đặt ra cho Đức Giêsu phản ánh quan tâm của người Do thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu. Các nhóm khác nhau có những suy đoán khác nhau về số lượng này.

 a/ Pharisêu: ‘Mọi người Israel đều có phần trong thế giới sẽ đến’. (Sanhêdrin 10,1)

 b/ Essêni: chỉ những thành viên của nhóm họ mới được cứu.

 c/ Có nhóm còn bi quan hơn nữa: ‘Những kẻ hư mất sẽ đông hơn những người được cứu’ (4 Esdras 9,15); ‘Thế giới sẽ đến chỉ mang sự an ủi cho một số lượng nhỏ, còn đối với nhiều người thì nó chỉ mang đến khổ sầu’ (IV Er 5,47)

Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người Israel đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.

c 24 Câu trả lời của Đức Giêsu: Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng, Đức Giêsu trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy.

 Không phải chỉ ở đây, mà nhiều lần khác, nhất là trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường chuyển hướng vấn đề. Lý do là người ta đã hiểu sai vấn đề nên mới hỏi sai như vậy. Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi mà chuyển hướng để dưa vấn đề tới đúng chỗ của nó.

 – “Cửa hẹp”: hình ảnh diễn tả sự cố gắng. Cách thức để được cứu chính là phải cố gắng. Vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim (Mt 19,24; Mc 10,25; Lc 18,25).

 – “Qua cửa hẹp mà vào”: Động từ ‘qua’ (passer) giúp hiểu rõ hơn về sự cố gắng: Cố gắng làm điều gì? Thưa, cố gắng thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái cửa hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết ‘đi qua’ (thay đổi cách sống) thì mới vào nhà được.

 – “Nhiều kẻ tìm vào mà không được”: nhiều người cho rằng câu này là thành phần của câu 25 kế tiếp ‘khi chủ nhà đứng lên khóa cửa lại rồi’. Nếu câu 2 này là nối tiếp nhau thì câu sau là lý do giải thích câu trước: tại sao nhiều kẻ tìm vào mà không được? Thưa, tại vì họ chậm chạp, không cố gắng đi vào kịp thời. Do đó, muốn vào Nước Trời, không phải chỉ cần cố gắng, mà còn phải nhanh nhẹn cho kịp thời nữa. Ở đây ta thấy thêm lý do thứ hai khuyến khích cố gắng thay đổi nếp sống: vì thời gian cấp bách lắm rồi, chẳng bao lâu nữa cửa sẽ đóng lại.

c 25 “Ta không biết các ngươi”: không phải là lời nói dối, nhưng là kiểu nói thông dụng của người Do thái diễn tả một sự chối từ không nhìn nhận kẻ trước mặt là người thân của mình.

 – “Từ đâu đến”: cũng là cách nói Do thái, đồng nghĩa với ‘là ai’ (Ta không biết các người là ai).

c 26 Những kẻ đã ‘từng ăn uống trước mặt’ Đức Giêsu và nghe Ngài ‘giảng nơi phố xá của họ’ tức là những người Do thái.

c 27 “Hữi những kẻ làm điều bất chính”: Đức Giêsu từ chối họ không phải vì họ là Do thái, mà vì họ làm điều bất chính. Không phải hễ thuộc dòng giống Israel, hễ là người đương thời với Đức Giêsu, hễ có liên hệ với Ngài hoặc đã có nghe Ngài giảng mà đương nhiên được vào Nước Chúa. Vấn đề quan trọng là phải đón nhận Ngài và thi hành những Lời Ngài dạy, vì ‘Phúc cho những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thi hành’ (11,28).

c 28-29 Ơn cứu độ và Nước Trời thường được mô tả bằng hình ảnh bữa tiệc, được ăn cùng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ (Is 25,6; Lc 14,15.16-24 22,16.18.30)

 – “Than khóc nghiến răng”: Đây không phải là những hình ảnh tả chân về Hỏa ngục, nhưng chỉ là một cách diễn tả tình trạng đau khổ. Thiên đàng và Hỏa ngục không phải là những nơi chốn, mà là những tình trạng. Newman đã viết: “Chúng ta tưởng rằng Thiên đàng là một nơi sung sướng nếu chỉ cần ta tới được nơi đó. Thế nhưng một người dữ dù có được đưa lên Trời cũng chẳng hề biết rằng mình đang ở trên trời. Trái lại, dù ở đó nó cũng cảm thấy lửa Hỏa ngục đang tiêu đốt trong lòng của nó…”

 – “Từ Đông Tây Nam Bắc”: Tất cả các dân chứ không riêng gì dân Do thái. Hễ ai thi hành Lời Chúa thì đều có thể vào Nước Chúa thay chỗ cho dân Do thái.

c 30 Mt ghi ‘những người sau rốt thành kẻ đầu tiên, và những kẻ đầu tiên thành người sau rốt’ (Mt 20,16). Lc sửa lại nhẹ hơn ‘có một số (certains) người sau rốt thành kẻ đầu tiên, và có một số kẻ đầu tiên sẽ thành người sau rốt’. Không phải là quy luật áp dụng cho tất cả những ai không thi hành Lời Chúa.

Thực tế đúng như vậy: một số lương dân đã vào GH trước hơn một số người Do thái (Cv 13,46-48 28,25-28)


II- KẾT LUẬN

 Vấn đề quan trọng để được cứu là theo lời mời gọi của Đức Giêsu và thi hành Lời Ngài, chứ không phải là thuộc dân Do thái, không phải là môn đệ Ngài, không phải là đã nghe Ngài giảng “Không phải những kẻ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa mà được vào Nước Trời, mà là những kẻ thi hành ý Cha trên Trời” (Mt 7,21).

BÀI 62: TRƯỚC CÁI CHẾT GẦN KỀ (13,31-35)

31Cũng vào giờ ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng: "Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông! " 32Người bảo họ: "Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: "Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được.

34"Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay: các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! " 

------------------

Đoạn này gồm 2 phần: a/ Cảm nghĩ của Đức Giêsu về cái chết sắp tới (cc 31-33); b/ Lời Ngài nhắn gửi thành Giêrusalem trước viễn tượng Ngài sắp chết (cc 34-35)


I- CẢM NGHĨ ĐỨC GIÊSU TRƯỚC CÁI CHẾT

c 31 Một số người pharisêu đến khuyên Đức Giêsu trốn đi kẻo bị Hêrôđê giết chết.

 – Lc không quá thành kiến với những người pharisêu như các tác giả Tin Mừng khác.

 – Lời khuyên của họ bề ngoài biểu lộ một ý tốt, nhưng một số nhà bình luận cho đây là do ác cảm hơn là thiện cảm: họ mong Đức Giêsu đi cho khuất mắt.

 – Và lời khuyên này có vẻ khôn ngoan theo sự tính toán của người đời, bởi vì Hêrôđê (đây là Hêrôđê Antipas) là một tên gian hùng, dám trừ khử bất cứ ai mà ông không thích.

c 32 – Dù Hêrôđê có mưu đồ gì đi nữa, Đức Giêsu vẫn coi thường. Do đó Ngài gọi ông là ‘con cáo’. Kiểu nói này đối với người Do thái hàm ý coi thường (nếu hàm ý nể sợ, người ta sẽ gọi là’con sư tử’)

 – Tai sao Đức Giêsu coi thường? Vì Ngài biết Hêrôđê chẳng thể làm gì được Ngài trước khi thời gian dành cho sứ mạng của Ngài kết thúc. Bởi đó Ngài nói: “Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi”. Kiểu nói này (và kiểu nói ‘ngày thứ ba’) chỉ một thời gian ngắn, nên không được hiểu chính xác theo số học.

 – “Ngày thứ ba, tôi hoàn tất”: ‘Hoàn tất’ vừa có nghĩa thời gian là kết thúc, vừa có nghĩa sự nghiệp là đã đạt mục đích. Đức Giêsu chắc chắn sự nghiệp Ngài sẽ hoàn thành trong một thời gian ngắn nữa, không ai và không gì ngăn cản được.

 – “Vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không thể được”: Đức Giêsu báo trước Ngài sẽ chết trong thành thánh.


II NHẮN GỞI GIÊRUSALEM

c 34 Đức Giêsu đặt đối chọi nhau 2 điều hiển nhiên:

 a/ Đã bao lần Ngài (và xưa kia là các sứ giả của Thiên Chúa) cố gắng tập họp họ lại như gà mẹ tập họp gà con, hầu che chở họ khỏi tai họa là cuộc phán xét của Thiên Chúa về các tội lỗi của họ.

 b/ Vì thế, số phận của họ là sẽ bị Thiên Chúa bỏ mặc (Gr 12,7: Thiên Chúa bỏ mặc Giêrusalem cho dân ngoại tàn phá).

 – Vì dân Giêrusalem đã bị Thiên Chúa bỏ mặc mãi cho đến ngày họ phải nói: “Chúc tụng Đấng nhân danh Đức Chúa”. Câu này có hai lối giải thích:

a) Đức Giêsu cho biết Giêrusalem sẽ trở lại vào ngày cuối cùng (21,24 và Rm 11,25-27)

b) Đến ngày Đức Giêsu vào thành Giêrusalem cách long trọng như Vua Messia, dân Giêrusalem không ‘thấy’ (nghĩa là không nhận ra Ngài là Vua Messia), khi đó những kẻ ‘thấy’ và tung hô Ngài toàn là ‘đám đông các môn đệ Ngài’ (19,38). Mãi đến ngày tận thế họ mới ‘thấy’ Ngài, nhưng khi đó Ngài đến là để phán xét chứ không phải để tập hợp họ và che chở họ khỏi phán xét như hôm nay.


III KẾT LUẬN

 Đoạn này được nối kết với tường thuật phía trước bởi chi tiết ‘cùng vào giờ ấy’. Tác giả muốn giải đáp tại sao ‘chủ nhà’ đóng cửa phòng tiệc không cho một số đông những người đương thời vào (13,25-27); Trước đây trong cuộc biến hình, độc giả của Lc đã được biết mơ hồ về ‘cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem’ (9,31). Bây giờ Đức Giêsu nói thêm về cuộc xuất hành đó, Giêrusalem không phải chỉ là một địa điểm kết thúc cuộc hành trình của Ngài (13,22) mà còn là nơi Ngài tử đạo (cc 31-32), thậm chí là thành gây nên cái chết của Ngài (cc 34-35). Tội ác mà nhiều kẻ đương thời của Đức Giêsu phạm khiến họ bị từ chối không cho vào phòng tiệc chính là tội giết chết Ngôn sứ Giêsu tại thủ đô của dân biệt tuyển.

BÀI 63: CHỌN CHỖ NGỒI (14,1-14)

1Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. 2Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. 3Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: "Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không? " 4Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5Rồi Người nói với họ: "Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát? " 6Và họ không thể đáp lại những lời đó.

7Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: 8"Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

12Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 1 Đây là hoàn cảnh tạo dịp cho Đức Giêsu phát biểu ý kiến của Ngài.

 – “Một người biệt phái mời Ngài tới nhà dùng bữa”: Lc tường thuật lại những lần Đức Giêsu được các người biệt phái mời ăn (7,36 11,37 14,1). Cũng Lc ghi nhận những người biệt phái báo cho Đức Giêsu hay Hêrôđê mưu hại Ngài (13,31-33). Như vậy, trong Lc thái độ của biệt phái với Đức Giêsu không phải chỉ là tiêu cực, và Đức Giêsu cũng sẵn sàng mang ơn cứu độ đến cho họ.

 – Người biệt phái này là một kỳ lão, nghĩa là một trong những thủ lãnh của các biệt phái.

 – Bữa ăn này là bữa ăn Sabbat (qua câu 8, Đức Giêsu chuyển sang bữa tiệc cưới).

c 2-6 Đang bữa ăn, Đức Giêsu làm một phép lạ chữa bệnh. Phép lạ này cũng tương tự phép lạ chữa một phụ nữ còng lưng (xem bài 60: Lc 13,10-17): diễn ra trong một ngày sabbat, trước cặp mắt dò xét của những người pharisêu. Nhưng có một điểm khác biệt quan trọng: Khi Đức Giêsu chữa người đàn bà còng lưng, người quản lý hội đường đã kịch liệt phản đối (13,14); còn ở đây các người biệt phái biết không đủ lý do để phản đối Đức Giêsu nên họ im lặng (c 4); và khi Đức Giêsu chất vấn họ rằng ngày sabbat có nên cứu người hay không thì họ ‘không thể đáp lại’ (c 6)

c 7 Sau khi chữa bệnh, Đức Giêsu chuyển đề tài. Ngài đưa ra một lời khuyên cho những kẻ được mời dự tiệc, và một lời khuyên khác cho chính người chủ tiệc.

 a/ Nói với những kẻ được mời, Đức Giêsu bàn về thói quen dành chỗ nhất.

 – Chỗ nhất là chỗ danh dự trong phòng tiệc, chỗ gần chủ nhất.

 – Đức Giêsu nhận thấy những kẻ được mời cứ tìm chỗ nhất: chú ý động từ ‘tìm’ ở thì imparfait (ils choisissaient) cho thấy đó là một khuynh hướng dành chỗ nhất trong phòng tiệc (20,46; Mt 23,6; Mc 12,38), trong Hội đường (11,43 20,46; Mt 23,6; Mc 12,38), thích được chào ở những nơi công cộng (12,46 và ss)

c 8 Đức Giêsu khéo nói để không đụng chạm trực tiếp tới người biệt phái đã mời Ngài.

 – Ngài không nói tới người biệt phái đã mở tiệc mời khách, mà bói “khi kẻ nào mời anh…”

 – Ngài không nói tới bữa ăn lúc đó, mà nói ‘tiệc cưới’.

c 9 Rất đúng với thực tế: những người quan trọng hay đến vào phút chót.

 – Lời dạy này cũng giống những lời dạy của nhiều bậc khôn ngoan khác:

 * Các sách Khôn ngoan của Cựu Ước: “Đừng ngồi vào chỗ của người lớn, vì thà người ta bảo bạn ‘hãy lên đây’ còn hơn là bạn bị bảo hãy dời xuống” (Cn 25,6-7; Si 7,4 13,9-10)

 * Sách của giới Lêvi: “Hãy tự tụt xuống hai ba cấp cách chỗ của ngươi, thà người ta bảo ngươi ‘hãy lên đây’ còn hơn là ‘hãy dời xuống dưới’” (Lv 1.5)

c 11 “Ai tự tôn sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ sẽ được nâng lên”: nên chú ý hai điểm về văn phạm:

 a/ Thể thụ động cho thấy tác nhân là Thiên Chúa.

 b/ Thì tương lai ám chỉ tới lúc phán xét cuối cùng, khi đó sẽ có sự đảo ngược hoàn cảnh (xem bài Magnificat)

 – Lời dạy về cách cư xử khôn khéo trong phòng tiệc ngầm đưa đến lời dạy về thái độ để được vào Nước Trời, tức là phải tự hạ và sống như trẻ thơ (Mt 18,4; Lc 17,10 18,10-14)

 * Bài học mà Đức Giêsu đưa ra cho những kẻ được mời là về danh dự:

 – Danh dự của mình không phải do mình tự tìm kiếm (Anh đừng ngồi vào chỗ nhất)

 – Mà do người khác khách quan nhìn nhận nơi mình (Người đã mời anh đến nói: xin mời ông bạn lên trên)

 – Nhất là do chính Thiên Chúa ban cho mình (Động từ ‘tôn lên’ và ‘hạ xuống’ ở thể thụ động thần thiêng)

c 12 – Sau đó Đức Giêsu lạo đưa thêm một lời dạy khác cho chính kẻ đã mời Ngài:

 – “Đứng mời anh em, bạn hữu, họ hàng hay những người láng giềng giàu có”. Không phải Đức Giêsu cấm mời những hạng này, đây chỉ là một kiểu nói mạnh có nghĩa là ‘đứng chỉ mời’ những hạng ấy.

 – Ở đây không còn là bữa tiệc nữa mà là bữa ăn thường ban trưa hoặc ban tối.

 – Mời người chia sẻ bữa ăn là biểu lộ tình thương quảng đại và vô vị lợi. Cho nên không được tính toán để chỉ mời những kẻ có khả năng đáp lại.

c 13 “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ ‘người nghèo’. Đức Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8 theo bản LXX; Lv 21,18).

c 14 “Họ không có gì đáp lễ”: người đới thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Đức Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (*Ông sẽ được đáp lễ: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động)

 – “Tới khi kẻ lành sống lại”: khôn phải Lc phủ nhận việc kẻ dữ sống lại, vì ở những chỗ khác Lc cũng có nói tới việc đó (Lc 20,35; Cv 24,15). Sở dĩ ở đây chỉ nói tới kẻ lành vì chỉ có kẻ lành mới sẽ được thưởng công sau này (xem vế kế tiếp).


II- KẾT LUẬN

Người biệt phái có hai thói xấu là háo danh và tham lam, vụ lợi (Lc 20,46-47), do đó Đức Giêsu dạy hai đức tính ngược lại là khiêm tốn và bác ái vô vụ lợi. Đó cũng là hai đức tính cần thiết cho mọi người để được vào dự tiệc Nước Trời.

BÀI 64: KHÁCH ĐƯỢC MỜI XIN KIẾU (14,15-24)

15Nghe vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su: "Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa! " 16Người đáp: "Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: "Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. 18Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: "Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. 19Người khác nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. 20Người khác nói: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.

21"Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: "Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây. 22Đầy tớ nói: "Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. 23Ông chủ bảo người đầy tớ: "Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 15 Ở câu 14 chuyện trước, Đức Giêsu vừa nói đến việc người lành được sống lại. Điều này khiến một người đồng bàn dự tiệc với Đức Giêsu liên tưởng đến hạnh phúc Nước Thiên Chúa nên mới thốt lên “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Trong Thánh Kinh, bữa tiệc là hình ảnh về hạnh phúc Thiên Chúa ban (Is 25,6 55,1-3; Xh 24,11; Kh 19), cho nên ‘được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa’ có nghĩa là được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa.

c 16 Đức Giêsu dùng một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó rằng được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc lớn. Nhưng Ngài đặt vấn đề: thực ra anh có sẵn lòng nhận lời mời vào Nước ấy hay không?

c 17 Theo phong tục phương Đông, khách được mời từ trước. Khi đến giờ thì đến dự. Những người trong dụ ngôn này dù tới giờ cũng chưa đến dự nên tôi tớ của ông chủ phải đi nhắc.

 c 18-20 Thực ra khách mời rất đông nhưng Lc có thói quen chỉ liệt kê ba người thôi. Điểm đáng chú ý là cả ba đều ‘nhất loạt’ xin kiếu. Hai người đầu còn nói lời cáo lỗi ‘cho tôi xin kiếu’, người thứ ba chẳng buồn nói một lời lịch sự. Nghĩa là tất cả mọi người đều không tha thiết với hạnh phúc Nước Thiên Chúa. Hai người đầu coi hạnh phúc ấy nhẹ hơn tiền của (đất, bò). Người thứ ba coi trọng hạnh phúc hôn nhân hơn. Điều này không có gì xấu (Đnl 24,5), nhưng không hợp với sứ mạng làm môn đệ Đức Giêsu (14,26).

c 21-24 Vì loạt người được mời lần đầu đã từ chối dự tiệc, ông chủ mời loạt người khác. Đó là những người ‘nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt’. Thực ra tất cả đều là ‘nghèo khó’những cũng theo thói quen, Lc diễn tả ra thành 3 hạng người. Cũng chính là những người đã được Lc nói đến ở 14,13. Họ tượng trưng cho lương dân. Phải hiểu chữ ‘ép’ cho đúng không phải là cưỡng bức mà là mời một cách khẩn khoản.

 – “Những khách được mời trước kia, không ai được dự tiệc của tôi”: Trong khi Mt 8,12 đe dọa loại bỏ toàn thể dân Do thái thì Lc chỉ đe dọa những người Do thái nào đã không tin nhận Đức Giêsu thôi.


II- Ý NGHĨA

1/ Dân Do thái dù được Thiên Chúa ưu tiên mời vào Nước Trời nhưng họ đã từ chối. Thế những sự từ chối của họ chẳng những không làm hỏng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trái lại còn thúc đẩy nhanh việc Thiên Chúa thành lập Nước Thiên Chúa, một dân mới đã được mời vào thế chỗ cho dân Do thái.

2/ Dụ ngôn này còn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa muốn mời tất cả mọi người vào Nước Ngài. Việc ai đang ở trong Nước Thiên Chúa không phải do công lao người đó, mà là do lòng tốt Thiên Chúa đã mời họ. Còn người nào không được ở trong Nước đó thì không phải là do Thiên Chúa, những do chính họ đã từ chối.

BÀI 65: TỪ BỎ ĐỂ THEO ĐỨC GIÊSU (14,25-33)

25Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ:

26"Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

28"Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? 29Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 30"Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. 31Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? 32Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

------------------

Đến đây Lc đổi cảnh: những đối thủ thích bắt bẻ Đức Giêsu tạm thời vắng mặt, thay vào là một ‘đám đông người đi đường với Đức Giêsu’. Đức Giêsu nói với họ về điều kiện thiết yếu nhất để làm môn đệ Ngài: từ bỏ.


I- GIẢI THÍCH

c 25 “Có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu”: họ đang cùng với Đức Giêsu’tiến lên Giêrusalem’. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói những lời tiếp theo.

c 26 “Ai theo Ta mà không ghét cha mẹ…”: ngôn ngữ Do thái diễn tả sự so sánh bằng hai cách dùng hai từ đối nghịch đặt cạnh nhau. Vậy ‘ghét’ chỉ có nghĩa là không thương bằng. Đức Giêsu đòi hỏi kẻ theo Ngài phải yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự khác.

 – Cũng theo cách đó, Cựu Ước nói Thiên Chúa ‘thương Giacob và ghét Esau’ (Mlk 1,2-3, xem thêm St 29,31.33; Đnl 15,21-22; Ti 14,16).

 – So sánh với Mt 10,37 ta thấy Lc thêm vào một số túc từ của động từ ‘ghét’: vợ, anh chị em và ngay cả mạng sống… đòi hỏi trong Lc triệt để hơn.

 * Tóm ý các câu 25-27: Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu (‘đi theo’ Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, an hem và cả mạng sống mình nữa.

 Sau đó Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn:

c 28-30 Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không.

c 31-32 Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không.

 Câu chuyện của hai dụ ngôn này cũng dễ hiểu. Nhưng xem ra không có gì liên quan tới lời khuyên từ bỏ ở phần trên.

c 33 cho thấy mối liên quan đó: theo Đức Giêsu thì phải chấp nhận từ bỏ tất cả. Vậy trước khi theo phải tính toán cho kỹ.


II- KHÓ KHĂN

Như đã nói, hai dụ ngôn tự chúng thì dễ hiểu, nhưng khó khăn là ở chỗ chúng áp dụng cho ai: cho mọi người tín hữu theo Đức Giêsu? hay riêng cho các ‘môn đệ’ theo nghĩa hẹp?

– Lập trường 1: áp dụng cho mọi tín hữu:

Làm người tín hữu thì phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Do đó có thể có những hoàn cảnh khiến họ vì phải trung thành với Chúa nên phải từ bỏ những gì thân thiết nhất. Do đó phải suy nghĩ kỹ trước khi dấn thân.

– Lập trường 2: chỉ áp dụng cho người môn đệ theo nghĩa hẹp:

Tức là những người đi tu. Đi tu là từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em và có thể bỏ mạng sống nữa. Do đó phải suy tính kỹ.

*Xem cours của Nil Guillemette trang 235-7, tác giả theo lập trường hai. Tuy nhiên, theo thiển ý, chúng ta có thể đồng ý với cả hai lập trường.

BÀI 66: BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT (15,1-32)

 1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." 3Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

Dụ ngôn con chiên bị mất

4"Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất

8"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất. 10Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

Dụ ngôn người cha nhân hậu

11Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. 12Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

14"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

21Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. .. 22Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

25"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!

31"Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."

------------------

Từ chương 15 đến chương 19, Lc ghi lại những giáo huấn của Đức Giêsu dưới hình thức ngụ ngôn, nhằm dạy người ta hiểu tấm lòng của Thiên Chúa đối với những kẻ thường bị người đời hắt hủi.


I- Ý CHÍNH CỦA BA DỤ NGÔN NÀY

 1/ Nhằm trả lời cho sự trách móc của các biệt phái và thông giáo về thái độ của Đức Giêsu (c 1.2)

 2/ Thái độ đó là Đức Giêsu (Thiên Chúa) quá nhân từ đối với kẻ tội lỗi (c 2)

 – ‘Đón tiếp’: biệt phái và thông giáo nghĩ rằng lẽ ra phải xua đuổi kẻ tội lỗi.

 – ‘Ăn đồng bàn’: đây là điều cấm kỵ.

 Người ta thường nghĩ rằng dù Thiên Chúa nhân từ đến đâu thì cũng ít ra đòi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối trước rồi mới tha. Phần Đức Giêsu qua ba dụ ngôn này lại đi tìm những kẻ tội lỗi. Do đó ba dụ ngôn này không nhắm đến những điều kiện của kẻ tội lỗi để được tha, mà nhắm đến lòng nhân từ của Thiên Chúa.

 3/ Để mô tả lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lc sử dụng nhiều lần những từ diễn tả sự đi tìm và niềm vui khi tìm gặp.

 a/ Đi tìm:

c 4: lạc mất một con, đi tìm con chiên ấy cho tới khi tìm gặp

c 5: và khi tìm gặp.

c 6: vì tôi đã tìm gặp.

c 8: đánh mất một đồng, tìm kỹ cho tới khi tìm gặp lại.

c 9: vì tôi đã tìm lại (và khi đã tìm thấy).

c 24: con Ta đây đã mất nay tìm lại được.

c 27: vì thấy cậu em trở về.

c 30: nay nó trở về.

c 32: đã mất nay tìm lại được.

 b/ niềm vui:

c 5: hớn hở vui mừng vác chiên trên vai.

c 6: xin bà con hớn hở với tôi.

c 7: trên trời cũng vui mừng như thế.

c 9: xin bà con mừng rỡ với tôi.

c 10: các thiên sứ cũng mừng vui như thế.

c 23: chúng ta ăn mừng.

c 24: mở tiệc ăn mừng.

c 25: tiếng đàn ca, múa hát.

c 27: làm thịt con bò tơ.

c 30: để ăn mừng nó.

c 32: phải làm tiệc ăn mừng.


II- GIẢI THÍCH

c 1-3 Người ta thường gọi dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn ‘Đứa con hoang đàng’, nghĩa là coi nhân vật chính trong chuyện đó là đứa con hư hỏng. Nhưng những câu này cho biết mục đích của cả 3 dụ ngôn mà thánh Lc chép liền nhau là để trả lời cho những người biệt phái và thông giáo chỉ trích thái độ của Ngài gần gũi những người tội lỗi. Do đó nhân vật chính trong dụ ngôn thứ ba là người cha, và bài học của 3 dụ ngôn là lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.

c 4 So sánh với cc 8,11-12: con số chỉ điều bị mất rồi tìm lại được cứ giảm dần: một con chiên trong số 100 con, một đồng trong 10 đồng, một đứa con trong hai đứa. Cho thấy điều mất và tìm lại càng ngày càng quý.

Hai dụ ngôn đầu

c 4-7 Dụ ngôn con chiên lạc được tìm thấy:

 – “Để 99 con trong đồng hoang”: để ở nơi chiên thường ăn cỏ.

 – “Trên trời… sẽ vui mừng”: một kiểu nói quanh có nghĩa Thiên Chúa vui mừng.

 – “99 người công chính không cần sám hối”: chữ ‘công chính’ được dùng ở đây theo nghĩa mỉa mai: những người pharisêu (Lc giới thiệu họ ở c 2) tự coi là công chính, nhưng thực ra không phải thế, vì họ không đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu và ‘không cần sám hối’.

c 8-10 Dụ ngôn đồng bạc tìm lại được:

 – “Đồng quan”: tiền công nhật của một người trung bình.

 – “Thắp đèn”: nhà Do thái không có cửa sổ, ánh sang chỉ vào qua cửa cái, nên ngay ban ngày muốn tìm gì ở các góc nhà cũng cần thắp đèn.

 – Những động từ mô tả việc làm của người đàn bà thật là kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, tìm cho kỳ được.

 – “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng”: cũng là một cách nói quanh có nghĩa Thiên Chúa vui mừng.


Dụ ngôn người cha nhân từ

c 11-12 “Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con”: Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khỏe (Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn Ca, một quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế, bởi vì ‘nắm tiền là nắm quyền’, khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nổi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.

 – Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt ‘nhãn tiền’ những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình

c 13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.

 – “Chăn heo”: người Do thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này lại đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng

 Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.

 Trước lúc quay về nó soạn sẵn một bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)

c 20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành.

 – “Khi cậu còn ở đàng xa, cha cậu trông thấy”: Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, Thiên Chúa không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.

 – “Liền động lòng thương”: Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lượng bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là ‘liền động lòng thương’.

 – “Chạy lại”: Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có do thái) giỏi kiềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chững chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kiềm chế tình cảm mà còn ‘chạy’! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kiềm chế nổi nữa rồi.

 – “Ôm vào lòng hôn con tha thiết”: cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha htứ. Ôm hôn là biểu lộ sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.

c 21-24b – Khi đó đứa con bắt đầu bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.

 – “Mau mau đi”: tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.

 – “Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu”: Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc ‘áo dài tôt nhất’ tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nò đã tự thú ‘Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê’.

 – “Đeo nhẫn vào tay”: nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.

 – “Xỏ giầy vào chân cậu”: theo tục lệ do thái, đầy tớ không mang giày (mà chỉ xách giày cho chủ)

 – “Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo”: không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò ‘chúng ta đã nuôi cho béo’. Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.

c 29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh

 – “Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông”: biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ ‘phục vụ’ Thiên Chúa hết long bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.

c 30 “Thằng con của ông đó”: người con trưởng không coi người con thứ hai là em mình.

c 32 “Em con đây”: người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.

 Thật là một dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.

BÀI 67: NGƯỜI QUẢN LÝ BẤT TRUNG (16,1-13)

Dụ ngôn người quản gia bất lương

1Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: "Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa! 3Người quản gia liền nghĩ bụng: "Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!

5"Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? 6Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. 7Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.

8"Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.

Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của

9"Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? 12Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?

13"Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 1 “Quản lý”: đối với dân Do thái, quản lý không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực.

 * Quản lý là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi.

 * BJ nói quản lý không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.

c 3 “Tự nhủ mình rằng”: Lc thường cho các nhân vật diễn tả ý nghĩ bằng cách tự nói với mình (12,17 15,17-19 18,4 20,13).

c 5 “Thùng”: bath khoảng 21-45 lít.

c 7 “Bao”: kor, bằng 10 bath, tức khoảng 210-450 lít.

c 8 “Gian ngoan”: chữ này rất khó giải thích, ta sẽ giải thích riêng ở phần sau.

 “Khôn khéo”: Cựu Ước dùng từ này để mô tả sự khéo léo, không cần phân biệt sự khéo léo công chính hay bất chính (St 3,1)

 – “Con cái thế gian”: kiểu nói Sêmít chỉ những người chỉ quan tâm tới thế gian này.

 – “Con cái sự sang”: cũng là kiểu nói Sêmít chỏ những người biết đón nhận ánh sáng Thiên Chúa.

c 9 “Họ rước các con vào nhà ở muôn đời”: đại từ ‘họ’ số nhiều là một cách nói về Thiên Chúa.

c 12 “Làm tôi”: động từ này có tính cách phụng vụ. Hoặc là phụng thờ Thiên Chúa, hoặc là phụng thờ thần tài.


II- SỰ GIAN NGOAN CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ

Đây là điểm khó khăn nhất của đoạn Tin Mừng này, các nhà chú giải phân ra nhiều lập trường khác nhau

1/ M.J. Lagrange, D. Buzy v.v…

 – Gian ngoan ở chỗ ăn gian của chủ.

 – Trong quá khứ, người quản lý này đã từng ăn xén ăn bớt tài sản của chủ nên bị phát giác và bị báo cho biết sẽ thôi việc. Lúc đó hắn còn gian ngoan hơn nữa bằng cách sửa đổi giấy nợ để mua lòng các con nợ, nhưng càng làm thiệt hại thêm cho chủ.

 Lối giải thích này gặp nhiều khó khăn:

 * Hắn đã bị chủ phát giác đã ăn gian, nay làm theo cách này nữa thì làm sao có thể giấu chủ được. Ít hôm nữa hắn phải báo cáo sổ sách thì mọi sự sẽ lộ ra thôi.

 * Hắn làm vậy là thiệt hại thêm cho chủ, sao chủ có thể khen hắn được?

 * Phần Đức Giêsu thì không thể lấy một gương xấu như thế để làm bài học cho môn đệ mình được.

2/ M. Evers, W.D. Willer v.v… và nhất là JDM Derrelt:

 – Gian ngoan ở chỗ đến lúc cần thiết thì dám bỏ quyền lợi vật chất riêng tư trước mắt để đầu tư cho những quyền lợi lâu dài.

 Trong quá khứ: người quản lý này đã có cách tìm thu nhập rất khéo léo.

 * Theo luật Do thái (Xh 22,25; Lv 25,36; Đnl 23,20-21) không được phép cho vay lấy lãi đối với người Do thái.

 * Thế nhưng nhiều người đã có biện luận để vẫn có thể cho vay.

 Chẳng hạn họ giải thích luật đó là để không gây hại cho kẻ túng thiếu ngặt nghèo. Vậy nếu có thể chứng minh rằng người vay không túng thiếu ngặt nghèo thì ta có thể cho vay.

 Và đã có câu ‘chẳng ai mà không có dầu để thắp một ngọn đèn’. ‘chẳng ai mà không có bột để làm một miếng bánh’ (sách Mishna). Như thế là ta có quyền cho vay dầu và bột (chính là hai món mà dụ ngôn này kể ra).

 Lãi suất của bột là khoảng 25%, của dầu ôliu thì có thể lên đến 100%.

 Tuy nhiên dù sao thì cũng là một cách cho vay và cũng lỗi luật, cho nên người ta thỏa thuận kín đáo, không có người làm chứng bằng cách trong giấy nợ thì ghi một số lượng cao hơn mức nợ thực tế gồm vốn và lãi cộng chung.

 Người quản lý của dụ ngôn này bị chủ phát giác cách làm lươn lẹo do đó nên dọa đuổi việc. Lúc đó để lấy lòng các con nợ, ông gọi họ đến sửa lại giấy nợ: bỏ đi phần lãi, chỉ còn lại phần vốn thôi.

 Khi làm như vậy, một mặt ông ‘ăn năn hoán cải’ trở về sống đúng tinh thần của luật, mặt khác ông cũng làm đúng ý chủ. Chính vì thế mà ông được chủ khen. Chẳng những thế, Đức Giêsu cũng khen.

3/ Bản dịch do Tòa Tổng Giám Mục/TP HCM 1994: 

“Theo một thông lệ thời đó tại Palestina, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để đến lúc hoàn trả, họ thu lấy số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn này, có thể người quản gia tính lại để chủ thu hồi đúng số tài sản của ông, và như vậy lầm này hắn hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về hắn. Người chủ sẽ không bị thiệt mà con nợ lại rất biết ơn hắn. Vậy phải hiểu hắn bất lương không phải vì sửa đổi số lượng kỳ này nhưng vì những thao túng trước đó. Kỳ này hắn khôn khéo nên mới được khen.


III- KẾT LUẬN

Dụ ngôn đưa ra bài học về cách sử dụng tiền của. Người quản lý này là ‘con cái thế gian’, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi (dù chỉ là cho đi phần thu nhập không hợp luật). ‘Con cái của sự sáng’ phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.

BÀI 68: LẠI CÔNG KÍCH BIỆT PHÁI (16,14-18)

Đức Giê-su khiển trách người Pha-ri-sêu ham tiền

14Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15Người bảo họ: "Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.

Dùng sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa

16"Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào.

Lề Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu

17"Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.

Vấn đề ly dị

18"Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

------------------

c 14 Đến đây thính giả thay đổi: những người pharisêu trở vào cuộc. Nhưng Lc nối kết chuyện này với phía trước bằng chi tiết ‘họ nghe các điều ấy liền cười nhạo’. ‘Các điều ấy’ là gì mà họ ‘cười nhạo’? Là những lời Đức Giêsu dạy về cách sử dụng tiền của: phải làm chủ chứ đừng làm tôi nó (c 13). Tại sao họ cười nhạo? Vì họ ‘vốn ham hố tiền bạc’. Họ cho rằng tiền bạc chính là dấu chỉ phúc lành Thiên Chúa ban cho những người công chính.

c 15 Đức Giêsu không đồng ý với suy nghĩ đó. Câu nói của Ngài gồm 3 ý:

 a/ Vạch mặt sự công chính giả tạo của pharisêu: “Các ông là những người làm bộ công chính”. Sự giàu có không hẳn là dấu chỉ Thiên Chúa tán đồng và ban thưởng cho họ. Ngược lại, tiền bạc còn có thể ngăn cản người ta phụng sự Thiên Chúa. Hơn nữa sẽ có một sự thay đổi số phận ở đời sau như dụ ngôn phía sau sẽ cho thấy.

c 16 b/ Lý luận dựa trên Sách thánh: Đức Giêsu chia lịch sử cứu độ làm 2 giai đoạn chính mà Gioan Tẩy Giả làm bản lề. Giai đoạn Cựu Ước (*Luật và các ngôn sứ)và giai đoạn Tân Ước từ Gioan trở về sau. Bắt đầu giai đoạn Tân Ước là một biến cố quan trọng: Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu loan báo. Ai muốn vào Nước đó thì ‘phải dùng sức mạnh mà vào’ nghĩa là phải có một cố gắng đặc biệt, cách riêng là cố gắng không làm nô lệ cho tiền bạc, để có thể toàn tâm toàn ý phụng sự Thiên Chúa (xem câu 13).

c 17 Tuy nhiên lời này không có nghĩa là Cựu Ước đã hết giá trị, vì giáo huấn của Đức Giêsu chỉ là làm cho rõ những gì mà Thiên Chúa đã dạy trong lề luật thời Cựu Ước.

c 18 Đức Giêsu đề cập đến vấn đề ly dị. Mặc dù Đnl 24,1-4 chấp nhận việc rẫy vợ và lấy người khác, nhưng Đức Giêsu không chấp nhận vì Ngài coi đó là tội ngoại tình. Mà theo Xh 20,14 không ai được ngoại tình. Mt 5,32 cũng chép vấn đề này nhưng giải thích rõ hơn: việc cho phép ly dị chỉ là nhân nhượng của thời Cựu Ước thôi, chứ Luật thì không bao giờ chấp nhận như thế.

 c/ Ý thứ ba trong câu trả lời cho các người biệt phái là một dụ ngôn: sẽ có cuộc thay đổi số phận ở đời sau.

BÀI 69: DỤ NGÔN PHÚ HỘ VÀ LADARÔ (16.19-31)

19"Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23"Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! 25Ông Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27"Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! 29Ông Áp-ra-ham đáp: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. 30Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. 31Ông Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."

------------------

Dụ ngôn người quản lý (16,1-13) dạy về cách sử dụng tiền của, còn dụ ngôn này (phú hộ và Ladarô: 16,19-31) cảnh cáo việc sử dụng tiền của một cách sai lầm.


I- GIẢI THÍCH CHI TIẾT

c 19 “Có một người giàu kia”: dụ ngôn có hai vai chính. Điểm đáng lưu ý là vai người nghèo có tên (Ladarô), còn vai người giàu lại không có tên (vài thủ bản có ghi tên ông là Nevès hoặc Pinées). Có lẽ ý tác giả là không coi trọng người giàu này.

c 20 “Ladarô”: kiểu nói tắt của Êleâzrô nghĩa là ‘Thiên Chúa giúp’. Tên người nghèo này rất có ý nghĩa.

 1/ Thông thường các vai trong dụ ngôn không có tên, nhưng người nghèo này lại có tên.

 2/ Tên này là ý nghĩa của nó rất hợp với người nghèo là được Thiên Chúa thương giúp.

 – “Ăn mày”: người này nghèo đến mức thê thảm.

 – “Mình đầy ghẻ lở”: đã nghèo thê thảm lại mang bệnh tật.

 – “Nằm ngoài cửa ngôi nhà người kia”: người giàu có một cơ hội thường xuyên để giúp đỡ người nghèo này.

c 21 “Những miếng vụn từ bàn ăn rơi xuống”: không phải những mụn bánh tình cờ rơi xuống, mà là những miếng bánh người ta dùng để chùi tay rồi vất xuống.

 – “Bầy chó”: chi tiết này không nhằm làm dịu cảnh khổ của người nghèo (bị con người bỏ rơi, nhưng vẫn được thú bật quan tâm), nhưng là để cho thấy cảnh khổ của người nghèo lên đến mức cùng cực.

 * Trong Thánh Kinh, chó được coi là loài vật ghê tởm và hung ác (Tv 22,17.21; Cn 26,11; Mt 7,6)

 * Câu 21 bắt đầu bằng chữ alta kaib nghĩa là ‘hơn thế nữa’.

 * “Đến liếm vào ung nhọt”: không phải chó thương tình đến liếm để xoa dịu đau đớn của người nghèo, mà chúng muốn tấn công người này, mà người này yếu liệt đến nỗi không còn đủ sức để đuổi chúng đi.

c 22 “Được thiên sứ đem vào lòng Abraham”: ở đây tác giả dùng những hình ảnh thông dụng của Thánh Kinh để mô tả cảnh hạnh phúc.

 *Hình ảnh thiên sứ đưa: thái độ ưu ái với kẻ lành (hình ảnh này được dùng trong các sách Khải Huyền ngụy thư như Le Testament d’Abraham, l’Assomption de Moise, le Targum in Cant…)

 *”Vào lòng Abraham”: cảnh thân mật, hạnh phúc.

c 23 “Âm ty”: cũng là một hình ảnh thông dụng của quan niệm Do thái chỉ nơi cư ngụ của kẻ đã chết. Có khi là nơi giam cầm kẻ xấu (4 Er; 4 Mcb; 2 Baruth…)


II- NHỮNG BÀI HỌC CỦA DỤ NGÔN NÀY

 1/ Bài học truyền thống: hoàn cảnh ở đời sau sẽ đổi ngược lại. Dụ ngôn này cũng trình bày sự thay đổi hoàn cảnh ấy.

 Ở đời này người phú hộ và Ladarô sống lại hoàn cảnh đối nghịch tuyệt đối: người phú hộ thì quá giàu, mặc toàn gấm tía với hàng gai mịn, ngày nào cũng yến tiệc linh đình (c 19); còn Ladarô thì quá nghèo đến nỗi phải ăn mày, đã nghèo lại còn bệnh tật, mình đầy ghẻ lở (c 20), hơn nữa lại quá yếu đuối nên bị bầy chó tấn công mà không đủ sức đuổi chúng (c 21); đói khát mong ăn của dơ vất bỏ mà cũng không được (c 21).

 Sang đời sau, hoàn cảnh đảo ngược hẳn: Ladarô được sống trong tình thân thiết ‘trong lòng’ Abraham (c 22) còn người phú hộ thì ở âm ty giữa những khổ hình (c 23) khát đến rát cổ (c 24)

 Tuy nhiên dụ ngôn không nghĩ rằng sự thay đổi ấy là đương nhiên mà có nguyên nhân:

 * Sở dĩ người phú hộ bị khổ ở đời sau là vì ở đời này đã không biết sử dụng của cải cho tốt bằng cách bố thí cho người nghèo Ladarô ‘nằm sẵn ngoài cửa nhà ông’ như một cơ hội thường xuyên cho ông bố thí (c 20), thế mà ông không hề bố thí dù chỉ là những vụn đồ ăn dơ vất bỏ (c 21).

 * Lc 18,14-25: người giàu cũng có thể được cứu; Lc 12,13-14 và 14,25-27: người nghèo mà quá ham mê của cải cũng có thể bị trầm luân.

 2/ Bài học về cách sử dụng của cải đời này:

 – Văn mạch của chương 16 cho thấy những nét chính của bài học này:

 * Phải biết dùng của đời này để lo cho đời sau (cc 1-8).

 * Chính việc bố thí chuẩn bị cho đời sau (cc 9-12).

 * Sự giàu sang tự nó không phải là dấu chỉ được chúc phúc như các người pharisêu vẫn tưởng (cc 14-15).

 * Cần phải biết từ bỏ (cc 16-17).

 – Cựu Ước vẫn thường xuyên nhắc nhở người giàu phải có bổn phận bố thí cho kẻ nghèo. Vào thời Đức Giêsu, bbó thí được coi là bổn phận đạo đức quan trọng, là dấu cho thấy ai là người đạo đức (Mt 6,2-4; Lc 21,1-4; Ga 12,5).

 – Còn trong dụ ngôn này, người phú hộ có sẵn cơ hội thường xuyên là Ladarô đang nằm ở cửa nhà ông, thế mà ông không hề bố thí.

 3/ Bài học về số phận đời sau:

 – Ở đời sau không thể cậy dựa vào công nghiệp của Tổ tiên (c 24) cho dù người phú hộ có cha là Abraham, nhưng không vì thế mà xin xỏ gì được.

 – Số phận đời sau được hoàn toàn định đoạt bởi cách sống ở đời này (c 25).

 – Và không thể nào thay đổi được số phận ấy nữa (c 26)

 4/ Bài học về tầm quan trọng của Thánh Kinh: cc 28-31 phản ánh hai quan niệm ngược nhau: người phú hộ nghĩ rằng nếu có một điềm lạ (người chết hiện về) thì anh em của hắn sẽ hoán cải; nhưng Abraham (tức là Đức Giêsu) bảo rằng lời mời gọi hoán cải có giá trị duy nhất là Thánh Kinh (Moisê và các Ngôn sứ), nếu không tin theo lời Thánh Kinh thì dù có phép lạ to lớn đến đâu đi nữa cũng vô ích.

BÀI 70: NẾP SỐNG CỘNG ĐOÀN (17,1-4)

Cớ vấp ngã 

1Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! 2Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3Anh em hãy đề phòng!

Sửa lỗi anh em

4Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: "Tôi hối hận", thì anh cũng phải tha cho nó."

------------------

Trong đoạn 7,1-4 (bài này và bài sau), Lc gom lại nhiều giáo huấn rải rác của Đức Giêsu về nếp sống cộng đoàn: có vấp ngã (cc 1-3a) sửa lỗi anh em (cc 3b-4), sức mạnh của đức tin (cc 5-6), và phục vụ cách khiêm tốn (cc 7-10).


I- CỚ VẤP NGÃ

c 1 – “Đức Giêsu nói với các môn đệ”: đây là đối tượng của những giáo huấn từ c 1 đến c 10.

 – “Cớ vấp ngã”: Nghĩa nguyên thủy là hòn đá làm cho người ta vấp. Ai thường bị vấp? Câu 2 nói rõ là ‘những kẻ bé nhỏ’. Đó không phải là những người nhỏ về tuổi tác, mà là yếu về đức tin, về lý trí, về ý chí.v.v… Một việc làm có thể không hẳn là xấu và có thể không khiến kẻ vững mạnh vấp ngã, nhưng lại có thể làm cho những kẻ ’bé nhỏ’ ấy vấp ngã. Trong đoạn này, cớ vấp ngã còn có một nghĩa riêng mà Lc sẽ nói rõ ở Cv 20,30: “Từ giữa anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng”. Như thế ‘cớ vấp ngã’ trong câu này rất có thể là những luận điệu sai lạc có thể dẫn những tín hữu yếu đuối tới chỗ bỏ đạo, mất đức tin.

 – “Không thể không có cớ vấp ngã”: Đức Giêsu không phủ nhận là thường có cớ vấp ngã trong cộng đoàn, bởi vì chính Satan luôn xúi dục điều đó (22,3).

 – “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã”: vì người đó, dù hữu ý hay vô tình, cũng gây thiệt hại rất nhiều cho cộng đoàn.

c 2a Bởi thế Đức Giêsu nói thà nó chết còn hơn sống mà làm hại người khác.


II- SỬA LỖI ANH EM

c 2b-4 Trong đoạn này Đức Giêsu nói về việc sửa lỗi cho ‘người anh em’ cùng sống trong cộng đoàn với mình (chứ không phải cho người ngoài cộng đoàn), và là thứ lỗi người anh em đó gây cho mình (chứ không phải là lỗi phạm đến ích chung của cộng đoàn).

 – Ngài dạy một cách xử thế gồm hai giai đoạn: trước hết là ‘khiển trách nó’ (chứ không phải làm ngơ); kế tiếp là tha thứ ‘nếu nó hối hận’.

 – “Một ngày đến 7 lần”: số 7 chỉ số nhiều, nhiều lần không giới hạn. Mt 18,6-7 còn ghi một con số cao hơn nhiều là 70 lần 7 (có dị bản ghi 77 lần 7). Nhưng ý nghĩa cũng như nhau.

 – Lời dạy này trong Lc thực tế hơn trong Mt 18,6-7, vì Mt không đưa điều kiện ‘nếu nó hối hận’.

BÀI 71: SỨC MẠNH ĐỨC TIN – PHỤC VỤ CÁCH KHIÊM TỐN (17,5-10)

Sức mạnh của lòng tin

5Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." 6Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.

Phục vụ cách khiêm tốn

7"Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", 8chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? 9Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? 10Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

------------------

I- SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN (5-6)

c 5 Đây là lời xin của các Tông đồ. Do đó đức tin ban thêm ở đây không phải chỉ là đức tin của cấp độ tín hữu, mà là của cấp cán bộ truyền giáo; không phải chỉ là tin theo nghĩa chấp nhận một cách tri thức bởi những tín điều, mà là một sự tin tưởng phó thác hoàn toàn khiến người Tông đồ ra đi truyền giáo.

c 6b Lời đáp của Đức Giêsu có thể giải thích hai kiểu:

a) Các Tông đồ nhắm tới số lượng (xin cho chúng con tin thêm điều này điều nọ), Đức Giêsu sửa lại bằng cách nhấn mạnh tới phẩm chất của đức tin: tin vững vàng hơn, tin phó thác hơn, tin tới mức trọn vẹn. Một khi đã có đức tin với một phẩm chất trọn vẹn như vậy thì một đức tin theo số lượng thì ít nhưng phẩm chất thì mạnh, thì đức tin ấy có thể làm được những điều kỳ diệu.

b) Các Tông đồ xin Đức Giêsu ban cho mình có một đức tin phó thác trọn vẹn. Đức Giêsu nhất trí và khen ngợi các ông. Sau đó Ngài dùng một thí dụ để cho thấy tầm quan trọng của một đức tin như thế.

Hạt cải: nghĩa là bé tí tẹo

 – Cây vả: cây này có bộ rễ rất mạnh nên có thể đứng vững suốt 600 năm qua mọi thứ thời tiết. Trong Mt 17,20 và Mc 11,23, Đức Giêsu không dùng hình ảnh cây vả nhưng dùng hình ảnh ngọn núi. Ý nghĩa cũng như nhau: sức mạnh đức tin có thể làm những điều kỳ diệu. Dù cho là đức tin của một con người nhỏ bé, hay một nhóm người ít ỏi, nhưng nếu đức tin ấy mạnh thì cũng có thể làm được điều rất kỳ diệu.


II-PHỤC VỤ CÁCH KHIÊM TỐN (7-10)

1/ Giải thích vài chi tiết

c 8 “Vén áo gọn gang”: tư thế của người phục vụ, vén áo cho gọn ghẽ để làm việc.

c 10 “Tôi tớ vô dụng”: nguyên ngữ Hy lạp là achereios. Không thể dịch là ‘vô dụng’ được vì trong thực tế dù sao người tôi tớ của dụ ngôn cũng rất đắc dụng cho chủ. Phải dịch là ‘tầm thường chỉ là như vậy tôi’. Như thế kiểu nói này có nghĩa: tôi chỉ là một người tôi tớ không hơn không kém.

2/ Không nên hiểu

 Không nên lấy tam thức ngày nay để đánh giá dụ ngôn này, để rồi đưa đến kết luận rằng Đức Giêsu dạy phân biệt chủ tớ, dạy tôi tớ phải an phận mãi mãi.v.v…

 – Thực ra Đức Giêsu chỉ sử dụng tâm thức ngày xưa: trong xã hội Do thái thời đó, tôi tớ là người ở hẳn tại nhà của chủ (chứ không phải làm hết giờ hết việc rồi trở về nhà riêng) và phải luôn luôn sẵn sàng phục vụ chủ. Làm xong việc này thì lại phải sẵn sàng làm tiếp việc khác nếu chủ bảo làm.

 – Hơn nữa qu dụ ngôn này. Đức Giêsu không nhằm dạy một cách sống ở đời giữa chủ và tớ, mà cách dạy chúng ta phải sống đối với Thiên Chúa.

3/ Ý nghĩa của một dụ ngôn

 – Tôi tớ là người phục vụ chủ.

 – Do đó, nếu tôi tớ có phục vụ thì cũng là việc tự nhiên. Người tôi tớ nào mà sau khi phục vụ mà nghĩ rằng mình đã có công và đòi chủ phải biết ơn hoặc đền đáp thì thật là sai lầm.

 – Chúng ta đối với Thiên Chúa cũng phải thế: bổn phận của chúng ta là phục vụ Chúa, làm những việc Chúa bảo làm. Và khi đã làm xong thì đừng như người biệt phái coi đó là công lao để đòi Chúa thưởng, nhưng hãy khiêm tốn coi như đó là bổn phận của mình.

BÀI 72: MƯỜI NGƯỜI CÙI (17,11-19)

11Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi! " 14Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch. 15Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17Đức Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? ". 19Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." 

------------------

Đến đây Lc tạm ngừng phần ghi lại các dụ ngôn, để một lần nữa trở lại điệp khúc ‘hành trình lên Giêrusalem’, với một chuyện xảy ra trên con đường hành trình đó: Đức Giêsu gặp 10 người cùi và chữa bệnh cho họ.


I- GIẢI THÍCH

c 11 “Lên Giêrusalem, qua miền Samaria và Galilê”: lộ trình này xem ra không đúng với địa dư, vì theo bản đồ từ Bắc tới Nam là Galilê, Samaria và Giuđê, trong đó có Giêrusalem. Viết ‘lên Giêrusalem’ thì hiểu được vì thành phố này nằm cao trên đồi Sion; nhưng nói ‘qua Samaria và Galilê’ thì ngược: Đức Giêsu đang đi xuống theo hướng Nam, lẽ ra phải nói ‘lên Giêrusalem qua miền Galilê và Samaria’ thì mới hợp.

 Có hai lối giải thích cách viết này của Lc:

a) Đức Giêsu đi ngang qua vùng biên giới giữa Galilê và Samaria để xuống Giêrusalem ở mạn Nam. Lối giải thích này cũng hợp với câu chuyện, trong đó người cùi gồm cả Do thái lẫn Samaria (vì ở vùng biên giới nên có dân của cả hai miền).

b) Thánh Lc luôn coi Giêrusalem là tâm điểm, nên khi vạch lộ trình này, ông cũng đặt trọng tâm ở Giêrusalem rồi nhìn ngược lại đoạn đường đã đi qua, bắt đầu từ miền gần nhất là Samaria, tiếp đó mới tới miền xa hơn là Galilê, Lộ trình này rất hợp với quan điểm thần học của Lc: trong đời Đức Giêsu Ngài luôn tiến về Giêrusalem, đến thời các Tông đồ, Ngài bảo họ đem Tin Mừng bắt đầu từ Giêrusalem, tiếp đến là tới Samaria, rồi đến mút cùng trái đất (Cv 1,8)

 – “Mười người cùi”: c 16 cho biết trong số họ có cả người Samaria. Thông thường người Do thái và người Samaria không thuận với nhau, nhưng trong hoàn cảnh cùng bị cùi, họ bỏ đi mọi hàng rào ngăn cách để cùng đi chung với nhau: hoạn nạn, khốn khổ là mối dây liên kết con người lại với nhau.

 Có bao nhiêu người Samaria trong nhóm? Có lẽ chỉ có một thôi, vì nếu có hơn thì có lẽ tất cả những người Samaría kia cũng đã theo anh này trở lại tạ ơn Đức Giêsu.

 – “Từ xa”: Lv 13,45 không cho người cùi vào thành phố. Nhưng họ có thể đi qua những làng mạc. Họ cũng không được đến gần người không cùi. Họ phải ăn mặc rách rưới, để tóc bờm xờm, che râu và khi thấy ai đến gần thì phải hô to lên cho người ta tránh xa mình. Chính vì thế mà những người cùi này khi thấy Đức Giêsu từ xa thì đứng lại và hô to lên.

c 13 “Lạy Thầy”: đây là épistatès. Đây cũng là trường hợp duy nhất trong Lc mà một người không trong nhóm môn đệ gọi Đức Giêsu bằng tước hiệu này. Tước hiệu này không chỉ tôn xưng người được gọi là Thầy, mà còn cho thấy quyền năng của người đó (tiếng didaskalos cũng có nghĩa là Thầy nhưng yếu hơn).

c 14 “Hãy đi trình diện với hàng Tư tế”: đây là quy định của Lv 14,2. Nhưng có điểm đặc biệt: Theo Lv 14,2 ấy thì người ta chỉ đến Tư tế để trình diện sau khi đã hết cùi. Phần Đức Giêsu thì bảo họ đi trình diện trước khi hết bệnh. Ngài muốn họ tin vững vàng, làm như họ đã hết cùi thật vậy.

 Cả 10 người đều đi. Nhưng người Samaria hầu chắc không đi đến các Tư tế ở Giêrusalem, mà đến với các Tư tế ở Garizim.

 – “Đang khi đi họ đã được sạch”: phép lạ xảy ra trên đường.

c 15 “Tôn vinh Thiên Chúa”: không tôn vinh Đức Giêsu mà tôn vinh Thiên Chúa, bởi vì chính Thiên Chúa ban ơn qua bản thân Đức Giêsu. ‘Tôn vinh’ cũng có nghĩa là ‘tạ ơn’.

 – “Lớn tiếng”: Lc thường mô tả phản ứng này của những kẻ nhận ra uy quyền của Thiên Chúa: ma quỷ (4,33 8,28), dân chúng đón Đức Giêsu vào Giêrusalem (19,37), lúc Đức Giêsu tắt thở (23,23), Stêphanô tử đạo (Cv 7,60).

c 16 “Sấp mình”: phản ứng của kẻ thụ ơn, hàm ý nhìn nhận người ban ơn có quyền năng Thiên Chúa: cha của cô bé chết (8,41), một người cùi khác (5,12).

c 17-18 Người Samaria cũng nghĩ như những người Do thái rằng Samaria là dân ngoại, không đáng được ơn Thiên Chúa. Do đó người Samaria này nghĩ rằng ơn mà anh nhận được là một hồng ân miễn phí. Vì thế anh rất biết ơn. Còn 9 người Do thái kia nghĩ rằng ơn Thiên Chúa ban cho họ là điều đương nhiên, do đó họ không biết ơn.


II- KẾT LUẬN

 Trong số 10 người cùi được chữa khỏi, 9 người đi trình diện với các tư tế Đền thờ Giêrusalem, chỉ có 1 người Samaria trở lại tạ ơn Đức Giêsu, và người Samaria này được Đức Giêsu nói “Lòng tin của anh cứu anh”. Từ chuyện này ta hiểu được rằng:

1/ Được cứu độ còn quí hơn được khỏi bệnh phần xác.

2/ Thực ra cả 10 người đều có đức tin, nhưng tính chất khác nhau: đức tin của 9 người đi trình diện tư tế có phần nào vụ lợi (tin lời Đức Giêsu bảo đi trình diện để mà được khỏi bệnh); còn đức tin của người Samaria có tính cách tương quan liên vị hơn (interpersonnelle): nó dựa trên ý thức rằng anh đã được Thiên Chúa ban cho một ơn mà anh hoàn toàn không đáng nhận, và nó thúc đẩy anh tìm đến Đấng đã ban ơn cho anh. Đức tin của người Samaria mới thực là đức tin trọn vẹn.

BÀI 73: NGÀY CỦA CON NGƯỜI (17,20-37)

20Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: "Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 21Và người ta sẽ không nói: "Ở đây này! hay "Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông."

22Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. 23Người ta sẽ bảo anh em: "Người ở kia kìa! hay "Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo. 24Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.

26"Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. 27Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. 28Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. 29Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.

31"Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. 32Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. 34Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 35Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại." 37Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ở đâu vậy? " Người nói với các ông: "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó."

------------------

Đến đây Lc chép xen vào một diễn từ chung luận của Đức Giêsu: diễn từ gồm hai phần:

 a/ Phần diễn từ đích thực bàn về ‘Ngày của Con Người’ (17,20-37)

 b/ Tiếp theo là một dụ ngôn được đưa ra như một kết luận cụ thể cho diễn từ ấy (18,1-8).

 Trong bài này, chúng ta phân tích diễn từ chung luận của Đức Giêsu.

c 20 – Người Do thái rất quan tâm đến Ngày mà Thiên Chúa thiết lập triều đại của Ngài. Họ nghĩ rằng đó là một biến cố trọng đại, đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và cho dân tộc họ. Họ rất mong ngày đó mau đến, nhất là khi họ đang phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của Rôma. Họ muốn biết khi nàoở đâu ngày ấy xảy ra. Và họ nghĩ rằng nếu cố gắng tìm những dấu chỉ thì có thể xác định được những điểm ấy. Bởi thế hôm nay người pharisêu hỏi Đức Giêsu: ‘Khi nào thì Triều đại Thiên Chúa đến?”

c 21 Thực ra Triều đại Thiên Chúa tuy cũng là một biến cố trọng đại như người Do thái nghĩ, nhưng không phải trọng đại nhìn theo cặp mắt loài người (vinh quang, chiến thắng.v.v…). Với sự xuất hiện của Đức Giêsu thì Triều đại Thiên Chúa đã đến trên cơ bản, và triều đại ấy sẽ dần dần đến trong tâm hồn những kẻ tin theo Ngài. Đây là một quan niệm khác hẳn quan niệm của các người pharisêu. Bởi đó Đức Giêsu nói “Triều đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta không thể nói ‘Ở đây’ hay ‘Ở kia’, vì này Triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông”. Nói cách khác, vấn đề không phải là xác định nơi chốn và thời gian để tìm đến, mà là tintheo Đức Giêsu.

c 22 Sau khi trả lời một cách đại khái cho những người pharisêu, bây giờ Đức Giêsu nói chi tiết hơn cho các môn đệ mình về Ngày ấy. Ngài nói về Ngày Quang Lâm. Nếu trong câu trả lời cho người pharisêu, Đức Giêsu nói rằng Ngày ấy trên cơ bản đã đến rồi, thì trong bài nói chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết thêm một khía cạnh khác. Ngày ấy sẽ đến một cách trọn vẹn lúc Con Người quang lâm.

 – “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi mà cũng không được thấy”: cũng như bao người khác, các môn đệ cũng mong ngóng Ngày đó, những V cảnh cáo: đừng tưởng rằng Ngày đó sắp đến.

c 23“Người ta sẽ bảo anh em ‘Người ở kia kìa’ hay ‘Người ở đây này’. Anh em đừng đi, đừng chạy theo”: các môn đệ đừng để mình bị đánh lừa bởi các ngôn sứ giả về thời gian và nơi chốn của Ngày đó.

c 24 “Ví như ánh chớp chói lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người”: đừng quan tâm nghiên cứu về địa điểm và thời gian. Vô ích thôi, vì đặc tính của Ngày ấy là đến một cách nhanh chóng và bất ngờ.

 * Ta thấy Đức Giêsu không muốn giải đáp những thắc mắc về thời gian và nơi chốn của ngày ấy. Lý do là chỉ Chúa Cha biết những chi tiết ấy mà thôi (Cv 1,7). Hơn nữa, điều quan trọng không phải là đoán thời gian và nơi chốn, mà ở chỗ bất cứ lúc nào và ở đâu cũng phải luôn sẵn sàng trong một nếp sống xứng đáng là người môn đệ Ngài. Đó là cách tốt nhất để chờ đón Ngày ấy.

c 25 Câu này xem ra lạc lõng giữa văn mạch. Đức Giêsu khẳng định sự cần thiết của cuộc chịu nạn của Ngài.

c 26-30 Tiếp theo Ngài dùng 2 chuyện Cựu Ước về ông Nôê và ông Lót để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (“ăn uống cưới vợ lấy chồng”, “ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất”). những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng đã nói ở trên (luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa). Do đó khi Ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.

c 31-36 Tiếp theo là một số hình ảnh giúp dễ hiểu:

 – Người đang ở trên sân thượng thì đừng xuống nhà để lấy đồ đạc; người đang ở ngoài ruộng cũng đừng trở về nhà (để lấy đồ đạc): vì khi đó của cải vật chất không còn quan trọng nữa. Cái quan trọng lúc đó là ‘sự sống’. Trong câu này chữ ‘sự sống’ có hai nghĩa: sự sống dựa trên ‘đồ đạc’ chỉ là một giá trị phù du, không đáng tiếc rẻ; sự sống đáng trân trọng chính là sự sống với Chúa. Kẻ khôn ngoan là kẻ dám bỏ sự sống phù du kia để đổi lấy sự sống vĩnh cửu.

 – Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người nằm chung một giường, hai người đàn bà cùng xay một cối bột, hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).

 Kết thúc bài nói chuyện là một câu hỏi ngớ ngẩn của các môn đệ: “Thưa Thầy,ở đâu vậy?”. Các ông vẫn còn lẩn quẩn trong những thắc mắc về thời gian và nơi chốn! Do đó Đức Giêsu trả lời như thể không trả lời “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó”: Nghĩa là khỏi cần thắc mắc vô ích. Hãy lo lúc nào cũng sẵn sàng.

BÀI 74: VIÊN THẨM PHÁN VÀ BÀ GÓA (18,1-8)

1Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2Người nói: "Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: "Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho. 4Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: "Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc."

6Rồi Chúa nói: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? "

------------------

Sau diễn từ về Ngày của Con Người, Đức Giêsu muốn khuyên các môn đệ mình đừng ngã lòng, nhưng hãy kiên trì cầu nguyện. Ngài nói điều này bằng một dụ ngôn.

c 1 Câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng này tóm đại ý của cả dụ ngôn:

 * Dụ ngôn này bàn về sự cầu nguyện, Không phải chỉ là sự cầu nguyện cách chung mà là sự cầu nguyện củ những tín hữu đang gặp khốn khó bởi những quân bất công gây ra và đang cầu xin Thiên Chúa mau đến để cứu họ.

 * Thời gian khốn khó cứ kéo dài, lời cầu xin Thiên Chúa đến cứu xem ra không được Thiên Chúa nghe, vì thế nhiều người đâm ra nản lòng, không muốn cầu nguyện nữa

 * Đức Giêsu dùng dụ ngôn này khuyên môn đệ phải luôn luôn kiên trì trong sự cầu nguyện, đừng chán nản

 * Chú ý một số từ rất có ý nghĩa:

 – Dei, phải: kiên trì cầu nguyện không chỉ là nhân đức tốt mà còn là một sự cần thiết.

 – Pantote, luôn luôn: dù trong hoàn cảnh như thế nào đi nữa.

 – Egkakeo, nản lòng: động từ này thường được Phaolô dùng (Ep 3,13; Gl 6,9; 2Tx 3,13; 2Cr 4,1-16 và hầu như luôn luôn có sắc thái cánh chung).

c 2-3 Thẩm phán: Tv 82,2-7 nói sứ mạng của thẩm phán là đem lại công bình cho những người bị áp bức bất công.

 Thế nhưng trên thực tế thường có những thẩm phán không hề quan tâm tới sứ mạng ấy.

 Dụ ngôn này không nhằm so sánh Thiên Chúa với viên thẩm phán bất công, nhưng là một lối lý luận ngược lại: một thẩm phán bất công mà cuối cùng còn phải giải oan cho người ta, huống chi là Thiên Chúa…

 – Bà góa: đây là nhân vật tiêu biểu cho hạng người nghèo nàn, yếu đuối, chịu bất công(Xh 22,21t; Đnl 10,18; Is 1,17; Gr 22,3…)

 – Viên thẩm phán của dụ ngôn này là một kẻ ích kỷ, chỉ chịu xét xử khi nào có lợi cho bản thân ông. Bà góa này thì quá nghèo chẳng có gì để hối lộ cả. Nhưng sự nài nỉ kiên trì của bà đã khiến ông cuối cùng phải xét xử, Mặc dù chỉ để khỏi bị quấy rầy nữa.

c 4 “Tự nhủ”: Các vai trong những dụ ngôn của Lc thường ‘tự nhủ’, nghĩa là ‘suy nghĩ’.

c 5 Lý do khiến viên thẩm phán bất công chịu xét xử cũng là lý do ích kỷ: để khỏi bị bà góa quấy rầy mãi nữa.

c 7 “Lẽ nào Thiên Chúa lại không xử công minh…”: đây là lý luận ‘huống hồ’: một thẩm phán bất công mà còn cư xử như thế. Huống hồ Thiên Chúa… 7b. Nguyên văn là kai makrothumei ep autois. Câu này rất khó hiểu

 – Kai có hai nghĩa: mặc dù – thực ra.

 – Makrothumei: nghĩa đen là chần chờ, nấn ná lâu dài. Trong Tân Ước động từ này thường diễn tả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với kẻ gian ác, sở dĩ Thiên Chúa kiên nhẫn với họ là vì muốn họ ăn năn sám hối để được cứu độ (2 Pr 3,15) lòng nhẫn nại (makhothumia) của Chúa là dịp cho anh em được cứu độ.

 Ý nghĩa của trọn câu 7:

 – Viên thẩm phán kia dù là người xấu, cuối cùng cũng giải oan cho bà góa vì sự nài nỉ kiên trì của bà.

 – Huống chi Thiên Chúa, Ngài cũng sẽ đáp lại lời cầu nguyện kiên trì của các môn đệ xin đến giải thoát họ.

 – Cho dù trên thực tế môn đệ cảm thấy Thiên Chúa như cứ chần chờ mãi. Hầu như không để ý gì đến hoàn cảnh khổ sở của họ.

c 8 “Thầy bảo các con”: công thức long trọng mời người nghe hãy tin vào uy quyền của Đức Giêsu.

 – “Ngài sẽ xử mau mau cho họ”: nguyên ngữ Hy lạp là en tachei. Dịch ‘mau mau’ không đúng, vì không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ xét xử nhanh chóng. Thành ngữ ‘en tachei’ còn có nghĩa là ‘đột ngột, bất ngờ’. Môn đệ cứ kiên trì cầu nguyện cho dù cảm thấy Thiên Chúa hình như không quan tâm tới mình, nhưng cứ yên chí vì thế nào Thiên Chúa cũng giải quyết cho họ, và khi tới lúc giải quyết thì Thiên Chúa sẽ giải quyết một cách rất đột ngột, bất ngờ.

c 8b Câu này cũng rất khó hiểu:

 – Đức Giêsu biết rằng cảnh gian truân bắt bớ sẽ làm cho nhiều người nản long (2Tx 2,3; Mt 24,12). Do đó Ngài cũng biết có nhiều kẻ không còn cầu nguyện nữa, thậm chí không còn tin nữa.

 – Nhưng chính vì thế Ngài khuyên môn đệ phải (dei) kiên trì cầu nguyện.

KẾT LUẬN TÓM Ý

Sống trong hoàn cảnh khó khăn (của thời cuối cùng) người môn đệ mong Thiên Chúa mau đến cứu họ. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn cứ nấn ná, vì Ngài còn chờ kẻ gian ác ăn năn sám hối để được cứu độ. Tình trạng đó khiến người môn đệ nản lòng. Nhưng Đức Giêsu khuyến khích: cứ kiên trì cầu nguyện, thế nào Thiên Chúa cũng ra tay can thiệp.

BÀI 75: NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ (18,9-14)

9Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: 10"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." 

------------------

GIẢI THÍCH

c 9 “Cho mấy kẻ nghĩ mình công chính mà khinh kẻ khác”: Có nhiều ý kiến khác nhau về mục tiêu của dụ ngôn này.

a) Nhiều người nghĩ rằng Đức Giêsu muốn đưa một bài học về sự khiêm tốn về sự cầu nguyện, hoặc sợ cầu nguyện cách khiêm tốn. Lý do họ dựa vào là câu kết của dụ ngôn ‘Ai tự tôn sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ sẽ được tôn lên’.

b) Nhưng thực ra Đức Giêsu muốn trình bày hai thái độ tự mãn và thái độ ý thức tội lỗi nhưng phó thác vào long thương xót của Thiên Chúa. Sở dĩ Đức Giêsu dùng hình ảnh cầu nguyện, bởi vì trong lúc cầu nguyện, người ta tỏ ra chân thành nhất, do đó dễ thấy thái độ sống của người ta nhất. Quan niệm này vững chắc vì ngay từ câu đầu của dụ ngôn, Lc đã cho thấy ý của Đức Giêsu: sửa lưng những người sống theo thái độ thứ nhất.

c 10 “Lên Đền thờ cầu nguyện”: khi cầu nguyện là lúc người ta thành thật nhất, do đó dễ thấy thái độ sống của người ta nhất. Lời cầu nguyện của cả hai người trong dụ ngôn này đều là thành thật chứ không giả dối.

c 11 “Biệt phải đứng nghênh ngang”: dịch như vậy là bóp mép nguyên văn. Nguyên văn chỉ viết ‘đứng’ thôi. Tư thế này chẳng có gì là kiêu căng, vì đó là tư thế thông thường của người cầu nguyện (Mc 11,25).

 – “Con xin cảm tạ ơn Ngài”: xưa nay ta đã quen in trí về người biệt phái là nghĩ ngay đến kiêu căng. Ta phải bỏ đi thành kiến này, để xét cách khách quan về người biệt phái.

 – Anh không giả dối, vì những việc anh kể ra đều là sự thật (xem giải thích phía sau về câu 12).

 – Lời cầu nguyện của anh hoàn toàn là tạ ơn chứ không hề xin điều gì cả. Đây chính là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất.

c 12 “Con giữ chay tuần lễ hai lần”: luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay một lần vào lễ Đền tội (Lc 16,29). Anh này một tuần ăn chay hai lần (thứ hai và thứ năm), nghĩa là hơn mức độ buộc của luật. Có lẽ anh để bù cho những người khác đã không chu toàn luật ăn chay.

 – “Con nộp thuế thập phân mọi của con mua”: luật chỉ buộc đóng thuế thập phân về những gì mình sản xuất ra (Đnl 12,17). Anh này đóng luôn thuế thập phân cho những gì anh mua. Nghĩa là cũng hơn mức luật buộc.

 Tóm lại: người thu thuế này giữ luật chín chắn, cầu nguyện thành thật.

c 13 “Còn người thu thuế”: đây thuộc hạng người trúng thầu để thu thuế cho chính quyền Rôma. Đã có quy định về tỷ lệ mà họ được hưởng. Nhưng họ có nhiều mánh lới để thu hơn mức quy định, hầu bỏ vào túi riêng. Do đó dân chúng đồng hóa họ với bọn trộm cướp và xa lánh họ. Người thu thuế này ý thức thân phận của mình nên tự động ‘đứng xa xa’.

 – “Không dám ngước mắt lên trời”: tư thế lạ thường, vì thông thường khi cầu nguyện thì phải đứng, ngước mắt lên, giơ tay lên.

 – “Đấm ngực”: tay không giơ lên mà lại đấm ngực.

 – “Thân con tội lỗi”: anh cầu nguyện thành thật, vì anh ‘tội lỗi’ thật.

 – “xin thương con”: điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Tv 51 (Miserere). Mà trong Tv 51 có câu ‘Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát’ tất cả những chi tiết vừa kể ở trên cho thấy người thu thuế này đang thực sự là một tấm lòng tan nát.

 * Tan nát vì biết mình tội lỗi nhiều.

 * Tan nát vì biết mình vô phương được tha: theo luật một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại,có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5.

 Anh chỉ còn mỗi một cách là ‘xin Chúa thương xót’ và đó chính là thái độ đúng nhất, vì ‘Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung’.

c 14 “Kẻ sau khi về nhà thì được nên công chính”: ‘nên công chính’ ở đấy có nghĩa là ‘được tha. Được Chúa ban ơn’.

 – Đáng lưu ý là cảm tưởng của quần chúng trước lời tuyên bố này của Đức Giêsu. Như đã trình bày ở trên, thái độ và lời cầu xin của người biệt phái thì như vậy, và dân chúng vẫn coi như vậy là bình thường, là tốt nữa là đàng khác. Còn thu thuế thì xấu xa tội lỗi cũng là đương nhiên, và dân chúng vẫn nghi hạng xấu xa tội lỗi như thế chắc chắn sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt.

 Thế nhưng, Đức Giêsu tuyên bố thật bất ngờ: Thiên Chúa không ‘công chính hóa’ (ban ơn) cho người biệt phái, nhưng lại công chính hóa người thu thuế.

BÀI 76: ĐỨC GIÊSU VÀ TRẺ THƠ (18,15-17)

15Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng. 16Nhưng Đức Giê-su gọi chúng lại mà nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 17Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." 

------------------

Đức Giêsu đã nhiều lần tỏ ra ưu ái đối với những hạng người bị xã hội coi khinh, như người nghèo, người tội lỗi, người thu thuế. Trong đoạn này Lc giới thiệu một hạng người nữa bị xã hội coi khinh nhưng lại được Ngài ưu ái, đó là trẻ thơ.

c 15 – “Trẻ thơ”: không phải là những em bé quá nhỏ. Theo nguyên ngữ Hy lạp (paidion) thì đây là những em tuổi khoảng 7-14.

 – “Để Ngài chạm tay vào chúng”: (Mc 10,13 chỉ ‘Để Ngài sờ đến chúng’): Nhiều lần người ta mang các bệnh nhân đến để được đụng chạm Ngài hầu được khỏi bệnh (Mc 3,10 5,25-28). Trường hợp này khác hơn, vì những đứa trẻ này không có bệnh. Vậy lý do người ta muốn Đức Giêsu chạm tay vào chúng có lẽ chỉ vì mộ mến Ngài hoặc vì mong cho chúng cũng được một ơn lành nào đó.

 – “Thấy vậy các môn đệ trách mắng họ”: đây cũng là thái độ chung của người Do thái thời do không tôn trọng trẻ em. Lý do là trẻ nhỏ ồn ào, nhất là trẻ nhỏ chưa thuộc Luật Môsê. Người ta coi rẻ chúng và xếp chúng vào số những người ‘sống ngoài luật’ như phụ nữ , nô lệ và ngoại kiều.

c 16 Đức Giêsu không đồng ý cách đối xử đó. Ngài bày tỏ lập trường của mình qua 2 câu nói (cc 16-17).

 – “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”: Xã hội đã khai trừ trẻ nhỏ, nên Đức Giêsu không muốn môn đệ mình cũng có thái độ khai trừ như thế. Ai bị người đời khai trừ thì Thiên Chúa lại che chở. Xem ra Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ mình rằng quy luật đầu tiên của Nước Trời là các giá trị sẽ đổi ngược.

 – “Vì Nước Trời là của những người giống như chúng”: quy luật thứ hai là mọi sự đều là ơn cho không của Thiên Chúa. Nước Trời thuộc về trẻ nhỏ và những ai giống như chúng, chính vì chúng chẳng có một tư cách nào để có quyền đòi vào Nước ấy!

c 17 – Đức Giêsu còn nói thêm câu thứ hai dưới dạng phủ định. Lại còn kèm theo công thức long trọng ‘Thầy bảo thật anh em. Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào’. Điểm nhấn mạnh trong câu này không còn phải là ơn cho không nữa. mà là thái độ phải có để đón nhận Nước Thiên Chúa: đó là hãy đón nhận Nước ấy như một đứa trẻ khiêm tốn đón nhận tất cả từ tay cha mẹ nó. Giống như thái độ đón nhận của người thu thuế mà Đức Giêsu vừa khen ở phía trên (18,13-14); anh biết mình chẳng có gì cả, anh ý thức mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa nên anh khiêm tốn đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.

BÀI 77: CỦA CẢI – TỪ BỎ (18, 18-30)

18Có một thủ lãnh hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? " 19Đức Giê-su đáp: "Sao ông nói tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 20Hẳn ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ." 21Ông ta nói: "Tất cả những việc đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." 22Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông: "Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." 23Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.

24Đức Giê-su nhìn ông ta và nói: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! 25Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 26Những người nghe Đức Giê-su nói liền hỏi: "Thế thì ai có thể được cứu? " 27Người đáp: "Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa."

28Ông Phê-rô thưa: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của mình mà theo Thầy." 29Người đáp: "Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau."

------------------

c 18 – Chuyện này cả 3 Tin Mừng nhất lãm đều ghi (Mt 19,16-22; Mc 10,17-22). Nhưng trong khi Mt ghi là ‘có một người’. Mc ghi ‘Một thanh niên’, thì Lc ghi ‘Một thủ lãnh’.

 – Câu hỏi của người này mang tính chất chuyên môn về luật pháp, vì ông là một thủ lãnh. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu vượt ra khỏi phương diện chuyên môn đó, đề cập đến nguy hiểm của giàu có, và khuyến khích sự từ bỏ để làm môn đệ Ngài.

c 19 – Trước tiên Đức Giêsu điều chỉnh cách nói của ông. Ông đã nói: “Thưa Thầy nhân lành”, Ngài điều chỉnh lại: “Chẳng ai nhân lành ngoài một mình Thiên Chúa”. Không phải Đức Giêsu phủ nhận thiên tính của mình, nhưng vì anh chưa biết thiên tính ấy nên làm như Ngài không phải là Thiên Chúa, và nhắc anh một tín điều quan trọng về sự tốt lành của Thiên Chúa mà thôi.

c 20 – Sau đó Đức Giêsu trích Xh 20,12-16 (Đnl 5,16-20) quy định những bổn phận đối với tha nhân và lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Đối với người bình thường, giữ bấy nhiêu thôi cũng tạm đủ để ‘được sự sống muôn đời’.

c 21-22 – Khi nghe người thanh niên cho biết đã tuân giữ những điều ấy từ nhỏ. Đức Giêsu bảo: “Ông chỉ còn thiếu có một điều”. Điều mà Đức Giêsu sắp nói ra không phải là bó buộc đối với hết mọi người, nhưng là mời gọi đối với một số người. Đó là: ‘bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”.

 – “Bán tất cả những gì ông có”: không dính bén.

 – “Phân phát cho người nghèo”: điều này được Đức Giêsu và GH đề cao (Cv 2,44 4,32-35).

 – “Theo tôi”: đây là điểm quan trọng nhất trong ba điểm. Người Do thái (và nhiều người thời nay) cho rằng giữ đạo là chỉ cần giữ đủ các điều luật. Đức Giêsu mời tiến thêm một bước quan trọng hơn nữa là theo Ngài.

c 23 – Nhưng người đó đã không đáp lại lời mời gọi đó, vì ông còn tiếc của.

c 24-27 Vai thứ hai trong câu chuyện này là dân chúng. Sau chuyện trên Đức Giêsu khuyến cáo họ về sự nguy hiểm của giàu có. Hình ảnh ‘con lạc đà chui qua lỗ kim’ hẳn nhiên chỉ là một hình ảnh cường điệu để cho thấy người giàu không thể nào tự mình vào Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên sau đó Ngài nói thêm một điều cũng không kém phần quan trọng: Thiên Chúa có thể làm được những điều người ta không thể làm. Đây cũng là một tư tưởng mà Lc nhiều lần nhấn mạnh (Lc 1,37). Vậy Thiên Chúa có thể cứu cả người giàu nữa, câu chuyện Dakêu là một thí dụ (19,8-10).

c 28-30 Vai trò thứ ba là các môn đệ mà Phêrô là người phát ngôn. Đây là những người đã đáp ứng tích cực với lời Đức Giêsu kêu gọi ở câu 22 (bán tất cả những gì mình có, phân phát cho người nghèo, rồi đi theo Đức Giêsu). Họ được thưởng gì?

 – Trong phần trả lời, trước hết Đức Giêsu liệt kê những gì mà người môn đệ từ bỏ: nhà, vợ, anh em; cha mẹ, con cái. Tóm lại là từ bỏ gia đình. Một chi tiết nhỏ: Lc ghi thêm chi tiết ‘bỏ vợ’ trong khi các Tin Mừng nhất lãm khác không ghi (14,26); sau đó Ngài cho biết phần thưởng, gồm hai điều:

a/ Đời này: họ sẽ được một gia đình đông đảo (‘gấp bội’) bù cho việc họ đã bỏ gia đình ự nhiên, một gia đình nhiều khi chia rẽ, thậm chí thù nghịch (12,52-53). Gia đình mới là cộng đoàn tín hữu.

b/ Đời sau: được sự sống vĩnh cửu. Đây cũng là điều vai thứ nhất (thủ lãnh) tìm kiếm (câu 18). Như thế, câu cuối cùng của câu chuyện cũng là câu trả lời cho câu hỏi ở đầu câu chuyện.

BÀI 78: BÁO TIN CHỊU NẠN LẦN THỨ BA (18,31-34)

31Đức Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: "Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. 32Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. 33Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại." 34Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói. 

------------------

Trong Mt và Mc, có ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc chịu nạn, còn trong Lc có tất cả 6 lần: 9,22 9,44 12,50 13,32-33 17,25 và ở đây. Điều này cho ta thấy cuộc chịu nạn có tầm quan trọng đặc biệt trong Tin Mừng Lc như thế nào. Như thế nói ‘loan báo lần thứ ba’ là để giống với các Tin Mừng nhất lãm kia. Nói cho đúng phải là ‘lần thứ ba loan báo long trọng’. Ta hãy so sánh lần này với những lần long trọng trước đó.

9,22 Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại.

9,44 Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.

Lần này có nhiều điểm khác biệt:

– Đức Giêsu nói với nhóm 12 (những lần trước thì nói với các môn đệ).

– Nói trong khung cảnh cuộc xuất hành lên Giêrusalem, và đây là lần đầu tiên Ngài chỉ rõ Giêrusalem là nơi Ngài hoàn tất cuộc xuất hành đó (những lần trước chỉ nói cách mơ hồ).

– Bảng liệt kê những đau khổ dài hơn (hãy so sánh lần thứ nhất với lần này).

– Có công thức dẫn nhập long trọng: “Tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất”: như thế cuộc chịu nạn này nằm sẵn trong kế hoạch mà Thiên Chúa đã định từ lâu.

– Lần này Đức Giêsu không nói rõ về những nhà lãnh đạo Do thái nữa (chỉ hiểu ngầm trong câu ‘sẽ bị nộp’. Mà ‘giao nộp’ này không nên hiểu theo nghĩa luật pháp hay cảnh sát, mà theo nghĩa thần học: Thiên Chúa giao nộp, Giuđa giao nộp, chình Đức Giêsu tự giao nộp), thay vào đó là ‘dân ngoại’. Lc cho dân ngoại đóng một vai trò trong cuộc chịu nạn (Cv 2,23).

– Và có kèm lời loan báo phục sinh ‘Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại’.

 Đoạn này kết thúc bằng đề tài ‘không hiểu’, một chủ đề quen thuộc trong Lc.

BÀI 79: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRIKHÔ (18,35-43)

35Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38Anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! " 39Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! " 40Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: 41"Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được." 42Đức Giê-su nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." 43Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. 

------------------

Đức Giêsu tiến đến chặng chót của cuộc hành trình lên Giêrusalem: tới thành Giêrikhô. Tại đây Đức Giêsu đã gặp gỡ 2 người đại diện cho 2 hạng người khác hẳn nhau: a/ Một anh mù, đại biểu của những người nghèo. b/ Dakêu, đại biểu của những người giàu. Cả hai đều được Đức Giêsu cứu. Chúng ta tìm hiểu câu chuyện người mù trước.


I- GIẢI THÍCH

c 35 Ở Mt 20,29 và Mc 10,46, câu chuyện này xảy ra khi Đức Giêsu ra khỏi Giêrikhô. Còn Lc thì ghi lúc Đức Giêsu vào thành này. Đây là cách Lc sắp xếp để sau đó còn nói tới chuyện Dakêu và dụ ngôn nhà quý tộc đi lãnh phong vương.

 – “Thành Giêrikhô”: Đức Giêsu đang đi theo hướng lên Giêrusalem, và do đó phải ngang qua thành Giêricô.

 – “Có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường”: Người mù bị coi là ở bên lề xã hội. Người mù này lại thê thảm hơn nữa vì quá nghèo phải quen đi ăn xin. Thân phận bị loại ra rìa xã hội được làm nổi bật thêm với chi tiết anh ta đang ở ‘bên vệ đường’.

c 37-38 Nhưng con người bị loại ra rìa xã hội này là một người đang tìm kiếm. Bởi đó khi nghe tin có Đức Giêsu người Nazarét đi ngang qua thì anh ta liền kêu cứu.

 – “Lạy ông Giêsu”: Trước hết anh gọi Ngài bằng tên thông thường.

 – “Con Vua Đavít”: Và liền sau đó anh lại gọi Ngài là ‘Con Vua Đavít’, tước hiệu bình dân của Đấng Mesia, dựa theo lời của ngôn sứ Natan (2Sm 7,1-17). Điểm đáng lưu ý là anh này tuy mù nhưng đã ‘thấy’ rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà ngôn sứ Natan tiên báo. Như thế lời kêu của anh cũng là một lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ.

c 39 –Thế nhưng những người theo Đức Giêsu lại la rầy và buộc anh im. Tại sao? Vì theo suy nghĩ thường tình, một kẻ ở ngoài rìa xã hội như anh mù không được phép quấy rầy một nhân vật quan trọng như Đức Giêsu, huống chi Ngài lại đang bận rộn với cuộc hành trình.

 – Nhưng anh càng kêu to hơn.

c 40 – Đức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến: cũng như lúc trước Ngài cho gọi những trẻ nhỏ bị xua đuổi đến, nay Ngài cũng gọi một kẻ ở ngoài rìa xã hội đến với Ngài.

c 41 Câu hỏi của Đức Giêsu có vẻ thừa ‘Anh muốn tôi làm gì cho anh?’. Nhưng Đức Giêsu tôn trọng tự do con người nên hỏi ý con người. Anh đáp: “Lạy Ngài xin cho tôi được thấy”. Tiếng ‘Chúa’ anh dùng là một chi tiết nữa về lòng tin của anh.

c 42 Đức Giêsu bảo anh thấy. Ngài còn nói thêm: ‘Lòng tin của anh đã cứu anh’: một động từ súc tích, không phải chỉ chữa lành bệnh tật phần xác mà còn mang ơn cứu rỗi cho linh hồn. Cũng giống như lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ loạn huyết (8,48). Động từ này cho thấy ý nghĩa đích thực của những phép lạ Đức Giêsu làm.

 – “Anh ta liền thấy được và đi theo Ngài”: ‘đi theo’ cũng là một động từ tả thái độ của người môn đệ.


II- Ý NGHĨA

1/ Tình trạng anh mù lúc đầu và lúc sau khác hẳn nhau: mù, ăn xin, ngồi, bên vệ đường… sang, đi theo Đức Giêsu.

2/ Câu chuyện này được đặt vào lúc quan trọng của cuộc hành trình lên Giêrusalem lại càng cho thấy rõ thái độ phải có của người môn đệ: phải mở mắt ra để thấy Đức Giêsu là ai và sứ mạng của Ngài là gì.

BÀI 80: ÔNG DAKÊU (19,1-10)

1Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! " 6Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! " 8Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." 9Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." 

------------------

Chuyện này còn mang ý nghĩa Ngôn sứ nghĩa là các cử chỉ và lời nói của Ngài, nhằm mạc khải một khía cạnh đặc biệt trong sứ mạng của Ngài.

c 2 “Một người tên là Dakêu”: (Lc ít khi nêu tên các nhân vật, ở đây Lc nêu tên Dakêu có lẽ vì có ngụ ý đặc biệt). Tên này có nghĩa là ‘Trong sạch’. Thật là mỉa mai vì Dakêu làm nghề thu thuế, một nghề khiến dân chúng khinh bỉ và coi là quân tội lỗi. Nhưng trước con mắt của Đức Giêsu, không nhất thiết là như vậy.

c 3 “Ông tìm xem Đức Giêsu là ai?: phép lạ chữa bệnh cho người mù ở Giêrikhô (18,35-43) đã được loan truyền đến tai Dakêu, nên ông muốn tìm gặp Ngài.

c 4 “Trèo lên cây vả”: cây này tuy to và cao, những những cành đầu tiên của nó lại thấp nên rất dễ trèo lên.

c 5 “Dakêu, liệu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”: câu này rất quan trọng, ta sẽ giải thích kỹ.

 – Đức Giêsu có thói quen hạ mình xin trước để rồi ban ơn cho người ta. Thí dụ: xin nước của một thiếu phụ Samaria (Ga 4) trong chuyện này, trong lời Ngài xin với Dakêu có tiếng ‘mau mau’ có vẻ Đức Giêsu đang đói khát lắm và cần được Dakêu giúp đỡ gấp. Thực ra Ngài đang nôn nóng cứu vớt một người tội lỗi.

 – “Hôm nay”: Lc thường nhấn mạnh đến khía cạnh ‘hôm nay’ của ơn cứu độ (2,11 3,22 5,26 13,32 23,43)

BÀI 81: DỤ NGÔN ÔNG VUA ĐI XA (19,11-27)

11Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi. 12Vậy Người nói: "Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: "Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến." 14Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.

15"Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. 16Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. 17Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. 18Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. 19Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.

20Rồi người thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. 21Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 22Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 23Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! 24Rồi ông bảo những người đứng đó: "Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. 25Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi! 26-"Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.

27"Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi."

------------------

I- GIẢI THÍCH

c 11 Hoàn cảnh của dụ ngôn này:

 a/ Đức Giêsu ‘đang ở gần Giêrusalem’, nghĩa là gần kết thúc cuộc hành trình lên Giêrusalem của Ngài.

 b/ Vào lúc gần kết thúc như thế, nhiều người ‘tưởng là triều đại Thiên chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi’ (Cv 1,6; Mc 10,37). Trong hoàn cảnh đó, Đức Giêsu nói dụ ngôn này để điều chỉnh quan niệm của người ta. Triều đại Nước Thiên Chúa chưa đến với cuộc Ngài vào thành Giêrusalem, cũng chưa đến với việc Ngài sống lại (Cv 1,6-11), cũng chưa đến với biến cố thành Giêrusalem bị tàn phá (21,20-28). Triều đại ấy sẽ chỉ đến một cách trọn vẹn khi Ngài Quang lâm và Phán xét.

c 12-14 Dụ ngôn gồm hai phần: Trong phần 1 (12-14), có một người quý tộc trẩy đi phương xa để được phong vương. Nhưng đồng bào của ông ghét ông nên cử một phái đoàn đi ngăn cản cuộc phong vương đó. Chi tiết này hợp với bối cảnh lịch sử thời đó: chính Hoàng đế Rôma phong vương cho các nước chư hầu. Năm thứ tư tr.cn. Arkêlao, con của Hêrôđê cả, cũng sang Rôma để được phong vương. Nhưng dân Do thái đã cử một phái đoàn 50 người sang Rôma ngăn cản. Phái đoàn này lại được sự hỗ trợ của 8.000 người Do thái sinh sống tại Rôma. Vì thế mà cuộc phong vương bất thành. Arkêlao không được làm vua mà chỉ được làm châu trưởng (ethnaque) miền Giuđê và Samari. Dù vậy Arkêlao cũng vẫn tàn ác nên dân lại cử một phái đoàn nữa đi khiếu nại, kết quả là Arkêlao bị cách chức năm 6 sau cn. (Flavius Josèphe, chiến tranh Do thái II, 80-98, 111-113). Sở dĩ Lc gợi lại chuyện này là nhằm ám chỉ dân Do thái không chấp nhận vương quyền của Đức Giêsu.

 – Trước khi đi, nhà quý tộc trao cho 10 người tôi tớ mỗi người một yến bạc, tức một số tiền tương đối nhỏ (tương đương 100 quan tiền, khoảng 3 tháng lương). Nhưng điều quan trọng là lệnh bảo họ sinh lợi ra.

c 15-27 Phần 2 (15-27) được Lc triển khai rộng hơn vì là phần quan trọng hơn, chứa đựng sứ điệp của dụ ngôn.

 – Arkêlao không được phong vương. Nhưng vị quý tộc trong dụ ngôn thì được. Sau khi trở về, tân vương gọi các người tôi tớ đến để nghe họ báo cáo về việc xử dụng các yến bạc. Người thứ nhất báo cáo yến bạc đã sinh lợi được 10 yến khác, người thứ hai làm lợi ra 5 yến nữa. Lời khen của ông vua đáng ta ngạc nhiên ở chỗ ông không chú ý đến số lượng lời thêm, cũng không để ý tới tài khéo của họ, mà chú ý tới lòng trung thành của họ: nhiều người khác đã không nhận vương quyền ông và còn ngăn cản ông, nhưng những người này vẫn trung thành. Vì thế ông thưởng họ: người sinh lợi 10 yến được cai trị 10 thành, người 5 yến 5 thành. Nghĩa là họ được chia sẻ quyền cai trị của ông.

 – Sau đó Lc chỉ nói thêm về người thứ ba, không nói chi đến 7 người còn lại (thói quen của Lc là chỉ nói tới 3 nhân vật trong mỗi câu chuyện. Ba nhân vật này đại diện cho tất cả mọi nhân vật). Người này không sinh lợi gì cả, lại còn biện luận rằng vì ôn chủ mình hà khắc và keo kiệt. Ở đây ta cũng hãy chú ý tới cách đối xử của ông vua: lấy lại yến bạc của hắn không phải để ông giữ mà để trao cho người đã có 10 yến, Chi tiết này chứng tỏ ông không chú ý tới tiền lời, nhưng chú ý tới cách nghĩ của tôi tớ về ông: ai trung thành với ông thì ông thưởng, còn ai bất trung thì ông phạt. Các yến bạc được giao chỉ là dịp để ông trắc nghiệm lòng họ mà thôi. Sau đó nhà vua trừng trị những kẻ phản đối việc phong vương của ông.


II- Ý NGHĨA DỤ NGÔN

1/ Ông vua trong dụ ngôn này chính là Đức Giêsu. Ngài khác các vua trần thế: Ngài được phong vương bởi Chúa Cha chứ không phải bởi một hoàng đế trần gian nào cả hoặc do sự ủng hộ của nhóm người nào cả, kể cả các môn đệ Ngài.

2/ Các tôi tớ là các tín hữu: ai trung thành với Ngài thì được chia sẻ quyền cai trị của Ngài.

3/ Trong bối cảnh đời Đức Giêsu, dụ ngôn vừa nhằm xóa tan ý tưởng Ngài sắp thiết lập vương quyền, vừa chuẩn bị tâm lý các môn đệ về sự vắng mặt (‘đi xa’) sắp tới của Ngài. Sở dĩ Đức Giêsu nói dụ ngôn này vì Ngài sắp vào thành Giêrusalem. Khi đó Ngài sẽ được tung hô như một vị vua. Nhưng Ngài muốn người ta hiểu rằng đó chưa phải là lúc Ngài thiết lập vương quyền. Vương quyền chỉ được thiết lập khi Ngài chịu chết trên thập giá, và sẽ được thiết lập trọn vẹn khi Ngài quang lâm trở lại.