19 Bài Thánh Hóa Gia Đình

1. Gia Ðình Cộng Ðoàn Sự Sống

Tòa Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết 

Phúc âm theo Thánh Mát-thêu viết: Các nhà chiêm tinh được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa (ông có ý định giết Chúa Hài Nhi) nên họ đã đi lối khác mà về nhà mình (2, 12). Bấy giờ, vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa thì đùng đùng nổi giận, ông sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (2, 16).

Vua Hê-rô-đê âm mưu giết hại Chúa Hài Nhi, vì sợ sệt, vì ích kỷ, vì tham quyền. Ông là một nhà độc tài, một bạo chúa, một đồ tể, một tên sát nhân. Ông đã sai người đi triệt hạ tất cả những đứa trẻ dưới hai tuổi tại Bê-lem và các vùng lân cận, vì sợ Hài Nhi mà các nhà chiêm tinh gọi là "Vua dân Do-thái mới sinh" sẽ tranh ngôi với ông (2, 21). Hê-rô-đê đã để lại cho hậu thế một hình ảnh đồi bại, xấu xa, độc ác của một tên đồ tể.

Những đứa bé vô gia đình

Thế giới của chúng ta hôm nay vẫn còn nhiều người xấu xa, đồi bại, sát nhân như vua Hê-rô-đê. Họ tìm mọi phương cách bất chính để giảm bớt trẻ em trên mặt đất. Họ gieo rắc sự sợ sệt, ích kỷ tàn ác trong các gia đình, nhất là trên các nam thanh, nữ tú. Trong số người thù của sự sống này, có các vua quan, các nhà lãnh đạo đất nước, những người đang cầm vận mạng các dân tộc, những nhà kinh tế, chính trị, giáo dục, những người làm công tác truyền thông v.v... Họ đặt điều kiện cho các nước nghèo để được viện trợ, họ bắt buộc các công nhân, viên chức hạ thấp số con, họ chủ trương phải giảm bớt thực khách, để gia tăng phần ăn của họ. Họ không ngần ngại phí phạm hằng triệu tỷ đồng để sản xuất vũ khí, để hội họp, để giao dịch hay công du. Mỗi năm, hằng triệu trẻ em đã bị giết trong bụng của người mẹ do nạn đặt vòng, nạo thai, sử dụng thuốc ngừa thai, triệt sản!

Tại Việt Nam, các nhà xã hội học ước tính số người nạo thai trong cả nước hằng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Năm 1997, tổng số sinh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì số nạo phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sinh 1.101.791 ca, số nạo phá thai 861.353, trong đó 13,4% người mẹ là thiếu nữ từ 15 đến 19 tuổi. Ðây mới chỉ là số thông kê nạo phá thai trong các cơ sở Nhà Nước, chưa tính đến các cơ sở tư nhân (x. Tạp chí Thông Tin Dân Số, số 3.2002, tr. 33). Ðể phát triển kinh tế, người ta rầm rộ khuyến khích việc chăn nuôi: chim trời, cá biển, gia súc và dã thú càng nhiều càng lợi và càng hay. Nhưng người ta lại làm ngược lại đối với loài người!

Tại một nước nọ, để gây ý thức cho nhân dân về tính kinh khủng của nạn sát nhi, người ta đã xây dựng một nghĩa trang cho những thai nhi, thu lượm được ở các bệnh viện. Mỗi ngày, có đến hàng trăm đám tang được chôn cất. Và không bao lâu, nghĩa trang này đã đầy chật người! Thật là kinh khủng! Công Ðồng Vatican 2 đã dạy: "Sự sống ngay từ lúc thụ thai phải được gìn giữ hết sức cẩn thận. Phá thai và sát nhi là những tội ác ghê gớm" (Hiến chế Mục Vụ số 51)

Gia đình, nơi bảo vệ sự sống

Ðược tin ác vương Hê-rô-đê đang tìm cách để sát hại Hài Nhi, thánh Giu-se và Ðức Ma-ri-a hối hả, đang đêm, mang Ngài sang tị nạn bên Ai-cập. Hai ông bà ở lại đó cho đến khi tên bạo chúa băng hà. Thế là, nhờ gia đình, Chúa Hài Nhi đã được cứu sống. Sự sống đã được ban trong gia đình, được bảo vệ và bênh vực nhờ gia đình, được lớn lên, vững mạnh và phát triển với gia đình. Gia đình đúng là cộng đoàn của sự sống.

Theo sách Sáng Thế, thì khi tạo dựng, Thiên Chúa, Ðấng ban sự sống, đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài: "Ngài tạo dựng họ là nam và là nữ. Ngài đã chúc lành và đã phán bảo họ: Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy làm bá chủ trên mọi sinh vật" (x. St 1, 27 - 28). Thế là Thiên Chúa đã tạo dựng con người và thiết lập gia đình để lưu truyền sự sống trên mặt đất và cai quản nó. Ngài đã chúc lành cho đôi hôn nhân: là người nam và người nữ và đã dạy họ sinh con cái.

Ðó là ý định của Thiên Chúa ngay từ buổi đầu. Phẩm giá và danh dự của gia đình là được lãnh nhận và trao ban lại sự sống. Vì sự sống là ân huệ cao quý nhất của Thiên Chúa nên việc sinh con cái của người chồng và người vợ là hành vi tuyệt diệu và tuyệt mỹ của gia đình. Vì vậy, đừng ai, vì sợ, vì ích kỷ hay vì vô luân, mà dã tâm sát hại trẻ con như vua Hê-rô-đê. Hãy bảo vệ, bênh vực và phát huy sự sống. Ðồng thời, hãy chú trọng đến phẩm chất: sống có tư cách, có bản lĩnh, có văn hóa; sống cho ra người và hơn nữa, đối với người Ki-tô hữu chúng ta, sống như những người con của Thiên Chúa, "hoàn thiện như Chúa Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5, 48).

Gia đình có trách nhiệm

Ðược sứ thần báo tin vua Hê-rô-đê đang tìm cách giết Hài Nhi, ông Giu-se và bà Maria đã vội vã mang con sang tị nạn bên Ai-cập. Họ ra đi, vì trách nhiệm, để bảo vệ sự sống của đứa con, bất chấp mọi gian nguy, khổ nhọc. Việc truyền sinh là ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa, nên không có một cá nhân hay quyền lực nào được sửa đổi hay ngăn chận tiến trình phát triển tự nhiên của nó. Sử dụng những phương tiện khoa học để tránh việc thụ thai, hủy hoại những cơ quan truyền sinh, triệt sản hay nạo thai là xúc phạm đến định luật của Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng con người.

Nhưng song song với mệnh lệnh truyền sinh này, Thiên Chúa cũng đã ban cho con người quyền làm chủ (x. St 1, 28). Với quyền làm chủ này, họ phải chế ngự và điều hòa có trách nhiệm việc sinh sản của họ trong tình yêu và sự kính trọng lẫn nhau, theo khả năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái của họ và trong bối cảnh xã hội họ đang sống. Họ phải là những người tự do, có nhân cách, bản lĩnh và trách nhiệm trong việc sinh con cái.


2. Gia Ðình Chiếc Nôi Văn Hóa Ðức Tin (I)

Nữ tu Tê-rê-xa Phạm Thị Oanh, Dòng Ða-minh Tam Hiệp 

Phần Dẫn Nhập

Trong Huấn Thị "Thử Tìm Một Hướng Mục Vụ Cho Vấn Ðề Văn Hóa" của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, 1999, số 14 đã trích dẫn "Thư Gửi Các Gia Ðình", 1994, số 7 (ÐGH. Gioan Phaolô.II) như sau: "Tựa như chiếc nôi của tình yêu và sự sống, gia đình cũng là nguồn cội của văn hóa. Gia đình chính là nơi nghênh đón sự sống và là trường dạy nhân bản, trong đó các cặp vợ chồng tương lai cần được huấn luyện hết sức chu đáo để làm nên cộng đồng gia đình."

Huấn Thị còn nhấn mạnh thêm: "Gia đình phải lo bảo vệ vai trò căn bản của mình là làm môi trường ưu tiên giúp con người và xã hội được nhân bản hóa" vì "Tương lai nhân loại thế nào là tùy vào chỗ mọi người có được phát triển nhân bản đầy đủ và có liên đới với nhau hay không?" (Populorum progressio, số 42)"

Chúng ta nhận thấy Giáo Hội rất quan tâm và đề cao giá trị nhân bản trong các gia đình. Vậy cuộc sống nhân bản theo quan điểm Ki-tô Giáo là gì? Ðó có phải là nơi gặp gỡ và hội nhập giữa văn hóa và Ðức Tin hay không? Theo tinh thần Huấn Thị của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, chúng tôi muốn nhìn lại Công đồng Vatican 2 qua Hiến chế "Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay" (GS), Phần II, chương I và chương II về Phẩm Giá của Hôn Nhân Gia Ðình và Phát Triển Văn Hóa.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi xin được đề cập đến hai nét căn bản trong văn hóa gia đình mà Công đồng đã đặc biệt nhấn mạnh đó là: sự sống và tình yêu (GS 49, 50), để góp phần "Xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình" (FC 7) trong một thế giới đang phải chọn lựa giữa văn hóa sự sống và sự chết, giữa văn minh tình thương và ích kỷ.

Ðây chính là một trong những thách đố niềm tin nghiêm trọng mà các gia đình Công Giáo Việt Nam cũng như toàn cầu đang phải đối diện. Vấn đề là trong khi "con người chỉ có thể thực hiện được nhân tính đích thực và trọn vẹn của mình nhờ văn hóa" (GS 53), thì chính "nền văn hóa cũng đang vương tội lụy" (Fides et ratio, 71). Vì thế, nó cần phải được các gia đình Ki-tô hữu phân định và hiểu đúng ý nghĩa của việc hội nhập văn hóa là "biến đổi sâu xa các giá trị văn hóa đích thực bằng cách cho chúng hội nhập vào Ki-tô Giáo và đưa Ki-tô Giáo hội nhập vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại" (Redemptoris missio, 52) vì "Ðức Tin mà không trở thành văn hóa là Ðức Tin chưa được chấp nhận hoàn toàn, chưa được suy cho thấu và chưa được sống tới cùng." (ÐTC Gioan Phaolô II, Thư thành lập Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa ngày 20.5.1982).

Hy vọng khi các gia đình Công Giáo Việt Nam sống đúng bản chất của mình là chiếc nôi văn hóa sự sống và tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, mọi thành viên trong gia đình có thể nhận ra lời mời gọi của Ðức Tin, sống Ðức Tin và chuyển trao ánh sáng Ðức Tin như một tin mừng hy vọng, cách hiệu quả ngay trong môi trường sống tràn ngập bóng tối hiện nay.

Sau đây là 3 phần chính của đề tài:

I. Gia Ðình - Chiếc Nôi Văn Hóa Sự Sống Và Tình Yêu

Nếu "văn hóa là phương cách đặc thù mà mỗi người và mỗi dân tộc dựa vào để tổ chức các quan hệ của mình với thiên nhiên, với anh chị em đồng loại, với bản thân mình và với Thiên Chúa, để có một cuộc sống nhân bản trọn vẹn" (GS 53), thì gia đình chính là chiếc nôi văn hóa của một đời người vì văn hóa chỉ có thông qua con người, nhờ con người.

Chiếc nôi văn hóa gia đình là hình ảnh của lòng mẹ được gọi một cách trang trọng là "tử cung" nơi bào thai được hình thành, là vòng tay ẵm, là nhịp võng ru, là đầu gối mẹ cha, là nơi người con được hấp thụ toàn bộ sinh hoạt nhân bản: sinh hoạt trí tuệ và tình cảm, việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, các phong tục tập quán và luân lý của con người. Nói cách khác, mỗi người đón nhận từ gia đình một vòng đời văn hóa: yêu thương, phục vụ, hiếu đễ, tang tế; trong đó, sự sống và tình yêu là hai nét văn hóa cơ bản và cần thiết nhất để con người được hiện hữu và trưởng thành nhân cách.

Chúng ta sẽ lần luợt tìm hiểu về hai nét văn hóa sự sống và tình yêu trong văn hóa gia đình của truyền thống dân tộc Việt Nam và nguồn văn hóa Ki-tô Giáo qua những lời giáo huấn của Hội Thánh từ Công đồng Vatican 2 cho tới nay.


II. Văn Hóa Sự Sống:

A. Truyền Thống Văn Hóa Gia Ðình Việt Nam:

Tự bản chất, gia đình là nơi con người được sinh ra, được bảo vệ và được thăng tiến sự sống. Truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam vừa bộc lộ nét văn hóa quý trọng sự sống căn bản của đời người trong việc sinh sản, vừa nuôi dưỡng nét đẹp văn hóa ấy trong giáo dục gia đình để con người được phát triển về thể chất và nhân cách đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh cho dân tộc.

1. Con Rồng cháu Tiên : Câu chuyện Bà Âu Cơ sinh 100 con là một huyền sử dựng nước có nhiều ý nghĩa, mang tính biểu tượng cho một nền văn hóa phát triển sự sống để một dân tộc trở nên hùng mạnh, đoàn kết, và kiên cường mở mang đất nước. Cổ nhân thường dùng hình ảnh để dạy con cháu, thần thoại Rồng Tiên là bóng dáng của lịch sử tô điểm cho các giá trị truyền thống.

Theo Ðông Phong, tác giả cuốn Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam thì Rồng Tiên thực chất là niềm tự hào của dân tộc, là tinh hoa của văn hóa, là cơ sở giáo dục của tiền nhân. "Rồng" là biểu hiện cho sức mạnh biến hóa, hợp thời, vận may, hy vọng. Còn "Tiên" biểu hiện sự thanh khiết, viên mãn, trường sinh và hạnh phúc (x. Ðông Phong, VHCTVN, nxb. Mũi Cà Mau, 1998)

2. Những lời chúc: "Trùng trùng bách tử thiên tôn" hay "đa tử, đa tôn", "phúc, lộc, thọ"... Ðó là những lời chúc tốt đẹp cao quý nhất người ta thường trao cho nhau vào những dịp lễ đặc biệt của một đời người như ngày tân hôn và trong ngày đầu năm khi đi thăm viếng các gia đình thân nhân họ hàng. Truyền thống này nói lên khát vọng hạnh phúc của từng con người là mong được sống lâu bên đàn con cháu đông đúc làm thành "tứ đại đồng đường". Nói chung, khát vọng sống và sợ chết luôn nằm trong bản chất của con người. Ðó là khát vọng tâm linh hình thành nên nền văn hóa tôn trọng sự sống, phục vụ sự sống của người Việt Nam qua truyền thống Ðạo Hiếu:

"Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con."

Cũng theo tác giả Ðông Phong thì nét đặc biệt trong Văn Hóa gia đình Việt Nam là "chăm sóc con cái và phụng dưỡng người già". Vì thế mà ca dao, tục ngữ, truyện cổ Việt Nam luôn đề cao những bậc cha mẹ hy sinh nuôi nấng con cái, và con cái hiếu thảo với Cha Mẹ, Ông Bà, tôn kính những người cao tuổi. (Nhị Thập Tứ Hiếu, Lục Vân Tiên, Truyện Kiều...). Ðồng thời, văn học dân gian cũng luôn kết tội những người gian ác, bất hiếu. (Truyện Tấm Cám, Tích Chu,...).


B. Truyền Thống Ki-tô Giáo Về Văn Hóa Sự Sống:

Dựa vào những bản văn Thánh Kinh, Ki-tô Giáo giúp cho nền văn hóa sự sống được vươn tới những tầm mức siêu việt khi tin nhận rằng: Thiên Chúa chính là sự sống, Ngài làm chủ sự sống và cho con người tham dự vào công trình sáng tạo của Ngài. Vì thế, Giáo Hội luôn đề cao giá trị của hôn nhân gia đình như "cung thánh sự sống" và không ngừng lên tiếng bảo vệ quyền sống của con người.

1. Truyền thống tôn trọng và phục vụ sự sống

Công Ðồng Vatican 2 tuyên bố: "Hôn nhân và tình yêu vợ chồng tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt" (St 2, 18) Ngài là Ðấng: "...từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ rồi nói: "Các ngươi hãy tăng gia sinh sản" (St 1, 28)" (GS 50).

Thiên Chúa còn ban giới răn "Không được giết người" (Mt 5, 21) hiểu như một sự tôn trọng sự sống và làm cho sự sống thêm phong phú; nhất là khi Ðức Giê-su tuyên bố: Ngài đến là để làm cho chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10); ngày Sa-bát là để làm cho sống chứ không phải để giết chết (x. Mt 12, 12); và sự chết của Ngài cũng chính là để cho chúng ta được sống sự sống viên mãn. (Rm 6, 4)

2. Truyền thống bảo vệ quyền sống của con người

Ðứng trước thế lực toàn cầu của nền văn minh sự chết đang khủng bố sự sống ngay từ khi mới chớm nở, đánh mất lương tâm tập thể, Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều trong việc giáo dục văn hóa sự sống cho các gia đình từ Công đồng Vatican 2 trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng (GS), Thông Ðiệp Sự Sống Con Người của Ðức Phao-lô 6, 1968 (HV); Huấn Thị Ơn Ban Sự Sống của Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, 1987; Sách Giáo lý Công Giáo (FD), 1992. Riêng Ðức Gio-an Phao-lô 2, trong triều đại Giáo Hoàng, đã ban Tông Huấn: Familiaris consortio, 1981 (FC); Thông Ðiệp Veritatis splendor, 1993; Thông Ðiệp Centesimus annus, 1991 (CA); Thư Gửi Các Gia Ðình, 1994; đặc biệt là Thông Ðiệp Tin Mừng về Sự Sống, 1995; và Huấn Thị Con Cái Mùa Xuân của Gia Ðình, 1998.

Giáo Hội không ngừng lên tiếng bảo vệ quyền sống của con người, đặc biệt đối với trẻ thơ: "Nhờ ánh sáng của lý trí và không quên tác động âm thầm của ân sủng, bất cứ ai thành thật mở lòng cho sự thật và sự thiện đều có thể nhận ra, trong luật tự nhiên ghi khắc nơi tâm hồn (x. Rm 2, 14 - 15), giá trị thánh thiêng của sự sống con người từ lúc chào đời cho đến hồi kết thúc. Sự sống con người đến từ Thiên Chúa. Ðó là quà tặng của Ngài, là hình ảnh và là dấu ấn của Ngài, là sự thông phần vào hơi thở ban sức sống của Ngài. Cho nên, Thiên Chúa là Ðức Chúa duy nhất của sự sống ấy: loài người không có quyền quyết định trên sự sống đó. Sự sống con người là ân phúc hàng đầu của nhân loại mà tất cả mọi người chúng ta phải bảo vệ.

Thế nên Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền quả quyết rằng: "Mọi cá nhân đều có quyền sống" và Hiến Chương Các Quyền của Gia Ðình của Toà Thánh (1983) xác nhận rằng: "Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ ngay từ giây phút thành thai" (Ð.4). "Do đó trước cũng như sau khi sinh ra, trẻ thơ có quyền bảo vệ và chăm sóc đặc biệt" (Ð. 4d). Vì thế đối với Giáo Hội, "phá thai là một tội ác khủng khiếp, tương tự việc giết hại trẻ thơ." (x. Huấn Thị Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, 1998)

3. Gia đình là "cung thánh sự sống"

Giáo Hội luôn nhìn nhận rằng: Ơn ban sự sống được nối liền với gia đình vốn là "cung thánh của sự sống". Ðó là ý định của Thiên Chúa, từ khi tạo dựng, không những chỉ bằng sự cộng tác vào công trình tạo dựng ở lúc thụ thai, nhưng còn kéo dài suốt quá trình giáo dục (như một cuộc đồng tạo dựng toàn diện), là một quá trình phải làm cho mỗi con trẻ, mỗi nhân vị lớn lên theo hình ảnh Thiên Chúa, và giống như Ngài, nghĩa là theo như hình tượng tối hảo là chính Chúa Ki-tô...

Gia đình là nơi mà nền văn hóa sự sống phát sinh, nơi mà sự sống được công bố khi thụ thai, như một tin phúc hạnh trong Chúa Ki-tô, nơi mà sự sống được tôn dương và nơi kiến tạo tương lai cho nhân loại, một nhân loại được coi như trung tâm điểm và trái tim của nền văn minh tình yêu (Lời Giới Thiệu Thông Ðiệp Tin Mừng về Sự Sống của Ðức Hồng Y A.I. Trujillo Chủ Tịch. HÐTT về Gia Ðình).


III. Văn Hóa Tình Yêu:

A. Truyền Thống văn Hóa Gia Ðình Việt Nam:

1. Nền văn hóa đề cao tình yêu chân chính

Hình ảnh quen thuộc nhất đối với dân tộc Việt Nam khi nói về gia đình, đó là "Chiếc nôi tình yêu", "Mái ấm hạnh phúc". Gia đình được hình thành trong tình yêu và là nơi trao nhận tình yêu. Qua truyện cổ Công Chúa Tiên Dung và Chử Ðồng Tử, Sự Tích Trầu Cau, và truyện Ông Táo cho thấy: khi chưa bị ảnh hưởng nặng nề của phong kiến dưới ách lệ thuộc gần một ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã có những quan niệm về hôn nhân gia đình rõ rệt chính xác, đó là duyên nợ và tình yêu. Duyên nợ mang tính duy tâm huyền bí, tình yêu là yếu tố quyết định đi tới hôn nhân.

2. Nền văn hóa đề cao tình yêu tự do và lễ giáo

Hôn nhân tự do trong lễ giáo là khát vọng của tình yêu nam nữ trong hôn nhân Việt Nam. Gia đình yêu thương, hòa thuận, thủy chung, thuần nhất và gắn bó với đại gia đình cha mẹ, gia tộc và dân tộc. Nghi thức cưới hỏi của truyền thống văn hóa Việt Nam đã diễn tả ý nghĩa cao quý này qua biểu tượng: trầu cau, cặp đèn, mâm quả, lời nguyện trước gia tiên, những lời cầu chúc trăm năm hạnh phúc,... Hôn nhân gả bán, ép buộc có giá trị pháp lý thời xưa, nhưng là phi luân lý, phi đạo đức... gặp chống đối từ chính nội tâm đương sự và cả dư luận sáng suốt phản ánh trong tục ngữ: "Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên". Tình yêu đã đem lại vô số những tác phẩm lớn trong văn học trí thức cũng như những câu ca dao bình dân. (x. Ðông Phong, sđd): "Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua." Và: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể Ðông cũng cạn".


B. Truyền Thống Ki-tô Giáo Về Văn Hóa Tình Yêu:

1. Hôn nhân là một giao ước tình yêu

Sống yêu thương là điều kiện để trở nên người Ki-tô hữu: "Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 14, 33), và Hôn nhân Ki-tô giáo cũng là một giao ước của tình yêu giữa hai người nam nữ. Họ cam kết yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt đời để thăng hoa tình yêu trong việc sinh con cái.

2. Tình yêu hôn nhân bất khả phân ly

Trong Hiến chế Gaudium et spes, số 48 đã viết về đời sống hôn nhân gia đình như sau: "Bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kếp hợp với nhau bất khả phân ly."

Trong Thánh Lễ Hôn Phối, Hội Thánh đã lấy lời Thánh Phao-lô để khuyên dạy: "Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Ðức Ki-tô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để Người thánh hóa Hội Thánh" (Ep 5, 25 - 26). "Chính vì thế, người nam sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Ki-tô và Hội Thánh." (Ep 5, 31 - 32)

Qua phần trình bày trên, chúng ta nhận thấy rằng: Sự sống, tình yêu là điểm chung gặp gỡ của nền nhân bản đích thực và Giáo Lý Ðức Tin Ki-tô Giáo vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và đã khắc sâu trong tâm hồn mỗi người lòng khao khát hướng về cội nguồn sự sống và tình yêu là chính Ngài.

Nhìn vào sự phát triển của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt qua đời sống chứng nhân của các Thánh Tử Ðạo và nếp sống Mục Vụ Giáo Xứ sinh động như hiện nay, chúng ta nhận thấy rõ hơn rằng: chiếc nôi truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam rất thích hợp để đón nhận văn hóa Tin mừng Sự Sống và Tình Yêu của Ki-tô giáo.


3. Gia Ðình Chiếc Nôi Văn Hóa Ðức Tin (II)

Nữ tu Tê-rê-xa Phạm Thị Oanh, Dòng Ða-minh Tam Hiệp 

Hiện nay các gia đình Công Giáo Việt Nam đang phải đối diện với hai thực tại liên quan đến Ðức Tin đó là bổn phận bảo vệ sự sống và trung thành trong tình yêu hôn nhân. Ðây là hai vấn đề nghiêm trọng mà Công đồng đã đề cập tới 40 năm trước vì nó là một trong những khó khăn lớn của con người trong xã hội đô thị hóa, hiện đại hóa. Vấn đề là chiếc nôi gia đình đang thay đổi từ nền văn hóa nông nghiệp sang nền văn hóa công nghiệp. Tương quan gia đình lỏng lẻo dần và những giá trị đạo đức luân lý truyền thống đang nhường bước cho quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và sức thu hút của các phương tiện truyền thông hiện đại.

Vì thế, trong phần này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến khía cạnh: "Con người là tác giả của văn hóa" (GS 55), như một gợi ý giúp các gia đình Công Giáo sống Phúc Âm giữa một xã hội đang bị đe dọa bởi sự toàn cầu hóa của nền văn minh hưởng thụ. Muốn thế, các gia đình cần khẳng định lập trường của mình để thể hiện Ðức Tin qua nếp sống văn hóa nhân bản để xây dựng nền văn hóa sự sống và tình yêu theo ý Thiên Chúa dưới sự hướng dẫn của Công Ðồng Vatican 2.


I. Những thách Ðố Ðức Tin Về Văn Hóa Sự Sống:

A. Hướng dẫn của Công Ðồng:

1. Sinh sản có trách nhiệm

Truyền sinh là sứ mệnh của đời sống gia đình, cha mẹ được cộng tác với tình yêu của Ðấng Tạo Hóa và diễn tả tình yêu của Ngài. Nhiều người lầm tưởng rằng Giáo Hội Công Giáo không quan tâm đến vấn đề bùng nổ dân số và nỗi khổ của những gia đình đông con, nhưng thực ra Công Ðồng đã khuyên các bậc cha mẹ sinh sản có trách nhiệm. Họ phải có một phán đoán ngay thẳng: tôn trọng và tuân phục ý Chúa, đồng tâm hiệp ý với nhau, nhận định hoàn cảnh sống, lợi ích của gia đình, xã hội và Giáo Hội trong vấn đề sinh con. Ðiều này luôn cần đến tinh thần hy sinh và quảng đại. (x. GS 49).

2. Nhận sự hỗ trợ của khoa học

Nhờ những thành quả của y học, hiện nay Giáo Hội khuyên các bậc cha mẹ: "Tiết dục định kỳ theo phương pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai" vì nó phù hợp với tiêu chuẩn khách quan của luân lý (x. FD 2370), để có thể hạn chế số con khi điều kiện kinh tế và nghề nghiệp không cho phép.

Tại nhiều Giáo Xứ, trong những lớp học chuẩn bị hôn nhân gia đình, các đôi bạn trẻ đã có những giáo trình và được học hỏi, hướng dẫn về những phương pháp này để có thể sinh con có trách nhiệm theo hướng dẫn của Giáo Hội. Những gia đình biết sống đức khiết tịnh trong hôn nhân đã áp dụng thành công những phương pháp này. Nhờ đó họ càng thăng tiến hơn trong tình yêu và hạnh phúc gia đình.

B. Thách Ðố Và Cám Dỗ Trong Xã Hội Hiện Ðại:

Tuy nhiên trong những năm gần đây do tác động quá nhanh của những biến chuyển xã hội, chiếc nôi gia đình đang bị nền văn hóa sự chết choáng ngợp, nhiều bậc cha mẹ bị khủng hoảng Ðức Tin trầm trọng nhất là khi phải chọn lựa ý muốn của Thiên Chúa về những giá trị của sự sống.

1. Sự toàn cầu hóa của nền văn minh hưởng thụ

Xã hội hiện nay đề cao cá nhân chủ nghĩa, đề cao những quyền lợi riêng tư và lạc thú của cá nhân. Người ta quan niệm tình dục là hưởng thụ nên một số không ít bạn trẻ đã tự do quan hệ trước hôn nhân. Nhiều nhà kinh doanh đã khai thác sự yếu đuối của con người về phương diện này qua những dịch vụ mãi dâm với nhiều hình thức văn hóa không lành mạnh. Cũng có một số gia đình vì áp lực kinh tế và nghề nghiệp muốn hạn chế việc sinh con mà không muốn giữ đức khiết tịnh hôn nhân...

Tất cả những lý do đó đã dẫn đến hệ quả coi thường sự sống nơi nhiều người. Họ không còn xem sự sống là một quà tặng nữa, trái lại họ đã cho mình có quyền làm chủ sự sống, "quyền có con" và tiếp tay xây dựng nếp sống văn hóa "man rợ" là phá hủy sự sống. (Chú thích của Ephata Việt Nam: Hình ảnh khủng khiếp kèm theo ở đây là tài liệu ảnh của giáo sư Ðỗ Tấn Hưng từ Pháp gửi về, chụp tại một tiệm ăn cao cấp của Trung quốc với người đầu bếp đang chuẩn bị "món nhậu" là một thai nhi mới lấy từ bệnh viện phụ sản về. Theo một người gốc Hoa quen biết với chúng tôi, đây là món ăn đại bổ có tên là "Tử Hà Xa").

2. Sự toàn cầu hóa chương trình kế hoạch hóa gia đình

Từ tâm trạng mất ý thức tôn trọng sự sống, cộng thêm với chương trình kế hoạch hóa gia đình của Hội Ðồng Dân Số thế giới ngày một phổ biến khắp nơi, nhiều người đã dùng những hình thức khác nhau để ngừa thai, điều hòa kinh nguyệt, hút điều hòa, phá thai, giảm thai. Vấn đề nạo phá thai của thanh thiếu niên tại Việt Nam đang có khuynh hướng ngày một tăng cao, con số nạo phá thai hàng năm xấp xỉ với tổng số cháu bé được sanh ra trên toàn quốc.

Năm 1997, tổng số sanh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sanh lấy 1.101.791 ca, thì nạo phá thai là 861.353 ca. Trong đó có 13, 4 % là "bà mẹ - trẻ con" từ 15 - 19 tuổi ( giai đoạn 1885 - 1996, theo báo Sức Khỏe và Ðời Sống số 75 ). Riêng bệnh viện Từ Dũ mỗi năm có trên 40.000 ca nạo phá thai ( 1997: 41.104 ca. 1998: 34.130 ca. Sáu tháng đầu 1999: 29.236 ca ). Con số nhiễm trùng, sót nhau, thủng tử cung do nạo phá thai cũng không nhỏ, năm 1997 là 1.669 ca; 1998: 4.447 ca.

Các nhà xã hội học ước tính số người nạo phá thai trong cả nước hàng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai lớn nhất thế giới. (Chú thích của Ephata Việt Nam: Hình ảnh dã man kèm theo ở đây là tài liệu ảnh của giáo sư Ðỗ Tấn Hưng từ Pháp gửi về, chụp tại một tiệm ăn cao cấp của Trung quốc với "món ăn" là Bào Thai tiềm thuốc Bắc).

Trên thực tế, lương tâm nhiều người không còn nhạy bén với sự nghiêm trọng của tội ác đó. Thái độ chấp nhận ngừa thai và phá thai trong các não trạng, trong tập quán, và ngay cả trong luật pháp, chính là một dấu chỉ cho thấy có sự khủng hoảng văn hóa truyền thống và suy giảm đạo đức trầm trọng trong xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay.

C. Thái Ðộ Của Các Gia Ðình Công Giáo Việt Nam:

1. Một sự lựa chọn sinh tử

Ðứng trước sự khác biệt giữa văn hoá Ðức Tin Công Giáo và văn hoá quảng đại quần chúng, nhiều Ki-tô hữu đã bị chao đảo vì "trong khi nền văn hoá hiện nay bảo rằng sử dụng các biện pháp ngừa thai nhân tạo là hành động có trách nhiệm, giúp cho hôn nhân hạnh phúc hơn và xã hội tốt đẹp hơn, thì Giáo Hội Công Giáo lại duy trì lập trường cho rằng các biện pháp ngừa thai luôn luôn là sai lầm và phá hoại hôn nhân và xã hội một cách khủng khiếp" (Christopher West, Những Biện Pháp Ngừa Thai).

Vấn đề là họ phải lựa chọn giữa văn hóa sự sống và sự chết như Lời Chúa phán: "Ta cầu Trời chứng dám cho ngươi hôm nay, rằng Ta đã đặt trước ngươi sự sống và sự chết, lời chúc phúc và lời nguyền rủa, vì thế ngươi hãy chọn lấy sự sống." (Ðnl 30, 19). Nhưng có rất nhiều lý do khiến nhiều gia đình đã âm thầm lựa chọn sống theo "văn hóa ngừa thai" vì họ cảm thấy bất lực trước những khó khăn của gia đình họ. Một số khá đông thiếu ý thức về tội: vì không biết hay vì môi trường sống không được sự hướng dẫn của Giáo Hội. Số khác có ý thức đầy đủ nhưng vì nghề nghiệp hoặc phải chiều ý chồng, nếu không, chồng sẽ sa ngã vào tệ nạn xã hội.

2. Một thực trạng mầu đen hay mầu vàng?

Trên thực tế, qua việc trao đổi với chị em phụ nữ, các nhân viên y tế cộng đồng và một số các linh mục thì được biết: hơn 90% phụ nữ Công Giáo Việt Nam trong thời gian có thể sinh nở đã dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo đang được quảng cáo trên thị trường tiêu thụ. Nói chung các gia đình chưa được hướng dẫn đầy đủ về tình yêu và đức khiết tịnh hôn nhân để có thể tự chủ sống tiết dục định kỳ theo hướng dẫn của Giáo Hội (x. FD 2370). Ðây là vấn đề nhậy cảm của lương tâm mà các vị chủ chăn tại nhiều nơi đành phải làm ngơ bỏ ngỏ sau khi đã giải thích cho đương sự lập trường không thay đổi của Giáo Hội về việc tôn trọng sự sống.

Tiếp đến là vấn đề phá thai, trong tư vấn và những nghiên cứu nơi các bạn trẻ cho thấy: số các em gái trong các gia đình Công Giáo tới những nơi giúp phá thai cũng không ít và có khi chính cha mẹ đã gây áp lực cho con phải "giải quyết" vì sợ ảnh hưởng đến danh dự của gia đình. Trong tương lai, thực trạng này sẽ đi tới đâu nếu các gia đình Công Giáo không đủ Ðức Tin để xây dựng nền nhân bản đích thực về tin mừng sự sống cho mình và cho xã hội? Chúng ta có thể liên tưởng tới Lời Chúa: "Khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy niềm tin trên địa cầu nữa không?" (Lc 18, 8)

Tuy nhiên, nếu chúng ta đã có dịp lắng nghe những thao thức từ trái tim đến trái tim của nhiều thành phần, giai cấp trong xã hội, chúng ta sẽ nhận thấy rằng: từ đáy sâu nội tâm, người ta vẫn khao khát được sống, được yêu và muốn trở về, muốn thoát ra khỏi sự trống rỗng vô nghĩa của nền văn hoá sự chết. Vì thế, ánh sáng sự sống hy vọng của ơn cứu độ vẫn đang ló rạng từ cuối chân trời của màn đêm xã hội hôm nay.


II. Những Thách Ðố Ðức Tin Về Văn Hóa Tình Yêu:

A. Hướng Dẫn Của Giáo Hội:

1. Tình yêu chân chính

Ai cũng tôn trọng tình yêu chân chính mang đặc tính nhân linh, nhân vị và tự nguyện. Nó phù hợp với mọi phong tục lành mạnh của mọi thời đại, mọi dân tộc. Tình yêu chân chính vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy và hưởng thụ ích kỷ vốn mau tan biến và để lại những hậu quả thảm hại. Lời Chúa mời gọi những người sắp kết hôn hãy nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sạch và những người đã thành vợ thành chồng hãy nâng đỡ cuộc sống lứa đôi bằng một tình yêu không chia sẻ.

Tình yêu chân chính sẽ được quí trọng hơn và người ta sẽ nghĩ tưởng về hôn nhân cách lành mạnh hơn, nếu các vợ chồng Ki-tô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong tình yêu cũng như trong việc ân cần giáo dục con cái, nếu họ góp công chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội. (x. GS 49)

2. Xây dựng một cộng đồng nhân vị

Ðể khai triển ý Công Ðồng về tình yêu, hôn nhân gia đình, trong Tông Huấn FC số 18, Ðức Gio-an Phao-lô 2 đã viết:

"Gia đình được thiết lập do tình yêu, là một cộng đồng ngôi vị: đôi vợ chồng, là cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị.

Nguyên lý nội tại, sức mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng của một sức mạnh như thế chính là tình yêu. Cũng như không có tình yêu, gia đình không phải là một cộng đồng các ngôi vị, thì cũng thế, không có tình yêu, gia đình không thể tồn tại, phát triển và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng các ngôi vị...

Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất ý nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không có kinh nghiệm về tình yêu và nếu không nhận lấy kinh nghiệm ấy làm của mình và hăng say dự phần vào đó."

B. Thách Ðố và Cám Dỗ

1. Một thực tại đau lòng trong đời sống văn hóa tại Việt Nam

Trong xã hội Việt Nam ở mọi thời đại đều thấy cảnh: lầu xanh, đa thê, tảo hôn, bán trinh để báo hiếu cha mẹ, loạn luân, đồng tính ái, đặc biệt là tệ nạn mãi dâm ngày nay đang xuất hiện dưới nhiều dạng thức: nhà hàng, cà-phê, Karaoke, xông hơi, xoa bóp, vũ trường, chat group trên Internet,... Ngoài ra nhiều hình thức văn hóa phẩm đen đã khiến nhiều bạn trẻ ngộ nhận cho rằng tình yêu chỉ là sự cuốn hút của cảm xúc, chiếm hữu, tình dục, tiền tài, thương hại. Tình trạng yêu sớm, yêu thử, yêu ào ào theo phong trào, yêu như điên, yêu hết mình xẩy ra nơi học sinh cấp 2, 3, và trong giới sinh viên ngày một tăng. Ðó phải chăng là những nhân tố làm nên một dòng nhạc "vô cảm" và "não tình" mà dư luận quần chúng trên báo chí gần đây đã đề cập đến khá nhiều:

"Tình yêu đến em không mong đợi gì.

Tình yêu đi em không hề nuối tiếc."

2. Tiếp đến là nhiều cặp sống chung không đăng ký kết hôn

không muốn có con để tránh trách nhiệm. Nhiều gia đình được hình thành trong một cam kết hời hợt lợi dụng lẫn nhau. Tất cả những vấn đề đó đã dẫn đến tỉ lệ ly dị ngày một tăng. Theo thống kê của Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Sài-gòn năm 2000, thì mỗi ngày trung bình có 32 vụ ly hôn trên địa bàn của 22 quận huyện. Ngoài ra còn tình trạng bạo hành trong gia đình về mặt thể chất, tinh thần và tình dục cũng rất phổ biến trong nhiều gia đình ở thành phố cũng như ở thôn quê.

Tuy nhiên, đó chỉ là sự yếu đuối của cá nhân và mục đích của một số những tổ chức kinh doanh đặt lợi nhuận trên nhân phẩm con người, còn đa số nhận thức người dân Việt hiện nay vẫn đề cao và thao thức đi tìm một tình yêu chân chính trong hôn nhân gia đình.

C. Thái Ðộ Của Các Gia Ðình Công Giáo Việt Nam:

Hiện nay, gia đình Công Giáo Việt Nam vẫn còn được xã hội quí trọng và đánh giá cao về tính bền vững của hôn nhân. Tại các Giáo Xứ, chương trình mục vụ giáo lý Ðức Tin, sinh hoạt các đoàn thể: thiếu nhi, hiền mẫu, gia trưởng, huynh đoàn Ða-minh, các Lớp Chuẩn Bị Hôn Nhân Gia Ðình, chia sẻ Lời Chúa, những tuần tĩnh tâm, những giờ Kinh Tối đã hỗ trợ cho đời sống nhân bản và Ðức Tin của các gia đình Ki-tô hữu rất nhiều. Tuy nhiên, trong cơn lốc của thời đại, nhiều gia đình đang phải đối diện với những thách đố đa dạng về Ðức Tin trong khi xây dựng tình yêu chân chính, yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt đời.

1. Cam kết hời hợt trong hôn nhân

Một số không ít bạn trẻ lập gia đình khi chưa đủ thời gian để nhận diện một tình yêu chân chính, các bạn vội vàng kết hôn do những nhu cầu hưởng thụ cá nhân, lợi nhuận vật chất và những yếu tố xã hội nhiều hơn tình yêu quảng đại hy sinh cho nhau theo mẫu gương của Chúa Ki-tô và Giáo Hội.

Vì thế, nhiều gia đình không sống trung thực với nhau và tôn trọng những khác biệt của nhau. Nhiều gia đình không thể tha thứ cho nhau để có thể truyền thông với nhau, hòa giải những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong việc tổ chức đời sống gia đình và giáo dục con cái. Vì thế gia đình của họ không hạnh phúc, và từ đó dẫn đến những tệ nạn xã hội.

2. Ngoại tình và ly thân

Như một số gia đình khác trong xã hội, từ những cam kết hời hợt thiếu tình yêu và ý thức trách nhiệm trong hôn nhân, nên một số gia đình Công Giáo cũng đang gặp khó khăn khi một trong hai người ngoại tình. Hoặc nếu người vợ biết người chồng của mình đã tìm đến những dịch vụ mãi dâm, họ thật khó lòng tha thứ vì sợ lây bệnh xã hội. Trường hợp này cũng thường dẫn đến một hình thức ly thân trong các gia đình.


4. Gia Ðình Chiếc Nôi Văn Hóa Ðức Tin (III)

Nữ tu Tê-rê-xa Phạm Thị Oanh, Dòng Ða-minh Tam Hiệp 

Ðứng trước những thách đố Ðức Tin trong xã hội hiện nay, thiết nghĩ đây là một thời điểm mà các gia đình Công Giáo Việt Nam cần nhiều khôn ngoan, hiểu biết để biện phân và chọn lựa thái độ sống nói lên căn tính hôn nhân Ki-tô Giáo: một cộng đồng của sự sống và tình yêu. Vì thế, hơn lúc nào hết, họ phải làm chứng cho xã hội nhận ra rằng: gia đình họ chính là chiếc nôi của tình yêu và sự sống, nhờ đó, họ được hưởng niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực. Khi đó, Ðức Tin của gia đình đã trở thành Văn Hóa Tin Mừng giúp con người và xã hội được nhân bản hóa. Hiện nay con số những gia đình chứng nhân này tuy còn rất khiêm tốn nhưng họ đang nỗ lực hoạt động rất mạnh mẽ để nhân lên những điểm sáng giữa trời đêm, để thắp lên niềm hy vọng về sự sống và tình yêu viên mãn mà con người thời đại hôm nay đang khao khát.

Thực ra, tự bản chất, hôn nhân gia đình Ki-tô Giáo luôn thể hiện văn hóa Ðức Tin, một Ðức Tin được bộc lộ qua thái độ yêu thương, tôn trọng sự sống và trung thành với nhau suốt đời. Chính trong gia đình con người được ngụp lặn trong không khí sự sống và tình yêu, mỗi người chân thành hy sinh cho nhau hơn là chỉ nhận những rung cảm của con tim.

Sự sống và tình yêu đã trở thành xương thịt của con người và hầu như không thể mất đi được, nó chỉ bị lu mờ do tác động của những biến chuyển của nền văn hóa vật chất, hưởng thụ ích kỷ. Do đó, nếu có sự tương quan hợp tác giữa gia đình, Giáo Hội và xã hội, các gia đình Công Giáo có thể gìn giữ được vẻ đẹp Ðức Tin của mình và sẽ lan toả Ánh Sáng Ðức Tin ra môi trường chung quanh như một Tin Mừng Hy Vọng.

Vì thế, để có những gia đình đậm nét Văn Hóa và Ðức Tin, trong phần này chúng tôi xin nhìn lại tầm quan trọng của giáo dục trong gia đình và Chương Trình Mục Vụ tại các Giáo Xứ, Giáo Phận - những "Gia Ðình Ðức Tin" có một ảnh hưởng rất cụ thể và cần thiết cho đời sống Ðức Tin của các Ki-tô hữu trong lãnh vực hôn nhân gia đình.


I. Tầm Quan Trọng Của Việc Giáo Dục Văn Hóa Và Ðức Tin Trong Gia Ðình:

A. Hướng Dẫn Của Giáo Hội:

-  Công Ðồng Vatican 2 trong Tuyên ngôn về Giáo Dục Ki-tô Giáo đã viết như sau: "Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu xót sẽ khó lòng bổ khuyết được."

-  Từ nguồn mạch của Công Ðồng, Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình tiếp tục hướng dẫn: "Sứ mạng giáo dục đòi hỏi cha mẹ Ki-tô hữu giới thiệu cho con cái tất cả những gì cần thiết cho nhân cách, từng bước trưởng thành theo quan điểm Ki-tô Giáo và Hội Thánh. Sứ mạng giáo dục của gia đình, nơi mà Tin Mừng được rao truyền và tỏa chiếu, sẽ đạt tới chỗ chính đời sống gia đình trở thành con đường dẫn tới niềm tin, và một cách nào đó, đóng vai trò dẫn vào đời sống Ki-tô hữu và là trường huấn luyện làm môn đệ Chúa Ki-tô.

Trong gia đình, tất cả mọi thành viên đều là người loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng... Một trong những lãnh vực không ai có thể thay thế gia đình chắc chắn đó là việc giáo dục Ðức Tin. Công việc này giúp cho gia đình phát triển như là "Giáo Hội tại gia". Việc giáo dục Ðức Tin và dạy Giáo Lý cho con cái đặt gia đình trong Giáo Hội như một phần tử tích cực loan báo Tin mừng và làm tông đồ đích thật (Huấn Thị Con Cái Là Mùa Xuân Của Gia Ðình và Xã Hội, của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, 1998)

B. Truyền Thống Giáo Dục Văn Hóa Ðức Tin Trong Gia Ðình Việt Nam:

-  Ðối với truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam, giáo dục gia đình còn gọi là "gia giáo" có vị trí quan trọng nhất trong gia đình. Ðó là công việc "dạy người nên người". Công việc này khởi đầu ngay từ khi con người được thành hình trong lòng mẹ gọi là "thai giáo". Ðây cũng là một lý do mà người Ðông phương chúng ta tính tuổi đời người trội hơn người Tây phương một năm. Cha ông ta rất trọng gia giáo và quan niệm rằng: Nước có muôn nhà, nhưng mỗi nhà có một nền giáo dục riêng. Nước có một mục đích giáo dục chung nhưng không thừa nhận một khuôn mẫu chung, vì thế mỗi gia đình phải xây dựng gia giáo cho riêng mình, đặc biệt là lễ giáo, đạo hiếu.

-  Trong đời sống hằng ngày, cha mẹ chính là thầy cô giáo đầu tiên và cũng là người mẫu đời thường của con. Vì thế, trong việc giáo dục Ðức Tin, giáo dục giới tính, giáo dục lòng hiếu thảo trong gia đình đều thông qua gương sống của cha mẹ. Tất cả tâm tình, thái độ, lời nói, việc làm tích cực hay tiêu cực của cha mẹ đều ảnh hưởng đến con ngay từ khi còn ở trong thai cho đến khi con chào đời và qua từng chặng đường lứa tuổi của con, tạo nên nếp nghĩ, nếp cảm, nếp sống, nếp nhà, hình thành nên gia đạo, gia cương, lễ nghĩa gia phong của từng gia đình.

-  Nếu con cái được lớn lên trong bầu khí Ðức Tin sống động của gia đình: thường xuyên nghe những lời cầu nguyện của cha mẹ, được cha mẹ dậy cầu nguyện, được nhắc nhở về những ơn lành và sự hiện diện của Chúa, được động viên học hỏi Giáo Lý, tham dự Thánh Lễ, sinh hoạt Hội Ðoàn, được chứng kiến đời sống Ðức Tin cụ thể của cha mẹ qua những chọn lựa sống yêu thương và hy sinh cho nhau mỗi ngày, con cái sẽ nhập tâm lối sống Ðức Tin đó vào cuộc sống của riêng nó trong xã hội.

Nhiều người trưởng thành hiện nay rất xúc động khi nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình được mẹ dạy cúi đầu trước Bàn Thờ, bắt tay dạy làm Dấu Thánh Giá: "Khi con đặt tay trên trán, con hãy nghĩ đến Trời là Cha dựng nên con, khi con đặt tay trên ngực là chỗ trái tim con hãy dục lòng mến Chúa Chúa Giê-su là Thiên Chúa làm người, khi con đặt tay bên trái và bên phải, con nghĩ đến Chúa Thánh Thần xin Ngài ban sức mạnh phù hộ con. Khi đọc Amen, con xếp tay hình Thánh Giá và hôn lấy Ơn cứu độ của con."

Lòng đạo đức bình dân đã tạo nên bầu khí Ðức Tin bao trùm cả một ngày sống của gia đình: đọc kinh sáng "dâng mình cho Chúa", đọc kinh tối "xin ơn chết lành", rồi khi hắt hơi mẹ ân cần xoa và cầu: "Ðức Bà chữa con", khi gặp đau khổ mẹ khuyên "bằng lòng chịu khó cho nên", ngay cả khi chơi thì cũng được răn dạy: "Thiên đàng hỏa ngục hai bên,..." Nhờ đó, đời sống của họ hiện nay không bị ảnh hưởng cơn lốc vật chất, trái lại, họ rất nhiệt thành làm chứng Ðức Tin cho những người chung quanh.

C. Những Khó Khăn Trong Giáo Dục Gia Ðình Việt Nam Hiện Nay:

-  Trong nền văn hóa công nghiệp khi tất cả mọi thành viên trong gia đình đều phải chạy đua với học hành, nghề nghiệp để khẳng định bản thân và ổn định kinh tế, không còn thời giờ dành cho nhau, nên vấn đề giáo dục gia đình đang gặp rất nhiều khó khăn và bế tắc. Mỗi thành viên trong gia đình tự hội nhập và bị lệ thuộc vào những nguồn văn hóa đa dạng trong môi trường sống của mình: học đường, văn hóa phẩm, ti-vi, phim ảnh, internet... Bên cạnh những nguồn văn hóa lành mạnh, cũng có những văn hóa hưởng thụ, văn hoá "tình yêu tự do" hay "tự do tính dục"... Vì thế, nếu cha mẹ không có những chọn lựa ưu tiên cho vấn đề giáo dục con cái thì cái giá phải trả sẽ như thế nào?

-  Ðặc biệt là vấn đề giáo dục giới tính, trong khi con cái mình đang tiếp cận với nhiều hình thức "giáo dục sức khỏe sinh sản", "giáo dục ngừa thai an toàn", cha mẹ sẽ dạy con cái như thế nào để chúng không cho rằng "phương pháp tiết dục" hay "Ðức Khiết Tịnh Hôn Nhân" của Giáo Hội thật "lạc điệu" với văn hóa quần chúng? Cha mẹ có ý thức đảm nhận bổn phận giáo dục giới tính và giúp con cái nhận từ chính mình những nguyên tắc cơ bản và những khuôn mẫu sống thích hợp thông qua những tương quan tin tưởng và chân thật không? Cha mẹ có linh động, tế nhị và khôn ngoan để giải thích cho con từng bước hiểu về tâm sinh lý của chúng để chúng không phải tự khám phá nơi những văn hóa phẩm sex?

Ðồng thời cha mẹ có giúp cho con cái biết phân định những hình thức giáo dục giới tính không thích hợp với sự hướng dẫn của Giáo Hội không? Nếu chính cha mẹ cũng đang hòa nhập vào lối sống "tự nô lệ hóa" của nền "văn hóa ngừa thai" ấy thì còn có thể giáo dục Ðức Tin cho con cái được không?

-  Một số không ít bạn trẻ do không được giáo dục tối thiểu về nền Văn Hóa Ðức Tin tôn trọng tình yêu và sự sống nên đã gặp nhiều khó khăn để nhận diện và chọn lựa một tình yêu chân chính, xây dựng một gia đình yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt đời. Vấn đề là mỗi ngày một nhiều hơn những gia đình không tự chu toàn được bổn phận giáo dục "đạo đức tính dục Công Giáo". Cuộc sống của họ bị tác động của nền văn hóa xã hội hơn được ảnh hưởng những lời giáo huấn của Giáo Hội.

Vậy ai sẽ là người hỗ trợ cho các gia đình nếu không phải là những "Gia Ðình Ðức Tin" đã ý thức được sứ mạng loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu của mình?


II. Sự Hỗ Trợ Của Gia Ðình Giáo Xứ Và Giáo Phận:

A. Hợp Tác Xây Dựng Một Nền Nhân Bản Ðích Thực Về Gia Ðình:

Theo Linh Mục Giáo Sử Học Ðỗ Quang Chính: "Nếu văn hóa Tin Mừng chưa thấm nhập vào văn hóa gia đình Việt Nam, thì phải chăng Tin Mừng mới tiếp nhận ở cái vỏ hay cái ngọn, chứ chưa chui vào trong, chưa tiếp cận với cái gốc của xã hội Việt Nam. Quả thật, nhờ việc Giáo Hội đã hòa nhập được phần nào vào nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam, nên trải qua bao thăng trầm, Tin Mừng ở xứ này vẫn đứng vững và sống động."

Vì thế, sự hợp tác để "xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình" phải là một trong những bổn phận mục vụ ưu tiên cấp bách của các Giám Mục, các Linh Mục, các Nam Nữ Tu Sĩ, các Giáo Dân chuyên môn trong các Giáo Xứ Và Giáo Phận (x. FC 73 - 76).

Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia đình đã ghi nhận như sau: "Công tác mục vụ nầy triển khai rất nhanh. Như Ðức Gio-an Phao-lô 2 đã nói với Ðại Hội chúng tôi. "sau khi công bố Tông Huấn FC, thì sự quan tâm trong Giáo Hội đối với các gia đình được củng cố hẳn lên; nhiều giáo phận và các giáo xứ đặt mục vụ gia đình lên mục tiêu hàng đầu" (x. Thông Ðiệp ngày 21.11.2001 của Ðức Thánh Cha).

B. Ðường Hướng Cụ Thể Của Giáo Hội Việt Nam:

Trong thư Mục Vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 2002, các vị Chủ Chăn đã chọn hôn nhân gia đình như mục tiêu ưu tiên trong năm 2003 và đề nghị những việc làm cụ thể như:

- Cấp Giáo Phận nên có Văn Phòng Mục Vụ về Hôn Nhân và Gia Ðình.

- Cấp Giáo Xứ nên tổ chức lớp học hỏi về hôn nhân gia đình dựa trên Tông Huấn FC, thành lập bộ phận chuyên trách về gia đình trong Ban Mục Vụ Giáo Xứ với sự cộng tác của các Hội Ðoàn, và tổ chức những dịp lễ kỷ niệm thành hôn, những dịp giao lưu giữa các gia đình...

- Cần soạn thảo một chương trình Giáo Lý Hôn Nhân, đào tạo một đội ngũ giáo viên vững vàng, kêu gọi sự hợp tác của Giáo Dân có khả năng chuyên môn và kinh nghiệm...

C. Một Vài Ðề Nghị Giáo Dục Văn Hóa Sự Sống Và Tình Yêu:

1. Giáo dục sinh sản có trách nhiệm

Theo mục đích của đề tài, chúng tôi xin gợi ý về nội dung giáo dục văn hóa sự sống và tình yêu trong chương trình Giáo Lý Hôn Nhân, cũng như những hình thức sinh hoạt Mục Vụ khác: các lớp Giáo Lý Ðức Tin cơ bản, Hội Ðoàn, nhóm Chia Sẻ Lời Chúa, những câu lạc bộ: tình bạn, tình yêu, gia đình hạnh phúc, điểm phim, điểm sách,... Một trong những nội dung đó là vấn đề: "Sinh sản có trách nhiệm" vì nó liên quan đến Ðức Tin một cách trực tiếp và có ảnh hưởng sâu sắc đến tình yêu chung thủy và hạnh phúc gia đình.

Dựa vào những bản văn Kinh Thánh, Hiến Chế GS, Tông Huấn FC, Sách Giáo Lý Công Giáo FD, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi mở cho các bạn trẻ, và các gia đình trẻ trao đổi, thắc mắc về vấn đề này một cách tự nhiên theo những suy nghĩ, hiểu biết và quan điểm mà họ đang có. Nhờ đó chúng ta có thể chia sẻ cho họ thông điệp:

"Ngừa thai đã biến sự phối hợp tính dục từ một nhiệm tích thánh, thành ra một sự phạm thánh" và "Các biện pháp ngừa thai đã không được phát minh ra nhằm mục đích tránh có thai. Ðã có cách thức thực hiện hiệu quả: đó là phương pháp tiết dục... Các biện pháp ngừa thai đã được phát minh ra là để làm thỏa mãn bản năng tính dục. Như người ta thường nói: nhu cầu là mẹ của phát minh. Cái nhu cầu đẻ ra các biện pháp ngừa thai ấy chính là "nhu cầu đòi hỏi tính dục của chúng ta." (Christopher West, Good News about sex and marriage - giải đáp thắc mắc dựa trên giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo).

Tiếp đến chúng ta cũng nên mời những chuyên gia đến hướng dẫn về phương pháp "tự quan sát" theo thời gian không thể thụ thai của phụ nữ để các gia đình có thể sống an bình và hạnh phúc thực sự khi giữ đức khiết tịnh trong hôn nhân.

Thiết nghĩ, "sinh sản có trách nhiệm" theo hướng dẫn của Giáo Hội là vấn đề giáo dục giới tính rất quan trọng cho người trưởng thành. Ðây là vấn đề tế nhị nhưng lại rất bức xúc trong các gia đình. Nếu chúng ta đọc báo Công Giáo và Dân Tộc số 1380, trang 21 về vấn đề ngừa thai thì 90% những người được hỏi (27 / 30) cho rằng đó là vấn đề thuộc lương tâm cá nhân. Nhưng đâu là lương tâm chân chính vì phần lớn những người sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo cũng cho rằng họ "muốn sinh sản có trách nhiệm".

Như thế là cùng dùng một cụm từ nhưng hai thái độ chọn khác nhau: tin Thiên Chúa hay tôn thờ mình? Vì thế, các Giáo Lý Viên trong những lớp Giáo Lý Hôn Nhân Gia Ðình cần nắm vững và giải thích vấn đề đó một cách rõ ràng dưới ánh sáng Ðức Tin và trong tinh thần cầu nguyện, sống Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Vì nếu không giải quyết được vấn đề then chốt này thì không thể có một tình yêu chân chính và chung thủy trong các gia đình.

Trái lại khi niềm tin được củng cố, các gia đình Công Giáo sẽ là những chứng nhân rất hiệu quả cho nền văn hóa sự sống và tình yêu của Thiên Chúa giữa trào lưu văn hóa ngừa thai đang tràn ngập trong xã hội. Hội Ðồng Giáo Hoàng về gia đình đã ghi nhận: "Hoạt động của mục vụ gia đình qua các chứng tá cho thấy rất nhiều gia đình Ki-tô hữu được trở nên sinh động nhờ tình yêu và chân lý về gia đình. Họ hăng hái làm chứng cho Tin Mừng như Ðức Thánh Cha nói: Trong sự khiêm tốn và đơn sơ, chứng tá đời sống gia đình có thể là phương tiện hàng đầu cho công tác Phúc Âm hóa "

2. Giáo dục Ðức Tin và nhân bản

Thực tế, nhiều vị Mục Tử đã than phiền rằng: thật không dễ để có thể giúp giới thanh niên và trưởng thành sống Ðức Tin: yêu mến, tôn trọng văn hóa sự sống và tình yêu theo ý Thiên Chúa và Giáo Hội. Thiết nghĩ đây là một lý do mời gọi chúng ta suy nghĩ lại việc giảng dậy Giáo Lý, nội dung chương trình Giáo Lý và lối sống đạo của các Ki-tô hữu hiện nay.

Nếu người tín hữu: các em thiếu nhi, các bạn trẻ, các gia đình chưa nhận ra hạnh phúc được làm con Thiên Chúa, được sống dưới sự hiện diện của Ngài, và chưa cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Ðức Ki-tô thì sứ vụ của các Giáo Lý Viên và các vị Mục Tử thực sự chưa hoàn thành. Quả thực chỉ có Ðức Tin mới có thể giúp người ta từ bỏ chính mình để chọn lựa trở nên môn đệ của Ðức Ki-tô (x. Lc 14, 33).

Chỉ có Ðức Tin mới giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ để sống trong tinh thần tự do đích thực của con cái Thiên Chúa. Vì thế cần đẩy mạnh chương trình Giáo Lý Ðức Tin các cấp: 1, 2, 3, 4, 5..., giúp mọi tín hữu ý thức tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Ki-tô, đồng thời cần thêm về giáo dục nhân bản để mọi người biết sống vui và thể hiện Ðức Tin một cách trưởng thành.

3. Một vài đề nghị cụ thể:

1. Chương trình Giáo Lý các cấp cần được soạn theo sát sách Giáo Lý Công Giáo (FD). Ðây là một kho tàng Ðức Tin mà Giáo Hội đã cập nhật hóa sau Công Ðồng Vatican ba mươi năm. Vì thế, nó phải là cuốn sách cẩm nang của tất cả các Giáo Lý Viên vì những vấn đề về văn hóa Ðức Tin sự sống và tình yêu liên quan đến gia đình đều tìm thấy ở nguồn phong phú đó.

2. Nên có một chương trình Giáo Lý hôn nhân thống nhất. Hiện nay có một số nhóm đã và đang soạn nội dung chương trình học theo Tông Huấn FC và Sách Giáo Lý Công Giáo FD. Ðề nghị Ban Mục vụ về hôn nhân gia đình nên tham khảo lấy ý kiến và soạn một chương trình thống nhất trong từng giáo phận và có thể trong toàn Giáo Hội Việt Nam. Ðây là công việc rất cần thiết vì hai nguồn tài liệu trên sẽ giúp người tín hữu thể hiện Ðức Tin của mình trong đời sống phái tính (FD 2332), đức khiết tịnh (FD 2337) và tình yêu vợ chồng (FD 2361) một cách hiệu quả.

3. Nội dung giáo dục nhân bản có thể xen kẽ vào các tiết học Giáo Lý hoặc tổ chức riêng trong những buổi nghe nói chuyện chuyên đề, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của từng giới để giúp các bậc cha mẹ ý thức giáo dục giới tính cho con. Ngoài ra, một nét đẹp văn hóa khác nên khuyến khích và duy trì đó là bữa ăn tối và giờ kinh tối trong gia đình, nó mang tính giáo dục Ðức Tin và nhân bản rất cụ thể và hiệu quả cao.

4. Khuyến khích sự hợp tác của Giáo Dân. Theo hướng dẫn của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, và đường hướng cụ thể của Hội Ðồng Giáo Mục Việt Nam, thiết nghĩ Văn Phòng Mục Vụ về Hôn Nhân Gia Ðình, cấp Giáo Phận và Giáo Xứ nên có sự hợp tác rất chặt chẽ của mọi thành phần Dân Chúa. Nên phát hiện tiềm năng của người Giáo Dân, trân trọng, mời gọi sự hợp tác của họ không chỉ trong chuyên môn nhưng cả trong vai trò lãnh đạo để họ ý thức đẩy mạnh sứ vụ rao giảng trong lãnh vực riêng của họ nơi đời sống gia đình.

Phần Kết Luận

Nhìn lại 40 năm dấu ấn Công Ðồng Vatican 2, Giáo Hội mở ra với thế giới, hội nhập vào các nền văn hóa để nhân bản hóa con người theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, trở nên một người con trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðó là điều làm cho cho con người vượt trên mọi nền văn hóa, trở nên thước đo của văn hóa và không bị giam hãm trong bất cứ một nền văn hóa nào.

Thiết nghĩ, hai nét Văn Hóa Sự Sống và Tình Yêu mà Công Ðồng đề cập đến trong hôn nhân gia đình là chính tiếng nói của Chúa Thánh Thần đã tác động để canh tân các nền văn hóa hiện đại tôn thờ lợi nhuận vật chất và bản năng hưởng thụ. Do đó hướng Mục Vụ Văn Hóa của Giáo Hội là tìm ra được những điểm chung trong tâm thức con người hướng về nguồn sống và tình yêu, đồng thời thức tỉnh con người ra khỏi cơn cám dỗ lấy mình làm trung tâm, đối lập với Thiên Chúa. Nhờ đó, các gia đình sẽ có được hạnh phúc đích thực theo ý muốn của Thiên Chúa.

Ðức Giê-su Ki-tô luôn chúc lành cho các gia đình, vì từ nguồn cội sự sống và tình yêu trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, Ngài chính là Lời tác sinh sự sống cho toàn thể vũ trụ. Trong mầu nhiệm nhập thể, Ngài cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình để hoàn tất Ơn Cứu Ðộ ban lại sự sống cho con người. Ðặc biệt hơn là Ngài đã yêu nhân loại đến nỗi nhận Giáo Hội là hiền thê của Ngài để sinh ra các tín hữu và sai đi loan báo về tin mừng sự sống và tình yêu.

Ðứng trước nền Văn Hóa Tự Do Tính Dục đang phá đổ tình yêu và hạnh phúc nơi các gia đình, Chúa Giê-su tiếp tục kết hợp với từng Giáo Phận, Giáo Xứ, làm thành những Gia Ðình Ðức Tin và sai các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ, các Ki-tô hữu thiện chí tới phục vụ các gia đình và mời gọi các thành viên trong gia đình tham gia vào Chương Trình Cứu Ðộ của Thiên Chúa.

"Hãy cứu lấy gia đình", giúp các gia đình giữ được vẻ đẹp bản chất của mình. Vì chính sự sống và tình yêu thiêng liêng cao quý của gia đình có sức chữa lành mọi vết thương, đem lại sự bình an và niềm vui đích thực cho mỗi người. (Kinh nghiệm tư vấn những trường hợp thất tình, tuyệt vọng).

Ngoài ra hình ảnh gia đình trong tinh thần Kinh Lạy Cha chính là nguồn động lực hỗ trợ sứ vụ truyền giáo của chúng ta và cũng là cội nguồn mọi khát vọng tâm linh của con người hướng về (Kinh nghiệm truyền giáo cho lương dân và tiếp xúc với các bệnh nhân ung thư đang hấp hối).

Tin tưởng nơi Ðức Giê-su Ki-tô, chúng ta cùng hợp tác giúp các gia đình thắp sáng niềm tin và hy vọng để làm chứng cho sự hiện diện yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa đang ở giữa con người.


4. Gia Ðình Chiếc Nôi Văn Hóa Ðức Tin (III)

Nữ tu Tê-rê-xa Phạm Thị Oanh, Dòng Ða-minh Tam Hiệp 

Ðứng trước những thách đố Ðức Tin trong xã hội hiện nay, thiết nghĩ đây là một thời điểm mà các gia đình Công Giáo Việt Nam cần nhiều khôn ngoan, hiểu biết để biện phân và chọn lựa thái độ sống nói lên căn tính hôn nhân Ki-tô Giáo: một cộng đồng của sự sống và tình yêu. Vì thế, hơn lúc nào hết, họ phải làm chứng cho xã hội nhận ra rằng: gia đình họ chính là chiếc nôi của tình yêu và sự sống, nhờ đó, họ được hưởng niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực. Khi đó, Ðức Tin của gia đình đã trở thành Văn Hóa Tin Mừng giúp con người và xã hội được nhân bản hóa. Hiện nay con số những gia đình chứng nhân này tuy còn rất khiêm tốn nhưng họ đang nỗ lực hoạt động rất mạnh mẽ để nhân lên những điểm sáng giữa trời đêm, để thắp lên niềm hy vọng về sự sống và tình yêu viên mãn mà con người thời đại hôm nay đang khao khát.

Thực ra, tự bản chất, hôn nhân gia đình Ki-tô Giáo luôn thể hiện văn hóa Ðức Tin, một Ðức Tin được bộc lộ qua thái độ yêu thương, tôn trọng sự sống và trung thành với nhau suốt đời. Chính trong gia đình con người được ngụp lặn trong không khí sự sống và tình yêu, mỗi người chân thành hy sinh cho nhau hơn là chỉ nhận những rung cảm của con tim.

Sự sống và tình yêu đã trở thành xương thịt của con người và hầu như không thể mất đi được, nó chỉ bị lu mờ do tác động của những biến chuyển của nền văn hóa vật chất, hưởng thụ ích kỷ. Do đó, nếu có sự tương quan hợp tác giữa gia đình, Giáo Hội và xã hội, các gia đình Công Giáo có thể gìn giữ được vẻ đẹp Ðức Tin của mình và sẽ lan toả Ánh Sáng Ðức Tin ra môi trường chung quanh như một Tin Mừng Hy Vọng.

Vì thế, để có những gia đình đậm nét Văn Hóa và Ðức Tin, trong phần này chúng tôi xin nhìn lại tầm quan trọng của giáo dục trong gia đình và Chương Trình Mục Vụ tại các Giáo Xứ, Giáo Phận - những "Gia Ðình Ðức Tin" có một ảnh hưởng rất cụ thể và cần thiết cho đời sống Ðức Tin của các Ki-tô hữu trong lãnh vực hôn nhân gia đình.


I. Tầm Quan Trọng Của Việc Giáo Dục Văn Hóa Và Ðức Tin Trong Gia Ðình:

A. Hướng Dẫn Của Giáo Hội:

-  Công Ðồng Vatican 2 trong Tuyên ngôn về Giáo Dục Ki-tô Giáo đã viết như sau: "Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu xót sẽ khó lòng bổ khuyết được."

-  Từ nguồn mạch của Công Ðồng, Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình tiếp tục hướng dẫn: "Sứ mạng giáo dục đòi hỏi cha mẹ Ki-tô hữu giới thiệu cho con cái tất cả những gì cần thiết cho nhân cách, từng bước trưởng thành theo quan điểm Ki-tô Giáo và Hội Thánh. Sứ mạng giáo dục của gia đình, nơi mà Tin Mừng được rao truyền và tỏa chiếu, sẽ đạt tới chỗ chính đời sống gia đình trở thành con đường dẫn tới niềm tin, và một cách nào đó, đóng vai trò dẫn vào đời sống Ki-tô hữu và là trường huấn luyện làm môn đệ Chúa Ki-tô.

Trong gia đình, tất cả mọi thành viên đều là người loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng... Một trong những lãnh vực không ai có thể thay thế gia đình chắc chắn đó là việc giáo dục Ðức Tin. Công việc này giúp cho gia đình phát triển như là "Giáo Hội tại gia". Việc giáo dục Ðức Tin và dạy Giáo Lý cho con cái đặt gia đình trong Giáo Hội như một phần tử tích cực loan báo Tin mừng và làm tông đồ đích thật (Huấn Thị Con Cái Là Mùa Xuân Của Gia Ðình và Xã Hội, của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, 1998)

B. Truyền Thống Giáo Dục Văn Hóa Ðức Tin Trong Gia Ðình Việt Nam:

-  Ðối với truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam, giáo dục gia đình còn gọi là "gia giáo" có vị trí quan trọng nhất trong gia đình. Ðó là công việc "dạy người nên người". Công việc này khởi đầu ngay từ khi con người được thành hình trong lòng mẹ gọi là "thai giáo". Ðây cũng là một lý do mà người Ðông phương chúng ta tính tuổi đời người trội hơn người Tây phương một năm. Cha ông ta rất trọng gia giáo và quan niệm rằng: Nước có muôn nhà, nhưng mỗi nhà có một nền giáo dục riêng. Nước có một mục đích giáo dục chung nhưng không thừa nhận một khuôn mẫu chung, vì thế mỗi gia đình phải xây dựng gia giáo cho riêng mình, đặc biệt là lễ giáo, đạo hiếu.

-  Trong đời sống hằng ngày, cha mẹ chính là thầy cô giáo đầu tiên và cũng là người mẫu đời thường của con. Vì thế, trong việc giáo dục Ðức Tin, giáo dục giới tính, giáo dục lòng hiếu thảo trong gia đình đều thông qua gương sống của cha mẹ. Tất cả tâm tình, thái độ, lời nói, việc làm tích cực hay tiêu cực của cha mẹ đều ảnh hưởng đến con ngay từ khi còn ở trong thai cho đến khi con chào đời và qua từng chặng đường lứa tuổi của con, tạo nên nếp nghĩ, nếp cảm, nếp sống, nếp nhà, hình thành nên gia đạo, gia cương, lễ nghĩa gia phong của từng gia đình.

-  Nếu con cái được lớn lên trong bầu khí Ðức Tin sống động của gia đình: thường xuyên nghe những lời cầu nguyện của cha mẹ, được cha mẹ dậy cầu nguyện, được nhắc nhở về những ơn lành và sự hiện diện của Chúa, được động viên học hỏi Giáo Lý, tham dự Thánh Lễ, sinh hoạt Hội Ðoàn, được chứng kiến đời sống Ðức Tin cụ thể của cha mẹ qua những chọn lựa sống yêu thương và hy sinh cho nhau mỗi ngày, con cái sẽ nhập tâm lối sống Ðức Tin đó vào cuộc sống của riêng nó trong xã hội.

Nhiều người trưởng thành hiện nay rất xúc động khi nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình được mẹ dạy cúi đầu trước Bàn Thờ, bắt tay dạy làm Dấu Thánh Giá: "Khi con đặt tay trên trán, con hãy nghĩ đến Trời là Cha dựng nên con, khi con đặt tay trên ngực là chỗ trái tim con hãy dục lòng mến Chúa Chúa Giê-su là Thiên Chúa làm người, khi con đặt tay bên trái và bên phải, con nghĩ đến Chúa Thánh Thần xin Ngài ban sức mạnh phù hộ con. Khi đọc Amen, con xếp tay hình Thánh Giá và hôn lấy Ơn cứu độ của con."

Lòng đạo đức bình dân đã tạo nên bầu khí Ðức Tin bao trùm cả một ngày sống của gia đình: đọc kinh sáng "dâng mình cho Chúa", đọc kinh tối "xin ơn chết lành", rồi khi hắt hơi mẹ ân cần xoa và cầu: "Ðức Bà chữa con", khi gặp đau khổ mẹ khuyên "bằng lòng chịu khó cho nên", ngay cả khi chơi thì cũng được răn dạy: "Thiên đàng hỏa ngục hai bên,..." Nhờ đó, đời sống của họ hiện nay không bị ảnh hưởng cơn lốc vật chất, trái lại, họ rất nhiệt thành làm chứng Ðức Tin cho những người chung quanh.

C. Những Khó Khăn Trong Giáo Dục Gia Ðình Việt Nam Hiện Nay:

-  Trong nền văn hóa công nghiệp khi tất cả mọi thành viên trong gia đình đều phải chạy đua với học hành, nghề nghiệp để khẳng định bản thân và ổn định kinh tế, không còn thời giờ dành cho nhau, nên vấn đề giáo dục gia đình đang gặp rất nhiều khó khăn và bế tắc. Mỗi thành viên trong gia đình tự hội nhập và bị lệ thuộc vào những nguồn văn hóa đa dạng trong môi trường sống của mình: học đường, văn hóa phẩm, ti-vi, phim ảnh, internet... Bên cạnh những nguồn văn hóa lành mạnh, cũng có những văn hóa hưởng thụ, văn hoá "tình yêu tự do" hay "tự do tính dục"... Vì thế, nếu cha mẹ không có những chọn lựa ưu tiên cho vấn đề giáo dục con cái thì cái giá phải trả sẽ như thế nào?

-  Ðặc biệt là vấn đề giáo dục giới tính, trong khi con cái mình đang tiếp cận với nhiều hình thức "giáo dục sức khỏe sinh sản", "giáo dục ngừa thai an toàn", cha mẹ sẽ dạy con cái như thế nào để chúng không cho rằng "phương pháp tiết dục" hay "Ðức Khiết Tịnh Hôn Nhân" của Giáo Hội thật "lạc điệu" với văn hóa quần chúng? Cha mẹ có ý thức đảm nhận bổn phận giáo dục giới tính và giúp con cái nhận từ chính mình những nguyên tắc cơ bản và những khuôn mẫu sống thích hợp thông qua những tương quan tin tưởng và chân thật không? Cha mẹ có linh động, tế nhị và khôn ngoan để giải thích cho con từng bước hiểu về tâm sinh lý của chúng để chúng không phải tự khám phá nơi những văn hóa phẩm sex?

Ðồng thời cha mẹ có giúp cho con cái biết phân định những hình thức giáo dục giới tính không thích hợp với sự hướng dẫn của Giáo Hội không? Nếu chính cha mẹ cũng đang hòa nhập vào lối sống "tự nô lệ hóa" của nền "văn hóa ngừa thai" ấy thì còn có thể giáo dục Ðức Tin cho con cái được không?

-  Một số không ít bạn trẻ do không được giáo dục tối thiểu về nền Văn Hóa Ðức Tin tôn trọng tình yêu và sự sống nên đã gặp nhiều khó khăn để nhận diện và chọn lựa một tình yêu chân chính, xây dựng một gia đình yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt đời. Vấn đề là mỗi ngày một nhiều hơn những gia đình không tự chu toàn được bổn phận giáo dục "đạo đức tính dục Công Giáo". Cuộc sống của họ bị tác động của nền văn hóa xã hội hơn được ảnh hưởng những lời giáo huấn của Giáo Hội.

Vậy ai sẽ là người hỗ trợ cho các gia đình nếu không phải là những "Gia Ðình Ðức Tin" đã ý thức được sứ mạng loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu của mình?


II. Sự Hỗ Trợ Của Gia Ðình Giáo Xứ Và Giáo Phận:

A. Hợp Tác Xây Dựng Một Nền Nhân Bản Ðích Thực Về Gia Ðình:

Theo Linh Mục Giáo Sử Học Ðỗ Quang Chính: "Nếu văn hóa Tin Mừng chưa thấm nhập vào văn hóa gia đình Việt Nam, thì phải chăng Tin Mừng mới tiếp nhận ở cái vỏ hay cái ngọn, chứ chưa chui vào trong, chưa tiếp cận với cái gốc của xã hội Việt Nam. Quả thật, nhờ việc Giáo Hội đã hòa nhập được phần nào vào nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam, nên trải qua bao thăng trầm, Tin Mừng ở xứ này vẫn đứng vững và sống động."

Vì thế, sự hợp tác để "xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình" phải là một trong những bổn phận mục vụ ưu tiên cấp bách của các Giám Mục, các Linh Mục, các Nam Nữ Tu Sĩ, các Giáo Dân chuyên môn trong các Giáo Xứ Và Giáo Phận (x. FC 73 - 76).

Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia đình đã ghi nhận như sau: "Công tác mục vụ nầy triển khai rất nhanh. Như Ðức Gio-an Phao-lô 2 đã nói với Ðại Hội chúng tôi. "sau khi công bố Tông Huấn FC, thì sự quan tâm trong Giáo Hội đối với các gia đình được củng cố hẳn lên; nhiều giáo phận và các giáo xứ đặt mục vụ gia đình lên mục tiêu hàng đầu" (x. Thông Ðiệp ngày 21.11.2001 của Ðức Thánh Cha).

B. Ðường Hướng Cụ Thể Của Giáo Hội Việt Nam:

Trong thư Mục Vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 2002, các vị Chủ Chăn đã chọn hôn nhân gia đình như mục tiêu ưu tiên trong năm 2003 và đề nghị những việc làm cụ thể như:

- Cấp Giáo Phận nên có Văn Phòng Mục Vụ về Hôn Nhân và Gia Ðình.

- Cấp Giáo Xứ nên tổ chức lớp học hỏi về hôn nhân gia đình dựa trên Tông Huấn FC, thành lập bộ phận chuyên trách về gia đình trong Ban Mục Vụ Giáo Xứ với sự cộng tác của các Hội Ðoàn, và tổ chức những dịp lễ kỷ niệm thành hôn, những dịp giao lưu giữa các gia đình...

- Cần soạn thảo một chương trình Giáo Lý Hôn Nhân, đào tạo một đội ngũ giáo viên vững vàng, kêu gọi sự hợp tác của Giáo Dân có khả năng chuyên môn và kinh nghiệm...

C. Một Vài Ðề Nghị Giáo Dục Văn Hóa Sự Sống Và Tình Yêu:

1. Giáo dục sinh sản có trách nhiệm

Theo mục đích của đề tài, chúng tôi xin gợi ý về nội dung giáo dục văn hóa sự sống và tình yêu trong chương trình Giáo Lý Hôn Nhân, cũng như những hình thức sinh hoạt Mục Vụ khác: các lớp Giáo Lý Ðức Tin cơ bản, Hội Ðoàn, nhóm Chia Sẻ Lời Chúa, những câu lạc bộ: tình bạn, tình yêu, gia đình hạnh phúc, điểm phim, điểm sách,... Một trong những nội dung đó là vấn đề: "Sinh sản có trách nhiệm" vì nó liên quan đến Ðức Tin một cách trực tiếp và có ảnh hưởng sâu sắc đến tình yêu chung thủy và hạnh phúc gia đình.

Dựa vào những bản văn Kinh Thánh, Hiến Chế GS, Tông Huấn FC, Sách Giáo Lý Công Giáo FD, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi mở cho các bạn trẻ, và các gia đình trẻ trao đổi, thắc mắc về vấn đề này một cách tự nhiên theo những suy nghĩ, hiểu biết và quan điểm mà họ đang có. Nhờ đó chúng ta có thể chia sẻ cho họ thông điệp:

"Ngừa thai đã biến sự phối hợp tính dục từ một nhiệm tích thánh, thành ra một sự phạm thánh" và "Các biện pháp ngừa thai đã không được phát minh ra nhằm mục đích tránh có thai. Ðã có cách thức thực hiện hiệu quả: đó là phương pháp tiết dục... Các biện pháp ngừa thai đã được phát minh ra là để làm thỏa mãn bản năng tính dục. Như người ta thường nói: nhu cầu là mẹ của phát minh. Cái nhu cầu đẻ ra các biện pháp ngừa thai ấy chính là "nhu cầu đòi hỏi tính dục của chúng ta." (Christopher West, Good News about sex and marriage - giải đáp thắc mắc dựa trên giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo).

Tiếp đến chúng ta cũng nên mời những chuyên gia đến hướng dẫn về phương pháp "tự quan sát" theo thời gian không thể thụ thai của phụ nữ để các gia đình có thể sống an bình và hạnh phúc thực sự khi giữ đức khiết tịnh trong hôn nhân.

Thiết nghĩ, "sinh sản có trách nhiệm" theo hướng dẫn của Giáo Hội là vấn đề giáo dục giới tính rất quan trọng cho người trưởng thành. Ðây là vấn đề tế nhị nhưng lại rất bức xúc trong các gia đình. Nếu chúng ta đọc báo Công Giáo và Dân Tộc số 1380, trang 21 về vấn đề ngừa thai thì 90% những người được hỏi (27 / 30) cho rằng đó là vấn đề thuộc lương tâm cá nhân. Nhưng đâu là lương tâm chân chính vì phần lớn những người sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo cũng cho rằng họ "muốn sinh sản có trách nhiệm".

Như thế là cùng dùng một cụm từ nhưng hai thái độ chọn khác nhau: tin Thiên Chúa hay tôn thờ mình? Vì thế, các Giáo Lý Viên trong những lớp Giáo Lý Hôn Nhân Gia Ðình cần nắm vững và giải thích vấn đề đó một cách rõ ràng dưới ánh sáng Ðức Tin và trong tinh thần cầu nguyện, sống Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Vì nếu không giải quyết được vấn đề then chốt này thì không thể có một tình yêu chân chính và chung thủy trong các gia đình.

Trái lại khi niềm tin được củng cố, các gia đình Công Giáo sẽ là những chứng nhân rất hiệu quả cho nền văn hóa sự sống và tình yêu của Thiên Chúa giữa trào lưu văn hóa ngừa thai đang tràn ngập trong xã hội. Hội Ðồng Giáo Hoàng về gia đình đã ghi nhận: "Hoạt động của mục vụ gia đình qua các chứng tá cho thấy rất nhiều gia đình Ki-tô hữu được trở nên sinh động nhờ tình yêu và chân lý về gia đình. Họ hăng hái làm chứng cho Tin Mừng như Ðức Thánh Cha nói: Trong sự khiêm tốn và đơn sơ, chứng tá đời sống gia đình có thể là phương tiện hàng đầu cho công tác Phúc Âm hóa "

2. Giáo dục Ðức Tin và nhân bản

Thực tế, nhiều vị Mục Tử đã than phiền rằng: thật không dễ để có thể giúp giới thanh niên và trưởng thành sống Ðức Tin: yêu mến, tôn trọng văn hóa sự sống và tình yêu theo ý Thiên Chúa và Giáo Hội. Thiết nghĩ đây là một lý do mời gọi chúng ta suy nghĩ lại việc giảng dậy Giáo Lý, nội dung chương trình Giáo Lý và lối sống đạo của các Ki-tô hữu hiện nay.

Nếu người tín hữu: các em thiếu nhi, các bạn trẻ, các gia đình chưa nhận ra hạnh phúc được làm con Thiên Chúa, được sống dưới sự hiện diện của Ngài, và chưa cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Ðức Ki-tô thì sứ vụ của các Giáo Lý Viên và các vị Mục Tử thực sự chưa hoàn thành. Quả thực chỉ có Ðức Tin mới có thể giúp người ta từ bỏ chính mình để chọn lựa trở nên môn đệ của Ðức Ki-tô (x. Lc 14, 33).

Chỉ có Ðức Tin mới giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ để sống trong tinh thần tự do đích thực của con cái Thiên Chúa. Vì thế cần đẩy mạnh chương trình Giáo Lý Ðức Tin các cấp: 1, 2, 3, 4, 5..., giúp mọi tín hữu ý thức tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Ki-tô, đồng thời cần thêm về giáo dục nhân bản để mọi người biết sống vui và thể hiện Ðức Tin một cách trưởng thành.

3. Một vài đề nghị cụ thể:

1. Chương trình Giáo Lý các cấp cần được soạn theo sát sách Giáo Lý Công Giáo (FD). Ðây là một kho tàng Ðức Tin mà Giáo Hội đã cập nhật hóa sau Công Ðồng Vatican ba mươi năm. Vì thế, nó phải là cuốn sách cẩm nang của tất cả các Giáo Lý Viên vì những vấn đề về văn hóa Ðức Tin sự sống và tình yêu liên quan đến gia đình đều tìm thấy ở nguồn phong phú đó.

2. Nên có một chương trình Giáo Lý hôn nhân thống nhất. Hiện nay có một số nhóm đã và đang soạn nội dung chương trình học theo Tông Huấn FC và Sách Giáo Lý Công Giáo FD. Ðề nghị Ban Mục vụ về hôn nhân gia đình nên tham khảo lấy ý kiến và soạn một chương trình thống nhất trong từng giáo phận và có thể trong toàn Giáo Hội Việt Nam. Ðây là công việc rất cần thiết vì hai nguồn tài liệu trên sẽ giúp người tín hữu thể hiện Ðức Tin của mình trong đời sống phái tính (FD 2332), đức khiết tịnh (FD 2337) và tình yêu vợ chồng (FD 2361) một cách hiệu quả.

3. Nội dung giáo dục nhân bản có thể xen kẽ vào các tiết học Giáo Lý hoặc tổ chức riêng trong những buổi nghe nói chuyện chuyên đề, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của từng giới để giúp các bậc cha mẹ ý thức giáo dục giới tính cho con. Ngoài ra, một nét đẹp văn hóa khác nên khuyến khích và duy trì đó là bữa ăn tối và giờ kinh tối trong gia đình, nó mang tính giáo dục Ðức Tin và nhân bản rất cụ thể và hiệu quả cao.

4. Khuyến khích sự hợp tác của Giáo Dân. Theo hướng dẫn của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, và đường hướng cụ thể của Hội Ðồng Giáo Mục Việt Nam, thiết nghĩ Văn Phòng Mục Vụ về Hôn Nhân Gia Ðình, cấp Giáo Phận và Giáo Xứ nên có sự hợp tác rất chặt chẽ của mọi thành phần Dân Chúa. Nên phát hiện tiềm năng của người Giáo Dân, trân trọng, mời gọi sự hợp tác của họ không chỉ trong chuyên môn nhưng cả trong vai trò lãnh đạo để họ ý thức đẩy mạnh sứ vụ rao giảng trong lãnh vực riêng của họ nơi đời sống gia đình.

Phần Kết Luận

Nhìn lại 40 năm dấu ấn Công Ðồng Vatican 2, Giáo Hội mở ra với thế giới, hội nhập vào các nền văn hóa để nhân bản hóa con người theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, trở nên một người con trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðó là điều làm cho cho con người vượt trên mọi nền văn hóa, trở nên thước đo của văn hóa và không bị giam hãm trong bất cứ một nền văn hóa nào.

Thiết nghĩ, hai nét Văn Hóa Sự Sống và Tình Yêu mà Công Ðồng đề cập đến trong hôn nhân gia đình là chính tiếng nói của Chúa Thánh Thần đã tác động để canh tân các nền văn hóa hiện đại tôn thờ lợi nhuận vật chất và bản năng hưởng thụ. Do đó hướng Mục Vụ Văn Hóa của Giáo Hội là tìm ra được những điểm chung trong tâm thức con người hướng về nguồn sống và tình yêu, đồng thời thức tỉnh con người ra khỏi cơn cám dỗ lấy mình làm trung tâm, đối lập với Thiên Chúa. Nhờ đó, các gia đình sẽ có được hạnh phúc đích thực theo ý muốn của Thiên Chúa.

Ðức Giê-su Ki-tô luôn chúc lành cho các gia đình, vì từ nguồn cội sự sống và tình yêu trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, Ngài chính là Lời tác sinh sự sống cho toàn thể vũ trụ. Trong mầu nhiệm nhập thể, Ngài cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình để hoàn tất Ơn Cứu Ðộ ban lại sự sống cho con người. Ðặc biệt hơn là Ngài đã yêu nhân loại đến nỗi nhận Giáo Hội là hiền thê của Ngài để sinh ra các tín hữu và sai đi loan báo về tin mừng sự sống và tình yêu.

Ðứng trước nền Văn Hóa Tự Do Tính Dục đang phá đổ tình yêu và hạnh phúc nơi các gia đình, Chúa Giê-su tiếp tục kết hợp với từng Giáo Phận, Giáo Xứ, làm thành những Gia Ðình Ðức Tin và sai các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ, các Ki-tô hữu thiện chí tới phục vụ các gia đình và mời gọi các thành viên trong gia đình tham gia vào Chương Trình Cứu Ðộ của Thiên Chúa.

"Hãy cứu lấy gia đình", giúp các gia đình giữ được vẻ đẹp bản chất của mình. Vì chính sự sống và tình yêu thiêng liêng cao quý của gia đình có sức chữa lành mọi vết thương, đem lại sự bình an và niềm vui đích thực cho mỗi người. (Kinh nghiệm tư vấn những trường hợp thất tình, tuyệt vọng).

Ngoài ra hình ảnh gia đình trong tinh thần Kinh Lạy Cha chính là nguồn động lực hỗ trợ sứ vụ truyền giáo của chúng ta và cũng là cội nguồn mọi khát vọng tâm linh của con người hướng về (Kinh nghiệm truyền giáo cho lương dân và tiếp xúc với các bệnh nhân ung thư đang hấp hối).

Tin tưởng nơi Ðức Giê-su Ki-tô, chúng ta cùng hợp tác giúp các gia đình thắp sáng niềm tin và hy vọng để làm chứng cho sự hiện diện yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa đang ở giữa con người.


5. Gia Ðình Ki-tô Và Mầu Nhiệm Vượt Qua

Ðức Cha LUIS ANTONIO G. TAGLE, Giám Mục Imus, Philippines 

(Ephata Việt Nam vừa nhận được bài giảng của Ðức Cha Luis Antonio G. Tagle, Giám Mục Imus, Philippines, trong Ðại Hội Quốc Tế các Gia Ðình lần thứ 4 tổ chức tại Philippines những ngày đầu năm 2003 này, bản dịch của độc giả Hoàng Thiên Ân. Ðược biết đã có khoảng 1.000 các vị Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và hàng trăm ngàn Giáo Dân về tham dự. Riêng đoàn Việt Nam gồm 30 người, gồm 6 vị Giám Mục (các Ðức Cha Phạm Minh Mẫn, Nguyễn Như Thể, Bùi Văn Ðọc, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Hòa và Ngô Quang Kiệt. Ðoàn Giáo Phận Sài-gòn có 22 anh chị em và Giáo Phận Kontum có 2 Giáo Dân đại diện...)

Chiều hôm nay, chúng ta sẽ suy tư về chủ đề Gia Ðình Ki-tô Và Mầu Nhiệm Vượt Qua. Dựa theo chương trình chính thức của Ðại Hội, một tiêu đề phụ được thêm và tôi cho rằng nó cũng quan trọng không kém, vì nó chỉ ra cách thức mà chúng ta sẽ triển khai chủ đề này. Tiêu đề phụ là Ðối Thoại Và Tinh Thần Của Thập Giá. Do đó chúng ta sẽ suy tư về gia đình Ki-tô như một cộng đồng được hình thành trong đối thoại và làm thế nào mà Mầu Nhiệm Vượt Qua lại trở thành sức mạnh tinh thần thúc đẩy cho việc đối thọai chân thành.

Mầu Nhiệm Vượt Qua Là Gì? Ðối Thoại Là Gì?

Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng mỗi người Ki-tô hay môn đệ của Ðức Giê-su "phải mang trong thân xác mình cái chết của Ðức Giê-su ngõ hầu sự sống của Ngài được tỏ hiện" (2 Cr 4, 10). Một người Ki-tô là một người mang trong con người và cuộc đời mình dấu ấn của Mầu Nhiệm Vượt Qua, sự chết của Ðức Giê-su và sự Phục Sinh vào đời sống mới. Ðây không phải là một dấu ấn thể lý nhưng là một đường hướng tinh thần xác định rõ lối sống của ta trên thế gian. Nếu quả thật một người Ki-tô sống nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua, tôi nghĩ chúng ta cũng có thể nói rằng điều này cũng áp dụng cho một cộng đoàn tự xưng mình là Ki-tô, bao gồm luôn gia đình. Một gia đình Ki-tô phải sống bởi Mầu Nhiệm Vượt Qua.

Nhưng chúng ta phải hỏi một cách chính xác Mầu Nhiệm Vượt Qua là gì? Các nhà thần học, các mục tử và các nhà trước tác thiêng liêng qua các thời đại đã cho chúng ta những tầm nhìn sâu xa vào trong Mầu Nhiệm Vượt Qua. Ðể phù hợp với mục đích của chúng ta, tôi muốn trình bầy Mầu Nhiệm Vượt Qua như là một ước muốn của Thiên Chúa, phát xuất từ tình yêu tinh ròng, để trao ban cho thế gian sự sống dồi dào. Món quà sự sống này được dâng hiến qua Ðấng chịu đóng đinh và đã Phục Sinh. Sự sống được yêu mến trao ban nhưng không trong cái chết của Ngài đã làm nẩy sinh cuộc sống mới dồi dào cho thế giới. Tôi cho rằng đây là một cái nhìn chấp nhận được về Mầu Nhiệm Vượt Qua. Chúng ta sẽ dùng cái nhìn này để suy tư về cuộc đối thoại trong gia đình Ki-tô.

Chúng ta cũng phải tìm hiểu về đối thoại. Các triết gia, tâm lý gia và các nhà linh hướng đã khảo sát thực chất của đối thoại. Trong hội nghị này, tôi định nghĩa đối thoại là một tương giao giữa các nội tâm, là cái sâu kín nhất có thể được trao đổi giữa hai hay nhiều người. Ðối thoại xẩy đến khi món quà của chính bản thể ta được trao ban và nhận lãnh một cách nhưng không. Tôi sẽ cố gắng minh họa làm thế nào trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, "bi kịch" của Thập Giá Ðức Giê-su và Phục Sinh của Ngài, chúng ta tìm thấy một hình thức đối thoại tối thượng.

Mầu Nhiệm Vượt Qua: Mầu Nhiệm Tối Thượng

Tôi xin đề cập đến vài khía cạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua, đặc biệt về ba điểm được diễn giải qua khía cạnh của đối thoại.

Thứ nhất, Mầu Nhiệm Vượt Qua nói về tình yêu đời đời của Ðức Giê-su dành cho Ðức Chúa Cha, một tình yêu đưa Ngài vào trong cuộc đối thoại liên lỉ với Cha và mang đậm nét sẵn sàng. Ðức Chúa Cha có một hoài bão cho thế gian. Ðó là hoài bão của Ðấng yêu mến. Nó là một kế hoạch mang sự sống và tình yêu đến cho mọi thụ tạo ngõ hầu mọi thụ tạo được nên một với Thiên Chúa và với nhau. Chúng ta có thể tưởng tượng hoài bão thần linh này như là tình yêu tuôn chảy ra từ con tim Thiên Chúa đến mọi tạo vật ở mọi ngóc ngách của thế gian, tới từng khoảng khắc của lịch sử, và tới từng thân phận con người. Vì tình yêu thế gian, Thiên Chúa "không buông tha Con Một nhưng ban Ngài cho hết thảy chúng ta" (Rm 8, 32).

Không phải Thiên Chúa ép buộc Con như kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu. Không phải như thế, Ðức Giê-su đã làm cho chính mình trở thành sẵn sàng đối với Abba để hoàn thành hoài bão này. Ngài nói rằng không ai lấy đi được mạng sống của Ngài nhưng Ngài tự nguyện dâng hiến nó đi một cách nhưng không (Ga 10, 18).

Ðây là sự vâng phục của Ðức Giê-su phát xuất từ con tim thực sự yêu mến Cha, do bởi lòng ngưỡng mộ Cha và kế hoạch của Cha. Vì thế, Ðức Giê-su làm cho chính mình được tự do vô điều kiện và sẵn sàng với sứ mạng Cha trao phó. Từ khi nhập thể cho tới lúc Phục Sinh, Ðức Giê-su đã hoàn toàn hiến mình cho yêu cầu, sự chỉ đạo, và thôi thúc của Chúa Thánh Thần cho sứ mạng, ngõ hầu Người Con có thể trở nên một với dòng chảy tình yêu mà Cha dành cho thế gian và nhân loại. Cuộc "đối thoại sẵn sàng này", sự hiến mình để hoàn thành ý của Cha được kiên trì nơi Ðức Giê-su ngay cả khi Ngài khó bề hiểu được ý nghĩa của sứ mạng của Ngài.

Chúng ta hãy nhớ lại cơn thống khổ của Ngài trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 32 - 42). Ở đó ý nghĩa của sứ mạng của Ngài trở nên mờ mịt. Nó vượt xa khỏi tầm hiểu biết của Người. Người bị ném vào trong hoang mang, cô đơn và đơn độc. Thê thảm hơn, Người van nài các môn đệ ở lại với Ngài để trấn áp cõi lòng hoang mang của mình bằng sự hiện diện của họ. Ðó là lời mời đối thoại của Người dành cho họ, nhưng họ không đáp ứng. Tuy nhiên vào lúc đó khi tất cả ý nghĩa xem ra u tối, cái làm cho Ðức Giê-su tiếp tục đi tới chính là lựa chọn của Ngài quyết tâm hoàn thành hoài bão của Cha. Chỉ có tình yêu mới thúc bách Người kiên trì dù cho sứ mạng đã trở nên vô nghĩa và hão huyền.

Và trên Thập Giá, khi Ðức Chúa Cha có vẻ như đã bỏ rơi Người, Ðức Giê-su đã phó thác linh hồn của Người cho Cha (Lc 23, 46). Ngay cả giữa sự thinh lặng của Cha, Ðức Giê-su vẫn tiếp tục đối thoại với tất cả sự sẵn sàng hoàn toàn - tất cả cho tình yêu, tất cả cho sứ mạng. Ta có thể gọi đây là độc thoại không? Ðối với Ðức Giê-su, Thập Giá không phải là độc thoại nhưng là một cuộc đối thoại chờ đợi sự thành toàn. Ðối thoại không bao giờ bị cắt ngang ở nơi vẫn có tình yêu.

Thứ hai, Mầu Nhiệm Vượt Qua chiếu sáng tình yêu của Ðức Giê-su dành cho nhân loại, nó mang hình thức một cuộc đối thoại liên đới và xót thương dành cho các tội nhân lầm lạc. Một đàng, Mầu Nhiệm Vượt Qua nói về sự vâng phục yêu mến của Ðức Giê-su đối với Cha. Ðàng khác, nó cũng là món quà sự sống năng động của Ðức Giê-su dành cho nhân loại tội lỗi chúng ta. "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ cho đến cùng" (Ga 13, 1).

Tình yêu dành cho chúng ta cũng dạt dào như sự vâng phục Cha của Ðức Giê-su đã thôi thúc Ngài chịu đau khổ và chịu chết trên Thập Giá. Tình yêu dành cho nhân loại này, một tình yêu chân thật, bao hàm một lựa chọn tự nguyện bởi Con Thiên Chúa, khước từ vinh quang và huy hoàng của Thần tính để chia sẻ thân phận hèn hạ của nhân loại (Pl 2, 5 - 11). Như thể trở nên con người thôi cũng chưa đủ, Con Thiên Chúa còn đi xa hơn bằng cách tự hạ chịu chết vốn là tột đỉnh của nỗi cô đơn của con người. Hơn nữa, như thể cho rằng hành vi khiêm hạ này còn chưa đủ, Con Thiên Chúa còn chọn một cái chết ô nhục trên thập giá.

Qua tất cả việc tự hạ, có một hàm ý rằng cái yếu đuối đó chính là một cách thức thiết lập nên một đối thoại liên đới với nhân loại. Người hoàn toàn tự hủy ra hư không để hoàn toàn hiến dâng chính mình cho các tội nhân. Qua cuộc đối thoại này, Ðức Giê-su đã hủy diệt mọi khoảng cách tách biệt phẩm giá và vận mệnh của Người với các tội nhân. Người tự nguyện đón chịu nỗi sợ hãi, cô độc và khó nghèo mà đầy tràn nơi nhân loại chúng ta bởi vì tội lỗi của chúng ta, nhưng Người không phạm tội. "Ðấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2 Cr 5, 21).

Ðây là một khía cạnh khác của cuộc đối thoại liên đới, còn gọi là lòng thương xót. Qua liên đới, Ðấng không phạm tội trở nên người cùng chịu đau khổ với các tội nhân, những người phải chịu đau khổ vì phạm tội. Lòng thương xót xô đẩy Người đi vào cõi chết như một người cùng chung số phận phải chết như bạn hữu mình. Mầu Nhiệm Vượt Qua nói nên Ðức Giê-su đã yêu thương chúng ta biết bao qua việc tự nguyện ôm ấp lấy đau khổ mà chúng ta đáng phải chịu do phạm tội. Tội lỗi đã chắn đường không cho ta đối thoại với Ðức Giê-su. Nhưng Người theo đuổi cuộc đối thoại bằng cách đau khổ cái đau khổ của ta và chết cái chết của ta. Ðối với Người, Thập Giá không phải là một cuộc độc thoại nhưng là một cuộc đối thoại trong chờ đợi mà tràn đầy hi vọng. Ðối thoại không bao giờ bị cắt đứt nhờ có thương xót và liên đới.

Cuối cùng, Mầu Nhiệm Vượt Qua được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Ðấng chịu đóng đinh. Chúa Cha đón nhận sự sống của Chúa Giê-su dâng hiến trên Thập Giá, hậu qủa là Cha thông ban sự sống đó cho nhân loại như là một sung mãn tột cùng của sự sống. Nơi cuộc Phục Sinh, Cha và Con đã đi vào một cuộc đối thoại mà hai bên cùng đón chịu lấy nhau, điều này dẫn tới một cuộc đối thoại chia sẻ sự sống với thế gian bằng cách tuôn tràn xuống Thần Khí của Ðức Giê-su. Cái chết của Ðức Giê-su không kết thúc trên Thập Giá nhưng là cuộc trở về với Cha để sống vô biên và vô cùng trong sự hiện diện và yêu thương của Cha. Vinh quang của Ðức Giê-su nghĩa là Cha đã chấp nhận sự sống mà con đã phú nộp bởi Con trên Thập Giá. Trong cuộc Phục Sinh, sau cùng Cha đã công bố cho thế gian "Ðây là Con của ta!"

Phục Sinh là, như đã là, một bối cảnh mà Cha long trọng tuyên bố cho thế gian Ðức Giê-su là Con Một của Cha. Phục Sinh là Cha ban cho Con Một danh xưng vượt trên mọi danh xưng, để cho khi nghe tên Giê-su mọi đầu gối phải qùy lạy (Pl 2, 9 - 10). Phục Sinh mạc khải ra khuôn mặt của Thiên Chúa như là Cha đấng luôn trung tín với con mình.

Cuộc đối thoại sẵn sàng của Con trên Thập Giá sau cùng đã nhận được một đáp trả từ Cha trong cuộc đối thoại chấp nhận. Cuộc đối thoại được lên đến tột đỉnh nơi Phục Sinh, là "tái hợp" giữa Cha và Con, không kết thúc khép kín giữa hai đấng nhưng lại tuôn tràn Thần Khí cho thế gian. Thần Khí đã dẫn đưa Ðức Giê-su từ nhập thể đến Thập Giá cũng chính là Thần Khí của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và thế gian.

Qua hành động và quyền năng của Thần Khí, nhiều người sẽ được dẫn dắt để đón nhận Ðức Giê-su, để đối thoại với Ðức Giê-su như các môn đệ ngày trước, và như thế được trở nên một với Cha. Thần Khí làm cho ta có thể đối thoại với Thiên Chúa và kêu lên "Abba" như Ðức Giê-su đã làm (Rm 8, 15). Cha ban cho chúng ta, qua Thần Khí, sự sống của Ðức Giê-su, Con của Cha. Và chúng ta được thay hình đổi dạng từ các tội nhận trở nên con cái. Với sự sống của Ðức Giê-su san sẻ cho chúng ta, chúng ta có thể hoàn tất cuộc đối thoại với Cha mà đã bị tội lỗi của ta làm cho đứt quãng. Thập Giá Ðức Giê-su kết thúc nơi cuộc đối thoại hai bên cùng đón chịu nhau giữa Cha và Con, đưa đến tột đỉnh là cuộc đối thoại vô tận trong Thần Khí giữa Thiên Chúa và nhân loại, một cuộc đối thoại của sự sống được chia sẻ.

Gia Ðình Ki-tô Và Mầu Nhiệm Vượt Qua

Cả ba góc cạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua như là một cuộc đối thoại có thể là nền tảng của gia đình Ki-tô.

Trước nhất, một gia đình Ki-tô phải mang dấu ấn của cuộc đối thoại sẵn sàng của Ðức Giê-su. Trong thời đại này, người ta có khuynh hướng chỉ quan tâm đến bản thân mình. Chao đảo giữa những bon chen, lo âu, thành công và lợi lộc, chúng ta dễ dàng hi sinh tinh thần đối thoại và sẵn sàng, ngay cả trong phạm vi gia đình. Chúng ta thấy sự phát triển một nền văn hóa toàn cầu đã mang lại rất nhiều loại hình giải trí, mua sắm và dịch vụ mà đã cướp mất đi những khoảnh khắc quý báu mà gia đình có thể tương tác và hiện diện bên nhau. Ðộc thoại đã trở thành một cách sống.

Các gia đình Ki-tô và xã hội nói chung có thể hưởng lợi rất nhiều bằng cách tái học hỏi từ sự sẵn sàng tuyệt đối của Ðức Giê-su đối với Thiên Chúa và sứ mạng. Chúng ta muốn thấy các người cha, người mẹ, con cái và ngay cả các anh chị em họ hàng có mặt bên nhau lúc thịnh vượng cũng như khó khăn. Chúng ta khao khát thấy các thành viên gia đình luôn sẵn sàng phục vụ nhau vì lợi ích chung mà không quản ngại hi sinh. Chúng ta muốn thấy các gia đình hân hoan thể hiện ý Chúa trong thế gian. Chúng ta hãy tái khám phá sự sẵn sàng của Ðức Giê-su trên Thập Giá.

Thứ nhì, một gia đình Ki-tô phải mang dấu ấn của cuộc đối thoại liên đới và thương xót của Ðức Giê-su được tỏ bầy trên Thập Giá. Thế giới này có quá nhiều đau khổ đến nỗi chúng ta chỉ muốn ngoảnh mặt đi. Ðang khi chúng ta hô hào: "Hãy toàn cầu hóa! Hãy liên đới! Hãy cảm thông!" chúng ta lại thấy toàn phân cực, bất khoan dung và chia rẽ chung quanh ta, ngay cả trong phạm vi gia đình. Có rất nhiều hiểu lầm bởi vì chúng ta không thể thông cảm với nhau và cho nhau.

Trong một gia đình, từng người nên đóng vai trò hình thành một cộng đồng thương cảm nhau, chịu lấy các khiếm khuyết và nỗi đau của nhau vì tất cả đều yếu đuối và đau khổ. Không có niềm vui hay nỗi buồn của người nào mà lại trở nên vô can với người khác. Từng người phải nói được rằng: "Lo âu của bạn cũng là của tôi. Ðau đớn của bạn là của tôi. Và thành công của bạn cũng là của tôi."

Khi sự liên đới và thương cảm trở nên mờ nhạt, gia đình không còn đối thoại và đang đứng trên bờ vực tan vỡ. Các gia đình Ki-tô hãy tái khẳng định sự liên đới và lòng thương xót của Ðức Giê-su trên Thập Giá.

Và sau cùng, một gia đình Ki-tô phải mang dấu ấn của cuộc đối thoại cùng đón chịu và chia sẻ như được mạc khải ra qua Phục Sinh. Trong một thế giới cạnh tranh, ca tụng và khẳng định trở thành tai họa. Chia sẻ được hiểu một cách tầm thường là tặng quà cho nhau, vì đó là một hình thức chia sẻ an toàn nhất. Các gia đình còn trở nên nghèo nàn và mong manh hơn vì thiếu sự đồng trân trọng và chia sẻ cuộc sống với nhau. Một gia đình Ki-tô thực sự nuôi dưỡng sự sống nơi từng người qua việc khẳng định mỗi người đều là một món quà của Chúa dành cho nhau. Nhưng sự đồng trân trọng nhau này phải thúc bách họ chia sẻ sự sống của họ như món quà của Thiên Chúa dành cho sự sống của thế gian.

Ðây chính là khía cạnh được sai đi hay là loan báo Tin Mừng của Mầu Nhiệm Vượt Qua và mỗi gia đình phải sống nó. Chia sẻ sự sống bên trong gia đình phải sinh ra hoa trái trong việc chia sẻ cùng một sự sống đó cho người nghèo, người đau khổ, người sống bên lề, những người được Ðức Giê-su ưu ái. Một gia đình Ki-tô phải có tầm nhìn vượt qua nhu cầu của mình, thấy được nhu cầu của xã hội và thế giới. Không phải là khoe khoang khi tỏa lan ra bên ngoài sự sống mà ta đã khám phá, để cho người khác có thể nhìn thấy. Các gia đình Ki-tô hãy tái lập sự cùng đón nhận nhau và chia sẻ sự sống của một dân tộc Phục Sinh.

Sẵn sàng, liên đới và thương xót, cùng đón nhận nhau và chia sẻ - ba dấu hiệu của Thập Giá và sự sống Phục Sinh của Ðức Giê-su. Mỗi người môn đệ sống nhờ chúng, và mỗi gia đình Ki-tô cũng vậy. Chúng ta cầu xin cho việc tham gia vào cuộc đối thoại sẵn sàng, đối thoại liên đới và thương xót, đối thoại cùng đón nhận nhau và chia sẻ, gia đình Ki-tô có thể, giống như Ðức Giê-su, là một món quà chân thật của sự sống và tình yêu dành cho thế giới trong thiên niên kỷ thứ ba.


6. Gia đình Ki-tô hữu (1): tiếp nhận và loan báo Tin Mừng

Gs. Nguyễn Văn Nội 

I. Nhập Ðề

Vào những ngày 23 - 26.01.2003, tại Manila (Philippines) sẽ có cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ 4 của các gia đình trên toàn thế giới. Lần gặp gỡ quốc tế đầu tiên của các gia đình là vào năm 1994 tại Roma (Italia) nhân dịp Liên Hiệp Quốc và Giáo Hội Công Giáo chọn năm 1994 là Năm Gia Ðình. Lần gặp gỡ quốc tế lần thứ 2 của các gia đình là vào năm 1997 tại Rio de Janeiro (Brazin). Lần gặp gỡ quốc tế lần thứ 3 của các Gia Ðình là vào tháng 10.2000 trong khuôn khổ Năm Thánh 2000 tại Roma (Italia). Và lần gặp gỡ quốc tế lần thứ 4 của các gia đình vào ngày 23-26/01/2003 tại Manila Philippines. Chủ đề của lần gặp gỡ này là: "Gia đình Ki-tô hữu là Tin Mừng cho Thiên Niên Kỷ thứ ba".

Ðể chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quan trọng này, trong năm 2002 Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình đã cho phổ biến một tài liệu hướng dẫn gồm 12 đề tài về Gia Ðình cho việc Suy Tư Vào Trao Ðổi trong các cộng đoàn và tổ chức Giáo Hội như sau:

01.  Gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng.

02.  Gia đình Ki-tô hữu là chứng nhân của Giao ước Vượt Qua.

03.  Gia đình Ki-tô hữu là trung tâm của Phúc Âm hóa.

04.  Gia đình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia.

05.  Sự thánh thiện của Gia đình Ki-tô hữu nhằm phục vụ Tin Mừng.

06.  Thánh Thể là dấu chỉ và lương thực cho Tình Yêu đôi bạn không giới hạn.

07.  Thứ tha và hòa giải trong gia đình Ki-tô hữu.

08.  Gia đình Ki-tô hữu là cộng đoàn cầu nguyện.

09.  Gia đình Ki-tô hữu là trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội.

10.  Gia đình và tình yêu Ki-tô hữu đối với những người yếu kém nhất.

11.  Gia đình Ki-tô hữu chuẩn bị và đồng hành với các gia đình trẻ.

12.  Gia đình Ki-tô hữu là cung thánh của sự sống.

Vậy "Gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng" là đề tài đầu tiên trong số 12 đề tài về Gia Ðình; vì thế được chọn làm đề tài của buổi sinh hoạt đầu tiên về gia đình của năm 2003 của chúng ta. Vậy chúng ta cùng nhau lần lượt tìm hiểu 3 vấn đề: Tin Mừng nghĩa là gì? Thế nào là "gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng"? Ðể tiếp nhận và loan báo Tin Mừng, các gia đình Ki-tô hữu phải làm gì?

II. Trình Bày

1. "Tin Mừng" nghĩa là gì?

Trong Bài Phúc Âm mà Giáo Hội đọc trong Thánh Lễ (đêm) Giáng Sinh, có đoạn sau đây:

"Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ða-vít, Người là Ðấng Ki-tô Ðức Chúa." (Lc 2, 6 - 11).

Vậy Tin Mừng mà các thiên thần loan báo cho những người chăn chiên trên cánh đồng Bê-lem xưa là Tin Mừng về Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cách đây hai ngàn năm. Nói đúng hơn thì chính Ðức Giê-su Ki-tô, Ðấng Cứu Ðộ là Tin Mừng.

2. Thế nào là "Gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng"?

a. Thế nào là "gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận Tin Mừng"?

Giáo Hội Công Giáo đã đón nhận Tin Mừng là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa mà Chúa Cha gửi đến để mặc khải Thiên Chúa Tình Yêu và chỉ đường vạch lối cho con người được Ơn Cứu độ. Khi đón nhận Tin Mừng ấy Giáo Hội không giữ riêng cho mình mà có trách nhiệm loan báo cho muôn dân, muôn người.

Bên giếng Rửa Tội hay trong thánh đường mỗi người (dù lớn hay bé) đều nói lên điều mình ước xin nơi Giáo Hội: "đức tin". Xin đức tin, tức xin Giáo Hội trao ban Tin Mừng.

Trong Thánh lễ Hôn Phối, hai người phối ngẫu Công Giáo đều là những người đã đón nhận Tin Mừng và có trách nhiệm loan báo Tin Mừng ấy cho người khác lại một lần nữa đón nhận Tin Mừng một cách đặc biệt: Họ đón nhận Tin Mừng về Tình Yêu "Phu Thê" của Chúa Giê-su Ki-tô đối với Giáo Hội. Họ được mời gọi là phản ảnh, là minh họa của Tình Yêu và Mầu nhiệm cao cả ấy. Tình yêu và cuộc sống hôn nhân của hai người được nâng lên bậc Bí Tích là vì thế. Tình yêu và cuộc sống hôn nhân của hai người mang một ý nghĩa cao vời và được Thiên Chúa chúc phúc như Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng đã khẳng định:

"Chúa Ki-tô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu muôn hình muôn vẻ của vợ chồng, một tình yêu phát xuất từ Nguồn Mạch Tình Yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương kết hiệp của Chúa Ki-tô và Hội Thánh. Thực vậy, như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ Dân Ngài bằng một Giao Ước yêu thương và trung thành, ngày nay Ðấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí Tích Hôn Phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh.

Tình Yêu vợ chồng đích thực được hòa nhập trong Tình Yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Ki-tô và hoạt động cứu rỗi của Hội Thánh, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ và kiên cường trong nhiệm vụ cao cả làm cha làm mẹ" (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, số 48).

b. Thế nào là "gia đình Ki-tô hữu loan báo Tin Mừng"?

Một khi đã đón nhận Tin Mừng, mọi Ki-tô hữu có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho người khác, như lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi về Trời: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19 - 20).

Trước hết hai vợ chồng có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho nhau: chồng loan báo Tin Mừng cho vợ; vợ loan báo Tin Mừng cho chồng. Kế tiếp hai vợ chồng có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho những người trong gia đình và nhất là cho con cái của mình. Sau nữa hai người có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho những người khác cùng môi trường sinh sống hay lao động và ngoài xã hội.

3. Ðể tiếp nhận và loan báo Tin Mừng các gia đình Ki-tô hữu phải làm gì?

"Không ai cho cái mình không có" (Nemo dat quod non habet) câu châm ngôn của người Rô-ma xưa có thể áp dụng vào trường hợp của chúng ta. Muốn loan báo Tin Mừng cho người khác thì trước hết chúng ta phải đón nhận Tin Mừng trước đã.

a. Ðể tiếp nhận Tin Mừng các gia đình Ki-tô hữu phải làm gì?

Thật ra khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy là ai nấy chúng ta đã đón nhận Tin Mừng về Chúa Giê-su, là chính Chúa Giê-su rồi. Nhưng việc đón nhận Chúa, chúng ta phải tiếp tục luôn mãi, vì không ai có thể cho rằng mình đã đón nhận Chúa một cách trọn vẹn, đầy đủ. Chúa càng vào sâu trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta càng nên giống Chúa và do đó càng có khả năng loan báo Chúa cho người khác. Muốn đón nhận Chúa vào sâu trong tâm hồn và cuộc sống của mình, chúng ta phải nỗ lực vun trồng đời sống cầu nguyện và nội tâm sâu sắc. Các giờ thờ phượng, tham dự bí tích, tĩnh tâm, học hỏi và suy niệm Lời Chúa, dấn thân phục vụ, kiểm điểm đời sống là các phương thế hữu hiệu giúp chúng ta càng ngày càng sống mật thiết hơn với Chúa và sống yêu thương phục vụ hơn đối với tha nhân.

b. Ðể loan báo Tin Mừng các gia đình Ki-tô hữu phải làm gì?

Khi đã có Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của mình rồi, chúng ta chỉ cần thể hiện Chúa ra bên ngoài, qua lời nói, việc làm, cách sống của chúng ta là Tin Mừng ấy được người khác nhận ra. Nhưng như thế chưa đủ, chúng ta còn phải chủ động tìm cơ hội, nắm bắt dịp may để loan báo Tin Mừng cho những người chúng ta gặp gỡ, quen biết. Chúng ta còn phải biết sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (bích chương, sách báo, tài liệu, phim ảnh, hội họa, thi ca, âm nhạc, internet...) để loan báo Tin Mừng cho người thời nay.

Cách cụ thể, trong gia đình, chúng ta quan tâm thực hiện 5 điều Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã nêu trong Thư Mục Vụ về Hôn Nhân Và Gia Ðình ngày 11.10.2002:

Trong Giáo Xứ, các gia đình quan tâm đến việc tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo Xứ để xây dựng Giáo Xứ thành một đại gia đình của Thiên Chúa.

Trong xã hội, các gia đình quan tâm đến việc xây dựng và phát triển xã hội về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, môi sinh, tôn giáo, tâm linh... sao cho nền Văn Minh Tình Thương và Công Lý được thực hiện, nhằm lợi ích chính đáng và đa dạng của đại đa số dân chúng, nhất là của tầng lớp nghèo.

III. Kết Luận

Nếu các gia đình Công Giáo biết đón nhận Tin Mừng mỗi ngày một sâu sắc hơn và đồng thời biết loan báo Tin Mừng một cách tích cực và có phương pháp hơn, thì chắc chắn Giáo Hội và xã hội sẽ được canh tân, đổi mới, con người - nhất là người nghèo - sẽ được yêu thương và phục vụ như Chúa mong muốn. Có như thế thì gia đình Ki-tô giáo mới có thể là Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ ba được.

IV. Chia Sẻ

1. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng và mỗi giai đoạn quan trọng trong đời sống gia đình, gia đình ông bà anh chị đón nhận Tin Mừng như thế nào? gặp thuận lợi và khó khăn gì? phát huy thuận lợi và khắc phục khó khăn như thế nào? Hãy chia sẻ kinh nghiệm với các gia đình khác.

2. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng và mỗi giai đoạn quan trọng trong đời sống gia đình, gia đình ông bà anh chị loan báo Tin Mừng như thế nào? gặp thuận lợi và khó khăn gì? phát huy thuận lợi và khắc phục khó khăn như thế nào? Hãy chia sẻ kinh nghiệm với các gia đình khác.

V. Thực Hành

Mỗi người, mỗi gia đình chọn một hai việc cụ thể làm quyết tâm thực hành (nói rõ ra là việc gì) cho đời sống đạo của mình trong tuần, trong tháng này.


7. Gia đình Ki-tô hữu (2): là Chứng Nhân của Giao Ước Vượt Qua

Gs. Nguyễn Văn Nội 

I. Nhập Ðề:

Trong lần sinh hoạt đầu tiên về gia đình, chúng ta đã cùng nhau học hỏi, suy nghĩ, chia sẻ về đề tài "Gia đình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng". Ðề tài thứ hai trong loạt 12 đề tài do Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình đề nghị là "Gia đình Ki-tô hữu là chứng nhân của Giao ước Vượt qua".

Vậy hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu 3 vấn đề:

II. Trình Bày:

1. Thế nào là "Giao Ước Vượt Qua"?

Muốn hiểu thế nào là Giao Ước Vượt Qua, thiết tưởng chúng ta phải nhắc lại Giao Ước Xi-nai (Xh 24, 1 - 18) mà Thiên Chúa Gia-vê đã ký kết với dân Ít-ra-en. Theo tinh thần của Giao Ước này thì Thiên Chúa là Chúa của dân và dân Ít-ra-en là "dân riêng" của Chúa. Chúa là Chúa của dân thì Chúa bảo vệ, che chở dân khỏi mọi kẻ thù và yêu thương chăm sóc dân. Là dân riêng của Chúa thì Ít-ra-en không được tôn thờ một chúa nào khác mà chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi và phải tuân giữ các mệnh lệnh của Chúa là 10 giới răn. Dân mà bất trung với lời cam kết ấy thì bị coi là phản bội, là ngoại tình. Giao Ước thời Cựu Ước được ký kết bằng việc sát tế một con bò làm lễ dâng lên Thiên Chúa và máu con bò ấy được rẩy trên bàn thờ và trên toàn dân.

Thế nhưng Giao Ước ấy chỉ là hình bóng của Giao Ước mới mà chúng ta gọi là Giao Ước Vượt Qua. Giao Ước Vượt Qua được Thiên Chúa ký kết không phải chỉ với một dân tộc theo huyết nhục mà với toàn thể nhân loại là dân tộc mới. Giao Ước mới được ký kết trong hy tế đẫm máu trên thập giá của Ðức Giê-su, Con Một Thiên Chúa nhập thể làm người. Trong Giao Ước Vượt Qua, Ðức Giê-su đã tự nguyện chấp nhận cuộc Thương Khó và cái chết trên thập giá để phục sinh vinh quang đem ơn cứu độ và sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Ðộng cơ khiến Ðức Giê-su thực hiện việc đó là lòng hiếu thảo vâng phục đối với Chúa Cha và tình yêu thương đối với mọi người là anh em của Chúa trong gia đình nhân loại.

2. Tại sao lại khẳng định… "Gia đình Ki-tô hữu là chứng nhân của Giao Ước Vượt Qua"?

Khi nói về tình yêu mà người chồng Ki-tô hữu phải có đối với vợ mình, Thánh Phao-lô đã lấy Tình yêu của Ðức Ki-tô đối với Hội Thánh để soi giọi và so sánh:

"Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Ðức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và bằng lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Ðức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Ki-tô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng" (1 Cr 5, 25 - 33):

Trong đoạn văn trên, Thánh Phao-lô đã khẳng định tính chất độc đáo và đặc thù của hôn nhân Ki-tô giáo: tình yêu vợ chồng Ki-tô hữu phải là phản ảnh của Tình yêu có một không hai của Ðức Ki-tô dành cho Hội Thánh là Hôn Thê, là Thân Thể Mầu Nhiệm của Người. Ðể thể hiện Tình yêu đó, Ðức Ki-tô đã trải qua con đường Thương Khó và Phục Sinh, nghĩa là Chúa đã chấp nhận bỏ mình, hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu, làm tất cả cho hạnh phúc của người mình yêu, như Thánh Phao-lô đã đúc kết trong thư gửi tín hữu Phí-líp-phê:

"Ðức Giê-su Ki-tô,

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,

trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình,

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8).

3. Ðể làm chứng nhân của Giao Ước Vượt Qua, các gia đình Ki-tô hữu phải sống như thế nào?

Ðức Giê-su đã khẳng định: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13).

Ðó là chuẩn mực mà mọi Ki-tô hữu phải theo. Cách riêng vợ chồng Ki-tô hữu phải lấy câu nói đó làm châm ngôn cho đời sống hôn nhân gia đình của mình. Vì trong đời sống gia đình, từ miếng ăn, miếng uống cho đến các nhu cầu cao hơn, vợ chồng đều có thể thể hiện lòng yêu thương của mình đối với người bạn đời.

Và trong đời sống gia đình, nếu chỉ dựa vào những lý lẽ tự nhiên, rất nhiều khi họ không thể vượt qua được những khó khăn thử thách do tính tình, sở thích và tập quán khác nhau, do sức ép của cuộc sống cơm-áo-gạo-tiền đè nặng trên vai và trên trái tim của mỗi người. Cần phải có một yếu tố vượt các giới hạn tự nhiên vợ chồng mới có thể yêu thương và chung thủy với nhau trọn đời, như lời họ cam kết trong Thánh Lễ Cưới. Cụ thể, vợ chồng thể hiện sự quan tâm đối với nhau và giúp đỡ lẫn nhau để ai nấy được phát triển trong mọi lãnh vực:

III. Kết Luận:

Ðể yêu Hội Thánh và nhân loại và để đem hạnh phúc thật cho Hội Thánh và con người, Ðức Ki-tô đã chấp nhận "hủy mình ra không" qua con đường Thương Khó và Phục Sinh. Vợ chồng Ki-tô hữu cũng chỉ có thể chứng minh tình yêu chân thực và siêu nhiên của mình bằng những hy sinh từ bỏ cụ thể vì người mình yêu. Một người chồng, một người vợ càng hy sinh từ bỏ vì và cho người bạn đời của mình, thì người ấy càng trở thành chứng nhân của Giao Ước Vượt Qua, của hiến tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô.

IV. Chia Sẻ:

1. Trong cuộc sống đời thường của gia đình, ông bà anh chị đã hy sinh cho vợ, chồng, con cái mình như thế nào?

2. Làm thế nào để ông bà anh chị dẹp được lòng ích kỷ, tính tự ái và sự ươn lười của mình mà hy sinh cho vợ, chồng và con cái mình?

V. Thực Hành:

Trong giờ kinh kết thúc một ngày sống của gia đình, ông bà anh chị hãy tự hỏi: "Ngày hôm nay, tôi đã làm hết sức mình cho vợ, chồng và con cái tôi được sung sướng hạnh phúc ấm no chưa? Tôi đã thiếu sót những gì? Ngày mai tôi phải làm gì hơn để bù đắp lại sự thiếu sót của ngày hôm nay?"


7. Gia đình Ki-tô hữu (3): là trung tâm của Phúc Âm hóa

Gs. Nguyễn Văn Nội 

I. Nhập Ðề:

"Gia Ðình Ki-tô hữu là trung tâm của Phúc Âm hóa" là đề tài thứ ba trong loạt 12 đề tài mà Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình đề nghị cho chúng ta suy tư và trao đổi về Gia Ðình. Có thể nói chủ đề này tiếp nối đề tài thứ nhất: "Gia Ðình Ki-tô hữu tiếp nhận và loan báo Tin Mừng" mà chúng ta đã học hỏi, suy nghĩ, chia sẻ, cầu ngyện và thực hành.

Vậy hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau lần lượt tìm hiểu 3 vấn đề: Thế nào là "Phúc Âm hóa"? Tại sao lại khẳng định "Gia Ðình Ki-tô hữu là trung tâm của Phúc Âm hóa"? Ðể trở thành trung tâm của Phúc Âm hóa, Gia Ðình Ki-tô hữu phải thực hiện những gì?


II. Trình Bày:

1. Thế nào là "Phúc Âm hóa"?

Trong ngôn ngữ Việt Nam có ba từ đồng nghĩa mà trong ngôn ngữ Tây Phương chỉ là một chữ: "Evangélisation": "Phúc Âm hóa", "Rao Giảng Phúc Âm", "Loan Báo Tin Mừng". Cũng đồng nghĩa với từ "Truyền giáo". Vậy, một cách đơn giản chúng ta có thể hiểu "Phúc Âm hóa" là làm cho con người và cơ chế (của Giáo Hội cũng như xã hội) thấm nhuần tinh thần Phúc Âm.

Chúng ta biết rằng mục đích của Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người, chịu chết trên thập giá và phục sinh là để cứu chuộc nhân loại bằng cách giải hòa con người với Thiên Chúa và đem ơn tha thứ của Thiên Chúa đến cho con người. Nhưng kế hoạch cứu độ ấy còn bao hàm việc làm cho cả thế giới và vũ trụ này trở nên Vương quốc của Thiên Chúa là Vương Quốc của Công Lý và Tình Thương. Như thế Phúc Âm hóa có nghĩa là biến đổi xã hội và thay đổi con người, chứ không chỉ giới hạn trong việc làm cho người ta gia nhập đạo như nhiều người Giáo Dân Việt Nam thường lầm tưởng.

2. Tại sao lại khẳng định "Gia Ðình Ki-tô hữu là trung tâm của Phúc Âm hóa"?

Trong Tông Huấn "Ðời Sống Gia Ðình" Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 xác định:

"Gia Ðình Ki-tô hữu được mời gọi góp phần tích cực và có trách nhiệm vào sứ mạng của Giáo Hội với một tư thế riêng biệt và độc đáo, bằng cách tự đặt mình phục vụ Giáo Hội và xã hội cả trong yếu tính lẫn trong hành động của mình, với tư cách là một cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu" (số 50)

Khẳng định "Gia Ðình là trung tâm của Phúc Âm hóa", có nghĩa là Gia Ðình nhận sứ mạng Phúc Âm hóa từ kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa về Gia Ðình, như Tông Huấn về "Ðời Sống Gia Ðình" khẳng định: "Bởi vì "Ðấng Tạo Hóa đã đặt Gia Ðình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người: nên Gia Ðình trở thành "tế bào dầu tiên và sống động của xã hội" (Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân, 11; ÐSGÐ, 42)

Các tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng Gia Ðình được phát triển dưới dự thúc đẩy và hướng dẫn của luật "cho không" bằng cách kính trọng và vun trồng nơi mọi người cũng như nơi mỗi người, ý thức về phẩm giá con người như nguồn giá trị duy nhất, cụ thể hóa trong sự đón tiếp nồng nhiệt, gặp gỡ và đối thoại, quảng đại sẵn sàng phục vụ vô vị lợi và tương trợ sâu xa...

"Như vậy, phát huy sự hiệp thông đích thực giữa những ngôi vị có trách nhiệm trong Gia Ðình trở thành việc thực tập căn bản và không thề thay thế được cho đời sống xã hội, một gương mẫu và là một khích lệ cho các tương quan cộng đồng mở rộng, được đánh dầu bằng các đức tính: kính trọng, công bằng, ý thức đối thoại, tình yêu... Bằng cách ấy Gia Ðình làm nên cái nôi và phương tiện hữu hiệu nhất để nhân bản hóa và ngôi vị hóa xã hội: chính Gia Ðình hoạt động cách độc đáo và sâu xa cho công cuộc kiến tạo thế giới, giúp đem lại một đời sống thực sự nhân đạo, cách riêng là bảo tồn và truyền đạt các nhân đức và các "giá trị" (số 43).

Khẳng định "Gia Ðình là trung tâm của Phúc Âm hóa" còn có nghĩa là công cuộc Phúc Âm hóa phải bắt đầu từ Gia Ðình vì "cha mẹ chính là những nhà giáo đầu tiên; sách giáo khoa đầu tiên chính là những quan hệ trong Gia Ðình, giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ với con cái, giữa Gia Ðình này với Gia Ðình khác" và "những bài học đầu tiên về cầu nguyện, về mến Chúa yêu người đều được học và được dạy trong Gia Ðình" (xem Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam năm 1998, trích dẫn Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 7)

3. Ðể trở thành trung tâm của Phúc Âm hóa, các Gia Ðình Ki-tô hữu phải thực hiện những gì?

Ðể trở thành "trung tâm của Phúc Âm hóa", điều đầu tiên Gia Ðình Ki-tô hữu phải có là ý thức mạnh mẽ và sâu sắc về vai trò và trách nhiệm Phúc Âm hóa của mình. Vai trò và trách nhiệm ấy, một đàng do chính Thiên Chúa đã trao cho Gia Ðình khi đặt Gia Ðình là nguồn gốc và nền tảng của xã hội, đàng khác được Giáo Hội cậy nhờ vì không có Gia Ðình, Giáo Hội không thể thâm nhập vào môi trường đặc biệt này và biến nó thành tác nhân của công cuộc Phúc Âm hóa. Mỗi thành viên và cả Gia Ðình phải tạo ý thức cho mình và cho nhau bằng việc lắng nghe Lời Chúa, học hỏi Giáo Lý và quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh, nhất là của người nghèo.

Tiếp đến Gia Ðình Ki-tô hữu hải mỗi ngày một đón nhận Tin Mừng sâu sắc hơn và trưởng thành hơn trong đời sống Ðức Tin, để được Phúc Âm hóa và có sức Phúc Âm hóa người khác nhiều hơn, như Ðức Thánh Cha Phao-lô 6 và Gio-an Phao-lô 2 nhấn mạnh:

"Tùy mức độ Gia Ðình Ki-tô hữu đón nhận Tin Mừng và trưởng thành trong Ðức Tin mà nó trở thành một cộng đồng Phúc Âm hóa. Chúng ta hãy nghe lại lời của Ðức Phao-lô 6: "...Cũng như Giáo Hội, Gia Ðình có nghĩa vụ tạo môi trường cho Tin Mừng được truyền đạt tới và từ đó Tin Mừng được lan tỏa ra. Vậy trong một Gia Ðình ý thức về sứ mạng này, mọi phần tử Gia Ðình đều Phúc Âm hóa và dều được Tin Mừng hóa. Cha mẹ chẳng những truyền thụ Tin Mừng cho con cái mà còn có thể nhận lại chính Tin Mừng ấy đã được sống sâu sắc từ phía con cái. Và một Gia Ðình như thế sẽ có sức Tin Mừng hóa nhiều Gia Ðình khác và cả môi trường chung quanh" (Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, 71; ÐSGÐ, 52).

Ðể mỗi thành viên trong Gia Ðình Ki-tô hữu ý thức sâu sắc về vai trò và trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Gia Ðình cũng như để Gia Ðình đón nhận Tin Mừng ngày một sâu sắc hơn và trưởng thành hơn trong đời sống Ðức Tin, Gia Ðình không thể không sử dụng các phương thế truyền thống của Giáo Hội trong lãnh vực tâm linh để gặp gỡ Thiên Chúa và trở nên thánh thiện. Ðó là: cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tĩnh tâm, học hỏi, rèn luyện các nhân đức Ki-tô giáo (khiêm nhường, từ bỏ, hy sinh, yêu thương, phục vụ tha nhân vì Chúa), kiểm điểm đời sống, tham gia sinh hoạt các nhóm Chia Sẻ Lời Chúa, cầu nguyện hay các hội đoàn nhất là các hiệp hội Gia Ðình. Sử dụng các phương thế này, Gia Ðình sẽ như được tiếp thêm dầu, xăng, sức mạnh để đón nhận Tin Mừng sâu sắc hơn và sống Ðức Tin trưởng thành hơn.

Còn phải nhấn mạnh đến bổn phận của cha mẹ Ki-tô hữu trong việc giáo dục Ðức Tin cho con cái: "Các cha mẹ Ki-tô hữu có bổn phận đặc biệt phải giáo dục cho con cái họ biết cầu nguyện, phải đưa chúng tới chỗ dần dần khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa và đối thoại cá nhân với Ngài...; trẻ em phải được dạy dỗ để nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân, theo như Ðức Tin chúng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội" (Tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, 3; ÐSGÐ, 60).

III. Kết Luận:

Nếu mỗi Gia Ðình Ki-tô hữu trở thành một trung tâm Phúc Âm hóa thì trước hết những người trong Gia Ðình và toàn Gia Ðình sẽ được Phúc Âm hóa và sau đó mỗi người và cả Gia Ðình sẽ là thừa tác viên của công cuộc Phúc Âm hóa. Trong viễn tượng tốt lành ấy, công cuộc Phúc Âm hóa chắc chắn sẽ có kết quả nhanh chóng và sâu rộng hơn nhiều. Chúng ta hãy nỗ lực và cầu nguyện để Gia Ðình mình và các Gia Ðình thân nhân bạn bè trở thành các trung tâm của Phúc Âm hóa.

IV. Chia Sẻ:

1. Hãy chia sẻ với nhau việc giáo dục Ðức Tin cho con cái trong Gia Ðình: ông bà anh chị dùng những phương thế nào? kết quả ra sao? rút được kinh nghiệm gì?

2. Hãy chia sẻ với nhau việc cả Gia Ðình thực hiện nhiệm vụ Phúc Âm hóa: trong Gia Ðình, trong khu xóm, trong Giáo Xứ, trong xã hội: ông bà anh chị dùng những phương thế nào? kết quả ra sao? rút được kinh nghiệm gì?

V. Thực Hành:

Mỗi ngày, mỗi tuần Gia Ðình tôi thực hiện một công việc (xác định một việc làm cụ thể, ví dụ: đọc và suy niệm Lời Chúa 15 phút, học hay dạy Giáo Lý, thăm người nghèo, giúp đỡ người túng thiếu v.v...) để chu toàn trách nhiệm Phúc Âm hóa của Gia Ðình tôi trong môi trường Gia Ðình tôi đang sống.


8. Gia đình Ki-tô hữu (4): là Hội Thánh Tại Gia

Gs. Nguyễn Văn Nội 

I. Nhập Ðề:

Có nhiều định nghĩa về Gia Ðình Ki-tô hữu. Nhưng có một định nghĩa gây xốc mạnh nhất và gây xốc cả những người sống đời sống Gia Ðình, những người xưa nay vẫn đề cao và bênh vực Gia Ðình. Ðó là định nghĩa: "Gia Ðình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia, là Hội Thánh nhỏ" Không phải Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 là người đầu tiên có sáng kiến gọi Gia Ðình Ki-tô hữu như thế (xem Tông huấn "Ðời sống Gia Ðình" tức Familiaris Consortio, 21) mà chính là Công Ðồng Vatican 2 đã ví Gia Ðình Ki-tô hữu như một Hội Thánh nhỏ (xem Hiến Chế "Ánh Sáng Muôn Dân", 11).

Chúng ta có thể coi đề tài "Gia Ðình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia" là chóp đỉnh của 12 đề tài về Gia Ðình mà Hội đồng Giáo Hoàng về Gia Ðình đề nghị chúng ta suy tư và trao đổi.

Vậy hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau lần lượt tìm hiểu 3 vấn đề sau đây:

-          Thế nào là "Hội Thánh Tại Gia"?

-          Xác định "Gia Ðình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia" là có ý nói gì?

-          Ðể trở thành Hội Thánh Tại Gia, Gia Ðình Ki-tô hữu phải thể hiện mình như thế nào?

II. Trình Bày:

1. Thế nào là "Hội Thánh Tại Gia" (Ecclesia domestica)?

Trước hết chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa nói về sự kiện có một không hai trong lịch sử: Thiên Chúa đầu thai làm người trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a, trong khung cảnh của một Gia Ðình:

"Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà". Nghe lời ấy, bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao, Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ða-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1, 26 - 33).

Vậy, thế nào là Hội Thánh? - Hội Thánh thường được hiểu là cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời và là Con Một Thiên Chúa đã được gửi đến trần gian để bộc lộ Thiên Chúa là Tình Yêu Cứu Ðộ và đưa con người vào mối hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa và với nhau. Vì thế Hội Thánh được hiểu là cộng đoàn hiệp thông, xuất phát từ Mầu Nhiệm Hiệp Thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðồng thời Hội Thánh còn được hiểu là Cộng Ðoàn Dân Chúa, có một lịch sử riêng bắt nguồn từ lịch sử Ít-ra-en là dân riêng của Gia-vê Thiên Chúa thời Cựu Ước trải dài suốt lịch sử nhân loại. Hội Thánh ấy có một đời sống riêng biệt và đặc thù là đời sống Tin Cậy Mến được thể hiện trong việc cử hành phụng vụ và Bí Tích và việc bác ái phục vụ. Hội Thánh ấy có sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng, là dấu chỉ và công cụ của Nước Trời.

Còn thế nào là Hội Thánh Tại Gia? - Hội Thánh Tại Gia là Hội Thánh thu nhỏ về mặt số lượng, về thời gian và không gian hoạt động của các thành viên, nhưng không thu nhỏ hay giảm thiểu về bản chất và sứ mạng. Thật vậy Hội Thánh có đời sống thế nào thì Gia Ðình Ki-tô hữu có đời sống thế ấy; Hội Thánh có sứ mạng gì thì Gia Ðình Ki-tô hữu cũng có sứ mạng y như thế. Ngoài ra Gia Ðình Ki-tô hữu là trường học Ðức Tin đầu tiên, là môi trường sống các Bí Tích và thực hành các nhân đức Ki-tô Giáo.

Ðoạn Thánh Kinh trên cho thấy Chúa Giê-su Ki-tô đã sinh ra và lớn lên trong Gia Ðình Na-da-rét của Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Hội Thánh không gì khác hơn là "Gia Ðình của Thiên Chúa". Trong lịch sử Ki-tô Giáo ngay từ đầu, hạt nhân của các cộng đoàn tín hữu đầu tiên thường được cấu thành bởi những người "cùng với tất cả nhà mình" trở thành các tín hữu (xem CV 18, 8).

2. Khẳng định "Gia Ðình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia" là có ý nói gì?

Khẳng định "Gia Ðình Ki-tô hữu là Hội Thánh Tại Gia" có nhiều ý nghĩa:

-          Gia Ðình là cộng đoàn hiệp thông và liên đới chặt chẽ giữa các ngôi vị:

Theo Tông huấn "Ðời sống Gia Ðình" thì một trong bốn bổn phận trọng yếu của Gia Ðình Ki-tô hữu là đào tạo một cộng đồng hiệp thông giữa các ngôi vị, tức giữa các thành viên của Gia Ðình với nhau, được coi là bình đẳng về phẩm giá và ơn gọi trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Sự hiệp thông mẫu của Gia Ðình cũng như của Hội Thánh là Mầu Nhiệm Thông Hiệp của Thiên Chúa Ba Ngôi là Ðấng thượng trí, toàn năng, cực thánh và yêu thương tột cùng (ÐSGÐ, 18 - 27). Vì thế nét nổi bật của Gia Ðình Ki-tô hữu phải là một cuộc sống thuận hòa, yêu thương, đầm ấm, san sẻ, giúp đỡ, hy sinh, quên mình vì nhau và vì hạnh phúc của nhau.

-          Gia Ðình là cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa:

Nhờ Bí Tích Phép Rửa mà mọi người trong Gia Ðình được chia sẻ chức vụ Tư Tế Cộng Ðồng của Chúa Ki-tô, và Gia Ðình trở thành cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa thông qua đời sống cầu nguyện và lãnh nhận các Bí Tích. Một Gia Ðình như thế sẽ tỏa sáng sự bình an, phó thác, cách sống siêu thoát, không chạy theo danh vọng, của cải, lạc thú mà luôn tìm kiếm những giá trị nhân bản và tâm linh chân chính.

-          Gia Ðình là cộng đoàn đón nhận, sống và làm chứng Tin Mừng:

Nhờ Bí Tích Thêm Sức, Thánh Thể và Hôn Phối mà các thành viên của Gia Ðình được kết hợp mật thiết hơn với Chúa Ki-tô và được mời gọi đón nhận, sống và làm chứng cho Tin Mừng Tình Yêu cũng là Tin Mừng Thập Giá. Gia Ðình sống như thế sẽ thể hiện tính sinh động, lạc quan, sáng tạo và luôn luôn đổi mới, tạo nên sự thu hút mạnh mẽ đối với những ai gần gũi tiếp xúc.

-          Gia Ðình là cộng đoàn phục vụ con người và xã hội:

Bí Tích Truyền Chức Thánh và Hôn Phối là hai Bí Tích có mục đích phục vụ cộng đoàn tức phục vụ xã hội và cộng đồng nhân loại. Chính vì thế mà Ðức Gio-an Phao-lô 2 đã xác định Gia Ðình Ki-tô hữu có bổn phận phải tham gia vào việc phát triển xã hội và Gia Ðình là cộng đoàn phục vụ con người (ÐSGÐ, 42 - 48 và 63 - 64). Như vậy Gia Ðình Ki-tô hữu không chỉ biết lo cho bản thân mình mà còn phải biết lo cho người khác và cho xã hội được phát triển hài hòa và đúng đắn theo ý muốn yêu thương của Thiên Chúa.

3. Ðể trở thành Hội Thánh Tại Gia, các Gia Ðình Ki-tô hữu phải thể hiện mình như thế nào?

Ðể trở thành "Hội Thánh Tại Gia", điều đầu tiên Gia Ðình phải có là ý thức mạnh mẽ và sâu sắc về căn tính cao cả và chức năng trọng đại của mình. Căn tính và chức năng ấy xuất phát từ Kế hoạch Tạo Dựng và Cứu Ðộ của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế mỗi thành viên và cả Gia Ðình phải biết trân trọng căn tính cao cả và chức năng trọng đại của mình và phải nỗ lực hết sức mình để bảo vệ căn tính và thực thi chức năng ấy.

Tiếp đến, Gia Ðình phải mỗi ngày một thể hiện rõ nét hơn những tính chất căn bản của một Hội Thánh Tại Gia là một cộng đoàn hiệp thông liên đới trong yêu thương, một cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa, một cộng đoàn gắn bó chặt chẽ với Lời Chúa (đón nhận, sống và làm chứng) và một cộng đoàn vì người khác, vì xã hội và vì thế giới cũng như Hội Thánh được Chúa Giê-su lập nên để phục vụ Ơn Cứu Rỗi của con người và sự hoàn thành của Nước Trời nơi trần gian.

Nhất là trong bối cảnh của xã hội và thế giới hôm nay, trong đó con người đang có xu hướng hạ thấp phẩm giá của Hôn Nhân và Gia Ðình, coi thường đời sống và các giá trị tâm linh, sống theo chủ nghĩa cá nhân ích kỷ mà quên đi tình liên đới giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng, thì Gia Ðình Ki-tô hữu càng phải nêu cao căn tính cao cả và chức năng trọng đại của mình là một Gia Ðình của Chúa, là một Hội Thánh Tại Gia. Cũng trong bối cảnh xã hội và thế giới hôm nay, tính cộng đoàn được đề cao hơn bao giờ hết ở ngoài đời cũng như trong Ðạo, thì Gia Ðình Ki-tô hữu càng phải làm nổi bật tính "tập thể Gia Ðình" trong mọi chọn lựa và dấn thân. Không phải chỉ một cá nhân của Gia Ðình mà cả Gia Ðình chọn lựa và dấn thân theo Tin Mừng: sống trong sạch, thanh bần, siêu thoát, bác ái, yêu thương và phục vụ.

III. Kết Luận:

Nếu các Gia Ðình Ki-tô hữu thực sự là Hội Thánh nhỏ, Hội Thánh Tại Gia thì con người, Giáo Hội và xã hội sẽ mau chóng được đổi mới, không chỉ cách hời hợt bên ngoài mà cách thâm sâu bên trong. Vì chưng, khi các Gia Ðình Ki-tô hữu ý thức về căn tính cao cả và chức năng trọng đại của mình và nỗ lực thể hiện sự ý thức ấy bằng lời nói việc làm cụ thể, thì các Gia Ðình sẽ tạo nên một thế giới mới trong một nhân loại mới.

IV. Chia Sẻ:

1. Nhìn vào Gia Ðình của ông bà anh chị, bạn bè và người xung quanh có đánh giá như thế nào? Bản thân ông bà anh chị có dám cho rằng Gia Ðình mình đã xứng danh là một Hội Thánh nhỏ, Hội Thánh Tại Gia không?

2. Ðể Gia Ðình ông bà anh chị thực sự là một Hội Thánh nhỏ, Hội Thánh Tại Gia, ông bà anh chị thấy Gia Ðình mình cần phải làm gì hơn nữa?

V. Thực Hành: