Thánh Lễ Hy Tế Tuyệt Vời
GIỚI THIỆU & LỜI TỰA
GIỚI THIỆU
Tác giả cuốn sách này, cha Martin Von Cochem, dòng Phanxicô, cũng là tác giả của một số khảo luận thiêng liêng khác rất uyên thâm, cả bằng tiếng Latinh và tiếng Đức. Tuy nhiên, theo ý kiến của các Bề Trên của Ngài vào thời ấy, không một sách nào của Ngài sánh được về mức độ thông thái và hữu ích bằng cuốn Hy Tế Thánh Lễ DẪN GIẢI.
Ngài viết sách này dựa trên các giáo huấn của Hội Thánh, của các Giáo Phụ, các nhà thần học và tác giả thiêng liêng đương thời. Hơn nữa, sách được viết với một văn phong nhẹ nhàng và ấn tượng, đọc sách này chắc chắn giúp cho độc giả hiểu biết hơn về bản chất Thánh Lễ, đốt cháy lòng sốt mến đối với Thánh Lễ, và gia tăng lòng ao ước không bỏ lỡ cơ hội nào để cử hành hay tham dự Thánh Lễ mỗi khi có dịp.
Cha Martin Von Cochem sinh năm 1625 tại Cochem, bên bờ sông Moselle, và mất năm 1712 rại Waghausel. Gần ba trăm năm đã trôi qua kể từ khi cuốn Hy Tế Thánh Lễ dẫn giải được xuất bản lần đầu. Đây là lần ấn bản thứ 399 bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Chỉ Thiên Chúa mới biết được cuốn sách này đã tỏ ra cần thiết đến thế để đưa các Kitô hữu trở về với nguồn mạch đích thực của ơn Thánh Sủng và cách đúng đắn để Thờ Phượng Thiên Chúa, thì nhu cầu này càng khẩn thiết hơn trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà người Công Giáo đang gặp phải những nguy cơ còn lớn hơn thời ấy, cả về Đức Tin và Thực Hành sống đạo. Như cha Von Cochem nói rất đúng, Hy Tế Thánh Lễ là một kho báu không thể cạn kiệt, từ đó tất cả chúng ta, người tội lỗi cũng như người tốt lành, có thể lấy ra được những của cải chúng ta đang rất cần.
Đó là mạch suối mà tất cả chúng ta phải đến uống nếu muốn kiên vững trong việc thực hành nhân đức hay tẩy rửa tội lỗi của mình. Nhưng ai có thể đánh giá đúng hay sử dụng tốt cái gì nếu không biết gì về nó? Vì vậy, điều đáng ao ước nhất trong thời đại chúng ta là những kho tàng vô giá ẩn tàng trong Thánh Lễ phải được phổ biến rộng rãi và được mọi người quí chuộng. Không thể tìm được phương thế nào tốt hơn là đặt vào tầm với của mọi người cuốn sách này – Hy Tế Thánh Lễ dẫn giải – của cha Martin Von Cochem.
Chúng tôi chân thành ước mong rằng, nhờ ơn Chúa, ấn bản mới này của cuốn sách có thể đem lại nguồn an ủi, sự soi sáng và ơn cứu độ muôn đời cho vô số linh hồn.
LỜI TỰA
(Viết trước công đồng Vaticanô II)
Đây là một cuốn sách rất xưa, tác giả đã viết sách này với một Đức Tin kiên cường, một tâm tình sốt sắng vững vàng không chút hoài nghi và lòng biết ơn Thiên Chúa vì công trình siêu vời của Người. Sách sẽ đem lại cho độc giả thời nay những tâm tình mới mẻ trong tình trạng đa số đang sống và hành động như thể Thiên Chúa không ở gần chúng ta và HY TẾ CỨU ĐỘ của Người không phải là việc Người bị sát tế và đổ máu thực sự. Choáng ngợp trước những điều kỳ diệu của thế giới vật chất hôm nay, lòng tin của chúng ta vào đời sống siêu nhiên của Hội Thánh cũng giống như đứa bé hư hỏng tin vào tình yêu của cha mẹ nó, nghĩa là coi tình yêu này là chuyện đương nhiên và không đáng quan tâm. Một số người chỉ tin vào một cách chung chung, trừu tượng, và đi lễ giống như một người không thèm ăn nhưng ngồi vào bàn chỉ vì đã đến bữa – chỉ theo thói quen mà thôi.
Để lãnh hội tất cả thực tại thần linh của hành vi Tạ Ơn không thể hiểu thấu mà Chúa Giêsu Kitô tái hiện hàng ngày qua thừa tác vụ của các linh mục của Người, chúng ta hãy dựa vào những lời dạy trong sách Giáo Lý của Công Đồng Trento để nhớ lại giáo lý mà mọi người Công Giáo phải chấp nhận như là sự thật đức tin, đồng thời dựa vào tác giả đạo đức này để khơi dậy một cách hoàn toàn hiệu quả niềm tin quảng đại của con tim chúng ta.
“Trong tất cả các Mầu Nhiệm Thánh mà Chúa chúng ta để lại như những nguồn Ân Sủng không bao giờ cạn, không Mầu Nhiệm nào có thể sánh với Bí Tích Thánh Thể Cực Trọng” (Sách Giáo Lý Công Đồng Trento, Phần II).
Hoàn cảnh Chúa Giêsu Kitô lập Bí Tích này được ghi lại trong các sách Tin Mừng và trong các thư của Thánh Phaolô được Chúa linh hứng.
“Bí Tích Tạ Ơn được Chúa thiết lập vì hai mục đích lớn này: trở thành Thần Lương nuôi linh hồn chúng ta, giữ gìn và nâng đỡ đời sống thiêng liêng và ban cho Hội Thánh một HY TẾ muôn đời, nhờ đó tội lỗi chúng ta được đền bù và biến đổi cơn thịnh nộ của Cha Trên Trời thành lòng thương xót, biến đổi sự báo oán công thẳng của Người thành lòng khoan nhân, vì những tội ác của chúng ta thường xuyên xúc phạm đến Người một cách nặng nề.
“Hy Tế Thánh Lễ và HY TẾ TRÊN THẬP GIÁ cũng là một: cùng một Tế Vật là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình một lần duy nhất, một HY TẾ đổ máu trên bàn thờ Thập Giá. HY TẾ đổ máu và không đổ máu vẫn chỉ là một và lễ dâng trên Thập Giá nay được tái hiện hàng ngày trong HY TẾ TẠ ƠN, để vâng theo lệnh truyền của Chúa: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày (Lc 22:19; I Cr 11:24). Vị Thượng Tế vẫn là một- Đức Giêsu Kitô; các thừa tác viên dâng hy tế này thì thánh hiến các mầu nhiệm thánh không phải nhân danh mình nhưng nhân danh Đức Kitô. Đây là điều mà những điều Truyền Phép tuyên bố: linh mục không nói: Đây là minh Đức Kitô, nhưng nói: Đây là Minh Thầy; và mặc lấy nhân cách của Đức Kitô, linh mục biến đổi bản thể của Bánh và Rượu thành bản thể của Mình và Máu Đức Kitô thực sự. Do đó, Hy Tế Thánh Lễ không chỉ là một hy tế ngợi khen và tạ ơn, hay một sự tưởng nhớ HY TẾ THẬP GIÁ , mà cũng là một hy tế đền tội, nhờ đó Thiên Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng thương (Giáo Lý Trentô, Phần III).
Đây là một giáo lý bí nhiệm và đáng kinh ngạc, ngay cả đối với người tín hữu đạo đức và người Công Giáo cũng không lấy làm lạ trước sự ngạc nhiên và do dự của các anh em Kitô giáo không phải là Công Giáo., vì những người này không được hưởng những mầu nhiệm ban sự sống của Đức Kitô khiến họ thiếu hiểu biết và nghĩ rằng Thánh Lễ là một sự bịa đặt của thời Trung Cổ.
Để chỉ dẫn cho họ, cũng như để tăng thêm hiểu biết cho các tín hữu của chúng ta, chúng tôi trình bày lại dưới đây văn kiện về Các Nghi Lễ Tông Tòa – Các nghi lễ khi tham dự Hy Tế Thánh Lễ theo qui định của chính các Thánh Tông Đồ vào dịp thánh hiến một Giám Mục. Khi chúng tôi lưu ý tới sự kiện rằng các bản văn này đã được thừa nhận muộn nhất là từ thế kỷ thứ 3 của kỷ nguyên Kitô giáo và bản dịch sau đây là của một mục sư Tin Lành vốn nhìn nhận tính xác thực của các văn kiện gốc – thì chúng tôi muốn cung cấp cả cho các bạn không phải là người Công Giáo, những bằng chứng hiển nhiên nhất về sự tồn tại của một chức tư tế Kitô Giáo, được tấn phong để dâng hy tế, và về nguồn gốc thần linh của HY TẾ THÁNH LỄ.
Kết luận là tất yếu và hiển nhiên. Một thừa tác vụ mà không hiến dâng Hy Tế Thánh Lễ lên Thiên Chúa Toàn Năng thì không phải là một thừa tác vụ chân chính, không phải là chức linh mục của Đức Kitô. Một Hội Thánh Kitô Giáo mà không nhìn nhận nghi thức đặt tay trên những con người để dành riêng họ cho việc dâng hy tế, và không thi hành Hy Tế Thánh Lễ là hành vi thờ phượng cơ bản của Kitô Giáo, thì không phải là Hội Thánh thật của Đức Kitô.
Chúng tôi sẽ chỉ in ra ở đây nguyên văn những đặc tính chính của Nghi Lễ Tông Tòa này, và yêu cầu độc giả so sánh với các kinh nguyện và lễ nghi Thánh Lễ được thấy trong các sách kinh Công Giáo thời nay. Những độc giả nào muốn được đọc toàn bản văn sẽ có thể đọc trong Ante Nicene Christian Library. Quyển 17, tr.212. Để giúp dễ tham chiếu và so sánh, chúng tôi sẽ chia bản văn thành các đoạn tương ứng với cách trình bày thông dụng về các phần Thánh Lễ trong các sách lễ giáo dân.
NHẬP LỄ, LỜI TỐNG NGUYỆN, THÁNH THƯ VÀ TIN MỪNG
Và sau khi đọc sách Luật, các Tiên Tri, Thánh Thư, sách Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng, người được thụ phong phải chào Hội Thánh và nói: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô , Chúa chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em”. Mọi người thưa “Và ở cùng Cha”.
BÀI GIẢNG
Sau những lời ấy, chủ tế nói vài lời khuyên nhủ cộng đoàn (Tiếp theo là phần Giải tán những ai chưa chịu Phép Rửa, rất quen thuộc trong Hội Thánh sơ thời, bài Huấn dụ các tân tòng, trừ quỷ để họ được soi sáng và sám hối. Sau đó, Giám Mục cầu nguyện và chào cộng đoàn như sau:)
Bình an của Chúa ở cùng anh chị em. Và cộng đoàn thưa: Và ở cùng cha.
DÂNG LỄ
Chúng ta hãy đứng thẳng với thái độ run sợ mà dâng lễ. Khi làm việc này, các Phó tế mang lễ vật tới Giám Mục tại bàn thờ; và các linh mục đứng bên phải và bên trái của Giám Mục như những môn đệ đứng trước mặt thầy mình.
Vì vậy, Giám Mục cùng với các Linh Mục cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên lễ vật, làm cho bánh trở thành Mình Chúa Kitô và rượu trở thành Máu Chúa Kitô; và khi kết thúc lời nguyện, Giám Mục mặc lễ phục trọng thể, đến đứng tại bàn thờ làm dấu Thánh Giá trên trán và nói:
Nguyện xin Ân Sủng của Thiên Chúa Toàn Năng, tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Mọi người đồng thanh thưa: Và ở cùng Cha.
KINH TIỀN TỤNG
- Giám Mục : Hãy nâng tâm hồn lên
- Cộng Đoàn: Chúng con đang hướng về Chúa
- Giám Mục: Hãy tạ ơn Chúa - Cộng Đoàn: Thật là chính đáng và phải đạo.
Rồi Giám Mục đọc: Thật vô cùng chính đáng và phải đạo việc chúng con ca ngợi Chúa , là Thiên Chúa thật, Đấng có trước muôn loài muôn vật, từ Người mà toàn thể gia đình trên trời dưới đất được đặt tên (Ep 3:15), chỉ mình Chúa là người Con Hằng Hữu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Sự Khôn Ngoan hằng sống, trưởng tử của muôn loài thọ tạo, Thần Sứ của Đấng Cố Vấn cao cả, (Cl 1:15), và vị Thượng Tế của Chúa, nhưng là Vua và Chúa muôn loài có trí khôn và càm giác, Đấng có trước muôn loài nhờ Người mà muôn vật được tạo thành….Vì toàn thể tạo vật này, xin dâng mọi vinh quang lên Người, lạy Chúa Toàn Năng. Người là Đấng mà muôn cơ binh thiên thần, tổng lãnh thiên thần, các bệ thần, các quản thần, các quyền thần phải thờ lạy. Các thần Kêrubim và Sêraphim… cùng với muôn muôn tổng lãnh thiên thần và muôn muôn thiên thần (Đn 7:10) không ngừng hát ca chúc tụng, chớ gì mọi người đồng thanh cùng các ngài tung hô rằng:
THÁNH, THÁNH, THÁNH
Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa: Chúc tụng Chúa muôn đời. Amen.
Sau đó Giám Mục nói: Vì Chúa thật là thánh, chí thánh, vĩ đại và tối cao muôn đời. Và Con Chúa cũng là thánh, là Chúa và Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô…
LỄ QUI
Người (Đức Giêsu Kitô) là Đấng dựng nên loài người đã vui lòng vâng ý Cha để làm người. Đấng làm luật trở thành người vâng phục lề luật: Đấng là Thượng Tế trở thành Hy Tế: Đấng là Mục Tử trở thành con chiên. Người đã làm nguôi con giận của Cha, là Thiên Chúa và Cha của Người và hòa giải Cha với thế giới, giải phóng loài người khỏi cơn giận hòng giáng xuống trên họ, và được sinh ra bởi một Trinh Nữ; Người vốn là Ngôi Lời Thiên Chúa được sinh ra về thể xác; Con Yêu Dấu trở thành trưởng tử của muôn loài thụ tạo… và Người đã sinh ra trong thế giới, vốn không có xác thế, Người đã mặc lấy xác thế; vốn sinh ra trước thế gian. Người đã sinh ra trong thời gian: Người đã sống thánh thiện và dạy theo Lề Luật… Người bị giao nộp cho Tổng Trấn Philatô, Người vốn là Thẩm Phán thì lại bị xét xử, và Người vốn là Đấng Cứu Thế thì lại bị kết án; Người vốn không thể chịu đau đớn thì lại bị đóng đinh trên thập giá, và vốn là bất tử thì lại chết; vốn là Đấng ban sự sống thì lại bị chôn cất;… Người đã sống lại ngày thứ ba;… Người được đưa lên trời, ngự bên hữu Cha, là Thiên Chúa và là Cha của Người.
Vì biết rằng Người đã chịu mọi sự ấy vì chúng con, chúng con tạ ơn Cha, lạy Thiên Chúa Toàn Năng, không theo cách chúng con phải làm, nhưng theo sức chúng con có thể làm, và làm tròn lệnh truyền của Người.
TRUYỀN PHÉP
Vì trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh (1 Cr 11) trong tay thánh thiện và tinh tuyền của người, ngước mắt nhìn lên Cha là Thiên Chúa và là Cha của Người, Người bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Đây là mầu nhiệm của Giao ước Mới; các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là Mình Ta bị bẻ ra cho nhiều người được tha tội (Mt 26; Mc 14; Lc 22).
Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, hòa lẫn rượu và nước, làm phép và trao cho họ và nói: Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là Máu Ta đổ ra cho nhiều người được tha tội: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Vì mỗi khi các con ăn bánh này và uống chén này, các con loan truyền việc Ta chịu chết, cho đến khi Ta lại đến.
SAU DÂNG MÌNH THÁNH
Vì vậy, khi tưởng nhớ cuộc Khổ Nạn, sự Chết và Sống Lại của Người từ trong cõi chết, việc Người về trời và lại đến lần thứ hai trong tương lai, khi Người đến trong vinh quang và quyền năng để phán xét kẻ sống và kẻ chết, thưởng công cho mỗi người tùy theo mỗi việc họ làm, chúng con dâng lên Cha, là Vua và Thiên Chúa chúng con, bánh và chén rượu này, để tạ ơn Cha, nhờ Người mà Cha cho chúng con được xứng đáng đứng trước mặt tôn nhan Cha và dâng hy tế lên Cha. Chúng con nài xin Cha nhìn đến những lễ vật chúng con đang đặt trước mặt Cha, lạy Chúa, mặc dù Cha không cần lễ vật nào của chúng con. Xin Cha thương nhận để tôn vinh Đức Kitô Con Cha, và xin sai Thánh Thần Cha ngự xuống hy tế này, vì Người là chứng nhân về những đau khổ của Đức Kitô Giêsu Chúa chúng con, để Người cho thấy bánh này, chính là Mình Đức Kitô, và chén rượu này chính là Máu Đức Kitô, để những ai được thông phần vào Mình và Máu Người, được thêm sức mạnh trong lòng đạo đức; được tha thứ tội lỗi và được giải thoát khỏi ma quỷ và những sự lừa dối của nó, được tràn đầy Thánh thần, được trở nên xứng đáng với Đức Kitô Con Cha, và được hưởng sự sống trường sinh nhờ được hòa giải với Cha, lạy Thiên Chúa Toàn Năng. Lạy Chúa con cũng cầu xin Chúa thương đến Hội Thánh đang trải rộng đến tận cùng thế giới mà Chúa đã mua chuộc bằng giá Máu của Đức Kitô Con Cha, xin Cha gìn giữ họ không lay chuyển và thoát khỏi biến loạn cho tới ngày tận thế, cho mọi giám mục chân chính đang nắm giữ lời sự thật. Và mọi người cùng thưa: Amen.
LẠY CHÚA, CON CHẲNG ĐÁNG
Xin thánh hóa hồn xác chúng con, và ban cho chúng con ơn được tẩy sạch mọi ô uế nơi thân xác và tinh thần (2Cr 7:1), và ban cho chúng con mọi sự lành Cha đã dọn sẵn cho chúng con, nhưng xin Cha là nguồn nâng đỡ, ủi an và bảo vệ chúng con, nhờ Đức Kitô Con Cha, nhờ Người mọi vinh quang, ngợi khen và tạ ơn thuộc về Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Sau khi mọi người thưa Amen: Xin mọi người chú ý.
TRƯỚC RƯỚC LỄ
Rồi giám mục nói với cộng đoàn như sau: Sự thánh dành cho người thánh. Và toàn dân đáp: Chỉ có một Đấng Thánh, chỉ có một Chúa, một Đức Giêsu Kitô, chúc tụng và vinh quang Đức Chúa Cha muôn đời. Amen.
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và vinh danh Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa là Thiên Chúa ngự đến với chúng ta. Hosanna trên các tầng trời (Lc 2:14; Mt 21:9)
RƯỚC LỄ
Sau đó, Giám Mục rước lễ, rồi đến các linh mục, phó tế… và toàn thể giáo dân theo thứ tự, với lòng cung kính và kính sợ Thiên Chúa… và Giám Mục cho rước lễ và nói: Mình Chúa Kitô. Người rước lễ thưa: Amen. Rồi phó tế cầm lấy chén thánh và nói Máu Chúa Kitô, chén sự sống; người rước lễ đáp: Amen.
SAU RƯỚC LỄ
Và khi ai nấy đã rước lễ xong… phó tế nói: Giờ đây chúng ta đã được rước Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy tạ ơn Người đã cho chúng ta xứng đáng thông phần vào các mầu nhiệm thánh của Người. Chúng ta hãy cầu xin Người đừng để chúng ta phải phạt, nhưng được cứu rỗi cả hồn lẫn xác, được gìn giữ trong lòng đạo đức, được tha thứ tội lỗi, và được hưởng sự sống trường sinh.
BAN PHÉP LÀNH
Rồi phó tế nói: Anh chị em hãy cúi mình nhận phép lành của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa. Giám Mục đọc thêm lời nguyện này và nói. Lạy Thiên Chúa Toàn Năng là Thiên Chúa thật… xin dủ lòng thương con và nghe lời con nguyện vì Danh Chúa, xin chúc lành cho những người đang cúi đầu trước Chúa, và ban cho họ được ước nguyện của lòng họ… Vì vinh quang, ca ngợi, uy linh, phụng thờ và bái lạy thuộc về Chúa, cùng với Đức Giêsu Kiô Con Chúa là Thiên Chúa và là Vua chúng con, và Chúa Thánh Thần, bây giờ và mãi mãi muôn đời. Amen.
KẾT LỄ
Và phó tế nói: Lễ đã xong, chúc anh chị em đi bình an.
Các qui định này về việc phụng tự mầu nhiệm, các Tông Đồ chúng tôi truyền cho anh em là các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế thi hành.
Theo cách thức, các Tông Đồ Phêrô và Gioan, Giacobê, Anrê và Phaolô đã cử hành HY TẾ THÁNH LỄ, và bằng một ngôn ngữ mạnh và long trọng nhất mà con người có thể nói ra, các ngài đã diễn tả niềm tin vào sự hiện diện thật của Chúa Giêsu Kitô trong bí tích Thánh Thể.
Độc giả thân mến, bạn hãy nói cùng với Thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi với ai? Chỉ mình thầy có những lời ban sự sống trường sinh.”
Xin hãy tin lời tôi! Và để cầu nguyện của bạn và của tôi, “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho con!” được Chúa lắng nghe, bạn hãy đọc cuốn sách được trao vào tay bạn đây, và hãy nhớ đến tác giả khi tham dự HY TẾ THÁNH.
Camillus Paul Maes,
Giám Mục Covington
Lễ Đức Mẹ Núi Camêlô, 1896
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT THÁNH LỄ
CỐT LŨY CỦA HY TẾ
Thánh Lễ trong tiếng Latinh gọi là sacrificium, nghĩa là “hy tế”. Hy tế là một cái gì cao cả và quan trọng hơn là ‘lễ vật’. Ý nghĩa đúng và đầy đủ của Hy Tế là sự dâng hiến cho Thiên Chúa Tối Cao một cái gì bên ngoài chúng ta, được thánh hiến hay thánh hóa một cách trọng thể bởi một thừa tác viên của Hội Thánh được chỉ định hợp pháp và có thẩm quyền, để nhìn nhận và chứng thực quyền thống trị tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng trên mọi tạo vật.
Hy tế trọng thể này chỉ có thể được dâng lên cho một mình Thiên Chúa mà thôi, đó là điều đã được Thánh Augustinô chứng minh qua phong tục tập quán của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngài nói, “Có ai trên thế giới này đã từng tuyên bố rằng Hy Tế phải được dâng lên cho một ai khác ngoại trừ một mình Thiên Chúa thật, hay cho các tà thần mà họ tưởng lầm là Thiên Chúa thật hay không?” Và ở một chỗ khác, ngài nói, “Ma quỷ hẳn sẽ không đòi những kẻ thờ chúng phải dâng hy tế cho chúng không biết đây là một đặc quyền của Thần Linh”. Nhiều bậc vua chúa ở trần gian ngạo mạn đòi người ta dành cho mình hành vi tôn kính mà chỉ có một mình Thiên Chúa đáng được; nhưng thật ra rất ít người dám đòi hỏi người ta phải dâng hy tế cho họ. Đòi hỏi điều này có nghĩa là muốn coi mình là thần. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng việc dâng hy tế là một hành vi Thờ phượng Thần linh, không thể được dành cho con người, các Thiên Thần hay các Thánh, mà chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi.
Thánh Toma Aquinô nói: “Loài người dâng hy tế lên cho Thiên Chúa toàn năng là điều tự nhiên, và con người được thúc đẩy làm việc này do bản tính tự nhiên mà không cần một lệnh truyền rõ ràng nào. Chúng ta có thể thấy điều này được biểu trưng trong trường hợp của Aben, Noê, Apbraham, Gióp và các Tổ Phụ khác, các ngài dâng hy tế lên Thiên Chúa, không phải vì vâng lời một luật của Thiên Chúa, nhưng do thúc đẩy của bản tính con người. Và không chỉ những người được Thiên Chúa soi sáng này dâng hy tế cho Người; cả những người ngoại giáo cũng theo ánh sáng tự nhiên mà dâng hy tế lên cho các ngẫu tượng của họ mà họ tin là các thần đích thực”.
Vào thời sau, Lề Luật do Thiên Chúa ban cho con cái Itraen đã buộc họ phải dâng hy tế cho Người hằng ngày; vào các ngày Lễ, phải có các nghi lễ linh đình hơn. Họ phải dâng lên Người chiên, cừu, bò, bê; và các con vật này không chỉ được DÂNG mà thôi mà phải được SÁT TẾ bởi một vị Tư Tế với những kinh nguyện và lễ nghi quy định. Chúng phải được giết và lột da; máu chúng phải được rảy chung quanh bàn thờ và thịt chúng được thiêu trên bàn thờ giữa tiếng kèn và tiếng hát Thánh vịnh. Đây là những bổn phận thánh thiêng mà người Do Thái thi hành để tôn kính Thiên Chúa, nhìn nhận Người là Chúa Tể tuyệt đối của mọi tạo vật.
Ý tưởng về hy tế này quá ăn sâu trong bản tính con người khiến cho mọi dân tộc và mọi quốc gia, ngoài việc phụng sự Thiên Chúa bằng cầu nguyện, hát thánh thi, bố thí và làm việc đền tội, họ cũng dâng hiến Người một loại hy tế để tôn thờ Thiên Chúa thật, hay các thần mà họ cho là Thiên Chúa thật. Vì thế, quả là thích hợp và cần thiết việc Đức Kitô thiết lập trong Hội Thánh Người một lễ dâng thánh thiện và thần linh như một việc phục vụ hữu hình nhờ đó tín hữu dâng lên Thiên Chúa vinh quang của Người, và diễn tả sự thần phục của họ đối với Người. Không một con người có lý lẽ nào có thể tưởng tượng rằng Đức Kitô, Đấng đã thiết lập tất cả những gì là hoàn hảo nhất trong Hội Thánh của Người, mà lại bỏ qua hành vi thờ phượng cao cả nhất này và để Hội Thánh phải thiếu việc tối quan trọng này. Nếu thế, đạo Chúa Kitô sẽ thấp kém hơn đạo Do Thái, vì các lễ tế của Cựu Ước quá huy hoàng khiến cho cả những bậc vua chúa từ các xứ xa xăm cũng đến dự, và như chúng ta đọc trong sách Macabê (quyển II, 3:3), đến nỗi cả các vua dân ngoại cũng lấy tài sản riêng của họ mà dâng vào việc tế tự.
HY TẾ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Trong Công Đồng Trentô, Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta biết Đức Kitô đã truyền cho Hội Thánh Người cách thức phải dâng HY TẾ THÁNH như thế nào.
Bởi vì, theo tác giả Thư Do Thái, do sự yếu đuối của chức tư tế Lêvi nên trong Cựu Ước không có sự hoàn hảo (Dt 7: 11 – 19); vì thế Thiên Chúa nhân từ đã truyền là cần phải có một vị Tư Tế khác, thuộc dòng Menkisêđê, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đấng sẽ kiện toàn và dẫn tới mức hoàn hảo những người người sẽ được thánh hóa. Vì vậy Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta, mặc dù Người sắp sửa tự hiến một lần duy nhất cho Chúa Cha trên bàn thờ, và cái chết của Người sẽ mang lại ơn cứu chuộc vĩnh viễn, nhưng vì chức tư tế của người không mất đi với cái chết của Người, nên trong bữa Tiệc Ly vào đêm Người bị nộp, - để trối lại cho Hội Thánh, Hiền Thê yêu dấu của Người, một hy tế hữu hình mà bản tính loại người cần có, đó là hy tế đổ máu sắp sửa được hoàn tất một lần trên Thập Giá có thể được biểu thị và ghi nhớ cho đến ngày tận thế và quyền năng cứu độ của hy tế ấy mang lại ơn tha thứ cho các tội chúng ta phạm hằng ngày – trong khi tuyên bố Người là Tư Tế muôn đời theo dòng Menkisêđê, Người đã dâng lên Thiên Chúa là Cha của Người Mình và Máu Người dưới hình bánh và rượu này, Người đã trao ban Mình và Máu Người cho các Tông Đồ lãnh nhận, và cắt đặt họ làm những Tư Tế của Giao Ước Mới. Khi nói những lời sau đây: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22:19), Người truyền cho các Tông Đồ và những người kế nhiệm trong chức linh mục phải dâng hy tế này. Hội Thánh Công Giáo vẫn luôn luôn hiểu và truyền dạy như thế (CĐ Trentô, Khóa 22, Ch.1)
Hội Thánh đã dạy chúng ta những điều ấy, và đòi hỏi chúng ta tin rằng ở Bữa Tiệc Ly. Đức Kitô không chỉ biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu người, Người còn dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa Cha, qua đó Người thiết lập nơi Bản Thân Người Hy Tế của Giao Ước mới. Người làm việc này để chứng tỏ Người là Tư Tế theo dòng Menkisêđê, như lời Kinh Thánh nói: Ông Menkisêđê, Vua Salem, mang bánh và rượu ra: ông là Tư Tế của Thiên Chúa Tối Cao và ông chúc lành cho ông Apraham (St 14: 18 – 19)
DÒNG MENKISÊĐÊ
Bản văn Kinh Thánh không nói rõ ở đây rằng ông Menkisêđê dâng hy tế lên cho Thiên Chúa Tối Cao, nhưng ngay từ thời đầu, Hội Thánh Công Giáo đã hiểu như thế và các Giáo Phụ cũng đã cắt nghĩa như thế. Chính vua Đavít đã cắt nghĩa theo cách này khi ông nói: Thiên Chúa Giavê đã thề và sẽ không bao giờ rút lại lời thề này: “Con là Tư Tế đến muôn đời theo dòng Menkisêđê” (Tv 10:4). Việc cả Đức Kitô và Menkisêđê đều dâng hy tế có thể được suy ra từ Thư Do Thái: Mọi Thượng Tế đều được cắt cử để dâng lễ vật và hy tế (Dt 8:3). Mọi Thượng Tế đều được chọn giữa loài người đều được cắt cử để tiếp xúc với Thiên Chúa thay cho loài người (Dt 5:1). Và hầu như ngay sau đó ngài thêm: Không ai tự gán cho mình vinh dự này, nhưng mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi, giống như Aharon. Chính Đức Kitô cũng không tự ban cho mình vinh quang của chức Thượng Tế, nhưng Người đã nhận vinh quang ấy từ Đấng đã nói với Người: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, và ở một chỗ khác: “Con là Tư Tế đến muôn đời theo dòng Menkisêđê” (Dt 5:5-6). Và còn nữa: Sau khi đã thành toàn, Người trở nên nguồn mạch cứu rỗi đời đời cho những ai vâng phục Người, và được Thiên Chúa tuyên phong làm Thượng Tế ‘theo dòng Menkisêđê’. Về vấn đề này, chúng tôi có nhiều điều để nói, nhưng thật khó cắt nghĩa bởi vì anh em đã trở nên quá chậm hiểu (Dt 5:9-11).
Từ những đoạn trên, chúng ta thấy rõ rằng, vì Đức Kitô và Menkisêđê đều là Thượng Tế, nên cả hai Đấng đều dâng hy tế lên cho Thiên Chúa thật. Ông Menkisêđê không sát tế các con vật giống như ông Ápraham và những người tôn thờ Thiên Chúa xưa kia đã làm, nhưng ông được Chúa Thánh Thần soi sáng và hành động không giống với tập tục của thời đại ấy, ông đã hiến thánh bánh và rượu bằng một số kinh nguyện và nghi lễ, nhờ đó ông thánh hóa và dâng chúng lên cho Thiên chúa làm lễ vật đáng được Người chấp nhận. Vì vậy ÔNG trở thành một biểu trưng về Chúa Giêsu Kitô, và LỄ VẬT của ông trở thành một biểu trưng cho hy tế không đổ máu của Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước. Đức Giêsu không được xức dầu tấn phong làm Thượng Tế theo kiểu Aharon, là sát tế các con vật, nhưng theo Dòng Menkisêđê, là người dâng bánh và rượu làm lễ tế, vì thế Người cũng thi hành chức vụ Tư Tế của Người trong cuộc đời Người, và dảng lễ tế là Bánh và Rượu lên cho Thiên Chúa.
Chúng ta có thể hỏi. Vậy Đức Kitô thi hành chức tư tế của Người theo Dòng Menkisêđê khi nào? Vào Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu cầm lấy bánh, và sau khi dâng lời chúc tụng, Người bẻ bánh rồi trao cho các môn đệ và nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén rượu, tạ ơn và trao cho họ: “Các con hãy lãnh nhận mà uống, này là Máu Thầy, Máu của Giao Ước” (Mt 26:26-28). “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ Thầy” (Lc 22:19).
Vì vậy vào dịp này, Đức Kitô thi hành chức Tư Tế của Người theo kiểu Menkisêđê. Nhưng chúng ta hãy nghe tác giả Thư Do Thái tán dương chức Tư Tế của Người: Quả vậy, những người khác được phong làm Tư Tế mà không có một lời thề: còn Người, Người có một lời thề của Đấng đã phán với Người: “Đức Chúa đã thề và Người sẽ không rút lại lời thề này: Con là Tư Tế đến muôn đời”… Nhưng vì Đức Giêsu Kitô sống mãi muôn đời nên chức Tư Tế của Người không bao giờ có thể chấm dứt (Dt 7:20,21,24).
Vì vậy, chúng ta thấy sự thật trong những điều mà Hội Thánh Công Giáo dạy trong Công Đồng Trentô. Trong Bữa Tiệc Ly, Người dâng lên Thiên Chúa Cha Mình và Máu Người dưới hình bánh và rượu; và Người truyền cho các Tông Đồ và những ai kế nhiệm các ngài trong chức linh mục phải dâng những lễ vật dưới hình bánh và rượu khi Người nói: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Đúng như Hội Thánh Công Giáo vẫn luôn luôn nói và dạy. Và đây thực là lễ tế tinh tuyền không thể bị làm ra ô uế bởi bất cứ sự bất xứng hay xấu xa của người dâng, như đã được Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Malaki rằng khắp mọi nơi người ta phải dâng lễ tế tinh tuyền để kính danh Người (CĐ Trentô. Khóa 22, Chương I).
LỄ TẾ TINH TUYỀN’ ĐƯỢC TIÊN BÁO
Việc dâng lễ tế tinh tuyền này đã được ngôn sứ Malaki báo trước qua những lời này: Ta không bằng lòng với các ngươi. Thiên Chúa các đạo binh phán: Ta không thấy từ tay các ngươi một lễ vật nào đáng được Ta chấp nhận, nhưng từ đông sang tây, Danh Ta được tôn kính giữa các dân tộc và khắp mọi nơi các dân tộc đều dâng hưong và lễ vật tinh tuyền để kính Danh Ta, vì Danh Ta được tôn vinh giữa các dân tộc (Ml 1:10-11). Tất cả các Giáo Phụ đều cho rằng đoạn Kinh Thánh này nói về HY TẾ THÁNH LỄ, vì lời tiên tri này không được ứng nghiệm trong Cựu Ước, nhưng trong Tân Ước, nơi mà các lời Chúa Cha nói với Con của Người cũng được ứng nghiệm: Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con. Và Cha sẽ ban cho Con các dân tộc làm sản nghiệp (Tv 2:7-8). Điều này được thực hiện khi các dân ngoại trở lại với Đức Tin nhờ lời giảng của các Tông Đồ. Hy Tế được ngôn sứ Malaki tiên báo ở đây không thể là hy tế được Đức Kitô dâng trên Thập Giá, như những người ngoài Công Giáo khẳng định, vì hy tế Thập Giá chỉ được dâng ở một nơi duy nhất là đồi Canvê, chứ không phải ở khắp nơi như Ngôn Sứ tuyên bố. Cũng không phải như người ta giả thiết rằng Ngôn Sứ nói về một hy tế bằng những lời ngợi khen hay các việc lành, vì những hành vi này không phải là những lễ hiến dâng đúng nghĩa, cũng không phải là một lễ dâng tinh tuyền, như lời Ngôn Sứ nói: Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ (Is 64:5-6). Do đó, lời tiên tri này phải được hiểu là minh nhiên chỉ về HI TẾ THÁNH LỄ như một Hy Tế duy nhất của Tân Ước: một lễ hiến dâng tự nó hoàn toàn tinh tuyền và thánh thiện, được chính Đức Giêsu Kitô dùng các linh mục của Người mà dâng lên cho Chúa Cha mọi nơi và mọi thời. Đức Kitô là Thượng Tế chính, các linh mục của chúng ta chỉ là những Tôi Tớ của Người, Người dùng bàn tay và môi miệng của họ làm công cụ để dâng hy tế. Chính vì Đức Kitô trong thân thể vinh hiển của Người chúng ta không cảm thấy được, và vì chúng ta đồng thời cần phải có một Lễ Vật hữu hình để con mắt xác thịt có thể nhìn thấy, nên Người dùng sự hợp tác của Linh Mục trong việc dâng Hy Tế của Người. Lễ tế sẽ tiếp tục được hiến dâng cho tới ngày tận thế.
Những người không Công Giáo bắt bẻ người Công Giáo chúng ta rằng từ Thánh Lễ không có trong Kinh Thánh. Đúng lắm, nhưng từ Ba ngôi cũng chẳng thấy có trong Kinh Thánh, song chúng ta vẫn buộc phải tin mầu nhiệm cực thánh này. Kinh Thánh cũng không truyền buộc chúng ta phải thánh hóa ngày Chúa Nhật hay rửa tội cho trẻ sơ sinh, thế nhưng chúng ta vẫn biết rõ đó là những bổn phận nghiêm trọng của chúng ta Trong các tài liệu của các Đức Giáo Hoàng và Tiến Sĩ Hội Thánh thời kỳ đầu, chúng ta gặp thấy từ ‘THÁNH LỄ’ rất thường xuyên, trong các tác phẩm của Thánh Giáo Hoàng Clêmentê. Kế vị thứ ba của Thánh Phêrô, và của các Giáo Hoàng Êvaristô và Alexandrô sống vào thế kỷ I. Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Gioan Kim Khẩu và các Thánh Giáo Phụ khác của Hội Thánh thường dùng từ THÁNH LỄ khi nói về hy tế của Tân Ước. Thánh Ambrôsiô viết: “Tôi ở lại trong chức vụ của mình, bắt đầu cử hành Thánh Lễ và trong hy tế tôi cầu xin Thiên Chúa Toàn Năng đến phù trợ chúng ta.” Thánh Augustinô nói: “Chúng ta thấy đấy, trong các Bài Đọc được truyền cho chúng ta đọc trong Thánh Lễ.”v.v… Nhưng các vị Tiến Sĩ Hội Thánh này đều sử dụng từ ‘Thánh Lễ’, các ngài đã sống vào khoảng 300 năm sau Đức Kitô, điều đó chứng minh chắc chắn rằng từ Thánh Lễ đã được sử dụng phổ biến vào thời ấy.
Chúng ta biết các Tông Đồ quen cử hành Thánh Lễ là nhờ đọc thấy điều đó trong Sách Thánh và cuộc đời các Tông Đồ. Thánh Mátthêu bị đâm tại bàn thờ đang khi ngài dâng Thánh Lễ. Truyền thống kể rằng Thánh Anrê đã nói với quan tòa: “Hằng ngày tôi dâng lên Thiên Chúa Toàn Năng trên bàn thờ, không phải thịt con bò hay máu con dê, nhưng là Con Chiên vô tì tích của Thiên Chúa”. Các phụng vụ Thánh Lẽ do các Tông Đồ Giacôbê và Máccô soạn vẫn còn cho đến ngày nay. Người ta nói phần Lễ Qui là do Thánh Phêrô soạn, và các phần khác đã được một số Thánh Giáo Hoàng thêm vào. Từ những điều nói trên, chúng ta thấy Thánh Lễ đã được cử hành trong Hội Thánh ngay từ thời kỳ đầu, và trải qua mọi thời đại. Thánh Lễ luôn luôn được coi là Hy Tế đích thực của Tân Ước.
CÁC BÈ PHÁI LẠC GIÁO CÔNG KÍCH HY TẾ THÁNH LỄ
Các cuộc bách hại mà kẻ thù gian ác đã khơi dậy qua các thời đại chống lại Thánh Lễ là một bằng chứng cho thấy Thánh Lễ thật thánh thiêng biết bao và đáng sợ đối với ma quỷ chừng nào. Nếu không hẳn nó đã không tấn công Thánh Lễ một cách dữ dội đến thế. Vào các thời kỳ đầu của Hội Thánh Công Giáo, các thầy dạy lạc giáo quả thực không thiếu, nhưng không một ai trong số họ dám liều mình công kích Thánh Lễ, càng không dám tìm cách khử trừ Thánh Lễ. Bengarius là người đầu tiên cả gan nói và viết chống lại Thánh Lễ. Các lời dạy sai lạc của ông đã bị phơi bày và bị các nhà thần học Công Giáo thời ấy phản bác một cách thắng lợi. Hơn nữa ông còn bị Công Đồng của Hội Thánh kết án. Tuy nhiên, trước khi chết con người bất hạnh này đã từ bỏ các sai lầm của mình và sống những ngày cuối đời trong sự ăn năn sám hối của một người con của một Hội Thánh Công Giáo.
Vào đầu thế kỷ 12, những người thuộc phái Albigensê vô đạo xuất hiện tại Pháp. Ngoài những chủ trương tệ hại khác, họ còn cho rằng hôn nhân là một tình trạng phi pháp; họ khuyến khích nam nữ nếp sống chung chạ. Đúng là họ không bác bỏ Thánh Lễ Đại Triều có đông người tham dự, nhưng họ không chịu chấp nhận Thánh Lễ Thường chỉ có ít người dự. Trên thực tế, họ nghiêm cấm dân tham dự các lễ này, ai tham dự sẽ bị phạt tiền hay phạt tù.
Từ thời các Tông Đồ cho tới nay. Hy Tế Thánh Lễ chưa từng có một địch thù nào hung dữ bằng Martin Luther. Con người bất hạnh này không chỉ công kích mà còn thóa mạ Mầu Nhiệm Thánh này. Ông không chỉ tự mình có hành động này, mà không chỉ làm lần đầu khi ông chối đạo, nhưng cả sau này do ma quỷ xúi dục nữa. Thực vậy, chính con người lầm lạc này đã thừa nhận trong các sách viết là lời dạy của ông đến từ ma quỷ và chính ma quỷ đã xúi dục ông bác bỏ Thánh Lễ như một hành vi thờ quấy, mặc dù bản thân ông phải biết rõ rằng ma quỷ là kẻ thù ghét tất cả những gì tốt lành và nó chẳng dạy loài người điều gì khác ngoài sự xấu xa. Hơn nữa, lẽ ra Luther phải nghĩ rằng nếu Thánh Lễ là hành vi thờ quấy, thì ma quỷ sẽ không chống đối, càng không muốn loại bỏ. Ngược lại, nó sẽ cổ võ và ca ngợi Thánh Lễ, bởi vì người ta càng cử hành Thánh Lễ nhiều thì người ta càng phạm nhiều hành vi thờ quấy, và càng làm ô danh Thiên Chúa Tối Cao.
Bằng cách này, Satan đã không chỉ làm cho những người theo Luther, mà tất cả những phái Tin Lành xuất hiện sau khi ông phải mất đi ơn cứu độ do Hy Tế Thánh Lễ mang lại, và vì thế khiến họ bị tổn hại vô phương cứu chữa. Thực vậy, ông đã làm cho Mầu Nhiệm siêu vời này trở thành quá ghê tởm đối với họ khiến họ tuyên bố Hy Tế Thánh Lễ là một sự phủ nhận Hy Tế Thập Giá, một việc thờ quấy đáng nguyền rủa như chúng ta đọc thấy trong Sách Giáo Lý Heidelberg của phái Calvin. Sự báng bổ kinh khủng này đủ để khiến cho mọi tâm hồn đạo đức ghê sợ, và khiến cho mọi người Kitô hữu tốt lành phải bịt tai. Chúng ta sẽ không cần nói dài dòng để phi bác những lời báng bổ như thế, chỉ cần một luận chứng sau đây cũng đủ để phi bác chúng.
Nếu những lạc thuyết này đúng, thì đương nhiên từ thời Đức Kitô đến nay, không một người nào dù Tông Đồ hay Tử Đạo, có thể được cứu rỗi. Các Thánh Tông Đồ và mọi Đấng kế nhiệm các ngài đều đã cử hành và dâng Hy Tế Thánh Lễ lên Thiên Chúa Tối Cao. Vậy, nếu Hy Tế Thánh Lễ là thờ quấy và phủ nhận Hy Tế của Đức Kitô trên Thập Giá, thì các Thánh Tông Đồ và mọi tín hữu hẳn là đã phạm tội thờ quấy, hẳn là họ đã xúc phạm nặng nề đối với Thiên Chúa Uy Linh và làm cho mình đáng phải luận phạt đời đời. Và vì không một người có lý lẽ nào tin vào một lời khẳng định như thế, nên không một ai có thể tin rằng lời dạy của phái Calvin là đúng. Thay vì nghe the lời Calvin và Luther bạn hãy nghe lời sau đây của Thánh Fulgentiô: “Hãy giữ vững giáo thuyết và chớ bao giờ để mình hoài nghi rằng Con Một Thiên Chúa đã làm người vì chúng ta và đã tự hiến cho Chúa Cha vì chúng ta. Người là Đấng mà Hội Thánh Công Giáo bây giờ không ngừng dâng lên của lễ là bánh và rượu với tinh thần Đức Tin và Đức Ái”. Ai là người đáng để chúng ta tin – một thày dạy thánh thiện và sáng suốt của Hội Thánh, hay là hai kẻ chối đạo như Luther và Calvin?
Với hai người này, ta có thể dùng lời mà nhà thông thái phêrô ở Cluny nói với những kẻ lạc giáo: “Nếu lời dạy của các ông được mọi người chấp nhận, nếu các Kitô hữu phải loại bỏ Thánh Lễ, thì điều này không bao giờ xảy ra vào mùa của Thịnh Nộ sẽ xảy ra vào mùa của Ân sủng này: Thiên Chúa sẽ không còn được thờ phụng ở trần gian này nũa. Vì vậy, hỡi những kẻ thù của Thiên Chúa, hãy nghe khi Hội Thánh của Thiên Chúa dạy các ông rằng Hy Tế Thần Linh là cốt tủy sự hiện hữu của Hội Thánh, và trong Hy Tế này, Hội Thánh dâng Mình và Máu Đấng Cứu Chuộc mỗi khi lễ dâng này được thực hiện”.
Vì vậy chúng ta hãy cảnh giác không để xảy ra cho chúng ta cùng những điều đã xảy ra cho những kẻ lạc giáo bất hạnh. Vì ma quỷ cướp mất Thánh Lễ nơi những kẻ lạc giáo và làm hại họ; còn đối với người Công Giáo chúng ta, vì ma quỷ không thể tước đoạt Thánh Lễ của chúng ta, nên nó bịt mặt chúng ta lại khiến chúng ta không thể quý chuộng đầy đủ sự cao vời của Hy Tế Thánh Lễ và quyền năng vô biên của Hy Tế này. Không nghi ngờ gì, chính thủ đoạn của Satan đã làm cho trong một thời gian dài, Mầu Nhiệm Thần Linh rất ít khi được giảng dạy. Hậu quả là người Công Giáo trở nên chểnh mảng trong việc tham dự Thánh Lễ, hoặc có tham dự thì cũng thiếu sốt sắng.
Để ngăn ngừa điều tai hại này, Công Đồng Trentô đã truyền cho những người chăm sóc các linh hồn phải giảng thường xuyên về Thánh Lễ. Sắc lệnh nói như sau: “Thượng Hội Đồng buộc các mục tử và tất cả những ai có trách nhiệm chăm sóc các linh hồn, phải thường xuyên đích thân hay nhờ người khác giảng giải, trong khi cử hành Thánh Lễ, một số phần được đọc trong Thánh Lễ, và họ phải cắt nghĩa các Mầu Nhiệm của Hy Tế Thánh Thiêng cao vời này, đặc biệt vào các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ.” (Khóa 22, Ch.8). Nếu giáo dân không hiểu biết giá trị cao cả của Thánh Lễ, họ sẽ không yêu mến quý chuộng Thánh Lễ đúng mức; họ sẽ không bao giờ đi lễ ngày thường, còn các ngày Chúa Nhật và Lễ Nghỉ, họ sẽ thường xuyên tỏ ra chểnh mảng, bất kính, hời hợt, họ sẽ viện những cớ không đâu để bỏ lễ mà không chút áy náy lương tâm.
Nhưng nếu họ hiểu biết hiệu quả và giá trị to lớn của Thánh Lễ, họ chắc chắn sẽ hết sức quí chuộng kho tàng vô giá này, yêu mến sâu xa và tham dự Thánh Lễ với đầy lòng cung kính. Trong Hội Thánh Công Giáo, không có mầu nhiệm nào quan trọng hơn, an ủi hơn, giàu ơn cứu độ hơn là Mầu Nhiệm cao cả này của Bàn Thờ. Chỉ cần sự thật này được nhìn nhận đúng đắn, chúng ta chắc sẽ thấy các tín hữu tham dự trong các ngày thường một đông hơn.
CHƯƠNG 2: SỰ SIÊU VỜI CỦA THÁNH LỄ
Thánh Lễ có giá trị quá siêu vời khiến cho dù bậc Thiên Thần cao sang nhất cũng không thể ca tụng đúng mức. Chúng ta hãy nghe THÁNH PHANXICÔ SALÊ nói gì về điều này trong cuốn Introduction to the Devout Life (Sống Thánh Giữa Đời) của ngài. “Thánh Lễ là mặt trời của mọi cuộc Linh Thao, suối nguồn của tình sốt mến, linh hồn của lòng đạo, lửa của Tình Yêu thần linh, vực thẳm của Lòng Thương Xót thần linh và là phương tiện quý báu Thiên Chúa để ban Ân Sủng cho linh hồn”. Phải mất một thời gian dài mới hiểu hết ý nghĩa của những lời đẹp đẽ này và cắt nghĩa những tính từ rực rỡ mà thánh nhân sử dụng. Ý ngài muốn nói là: Những ai ước ao trở nên thánh thiện hãy siêng năng tham dự Thánh Lễ, vì đây là phương tiện cao vời để đón nhận Ân Sủng của Thiên Chúa.
CHA OSORIUS thông thái đã coi Thánh Lễ trội vượt trên mọi mầu nhiệm khác của Đạo, vì ngài nói: “Trong Hội Thánh không có gì cao siêu và vô giá bằng HY TẾ THÁNH LỄ, vì trong đó Nhiệm Tích đáng tôn thờ của Bàn Thờ được thánh hiến và là Lễ Vật Linh Thiêng dâng lên cho Thiên Chúa Tối Cao”. ĐỨC CHA FORNERUS, một thời làm giám mục Bamberg, cũng nói: “Thánh Lễ có địa vị vượt trên mọi Bí Tích và Nghi Lễ khác của Hội Thánh”. Ngài còn thêm: “Các Bí Tích Thánh đều siêu vời hơn cả là HY TẾ THÁNH LỄ, vì các Bí Tích khác là máng chuyển thông lòng Thương Xót cho những người đang sống, òn Thánh Lễ là đại dương của lòng độ lượng khôn cùng của Thiên Chúa cho cả người sống lẫn người chết.” Bạn thấy không, tác giả này ca ngợi và tán dương HY TẾ THÁNH LỄ, hay Thánh Lễ, và gán cho nó một giá trị vượt trên mọi Bí Tích khác, Giờ đây chúng ta sẽ xem lý do tại sao Thánh Lể có một giá trị siêu vời như thế.
Trước hết, có thể suy ra sự siêu vời của Thánh Lể từ những kinh nguyện và nghi lễ được quy định cho việc cung hiến các Thánh Đường và Bàn Thờ. Bất cứ ai đã từng dự lễ Cung Hiến Thánh Đường, đã theo dõi các kinh nguyện và hiểu hết các nghi thức do Đức Giám Mục cử hành thì đều không thể không được xây dựng bởi những gì họ được chứng kiến. Về lợi ích của những ai không tham dự lễ cung hiến Thánh Đường và Bàn Thờ, chúng tôi sẽ vắn tắt mô tả các nghi lễ có liên quan.
[Đoạn mô tả dưới đây liên quan đến các Nghi thức đã được dùng vào thời 1680-1700. Các nghi thức này đã thay đổi phần nào vào các thế kỷ sau và đến những năm 1990-2000 của chúng ta hôm nay, chúng đã trở nên tỉ mỉ hơn nhiều. Có vẻ như sự suy giảm về lòng mến mộ, tôn kính và tham dự HY TẾ THÁNH LỄ. – Biên tập]
CUNG HIẾN CÁC THÁNH ĐƯỜNG
Trước ngày cung hiến thánh đường, giám mục để riêng các thánh tích sẽ được đặt trên viên đá Bàn Thờ và ngài cùng với các cộng đoàn chuẩn bị một ngày ăn chay. Hôm sau, giám mục và hàng giáo sĩ bận lễ phục rồi đọc Bảy Thánh Vịnh Sám Hối và Kinh Cầu Các Thánh. Tất cả các cửa nhà thờ đều đóng. Sau đó giám mục cùng với hàng giáo sĩ đi rước quanh bên ngoài nhà thờ. Trong khi hàng giáo sĩ hát Đáp Ca, giám mục rảy nước thánh theo hình thập giá lên phần trên các tường nhà và đọc: “Nhân danh + Cha và+Con và+Thánh Thần. Khi đến trước cửa chính nhà thờ, giám mục đọc một lời nguyện ngắn và gõ cửa bằng gậy giám mục và nói: Hỡi các quân vương, hãy ngửng đầu lên; hỡi các cổng vĩnh cửu, hãy nhấc đà lên để Đức Vua vinh hiển tiến vào.” Rồi giám mục đi quanh nhà thờ một lần thứ hai, vừa đi vừa rảy nước thánh lên phần chân tường nhà thờ cùng với những lời như trên, và gõ vào cửa chính giống như lần trước. Rồi ngài đi vòng quanh nhà thờ lần thứ ba, lần này ngài rảy nước thánh lên phần giữa tường, khi đến trước cửa chính, ngài lấy gậy gõ cửa ba lần và nói: “Hãy mở ra.” Khi cửa mở, ngài lấy gậy làm dấu thánh giá trên thềm cửa và nói: “Đây là dấu Thánh Gía: các tà thần hãy cút đi”. Bước vào nhà thờ, ngài nói: “Bình an cho Nhà này”
Khi đến giữa nhà thờ, giám mục quì gối xuống và xướng Thánh Thi Veni Creator Spiritus (“Xin ngự đến Thánh Thần sáng tạo”); tiếp theo là Kinh Cầu Các Thánh và thánh thi của ông Giacaria (Chúc Tụng Đức Chúa Là Thiên Chúa Itraen). Trong khi hát những bài này, giám mục lấy gậy khắc các chữ theo mẫu tự Latinh và Hy Lạp thành hình thập giá trên lớp tro đã được rắc sẵn trên nền nhà thờ. Rồi ngài quỳ gối trước Bàn Thờ và hát ba lần: Deus in adjutorium meum, intende (“Lạy Chúa xin tới giúp con” v.v…) Sau đó ngài đọc các kinh quy định để làm phép tro, muối, nước và rượu, hòa tất cả vào với nhau và làm dấu thánh giá nhiều lần trên chúng. Rồi ngài bắt đầu làm phép cung hiến Bàn Thờ Chính và các bàn thờ khác. Nhúng nhón tay cái vào dung dịch hỗn hợp mà ngài đã làm phép, ngài vạch một dấu thánh giá lên phần giữa và bốn góc viên đá Bàn Thờ và nói: “Xin cho Bàn Thờ này được thánh hóa + với vinh quang Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria và Các Thánh, nhân danh và để tưởng nhớ Thánh T. (Tên của Thánh Bổn Mạng Nhà Thờ), nhân danh + Cha, và + Con, và + Thánh Thần.” Các câu này được lập lại 5 lần vào mỗi lần lần dấu thánh giá. Rồi ngài đi quanh bàn thờ bảy lần, rẩy Nước Thánh trên bàn thờ và đọc kinh Miserere (“Xin thương xót con…”. Thánh Vịnh 50).
Tiếp đến ngài đi vòng quanh bên trong nhà thờ ba lần, vừa đi vừa rảy nước thánh phần trên tường, giữa tường và chân tường, trong khi cộng đoàn hát 3 bài Thánh Vịnh và các câu Tiền Xướng. Ngài cũng rảy nước thánh trên 4 góc nền nhà thờ với các kinh qui định rồi trở lên Bàn Thờ Chính. Sau đó ngài làm phép vôi và cát trộn lẫn với nước thánh làm thành hồ để gắn viên đá Bàn Thờ. Rồi bắt đầu đám rước tới nơi đã đặt các thánh tích chiều hôm trước. Ngài xông hương các thánh tích rồi kiệu các thánh tích cùng với nến cháy và bình hương tỏa khói quanh nhà thờ. Dừng lại ở thềm cửa nhà thờ, giám mục làm dấu thánh giá ba lần trên cửa nhà thờ và đọc: Nhân danh + Cha, và + Con, và + Thánh Thần. Người đáng được chúc tụng, thánh hóa và cung hiến”.
Khi đám rước tiến đến Bàn Thờ Chính, giám mục làm dấu thánh giá 5 lần với dầu thánh trên chỗ khoét ở giữa Bàn Thờ - gọi là mồ thánh – đặt hòm nhỏ đựng thánh tích vào đấy, xông hương và đậy mồ lại bằng viên đá đã làm phép bằng cách dùng hồ đã chuẩn bị để gắn. Rồi ngài xông hương Bàn Thờ và đưa bình hương cho linh mục phụ tế, vị này đi xông hương quanh khắp bàn thờ, trong khi ấy giám mục làm 5 dấu thánh giá bằng dầu dự tòng trên bàn thờ, một dấu ở giữa bàn thờ và một ở mỗi góc bàn thờ, đọc cùng những lời đã đọc khi làm phép nước, xông hương các thánh giá và đi xông hương quanh bàn thờ. Sau khi đọc xong các kinh nguyện và Thánh Vịnh qui định, ngài xức dầu bàn thờ một lần nữa, làm dấu thánh giá 5 lần trên bàn thờ và nói: “Nguyện cho Bàn Thờ này được chúc tụng, thánh hóa và cung hiến.” Rồi ngài lại xông hương các thánh giá và toàn thể Bàn Thờ. Nghi lễ này được lập lại lần thứ ba tronng khi các giáo sĩ hát các Thánh Vịnh.
Sau cùng, giám mục đổ dầu thánh (chrism) trên khắp mặt Bàn Thờ và lấy tay xoa dầu trên đó. Rồi ngài đi quanh bên trong Nhà Thờ và lấy dầu thánh xức trên 12 thánh giá treo trên tường và đọc “Xin cho Nhà Thờ này được thánh hóa và cung hiến nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” và xông hương cho mỗi thánh giá ba lần.
Quay trở lên bàn thờ, ngài làm phép hương trầm, đặt 5 hạt hương trên 5 thánh giá, làm thành 5 hình thánh giá nhỏ bằng bấc nến sáp rồi đốt các bấc nến ấy. Khi nến cháy, ngài quì xuống cùng với tất cả các giáo sĩ rồi xướng bài hát Veni Creator Spiritus (“Xin ngự đến, lạy Thánh Thần sáng tạo”).Tiếp theo là mấy lời nguyện và kinh Tiền Tụng. Các giáo sĩ hát bài Thánh Vịnh 67 (“Lạy Chúa xin xót thương và chúc lành cho chúng con) để tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người đã ban. Giám mục lấy dầu thánh ghi dấu thánh giá phía dưới bàn thờ và đọc thêm mấy kinh nguyện dài hơn. Sau đó, ngài xoa hai bàn tay của mình bằng bột mì và muối rồi rửa trong nước. Các giáo sĩ lấy vải lau Bàn Thờ, lấy khăn phủ Bàn Thờ rồi bày biện các đồ trang trí cho đẹp bao có thể trong khi cộng đoàn hát các Thánh Vinh và Đáp Ca. Kết thúc, giám mục xông hương Bàn thờ ba lần rồi bắt đầu cử hành Thánh Lễ Đại Triều.
MỘT ÍT NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ PHỤNG VỤ NÀY
Tất cả những ai đã tham dự lễ nghi cung hiến một thánh đường đều không thể tìm được lời nào để diễn tả nỗi ngạc nhiên của họ trước quá nhiều nghi thức khác nhau, các lần xức dầu và các kinh nguyện được dùng trong nghi lễ này. Mục đích của các nghi lễ chi tiết này là gì? Đó là làm cho thánh đường trở thành một Đền Thờ xứng đáng với Hy Tế thánh cao cả được dâng lên cho Thiên Chúa Tối Cao trong thánh đường này; đó là thánh hóa và cung hiến các Bàn Thờ, nơi Con Chiên vô tì tích của Thiên Chúa được sát tế một cách mầu nhiệm. Ý nghĩa này đủ để làm mọi Kitô hữu xác tín về sự thánh thiêng của các Nhà Thờ và các Bàn Thờ. Đền Thờ của Salômôn chỉ là một hình bóng và điển hình của Nhà Thờ Kitô Giáo, vậy mà những người Do Thái và Dân Ngoại đã kính trọng Đền Thờ biết bao! Huống hồ chúng lại càng cung kính và tôn trọng các Nhà Thờ của chúng biết bao, vì các Nhà Thờ này được thánh hóa bằng một nghi lễ cung hiến vô cùng trọng thể.
ĐỀN THỜ SALÔMÔN VÀ CÁC NHÀ THỜ CỦA CHÚNG TA
Trong Sách Các Vua quyển I, chúng ta đọc thấy Vua Salômôn, vào dịp cung hiến Đền Thờ của ngài, đã dâng không dưới 20 ngàn con bò và 120 con cừu đực. Tất cả các con vật này đều được các Tư Tế sát tế, thanh tẩy và bày ra thành miếng trên bàn thờ; và trong khi Đức Vua cầu nguyện lớn tiếng, lửa từ trời hiện xuống thiêu các lễ vật. Một đám mây phủ kín cả Đền Thờ, và Vinh Quang của Đức Chúa xuất hiện trong đám mây. Toàn dân nhìn thấy lửa và vinh quang của Đức Chúa thì đầy kinh hãi và sấp mặt xuống đất thờ lạy Chúa. Trước cảnh tượng ấy,Vua Salômônđang đứng trên nơi cao trước mặt cộng đoàn dân Ítraen liền giang hai tay lên trời và nói: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm không còn chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! (I V 8:27).
Ai mà không kinh ngạc trước cảnh tượng này và thấy mình hoàn toàn không thể hiểu nổi địa vị cao sang của Đền Thánh đó? Vậy mà Đền Thờ ấy chỉ là một biểu trưng, một hình ảnh của các Nhà Thờ của chúng ta. Trong Đền Thờ ấy chỉ có Khám Giao Ước. trong đó chỉ có chứa hai bia đá Luật và cây gậy trổ bông của Aharon. Các lễ vật của dân Do Thái chỉ là những con vật bị giết và thiêu, ngoài những lễ vật khác như bánh mì, rượu, bánh ngọt, v.v… Ngược lại, các Nhà Thờ của chúng ta được cung hiến bởi các Giám Mục với các nghi lễ trang trọng bội phần: được xức bằng dầu thánh hiến (chrisma); được làm phép bằng việc rảy Nước Thánh và xông bằng loại hương trầm; được thánh hóa nhiều lần bằng Dấu Thánh Giá và sau cùng được cung hiến bằng việc dâng hiến Hy Tế Thánh Lễ cực thánh. Thay vì Khám Giao Ước, chúng ta có Nhà Tạm, nơi liên lỉ lưu giữ Bánh đích thực của Trời và Bí Tích đáng tôn thờ của Bàn Thờ. Nếu tôn kính Đền Thờ Salômôn là việc chính đáng, thì chúng ta lại càng phải cung kính các Nhà Thờ đã được cung hiến của chúng ta, nơi Thiên Chúa đích thân cư ngụ.
CƠ BINH THIÊN THẤN THỜ LẠY CHÚA TRONG NHÀ THỜ
Các Nhà Thờ của chúng ta được gọi là Nhà Thiên Chúa, chính xác là như thế, bởi vì chính Thiên Chúa cư ngụ trong các Nhà Thờ này và luôn luôn phải được gặp thấy trong đó. Xung quanh Người có vô số cơ binh Thiên Thần liên lỉ phục vụ Người, thờ lạy Người, ca ngợi Người và dâng các lời cầu của chúng ta lên cho Người.
Sự kiện này đã được tiên báo trong thị kiến của Tổ Phụ Giacóp. Màn đêm đột nhiên phủ xuống khi ông đang đứng giữa cánh đồng không mông quạnh, ông nằm xuống và ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ ông thấy một cái thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời. Trên chiếc thang, ông thấy các thiên thần lên lên xuống xuống, và ở đầu thang, ông thấy chính Thiên Chúa. Tỉnh dậy, ông Giacóp run sợ thốt lên: Quả thật có Đức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!... Nơi này đáng sợ thay! Đây là Nhà của Thiên Chúa, là Cửa Trời, chứ không phải gì khác! (St 28:16-17). Ông lấy hòn đá mà ông đã gối đầu, đổ dầu lên, dựng thành một bàn thờ và khi trở về ông dâng một lễ tế cho Thiên Chúa trên bàn thờ ấy. Đó là một biểu trưng của Nhà Thờ Kitô Giáo với Bàn Thờ được xức dầu thánh hiến, và chúng ta có thể nói đúng về Nhà Thờ rằng: Quả thật, có Đức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!... Nơi này đáng sợ thay! Đây là Nhà của Thiên Chúa, là Cửa Trời, chứ không phải gì khác! Vì tại đây các thiên thần lên lên xuống xuống và dâng các lời cầu xin của chúng ta lên tới Trời. Các Nhà Thờ của chúng ta là nơi mà Thiên Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Isaia: Tất cả… những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên Núi Thánh và cho hoan hỉ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên Bàn Thờ của Ta. Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được chọn là nhà cầu nguyện của muôn dân (Is 56:6-7)
Từ những điều trên đây, chúng ta biết được sự thánh thiện của các Nhà Thờ của chúng ta và lòng kính trọng chúng ta phải có đối với các Nhà Thờ. Chính vì Nhà Thờ là nhà của Thiên Chúa và đích thân Chúa Giêsu Kitô cư ngụ trong Nhà Thờ nơi Bí Tích Cực Thánh, xung quanh có vô số thiên thần thờ lạy, nên chúng ta không thể nào kính trọng Nhà Thờ cho đủ; cũng không thể nào sốt sắng và tĩnh tâm trong kinh nguyện cho đủ. Nếu chúng ta có một đức tin sống động, chúng ta sẽ bảo một Nhà Thờ đã cung hiến với thái độ run rẩy; chúng ta sẽ thờ lạy Đức Kitô hiện diện trong Nhiệm Tích đáng tôn thờ với lòng cung kính sâu thẳm và kêu cầu sự giúp đỡ của các Thiên Thần đang ở đó. Đó là thái độ quen thuộc của Vua Đavít, như ông nói với chúng ta: Giữa chư vị Thiên Thần, xin đàn ca kính Chúa; hướng về Đền Thánh, con phủ phục tôn thờ (Tv 137: 1b-2). Vì vậy, nếu chúng ta không chăm chú trong Nhà Thờ hay làm mất lòng Thiên Chúa bằng hành vi bất kính, đó là chúng ta lăng nhục Thiên Chúa Uy Linh và làm ô danh Nhà Thiên Chúa. Chúng ta hãy hết sức quyết tâm mội khi vào một Nhà Thờ sẽ không nói hay nghe câu chuyện nào không cần thiết, hay ngáp dài uể oải, thờ lạy Chúa là Thiên Chúa chúng ta, xưng thú tội lỗi và nài xin Lòng Thương Xót Chúa.
Chúng ta cũng có thể học biết Thánh Lễ có địa vị siêu vời biết bao khi nhìn vào lễ truyền chức trọng thể cho các linh mục và giáo sĩ. Ngày xưa, mọi linh mục phải được chịu đủ bảy chức hay bảy bậc phục vụ khác nhau trong Thánh Đường trước khi được năng quyền cử hành HY TẾ THÁNH LỄ. Bốn chức nhỏ - Giữ Cửa – Đọc Sách – Giúp Lễ - Kéo Chuông – bây giờ gọi là các Thừa Tác Vụ và trên thực tế được dành cho giáo dân. Chức vụ Phó đã được bỏ. Bốn chức nhỏ là dấu chỉ rằng những người lãnh các chức ấy được chính thức tiếp nhận vào việc phục vụ Nhà Thờ, họ có thể trợ giúp Linh Mục khi vị này cử hành Thánh Lễ, nhưng họ không được quyền cầm hay lau Chén Thánh, Đĩa Thánh, Khăn Thánh, hay Khăn Lau Chén; các chức năng này được dành cho Chức Năm, tức là Phụ Phó Tế.
Một điều rất quan trọng là mọi vật dụng cần để dâng Thánh Lễ phải được giữ sạch sẽ tỉ mỉ và ở tình trạng tốt, bởi vì chúng được dùng trong hành vi cao cả nhất của việc phục vụ Thiên Chúa và được đụng vào Mình và Máu Chúa. Vậy khi những người coi phòng Thánh hay những người giúp lễ mang những vật này, họ càng cần phải có thái độ hết sức cung kính.
NGHI THỨC TRUYỀN CHỨC THÁNH
Hai Chức cao cả nhất là Phó Tế và Linh Mục. Việc ban chức Linh Mục được cử hành theo nghi thức sau đây: Phó tế sắp thụ phong linh mục quấn khăn vai, mặc áo dài trắng (cũng gọi là áo alba), cột dây lưng và đeo dây chức (stola, cũng gọi là ‘dây các phép’) đeo chéo từ bên vai trái thả xuống và cột ở bên hông phải. Thầy đến quỳ trước mặt Đức Giám Mục đang ngồi trên ghế đặt ở bậc cao nhất của Bàn Thờ.
Đức Giám Mục nói một lời chào dài và trang trọng, bày ra trước mắt người thụ phong những bổn phận nặng nề của Chức Vụ mà họ sắp lãnh nhận, rồi kết bằng những lời này: “Mỗi lần con cử hành mầu nhiệm sự chết của Chúa, hãy cố gắng hãm dẹp nơi chi thể con mọi ước muốn và dục vọng xấu. hãy lo sao cho các lời con dạy trở thành linh dược cho Dân Chúa; hãy để cho hương vị ngọt ngào cuộc đời con trở thành niềm hân hoan cho Hội Thánh Chúa Kitô để nhờ lời dạy và gương sáng của con, con có thể xây dựng Nhà Thiên Chúa, để cả Cha là người ban cho con một Chức Vụ nặng nề như thế, và con là người lãnh Chức Vụ ấy, chúng ta có thể nhận được từ Thiên Chúa, không phải án phạt mà là phần thưởng của các việc lành mà Thiên Chúa có thể tác động nơi con nhờ Ân Sủng của Người. Amen.”
Sau đó, Giám Mục ngỏ lời với dân chúng và xin họ làm chứng về sự xứng đáng của ứng nhân cho Chức Vụ cao cả này. Nếu không ai làm chứng tố cáo họ. Giám Mục sẽ quỳ gối xuống xướng Kinh Cầu Các Thánh và các kinh nguyện khác, còn Phó Tế sấp mặt trước Bàn Thờ và đáp lại các câu xướng.
Sau đó, Giám Mục đặt tay trên đầu người được thụ phong và đọc một lời nguyện cùng với một kinh tiền tụng dài, rồi ngài đặt dây các phép (stola) quanh cổ thầy và trùm áo lễ qua đầu thầy. Giám Mục lại quì gối đọc một lời nguyện khác, và xướng lại bài hát Veni Creator Spiritus. Rồi ngài trở về ghế ngồi; còn Phó Tế đến quì trước mặt ngài và đặt hai tay trên đùi ngài. Giám Mục bắt đầu xức dầu thánh theo hình Thánh Giá lên lòng bàn tay phó tế; rồi ngài chạm từng ngón tay một và nói: “Lạy Chúa, xin đoái thương thánh hóa và hiến thánh hai bàn tay này bằng việc xức dầu và chúc lành của chúng con.” Ngài cũng làm dấu thánh giá trên hai bàn tay, với một lời nguyện xin cho hai bàn tay này chúc phúc cho vật gì thì vật ấy được chúc phúc, và thánh hóa vật gì thì vật ấy được thánh hóa nhân danh Đức Giêsu Chúa chúng ta. Rồi ngài cột hai bàn tay lại bằng một dải vải hẹp, đưa cho thầy một chiếc chén để đựng nước và rượu, và một dĩa cúng với một tấm bánh chưa truyền phép và nói: “Con hãy nhận lấy quyền năng dâng hy tế lên cho Thiên Chúa và cử hành Thánh Lễ, cho những người đang sống và những người đã qua đời nhân danh Chúa. Amen.”
Hai tay của Tân Linh Mục được cởi ra và đương sự rửa tay trong khi Giám Mục bắt đầu cử hành Thánh Lễ. Đến phần Dâng Lễ, tân linh mục trao một cây nến cháy cho Đức Giám Mục và hôn tay ngài. Rồi tân linh mục đến quì phía sau Giám Mục và cầm một Sách Lễ, cùng với Giám Mục đọc từng lời của Lễ Qui và đến lúc Rước Lễ thì nhận Bánh Thánh từ tay Giám Mục. Tân Linh Mục cũng phải đọc kinh Tin Kính, trong khi ấy Giám Mục đặt tay trên đầu họ kèm theo những lời sau đây để ban cho họ quyền tha tội: “Con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Con tha cho ai tội nào thì tội ấy được tha, con cầm buộc ai tội nào thì tội ấy bị cầm buộc.” Sau cùng, Tân Linh Mục tuyên lời thề vâng phục Đức Giám Mục và những người kế vị hợp pháp của các ngài, và nghi lễ kết thúc với lời chúc lanh sau đây:
“Xin phúc lành của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần xuống trên con.Xin cho con được chúc phúc trong Chức Linh Mục. Xin cho con được dâng những lễ vật đẹp lòng Chúa để Người ban ơn tha thứ những tội lỗi và những xúc phạm của dân tới Thiên Chúa Toàn Năng. Đấng đáng được ngợi khen và vinh quang muôn đời. Amen.
oOo
Đó là nghi thức phải tuân theo trong việc Truyền Chức Linh Mục trong Hội Thánh Công Giáo. Nếu tìm hiểu kỹ lưỡng những nghi lễ này, chúng ta không thể không ngưỡng mộ và đánh giá cao những công thức xưa đã được đặt ra cho việc cử hành đặt ra cho việc cử hành Bí Tích Truyền Chức Thánh một cách sốt sắng và trang trọng. Tại sao lại phải có một lễ nghi cầu kỳ như thế khi truyền chức cho một Linh Mục Công Giáo? Để họ đủ thanh sạch, thánh thiện và xứng đáng dâng lên Thiên Chúa uy linh Cao Cả Hy Tế Thánh Lễ tinh tuyền nhất, thánh thiện và đáng tôn thờ nhất. Vì vậy, chúng ta hãy dành cho các Linh Mục lòng kính trọng thích đáng qua phẩm chức họ đã lãnh nhận qua việc Hiến Thánh, Đức Kitô đã dạy: Ai kính trọng họ là kính trọng Ngài, ai khinh dễ họ là khinh dễ Ngài.
NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT ĐỂ CỬ HÀNH THÁNH LỄ
Giá trị siêu vời của Hy Tế Thánh có thể được quí chuộng hơn vì nhiều điều cần phải có để cử hành Thánh Lễ một cách thích đáng và hợp pháp đó là:
Một linh mục thừa tác, là đại diện Đức Kitô
Một bàn thờ đã được cung hiến – hay ít là làm phép – bàn thờ này phải được đặt ở một nơi cao trong mọi Nhà Thờ hay Nhà Nguyện, vì nó biểu thị núi Canvê,nơi Đức Kitô, Tế vật vô tội đã bị sát tế và treo lên Thập Giá.
Phẩm phục linh mục, gồm :
Khăn vai: một tấm vải trắng hình chữ nhật mà linh mục quấn quanh cổ và cột dây. Biểu trưng miếng vải mà người Do Thái đã dùng tại nhà Caipha để bịt mắt Chúa Giêsu rồi đánh vào mặt Người và hỏi: ‘Ai đánh ngươi’
Áo dài trằng (alba) biểu trưng chiếc áo trắng của kẻ dại mà Herôđê Antipas mặc vào cho Người.
Dây Lưng hay Đai Lưng biểu trưng cho những sợi dây dân Do Thái dùng để trói Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu và lôi Ngài đi [Xưa kia còn có Dây Tay (manipulus), nay đã bỏ].
Dây Chức hay ‘dây các phép’ (stola): bỏ qua hai vai xuốn phía trước, là phẩm phục cốt yếu của chủ tế (nên cũng gọi là Dây Các Phép); biểu thị những dây xích cột chặt Chúa Giêsu sau khi Người bị xử tử hình.
Áo lễ, áo choàng ngoài cùng, biểu thị tấm áo choàng màu đỏ mà dân Do Thái khoác lên vai Chúa Giêsu để chế nhạo Người là Vua. Hình Thánh Giá phía trước và sau Áo Lễ nhắc chúng ta nhớ đến Thánh Giá mà Chúa Giêsu chết trên đó.
Chén Lễ hay Chén Thánh nhắc chúng ta nhớ đến rượu Chúa Giêsu đã dùng trong Bữa Tiệc Ly và chén giấm mà Người đã không uống trên Thánh Giá.
Tấm Che Chén, hình vuông bằng vải cứng dùng để đậy Chén Lễ, nhắc ta nhớ đến tảng đá được vần ra để đậy cửa mồ Chúa Giêsu.
Đĩa Thánh, một đĩa tròn để đặt Bánh Thánh. Cả Chén Thánh và Đĩa Thánh đều phải mạ vàng ở mặt trong và được Giám Mục cung hiến vì phần này chạm trực tiếp vào Mình và Máu Chúa Giêsu.
Khăn Thánh, một tấm khăn lớn trắng tinh hình vuông đặt dưới Chén Thánh và Đĩa Thánh. Biểu thị Khăn Liệm Xác Chúa Giêsu.
Khăn Lau Chén, một miếng vải mỏng hình chữ nhật dùng để lau Dĩa và Chén Thánh sau khi rửa.
Mạng phủ, dùng để phủ Chén Thánh và Đĩa Thánh khi không dùng, biểu thị Màn Đền Thờ bị xé làm đôi khi Chúa Giêsu tắt hơi thở.
Hai bình Rượu Nước, một bình đựng rượu và một bình đựng nước.
Một Khay và Khăn Lau Tay, linh mục dùng để rửa và lau các ngón tay trước Truyền Phép và sau Rước Lễ.
Bánh Không Men, làm thành hình Bánh Thánh Lớn cho Linh Mục và các hình nhỏ hơn cho giáo dân, làm bằng bột mì trộn nước lã mà thôi.
Ít là hai Cây Nến cháy, cắm vào Chân Nến
Hai Khăn Bàn Thờ phủ mặt trên của Bàn Thờ.
Một quyển Sách Lễ Roma với tất cả các Lời Nguyện, Kinh Tiền Tụng, Lễ Qui và các công thức ban Phép Lành cho toàn năm phụng vụ.
Một cái Gối hay Giá để Sách Lễ.
Một tượng Chịu Nạn (Thánh Giá) đặt giữa bàn thờ đối diện với linh mục.
Một Chuông Nhỏ hay Cồng Chiêng.
Một Người Giúp Lễ hay Lễ Sinh để đọc các câu đáp và rung chuông; có nhiệm vụ mang nước và rượu, khay rửa tay và khăn lau tay.
Hầu hết các vật dụng nêu trên đều cốt yếu cho Thánh Lễ, nhiều thứ còn cần đến nỗi thiếu thì có thể mắc tội, hay ít là tội không vâng lời.
CẦN PHẢI CÓ TƯỢNG CHỊU NẠN
Khi dân Moor đã chinh phục phần lớn nước Tây Ban Nha, có một ông vua tại Caravaca đã bắt được một số rất đông tín hữu làm tù nhân. Ông thương cảm và muốn thả thích họ, nên truyền đem mọi người đến trình diện ông. Ông hỏi từng người về nghề nghiệp của họ và cho phép họ hành nghề. Trong số tù nhân có một Linh Mục khi được hỏi câu trên liền trả lời rằng ơn gọi của ông là ơn gọi cho ông quyền đem Thiên Chúa Toàn Năng từ trời xuống. Vua yêu cầu ông đưa ra bằng chứng về quyền năng này. Ông đáp rằng ông không thể đưa ra bằng chứng trừ khi có đủ những thứ mà người Kitô hữu cần đến để cử hành Thánh Lễ.
Vua truyền cho ông liệt kê một danh sách tất cả những thứ cần Linh Mục liệt kê ra nhưng quên mất một thứ: tượng Chịu Nạn. Chỉ khi sắp sửa dâng Thánh Lễ, ông mới nhận ra sự thiếu sót của mình. Ông rất bồn chồn và do dự, còn vua thì có thể thấy đã có chuyện gì không ổn và nghĩ rằng ông linh mục này không thạo nghề của mình. Vua hỏi ông có chuyện gì không ổn. Ông trả lời rằng ông đã quên mất một mục trong danh sách: một tượng Chịu Nạn và ông thấy hoàn toàn không đúng khi cử hành Thánh Lễ mà không có tượng Chịu Nạn.
Trong tình thế bối rối ông nài xin Chúa giúp: Đột nhiên chiếc mái vòm của căn phòng nơi có Bàn Thờ bỗng rẽ ra làm đôi và hai Thiên Thần sáng chói như mặt trời từ trên cao khênh xuống một cây Thánh Giá lớn rất đẹp bằng gỗ. Vua cùng mọi người có mặt liền té xuống đất và chỉ đứng dậy sau khi những vị khách thiên thai mà họ nghĩ là các Thần đã biến mất. Họ không còn nghi ngờ rằng Linh Mục có quyền năng gọi Thiên Chúa từ Trời xuống và mọi người sẵn sàng nhìn nhận Kitô Giáo là đạo thật.
Đó là gốc tích Cây Thánh Giá nay vẫn còn được lưu giữ và tôn kính tại Caravaca nước Tây Ban Nha.
NGHI THỨC VÀ LUẬT CHỮ ĐỎ CỦA THÁNH LỄ
[Chú thích của người biên tập: Nghi thức mà Linh Mục chủ tế phải theo khi cử hành Thánh Lễ cũng chứng minh địa vị siêu vời của Thánh Lễ. Chủ tế bái gối, cúi đầu, làm Dấu Thánh Giá, giang rộng hai tay hay chấp tay trước ngực, tất cả đều theo Luật Chữ Đỏ. Thể hiện và tuân giữ chính xác mọi luật chữ đỏ đã qui định chính là điều tạo phẩm chất cao vời cho cuộc cử hành, cũng như coi thường các luật ấy làm cho việc cử hành trở thành một cuộc trình diễn không hấp dẫn và thậm chí nhàm chán, như việc các tín hữu tham dự hay không tham dự chứng minh rõ ràng điều đó.
Thánh Lễ Rôma bằng tiếng Latinh chất chứa những Luật Chữ Đỏ và nghi lễ đẹp và giàu ý nghĩa, đã được tác giả liệt kê ra. Ông không cho rằng những điều này là nhàm chán, ngược lại, giống như Hội Thánh, ông nhìn chúng như là những đồ trang điểm giúp giữ lại phẩm cách cao vời và làm tăng vẻ rực rỡ của hành vi cao vời nhất và vinh quang nhất của việc Thờ Phượng Thiên Chúa. Điều này cũng đúng đối với Thánh Lễ bằng tiếng địa phương, miễn là chủ tế trung thành tuân theo Luật Chữ Đỏ của Sách Lễ với phong cách của sự vâng phục nghiêm nhặt và hoàn hảo của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chủ tế phải đại diện cho Đức Kitô.]
Tất cả nghi thức này có một ý nghĩa thần bí và góp phần vào việc thễ hiện đúng mức và cung kính hành vi thánh thiện và cao cả này. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Piô V đã nghiêm khắc truyền rằng, vì đức vâng lời, mọi Hồng y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Khâm Sứ và Linh Mục đều phải cử hành Thánh Lễ theo cách thức này chứ không được theo cách thức nào khác, không được thêm hay bớt gì bằng bất cứ cách nào. [Sau Công Đồng Vaticanô II, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã cho phép duyệt lại Nghi Thức Thánh Lễ Rôma biên tập.] Nếu một linh mục nào tự ý và cố tình thay đổi hay bỏ đi bất kỳ nghi lễ nào trong số này, thì phải được kể là phạm một trọng tội, chứ không phải là một lỗi nhẹ do sự cẩu thả của mình, vì không chỉ là một sự xúc phạm đối với danh dự và địa vị của Hành Vi Thờ Phượng cao cả nhất này, mà còn là một sự vi phạm rõ ràng luật Hội Thánh.
Vì vậy chúng ta có thể đọc được rằng các tín hữu mang nặng ơn đối với linh mục là người buộc phải tuân giữ các Qui Luật nghiêm nhặt như thế khi dâng HY LỄ THÁNH cho họ. Nhờ hành vi này, linh mục nhận được một phần thưởng vĩnh cửu, nhưng chúng ta cũng không được quên rằng họ cũng được hưởng một phần thưởng tạm thời (vật chất). Không được bỏ thói quen dùng tiền xin lễ, vì như Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Anh em không biêt rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng (I Cr 9: 13-14)
TẠI SAO THÁNH LỄ BẰNG TIẾNG LATINH
Nếu có người hỏi: Tại sao Thánh Lễ bằng tiếng Latinh, một ngôn ngữ không còn được sử dụng nữa, chúng ta trả lời: Thánh Lễ không phải là một bài giảng, mục đích Thánh Lễ không phải để dạy dỗ dân chúng; Thánh Lễ là sự dâng hiến Hy Tế của Tân Ước cho dân. Có những lý do chính đáng tại sao Thánh Lễ nên được cử hành bằng một ngôn ngữ không bao giờ có thể thay đổi.
Một số ngôn ngữ được gọi là ‘từ’ ngữ, số khác là ‘sinh’ ngữ. Các từ ngữ không còn được sử dụng rộng rãi và vì thế không thay đổi ý nghĩa; còn các sinh ngữ là những cách nói năng đang được sử dụng bởi nhiều quốc gia khác nhau, Nếu Thánh Lễ được cử hành bằng sinh ngữ, sẽ có nguy cơ các từ bị thay đổi và ý nghĩa gốc của các công thức Thánh Lễ cũng thay đổi theo, nên Hội Thánh phải phòng ngừa nguy cơ này . Vì một phần tất yếu của tôn giáo không thể thay đổi, nên các ý nghĩa của ngôn ngữ tôn giáo cũng phải luôn luôn giữ nguyên.
Sự duy nhất về giáo thuyết trong Hội Thánh Công Giáo trên khắp thế giới được minh họa rất đẹp bởi sự đồng nhất của ngôn ngữ mà Hội Thánh sử dụng, ở đó mầu nhiệm Đức Tin cao cả mà Hội Thánh tuyên xưng đều được cử hành giống hệt nhau, bằng cùng một ngôn ngữ. Và để giúp các tín hữu bình thường không bị ngu dốt về ý nghĩa của các kinh nguyện bằng tiếng Latinh trong Thánh Lễ. Hội Thánh với tình hiền mẫu đối với con cái mình đã lo liệu để các kinh ấy trong các ‘Sách Lễ’ được dịch ra tiếng địa phương của mỗi nước. Hội Thánh cũng truyền dạy tất cả những ai chăm sóc các linh hồn phải thường xuyên cắt nghĩa cho đoàn chiên mình ý nghĩa của các kinh nguyện và nghi lễ của Thánh Lễ để không một ai mà không hiểu.
VỊ THƯỢNG TẾ CAO CẢ CỦA TÂN ƯỚC
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể có một vài ý niệm về địa vị cao siêu của HY TẾ THÁNH LỄ. Tuy nhiên, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn nữa khi xét AI thực sự là người dâng hiến Lễ Tế Thần Linh này.
Thực ra AI? Có phải là một Linh Mục, một Giám Mục, một Giáo Hoàng, một Thiên Thần, một vị Thánh, hay có lẽ là Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa chăng? Không phải ai khác mà là Đấng vĩ đại nhất trong mọi Linh Mục và Giám Mục, là Con Một của Chúa Cha Hằng Hữu. Đức Giêsu Kitô, Đấng được Cha xức dầu làm Thượng Tế muôn đời theo Dòng Menkisêđê. Đây là cái tạo cho Hy Tế Thánh Lễ địa vị vô biên, siêu vời và làm cho lễ tế ấy trở thành một Lễ Tế Thần Linh.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã dùng lời sau đây để chứng thực rằng trong Thánh Lễ, chính Đức Kitô, vị Thượng Tế cao cả, là Đấng dâng Hy Tế Thánh: “Linh Mục chỉ là thừa tác viên vì Đấng thánh hóa và biến đổi tế vật là chính Đức Kitô. Đấng trong Bữa Tiệc Ly đã biến đổi bánh thành Thịt của Người. Người vẫn tiếp tục làm điều đó hôm nay. Vì vậy, hỡi người Kitô hữu, khi bạn thấy một Linh Mục ở Bàn Thờ, hãy nghĩ và nhìn thấy bàn tay của Đức Kitô vô hình đối với con mắt phàm nhân.” Bằng những lời này, Thánh Gioan Kim Khẩu khẳng quyết một cách không thể sai lầm rằng đích thân Đức Kitô thể hiện hành vi hiến tế cao cả, rằng Người từ Trời xuống, rằng Người biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Người, rằng Người tự hiến dâng chính Mình cho Chúa Cha để cứu rỗi thế giới, và là Đấng chuyển cầu trung thành trước mặt Thiên Chúa cho hạnh phúc của dân Người. Các Linh Mục chỉ là những tôi tớ của Người: họ để cho Người sử dụng môi, miệng, giọng nói, bàn tay của họ làm những dụng cụ để dâng Hiến Tế Thần Linh này.
Và để không ai từ chối tin lời của Thánh Gioan kim Khẩu, chúng tôi sẽ viện dẫn thêm những chứng cớ khác nữa mà không ai dám bắt bẻ, vì đó là bằng chứng của Hội Thánh Công Giáo qua lời dạy của Công Đồng Trentô: “Hy Tế Thập Giá và Hy Tế Thánh Lễ là cùng một Hy Tế: cùng một Hy Tế là Đức Kitô tự hiến dâng mình trên Thập Giá bây giờ được dâng lên qua các thừa tác vụ của các linh Mục.” Bằng chứng những lời này, Hội Thánh dạy chúng ta – và truyền chúng ta tin – rằng các linh mục chỉ là những thừa tác viên của Đức Kitô và Đức Kitô tự híến tế chính mình khi bị treo trên Thập Giá.
Quả là một vinh dự lớn lao biết bao, một đặc ân vô giá chừng nào, một lợi ích vô biên khi chúng ta được Chúa Cứu Thế của chúng ta hạ cố để trở thành Tư Tế của chúng ta, Đấng trung gian của chúng ta, Đấng bầu chữa cho chúng ta, và là Đấng hiến tế chính Mình Người cho Thiên Chúa Cha vì chúng ta.
Chúng ta hãy nghe Thánh tác giả Thư Do Thái nói thế nào về sự cao cả và vinh quanh của hành vi này: Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Giêsu không như các thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng tế lễ hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau đó để đền thay cho dân: phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật lại đặt Người Con đã nên thập toàn đến muôn đời (Dt 7:26-28).
Thánh Tông Đồ đã dùng những lời lẽ bóng bẩy như thế để phô bày trước mắt chúng ta sự cao cả của Tình Yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, đó là Người đã ban cho chúng ta một vị Thượng Tế và Trung Gian không phải là một con người mỏng dòn yếu đuối và tội lỗi, mà là chính Con Một của Người, tinh tuyền và thánh thiện vẹn toàn.
Bây giờ chúng ta xét đến những lý do tại sao Đức Kitô không ủy thác cho ai nhiệm vụ dâng Hy Tế mà chính bản thân Ngài. Chủ yếu là vì Lễ Tế nảy phải thanh sạch và không tì vết: Ở khắp nơi, Chúa phán, một lễ tế tinh tuyền được dâng lên để kính Danh Ta. Về điểm này. Hội Thánh dạy: “[Hy Tế Thánh Lễ này] thực là lễ tế thanh sạch không thể bị ô uế bởi bất cứ sự bất xứng hay tội ác nào của người dâng lễ tế này, mà linh mục lại là một người phàm nên lễ tế này có thể bị ô uế, và chúng ta có thể nghi ngờ lễ tế ấy không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa. Vì vậy Thiên Chúa Cha đã quyết định rằng chính Con Một chí thánh của Người phải giữ lại cho mình danh xưng và chức vụ của một Thượng Tế, theo như lời Người đã phán: Con là Tư Tế muôn đời theo Dòng Menkisêđê (Tv 109:4)
Vì vậy chúng ta thấy rằng, mặc dù linh mục cử hành Thánh Lễ, nhưng thực ra họ không phải là người dâng Hy Tế, họ chỉ là người đại diện cho vị Thượng Tế cao cả là Đức Giêsu Kitô. Nếu một người đưa cho đầy tớ của mình một món tiền để dâng lễ cho mình tại một đền thờ, thì giả sử đầy tớ ấy là người đang mắc tội trọng, lễ dâng cũng không vì thế mà mất đi giá trị của nó. Cũng vậy linh mục khi dâng Lễ Tế nhân danh Đức Giêsu Kitô thì hoàn toàn không thế nào làm cho Lễ Tế ấy trở thành ô uế hay mất đi sự thánh thiện.
Nhưng ta có thể nói, tại sao Đức Kitô không ủy thác cho một Thiên Thần hay một vị Thánh để dâng Hy Tế này? Thậm chí Người Mẹ trinh khiết vô song của Người – vô nhiễm nguyên tội và đầy ân sủng và không thể làm cho lễ vật này trở thành ô uế dù rất nhẹ - cũng không thể dâng Hy Tế này một cách hoàn hảo.
Sở dĩ Đức Kitô không ủy thác, và KHÔNG THỂ ủy thác việc DÂNG Hy Tế Thánh Lễ cực thánh cho Mẹ của Người, cho một Thiên Thần hay một vị Thánh nào đó, đó là để có thể hàng ngày Người dâng lên Cha Người một lễ dâng không bao giờ thay đổi, được dâng một cách vô cùng cao cả và hoàn toàn hiệu quả đến nỗi chắc chắn làm đẹp lòng Thiên Chúa Ba ngôi Cực Thánh.
Vì vậy mọi Thánh Lễ được cử hành đều là một hành vi cao trọng vô cùng, được thực hiện bởi chính Đức Kitô với lòng hiếu thảo, cung kính và yêu mến mà con người hay thiên thần cũng không thể nào hiểu hết. Điều này đã được chính Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Mechtilde qua những lời này: “Chỉ một mình thầy biết và hiểu hoàn toàn lễ dâng mà mỗi ngày Thầy dâng hiến chính minh Thầy vì phần rỗi của tín hữu. Lễ dâng của Thầy vượt quá sự hiểu biết của các Thiên Thần Kêrubim và Sêraphim, và của mọi cơ binh Thiên Thần trên Trời.”
Lạy Chúa, Hy Tế mà chính Đức Kitô tự hiến chính mình trong Thánh Lễ quả là vinh quang biết bao, mạnh thế biết bao và vô giá chừng nào, vì tất cả các bậc thần thánh cao sang nhất trên Trời cũng không thể nào hiểu thấu. Ôi Giêsu đáng tôn thờ. Mầu Nhiệm này quả là khôn dò, vì chỉ một mình sự Khôn Ngoan và Trí Hiểu Thần Linh của Người mới có thể hiểu và đánh giá nổi. Hạnh phúc cho ai tham dự Thánh Lễ và nhờ đó đáng được dự phần vào Hy Tế mà chính Chúa dâng lên cho họ, sức mạnh và hiệu quả của Hy Tế này trí khôn thụ tạo không thể nào dò thấu.
Vì thế chúng ta hãy ghi tạc điều này vào lòng và suy gẫm kỹ xem chúng ta được lợi biết chừng nào khi tham dự Thánh Lễ, vì trong Thánh Lễ Đức Kitô tự dâng hiến chính mình cho chúng ta, và đặt mình làm Đấng Trung Gian giữa sự công bằng của Thiên Chúa và các tội lỗi của loài người, và xóa bỏ hoàn toàn hay làm giảm nhẹ một phần hình phạt mà chúng ta đáng phải chịu vì những lỗi phạm hằng ngày của chúng ta. Chỉ cầ hiểu rõ điều này, chúng ta sẽ yêu mến Thánh Lễ biết bao, chúng ta sẽ tham dự Thánh Lễ sốt sắng biết bao, và chúng ta sẽ nhất quyết không để cho bất cứ điều gì ngăn cản chúng ta đến với Thánh Lễ. Trái lại, chúng ta sẽ sẵn sàng chịu những thiệt thòi vật chất hơn là để cho linh hồn bị tước mất lợi ích của việc tham dự Hy Tế thánh thiêng và cứu độ này. Các Kitô hữu thời kỳ đầu đã có lòng sốt sắng như thế đấy, họ thà mất mạng sống mình hơn là bỏ một Thánh Lễ.
DỰ THÁNH LỄ; NHỮNG MẪU GƯƠNG ANH HÙNG
Sự kiện sau đây xảy ra vào khoảng năm 303 C.N.
Tại thành phố Aluta bên Châu Phi, tất cả các nhà thờ Công Giáo đều bị phá hủy và việc thờ phượng Kitô Giáo bị nghiêm cấm theo sắc chỉ của Hoàng Đế. Nhưng bất chấp lệnh cấm này, một số Kitô hữu cả nam lẫn nữ đã tụ tập tại một nhà riêng để dự Thánh Lễ. Họ bị người ngoại đột kích, bị bắt và lôi đến trước quan tòa tại nơi phố chợ. Sách Lễ cùng với những sách khác của các tù nhân bị quẳng vào đống lửa ở chợ trước sự chế nhạo của mọi người. Tuy nhiên các sách ấy vẫn không bị cháy, vì trước khi lửa kịp bùng lên, một trận mưa rào lạ thường đổ xuống và lửa bị tắt ngúm. Quan tòa bị ấn tượng quá mạnh trước sự kiện này, ông đã ra lệnh đem các tù nhân gồm 34 đàn ông và 27 phụ nữ đến trình diện trước Hoàng Đế. Những người Kitô hữu này hân hoan lên đường, vừa đi vừa hát thánh ca và thánh vịnh để thời gian qua nhanh.
Khi họ được đưa tới trước mặt Hoàng Đế, quan cai tù tâu: “Tâu Hoàng Đế, những người Kitô hữu quấy rối này bị chúng tôi bắt tại thành Aluta, nơi họ coi thường lệnh Hoàng Đế và đang thờ cúng các thần giả trá.” Hoàng Đế liền bắt một người tù trong số này, lột hết quần áo, đặt lên giàn và lấy móc sắt lóc hết thịt người này. Lúc ấy một người tù khác tên là Telica liền lên tiếng: “Này bạo chúa, tại sao ông lại tra tấn một người thôi? Chúng tôi đây tất cả đều là Kitô hữu, tất cả chúng tôi đều đã dự thánh Lễ giống như người này”. Hoàng Đế liền bắt người này chịu cùng một cảnh tra tấn như người kia. Rồi ông hỏi: “Tên nào chịu trách nhiệm về cuộc tụ tập này?” “Đó là linh mục Saturninus, và tất cả chúng tôi.” Họ đáp, “nhưng ông nên biết rằng ông đang hành động rất bất công về chuyện này.” “Các ngươi phải tuân lệnh của ta và từ bỏ thờ cúng các thần giả trá này.” Hoàng Đế nói. Nhưng Telica trả lời: “Chúng tôi không phải vâng lệnh nào ngược với các điều răn của Thiên Chúa tôi, và tôi sẵn sàng chết về Người.” Thế là Hoàng Đế ra lệnh cởi trói cho các tù nhân và ném họ vào tù, không cho đồ ăn thức uống gì cả.
Trong khi ấy, người anh ngoại đạo của một tù nhân đến và tố cáo một nghị sĩ tên là Dativus là đã dụ dỗ em gái ông tên là Victoria đi dự lễ. Nhưng Victoria tự mình lên tiếng: “Chẳng có ai dụ dỗ tôi cả, chính tôi tự ý đến nhà ấy để dự Thánh Lễ, vì tôi là người Kitô hữu, và tội của tôi là vâng theo Luật Chúa Kitô.” Anh cô trả lời: “Mày mất trí rồi, và mày nói giống như một con điên.” “Tôi không phải là con điên, mà là Kitô hữu.” cô đáp. Bấy giờ Hoàng Đế hỏi cô có muốn trở về nhà với anh cô không, cô đáp cô coi những người đang chịu cực hình nhân danh Đức Kitô là những anh chị em thực sự của cô; cô cũng không muốn rời bỏ họ, vì cô cũng đã đến dự Thánh Lễ và rước lễ cùng với họ. Hoàng Đế thúc giục cô hãy nghe lời khuyên của anh mà cứu lấy thân; chính Hoàng Đế rất muốn cứu cô vì cô là một phụ nữ có nhan sắc tuyệt trần và là thành viên của một gia đình quyền quý trong thành phố. Nhưng thấy rằng mọi lời thuyết phục đều vô ích. Hoàng Đế ra lệnh giam cô lại và vẫn tìm hết cách để dụ cô bỏ đức tin. Cha mẹ cô gái này ép cô lấy chồng, nhưng thay vì chịu ép buộc, cô nhảy qua cửa sổ sang phòng giam của linh mục Saturninus và nài xin vị này nhận cô vào hàng ngũ các trinh nữ thánh hiến.
Cuối cùng, tên bạo chúa nói chuyện trực tiếp với linh mục Saturninus và hỏi có phải ông đã tụ tập những người này để thờ cúng chống lại sắc chỉ của vua không. Saturninus đáp: “Tôi tụ tập họ theo lệnh của Thiên Chúa để phụng sự Người” “Tại sao ngươi làm điều đó?” hoàng đế hỏi. “Vì chúng tôi có bổn phận dâng Hy Tế Thánh.” linh mục này đáp. Và khi hoàng đế hỏi có phải chính ông đã xúi dục và thuyết phục mấy người này tụ tập với nhau để làm việc đó không, vị linh mục nhin nhận đúng như vậy và chính ông đã cử hành Thánh Lễ. Thế là quan tòa xử ông phải bị lột hết quần áo và lóc hết thịt cho tới khi lòi ruột ra và bị ném vào ngục tối cùng với các tù nhân khác.
Một tù nhân khác tên là Emericus (sau này được phong thánh) cũng bị dẫn đến trước Hoàng Đế. Khi người ta hỏi ông là ai, ông nói ông chính là người đã tổ chức cuộc hội họp này, vì Thánh Lễ đã được cử hành tại nhà chính ông và ông đã tổ chức Thánh Lễ vì lợi ích của các anh chị em; họ không thể thiếu Thánh Lễ. Vì vậy ông cũng bị phạt như những người khác.
Sau đó Hoàng Đế nói với những tù nhân còn lại: “Ta mong các ngươi hãy xem gương của những người đồng đạo của các ngươi đã chịu cực hình, để các ngươi không vứt bỏ mạng sống mình giống như họ. Nhưng tất cả họ đều trả lời: “Chúng tôi là Kitô hữu, chúng tôi quyết tâm tuân giữ Luật Chúa Kitô dù có phải đổ máu.”
Hoàng Đế chỉ tay về một tù nhân trước mặt ông tên là Felix và hỏi: “Ta không hỏi ngươi có phải là Kitô hữu hay không, nhưng ta muốn biết ngươi có tham dự Thánh Lễ ấy không.” Felix đáp: “Câu hỏi này thừa. Một Kitô hữu không thể sống nếu không có Thánh Lễ cũng như không thể có Thánh Lễ nếu không có người Kitô hữu. Tôi mạnh bạo tuyên bố rằng chúng tôi tụ tập nhau lại với lòng đạo đức sốt sắng và đọc kinh cầu nguyện đang khi cử hành Thánh Lễ.” Nghe nói thế, Hoàng Đế giận điên lên và truyền đánh đòn vị thánh tử đạo này cho đến chết.
Sau sự việc này, tất cả các tù nhân còn lại đều bị tra tấn dã man và ném vào một ngục lớn và không được ăn uống gì cả. Những người bà con đem thức ăn đến cho họ nhưng bị cai ngục lấy sạch. Các Tôi Tớ Đức Kitô bị bỏ đói và khát cho đến chết.
Câu chuyện này được ông Baronius kể lại từ các sự tích xưa, nó chứng minh rõ ràng rằng trong Hội Thánh Kitô giáo thời kỳ đầu, Thánh Lễ được cử hành và có các tín hữu tham dự. Từ câu truyện này, chúng ta cũng biết được rằng các Kitô hữu có lòng sùng mộ Thánh Lễ biết chừng nào. Họ sẵn sàng chịu tra tấn và chết hơn bỏ Thánh Lễ. Tại sao có sự sốt sắng phi thường đến thế. Họ đánh giá cao sức mạnh siêu vời của Thánh Lễ và hăng hái ước ao chia sẻ những hoa qủa của Thánh Lễ. Ước gì gương sáng của họ là bài học cho chúng ta để biết tham dự Thánh Lễ một cách hết sức sốt sắng và lãnh nhận được nhiều ơn lành hơn cho linh hồn chúng ta và tất cả những người chúng ta yêu mến.
GIÁ TRỊ VÔ BIÊN CỦA LỄ TẾ
Tất cả những gì đã nói về sự siêu vời của Hy Tế Thánh Lễ cũng chưa đủ để diễn tả giá trị của Tế Phẩm được dâng lên Thiên Chúa Ba ngôi Cực Thánh trong Thánh Lễ. Tác giả Thư Do Thái nói: Bất cứ ai được phong làm thượng tế cũng là để dâng lễ vật và tế phẩm (Dt 8:3). Vì vậy, như Đức Kitô đã được Cha Người xức dầu làm Thượng Tế, thì Người cũng phải có một có một tế phẩm để hiến tế. Thánh Tông Đồ không nói tiếp rằng Đức Kitô có gì để dâng trên bàn thờ; ngài để chúng ta suy gẫm về điều đó. Vậy chúng ta hãy hỏi: Với tư cách là Thượng Tế, Đức Kitô đã sát tế vật gì cho Thiên Chúa Cha?
Tế phẩm phải là một lễ vật không tầm thường, nhưng có giá trị siêu vời vô hạn; nếu không thì không xứng đáng để dâng lên cho Thiên Chúa vô biên. Ví giá trị siêu vời của lễ vật được dâng hiến phải tỉ lệ thuận với sự cao cả của Đấng mà lễ vật ấy được dâng lên. Một người mà dâng một tặng vật xoàng xĩnh cho một ông vua thì chẳng những không được vua cảm ơn mà còn làm cho ông vua khó chịu. Vậy mà Thiên Chúa Toàn Năng là Chúa Tể tối cao của trời đất, siêu vượt hẳn mọi Vua Chúa trần gian. Chúng ta hãy nghe lời sách Khôn Ngoan nói về Người: Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11:22). Nếu cả vũ trụ này cũng chẳng bằng một giọt sương trước nhan Thiên Chúa, thì có gì trên mặt đất này xứng đáng để được dâng lên cho Thiên Chúa Uy Nghiêm? Trên trời hay dưới đất nào có gì xứng đáng để Đức Kitô có thể dâng lên làm hy tế đẹp lòng Ba Ngôi Chí Thánh?
Vậy thì bạn thử nghĩ xem Đức Kitô dâng lên cho Thiên Chúa Toàn Năng lễ vật gì trong Thánh Lễ? Bạn hãy đọc và đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Trong khắp cả vũ trụ, Người chỉ tìm thấy một tặng phẩm duy nhất đáng được dâng lên cho Thiên Chúa vô biên, đó là Nhân Tính Thánh Thiêng của chính Người. Mình và Máu đáng tôn thờ của Người, Linh Hồn tinh tuyền vô tì vết của Người. Về đề tài này, Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Đức Kitô vừa là Tư Tế vừa là Tế Vật; Người là Tư Tế theo Thần Khí, Tế Vật theo huyết nhục. Người vừa là Tư Tế vừa là Tế Vật.” Thánh Augustinô cũng nói tương tự như thế khi bình luận về Thánh Vịnh 26: “Chỉ có Đức Kitô là người duy nhất vừa là Tư Tế vừa là đồng thời là Tế Vật, vì Người không hiến tế gì khác ngoài chính mình Người”; bởi vì mọi kho tàng trên trời dưới đất đều không thể cung cấp một tế vật nào thích hợp cho hiến tế cho Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh.
Nhân tính thánh thiêng của Chúa Giêsu là công trình vĩ đại và cao cả nhất của Thiên Chúa Toàn Năng. Mẹ Thiên Chúa đã mạc khải điều ngày cho Thánh Briget bằng những lời nguyên văn như sau: Trong số tất cả những gì đang có hay đã có, không có gì đáng giá và đáng quý bằng Nhân Tính Thánh Thiêng của Đức Kitô”. Vì bàn tay hào phóng của Thiên Chúa đã ban cho Nhân Tính của Con của Người những kho tàng giàu sang và vô tận như thế - kho tàng Ân Sủng và Nhân Đức, Khôn Ngoan và Thánh Thiện – tóm lại, một sự hoàn thiện tới mức không thể thêm gì hơn được nữa. Lý do là vì không phải khả năng ban phát các quà tặng vô giá của Thiên Chúa bị giới hạn, nhưng là vì bản tính nhân loại của Đức Giêsu quá sung mãn không thể nhận thêm điều gì lớn hơn. Đức Mẹ Thiên Chúa được phú ban một sắc đẹp, sự thánh thiện và giá trị siêu vời vượt quá trí tưởng tượng của chúng ta, nhưng so với Nhân Tính Thánh Thiêng của Chúa Kitô thì Đức Mẹ chỉ là một que diêm cháy sáng giữa mặt trời chính ngọ. Và vì sự siêu vời tuyệt đỉnh này, Nhân Tính Thánh Thiêng của Đức Kitô không chỉ được thờ lạy bởi những con người đạo đức thánh thiện, mà còn bởi các Cơ Binh Thiên Thần ở dưới đất; và trên Trời, Nhân tính của Người được liên lỉ tôn thờ, chỉ ở dưới một mình Thiên Chúa, nhờ các Ân Sủng và sự Thánh Thiện siêu vời mà Đức Kitô trong tư cách là thủ lãnh của loài người, đã mặc cho Nhân tính của Người tới một mức vượt trên mọi loài thụ tạo khác.
Trong sự hào phóng vô biên của Người, Thiên Chúa lúc tạo dựng đã ban cho các Thiên Thần sự thánh thiện lớn lao và các đức tính vinh hiển khác. Do lòng thương vô biên. Thiên Chúa cũng ban cho nhiều con người tốt lành và nhiều vị Thánh lỗi lạc ngay từ lúc mới sinh được những quà tặng và ân sủng phi thường, Người đã phú ban cho Đức Maria cả lúc sinh ra trong suốt cuộc đời của Mẹ những Ân Sủng, những đặc ân và những sự hoàn thiện phi thường và hết sức dồi dào. Nhưng trong Nhân Tính Thánh Thiêng của Đức Kitô, tất cả những hồng ân này đều tụ lại, ngoài vô số những đặc ân vô song trên trời mà Chúa Thánh Thần đã phú ban cho Nhân Tính của Người ngay từ đầu. Vì vậy chúng ta có thể thấy Nhân Tính của Chúa Giêsu siêu vời biết bao, vinh hiển biết bao, vượt quá trí hiểu của chúng ta, và là một đại dương của những sự hoàn thiện chứa đựng trong Nhân Tính ấy.
Nhân Tính Thánh Thiện và siêu vời của Đức Kitô là lễ vật vô giá mà vị Thượng Tế, Con Một của Thiên Chúa hiến dâng lên cho Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh trong mỗi Thánh Lễ hàng ngày. Và Người không chỉ dâng Nhân Tính này mà thôi. Người còn dâng tất cả những gì Người đã làm và những đau khổ trong 33 năm để tôn vinh và mang lại vinh quang cho Thiên Chúa Ba ngôi; các lần ăn chay, canh thức cầu nguyện, đi lại, tất cả các việc hãm mình, các lời giảng dạy, các việc phạt xác, chịu bách hại, vu khống, khinh dể, lăng nhục mà Người đã chịu, các đau đớn thể xác, bị đánh đòn, bị đội mũ gai, các vết thương, tra tấn và lo buồn xao xuyến Người đã chịu; các giọt nước mắt, máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm và giòng máu đỏ của Người. Tất cả những điều ấy Đức Kitô bày ra trước mắt Thiên Chúa Ba Ngôi mỗi khi Thánh Lễ được cử hành, và Người dâng lên với một giá trị không thua kém việc Người đã dâng ở trần gian này trong đời sống thánh thiện và những đau khổ cay đắng của Người.
Nhưng giá trị cốt yếu của Hy Tế này là ở chỗ Đức Kitô không chỉ dâng một mình Nhân Tính Thánh Thiêng của Người mà thôi, nhưng Người dâng trong sự kết hợp thiên Tính của Người. Bởi vì mặc dù trong HY TẾ THÁNH LỄ, không phải Thần Tính mà là Nhân Tính của Đức Kitô được dâng lên Chúa Cha Ba Ngôi, nhưng sự hoàn hảo của Lễ Vật này nhờ sự Kết Hiệp Ngôi Vị (hypostatic). Nhờ sự kết hiệp này, nhân tính được thần hóa, được làm giàu với vô vàn kho tàng Ân Sủng và được có một giá trị vô giá. Vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng hy tế mà Chúa Cứu Thế dâng lên cho Thiên Chúa Chí Tôn trong mỗi Thánh Lễ quả là vô cùng siêu vời. Người dâng Nhân Tính Thánh Thiêng của Người một cách diệu kỳ và không thể nào hiểu nổi.
Sau cùng chúng ta không thể không lưu ý rằng Đức Kitô không dâng Nhân Tính của Người trong tình trạng vinh hiển ở trên Trời, nhưng trong thân phận hèn hạ ở trên Bàn Thờ. Các Thiên Thần trên trời run sợ trước Nhân Tính vinh hiển của Đức Kitô, và các ngài kinh ngạc khi nhìn thấy sự hạ mình của cùng một Nhân Tính này trên các Bàn Thờ của chúng ta. Ở đây, nhân tính ấy bị che giấu, có thể nói là bị giam cầm dưới hình bánh và rượu. Bởi vì các hình thức bên ngoài này bao bọc Nhân Tính Thánh Thiêng của Chúa chúng ta một cách quá mật thiết và che giấu Nhân Tính ấy, khiến cho nếu lấy đi các hình thức bên ngoài này thì Nhân Tính ấy cũng bị lấy đi, còn các hình thức này vẫn tiếp tục tồn tại thì Nhân Tính ấy cũng hiện diện dưới các hình thức ấy mà không một quyền năng phàm trần nào có thể tách rời Nhân Tính ấy được. Đức Kitô tự hiến dâng cho Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh dưới một hình thức nhỏ bé, quá khiêm hạ, đến nỗi toàn thể cơ binh trên Trời phải ngưỡng mộ sâu xa.
Chúng ta có thể nghĩ xem Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh sẽ bị đánh động như thế nào khi nhìn thấy sự hạ mình sâu thẳm này của Nhân Tính Đức Kitô? Chúa Cha trên trời được tăng phần vinh đự biết bao từ sự hạ mình tột cùng của Con Chí Ái của Người. Nó mang lại quyền năng ghê gớm cho HY TẾ THÁNH LỄ, vì đó là phương tiện nhờ đó mầu nhiệm thần linh này được hoàn thành. Nó là nguồn ơn cứu độ và lợi ích vô biên cho loài người mà HY TẾ cực thánh này được dâng lên cho. Nó mang lại niềm an ủi và vui sướng không nhỏ cho các linh hồn đau khổ dưới Luyện Ngục mà các Thánh Lễ thường được dâng lên để giải thoát các linh hồn ấy.
Hiểu được như thế, chúng ta sẽ vô cùng quí chuộng Hy Tế Thánh Lễ, đánh giá Thánh Lễ cao hơn và tham dự thường xuyên hơn, hân hoan hơn, và sốt sắng hơn. Vì các Thánh Lễ được dâng hàng ngày là những vũ khí ân sủng của Thiên Chúa, nguồn mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và là hy tế đền tội toàn năng, nếu chúng ta dự lễ sốt sắng. Về điểm này, chúng ta phải hết lòng cảm tạ Đấng Cứu Chuộc đáng tôn thờ của chúng ta vì đã lập Hy Tế cứu độ hiệu qủa này cho chúng ta, Hy Tế mà Người dâng hàng ngày, hàng giờ lên cho Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Quả thật chúng ta phải tạ ơn Người vì ban cho chúng ta một vũ khí cực mạnh như thế, nhờ đó chúng ta có thể chiếm được Ân Sủng của Thiên Chúa, và có thể nói là chiếm được thành trì của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
CHÚA GIÊSU ĐÍCH THÂN CUNG HIẾN MỘT THÁNH ĐƯỜNG
Để ghi tạc sâu hơn vào tâm trí chúng ta sự siêu vời của Hy Tế Thánh này, chúng ta hãy nhớ lại truyện Đức Kitô đã đich thân cung hiến Nhà Nguyện Đức Mẹ tại Thánh Đường ở Einsiedeln như thế nào.
Người ta kể lại trong tiểu sử Thánh Meinrad rằng tám mươi năm sau khi vị Thánh ẩn sĩ này qua đời, thể theo lời yêu cầu của một nhà quý tộc tên là Eberhard, Đức Cha Conrad, Giám Mục Constance đã đến cung hiến Nhà Nguyện Thánh Meinrad. Vào tối hôm trước ngày lễ cung hiến, Đức Cha Conrad đến nhà thờ này cầu nguyện và nghe thấy có tiếng ca đoàn các Thiên Thần đang hát các câu tiền xướng và đáp ca của Nghi Lễ Cung Hiến Thánh Đường. Vừa vào trong nhà thờ, ngài nhìn thấy chính Chúa Giêsu mặc phẩm phục linh mục đang cử hành nghi lễ cung hiến Nhà Nguyện, với đông đảo các Thánh và các Thiên Thần tham dự. Nhìn thấy cảnh kỳ diệu này, vị giám mục thánh thiện không thể tin vào các giác quan của mình. Nhưng rõ ràng là ngài nghe thấy và nhìn thấy những điều đang diễn ra và nhận thấy Đức Kitô dùng đúng các công thức và các lễ nghi mà các giám mục dùng khi cung hiến một Thánh Đường, trong khi một số vị Thánh là những người Giúp Lễ. Bàn Thờ và Nhà Nguyện này được cung hiến nhân danh Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và chính Đức Mẹ xuất hiện phía trên Bàn Thờ trong vinh quang Thiên Quốc, sáng hơn mặt trời, chói lòa hơn ánh sáng chói chan nhất. Sau khi kết thúc nghi lễ cung hiến, chính Chúa Giêsu đích thân cử hành Hy Tế Thánh.
Khi Thánh Lễ kết thúc, các thần thánh trên trời biến mất, chỉ còn lại một mình vị giám mục trong nhà thờ, vui sướng ngây ngất vì cảnh tượng được chứng kiến. Khi tỉnh dậy khỏi cơn ngây ngất, ngài nhìn thấy những dấu chân trên lớp tro rải trên nền nhà và các dầu thánh trên các tường, là những dấu chứng về thực tại ngài vừa xem thấy.
Sáng hôm sau, các linh mục và giáo dân tề tựu trước nhà thờ để chuẩn bị dự nghi lễ, nhưng Đức Giám Mục tuyên bố ngài không thể cung hiến vì Nhà Thờ đã được cung hiến bởi triều thần thiên quốc. Nhưng vì mọi người đều cho rằng vị giám mục bị ảo giác, nên họ ép giám mục phải bắt đầu nghi lễ. Tuy nhiên, một tiếng từ trời vọng xuống ba lần mà mọi người có mặt đều nghe thấy: “Người anh em hãy dừng lại! Nhà Nguyện đã được cung hiến rồi.” Thánh Conrad vâng lời và dừng lại, nhưng đã gửi sang Roma một báo cáo về phép lạ.
Câu chuyện kỳ lạ này là một bằng chứng sống động về sự thánh thiện của Thánh Lễ, vì chính Chúa Giêsu đã đích thân xuống cử hành Thánh Lễ. Giá mà chúng ta đã được ở với Giám Mục Conrad lúc ấy và được chứng kiến cảnh ngài đã chứng kiến! Nhưng ít ra chúng ta có thể vui mừng vì biết rằng Đức Kitô cử hành Thánh Lễ cùng một cách như chúng ta quen cử hành.
CHƯƠNG 3: CÁC MẦU NHIỆM CỦA THÁNH LỄ
Bây giờ khi sắp sửa nói về các Mầu Nhiệm của Thánh Lễ, rất nhiều và cao cả, tôi không thể làm gì khác hơn là thốt lên cùng với Vua Ngôn Sứ Đavit:
Hãy đến xem các công trình của Chúa
Những kỳ công Người thực hiện trên mặt đất này. (Tv 14:9)
Quả thật, những kỳ công và những dấu lạ Đức Kitô đã làm trên mặt đất này nhiều biết bao, nhưng không gì cao cả và kỳ diệu hơn việc người lập phép Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Có thể nói đây là một tóm lược của mọi kỳ công Thiên Chúa đã làm, và tự nó đã chất chứa đầy mầu nhiệm khiến Thánh Bonaventura không ngần ngại phát biểu như sau: “Thánh Lễ chứa đầy mầu nhiệm giống như đại dương đầy những giọt nước, hay như trời đầy sao, thiên triều đầy Thiên Thần vì trong Thánh Lễ có quá nhiều mầu nhiệm được cử hành hàng ngày, đến nỗi tôi không tài nào nói nổi rằng có những kỳ công nào khác lớn lao hơn hay cao siêu hơn mà Thiên Chúa Toàn Năng đã thực hiện.”
Câu phát biểu này nghe có vẻ lạ và hầu như không thể tin nổi. Có đúng thực là các mầu nhiệm chứa đựng trong Thánh Lễ không thể nào đếm nổi không? Sanchez đồng ý với Thánh Bonaventura về điểm này, ông nói: “Trong Thánh Lễ chúng ta nhận được những kho tàng quá tuyệt vời, quả thật, các món quà quá linh thiêng và quí giá, các lợi ích quá nhiều cho cuộc sống chúng ta ở đời này, niềm hy vọng quá chắc chắn cho đời sau, khiến cho nếu không có đức tin, chúng ta không thể nào tin được rằng những lời khẳng định ấy là đúng.” Với những lời này ông muốn nói rằng những sự lành cả cho đời này và đời sau mà chúng ta nhận được qua Thánh Lễ vượt quá khả năng tin tưởng tự nhiên của chúng ta; và giả như Thiên Chúa không ban cho chúng ta Đức Tin siêu nhiên giúp chúng ta tin những điều ấy, hẳn chúng ta không thể nào hiểu được đầy đủ - chúng ta sẽ không bao giờ tin vào những hồng ân vô giá mà Thánh Lễ mang lại cho chúng ta. Cùng tác giả này viết thêm: “Cũng như chúng ta có thể lấy ở biển cả và sông sâu bao nhiêu nước tùy chúng ta cần và không bao giờ múc cạn được, thậm chí không thể làm chúng mảy may vơi đi, thì với Thánh Lễ cũng thế. Thánh Lễ thật bao la vô cùng khiến sự sung mãn của nó không thể bị vơi đi, càng không thể bị rút cạn.” Cách so sánh này dạy chúng ta rằng Thánh Lễ là một đại dương đầy Ân Sủng và Mầu Nhiệm rực rỡ, từ đó chúng ta hàng ngày nhận được mọi điều lành cho linh hồn và thân xác chúng ta.
THÁNH LỄ CỦA THÁNH FACUNDO
Câu chuyện sau đây sẽ giúp minh họa cho điều chúng ta vừa nói, cũng như làm bừng cháy lên lòng sùng mộ của chúng ta đối với Thánh Lễ.
Trong tiểu sử Thánh Gioan Facundo, một hội viên Dòng Thánh Augustinô chúng ta đọc thấy rằng ngài không bao giờ bỏ Thánh Lễ vì bất cứ lý do gì. Thật vậy, lòng khao khát tiếp rước Chúa Giêsu đã thúc đẩy ngài cử hành Thánh Lễ mỗi sáng sớm bao có thể. Tuy nhiên ngài dâng Thánh Lễ quá lâu khiến cho những người giúp lễ dần dẩn không còn ai muốn giúp lễ ngài nữa. Thánh nhân tìm đến Tu Viện Trưởng và xin ngài cho một thầy tới giúp lễ. Nhưng Tu Viện Trưởng trả lời ngài thẳng thừng: “Tại sao cha dâng lễ quá chậm khiến các thầy không thể nào chịu nổi? Tôi yêu cầu cha cử hành Thánh Lễ giống như bao linh mục khác”. Cha Gioan làm theo lệnh Cha Bề Trên, nhưng sự vâng lời này khiến ngài phải trả giá quá nhiều khiến ngài lại tìm đến với Cha Bề Trên và xin vị này rút lại lịnh, cho đến khi cha Gioan phải thú nhận vì ấn tín giải tội với Bề Trên về những lý do thật sự khiến cha không thể dâng Thánh Lễ nhanh hơn. Bấy giờ Cha Bề Trên ra lệnh cho các thầy tiếp tục giúp lễ cho Cha Gioan, dù họ phải hết sức kiên nhẫn chịu đựng. Sau đó, với sự đồng ý của Thánh Nhân. Tu Viện Trưởng đã tâm sự với một linh mục khác: “Cha có thể tin khi tôi nói ra lý do tại sao Cha Gioan dâng lễ quá lâu như thế. Đó là Thiên Chúa đã tỏ ra cho ngài thấy những Mầu Nhiệm thâm sâu được thực hiện trong Thánh Lễ - những mầu nhiệm quá cao siêu mà trí khôn loài người không tài nào hiểu thấu. Các bí mật ngài tiết lộ cho tôi có tính chất quá kinh khủng khiến tôi hết sức kinh hãi và hầu như bất tỉnh. Điều chắc chắn là Chúa Kitô thường hiện ra với Cha này, nói chuyện với Cha thân thiết như một người bạn và cho Cha xem thấy Năm Dấu Thánh của Người, từ đó phát ra một luồng sáng vô cùng chói chan, chiếu rọi thẳng vào Thánh Nhân, tạo sinh lực cho cả linh hồn và thân xác khiến Thánh Nhân không cảm thấy cần lương thực trần gian. Ngài cũng nhìn thấy Thân Thể Đức Kitô rực sáng giống như mặt trời chính ngọ, và nhận thấy vẻ đẹp và vinh quanh vô biên của Thân Thể Người. Đó là những thánh thiêng và cao siêu mà ngài có đặc ân biết được, những mầu nhiệm mà người phàm không thể dò thấu. Vì tôi đã được biết những ân huệ vô biên được ban cho loài người nhờ việc cử hành hay dự Thánh Lễ, và cố gắng hết sức khuyên nhủ những người khác cũng làm như thế”. Từ những nhận xét quý giá này của Cha Tu Viện Trưởng, chúng ta thấy rõ các mầu nhiệm trọng đại được chứa đựng trong Thánh Lễ, nên chúng ta phải cung kính Thánh Lễ một cách sâu xa.
CÁC BIỂU TRƯNG CỰU ƯỚC ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM TRONG THÁNH LỄ
Trước khi tiếp tục cắt nghĩa các màu nhiệm này là gì, tôi sẽ cho thấy các biểu trưng khác nhau về Thánh Lễ trong Cựu Ước đã ứng nghiệm và được tái hiện như thế nào trong Thánh Lễ.
1. HY TẾ CỦA ÔNG ABEN
Mẫu biểu trưng đầu tiên của Hy Tế Thánh Lễ là Lễ Tế của ông Aben, người đã dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu gồm các con đầu lòng của đàn gia súc của ông với lòng sốt mến chân thật và biểu lộ sự suy phục của ông đối với Thiên Chúa Uy Nghi. Qua các lời Kinh Thánh, chúng ta biết lễ dâng của ông làm đẹp lòng Thiên Chúa: Đức Chúa đoái nhìn đến Aben và lễ vật của ông (St 4:4). Có nghĩa là, khi ông Aben hiếu thảo đã chất củi và lễ vật trên bàn thờ và dâng lên Thiên Chúa khi cầu nguyện, thì lửa từ trời xuống và thiêu thịt chiên đã bị giết. Cũng giống như thế, trong Thánh Lễ, sau khi linh mục dâng lễ vật là bánh và rượu trên bàn thờ và đọc những lời truyền phép trên bánh và rượu, thì Chúa Thánh Thần là Lửa Thần Linh từ trời xuống thiêu đốt lễ vật bánh và rượu biến đổi lễ vật này thành Mình và Máu Đức Kitô. Lễ hy tế của Aben rất đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng lễ vật của Kitô Giáo còn đẹp lòng Thiên Chúa hơn gấp bội. Bởi vì khi linh mục chủ tế dâng Bánh Thánh lên cho Thiên Chúa, thì Cha trên Trời cũng phán cùng những lời Người đã phán khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:17).
2. HY TẾ CỦA ÔNG NOÊ
Mẫu biểu trưng thứ hai về Hy Tế Thánh Lễ là lễ tế của Tổ Phụ Noê; như chúng ta đọc thấy: Ông Noê dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa. Ông đã lấy một số trong các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Đức Chúa ngửi mùi thơm ngon, và Đức Chúa tự nhủ: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai và con người nữa”. (St 8: 20-21). Vậy lễ tế của ông Noê còn làm Thiên Chúa hài lòng đến nỗi Người nguôi giận và hứa sẽ không bao giờ giáng hồng thủy xuống tiêu diệt trái đất nữa, thì huống hồ Hy Tế của Linh Mục Tân Ước phải đẹp lòng Thiên Chúa hơn biết bao, vì là Hy Tế mà chính Con Một của Người được dâng làm lễ vật thơm tho.
3. HY TẾ CỦA ÔNG ÁPRAHAM
Chúng ta gặp thấy mẫu biểu trưng thứ ba về Hy Tế Thánh Lễ trong các lễ tế của các Thánh Tổ Phụ Ápraham, có lần ông đã dâng chính con trai một của ông là Isaác; và Kinh Thánh cũng nhiều lần nói về ông Ápraham: Đức Chúa hiện ra với ông Ápram [tại Sikhem], nơi ông đã dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa (St 12:7). Ờ đó [gần Bêten]. Ông đã dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa, và ông kêu cầu danh Đức Chúa (St 12:8). Kinh Thánh cũng nói như thế về các Tổ Phụ Isaác và Giacóp, là những tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, các ông đã dâng những lễ toàn thiêu lên cho Thiên Chúa.
Tất cả các linh mục của Tân Ước là những người bắt chước các Tổ Phụ xưa, từ thời này qua thời khác, và ở khắp mọi nơi, họ đã trung thành theo gương các Tổ Phụ bằng cách sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Chí Tôn Hy Tế Thánh Lễ đẹp lòng Thiên Chúa vô cùng. Việc thực hành này còn được tiếp tục cho đến nay với lòng nhiệt thành ngày càng lớn hơn, vì bây giờ mọi linh mục sốt sắng thực sự đều quen với việc dâng Hy Tế lên cho Thiên Chúa hàng ngày.
4. HY TẾ CỦA ÔNG MENKISÊĐÊ
Mẫu biểu trưng thứ bốn của Thánh Lễ là lễ tế của ông Menkisêđê, là Vua và Thượng Tế. Khi Tổ Phụ Ápraham chiến thắng quân thù trở về, đã tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa bằng cách dâng một lễ hiến gồm bánh và rượu, với các nghi thức và lễ nghi đặc biệt. Và ông Ápram biếu ông Menkisêđê một phần mười tất cả các chiến lợi phẩm (St 14:20). Ông Menkisêdê được Kinh Thánh nêu lên như là một biểu trưng về Đức Kitô; như đã nói ở Chương 1 sách này.
5. HY TẾ CỦA ÔNG AHARON
Hy Tế của ông Aharon và của mọi Tư Tế khác theo luật Môsê là biểu trưng thứ 5 của HY TẾ THÁNH LỄ. Trước khi có luật Môsê là luật do chính Thiên Chúa ban, những người công chính trong Cựu Ước được lý trí soi sáng đã dâng những lễ toàn thiêu lên Thiên Chúa. Trong Bộ Luật được ban cho Môsê, Thiên Chúa đã chỉ định ba loại Hy Tế mà dân Do Thái phải dâng lên cho Người. Đó là lễ toàn thiêu, lễ giao hòa và lễ xá tội. Hàng ngày phải dâng lên Thiên Chúa hai con chiên vô tì vết tại đền thờ Giêrusalem. Các bí tích này của dân Do Thái vẫn tiếp tục dâng cho tới thời Chúa Kitô và tất cả đều là hình bóng báo trước Hy Tế Thập Giá. Vào lúc Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá, Màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi…
Màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới như một dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa bất mãn vì việc người Do Thái từ chối Con của Người. Sau cái chết của Chúa Giêsu, các hy tế xưa của dân Do Thái kết thúc, không phải vì tự ý họ muốn thế, nhưng vì Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy năm 70 C.N. Đền Thờ này đã và sẽ không bao giờ được xây dựng lại, vì những lễ tế của Đền Thờ ấy đã bị thay thế bởi Hy Tế duy nhất và hoàn hảo của Con Chiên Thiên Chúa trên Thập Giá. Cái chết hy tế đổ máu của Người không được lập lại nhưng được biểu thị lại trên Bàn Thờ lúc dâng Thánh Lễ.
Tất cả các hy tế xưa đẹp lòng Thiên Chúa, đặc biệt các hy tế của Aben, Ápraham và Thượng Tế Menkisêđê được nhắc đến đặc biệt trong Thánh Lễ (Lễ Qui Rôma). Sau khi truyền phép chủ tế đọc: “Xin Chúa đoái thương nhìn đến những lễ vật này, xin thương nhận như xưa Chúa đã nhận lễ vật của ông Aben, tôi trung của Chúa, lễ vật của ông Ápraham, tổ phụ chúng con trong Đức Tin, và bánh và rượu của ông Menkisêdê, Thượng Tế của Chúa.” Bằng những lời này trong phụng vụ, Hội Thánh rõ ràng tuyên bố rằng các hy tế của Cựu Ước là những biểu trưng cho Hy Tế Thánh Lễ, và vì vậy đẹp lòng Thiên Chúa Toàn Năng và đáng được Người chấp nhận.
MỘT SỐ NGƯỜI PHẢN ĐỐI
Một số người Công Giáo sốt sắng và nhiều người không Công Giáo không thích và thậm chí khó chịu vì lời nguyện này, vì họ nghĩ rằng lời nguyện này ngụ ý rằng linh mục kêu xin Chúa chấp nhận hy tế của họ với cùng một cách thức giống như Người đã thương nhận các lễ tế của ông Aben, Ápraham và Menkisêđê.
Không thể phủ nhận rằng Hy Tế Thánh Lễ trong đó Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa Cha, thì làm đẹp lòng Người vượt xa các con vật hay bánh và rượu mà các tổ phụ xưa đã dâng lên Người. Tuy nhiên cũng không được quên rằng linh mục không cầu xin Thiên Chúa vui lòng nhìn xuống Tế Vật họ đang dâng, vì Tế Vật này là Con Chí Ái của Cha, đáng quý trọng vô vàn so với bất cứ tạo vật nào. Linh mục chỉ cầu xin Chúa khoan dung chấp nhận hy tế này, khi Người nhìn thấy cung cách, lòng sốt sắng, cung kính và khiêm nhường họ đang có khi cử hành Thánh Lễ, giống như Người đã chấp nhận việc thờ phượng được dâng lên Người khi các ông Aben, Ápraham và Menkisêdê dâng hy tế. Vi vậy vấn đề ở đây không phải là giá trị của Tế Vật – vì đó là điều không còn phải bàn cãi – nhưng là lòng sốt sắng của chủ tế và cộng đoàn thờ phượng kết hợp với chủ tế trong tâm tình sốt mến.
TẤT CẢ CÁC MẦU NHIỆM CỦA CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU
Về các MẦU NHIỆM của Thánh Lễ, chúng ta phải nhớ rằng các mầu nhiệm chính yếu của tất cả Đời Sống và Cuộc Khổ Nạn của Chúa được biểu thị và bày ra trước mắt chúng ta trong Thánh Lễ. Vua Đavít đã tiên báo điều này khi nói: Chúa đã truyền tưởng niệm những kỳ công của Người. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu (Tv 120:4). Và để chúng ta không còn nghi ngờ trong đoạn này ông chỉ về Hy Tế Thánh Lễ trên các Bàn Thờ của chúng ta hôm nay, ông còn nói trong một Thánh Vịnh khác: Lạy Chúa con rửa tay nói lên lòng vô tội, và đi vòng quanh bàn thờ Chúa, để hát bài cảm tạ tri ân và tường thuật kỳ công của Ngài (Tv 25: 6-7). Cùng một ý nghĩa này đã được Đức Kitô diễn tả lúc thiết lập Bí Tích khi Người nói với các môn đệ: Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, như thể Người muốn nói: “Vì sắp sửa hoàn tất công cuộc cứu độ và Thầy sẽ rời bỏ các con để về cùng Cha Thầy trên Trời, nên Thầy lập Thánh Lễ làm Hi Tế duy nhất của Tân Ước, trong đó toàn thể Mầu Nhiệm của Đời Sống và Cuộc Khổ Nạn của Thầy được biểu thị và bày ra trước mắt mọi tín hữu, để các con không bao giờ quên Thầy, nhưng luôn nhớ đến Thầy.”
Giờ đây chúng ta sẽ chứng minh chân lý của những lời này, và vắn tắt cắt nghĩa bằng cách nào mọi Mầu Nhiệm của Đời Sống và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô được chứa đựng trong Thánh Lễ.
NHẬP THỂ
Trước hết, Mầu Nhiệm Nhập Thể đáng tôn thờ không chỉ được biểu thị mà con được lập lại thực sự. Bởi vì, giống như Đức Trinh Nữ Maria đã tự hiến cả hồn xác cho Thiên Chúa để làm công cụ trong việc nhập thể Con Thiên Chúa, và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Mẹ, thì cũng thế, linh mục dâng bánh và rượu lên Cha trên Trời, sau khi linh mục đọc lời Truyền Phép, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần bánh và rượu ấy được biến đổi thành Mình và Máu thực sự của Đức Kitô. Như thế Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa được lập lại và linh mục thục sự cầm Chúa Kitô trong bàn tay mình giống như Mẹ Thiên Chúa mang Người trong thân xác đồng trinh của Mẹ. Không phải là phép lạ và kỳ diệu nhất sao?
GIÁNG SINH
Cũng như thế Mầu Nhiệm Giáng Sinh đáng tôn thờ của Chúa Giêsu được lập lại và bày ra trước mặt chúng ta trong Thánh Lễ. Bởi vì, giống như Đức Kitô đón nhận sự sống con người từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, thì cũng thế, trong Thánh Lễ, khi linh mục đọc lời Truyền Phép. Người một lần nữa đến trần gian dưới dạng con người, và Chủ Tế vừa khi đọc xong lời Truyền Phép, ngài thực sự cầm Chúa Giêsu trong đôi bàn tay đã được xức dầu của ngài. Để làm chứng việc này, ngài bái quì khiêm nhường thờ lạy Thiên Chúa và Tạo Hóa của ngài; ngài kính cẩn giơ Người lên cao, hân hoan phô bày Người cho cộng đoàn. Giống như Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đã cho các mục đồng chất phát xem thấy Hài Nhi Giêsu quấn tã, thì cũng thế, linh mục giơ cùng một hài nhi này lên – thật ra không bọc trong tã, nhưng ẩn dưới hình bánh – để dân chúng có thể xem và thờ lạy Người là Chúa Cả và là Thiên Chúa. Và những ai làm việc này với lòng cung kính và yêu mến thiết tha thì đã thể hiện một hành vi Đức Tin còn lớn hơn hành vi của các mục đồng, vì các mục đồng tận mắt nhìn thấy Nhân Tính của Người, trong khi chúng ta, chúng ta chỉ nhìn thấy hình dáng bề ngoài của bánh và rượu, nhưng chúng ta tin vững vàng rằng cả Nhân Tính và Thiên Tính của Đức Kitô cùng ẩn dưới hình bánh và rượu.
DÂNG TRONG ĐỀN THỜ
Trong Thánh Lễ, cùng một em bé ấy hiện diện, là em bé đã được Ba Vua thờ lạy, được ông Simêon bồng ẵm trên tay và được Mẹ Thiên Chúa dâng trong Đền Thờ của Chúa Cha Hằng Hữu. Chúng ta có thể noi gương các bậc Thánh này, dâng lên Đức Kitô sự thờ phượng đẹp lòng Người và mang lại cho chúng ta phần thưởng đời đời.
Hơn nữa, chúng ta nghe Đức Kitô rao giảng Tin Mừng thánh của Người cho chúng ta qua miệng của linh mục, để đem lại lợi ích và ơn cứu rỗi cho linh hồn chúng ta. Khi Thánh Lễ diễn tiến, chúng ta nhìn thấy Chúa Kitô thi hành quyền năng làm phép lạ của Người, biến đổi bánh thành Thịt của Người và rượu thành Máu của Người, một phép lạ vượt xa phép lạ tại Cana. Sau cùng, khi linh mục giơ cao Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta thấy Đức Kitô được kéo lên cây Thập Giá, và với đôi tai thiêng liêng, chúng ta nghe được lời Người chuyển cầu cho chúng ta: Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34). Câu “họ không biết” có nghĩa là họ đã lăng nhục Uy Danh Cao Cả của Chúa bằng các tội của họ một cách ghê gớm như thế nào.
Đúng là chúng ta không nhìn thấy tất cả những điều này bằng con mắt thịt của chúng ta, nhưng chúng ta nhận ra được bằng con mắt Đức Tin Siêu Nhiên (cũng là ơn của Người) và nhờ Đức Tin này, chúng ta đáng được phần thưởng còn lớn hơn phần thưởng của những người được nhìn thấy tận mắt. Chúng ta biết được điều này dựa trên uy quyền của chính Chúa Giêsu khi Người nói: Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga 20:29). Các mầu nhiệm này càng cao cả và không thể hiểu thấu bao nhiêu, thì Đức Tin của chúng ta cũng đáng hơn bấy nhiêu. Về điểm này, Cha Sanchez nói: “Nếu các Kitô hữu biết lợi dụng những điểm này, thì dù chỉ tham dự một Thánh Lễ, họ cũng chiếm được một kho tàng to lớn hơn mọi tạo vật ở trần gian này.”
NÀY THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO TỚI TẬN THẾ
Hơn nữa, trong Thánh Lễ, Đức Kitô hoàn thành lời hứa chân thực và an ủi nhất đã được Thánh Mátthêu ghi lại: Này Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế (Mt 28:20). Không được hiểu những lời này như chỉ về Thiên Tính của Người mà thôi, mà con Nhân Tính Thánh của Người, trong Nhân Tính này Người ở giữa chúng ta. Người hiện diện trong Thánh Lễ và trong Bí Tích cực Thánh trên Bàn Thờ, luôn luôn sẵn sàng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, phù trợ chúng ta khi cần. Ngoài ra, phải lưu ý rằng trong Thánh Lễ, Đức Kitô không chỉ hiện diện như một người, như trong Nhà Tạm: Người ở đó như là tế vật của chúng ta. Đấng Trung Gian của chúng ta. Đấng đền tội cho chúng ta. Bởi vì trong Thánh Lễ Đức Kitô thi hành chức vụ tư tế của Người, như tác giả Thư Do Thái nói: Quả vậy thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm này như lễ vật đền tội (Dt 5:1), nghĩa là để Người có thể dâng minh cho Cha Người để đền tội cho dân, như Người đã dâng mình cho Cha trên Thánh Giá.
Đâu là các lý do chính để Chúa Cứu Thế ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế
1. Vì Người là đầu của Hội Thánh Người và các phần tử của Hội Thánh này là nhiệm thể Người, là vì toàn thân thể không thể ở với Đầu của mình trên Trời, nên Đầu phải ở trần gian cùng với Thân Thể.
2. Đức Kitô là Chàng Rể và Hội Thánh là Hiền Thê kết hợp với Người mật thiết hơn bất cứ cặp vợ chồng nào ở trần gian này. Do đó tình yêu của Người thôi thúc. Người ở lại liên lỉ với Hiền Thê yêu dấu của Người. Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô đã mô tả rất đẹp bản chất của tình yêu Đức Kitô dành cho Hiền Thê của Người: Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến minh vì Hội Thánh: như vậy Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không một vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện tinh tuyền (Ep 5:25-27)
Nhờ Phép Rửa chúng ta trở thành một chi thể của Hội Thánh và được trang điểm với một vẻ đẹp giống như các Thiên Thần. Tình yêu tinh tuyền của Đức Kitô đối với một linh hồn vượt xa tinh yêu của bất cứ cặp cô dâu chú rể nào ở trần gian, dù cô dâu này xinh đẹp đến đâu. Vì vậy Người không thể chịu đựng xa cách Hội Thánh, nhưng Người tuyên bố sẽ ở lại với Hội Thánh cho đến Tận Thế. Tuy nhiên Người ở lại với Hội Thánh, Hiền Thê của Người, một cách vô hình. Sự kết hợp của Đức Kitô với Hội Thánh không thuộc bình diện thể chất nhưng thuộc bình diện thiêng liêng, và được thể hiện bởi Đức Tin, như Người nói với chúng ta qua lời Ngôn Sứ Hôsê: Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương (Hs 2;21-22). Vậy, vì Đức Kitô kết hợp với Hội Thánh trong Đức Tin, nên Người phải ở lại một cách kín ẩn để Hiền Thê của Người, nghĩa là linh hồn các tín hữu, có cơ hội thực thi Đức Tin và nhờ đó chiếm được phần thưởng trên Trời.
3. Vì Đức Kitô là Phu Quân của Hội Thánh, nên Người phải hướng dẫn và cai quản Hiền thê của Người, nuôi dưỡng và hết lòng lo cho sự an toàn và hạnh phúc của Hiền Thê. Người làm điều này và nhiều điều khác nữa trong Thánh Lễ và các Bí Tích, qua đó Người chứng tỏ Người là một Người Yêu ân cần và trung thành, không để cho Hiền Thê của minh thiếu bất cứ thứ gì cần ở đời này và đời sau.
Hỡi người Kitô hữu, bạn hãy nhớ rằng nếu bạn sống trong tội trọng, bạn là con mồi của Ma Quỉ, nô lệ của Satan. Ngược lại, nếu bạn sống trong Ân Sủng, bạn là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô, được Người thương và ban phát mọi phương tiện cần thiết cho phần rỗi của bạn.
Các Ân Sủng và lợi ích mà Người Yêu này ban phát cho bạn trong Thánh Lễ quả là nhiều biết bao, nhiều biết bao những phương tiện Người đặt sẵn trong tầm tay bạn để bạn tập nhân đức, bảo đảm phần rỗi của bạn. Mỗi lần bạn dự Thánh Lễ trong tình trạng Ân Sủng, với sự chăm chú sốt sắng và hồi tâm, thì Chúa chúng ta trong tình thưong âu yếm của Người ban cho bạn được chia sẻ không dưới bảy mươi bảy Ân Sủng và Hiệu Quả. Có thể bạn ngạc nhiên về điều này, nhưng đúng là thế, như chúng tôi sẽ bắt đầu chứng minh sau đây. Có lẽ một danh sách các Ân Sủng này có thể giúp bạn nhận ra và tin tưởng.
BẢY MƯƠI BẢY ÂN SỦNG VÀ HIỆU QUẢ NHẬN ĐƯỢC NHỜ SỐT SẮNG THAM DỰ THÁNH LỄ
1. Chúa Cha sai con Một yêu dấu của Người xuống trần để cứu rỗi bạn.
2. Chúa Thánh Thần biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu cho bạn.
3. Con Thiên Chúa từ Trời xuống thế và ẩn mình dưới hình Bánh Thánh vì bạn.
4. Người con hạ mình tới mức hiện diện trong từng mảnh nhỏ nhất của Bánh Thánh.
5. Người tái hiện Mầu Nhiệm Nhập Thể để ban ơn cứu rỗi cho bạn.
6. Người lại sinh ra một lần nữa ở trần gian một cách nhiệm mầu vì phần rỗi của bạn, mỗi khi Thánh Lễ được cử hành.
7. Người thể hiện trên Bàn Thờ cùng những hành vi thờ phượng mà Người đã thể hiện khi còn ở trần gian vì phần rỗi bạn.
8. Người tái hiện cuộc Khổ Nạn đau đớn để bạn được tham dự vào đó vì phần rỗi bạn.
9. Người tái hiện một cách nhiệm mầu cái Chết của Người và hi sinh mạng sống của Người vì phần rỗi của bạn.
10. Người đổ Máu Thánh Người một cách nhiệm mầu và dâng Máu Thánh ấy lên Thiên Chúa Uy Nghi vì phần rỗi bạn.
11. Người lấy Máu Thánh rẩy lên linh hồn bạn và tẩy rửa linh hồn bạn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi.
12. Đức Kitô hiến mình vì bạn như một lễ toàn thiêu và nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa xứng với vinh dự tối cao của Người.
13. Qua việc dâng hiến Hành Vi Thờ Phượng Thiên Chúa này, bạn đền bù được những lỗi phạm của mình vì đã không tôn vinh Thiên Chúa đúng mức.
14. Vì bạn, Đức Kitô hiến mình làm Hy Tế Ngợi Khen, nhờ đó đền bù những thiếu sót của bạn trong việc ngợi khen Danh Thánh Người.
15. Bằng việc hiến dâng này cùng với Đức Kitô, bạn dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi cao cả hơn lời ca ngợi của các Thiên Thần.
16. Đức Kitô hiến mình vì bạn như một Hy Tế Tạ Ơn hoàn hảo, nhờ đó Người bù đắp tất cả những thiếu sót của bạn trong việc tạ ơn Thiên Chúa.
17. Bằng việc dâng lên Thiên Chúa hành vi Tạ Ơn của Đức Giêsu, bạn nhìn nhận đầy đủ mọi ơn lành Người đã ban cho bạn.
18. Đức Kitô hiến mình như một Hy Tế toàn năng vì bạn, nhờ đó Người giao hòa bạn với Thiên Chúa là Đấng bạn đã xúc phạm vì tội.
19. Người tha mọi tội nhẹ cho bạn miễn là bạn cương quyết dốc lòng tránh các tội đó.
20. Bạn cũng đền bù được rất nhiều tội thiếu sót của bạn khi bạn bỏ không làm những việc lành mà bạn có thể làm.
21. Người gỡ bỏ những sự bất toàn trong các việc tốt lành bạn làm, như thái độ khoe khoang chẳng hạn.
22. Người tha thứ cho bạn nhiều tội lỗi mà bạn quên hay không biết và không bao giờ xưng trong tòa giải tội.
23. Người dâng mình làm Tế Vật để đền bù ít là một phần những sai phạm của bạn.
24. Mỗi lần bạn tham dự Thánh Lễ, bạn có thể đền bù nhiều hơn một hành vi đền tội nghiêm khắc nhất vì những tội bạn đã phạm.
25. Trong Thánh Lễ, Đức Kitô ban cho bạn một phần công nghiệp của Người mà bạn có thể dâng lên cho Thiên Chúa Cha để đền tội bạn.
26. Trong Thánh Lễ, Đức Kitô hiến mình vì bạn như lễ giao hòa hiệu quả nhất, cũng có sức mạnh như lời Người cầu xin trên Thánh Giá cho những kẻ thù của Người.
27. Máu Thánh Người cầu xin cho bạn bằng những lời cầu cũng nhiều vô kể giống như những giọt Máu của Người chảy ra trong cuộc Khổ Nạn của Người.
28. Mỗi vết thương đau đớn nơi Thân Thể cực thánh Người là một cái miệng kêu lớn tiếng van xin lòng thương xót cho bạn.
29. Vì được sự đền bù của Tế Vật này, những lời cầu xin bạn dâng lên Chúa trong Thánh Lễ sẽ được nhận lời sớm hơn những lời cầu xin trong các lúc khác.
30. Những lúc khác bạn không bao giờ có thể cầu nguyện hữu hiệu bằng khi tham dự Thánh Lễ.
31. Lý do là vì Đức Kitô kết hiệp với lời cầu nguyện của chúng ta với lời cầu nguyện của chính Người và dâng lên cho Cha chúng ta trên trời.
32. Người cũng giãi bày cho Cha các nhu cầu của bạn và các nguy hiểm bạn gặp phải, và quan tâm cách riêng tới phần rỗi đời đời của bạn.
33. Cả các Thiên Thần hiện diện trong Thánh Lễ cũng cầu xin cho bạn, và dâng những lời cầu nguyện nghèo nàn của bạn lên Tòa Chúa.
34. Linh mục dâng Thánh Lễ cho bạn, và nhờ lễ dâng này, ma quỉ sẽ không được phép lại gần bạn.
35. Linh mục dâng Hy Tế Thánh Lễ lên Thiên Chúa Toàn Năng cho bạn và cho phần rỗi đời đời của bạn.
36. Khi tham dự Thánh Lễ sốt sắng, chính bạn là một linh mục trong tinh thần, được Chúa Kitô ban quyền năng Thánh Lễ cho bạn và cho người khác.
37. Bằng việc dâng Hy Tế thánh này, bạn dâng của lễ đáng được chấp nhận nhất lên Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, Cha, Con và Thánh Thần.
38. Thật vậy, trong Thánh Lễ, bạn dâng lên một lễ vật quý trọng nhất, lễ vật có giá trị hơn mọi sự trên Trời và dưới đất cộng lại.
39. Lễ vật bạn dâng trong Thánh Lễ là quí giá thực sự, vì là chính Thiên Chúa.
40. Bằng Hy Tế này, bạn đang tôn vinh Thiên Chúa là Đấng duy nhất đáng được tôn vinh.
41. Bằng lễ Hy Tế này, bạn làm đẹp lòng Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng.
42. Bạn có thể dâng lễ vật vinh quang này như là của chính bạn, bởi vì chính Chúa Kitô đã ban lễ vật này cho bạn.
43. Khi bạn dự Thánh Lễ đúng đắn, bạn thể hiện một hành vi thờ phượng cao nhất.
44. Nhờ tham dự Thánh Lễ, bạn bày tỏ lòng cung kính sâu xa nhất, sự tôn vinh trung thành nhất đối với Nhân Tính Thánh Thiêng của Chúa Giêsu.
45. Thánh Lễ là phương tiện tốt nhất để tôn kính Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô và được dự phần vào những hiệu quả của cuộc Khổ Nạn ấy.
46. Thánh Lễ cũng là phương tiện tốt nhất để tôn kính Mẹ Thiên Chúa và tăng thêm niềm vui của Mẹ.
47. Bằng việc tham dự Thánh Lễ, bạn có thể tôn kính các Thiên Thần hơn là đọc thật nhiều kinh.
48. Bằng việc tham dự Thánh Lễ, bạn cũng có thể làm giàu cho linh hồn mình hơn bằng bất cứ phương tiện nào khác.
49. Bởi vì bằng việc này, bạn thi hành một việc tốt lành có giá trị cao nhất trên đời.
50. Đó là việc thực thi Đức Tin tinh tuyền nhờ đó bạn sẽ nhận được một phần thưởng lớn lao.
51. Khi bạn cúi mình trước Mình Thánh và Máu Thánh, bạn đang thục sự thể hiện một hành vi thờ phượng tột đỉnh.
52. Vì mỗi lần bạn chăm chăm nhìn vào Bánh Thánh và Máu Thánh, bạn tích trữ cho mình một phần thưởng trên Trời.
53. Mỗi lần bạn đấm ngực ăn năn sám hối, Chúa tha thứ một số tội của bạn.
54. Nếu bạn dự Thánh Lễ khi đang mắc tội trọng, Chúa ban cho bạn Ơn hối cải.
55. Nếu bạn dự Thánh Lễ trong tình trạng Ân Sủng, Chúa gia tăng Ơn Thánh cho bạn.
56. Khi bạn Rước Lễ là bạn thực sự tiếp nhận Thịt Chúa Kitô làm của ăn và Máu Chúa Kitô làm của uống.
57. Khi dự Thánh Lễ, bạn có diễm phúc được tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô ẩn dưới bức màn Bí Tích, và được Chúa Kitô nhìn thấy bạn.
58. Bạn nhận lãnh phép lành của linh mục, phép lành này được Chúa Kitô xác nhận trên Trời.
59. Vì bạn kiên trì tham dự Thánh Lễ, bạn sẽ nhận được những phước lành thể chất và thiêng liêng.
60. Hơn nữa, bạn sẽ được bảo vệ khỏi nhiều tai họa có thể giáng xuống trên bạn nếu bạn không tham dự Thánh Lễ.
61. Bạn cũng sẽ được kiên cường chống lại những cám dỗ mà bạn có thể sa ngã nếu không tham dự Thánh Lễ.
62. Siêng năng tham dự Thánh Lễ sẽ cho bạn được Ơn Chết Lành.
63. Lòng ái mộ Thánh Lễ sẽ bảo đảm cho bạn được sự trợ giúp đặc biệt của các Thiên Thần và các Thánh trong giờ hấp hối của bạn.
64. Nhớ lại những Thánh Lễ bạn đã tham dự khi còn sống sẽ là một niềm an ủi ngọt ngào cho bạn vào giờ chết và sẽ giúp cho bạn tràn đầy tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa.
65. Các Thánh Lễ bạn đã tham dự khi còn sống sẽ không bị quên lãng khi bạn đến trước Tòa Đấng Thẩm Phán Chí Công; vì các Thánh Lễ ấy, lòng thương xót của Người sẽ làm dịu sự công thẳng của Người.
66. Bạn không sợ phải chịu hình phạt lâu dài và ghê gớm trong Luyện Ngục, khi bạn đã đền bù được phần lớn các tội của mình nhờ tham dự Thánh Lễ lúc còn sống.
67. Một Thánh Lễ tham dự sốt sắng sẽ có giá trị làm giảm đau khổ trong Luyện Ngục hơn bất cứ hành vi đền tội nào khác dù khó thực hiện đến đâu.
68. Tham dự một Thánh Lễ sốt sắng lúc còn sống sẽ đem lại cho bạn nhiều ơn ích hơn là nhiều Thánh Lễ cầu hồn người ta xin cho bạn khi bạn đã qua đời.
69. Tham dự Thánh Lễ thường xuyên sẽ bảo đảm cho bạn một chỗ cao trên Thiên Đàng, và đó sẽ là chổ ở vĩnh cửu của bạn.
70. Hơn nữa, hạnh phúc của bạn trên Thiên Đàng sẽ tăng thêm nhờ mỗi Thánh Lễ bạn đã tham dự ở trần gian.
71. Không có kinh nguyện nào bạn cầu cho những người thân hay bạn bè có hiệu lực cho bằng một Thánh Lễ bạn tham dự để cầu cho họ.
72. Bạn có thể đền ơn dồi dào cho tất cả các ân nhân của bạn bằng cách tham dự Thánh Lễ theo các ý chỉ của họ.
73. Nhờ sự trợ giúp tốt nhất, niềm an ủi lớn lao nhất bạn có thể trao tặng cho những người đau khổ, ốm đau, hấp hối, là tham dự Thánh Lễ để cầu cho họ.
74. Bạn cũng có thể nhận được Ơn hoán cải cho những kẻ tội lỗi bằng cách tham dự Thánh Lễ để cầu cho họ.
75. Bạn cũng có thể nhận được ơn cứu rỗi cho mọi Kitô hữu.
76. Hơn nữa, bạn có thể tạo niềm an ủi dồi dào cho các linh hồn lành thánh ở Luyện Ngục.
77. Nếu bạn không có điều kiện xin lễ cầu cho các linh hồn bạn bè hay người thân đã qua đời, thì việc bạn tham dự Thánh Lễ sốt sắng có thể giải thoát họ khỏi lửa thiêu đau đớn.
Vậy giờ đây, bạn nghĩ thế nào về Thánh Lễ? Trên toàn thế giới này, có việc lành nào khác có thể đem đến trong tầm tay của chúng ta nhiều Ân Sủng như thế không? Không còn có thể tranh cãi gì về sư thật của những lời Cha Sanchez mà chúng ta đã dẫn chứng ở trên: “Nếu các Kitô hữu biết lợi dụng những điều này, thì dù chỉ tham dự một Thánh Lễ, họ cũng chiếm được một kho tàng to lớn hơn mọi tạo vật ờ trần gian này.” Thật vậy, chúng ta có một kho tàng to lớn trong Thánh Lễ: Hạnh phúc cho ai có thể chiếm được những kho tàng lớn lao như thế mà chỉ phải vất vả rất ít. Ai còn thích bỏ Thánh Lễ? Ai còn không say mê tham dự Thánh Lễ? Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội đi lễ, đương nhiên là các bổn phận của chúng ta không cản trở chúng ta đi lễ.
Bỏ lễ hàng ngày chỉ vì chểnh mảng hay lười biếng sẽ chứng tỏ rằng chúng ta hoàn toàn không biết hay thờ ơ trước những kho tàng bao la của Thiên Chúa chứa đựng trong Thánh Lễ.
Xin Thiên Chúa ban cho những ai đọc sách này có thể trong tương lai biết quí chuộng Viên Ngọc Vô giá này một cách đầy đủ hơn, đánh giá nó cao hơn và tìm kiếm nó chăm chỉ hơn.
CHƯƠNG 4: TRONG THÁNH LỄ ĐỨC KITÔ TÁI HIỆN CUỘC NHẬP THỂ CỦA NGƯỜI
Ở Chương trước, chúng ta mới chỉ nói vắn tắt về các Mầu Nhiệm của Thánh Lễ. Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt bàn đến từng mầu nhiệm một cách chi tiết hơn và cắt nghĩa đầy đủ hơn.
Mầu Nhiệm Nhập Thể cao siêu sẽ được bàn đến trước tiên. Tôi sẽ bắt đầu với những lời chứng của nhà thông thái và thánh thiện Marchantius để chứng minh rằng mỗi khi thánh Lễ được cử hành việc Nhập Thể của Con Chiên Thiên Chúa được tái hiện. Ông viết: “Thánh Lễ là gì nếu không phải là một sự biểu thị thuyết phục và đầy đủ, hơn nữa, một sự tái hiện việc Nhập Thể: sự giáng sinh, đời sống, những đau khổ và cái chết của Đức Kitô, và công trình cứu chuộc Người thực hiện?” Có lẽ một số người sẽ không đồng ý với lời phát biểu này, mặc dù đây là một lời phát biểu quá tuyệt vời và hầu như vượt quá khả năng lãnh hội của chúng ta. Vì vậy, để chứng minh lời phát biểu này đúng không một chút hoài nghi, trong Chương này chúng ta sẽ bắt đầu chứng minh về cách thức Đức Kitô tái hiện cuộc Nhập Thể của Người mỗi khi Thánh Lễ được cử hành.
Chúng ta biết quả là cao cả, rộng lớn và khó diễn tả biết bao ơn lành mà Thiên Chúa do lòng thương xót yêu thương của Người đã ban cho loài người khi Lời Hằng Hữu, vì loài người và sự cứu rỗi của loài người, đã từ Trời xuống thế, và bởi tác động của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, mang lấy bản tính loài người chúng ta. Đây chính là mầu nhiệm không thể hiểu thấu mà linh mục tôn thờ, khi ngài đọc đến câu VÀ NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI trong kinh Tin Kính, ngài không chỉ cúi đầu nhưng bái gối trong niềm kính sợ cung kính, và Tạ Ơn Đấng Ban Phát mọi ơn lành vì đã hạ mình xuống thẳm sâu như thế.
Hội Thánh khôn ngoan đã truyền rằng hàng năm, trong suốt Mùa Vọng, mọi tín hữu phải suy gẫm về sự hạ mình vô hạn này, thờ lạy mầu nhiệm Nhập Thể và tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân lành của Người, vì đó là nghĩa vụ bắt buộc của chúng ta. Bởi vì khi giáng sinh làm người. Đức Kitô đã dành được những phúc lành kỳ diệu cho chúng ta, bằng việc chịu đau khổ nơi Thân Thể phàm nhân của Người, mà cả thời gian vĩnh cửu cũng không đủ để chúng ta tạ ơn Người cho đúng mức.
Nhưng kỳ diệu nhất là Đức Kitô không tự bằng lòng với việc trở thành người cho chúng ta chỉ một lần rồi thôi. Để hàng ngày, hàng giờ tái hiện lại và gia tăng công trình chuộc tội mà từ trước khi có thời gian. Chúa Cha Hằng Hữu và Chúa Thánh Thần đã rút ra từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm này, trong thượng trí Thần Linh sung mãn của Người. Người đã nghĩ ra và thiết lập Mầu Nhiệm Thánh Lễ siêu vời. Trong Thánh Lễ việc Nhập Thể của Người được tái hiện một cách chắc chắn như thế xảy ra một lần nữa trong thực tế. Mà quả thực, mầu nhiệm ấy tái diễn thực sự, tuy là một cách mầu nhiệm. Về điểm này, chúng ta có sự xác nhận của Hội Thánh Công Giáo, vì trong ‘Lời Nguyện Thầm’ trong Thánh Lễ Chúa Nhật 9 sau lễ Hiện Xuống, chúng ta đọc thấy: “Mỗi khi chúng con cử hành việc tưởng nhớ Hiến Tế này, thì công trình cứu chuộc chúng con lại được thực hiện…” Lời nguyện KHÔNG nói: “công trình cứu chuộc chúng con được biểu trưng,” nhưng nói: “Công trình cứu chuộc chúng con lại được thực hiện.” Công trình cứu chuộc này là gì, nếu không phải sự Nhập Thể, giáng sinh, chịu đau khổ và chịu chết của Chúa Giêsu Kitô? Tất cả đều được hoàn thành và được tái hiện mỗi lần Thánh Lễ được cử hành.
Thánh Auguastinô cũng làm chứng về điều này: “Chức phẩm của linh mục cao cả biết bao.” Ngài nói, “vì trong bàn tay linh mục, Đức Kitô một lần nữa lại làm người. Ôi mầu nhiệm thiên quốc, được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thực hiện một cách lạ lùng thông qua công cụ là linh mục.” Thánh Gioan Đamascen nói: “Người ta hỏi tôi: Làm thế nào bánh trở thành Mình Chúa Kitô? Tôi trả lời Chúa Thánh Thần phủ bóng lên linh mục và làm nên từ các vật liệu (bánh và rượu) điều mà Người đã làm nên trong lòng Trinh Nữ Maria.” Chúng ta thấy cùng một ý tưởng này được phát biểu qua Thánh Bonaventura: “Khi Thiên Chúa đoái thương hằng ngày từ Trời ngự xuống trên các Bàn Thờ của chúng ta, có vẻ như Người làm một công việc không thua kém việc Người đã làm khi từ Trời xuống thế làm Người như chúng ta.” Lời phát biểu tuyệt vời này của vị Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần quá rõ không thể nào hiểu sai, nó bảo đảm cho lời khẳng định của chúng ta rằng trong mỗi Thánh Lễ được cử hành. Chúa Kitô thực hiện phép lạ cũng vĩ đại như Người đã thực hiện khi xuống thế làm người hơn 1800 năm trước.”
Đáng kính Alanus de Rupe cũng xác nhận điều này khi ngài đặt nơi miệng Chúa Cứu Thế câu nói sau đây: “Cũng như xưa kia Ta trở thành người khi nghe lời Sứ Thần chào, thì nay trong mỗi Thánh Lễ, ta cũng trở thành người một cách mầu nhiệm.” Nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã hóa thành xác phàm nhờ sự phủ bóng của Chúa Thánh Thần khi lời chào Ave Maria được nói ra, thì cùng một Ngôi Lời Thiên Chúa này cũng trở thành người trong bàn tay linh mục, đương nhiên là một cách khác, nhưng vẫn là nhờ cùng một quyền năng.
Ở đây ta có thể cùng thốt lên với Thánh Augustinô ‘Ôi chức phẩm linh mục cao trọng biết bao, vì trong bàn tay linh mục, Đức Kitô lại một lần nữa sinh ra làm người.” Chắc chắn chúng ta có thể nói thêm: Chức phẩm của người Công Giáo cao cả biết bao, vì Đức Kitô lại trở thành người hằng ngày một cách nhiệm mầu trong Thánh Lễ vì phần rỗi của họ. Điều này có thể giúp chúng ta hiểu lời Kinh Thánh sau đây: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người (Ga 3:16). Thật là một niềm an ủi ngọt ngào cho chúng ta, những con người hèn mọn, khi chúng ta biết rằng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta lớn lao chừng nào khiến Người hằng ngày ngự xuống – tại mọi nơi mà Thánh Lễ được cử hành – và nhập thể vì chúng ta. Chúng ta phải vui sướng biết bao vì niềm an ủi này.
Trong sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU chúng ta đọc thấy đoạn này: “Mỗi lần bạn cử hành hay tham dự Thánh Lễ, bạn phải cảm thấy Thánh Lễ luôn luôn mới mẻ, cao cả và vui sướng đối với bạn, như thể Đức Kitô chính ngày hôm ấy ngự xuống lần đầu tiên trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và làm người (Quyển 4, Chương 2). Sẽ là một niềm an ủi khôn tả đối với chúng ta, nếu Đức Kitô bây giờ, hôm nay, lần đầu tiên trở thành người vì chúng ta, nếu chúng ta nghe biết rằng Hài Nhi Thánh sẽ được sinh ra bởi Thánh Mẫu của Người. Ai mà không hối hả vui sướng đến thờ lạy Người và cầu xin Ân Sủng và Lòng Thương Xót? Quả thực, Người trở thành con người một cách mầu nhiệm trên các Bàn thờ của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta không hối hả vui mừng đi dự Thánh Lễ, không thiết tha cầu xin Người Ơn tha thứ và lòng thương xót? Hẳn là vì chúng ta không có Đức Tin sống động, và do đó không có lòng mộ mến thực sự Hồng Ân cao cả này của Thiên Chúa.
KỲ CÔNG TRÊN MỌI KỲ CÔNG
Giờ đây chúng ta sẽ xét xem cách thức Chúa Kitô tái hiện việc Nhập Thể của Người, và những kỳ công Người thực hiện khi làm như thế. Giáo lý dạy chúng ta rằng, khi linh mục cầm tấm bánh trong tay trước khi Truyền Phép, ngài không cầm gì khác ngoài một tấm bánh không men bình thường; nhưng vừa khi ngài đọc những lời truyền phép, thì nhờ quyền năng Thiên Chúa, tấm bánh ấy lập tức biến thành Thân Thể Đức Kitô thực sự. Và vì thân thể không thể sống nếu không có máu, nên Máu Chúa Kitô cũng hiện diện trong Thánh Thể Người. Cho nên thay vào chỗ tấm bánh mà một lát trước đó linh mục cầm trong tay, thì bây giờ ngài cầm chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Chí Tôn. Đây quả là một mầu nhiệm vĩ đại vô song, một phép lạ vượt quá trí hiểu của con người trong đó không chỉ có mầu nhiệm (phép lạ), mà còn có nhiều mầu nhiệm vĩ đại khác nữa.
Bánh có thể trở thành Mình Đức Giêsu Kitô thực sự, và rượu trở thành Máu của Người thực sự, đây không phải là một kỳ công trên mọi kỳ công, khi các chất của bánh và rượu không còn nữa, mặc dù hình thức bề ngoài của bánh và rượu vẫn còn sao? Hình dáng, màu sắc, hương vị và kích thước mà bánh và rượu có trước khi truyền phép thế nào thì vẫn còn y nguyên sau khi truyền phép. Chẳng phải là một kỳ công trên mọi kỳ công khi những hình thức bề ngoài hay những “tùy thể” này vẫn còn, bất chấp mọi cái gì khác, và chỉ được duy trì bởi quyền năng siêu nhiên thôi sao? Một phép lạ không thua kém trường hợp các bức tường của một ngôi nhà sụp đổ hoàn toàn mà vẫn để lại một mái nhà lơ lửng trên không mà không thấy có cái gì chống đỡ nó! Chẳng phải là một kỳ công trên mọi kỳ công khi Đức Kitô có thể làm cho kich thước Thân Thể ngài trở nên quá nhỏ khiến có thể nằm gọn trong một Bánh Thánh nhỏ, thậm chí trong từng vụn bánh nhỏ li ti nhất sao?
Tất cả những phép lạ này và nhiều phép lạ vĩ đại khác nữa mà chúng ta không thể kể ra đây, đã được Đức Kitô thực hiện vì phần rỗi chúng ta trong mọi Thánh Lễ vào lúc Truyền Phép.
VÔ VÀN ƠN LÀNH ĐƯỢC BAN CHO CHÚNG TA
Các ơn lành Đức Kitô ban cho chúng ta ở đây nhiều vô kể. Sự thật này đã được mặc khải cho Thánh Gertruđê, như chúng ta đọc thấy trong các mặc khải của ngài. Một lần kia khi dự Thánh Lễ trong lúc thánh nữ phủ phục xuống đất trước lúc Truyền Phép và thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu dịu ngọt, công trình chúa sắp sửa hoàn tất thì quá quý báu, thánh thiện và cao sang vô cùng, khiến con đây là kẻ xấu xa thấp hèn không dám ngước mắt mà nhìn lên. Vì vậy con lấy lòng khiêm nhường sâu thẳm đến ẩn náu nơi Chúa và chờ đợi được dự phần ơn cứu độ mà mầu nhiệm này mang lại cho mọi kẻ được tuyển chọn.”
Nghe xong, Chúa trả lời: “Nếu con hướng mọi lao nhọc của con vào việc phục vụ Ta trong điều này, đó là làm cho Hy Tế giàu ơn ích này cho với mọi Kitô hữu còn sống hay đã qua đời, có thể mang lại hiệu quả xứng với phẩm chất cao sang của nó, tức là con đã giúp ta rất nhiều trong công trình Ta phải thực hiện.
Giống như thánh nữ, chúng ta phải suy trước lúc Truyền phép rằng, Thiên Chúa làm một phép lạ kỳ diệu biết bao trên bàn thờ vì phần rỗi của chúng ta, và đánh thức nơi lòng mình ước muốn mãnh liệt rằng, qua sự cộng tác của chúng ta, hy tế mà chúng ta đang tham dự có thể mang lại vinh quang cao cả cho Thiên Chúa và lợi ích cho các linh hồn. Để làm việc này chúng ta có thể dùng lời cầu nguyện của thánh Gertruđê:
“Lạy Chúa Giêsu dịu ngọt, công trình Chúa sắp sửa hoàn tất thì quá quý báu, thánh thiện và cao sang vô cùng, khiến con đây là kẻ xấu xa thấp hèn không dám ngước mắt mà nhìn lên. Vì vậy, con lấy lòng khiêm nhường sâu thẳm đến ẩn náu nơi Chúa và chờ đợi được dự phần ơn cứu độ mà mầu nhiệm này mang lại cho mọi kẻ được tuyển chọn. Ôi Giêsu dịu ngọt, xin cho con có thể cộng tác với Thiên Chúa trong công trình vinh hiển này. Con sẽ vui biết bao khi được tiêu hao mọi sức lực của mình và chịu đựng những khó nhọc vất vả nhất, để làm cho Hy Tế mà Chúa đã hiến dâng vì mọi tín hữu còn sống và đã qua đời, có thể mang lại hiệu quả xứng với phẩm chất cao sang của nó. Con nài xin chúa ban Ân Sủng của Người cho tất cả những ai cử hành hay tham dự Thánh Lễ, để họ có thể dâng Hy Tế Cực Thánh này lên Chúa, vì vinh quang cao cả Chúa và lợi ích của mọi tín hữu. Amen.”
QUYỀN NĂNG CỦA LINH MỤC
Bây giờ chúng ta hãy xét xem Đức Kitô đã ban một quyền năng lớn biết bao, không phải cho các Thiên Thần, nhưng cho loài người, khi người ban cho linh mục quyền thực hiện mầu nhiệm vĩ đại nhất trong mọi mầu nhiệm mà chỉ dùng một vài lời nói mà thôi, đó là biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Người. Về điểm này, Đáng Kính Alanus de Rupe nói: “Quyền năng của Thiên Chúa to lớn biết bao, vì Người có thể từ không không mà tạo thành trời đất, quyền năng của Linh Mục to lờn biết bao, vì ngài có thể gọi chính Con Thiên Chúa từ trời xuống làm Hy Tế và Bí Tích, và nhờ Hy Tế và Bí Tích này, ngài có thể phân phát cho loài người những kho tàng mà Đấng Cứu Thế đã giành được cho họ. Đây chính là quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, niềm vui của Mẹ Thánh của Người, đây chính là hạnh phúc của các Thánh, sự trợ giúp bảo đảm nhất cho người sống và niềm an ủi chính cho các linh hồn trong Luyện Ngục”.
Thực vậy, kỳ diệu và lạ lùng thay quyền năng của các lời Truyền Phép, việc tái hiện Nhập Thể nằm trong tay Linh Mục. Hơn nữa chúng ta phải vui mừng hân hoan vì trong HY TẾ THÁNH LỄ, chúng ta được đặc ân hiểu biết quyền năng của chính Đức Kitô, tôn vinh Cha trên Trời, tạo niềm vui cho Đức Mẹ và tất cả các Thánh cho vinh quang trên Trời . Hơn nữa, Thánh Lễ là sự trợ giúp đắc lực nhất cho những người đang sống, niềm an ủi ngọt ngào nhất cho những người đã chết.
Ở đây một lần nữa ta có thể thốt lên: Vâng, Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để bất cứ ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thiên Chúa tỏ lộ tình thương vô biên này lần đầu tiên cho thế giới sau khi sai Con của Người từ Trời xuống mặc lấy bản tính loài người. Bây giờ hằng ngày Người tỏ lộ tình thương này bằng việc sai Con của Người đã làm cho Thiên Đàng vui mừng và mang ơn cứu độ cho thế giới thế nào, thì bây giờ với việc Nhập Thể của Người trên Bàn Thờ cũng thế. Với lần Nhập Thể đầu tiên, Đức Kitô chiếm được cho chúng ta những kho tàng vô giá của Ân Sủng Thiên Chúa; bằng việc tái hiện việc Nhập Thể ấy, Người phân phát những của cải trên Trời cho tất cả những ai cử hành hay tham dự Thánh Lễ sốt sắng.
Niềm vui từ Trời đổ xuống trái đất to lớn chừng nào khi Chúa Kitô là Nguồn Mạch mọi hạnh phúc trên Trời đoái thương ngự xuống với chúng ta trên Bàn Thờ. Các linh hồn lành thánh nhiều lần được nếm cảm niềm hoan lạc này, và chúng ta cũng thế, chúng ta có thể được đặc ân nếm cảm niềm hoan lạc này nếu chúng ta tham dự Thánh Lễ sốt sắng hơn, chú tâm hơn, với Đức Tin sống động hơn. Chúng ta cũng có thể biết được rằng việc tái hiện cuộc Nhập Thể này của Đức Kitô mang lại lợi ích biết bao cho chúng ta, vì những người tham dự Thánh Lễ được dự phần vào những công nghiệp của lần Nhập Thể đầu tiên của Người. Nhờ sự hạ mình xuống thâm sâu nhất này, Đức Kitô làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và tránh cho ta hình phạt mà chúng ta rất đáng phải chịu. Chúng ta không thể nào tạ ơn Người cho đủ vì những ơn lành Người ban cho chúng ta, đặc biệt vì Người đã thiết lập Thánh Lễ vì chúng ta và trong Thánh Lễ, Người tái hiện không chỉ việc Nhập Thể của Người, mà cả những mầu nhiệm khác nữa của cuộc sống và cái chết của Người. Chúng ta không thể bày tỏ lòng biết ơn cách nào tốt hơn là sốt sắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày, hay ít là thường xuyên bao có thể, và dâng Hy Tế này lên Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh để tạ ơn Người vì những ơn lành chúng ta nhận được do lòng thương xót của Người.
CHƯƠNG 5: TRONG THÁNH LỄ ĐỨC KITÔ TÁI HIỆN CUỘC GIÁNG SINH CỦA NGƯỜI
Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề (Ge 4:18). Hội Thánh trên khắp thế giới nói như thế về mầu nhiệm Giáng Sinh ngọt ngào của Chúa Cứu Thế. Và quả thật, vào cái ngày tuyệt vời trên mọi ngày ấy, khi Con Thiên Chúa mặc lấy xác loài người đã sinh ra trên thế giới này, có thể nói rất đúng rằng núi non đổ tràn sự ngọt ngào, và đồi nương tuôn chảy sữa và mật. Bởi vì Người là Đấng ngọt hơn Sữa và Mật. Đấng là nguồn mạch mọi sự ngọt ngào, khi đến trần gian Người làm cho mọi sự trở nên ngọt ngào. Người mang niềm vui đích thực từ Trời xuống. Người đem bình an cho những người thiện tâm. Người đem an ủi cho những người sầu khổ, một ngày mới chói chan cho thế giới.
Ôi đêm ấy, niềm vui của Chúa Cha lớn lao chừng nào khi Người nhìn Con yêu dấu của Người, sinh ra từ thuở đời đời, nay sinh ra từ lòng Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm mà Người đã thương gọi bằng cái tên ‘Nữ Tử’ dấu yêu. Niềm vui của Con Thiên Chúa lớn chừng nào khi Người thấy mình trong bộ áo phàm nhân, không chỉ có một Người Cha trên Trời, mà con có một người Mẹ dưới đất nữa. Sự mãn nguyện của Chúa Thánh Thần lớn biết chừng nào khi Người nhìn Đấng mà Người đã kết hợp với Chúa Cha từ thuở đời đời trong mối dây yêu thương thân mật và hoàn hảo nhất, bây giờ nhờ tác động của Người, đã được kết hiệp mật thiết đến thế với bản tính loài người, khiến cho hai bản tính vốn vô cùng khác biệt và phân biệt; nay được kết hợp với nhau trong một Ngôi Vị duy nhất của Thiên Chúa làm Người. Sự ngọt ngào trào dâng tràn trề biết bao nơi tâm hồn Đức Nữ Trinh khi Người nhìn ngắm thơ nhi của mình mà tự nhủ Hài Nhi mà mình đang bế trong tay không chỉ là Con của mình mà cũng là Con của Thiên Chúa Chí Tôn.
Còn nữa, lớn lao thay hạnh phúc của những người được diễm phúc nhìn ngắm đứa trẻ xinh đẹp nhất giữa các con cái loài người và được bồng ẵm Người trên tay. Trong tiểu sử thánh Giuse Cupertinô, chúng ta đọc thấy Thánh Nhân được mặc khải rằng sau khi Ba Nhà Đạo Sĩ đã về lại quê hương của họ, từng đoàn người đã đến viếng vị Vua Do Thái mới sinh ra. Họ nài xin Đức Mẹ cho họ bế Hài nhi dễ thương trên tay và ấp ủ vào lòng. Mẹ Maria dịu dàng cho phép nhiều người được bế Hài Nhi, nhưng Mẹ ngạc nhiên thấy Hài Nhi chỉ đến với những người tốt chứ không đến với những người xấu.
Chúng ta có lý để gọi những người ấy là những người diễm phúc, nhưng chúng ta quên rằng chúng ta còn diễm phúc hơn họ rất nhiểu, vì chúng ta hằng ngày được nhìn ngắm Hài Nhi bằng con mắt Đức Tin và chia xẻ niềm vui của cuộc Giáng Sinh của Người. Hãy nghe những lời của ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ I: “Với tâm trí được soi sáng và tình yêu được đốt cháy bằng những lời của các tác giả Tin Mừng và các Ngôn Sứ, có vẻ như chúng ta không coi việc Đức Kitô giáng sinh là một biến cố của quá khứ, nhưng là một biến cố của hiện tại đang diễn ra trước mắt chúng ta. Bởi vì chúng ta nghe thấy những lời đã được loan báo với các mục đồng nay được công bố cho chúng ta : “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng Trọng Đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em (Lc 2:10-11). Hằng ngày, chúng ta có thể hiện diện ở sự kiện Giáng Sinh hạnh phúc này, hằng ngày mắt chúng ta có thể chứng kiến sự kiện ấy, miễn là chúng ta đi dự Thánh Lễ, bởi vì khi ấy sự kiện này được tái hiện thực sự, và nhờ đó công trình cứu chuộc của ta được thực hiện.”
Chúng tôi cũng được nghe cùng một ý tưởng này trong các mặc khải của MẸ TU VIỆN TRƯỞNG HILDEGARD: “Trong Thánh Lễ, khi bánh và rượu trở thành Minh và Máu Đức Kitô, các hoàn cảnh của cuộc Nhập thể và Giáng Sinh của Người hiện ra rõ nét trước mắt chúng ta giống như các mầu nhiệm này đã được thực hiện bởi Con Thiên Chúa khi Người còn sống trên dương thế.’” Lời chứng này đã được Giáo Hội xác nhận: Bà làm chứng cho sự thật rằng: Cuộc Giáng Sinh của Đức Kitô được tái hiện một cách sống động trong cảnh Thiên Giới, giống như những gì đã diễn ra hai ngàn năm trước…
THÁNH HIÊRÔNIMÔ cho rằng chúng ta biết cách thức và tác nhân làm cho Đức kitô sinh ra trong Thánh Lễ bằng những lời này: “Linh mục gọi Đức Kitô đến qua môi miệng đã được thánh hiến của ngài.” Nghĩa là, Đức Kitô sinh ra trên thế gian qua lời truyền của linh mục khi miệng ngài đọc lên những lời truyền phép. ĐỨC THÁNH CHA GRÊGORIÔ cũng tuyên bố cùng một ý tưởng ấy trong lời nguyện ngài truyền các Linh Mục phải đọc trước khi cử hành Thánh Lễ: “Con sắp sửa cử hành Thánh Lễ, và sinh ra Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con.”
Chính Hội Thánh dạy chúng ta rằng Đức Kitô được tái hiện một cách thiêng liêng trong Thánh Lễ, vì Hội Thánh đặt vào miệng linh mục chủ tế cùng một bài hát ngợi khen mà các Thiên Thần đã hát lên vào đêm Giáng Sinh: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm (Lc 2:14). Khi những lời này vọng vào tai, chúng ta hãy tưởng tượng như đang nghe thấy tiếng Thiên Thần nói với các mục đồng: Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại… hôm nay, một Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em: Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta. Anh em sẽ thấy một Hài Nhi quấn trong tã nằm trong máng cỏ (Lc 2:10-12). Giả sử Thiên Thần Bản Mệnh nói với chúng ta: “Con ơi, hãy vui lên vì bây giờ trong Thánh Lễ này, Chúa Cứu Thế của con sẽ sinh ra để cứu rỗi con, con sẽ tận mắt nhìn thấy Người dưới hình Bánh Thánh.” Nếu Thiên Thần Bản Mệnh không nói với chúng ta như thế, thì Đức Tin cũng nói với chúng ta, chẳng lẽ chúng ta không vui vì điều này sao? Nếu thực sự tin như thế, chúng ta sẽ thờ lạy Hài Nhi Thánh trong Thánh Lễ với cùng niềm cung kính và mến yêu giống như những người đã được diễm phúc nhìn thấy Người bằng chính con mắt trần của họ.
Trong Thánh Lễ, Đức Kitô không chỉ hiện diện một cách thiêng liêng hay trong trí tưởng tượng của chúng ta mà thôi. Người còn hiện diện thực sự dưới dạng thể lý: cùng một Hài Nhi Giêsu mà Mẹ Thiên Chúa đã sinh ra tại Bêlem và Ba Vua đến thờ lạy. Ở đây cũng như tại đó, bộ dạng của Người được bọc kín bởi khăn tã, nghĩa là bởi hình dáng bề ngoài của Bánh Thánh mà mắt chúng ta có thể thấy được. Nhưng Hài Nhi dịu dàng nằm dưới lớp vỏ bề ngoài ấy chỉ có thể được nhận biết bằng con mắt Đức Tin bên trong. Đức Tin làm chúng ta tin chắc không chút nghi ngờ rằng Chúa thực sự ẩn dưới hình dáng thấp hèn này. Có nhiều lý do tại sao Người ẩn mình như thế trước con mắt chúng ta; một lý do chính là; cho chúng ta cơ hội thể hiện Đức Tin đối với một sự kiện trọng đại như thế và giúp chúng ta chiếm được công nghiệp mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều ví dụ cho thấy Chúa chúng ta, để củng cố Đức Tin của chúng ta vào sự hiện diện thật của Người, đã cho phép những Kitô hữu sốt sắng, thậm chí cả những người Do Thái và những người không tin, được thấy thân thể thật của Người. Chúng ta sẽ kể ra đây một ví dụ.
CUỘC TRỞ LẠI CỦA DÂN SAXON
Ông Albertus Krantius kể một câu truyện khá dài về những cố gắng liên tục của Hoàng Đế Charlemagne nhằm cải hóa những người Saxon ngoại đạo về với Kitô giáo. Tuy vị hoàng đế này đã hơn một lần hoàn toàn chinh phục họ bằng vũ lực và buộc họ phải từ bỏ các cuộc thờ cúng ngoại giáo của họ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Wittekind, thủ lãnh của họ, họ đã bỏ Đức Tin Kitô giáo.
Vào năm kia, vào mùa Chay, lần thứ 5 hoàng đế thống lãnh một đại binh tiến vào đất của họ. Lễ Phục Sinh đã đến gần, và toàn quân được lệnh dọn mình để lãnh nhận các bí tích và sốt sắng cử hành Đại Lễ trong doanh trại. Bấy giờ thủ lãnh người Saxon Wittekind đi đến doanh trại quân đội Đức với mục đích xem các Lễ Nghi của Người Kitô giáo. Để không bị lộ, ông cải trang làm một kẻ ăn mày rách rưới, một mình vào doanh trại xin quân lính của bố thí. Cùng lúc ấy ông để ý quan sát xem tất cả những gì đang diễn ra để thu thập càng nhiều thông tin càng tốt. Ông nhận thấy rằng, vào Thứ Sáu Tuần Thánh, Hoàng Đế và tất cả các binh sĩ đi lại với vẻ mặt ủ rũ, ăn chay nghiêm nhặt và cầu nguyện rất nhiều; còn ngày Thứ Bảy Tuần Thánh thì họ đi xưng tội và vào ngày Chúa Nhật họ rước lễ.
Trong khi đang dự Thánh Lễ, vào lúc Truyền Phép, ông rõ ràng nhận thấy trong tay Linh Mục một đứa bé rất xinh đẹp hấp dẫn khiến ông hết sức thích thú vì ông chưa từng nhìn thấy cảnh ấy bao giờ. Cho tới lúc Thánh Lễ kết thúc, ông thể rời cặp mắt khỏi vị Linh Mục. Sự ngạc nhiên của ông lên đến tột độ khi ông thấy các binh sĩ lên rước lễ; ông thấy Linh Mục cho mỗi người rước lễ cùng một đức bé ấy, ai nấy tiếp nhận đứa bé nhưng mỗi trường hợp một khác nhau. Đức Bé rất vui vẻ đến với một số lính, nhưng với một số lính khác, Đứa Bé cảm thấy khó chịu và quay mặt đi nhưng rồi cũng miễn cưỡng đến. Thủ Lãnh của người Saxon quá ngạc nhiên không hiểu những sự kiện phi thường nay có nghĩa là gì.
Khi Thánh Lễ kết thúc, ông ra ngoài và đến đứng giữa một nhóm kẻ ăn xin khác đang xin những người vừa dự lễ đi ra. Chính tay Hoàng Đế ban của bố thí cho từng người. Và khi đến lượt Wittekind chìa tay ra, một cận thần của Hoàng Đế nhận ra ông nhờ trông thấy nét dị dạng trên ngón tay ông. “Đó là Wittekind thủ lãnh của dân Saxon đấy; thần biết ông ta qua ngón tay cong của ông ta.” Hoàng Đế truyền đưa người này vào lều của ông và hỏi tại sao ông ta là thủ lãnh Saxon mà lại cải trang làm kẻ ăn mày đến đây. Wittekind sợ bị kết tội gián điệp và bị trừng phạt nên đã thú nhận tất cả với Hoàng Đế: “Xin đừng nổi giận với tôi. Tôi làm chuyện này chỉ với mục đích tìm hiểu về việc thờ phượng của người Kitô giáo mà thôi.” Rồi Hoàng Đế hỏi ông ta đã xem thấy những gì, Wittekind trả lời: “Tôi đã nhìn thấy những điều lạ lùng mà trước đây tôi chưa từng thấy bao giờ.” Rồi ông kể cho Hoàng Đế tất cả những gì ông đã thấy vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Thứ Bảy Tuần Thánh và lúc dự Thánh Lễ sáng hôm ấy, và ông xin Hoàng Đế cắt nghĩa cho những mầu nhiệm ấy.
Hoàng Đế hết sức kinh ngạc khi nghe biết Thiên Chúa đã ban cho kẻ ngoại đạo cứng đầu cứng cổ này được ơn nhìn thấy Hài Nhi Giêsu trong Bánh Thánh, một ơn mà Người chỉ dành cho một ít vị Thánh. Rồi vua cắt nghĩa cho thủ lãnh người Saxon biết tại sao họ buồn rầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, tại sao họ giữ chay, đi xưng tội và rước lễ. Người ngoại đạo này tỏ ra quá cảm động, ông tuyên bố từ bỏ các tà thần, chấp nhận Đức Tin Kitô Giáo và sau khi được dạy dỗ đầy đủ, ông đã lãnh nhận Phép Rửa. Ông đem một vài Linh Mục trở về với dân của ông và nhờ thừa tác vụ của các linh mục này, công quốc Saxon đã dần dần hoán cải về với Đức Kitô.
Câu truyện có thật này chứng tỏ rằng Hài Nhi Giêsu hiện diện thực sự trong Bánh Thánh và đã được nhìn thấy dưới hình dạng thể lý, không chỉ bởi một người có đạo, mà cả những người ngoại đạo. Người che dấu vẻ đẹp siêu vời của Thân Thể vinh quang của Người trước mắt chúng ta là những kẻ tội lỗi, nhưng không che dấu vẻ đẹp ấy trước mặt Cha Người và các Thần Thánh trên trời. Ngược lai, trong mỗi Thánh Lễ. Người tỏ lộ vẻ đẹp đáng yêu vô vàn ấy làm cho Thiên Chúa ba Ngôi Cực Thánh được vinh hiển, trong khi Mẹ Thánh của Người cùng toàn thể Thiên Thần và các Thánh cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vô biên. Bởi vì, như Đức Kitô đã nói với Đáng Kính Alanus, không có gì làm vinh danh Thiên Chúa và làm hân hoan Mẹ Thánh của Người và các Thần Thánh cho bằng HY TẾ THÁNH LỄ.
Khi các Thiên Thần nhìn xuống Hài Nhi sơ sinh này, các ngài phủ phục thờ lạy Người với lòng kính cẩn thâm sâu. Đây là điều tác giả Thư Do Thái nói tới khi ngài nói: Mọi Thiên Thần của Thiên Chúa hãy thờ lạy Người (Dt 1:6). Vào đêm Giáng Sinh, Thiên Chúa Cha sai Con Một của Người xuống trần gian lần đầu; nhưng mỗi khi Thánh Lễ được cử hành. Người lại đưa Con của Người xuống một lần nữa trên các bàn thờ của chúng ta, để hiến tế Người Con ấy cho chúng ta và thông ban những ơn lành của cuộc Giáng Sinh của Người. Lúc ấy các Thiên Thần sấp mình thờ lạy Người, như Hội Thánh đọc trong kinh Tiền Tụng: “Các Thiên Thần ca ngợi, các Quản Thần thờ lạy, các Quyền Thần kính sợ Uy Danh Người; các tầng trời cùng với toàn thể triều thần thiên quốc và các Thần Sốt Mến đồng thanh chúc tụng Người. Như vậy vào đêm Người sinh ra, các Thiên Thần hát rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Chúng ta cũng thế, cùng với các đạo binh trên Trời, chúng ta ca ngợi tôn vinh Hài Nhi Thánh, Đấng từ trời lại đến một lần nữa và mặc lấy hình dạng một Hài Nhi để cứu chuôc chúng ta, và ban cho tất cả những ai tham dự Thánh Lễ được chia sẻ dồi dào những công nghiệp Ngài đã giành được cho chúng ta.
NIỀM VUI TẠO RA TRÊN TRỜI
Phải có trí thông minh của các Thiên thần mới có thể cắt nghĩa đúng mức Mầu Nhiệm siêu vời này, vì nó vượt quá trí hiểu của loài người. Chúng ta không thể có một ý niệm nào về niềm vui mà Mầu Nhiệm này tạo ra cho Ba Ngôi Cực Thánh, nhưng chúng ta biết đó là một trong các chân lý của Đạo chúng ta, đó là Ba Ngôi Cực Thánh có đủ mọi sự nơi mình, và mỗi Ngôi truyền thông cho Hai Ngôi kia niềm hoan lạc khôn tả. Kinh Thánh nói về sự Khôn Ngoan Hằng Hữu, Con Thiên Chúa bằng những lời sau đây: Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người (Kn 7:26). Từ thuở đời đời, Tấm Gương này đã đặt trước mắt Cha Hằng Hữu, trong gương, Chúa Cha thấy phản ánh hết sức rõ ràng hình ảnh mình và cảm thấy thỏa mãn vô biên; vì trong đó Người đã luôn luôn nhìn thấy như bây giờ và mãi mãi về sau, quyền năng vô biên và chủ quyền tuyệt đối hoàn hảo của Người, và chúng sẽ là như thế mãi muôn đời. Sự hiểu biết này của Thiên Chúa về chính Người và sự chiêm ngắm hình ảnh Người trong Tấm Gương Thần Linh này là cốt tủy sự hoan lạc hoàn hảo vô hạn của Người, cho nên, giả như không có những thuộc tính khác nữa, thì nguyên những thuộc tính này đã đủ để tạo thành niệm hạnh phúc vĩnh cửu của Người.
Tấm gương không tì ố này được đặt trước mặt Cha Hằng Hữu một cách khác và mới mẻ trong Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Kitô, vì khi ấy Tấm Gương Thần Linh được phản chiếu trong bộ áo loài người của chúng ta và được trang điểm bằng mọi nhân đức và sự thiện hảo như thể là những viên trân châu quí hiếm. Chiêm ngắm tấm gương này tạo cho Cha vĩnh cửu một sự thỏa lòng mới (nói theo kiểu loài người chúng ta), và toàn thể triều thần thiên quốc cũng được thông chia sự mãn nguyện này. Vì vậy, trong niềm hân hoan cùng tột của các ngài, toàn thể Thần Thánh trên trời cất tiếng ca ngợi bằng một ca khúc trữ tình, Gloria in Excelsis, Vinh danh trên các tầng trời, giai điệu của bài ca vọng tới tận trái đất và đổ đầy lòng những người mục đồng một niềm vui khôn tả. Trước khi bản Thánh Ca Gloria kết thúc. Ca đoàn Thiên Thần kéo đến Bêlem, phủ phục trước Hài Nhi mới sinh, và dâng lên Người lòng tôn kính khiêm tốn đối với Đấng là Chúa của họ.
Tất cả những sự kiện xảy ra vào đêm Giáng Sinh vẫn còn diễn ra hằng ngày trong mỗi Thánh Lễ, vì ở đây. Con Đầu Lòng của Thiên Chúa lại trở thành Người một lần nữa trong bàn tay Linh Mục; lời của linh Mục vừa nói ra, Ngôi Lời lại sinh ra một lần nữa. Đức Kitô được sinh ra bởi Lời Truyền Phép không phải là một Đức Kitô mới, không có chuyện tăng thêm nhiều nhân vị của Người: chỉ là Người hiện diện thật sự ở một nơi mà trước đó Người không hiện diện một cách thể lý. Thực vậy, Người vẫn chỉ là một Đức Kitô, luôn luôn duy nhất và bất khả phân chia; nhưng không phải Người chỉ hiện diện một cách thiêng liêng. Người cũng hiện diện một cách thể lý và hiện thực trên bàn thờ. Và Người tiếp tục hiện diện trong hình bánh hình rượu bao lâu hai thể chất này không bị hư hoại. Tuy nhiên, khi các chất này bị biến đổi, thì sự hiện diện cá vị của Chúa Giêsu cũng chấm dứt và chấm dứt hoàn toàn, khiến cho nếu Người không hiện diện ở một nơi nào khác, thì Người cũng hoàn toàn không tồn tại và sẽ chẳng có Đức Kitô trên Trời hay dưới đất.
Vậy, khi Con Một Thiên Chúa được sinh lại một lần nữa qua lời truyền của linh mục, khi Tấm Gương trong sáng và được trang điểm mọi sự hoàn thiện này được cả linh mục và cộng đoàn giơ lên và dâng hiến cho Thiên Chúa Cha, thì bạn có tưởng tượng nổi niềm vui của Chúa Cha lớn lao thế nào không? Chắc chắn niềm vui ấy cũng tương đương với niềm vui Người đã cảm nghiệm vào đêm Giáng Sinh, vì vào đêm ấy cũng như bây giờ, Chúa Cha nhìn thấy cùng một Người Con mà Người đã nói: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:17). Chỉ có một sự khác biệt này, đó là vào đêm Giáng Sinh, Người mặc lấy một Xác Phàm phải chịu khổ và phải chết, còn bây giờ trong Thánh Lễ, Người mang một Thân Thể Vinh Quang, trên thân thể này 5 thương tích thánh sáng rực như những viên ngọc quí. Lần ấy Người sinh ra với một Thân Thể hữu hình, vật chất; còn bây giờ Người sinh ra cũng với Thân thể Vật chất ấy nhưng vô hình. Để chứng minh điều này. Người đã làm phép lạ hóa 5 ổ bánh mì thành 5 ngàn ổ hay nhiều hơn nữa để nuôi ăn 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em, số bánh nhiều như thế không phải là bánh thiêng liêng mà là bánh vật chất hẳn hoi.
Hơn nữa, chúng ta phải suy rằng Thiên Chúa Cha không chỉ hài lòng khi chiêm ngắm Tấm Gương Thần Linh này, Người cũng hài lòng vì Tấm Gương này là Người Con Hằng sống và chí ái của Người. Người Con yêu thương Người với hết tình con thảo và làm cho Người vui thích khôn tả. Niềm vui Thiên Chúa tìm thấy nơi Nhân Tính của Đức Giêsu Kitô là một niềm vui vượt xa niềm vui Người nhận được từ các lời ca ngợi của các Thiên Thần, từ việc thờ lạy của toàn thể các Thánh và của triệu triệu người tín hữu. Vì chỉ có Nhân Tính Thánh Thiêng của Đức Kitô, kết hiệp với Thần Tính trong cùng một ngôi vị duy nhất của Người, mới có khả năng dâng lên Thiên Chúa sự ngợi khen, yêu mến và vinh quang xứng với Thiên Chúa Uy Nghi vô biên. Như Thánh Mechtilde nói: chỉ một mình Đức Kitô biết một cách hoàn hảo rằng Thiên Chúa được ca ngợi và tôn vinh một cách xứng hợp như thế nào trong HY TẾ THÁNH LỄ. Hy Tế này Người đã thực hiện một cách kỳ diệu, tuyệt vời đến nỗi dù là các Thần Kêrubim hay các Thần Sêraphim hay bất kỳ quyền thần nào khác trên trời cũng không thể nào hiểu hết, càng không thể tự mình thực hiện được hành vi này. Tất cả các cơ binh Thiên Thần phải chiêm ngắm với lòng kinh ngạc và ngưỡng mộ; trí thông minh của các ngài không thể nào dò thấu nguồn vui vô hạn này. Và vì chúng ta biết việc này được lặp lại hằng ngày trong hàng ngàn Thánh Lễ, nên ai có thể tìm được lời để diễn tả sự lớn lao hay mức độ của niềm vui mà các Thánh Lễ hằng ngày mang lại cho Thiên Chúa Ba Ngôi Hằng Hữu?
Lạy Chúa, con vui sướng tột độ khi nghĩ đến niềm vui này; ước gì lòng tôn kính chân thành của con có thể làm gia tăng niềm vui ấy. Lạy Chúa Giêsu, con nài xin Chúa trong Hy Tế Thánh Lễ hãy thể hiện phận sự của con là yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, và thay con đáp đền tình yêu và lòng tôn kính mà con chểnh mảng không dâng lên Chúa cho xứng đáng.
PHÚC LÀNH ĐỒ XUỐNG TRẦN GIAN
Sau cùng, chúng ta hãy suy đến vô vàn phúc lành được đổ xuống trần gian tội lỗi này nhờ việc tái hiện hằng ngày cuộc Giáng Sinh của Chúa chúng ta trong HY TẾ THÁNH LỄ. Nói về việc Đấng Cứu Thế Giáng Sinh. Ngôn Sứ Isaia nói: Một trẻ thơ đã chào đời, để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta (Is 9:5-6). Cũng có thể nói như thế về sự Giáng Sinh của Người trên bàn thờ; mỗi khi Thánh Lễ được cử hành, Một Hài Nhi đã chào đời để cứu ta, một người Con đã được ban tặng cho ta. Ôi Hồng Ân vô giá! Quí báu chừng nào, không là gì khác mà là kho tàng quí giá trên hết mọi kho tàng trên trời, không là gì khác mà là Người Con của Cha Hằng Hữu, nơi Người chứa đựng mọi của cải giàu sang, Người từ Thiên Đàng ngự xuống mọi bàn thờ khi Thánh Lễ được cử hành, đem theo những của cải giàu sang và những kho tàng khôn lường. Những ơn lành chính là: Ơn Thánh Sủng và Lòng Thương Xót, Ơn Sám Hối và Ơn Tha Tội, Ơn sửa đổi đời sống, ơn chết lành, một mức độ Vinh Quang cao sang hơn trên Thiên Đàng; ngoài rất nhiều ân huệ ở đời này – được giữ gìn khỏi tai nạn, tội lỗi và xấu hổ, phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống tất cả những điều chúng ta nói hay làm. Những ơn này và nhiều ơn khác nữa. Người sẵn sàng ban không cho những ai dự lễ sốt sắng, và Người sẽ ban tặng hết sức dồi dào.
Hết suy gẫm kỹ hơn lời Ngôn Sứ Isaia, chúng ta sẽ thấy lời ấy rất khích lệ chúng ta. Vị ngôn sứ nói rõ rằng một Hài Nhi được sinh ra cho chúng ta, một người con được ban tăng chúng ta. Nếu Hài Nhi Giêsu được sinh ra cho chúng ta như thế trong Thánh Lễ, thì NGƯỜI LÀ CỦA CHÚNG TA, TẤT CẢ NHỮNG GÌ NGƯỜI CÓ ĐỀU THUỘC VỀ CHÚNG TA VÀ TẤT CẢ NHỮNG GÌ NGƯỜI LÀM CŨNG THUỘC VỀ CHÚNG TA. Vinh dự, lời ngơi khen, việc thờ phượng và đền tội mà Người dâng lên cho Thiên Chúa Ba Ngôi cũng là của chúng ta. Còn niềm an ủi nào lớn hơn cho chúng ta là những kẻ tội lỗi, khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, chúng ta biết rằng không chỉ có Thánh Lễ, mà chính là Hài Nhi Giêsu cũng là của chúng ta tất cả? Giả như bạn đã có mặt bên máng cỏ vào đêm Giáng Sinh, giả như bạn có thể bế Trẻ Sơ Sinh dịu dàng trong vòng tay và dâng Người lên cho Thiên Chúa Cha với lời cầu khẩn chân thành xin Chúa Cha thương xót bạn vì Hài Nhi dịu dàng này, chẳng lẽ Người không nghe lời cầu của bạn và ban muôn ngàn ơn huệ và tha thứ các tội lỗi của bạn sao? Vậy thì bạn hãy cứ làm như thế khi tham dự Thánh Lễ. Bạn hãy đến gần bàn thờ trong tinh thần, bế Hài Nhi Thánh trong vòng tay bạn và dâng Người lên cho Chúa Cha. Bạn hãy nhớ, bạn CÓ đến gần bàn thờ và CÓ để Hài Nhi Giêsu trong tay, trên lưỡi bạn hay không?
ĐỨC GIÊSU ‘TRÚT BỎ MÌNH HOÀN TOÀN’
Còn một điểm nữa cần lưu ý và cần được cắt nghĩa. Đó là Đức Kitô không chỉ sinh ra một cách mầu nhiệm trên Bàn Thờ; trên Bàn Thờ Người còn mang lấy một hình dạng qua thấp hèn khiến cả trời và đất đều phải kinh ngạc. Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô diễn tả sự hạ mình tột độ của Đấng Cứu Thế trong cuộc Nhập Thể và Giáng Sinh của Người: Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Người vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2:5-8). Bằng những lời rất mạnh ấy Thánh Phaolô [và Chúa Thánh Thần] tuyên bố cho chúng ta biết sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô, và hướng sự chú ý của chúng ta tới việc Người trút bỏ mình hoàn toàn. Nhưng ai suy gẫm cuộc Giáng Sinh vô hình của Chúa chúng ta trong Thánh Lễ sẽ còn thấy ở đó một sự khiêm nhường thẳm sâu tột độ. Trong cuộc Giáng Sinh lần đầu ở trần gian. Người trở thành một con người giống như mọi người khác mà mặc lấy hình dáng của một trẻ thơ khôi ngô kháu khỉnh; nhưng trong cuộc Giáng Sinh mầu nhiệm. Người mặc lấy hình bánh và xuất hiện trước con mắt tự nhiên của chúng ta chỉ là một miếng bánh. Hơn thế nữa, Người hạ mình tội độ và trút bỏ mình hoàn toàn đến độ ẩn mình dưới những vụn bánh nhỏ nhất mà mắt thường chúng ta có thể thấy.
Đây quả là sự khiêm nhường vô song và một sự từ bỏ mình chưa từng được nghe nói đến bao giờ. Những lời của vị Vua Ngôn Sứ nói về Đức Kitô có thể áp dụng thích hợp nhất ở đây; Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi (Tv 21:7). Vì ai mà để ý tới một vụn bánh làm gì? Ai mà nhìn nhận đó là Thiên Chúa của mình? Ai mà dành cho Người danh dự và vinh quang? Nào đâu vẻ huy hoàng thuộc về Thân Thể vinh hiển của Người? Nào đâu sự Toàn Năng của Người? Nào đâu Đấng Chí Tôn mà cả trời và đất phải run rẩy khiếp sợ trước mặt Người? Người đã gạt bỏ tất cả những điều ấy sang một bên để mặc lấy thân phận hèn hạ nhất. Đấng là Lời Thiên Chúa Hằng Hữu lại không biết thốt ra một vần. Đấng dựng nên Trời và Đất lại không thể cử động tay chân, Đấng mà các tầng trời không chứa nổi lại bị giam hãm, nhốt chặt giống như một cái bánh xốp. Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa lại nằm trói chặt trên bàn thờ như một con chiên bị tế, sẵn sàng bị giết một lần nữa một cách mầu nhiệm làm tế vật vì chúng ta. Hãy nhìn đức ái khôn tả của Người Yêu trung thành của con cái loài người.
Hơn nữa, trong sự khiêm nhường và hạ mình của Người. Đức Giêsu Kitô trong Thánh Lễ chấp nhận phục tùng vị linh mục