TUYÊN NGÔN VỀ LIÊN LẠC CỦA GIÁO HỘI VỚI CÁC TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ GIÁO

Nostra Aetate

Nguồn: https://vntaiwan.catholic.org.tw/

Lời Giới Thiệu

1. Soạn thảo Tuyên Ngôn

Danh từ "các tôn giáo ngoài Kitô giáo" trước hết bao hàm Do Thái giáo và Hồi giáo. Hai tôn giáo này dù không chấp nhận thiên tính của Chúa Kitô và mầu nhiệm Ba Ngôi, nhưng vẫn tôn thờ Thiên Chúa một cách chân chính. Danh từ trên còn ám chỉ các tôn giáo ở Á Châu và Phi Châu như Phật giáo và Ấn giáo... cũng như tất cả các hình thức tôn giáo khác.

Lúc đầu Công Ðồng chỉ muốn thêm một chương vào Sắc Lệnh về Hiệp Nhất để nói lên lòng ưu ái của Giáo Hội đối với dân Do Thái, nhất là vì những cuộc bách hại bất công trước kia mà họ là nạn nhân. Trong diễn văn khai mạc tháng 9 năm 1963, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã minh nhiên biểu lộ mối thiện cảm của Giáo Hội đối với dân Do Thái và được cụ thể hóa bằng chuyến công du của ngài qua Thánh Ðịa vào tháng Giêng năm 1964. Sau đó, mối thiện cảm trên lan rộng đến Hồi giáo và tất cả những hình thức tôn giáo khác: ngày 17-3-1964 Ðức Giáo Hoàng đã thiết lập một văn phòng đặc trách các vấn đề có liên quan đến những tôn giáo ngoài Kitô giáo. Rồi trong Thông điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964) Ðức Thánh Cha còn biểu lộ lòng ao ước của Giáo Hội muốn đối thoại với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, một cuộc đối thoại không che đậy chân lý. Trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội công bố ngày 21-11-1964, số 16, Công Ðồng đã manh nha một giáo thuyết sẽ được diễn tả cách tỉ mỉ trong Tuyên Ngôn về các tôn giáo ngoài Kitô giáo và được các Nghị Phụ phê bình ngày 15-10-1965 và công bố ngày 28-10-1965 một ít lâu trước khi Công Ðồng bế mạc ngày 8-12-1965.

2. Tầm quan trọng của Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn này là tài liệu ngắn nhất trong các văn kiện Công Ðồng Vaticanô II công bố, nhưng không phải vì thế bản Tuyên Ngôn kém quan trọng. Ngày 18-11-1964, Ðức Hồng Y Bea đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng đó như sau: "Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, một Công Ðồng đã long trọng trình bày các nguyên tắc liên hệ đến các tôn giáo ngoài Kitô giáo... Ðây là vấn đề của hơn một tỷ người chưa biết hay không nhìn nhận Chúa Kitô và công trình cứu rỗi của Người".

Trong thế giới văn minh ngày nay có hai thái cực rất dễ nhận thấy ngay cả nơi các Kitô hữu: có người quan niệm rằng các tôn giáo ngoài Kitô giáo là đối lập với Kitô giáo nên phải bài bác; trái lại có kẻ chủ trương khuynh hướng hỗn hợp tôn giáo quan niệm rằng mọi tôn giáo đều là những con đường cứu rỗi. Qua Tuyên Ngôn này, Giáo Hội minh định rằng tất cả các dân tộc làm thành một cộng đoàn duy nhất (số 1). Giáo Hội công nhận những giá trị luân lý và tôn giáo của các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Giáo Hội chắc chắn rằng tất cả những ai không vì lỗi riêng mình đã không tiếp nhận Phúc Âm Chúa Kitô và đang tìm kiếm Chúa với một lòng chân thành đều liên kết với dân duy nhất của Chúa bằng nhiều cách (GH 16).

Quí trọng các tôn giáo ngoài Kitô giáo và ao ước thiết lập những tiếp xúc huynh đệ như thế, không làm suy giảm sứ mạng chính yếu của Giáo Hội là loan báo cho mọi người được biết Chúa Kitô là nguồn cứu rỗi chân thật. "Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là "đường, sự thật và sự sống" (Gio 14,6), nơi Người con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình" (số 2).

3. Nội dung của Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn này không phải là một bài khảo luận, cũng không nhằm diễn tả các tôn giáo ngoài Kitô giáo, càng không phải là một so sánh Kitô giáo với các tôn giáo. Tuyên Ngôn không phân biệt giữa các hình thức và giáo phái của mỗi tôn giáo, như Phật giáo hay Ấn giáo. Có rất nhiều hình thức tôn giáo khác được quy tụ trong danh từ "các tôn giáo khác". Tuy dù trong thời đại chúng ta có những khuynh hướng vô thần, nhưng giữa lòng các tôn giáo đó Công Ðồng đặt tất cả quan tâm đến một số đông người chân thành tìm kiếm chân lý trong tôn giáo của họ theo ánh sáng họ nhận lãnh.

Tuyên Ngôn chia ra 5 tiết mục: phần mở đầu và đoạn kết nêu lên những nguyên tắc tổng quát; tiết mục 2, 3, và 4 tuần tự đề cập đến các tôn giáo khác.

(1) Phần Mở Ðầu

Giáo Hội muốn cổ võ tinh thần hiệp nhất và tình bác ái giữa loài người. Giáo Hội muốn xét đến không phải những gì chia rẽ nhưng những gì hiệp nhất. Mọi người dều có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Họ tự nêu lên những câu hỏi về nguồn gốc, về những hoàn cảnh sống và mục đích tối hậu của họ. Tiết mục này có thể so sánh với số 3 trong Hiến Chế mục vụ, ở đó Công Ðồng cũng diễn tả nỗi khắc khoải của mọi người và niềm ao ước của Giáo Hội muốn cổ võ tinh thần nhất, tiếp tục công trình của Chúa Kitô Ðấng đã đến để cứu rỗi chứ không phải để kết án, để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.

(2) Những Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo

Hai Tôn Giáo lớn, Phật giáo và Ấn giáo, liên quan mật thiết với đà tiến triển văn hóa, bao hàm nhiều yếu tố như những động lực thúc đẩy những người theo hai tôn giáo đó và các tôn giáo khác để họ tìm cách thỏa mãn một tâm tình sâu xa về tôn giáo mà tất cả đều cảm thấy; đôi khi nhờ vậy, họ còn nhận ra có Ðấng Chí Tôn. Giáo Hội không phủ nhận những gì chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó, nơi đó đôi khi cũng bao hàm một tia sáng chân lý. Tuy nhiên, Giáo Hội muốn loan báo Chúa Kitô (xem ở trên) và khuyến khích giáo dân thực hiện một cuộc đối thoại với những người ngoài Kitô giáo, đồng thời cộng tác với những người theo tôn giáo khác, nhưng phải biểu dương đức tin chân chính bằng gương sáng đời sống Kitô hữu của mình.

(3) Hồi Giáo

Ðây là lần đầu tiên trong Giáo Hội, qua một vài dòng vắn tắt, Công Ðồng ghi lại tất cả những gì có tính cách tích cực trong Hồi giáo: sự thờ phượng Thiên Chúa Tạo Hóa, thái độ tuân phục ý định Thiên Chúa của các tín hữu, lời cầu nguyện và việc sám hối của họ, lòng tin tưởng vào Abraham. Dù không chấp nhận thiên tính của Chúa Giêsu, người Hồi giáo vẫn tôn kính Người như một vị Ngôn Sứ và tôn sùng mẹ đồng trinh của Người.

"Công Ðồng còn khích lệ người Công giáo cố gắng để mọi người quên đi mối hận thù xưa kia giữa người Công giáo và Hồi giáo, và trong niềm quý trọng lẫn nhau, hãy ý thức nhiệm vụ chung nhằm lợi ích cho mọi người" (Hồng Y Koenig).

(4) Do Thái Giáo

Vấn đề Do Thái giáo được đề cập dồi dào hơn, vì đây là nguồn gốc của Tuyên Ngôn về các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Vấn đề được bàn cãi lâu dài trước khi đúc kết thành bản văn hiện nay. Khi suy niệm về mầu nhiệm của mình, Giáo Hội nhìn nhận có một liên kết chặt chẽ với dân Do Thái trong Cựu Ước, với Môisen và các Ngôn Sứ. Dân Do Thái là hình bóng Dân Chúa, đã sinh ra chính Chúa Kitô, các Tông Ðồ và những tín hữu tiên khởi.

Giáo Hội tuyên bố rằng không một lý do nào cho phép xem người Do Thái hiện thời như những người có trách nhiệm giết Chúa Kitô, cũng như không phải tất cả người Do Thái thời đó đều tham dự vào vụ án của Người, Ðấng đã cầu nguyện cho những ai vì không biết mới lên án Người như thế.

Giáo Hội không đứng trên phương diện chính trị, nhưng trên phương diện tôn giáo lên lên án tất cả mọi hình thức bách hại, đàn áp dân Do Thái trong thời đại hiện nay.

Sau cùng, khi nhắc lại rằng Chúa Kitô đã tự ý chấp nhận khổ nạn vì yêu thương: cuộc khổ nạn của Người là nguồn suối phát sinh mọi ân sủng cứu độ cho tất cả mọi người, bản văn kết thúc với niềm mong ước có một cuộc đối thoại thần học giữa người Công giáo và Do Thái.

(5) Tình Huynh Ðệ Phổ Quát

Bản Tuyên Ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi bác ái huynh đệ đối với mọi ngươì, vì tất cả được tạo dựng giống hình ảnh thiên Chúa và là con cùng một Cha. Do đó, Giáo Hội bài bác tất cả mọi sự kỳ thị và tranh chấp giữa con người do sự khác biệt về nòi giống, màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì như thế là đi ngược với tinh thần Chúa Kitô.

 

Tuyên Ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Kitô Giáo

1. Lời mở đầu

Trong thời đại chúng ta, nhân loại ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, các mối liên lạc giữa các dân tộc cũng gia tăng, nên Giáo Hội đặc biệt chú tâm đến việc liên lạc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Trong nhiệm vụ cổ võ sự hiệp nhất và yêu thương giữa con người và nhất là giữa các dân tộc, trước tiên ở đây Giáo Hội đề cập đến những điểm chung cho hết mọi người, và dẫn đến cuộc sống cộng đoàn.

Thật vậy, mọi dân tộc đều thuộc về một cộng đoàn, cùng chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa cầu 1. Họ lại có cùng một mục đích tối hậu là Thiên Chúa, Ðấng vẫn hằng trải rộng sự quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu và ý định cứu độ cho hết mọi người 2, cho đến khi những người được chọn hiệp nhất với nhau trong Thành Thánh, rạng ngời ánh vinh quang Thiên Chúa, nơi muôn dân bước đi trong ánh sáng Ngài 3.

Con người mong đợi các tôn giáo giải đáp về những bí nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những bí nhiệm xưa nay vẫn làm tâm hồn họ phải xao xuyến sâu xa: con người là gì? Ðời người có mục đích và ý nghĩa nào? Sự thiện và tội ác là chi? Ðâu là nguyên nhân và mục đích của đau khổ? Ðâu là con đường dẫn tới hạnh phúc thật sự? Cái chết, sự phán xét, và thưởng phạt sau khi chết là gì? Sau cùng, cái huyền nhiệm tối hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc sống chúng ta là chi, chúng ta phát xuất từ đâu và chúng ta hướng về đâu?

2. Các tôn giáo ngoài Kitô giáo.

Từ xưa đến nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tàng ẩn trong vòng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi còn thấy cả sự nhìn nhận một vị Thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan mật thiết với tiến bộ văn hóa thì cố gắng giải đáp những vấn đề trên bằng những ý niệm cao sâu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế. Như trong Ấn giáo, con người tìm hiểu mầu nhiệm thần thiêng, và diễn tả mầu nhiệm đó bằng những thần thoại phong phú bất tận cũng như bằng những nỗ lực suy tư triết lý sâu sắc. Họ tìm cách giải thoát khỏi những nỗi lo âu của kiếp người hoặc bằng những lối sống khắc khổ, hoặc bằng tịnh niệm thâm sâu, hoặc bằng việc chạy đến nương ẩn nơi Thượng Ðế với lòng mến yêu tin cậy. Phật giáo, theo nhiều tông phái khác nhau, lại nhìn nhận sự thiếu sót căn bản của cuộc đời thay đổi này và vạch ra con đường cho những người thành tâm tin cậy, hoặc đạt đến chỗ giải thoát trọn vẹn hay giác ngộ hoàn toàn, bằng những cố gắng của riêng mình hoặc bằng trợ lực của ơn trên. Cũng thế, các tôn giáo khác trên hoàn cầu đều cố công làm cho tâm hồn con người thoát khỏi những băn khoăn bằng nhiều phương thế khác nhau, bằng cách vạch đường chỉ lối, tức đề xướng những giáo thuyết và luật sống cũng như những lễ nghi phụng tự.

Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác nhau với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là "đường, sự thật và sự sống" (Gio 14,6), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình 4.

Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo.

3. Hồi giáo.

Giáo Hội cũng tôn trọng các tín đồ Hồi Giáo, vì họ cùng thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và hằng hữu, từ bi và toàn năng, Ðấng Tạo Thành trời đất 5, đã từng đối thoại với con người. Họ chuyên tâm tuân phục cả những phán quyết bí nhiệm của Thiên Chúa với tất cả tâm hồn, như Abraham đã tuân phục, người mà đức tin Hồi Giáo sẵn lòng noi theo. Họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng lại tôn kính như vị Ngôn Sứ và kính trọng Mẹ đồng trinh của Người là Ðức Maria và đôi khi cũng sốt sắng cầu khẩn Mẹ. Hơn nữa, họ cũng trông đợi ngày phán xét, ngày Thiên Chúa thưởng phạt mọi người khi sống lại. Chính vì thế, họ tôn trọng đời sống luân lý và tôn thờ Thiên Chúa nhất là bằng cầu nguyện, bố thí và ăn chay.

Mặc dầu trong quá khứ, giữa Kitô hữu và Tín Ðồ Hồi Giáo có những mối bất hòa và hiềm thù nhau không ít, Thánh Công Ðồng kêu gọi mọi người nên quên đi những chuyện đã qua để cố gắng thành thật tìm hiểu nhau, cùng nhau bảo vệ và cổ võ công bình xã hội, thuần phong mỹ tục cũng như hòa bình tự do cho hết mọi người.

4. Do Thái giáo.

Tìm hiểu mầu nhiệm Giáo Hội, Thánh Công Ðồng nhắc lại mối dây liên kết linh thiêng giữa dân của Tân Ước và giòng tộc Abraham.

Thật vậy, Giáo Hội Chúa Kitô nhận thực rằng, khởi điểm của đức tin Giáo Hội và việc Chúa tuyển chọn Giáo Hội đã được tìm thấy nơi các Tổ Phụ, Môisen và các Ngôn Sứ theo như mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Giáo Hội tuyên xưng rằng mọi Kitô hữu đều là con cái Abraham theo đức tin 6, hàm chứa trong ơn gọi của vị Tổ Phụ này; cũng như sự cứu độ của Giáo Hội đã được ám chỉ cách huyền nhiệm trong cuộc xuất hành của dân ưu tuyển ra khỏi đất nô lệ. Vì thế, Giáo Hội không thể quên được rằng, nhờ dân đó, dân đã được Chúa đoái thương ký giao ước xưa do lòng xót thương khôn tả của Ngài, nên Giáo Hội mới nhận được mạc khải Cựu Ước và được nuôi dưỡng bằng rễ cây Ôliu tốt tươi, mà những cành ôliu dại là các Chư Dân đã được tháp nhập vào 7. Vì Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô, Hòa Bình của chúng ta, đã giao hòa dân Do Thái và Chư Dân bằng thập giá và làm cho cả hai nên một nơi Người 8.

Giáo Hội cũng luôn nhìn thấy trước mắt lời của Thánh Phaolô Tông Ðồ viết về anh em đồng chủng của Ngài "là những người được thừa nhận làm nghĩa tử, được vinh quang, có giao ước, luật pháp, lễ nghi, lời hứa, có các tổ phụ, và Chúa Kitô, theo xác thịt cũng từ họ mà ra" (Rm 9,4-5), là con của Trinh Nữ Maria. Giáo Hội cũng nhớ rằng các Tông Ðồ, nền móng và cột trụ Giáo Hội, cũng như rất nhiều môn đệ đầu tiên của các ngài, những người loan báo Phúc Âm Chúa Kitô cho trần gian, đã sinh ra từ dân tộc Do Thái.

Thánh Kinh làm chứng Giêrusalem không nhận biết thời gian Chúa thăm viếng 9 mình và phần lớn dân Do Thái không tiếp nhận Phúc Âm; trái lại nhiều người còn chống đối việc bành trướng Phúc Âm 10. Tuy thế, theo lời Thánh Tông Ðồ, Thiên Chúa vẫn rất quý yêu người Do Thái vì Tổ Phụ họ và Ngài không ân hận vì đã ban hồng ân và kêu gọi họ 11. Cùng với các Ngôn Sứ và Vị Tông Ðồ, Giáo Hội chờ đợi ngày chỉ mình Chúa biết, ngày mà mọi dân tộc đồng thanh kêu cầu Thiên Chúa và "sát cánh phượng thờ Ngài" (Soph 3,9) 12.

Do đó, vì người Do Thái và Kitô hữu cùng có chung một di sản tinh thần thật vĩ đại, nên Thánh Công Ðồng muốn cổ võ, khuyến khích sự hiểu biết và kính trọng nhau, nhất là bằng việc học hỏi Thánh Kinh, thần học và đối thoại trong tinh thần anh em.

Mặc dầu chính quyền Do Thái và thuộc hạ đã đưa đến cái chết của Chúa Kitô 13, nhưng không thể quy trách một cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Người bị khổ nạn cho hết mọi người Do Thái thời đó, cũng như cho người Do Thái thời nay. Dù Giáo Hội là dân mới của Chúa, nhưng việc Chúa phế thải và nguyền rủa người Do Thái không thể coi như là kết luận của Thánh Kinh. Vì thế, mọi người phải lo làm sao để khi dạy giáo lý và khi rao giảng Lời Chúa, đừng dạy điều gì không thích hợp với chân lý Phúc Âm và tinh thần Chúa Kitô.

Ðàng khác, Giáo Hội vì luôn phi bác mọi cuộc đàn áp đối với bất cứ người nào, đồng thời nhớ mình có di sản chung với người Do Thái, cũng như được thúc đẩy bởi đức ái đạo hạnh của Phúc Âm chứ không phải vì lý do chính trị, nên Giáo Hội rất lấy làm đau lòng vì sự ghen ghét, đàn áp, những hành động của chủ nghĩa bài Do Thái trong bất cứ thời nào và do bất cứ ai đối với người Do Thái.

Vả lại, Chúa Kitô như Giáo Hội đã và đang luôn luôn chủ trương, vì tội lỗi mọi người và do tình thương vô biên, đã tình nguyện đón nhận khổ nạn và cái chết để mọi người được ơn cứu độ. Vì thế bổn phận rao giảng của Giáo Hội là loan báo thập giá Chúa Kitô như dấu hiệu tình yêu Chúa đối với hết mọi người và như nguồn mạch mọi ân sủng.

5. Tình huynh đệ đại đồng.

Thực ra, chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: "Ai không yêu thì không nhận biết Chúa" (1Gio 4,8).

Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị liên quan đến phẩm giá con người và những quyền lợi bắt nguồn từ phẩm giá đó, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không còn nền tảng.

Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy đối nghịch với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, Thánh Công Ðồng theo chân Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: "hãy sống ngay lành giữa người lương dân" (1P 2,12), nếu có thể được, tùy khả năng mà sống hòa thuận với hết mọi người 14 như những người con đích thực của một Cha trên trời 15.

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Tuyên Ngôn này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 28 tháng 10 năm 1965.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.


===================

1 Xem CvSđ 17,26.

2 Xem Kn 8,1; CvSđ 14,17; Rm 2,6-7; 1Tm 2,4.

3 Xem kh 21,23-24.

4 Xem 2Cor 5,18-19.

5 Xem T Gregoriô VII, Epist III, 21 ad Anasir (Al-Nasir), regem Mauritaniae. x.b. E. Caspar in MGH. Ep. sel. II, 1920, I, trg 288, 11-15: PL 148, 451 A.

6 Xem Gal 3,7.

7 Xem Rm 11,17-24.

8 Xem Eph 2,14-16.

9 Xem Lc 19,44.

10 Xem Rm 11,28.

11 Xem Rm 11,28-29. - Hiến chế tin lý về Giáo Hội Lumen gentium: AAS 57 (1965), trg 20.

12 Xem Is 66,23. - Tv 65,4. - Rm 11,11-32.

13 Xem Gio 19,6.

14 Xem Rm 12,18.

15 Xem Mt 5,45