Ngôn Ngữ Của Chúa
FRANCIS S. COLLINS
GIÁM ĐỐC DỰ ÁN GIẢI MÃ GEN NGƯỜI
Dịch giả: Lê Thị Thanh Thủy
GIỚI THIỆU SÁCH
Trong lịch sử loài người có những câu hỏi lớn luôn đặt ra như: nguồn gốc của vũ trụ và loài người là gì? Vũ trụ được hình thành từ một vụ nổ lớn hay do bàn tay sắp đặt của một Đấng sáng tạo? Con người hình thành như thế nào? Đâu là yếu tố quyết định khiến con người trở thành tác phẩm hoàn thiện nhất, phát triển nhất trong trường sử tiến hóa của vật chất nói chung và thế giới sinh vật nói riêng?
Qua nhiều thế kỷ, các khoa học và tôn giáo đều tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi đó, và đây cũng là một trong những vấn đề lớn gây ra xung đột giữa hai quan niệm về thế giới. Cuộc xung đột kéo dài cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời xác đáng.
Cuối thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu lập bản đồ gen người. Bản phác thảo đầy đủ đầu tiên về bản đồ bộ gen người – một trong những sự kiện lớn nhất mang tính đột phá trong lịch sử khoa học nhân loại từ trước đến nay – đã được công bố vào tháng 6 năm 2000. Việc công bố bản đồ bộ gen người mở đường cho các nhà khoa học bắt tay vào tìm hiểu rất nhiều bí ẩn về nguồn gốc sự sống và về chính bản thân con người.
Trong thời đại hiện nay, rất nhiều người cho rằng khoa học và tôn giáo khó có thể hòa hợp. Với họ, điều đó chẳng khác gì việc ép hai cực của một thanh nam châm phải gặp nhau tại một điểm. Tuy nhiên, mặc dù định kiến này vẫn luôn tồn tại nhưng rất nhiều người Mỹ dường như thích kết hợp giá trị của cả hai quan điểm trên vào cuộc sống thường nhật của mình. Những cuộc thăm dò gần đây cho thấy 93% người Mỹ thừa nhận họ có niềm tin dành cho Chúa. Vậy mà hầu hết họ đều là những người biết lái xe, sử dụng điện và quan tâm tới các bản tin thời tiết. Họ cũng quan niệm rất rõ ràng rằng, khoa học nào nghiên cứu về những hiện tượng này, nhìn chung là đáng tin cậy.
Thế còn niềm tin tâm linh của các nhà khoa học thì sao? Thực tế cho thấy, số lượng những nhà khoa học có niềm tin này lớn hơn so với nhiều người vẫn nghĩ. Năm 1916, một cuộc nghiên cứu đưa ra câu hỏi cho các nhà sinh học, vật lý học và toán học. Liệu có tin vào một Đức Chúa, người chủ động giao tiếp với loài người hay không và họ sẽ cầu nguyện ai khi muốn có một câu trả lời. Khoảng 40% số người được hỏi đã trả lời có và sẽ cầu nguyện Chúa. Vào năm 1997, một cuộc khảo sát tương tự cũng đặt ra câu hỏi y hệt và các nhà nghiên cứu đã thực sự ngạc nhiên khi thấy tỷ lệ đó hầu như không thay đổi.
Vì vậy, có vẻ như “cuộc chiến” giữa khoa học và tôn giáo không nằm ở hai thái cực như nhiều người vẫn nghĩ. Thật không may, bằng chứng về sự hòa hợp có thể tồn tại giữa khoa học và tôn giáo lại thường bị che mờ bởi những tuyên bố có sức ảnh hưởng lớn từ những người đứng đầu hai thái cực. Chẳng hạn, để khiến 40% những người có đức tin ngừng tin tưởng, nhà nghiên cứu về tiến hóa học xuất chúng Richar Dawkins đã xuất hiện với vai trò người phát ngôn hàng đầu ủng hộ quan điểm rằng niềm tin vào thuyết tiến hóa đòi hỏi phải có sự vô thần. Một trong số những lời phát biểu đáng ngạc nhiên của ông là: “Đức tin chính là một lời bào chữa vĩ đại, một sự chối bỏ trách nhiệm để không phải suy nghĩ hay đánh giá một sự việc. Đức tin chính là niềm tin bất chấp hoặc thậm chí có thể vì… thiếu bằng chứng. Đức tin, khi là sự tin tưởng không dựa trên cơ sở thực tế, chính là tội lỗi lớn nhất của bất kỳ tôn giáo nào”.
Vì vậy, câu hỏi trọng tâm cho cả cuốn sách này chính là: liệu có thể có cơ hội cho sự hòa hợp giữa những quan điểm của giới khoa học và giới tâm linh khiến cả hai đều cảm thấy hoàn toàn hài lòng trong kỷ nguyên mới của vũ trụ học, của sự tiến hóa và của hệ gen người hay không? Tiến sỹ Collins đưa ra một cách giải quyết hoàn hảo cho tình trạng khó xử của những người vừa tin vào Chúa, vừa coi trọng khoa học. Đức tin vào Chúa và niềm tin vào khoa học có thể hòa hợp trong một thế giới xung quanh. Đức Chúa mà ông đặt niềm tin vào có thể lắng nghe lời cầu nguyện và quan tâm đến phần hồn của chúng ta.
Và giờ đây, trong cuốn sách tuyệt vời này, Collins lý giải quan điểm đó cho chúng ta. Ngôn ngữ của chúa ủng hộ mạnh mẽ cho cả khoa học và Chúa. Tiến sỹ Collins xem xét và phản đối một số quan điểm từ chủ nghĩa vô thần đến sáng tạo luận về thế giới mới, cả Thuyết bất khả tri và thuyết thiết kế thông minh. Thay vào đó, ông đề xuất một sự kết hợp mới, cách thức mới để nghĩ về một Đức Chúa đầy quan tâm, người đã sáng tạo ra loài người thông qua quá trình tiến hóa.
Ông từng biết rất nhiều lập luận chống lại Đức tin từ những nhà khoa học, và ông đã phản biện lại những lập luận đó. Ông cũng biết sự phản đối vô lý những chân lý khoa học từ những người có đức tin và ông cũng có thể phản biện họ. Ông chia sẻ với độc giả hành trình của chính mình từ một người vô thần tới có đức tin, sau đó dẫn dắt độc giả vào chuyến đi đầy kinh ngạc của khoa học hiện đại để chứng mình rằng vật lý, hóa học và sinh học đều hòa hợp được với đức tin vào chúa và kinh thánh. Ngôn ngữ của Chúa là cuốn sách không thể thiếu cho bất kỳ ai luôn băn khoăn về những câu hỏi vĩnh cửu: tại sao chúng ta có mặt trên cõi đời? Chúng ta đến cuộc đời này bằng cách nào? Và đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống
Đến cuối đời, Galilê vẫn xác quyết niềm tin của mình vào Thượng Đế dù cho ông vẫn giữ vững lập trường khoa học của mình. Hãy đọc sách để thấy rằng không hẳn cứ là khoa học thì phải triệt tiêu đức tin và ngược lại. Nhưng qua khoa học và nhờ khoa học, người ta sẽ càng củng cố đức tin của mình hơn…
TRÍCH DẪN ĐẶC SẮC
“Buổi sáng mùa hè năm đó, lần đầu tiên, bản phác thảo đáng kinh ngạc chứa trong đó tất cả những chỉ dẫn về sự hình thành loài người, đã được cả nhân loại biết đến”
Vào một ngày mùa hè ấm áp cách thiên niên kỷ mới chừng sáu tháng (tức là tháng 6/2000 – ND), nhân loại đã bước qua chiếc cầu tiến vào một kỷ nguyên mới vô cùng quan trọng. Một thông báo được truyền đi khắp thế giới với hàng tít đậm hầu như trên tất cả các tờ báo lớn về việc các nhà khoa học đã có trong tay bản phác thảo đầu tiên về hệ gen, cuốn sách chỉ dẫn về chính loài người.
Bộ gen người chứa toàn bộ các ADN, mã số di truyền của sự sống. Phiên bản mới được phát hiện này dài ba tỷ ký tự hóa học và được viết dưới dạng mật mã gồm bốn ký tự rất kỳ lạ. Kỳ lạ là ở chỗ thông tin mang trong mỗi tế bào của cơ thể người phức tạp đến mức ngay cả khi đọc liên tục suốt ngày đêm với tốc độ một chữ/giây thì vẫn phải mất tới 31 năm mới có thể đọc hết mã số đó. Nếu in những ký tự này trên giấy với kích cỡ thông thường và đóng chúng lại thành sách, ta sẽ có một tòa tháp cao ngang với tượng đài Washington. Buổi sáng mùa hè năm đó, lần đầu tiên, bản phác thảo đáng kinh ngạc chứa trong đó tất cả những chỉ dẫn về sự hình thành loài người, đã được cả nhân loại biết đến.
Là giám đốc Dự án Giải mã Gen người và đã dày công nghiên cứu hơn chục năm trời nhằm tìm ra trình tự ADN, tôi đứng cạnh Tổng thống Bill Clinton trong gian phòng phía Đông của Nhà Trắng cùng với Craig Venter, lãnh đạo dự án nghiên cứu của tư nhân đang cạnh tranh cùng dự án của chúng tôi. Thủ tướng Anh Tony Blair đã kết nối trực tiếp qua vệ tinh để theo dõi sự kiện này và hoạt động kỷ niệm cũng diễn ra đồng thời ở rất nhiều địa điểm khác trên thế giới.
“Ngày hôm nay, chúng ta được hiểu về loại ngôn ngữ mà Chúa đã sử dụng để sáng tạo nên Sự sống. Hơn bao giờ hết, chúng ta nghiêng mình trước sự phức tạp, trước vẻ đẹp và sự diệu kỳ của món quà thần thánh nhất, thiêng liêng nhất của Người” – Bill Clinton
Tổng thống Clinton bắt đầu bài phát biểu với việc so sánh bản đồ gen người mới được phát hiện này với bản đồ mà Meriwether Lewis đã công bố trước Tổng thống Thomas Jeffeson tại chính gian phòng này cách đây gần hai trăm năm. Tổng thống Clinton nói, “Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là tấm bản đồ quan trọng và kỳ diệu nhất mà nhân loại từng khám phá”. Nhưng đoạn văn thu hút sự chú ý nhiều nhất của công chúng chính là khi ông chuyển từ khía cạnh khoa học sang tâm linh: “Ngày hôm nay, chúng ta được hiểu về loại ngôn ngữ mà Chúa đã sử dụng để sáng tạo nên Sự sống. Hơn bao giờ hết, chúng ta nghiêng mình trước sự phức tạp, trước vẻ đẹp và sự diệu kỳ của món quà thần thánh nhất, thiêng liêng nhất của Người”.
Liệu tôi, một nhà khoa học được đào tạo bài bản, có sửng sốt khi nghe vị lãnh đạo thế giới đề cập rõ ràng nhất tới tôn giáo vào một thời điểm như thế hay không? Tôi có tức giận hay bối rối nhìn xuống sàn nhà không? Không, không một chút giận dữ hay bối rối nào cả. Thực ra, tôi đã cộng tác chặt chẽ với người viết bài phát biểu cho Tổng thống trong những ngày bề bộn công việc trước khi có lễ công bố này và tôi hoàn toàn ủng hộ kết luận của bài diễn văn đó. Khi tới lượt mình phát biểu, tôi đã lặp lại ý kiến của Tổng thống với những lời như thế này: “Hôm nay là một ngày hạnh phúc của toàn thế giới. Riêng với tôi, thật tuyệt vời và đáng kinh ngạc khi biết rằng lần đầu tiên chúng ta đọc được cuốn sách chỉ dẫn về chính bản thân mình, cuốn sách mà trước đó duy chỉ có Chúa biết đến”.
Chuyện gì đang diễn ra ở đây? Tại sao một vị Tổng thống và một nhà khoa học, những người chịu trách nhiệm tuyên bố một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử y học và sinh học, lại cảm thấy cần thiết phải đề cập tới mối liên hệ với Chúa? Chẳng phải từ trước tới nay các quan điểm khoa học và tâm linh thường đối chọi với nhau hay sao, hay ít nhất cũng nên tránh cùng xuất hiện tại gian phòng phía Đông này chứ? Đâu là lý do của việc đề cập tới Chúa trong cả hai lời phát biểu này? Để thêm phần thi vị chăng? Đạo đức giả chăng? Có phải đây là toan tính để lấy lòng những người theo tôn giáo hay để làm tiêu tan nghi ngờ của những người chỉ trích việc nghiên cứu bộ gen người khiến con người biến thành các cỗ máy? Không. Đó không phải là mục đích của tôi. Trái lại, với tôi, trải nghiệm của việc sắp xếp trình tự gen người và khám phá ra bí mật đáng lưu tâm nhất trong tất cả này, vừa là một thành tựu đáng kinh ngạc của khoa học, vừa là dịp thể hiện tình yêu với Chúa.
(Trích giới thiệu của FRANCIS S.COLLINS – Tác giả của cuốn sách và chính là GIÁM ĐỐC DỰ ÁN GIẢI MÃ GEN NGƯỜI ).
I. SỰ KHÁC BIỆT LỚN GIỮA KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO
1. Từ vô thần tới có đức tin
THỜI THƠ ẤU của tôi khác thường về nhiều mặt, nhưng là con của những người không theo tôn giáo, tôi được nuôi nấng trong một môi trường có thái độ hiện đại phổ biến về đức tin. Đó là đức tin không quá quan trọng.
Tôi lớn lên trong một trang trại nhếch nhác ở thung lũng Shenandoah, bang Virginia. Ở đó không có nước máy và rất ít tiện nghi nhưng tôi đã được bù đắp nhiều bằng những trải nghiệm các cơ hội phát triển bản thân thông qua nền văn hóa của những ý tưởng khá độc đáo mà cha mẹ tôi đã tạo ra.
Cha mẹ tôi gặp nhau trong thời gian học thạc sỹ tại trường Đại học Yale năm 1931. Họ đã đem những kỹ năng tổ chức cộng đồng và tình yêu dành cho âm nhạc tới thử nghiệm tại cộng đồng người Arthur, Tây Virginia. Ở đó họ làm việc với bà Eleanor Roosevelt nhằm tái lập và tiếp thêm sinh lực cho cộng đồng những người dân mỏ bị áp bức cùng cực trong thời gian diễn ra cuộc Đại Khủng hoảng.
Nhưng những cố vấn khác trong chính quyền của Tổng thống Roosevelt lại có ý kiến ngược lại nên việc trợ cấp sớm chấm dứt. Việc cộng đồng người Arthur cuối cùng cũng tan rã do nói xấu quan điểm chính trị của Washington đã khiến cha mẹ tôi suốt đời ngờ vực về chính quyền này. Họ chuyển sang học tại trường Đại học Elon tại Burlington, bang Bắc Carolina. Ở đó, nền văn hóa dân gian đẹp đẽ và hoang sơ của vùng nông thôn miền Nam đã thôi thúc cha tôi sưu tầm những bài dân ca. Ông đã đi khắp các vùng đồi và thung lũng, thuyết phục những người dân Bắc Carolina thâm trầm, kín đáo hát vào chiếc máy thu Presto của ông. Những bài hát thu thanh này cùng với bộ sưu tập còn lớn hơn của Alan Lomax chiếm một phần quan trọng trong tuyển tập dân ca Mỹ tại Thư viện Quốc hội Mỹ.
Khi Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, những cố gắng để bảo tồn vốn âm nhạc dân gian đó đã buộc phải nhường chỗ cho những vấn đề quốc phòng cấp thiết hơn. Cha tôi tham gia vào việc chế tạo máy bay ném bom phục vụ chiến tranh. Sau này, ông trở thành người giám sát trong một nhà máy chế tạo máy bay ở Long Island.
Chiến tranh kết thúc, cha mẹ tôi nhận ra rằng, cuộc sống kinh doanh với sức ép nặng nề không hợp với họ. Đi trước thời đại, họ đã làm cái điều của “những năm 1960” trong những năm 1940. Đó là chuyển tới sống ở thung lũng Shenandoah của bang Virginia, mua một trang trại 95 hécta và định cư ở đó, cố gắng tạo lập một cuộc sống nông nghiệp đơn thuần không cần tới máy móc.
Chỉ vài tháng sau, họ nhận thấy công việc đó sẽ không đủ để nuôi nấng hai đứa con đang tuổi lớn (và không lâu sau một người anh nữa của tôi và tôi đã ra đời). Vì thế, cha tôi quyết định đi dạy kịch tại một trường đại học của bang dành cho nữ sinh. Ông chọn các diễn viên nam từ thị trấn của bang. Những sinh viên trong trường và những người giao hàng tại nhà này thấy việc dàn dựng những vở kịch quả là một điều rất thú vị. Trước những lời phàn nàn về những ngày hè dài và buồn tẻ, cha mẹ tôi đã lập ra rạp hát mùa hè trong khu rừng sồi nhỏ gần nơi ở của gia đình.
Rạp hát Rừng Sồi hoạt động sôi nổi và liên tục suốt 50 năm sau đó.
Tôi sinh ra và lớn lên trong sự hòa quyện tuyệt vời của phong cảnh đồng quê, công việc nhà nông lam lũ, rạp hát mùa hè và âm nhạc. Vì là con út trong gia đình có bốn anh em trai nên tôi không phải tham gia vào nhiều công việc vốn cũng chẳng mấy quen thuộc với cả cha mẹ tôi. Tôi lớn lên với nhận thức chung chung rằng phải biết chịu trách nhiệm về những hành vi và sự lựa chọn của mình vì sẽ không có ai khác can thiệp và chịu trách nhiệm thay cho mình.
Giống như các anh, tôi được mẹ dạy học ở nhà. Mẹ tôi là một giáo viên tuyệt vời. Những năm tháng đầu đời ấy đã đem lại cho tôi món quà vô giá, đó là niềm vui học tập. Mặc dù mẹ tôi không có lịch hay chương trình dạy học quy củ nào nhưng bà lại tỏ ra vô cùng sâu sắc trong việc xác định những chủ đề có thể kích thích trí tò mò của một đứa trẻ, say mê kể cho tới khi chúng tự nhiên kết thúc rồi sau đó chuyển sang một chủ đề mới, thú vị không kém. Học tập không bao giờ là điều bạn buộc phải làm mà bạn học vì bạn yêu thích nó.
Trong thời thơ ấu của tôi, đức tin không phải là một phần quan trọng. Tôi mơ hồ ý thức về khái niệm Chúa nhưng giao tiếp của tôi với Người chỉ giới hạn trong những khoảnh khắc bất thường của trẻ con khi tôi mặc cả với Người về những gì tôi thực sự muốn Người làm cho tôi. Chẳng hạn, tôi nhớ đã mặc cả với Chúa (khi tôi khoảng 9 tuổi) rằng nếu Người có thể làm cho trời không mưa vào tối thứ Bảy, ngày diễn ra buổi biểu diễn tại nhà hát và buổi liên hoan ca nhạc mà tôi cực kỳ yêu thích thì tôi hứa sẽ không bao giờ hút thuốc. Đúng là trời không mưa và tôi cũng không bao giờ hút thuốc. Trước đó, khi tôi mới năm tuổi, cha mẹ tôi đã quyết định cho tôi và người anh cả tham gia dàn đồng ca tại nhà thờ Giáo hội Tân giáo trong vùng. Cha mẹ tôi nói rõ với tôi rằng đây là cơ hội rất tốt để học nhạc nhưng cũng nói thêm rằng, chúng tôi không nên quá coi trọng việc học giáo lý. Tôi tuân theo những chỉ dẫn đó và học những điều tuyệt vời ở sự hòa âm, đối âm trong âm nhạc nhưng để ngoài tai những khái niệm thần học mà các vị mục sư truyền giảng.
Khi lên mười, tôi chuyển vào thành phố sống cùng người bà ngoại hay đau yếu và theo học tại các trường công. Mười bốn tuổi, tôi tròn xoe mắt ngạc nhiên trước những phương pháp khoa học thú vị và có sức hấp dẫn tuyệt vời. Thầy dạy hóa của tôi có biệt tài xuất chúng. Ông có thể viết cùng một thông tin lên bảng bằng cả hai tay. Được ông khích lệ, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy thỏa mãn vô cùng khi khám phá ra bản chất có trật tự của vũ trụ. Cái thực tế là toàn bộ vật chất được tạo thành từ các nguyên tử và phân tử tuân theo những nguyên tắc toán học là một phát hiện bất ngờ và việc có thể sử dụng những công cụ của khoa học để khám phá những điều mới mẻ về tự nhiên đã chinh phục tôi ngay lập tức vì tôi muốn trở thành một phần của nó. Hứng khởi trước biến chuyển mới, tôi quyết định mục đích theo đuổi suốt cuộc đời tôi chính là trở thành một nhà hóa học. Bất kể việc tôi chưa am hiểu mấy về những khoa học khác, thì dường như niềm say mê con trẻ đó đã thay đổi cả cuộc đời tôi.
Ngược lại, những cuộc đọ sức với môn sinh học khiến tôi cảm thấy hoàn toàn chán nản. Ít nhất, cái đầu non trẻ của tôi đã coi nhập môn sinh học dường như chẳng có gì ngoài việc học thuộc lòng những dữ kiện ngớ ngẩn chứ không phải là làm sáng tỏ các nguyên tắc. Tôi hoàn toàn không thấy hứng thú gì trong việc ghi nhớ những bộ phận của con tôm đồng, cũng không hề muốn cố gắng hình dung ra sự khác biệt giữa ngành, lớp hay chi, họ. Cái cuộc sống phức tạp bội phần đó đã khiến tôi đi tới kết luận rằng sinh học cũng khá giống với Thuyết Hiện sinh: đơn thuần là tôi chẳng hiểu gì về nó cả. Đối với cái trí não có xu hướng đơn giản hóa và đang phát triển của tôi, những thứ này gần như không đủ tính logic để có thể hấp dẫn tôi. Mười sáu tuổi, tôi tốt nghiệp cấp ba rồi vào trường Đại học Virginia, quyết tâm theo ngành hóa và theo đuổi sự nghiệp khoa học. Cũng giống như hầu hết các sinh viên đại học khác, tôi thấy rất hứng thú với môi trường học tập mới mẻ này. Biết bao nhiêu ý tưởng được đem ra tranh luận trong lớp học cũng như trong các căn phòng ở ký túc xá tới tận đêm khuya. Một vài câu hỏi luôn xoay quanh vấn đề sự tồn tại của Chúa. Khi còn niên thiếu, đã đôi lần tôi trải nghiệm niềm mong mỏi một thứ gì đó ngoài bản thân mình, gắn với vẻ đẹp của tự nhiên hay một trải nghiệm âm nhạc cực kỳ tuyệt vời nào đó. Tuy nhiên, cảm nhận của tôi về tâm linh rất kém và dễ dàng bị lung lay trước một hay vài sinh viên vô thần hung hăng có thể gặp ở bất cứ ký túc xá nào của trường đại học. Sau vài tháng học hành, tôi tin chắc rằng mặc dù những niềm tin tôn giáo đã khuyến khích những truyền thống nghệ thuật và văn hóa thú vị ra đời nhưng chúng không hề có nền tảng thực sự nào.
MẶC DÙ VÀO THỜI ĐIỂM ĐÓ, tôi không hiểu gì về ý nghĩa của từ “bất khả tri” do nhà khoa học thế kỷ XIX là T.H. Huxley đưa ra để chỉ một người hoàn toàn không biết liệu Chúa có tồn tại hay không. Có đủ loại người bất khả tri, một số người đến được với quan điểm này sau khi đã tiến hành phân tích hết sức nghiêm túc rất nhiều bằng chứng, trong khi nhiều người khác chỉ đơn thuần coi đây là một lập trường khá dễ chịu, cho phép họ tránh nghĩ về những tranh luận khiến họ cảm thấy không thoải mái. Rõ ràng, tôi thuộc vào loại thứ hai này. Thực ra, lời khẳng định
“Tôi không biết” của tôi rất gần với “Tôi không muốn biết”. Là chàng trai trẻ lớn lên trong một thế giới đầy những cám dỗ, tôi thật dễ dàng lảng tránh việc phải giải thích hành động của mình cho bất kỳ thầy tu hay cha xứ nào. Tôi đã thực hành một mô hình suy nghĩ và hành xử mà nhà văn, học giả C.S. Lewis định nghĩa là “sự cố ý đui mù”.
Sau khi tốt nghiệp, tôi tham dự chương trình đào tạo Tiến sỹ hóa lý tại trường Đại học Yale, theo đuổi sự thông thái của toán học từng cuốn hút tôi ngay từ đầu. Cuộc sống trí thức của tôi ngập chìm trong cơ học lượng tử, các phương trình vi phân bậc hai và các vị anh hùng của tôi lúc bấy giờ là những người khổng lồ trong ngành vật lý học: Albert Einstein, Niels Bohr , Werner Heisenberg và Paul Dirac . Dần dần tôi tin rằng, tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều có thể lý giải được bằng các phương trình và nguyên tắc vật lý. Đọc tiểu sử của Albert Einstein, tôi khám phá ra rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, mặc dù là người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái mạnh mẽ nhưng ông cũng không tin vào Yahweh - vị thần của người Do Thái. Điều này chỉ củng cố thêm kết luận của tôi là không một nhà khoa học duy lý nào có thể cho phép mình nghĩ về khả năng có Chúa tồn tại mà không đoạn tuyệt với con đường tri thức nào đó.
Và vì vậy, dần dần, từ một người “bất khả tri” tôi trở thành một kẻ vô thần. Tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong việc thách thức những niềm tin tâm linh của bất kỳ ai đề cập đến chúng trước mặt tôi, coi những cách nhìn nhận như vậy là quá duy cảm và là sự mê tín lỗi thời.
Trong hai năm theo học chương trình đào tạo tiến sỹ này, kế hoạch được hoạch định một cách chặt chẽ của tôi bắt đầu tan rã. Mặc dù tôi vẫn tìm thấy niềm vui trong công việc nghiên cứu làm luận án về lý thuyết cơ học lượng tử nhưng tôi bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, liệu đó có phải là con đường tôi theo đuổi cả cuộc đời hay không. Dường như hầu hết những tiến bộ lớn trong lý thuyết lượng tử đã diễn ra từ trước đó 50 năm và hầu hết sự nghiệp của tôi như thể chỉ dành vào việc áp dụng các phép tính xấp xỉ hay kế thừa các phương pháp đơn giản hóa để làm cho những phương trình hấp dẫn nhưng hóc búa trở nên dễ giải quyết hơn. Nói một cách thực tế hơn, dường như con đường tôi đã chọn không có gì khác ngoài việc dẫn tôi tới cuộc đời của một giáo sư suốt ngày đi hết lớp nọ đến lớp kia để truyền đạt những bài giảng, nhiều đến mức gây nhàm chán cho các sinh viên, có thể khiến các em hoặc cảm thấy buồn tẻ hoặc kinh hãi về những chủ đề đó.
Cùng thời gian đó, để mở rộng phạm vi hiểu biết của mình, tôi đăng ký một khóa học về hóa sinh chỉ để đến cuối cùng mới khám phá ra rằng đó là ngành học tôi đã rất cẩn thận né tránh trong quá khứ. Khóa học khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Những nguyên tố cấu tạo nên ADN, ARN và protein, trước đây tôi chưa từng sáng tỏ, giờ đây trở nên quá rõ ràng dưới hào quang của các con số. Khả năng áp dụng các nguyên lý tri thức đòi hỏi sự chính xác cao để hiểu về sinh vật học, điều trước đó tôi cho là không thể, đã hiển hiện cùng với việc khám phá ra mã di truyền. Sự ra đời của những phương pháp mới trong việc ghép các đoạn ADN khác nhau (tái tổ hợp ADN), khả năng áp dụng tất cả những tri thức này để phục vụ cho lợi ích của loài người dường như là hoàn toàn thực tế. Tôi thực sự bị sốc. Cuối cùng sinh học cũng có sức hấp dẫn của các con số.
Cuộc sống thật có ý nghĩa.
Vào thời ấy, một chàng trai tầm hăm hai tuổi có thể đã lập gia đình, có một cô con gái xinh xắn, hay tò mò, còn tôi lại giao lưu nhiều với xã hội. Thậm chí trước đó tôi còn thích sống độc thân hơn. Lúc bấy giờ, sự giao tiếp với mọi người cũng như nhu cầu được cống hiến một cái gì đó cho nhân loại dường như quan trọng hơn cả. Xếp tất cả những phát hiện bất ngờ này vào với nhau, tôi đặt câu hỏi về mọi thứ liên quan tới những lựa chọn trước đây của mình bao gồm cả việc liệu tôi có thực sự phù hợp với công việc khoa học hay thực hiện nghiên cứu độc lập hay không. Mặc dù sắp sửa hoàn thành chương trình tiến sỹ, nhưng sau rất nhiều lần tự vấn bản thân, tôi đã nộp hồ sơ xin học trường Đại học Y. Tôi cố gắng thuyết phục hội đồng tuyển sinh bằng một bài phát biểu được chuẩn bị kỹ càng từ trước, rằng bước chuyển này thực sự là một con đường tự nhiên để đào tạo một bác sỹ tương lai của quốc gia. Nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn chưa thực sự chắc chắn. Rốt cuộc, chẳng phải tôi chính là cái gã đã từng ghét môn sinh học vì phải ghi nhớ nhiều hay sao? Liệu có môn học nào đòi hỏi phải nhớ nhiều hơn là y khoa không? Nhưng, giờ đây đã có sự thay đổi: y học là để phục vụ cho con người chứ không phải những con tôm đồng; có những nguyên tắc chi phối các thực tế và cuối cùng, y học có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của những con người thực sự.
Tôi đã được nhận vào trường Đại học Bắc Carolina. Chỉ sau vài tuần, tôi đã biết trường Y đúng là nơi dành cho tôi. Tôi yêu sự kích thích trí tuệ, những thách thức về đạo đức, chủng tộc và sự phức tạp tới mức đáng kinh ngạc của cơ thể con người. Vào tháng 12 của năm học đầu tiên đó, tôi đã tìm ra được cách làm thế nào để kết hợp tình yêu mới dành cho lĩnh vực y học với tình yêu cố hữu dành cho toán học. Một bác sỹ nhi khoa giản dị và có vẻ khó gần đã giảng cho chúng tôi, những sinh viên năm thứ nhất, tổng cộng sáu giờ về di truyền học y khoa đồng thời chỉ cho tôi thấy tương lai của mình. Ông mang tới lớp học các bệnh nhân, những người bị bệnh thiếu máu do hồng cầu lưỡi liềm, bệnh galactose-huyết và hội chứng Down . Tất cả các căn bệnh trên là do một trục trặc nhỏ trong hệ gen gây ra, cái gì đó tinh tế như thể một chữ cái riêng rẽ bị viết xiên xẹo.
Tôi đã rất kinh ngạc trước sự hấp dẫn của mã ADN của loài người và những hậu quả phức tạp có thể gây ra do những khoảnh khắc trục trặc hiếm hoi xảy ra trong cơ chế sao chép của nó. Mặc dù, khả năng giúp những người bị nhiễm các căn bệnh do di truyền gây ra dường như còn rất xa vời nhưng ngay lập tức tôi đã bị cuốn vào lĩnh vực này. Vào thời điểm đó, chưa hề có bóng dáng nào của khả năng thực hiện bất kỳ điều gì to tát, lớn lao và quan trọng như Dự án Giải mã Gen người nhưng con đường tôi chọn vào tháng 12 năm 1973 tình cờ lại trực tiếp dẫn tôi tới việc tham gia vào một trong số những sứ mạng quan trọng nhất trong lịch sử loài người.
Con đường này cũng dẫn tôi tới những trải nghiệm sâu sắc liên quan đến việc chăm sóc các bệnh nhân hồi học năm thứ ba ở trường Y. Là những bác sỹ tập sự, các sinh viên Y khoa buộc phải gần gũi với các bệnh nhân, những người hoàn toàn xa lạ với chúng tôi trước khi họ đau ốm. Những kiêng kỵ do truyền thống văn hóa vốn thường cản trở việc trao đổi các thông tin hoàn toàn riêng tư đã nhanh chóng thay đổi cùng với sự gần gũi, chăm sóc hàng ngày của bác sỹ với bệnh nhân. Tất cả những điều đó là một phần của cái thỏa thuận đã tồn tại lâu dài và thiêng liêng giữa bệnh nhân với thầy thuốc. Tôi thấy đa phần là có sự nảy sinh tình cảm trong những người bệnh ốm yếu, sắp chết và đã cố gắng duy trì khoảng cách nghề nghiệp cũng như ít dính líu tới tình cảm - điều mà rất nhiều thầy cô giáo của tôi ủng hộ.
Gây ấn tượng mạnh mẽ nhất với tôi trong những câu chuyện phiếm với những người dân Bắc Carolina tốt bụng này là khía cạnh tâm linh mà nhiều người trong số họ đang trải nghiệm. Tôi đã chứng kiến rất nhiều trường hợp của những người mà đức tin đã trao cho họ sự đảm bảo mạnh mẽ về nền tảng bình an tới cùng, dù cho họ sống trong thế giới này hay thế giới bên kia, dù cho họ đang phải gánh chịu những nỗi đau khủng khiếp mà đa phần họ đều không đáng phải chịu.
Tôi kết luận, nếu như đức tin là một cái nạng, hẳn nó phải là một cái nạng cực kỳ vững chắc. Nếu đức tin chẳng qua chỉ là lớp vỏ bọc trang trí của truyền thống văn hóa, thì tại sao những con người vô tội này lại không giơ nắm đấm vào Chúa và đề nghị bạn hữu hay gia đình của họ chấm dứt chuyện nói mãi về một đấng siêu nhiên bao dung và đầy yêu thương?
Khoảnh khắc khiến tôi bối rối nhất là khi một cụ già hàng ngày đang phải chịu đựng căn bệnh viêm họng kinh niên hỏi tôi rằng tôi tin vào điều gì. Đó là một câu hỏi thẳng thắn và chúng tôi đã thảo luận rất nhiều điều quan trọng khác liên quan tới sự sống và cái chết. Bà cụ đã chia sẻ đức tin Cơ đốc giáo mãnh liệt với tôi. Tôi cảm thấy khuôn mặt mình đỏ ửng khi tôi lắp bắp vài từ “Cháu không chắc chắn lắm”. Sự ngạc nhiên hiện rõ trên khuôn mặt bà đã khiến tôi nhận ra điều tôi đã trốn chạy gần như suốt 26 năm trời: chưa bao giờ tôi suy nghĩ nghiêm túc về những bằng chứng để ủng hộ hay chống lại đức tin.
Khoảnh khắc đó đã ám ảnh tôi suốt nhiều ngày. Phải chăng tôi đã không còn coi bản thân mình là một nhà khoa học nữa? Một nhà khoa học có bao giờ rút ra kết luận mà không xem xét các dữ liệu? Liệu có thể có câu hỏi nào khác quan trọng hơn liên quan tới sự tồn tại của con người ngoài câu hỏi “Chúa có tồn tại không?”. Thế rồi lúc đó, tôi nhận ra bản thân mình, sự đui mù cố ý và dường như cả sự kiêu ngạo đã khiến tôi né tránh suy nghĩ nghiêm túc về việc liệu Chúa có tồn tại không. Bất chợt, tất cả những lý lẽ của tôi trở nên vô cùng mong manh và tôi có cảm giác rằng tảng băng dưới chân đang vỡ vụn.
Nhận ra điều này thực sự là một trải nghiệm khủng khiếp đối với tôi. Rốt cuộc, nếu không thể dựa vào quan điểm vô thần mạnh mẽ của mình, liệu tôi có phải chịu trách nhiệm cho những hành động do tôi không muốn kiểm nghiệm kỹ lưỡng hay không? Liệu tôi có phải giải thích cho một người nào đó về hành động của mình ngoài chính bản thân tôi hay không? Câu hỏi lúc này trở nên quá bức thiết đến mức không thể né tránh.
Lúc đầu, tôi rất tin tưởng rằng một cuộc điều tra kỹ lưỡng, trọn vẹn, có cơ sở lập luận về tôn giáo có thể bác bỏ những điểm tích cực và xứng đáng được ca tụng của đức tin, đồng thời củng cố sự vô thần của mình. Nhưng tôi đã quyết định phải nhìn vào thực tế bất kể kết quả ra sao. Vì vậy, tôi bắt đầu thực hiện một cuộc khảo sát chóng vánh và khá phức tạp về những tôn giáo chính trên thế giới. Rất nhiều thứ tìm được trong các bản ghi chép vắn tắt về các tôn giáo khác nhau (tôi thấy những cuốn Thánh Kinh thật sự còn khó hơn nhiều) khiến tôi hoàn toàn lẫn lộn và không đủ cơ sở để đưa ra kết luận cụ thể là điều này hay điều kia trong số rất nhiều khả năng như vậy. Tôi nghi ngờ liệu có bất kỳ cơ sở lập luận nào về niềm tin tâm linh củng cố cho những đức tin này hay không. Tuy nhiên, điều đó đã sớm thay đổi. Tôi tới gặp một vị mục sư Hội Giám lý sống ở cuối phố để hỏi ông liệu tôn giáo có ý nghĩa logic nào không? Ông kiên nhẫn lắng nghe những bối rối, thắc mắc (có thể còn hồ đồ) của tôi, sau đó lấy một cuốn sách từ trên giá xuống và bảo tôi hãy đọc nó.
Cuốn sách đó có tên Thiên chúa giáo đơn thuần (Mere Christianity) của C.S. Lewis. Mấy ngày sau, khi lật giở những trang sách này và cố gắng cảm nhận cả chiều rộng lẫn chiều sâu những lập luận vô cùng trí tuệ của vị học giả trường Oxford lừng lẫy, tôi nhận ra rằng, tất cả những tư tưởng, niềm tin chắp vá của tôi nhằm phản bác sự đáng tin cậy của đức tin chỉ là của một cậu học trò. Rõ ràng, tôi cần phải bắt đầu suy nghĩ không định kiến để xem xét câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả những câu hỏi lớn của nhân loại. Dường như Lewis biết được tất cả những ngờ vực của tôi, thậm chí đôi lúc còn trước cả khi tôi có thể diễn tả chúng chính xác. Ông luôn giải đáp những băn khoăn đó trong một hoặc hai trang. Sau đó, tôi biết được rằng, bản thân Lewis cũng từng là một người vô thần, đã từng phản đối tôn giáo bằng những lập luận logic và tôi hiểu ra làm thế nào ông có thể thấu hiểu tường tận về con đường của tôi như vậy, bởi đó cũng chính là con đường ông đã đi qua.
Lập luận thu hút sự chú ý của tôi nhiều nhất và đã làm lung lay tới tận gốc rễ những quan niệm của tôi về khoa học và tâm linh xuất hiện ngay trong tiêu đề ở Tập I của cuốn sách Đúng và Sai, dấu hiệu cho ý nghĩa của Vũ trụ (Right and Wrong as a Clue to the Meaning of the Universe).
Trong khi, Lewis mô tả bằng nhiều cách khác nhau về Luật Đạo đức, một đặc điểm quen thuộc trong sự tồn tại của loài người thì mặt khác nó lại khiến tôi có cảm giác như thể đó là lần đầu tiên tôi nhận chân được nó.
Để hiểu về Luật Đạo đức, chúng ta nên xem xét, giống như Lewis đã làm, việc người ta đã bằng hàng trăm cách khác nhau mỗi ngày viện dẫn nó như thế nào. Trong đó, người viện dẫn không ngừng chỉ ra nền tảng cho lập luận của mình. Tranh cãi là một phần của cuộc sống hàng ngày.
Có những tranh cãi rất đời thường, chẳng hạn như một người vợ phê bình chồng mình vì đã thiếu lịch sự với một người bạn, hoặc một đứa trẻ phàn nàn rằng: “Thật bất công” khi trong tiệc sinh nhật, phần kem chia cho mọi người không đều nhau. Có những tranh cãi khác có tầm quan trọng lớn hơn. Chẳng hạn, trong các vấn đề quốc tế, một số người tranh luận rằng nước Mỹ có nghĩa vụ đạo đức là truyền bá dân chủ cho toàn thế giới, thậm chí cả khi việc đó đòi hỏi phải sử dụng sức mạnh quân sự trong khi những người khác lại nói rằng, việc sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự hiếu chiến và đơn phương có thể khiến sức mạnh đạo đức trở nên vô nghĩa.
Trong lĩnh vực y học, hiện cũng có những cuộc tranh cãi nảy lửa xung quanh câu hỏi liệu có nên chấp nhận việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai không. Một số người lập luận rằng những nghiên cứu như vậy vi phạm sự thiêng liêng của cuộc sống con người trong khi những người khác lại tán thành và cho rằng, sức mạnh đạo đức của điều này nằm ở chỗ nó có khả năng hạn chế những nỗi khổ đau mà con người phải gánh chịu. (Nội dung này và một số tình huống khó xử khác trong đạo đức ngành y được thảo luận trong phần Phụ lục của cuốn sách này).
Hãy lưu ý là, trong tất cả các trường hợp trên, dù không nói ra nhưng mỗi bên đều cố gắng viện dẫn tới một chuẩn mực cao hơn. Chuẩn mực này chính là Luật Đạo đức, cũng có thể gọi là “Luật hành xử đúng đắn” và sự tồn tại của nó trong những tình huống như thế này dường như không cần phải bàn. Điều cần thảo luận ở đây là hành động này hay hành động kia gần hơn với những đòi hỏi của luật đó. Những người bị phê bình là không cư xử đúng đắn như mong đợi, chẳng hạn như một người chồng bị chê trách là không đủ lịch thiệp với bạn của vợ, thường đáp lại bằng rất nhiều lời bào chữa tại sao mọi người nên thông cảm với cách xử sự của họ. Gần như không bao giờ người chồng đó nói rằng: “Quỷ tha ma bắt cái quan niệm cư xử đúng đắn của em đi”.
Điều chúng ta bàn ở đây rất khác biệt: khái niệm về đúng và sai có vẻ như rất quen thuộc với tất cả mọi người (mặc dù việc thực hiện chúng có thể dẫn tới những kết quả hoàn toàn khác nhau).
Vì vậy, dường như là một việc làm kỳ lạ khi bàn về tính đúng, sai của một luật như định luật hấp dẫn hay thuyết tương đối. Tuy nhiên, thành thực mà nói, trong hoàn cảnh này, Luật Đạo đức là một luật thường xuyên bị phá vỡ đến mức đáng kinh ngạc.
Cá nhân tôi cho rằng luật này áp dụng riêng cho loài người. Mặc dù khía cạnh đạo đức cũng mơ hồ thể hiện ở những loài vật khác nhưng chắc chắn là không phổ biến và trong rất nhiều trường hợp, hành vi của các loài vật dường như còn có sự đối nghịch rất lớn với bất kỳ quan niệm thông thường nào về tính đúng đắn. Chính nhận thức về đúng và sai, cùng với sự phát triển ngôn ngữ, ý thức về bản thân và khả năng tưởng tượng ra tương lai thường được các nhà khoa học đề cập tới khi liệt kê những phẩm chất đặc biệt của người tinh khôn Homo sapiens.
Nhưng liệu cảm nhận về đúng và sai có phải là đặc tính vốn có của một con người hay chỉ là hệ quả của truyền thống văn hoá? Một số người lập luận rằng, mỗi nền văn hóa có những chuẩn mực hành xử riêng rất khác nhau và bất kỳ kết luận nào cho rằng có một Luật Đạo đức chung đều không có cơ sở. Lewis, một học giả say mê nghiên cứu rất nhiều nền văn hóa khác nhau đã gọi đây là “một lời nói dối, một lời nói dối nghe rất hợp lý, nếu một người vào thư viện, dành vài ngày nghiên cứu cuốn Bách khoa toàn thư về Tôn giáo và Đạo đức học (Encyclopedia of Religion and Ethics), có thể phát hiện thấy ngay tính thống nhất lớn trong thực tiễn hành xử này ở con người. Từ bài Thánh ca Babylon (Babylonian Hymn) tới Samos, từ các luật của Manu (Laws of Manu ), Cuốn sách về Những người đã khuất (the Book of the Dead), từ Luận ngữ (The
Analects) của Khổng tử, Chủ nghĩa Khắc kỷ (The Stoics) , Những người theo triết học Plato (the Platonists) , những thổ dân Australia và thổ dân da đỏ , người ta đều có thể tìm được những nội dung giống nhau lên án sự đàn áp, bóc lột, giết chóc, phản bội, dối lừa và những điều răn dạy con người phải đối xử tốt với người già, trẻ con, với người nghèo, phải biết giúp đỡ, cưu mang người khác và phải sống trung thực”. Trong một số nền văn hóa, luật này còn thể hiện ở việc người ta làm những hình nộm rất thú vị rồi đem đốt chúng - chẳng hạn như việc đốt hình nộm phù thuỷ ở nước Mỹ thế kỷ XVII. Tuy nhiên, những khảo sát gần cho thấy các hiện tượng này có xu hướng tăng mạnh nhưng người ta lại đưa ra những kết luận sai về việc ai, cái gì là đúng đắn hay sai trái. Nếu bạn thực sự tin rằng, phù thuỷ là hiện thân của tội lỗi trên Trái Đất này, là tôi tớ của ác quỷ thì liệu việc thực hiện chính những hành động như vậy có phải là đúng đắn không?
Tôi muốn dừng lại ở đây và nêu ra cho các bạn thấy rằng cái kết luận có tồn tại Luật Đạo đức đang xung đột dữ dội với triết học hậu hiện đại vốn lập luận rằng không có gì là đúng hay sai hoàn toàn và tất cả những quyết định mang tính đạo đức chỉ là tương đối. Quan điểm này dường như đã lan rộng trong các nhà triết học hiện đại nhưng lại là điều khiến cho hầu hết công chúng cảm thấy không rõ ràng và phải đối mặt với hàng loạt những tình huống nước đôi . Đúng vậy, nếu không có cái gì là đúng hay sai thì ngay từ đầu, chúng ta đã chẳng có lý do gì để tranh luận về các nguyên tắc đạo đức.
Một số người sẽ phản bác và nói rằng, Luật Đạo đức đơn thuần chỉ là kết quả của sức ép tiến hóa. Những lời phản bác này xuất phát từ một lĩnh vực mới đó là sinh học xã hội và những cố gắng nhằm đưa ra lời giải thích về hành vi vị tha trên cơ sở giá trị tích cực của nó trong quá trình chọn lọc mà học thuyết Darwin nêu ra. Nếu lập luận này đứng vững thì cách hiểu về rất nhiều điều cơ bản của Luật Đạo đức như là tín hiệu của Chúa có khả năng sẽ gặp khó khăn - vì vậy, chúng ta hãy nên xem xét kỹ lưỡng hơn một chút về quan điểm này.
Hãy xem xét một ví dụ điển hình về sức mạnh mà chúng ta cảm nhận được từ Luật Đạo đức - sự thôi thúc của lòng vị tha, tiếng nói của lương tâm kêu gọi chúng ta phải giúp đỡ người khác ngay cả khi không được trả ơn. Tất nhiên, không phải tất cả những gì thuộc Luật Đạo đức đều được quy về lòng vị tha. Chẳng hạn, một người có thể cảm thấy cắn rứt lương tâm sau khi khai gian một chút thông tin trên tờ khai hoàn thuế, khó có thể quy kết việc làm này đã gây tổn hại cho một cá nhân khác.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ những gì đang bàn. Khi nói đến lòng vị tha, tôi không có ý nói tới sự bao dung theo kiểu hành động “Anh đấm lưng cho tôi và tôi sẽ đấm lưng cho anh” nghĩa là bao dung với người khác để mong đợi họ đáp trả. Vị tha có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đó là sự trao tặng không vụ lợi của một người dành cho người khác mà không hề có động cơ vị kỷ. Khi chứng kiến kiểu tình yêu thương và lòng độ lượng đó, chúng ta có cảm giác tôn trọng và ngưỡng mộ. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Oskar Schindler đã đặt vận mệnh của mình ngàn cân treo sợi tóc bằng việc giúp đỡ hàng ngàn người Do Thái thoát khỏi họa diệt chủng của Đức Quốc xã và cuối cùng đã chết không một xu dính túi. Hành động của ông thật khiến chúng ta phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Mẹ Teresa luôn được công nhận là người đáng kính nhất trong thời đại hiện nay, mặc dù việc chấp nhận nghèo túng và sự giúp đỡ không chút vị kỷ của bà đối với những người bệnh đang hấp hối tại Calcutta trái ngược hoàn toàn với lối sống thực dụng đang lan tràn trong xã hội ngày nay.
Thậm chí trong một số trường hợp, lòng vị tha có thể lớn tới mức đem lại ích lợi cho cả những kẻ thù dường như không đội trời chung. Sơ Joan Chittister, một nữ tu sỹ dòng thánh Benedictine, kể cho chúng ta nghe câu chuyện cô hồn dưới đây:
Ngày xưa, có một cụ già thường ngồi thiền bên bờ sông Hằng. Một buổi sáng, sau khi ngồi thiền xong, bà nhìn thấy một con bọ cạp đang trôi bập bềnh vô vọng theo dòng nước. Khi con bọ cạp bị sóng đánh lại gần hơn, nó bị mắc kẹt vào chiếc rễ cây tỏa rộng trên mặt nước. Con bọ cạp vật lộn điên cuồng để tự giải thoát nhưng càng cố gắng nó càng kẹt sâu vào bẫy. Ngay lập tức, bà lão đi tới chỗ con bọ cạp đang gần chết đuối nhưng khi vừa chạm vào người nó, bà đã bị nó cắn. Bà cụ già rụt tay nhưng, sau khi bình tĩnh lại, bà cố gắng cứu sống con bọ cạp một lần nữa. Nhưng, mỗi lần cố gắng, thêm một lần bà bị bọ cạp cắn đến nỗi bàn tay ứa máu và khuôn mặt méo xệch đi vì đau. Một người đi đường nhìn thấy bà cụ đang vật lộn với con bọ cạp đã hét lên; “Bà có làm sao không thế, bà cụ ngốc nghếch kia? Bà có muốn chết vì cứu con vật xấu xí kia không?”. Nhìn vào đôi mắt của người lạ, bà đáp: “Vì bản tính của con bọ cạp là cắn, vậy tại sao tôi lại chối bỏ bản tính của mình là cứu lấy nó?”.
Đây là một ví dụ khá ấn tượng - không nhiều người trong số chúng ta có thể đặt mình vào tình huống nguy hiểm như vậy để cứu sống một con bọ cạp. Nhưng chắc chắn là hầu hết tất cả chúng ta ở một thời điểm nào đó đều từng cảm thấy tiếng thúc gọi bên trong là hãy giúp đỡ một người lạ đang gặp khó khăn, thậm chí cả khi bản thân mình chẳng được lợi lộc gì. Và nếu chúng ta đã từng thực sự hành động như vậy thì cái chúng ta nhận lại thường là một cảm giác vô cùng ấm áp vì “đã làm được một điều gì đó đúng đắn”.
Trong cuốn sách Bốn loại tình yêu (The Four Loves), C.S.Lewis đã khám phá sâu hơn bản chất của thứ tình yêu vị tha, cái ông gọi là “agape” (đánh vần là ah-Gah-pay) theo tiếng Hy Lạp. Ông đã chỉ ra rằng có thể phân biệt kiểu tình yêu này với ba kiểu tình yêu khác (đó là sự cảm mến, tình bạn và tình yêu lãng mạn). Có thể dễ dàng hiểu ba loại tình yêu này hơn trong khía cạnh lợi ích đôi bên và chúng ta có thể thấy nó cũng thể hiện ở các loài vật khác ngoài loài người chúng ta.
Agape hay lòng vị tha tạo ra một thách thức lớn cho những người theo trường phái tiến hóa. Đây thực sự là một vụ xì-căng-đan đối với những người theo trường phái giản hóa luận . Chúng ta không thể đổ tội cho những gen ích kỷ cá nhân cứ duy trì mãi. Hoàn toàn ngược lại: vị tha có thể khiến con người có những hành động hy sinh bất chấp khổ đau, tổn thương hay thậm chí cả cái chết mà không hề mong đợi được đền đáp. Và vì vậy, nếu chú tâm lắng nghe tiếng nói nội tâm mà đôi khi chúng ta gọi là lương tâm ấy, chúng ta sẽ thấy trong mỗi con người đều tồn tại sự thôi thúc sẻ chia tình yêu thương, dù cho chúng ta có thường xuyên cố gắng phớt lờ nó.
Các nhà xã hội học, chẳng hạn như E.O.Wilson , đã cố gắng lý giải hành vi này của người theo chủ nghĩa vị tha trên khía cạnh một số lợi ích gián tiếp được tạo ra khi thực hiện hành vi vị tha, nhưng những lý lẽ tranh luận nhanh chóng để lộ sơ hở. Lập luận thứ nhất là hành vi vị tha lặp đi lặp lại đó của một cá nhân được thừa nhận như là một đóng góp tích cực trong việc lựa chọn bạn đời. Nhưng giả thuyết này xung đột trực tiếp với những quan sát thấy được từ những loài linh trưởng không phải là loài người trong đó thường chứng tỏ điều ngược lại. Chẳng hạn, một con khỉ đực mới có vị trí thống lĩnh thường giết chết các con khỉ con khác để dọn đường cho tương lai của những con khỉ do nó sinh ra. Lập luận thứ hai là những lợi ích tương hỗ gián tiếp từ sự vị tha đem lại lợi ích cho những ai thực thi nó trong suốt khoảng thời gian tiến hóa. Nhưng cách giải thích này không thể lý giải cho động cơ thực hiện những hành động nhỏ theo lương tâm của con người mà không cần ai biết tới. Lập luận thứ ba là hành vi vị tha của các thành viên trong nhóm đem lại lợi ích cho cả nhóm. Có thể xem xét ví dụ về loài kiến cánh, trong đó, kiến thợ làm việc không ngừng nhằm tạo lập một môi trường giúp kiến mẹ có thể đẻ nhiều con hơn. Nhưng “sự vị tha kiểu kiến” này đã được lý giải bằng các thuật ngữ tiến hóa dựa trên dữ kiện là những gen thúc đẩy kiến thợ làm việc giống hệt với những gen di truyền từ kiến mẹ của chúng cho những người anh em mà những kiến thợ này đang giúp kiến tạo. Mối liên hệ ADN trực tiếp một cách bất thường này không áp dụng cho những loài phức tạp hơn, những loài mà hầu hết các nhà tiến hóa luận hiện nay đều nhất trí rằng sự sàng lọc vận hành trên cơ sở cá nhân chứ không phải trên cơ sở mật độ. Và vì vậy, cái hành vi mang tính bản năng của những chú kiến thợ cơ bản là khác với thứ tiếng nói bên trong khiến tôi cảm thấy mình bắt buộc phải nhảy xuống sông để vớt một người lạ sắp chết đuối, thậm chí cả khi tôi không phải là người giỏi bơi và có thể chết vì cố gắng ấy. Hơn thế nữa, đối với lập luận tiến hóa đề cập tới những ích lợi của sự vị tha nhóm, dường như, nó đòi hỏi chúng ta phải có một phản ứng đối ngược gọi là sự thù địch đối với các cá nhân bên ngoài nhóm. Sự vị tha của Oskar Schindler và mẹ Teresa chứng tỏ cách suy nghĩ này là sai. Thật đáng ngạc nhiên là Luật Đạo đức sẽ yêu cầu tôi phải nhảy xuống cứu một người đàn ông sắp chết đuối thậm chí cả khi anh ta là kẻ thù của tôi.
Nếu như chúng ta không thể lý giải rằng Luật về Bản chất loài người này là sản phẩm của văn hóa hay sản phẩm phụ của tiến hóa thì làm thế nào chúng ta có thể lý giải sự có mặt của nó?
Thực sự là có điều gì đó bất thường đang diễn ra ở đây. Theo Lewis, “Nếu như có một sức mạnh giữ vai trò chi phối nào đó đang nằm ngoài vũ trụ, chúng ta sẽ không thấy nó là một trong những nhân tố nằm bên trong vũ trụ này, cũng giống như vị kiến trúc sư của một ngôi nhà không thể nào lại chính là bức tường, cầu thang hay lò sưởi trong ngôi nhà mà người đó thiết kế ra. Cách duy nhất chúng ta có thể kỳ vọng thấy nó chính là ở bên trong bản thân mỗi chúng ta thông qua ảnh hưởng nó tạo ra hay một mệnh lệnh yêu cầu chúng ta phải cư xử theo một cách nhất định nào đó. Đó là những gì chúng ta chỉ thực sự tìm thấy bên trong bản thân mình. Chắc chắn, điều này phải khiến chúng ta nghi ngờ?”.
Đối diện với những lập luận này ở độ tuổi 26, tôi đã rất ấn tượng với logic của nó. Nó ẩn giấu ở đây, trong chính trái tim tôi, thân thuộc như bất kỳ điều gì mà hàng ngày tôi vẫn trải nghiệm. Nhưng giờ đây, lần đầu tiên Luật Đạo đức hiện lên như một nguyên tắc đang được làm sáng tỏ, nó đã chiếu nguồn sáng làm bừng tỏ tận sâu thẳm chủ nghĩa vô thần ngây ngô của tôi, buộc tôi phải có sự cân nhắc nghiêm túc về nguồn gốc của nó. Liệu có phải Đức Chúa đang ngoái lại nhìn tôi hay không?
Và nếu điều đó là đúng thì Đức Chúa này là ai? Liệu có phải là một vị Chúa thần luận, người sáng tạo nên vật lý học, toán học và khởi nguồn cho sự vận hành của vũ trụ từ 14 tỷ năm trước, rồi sau đó chuyển sang giải quyết những vấn đề khác, quan trọng hơn như Einstein nghĩ hay không? Không, vị Chúa này, theo những gì tôi cảm nhận, phải là một Chúa hữu thần, Người muốn có một kiểu quan hệ nào đó với những tạo vật đặc biệt được gọi là loài người và vì vậy đã truyền trải nghiệm ngắn ngủi đặc biệt này để chúng ta hiểu về Người. Đây có thể là Chúa Abraham chứ chắc chắn không phải là Chúa mà Einstein đề cập.
Có một hệ quả khác đối với cảm nhận về bản chất của Chúa đang lớn dần trong tôi nếu Người thực sự tồn tại. Căn cứ vào những chuẩn mực cực kỳ cao của Luật Đạo đức, một luật mà phải thú nhận là tôi vẫn thường xuyên vi phạm, thì đây phải là một Đức Chúa linh thiêng và chính trực. Người ắt phải là biểu tượng của cái thiện. Người ắt phải ghét cái ác. Và không có lý do gì phải nghi ngờ việc Đức Chúa này sẽ nhân từ hay khoan dung. Nhận thức dần sáng tỏ trong tôi về sự tồn tại có vẻ hợp lý của Chúa đã mang đến những cảm nhận lẫn lộn: thỏa mãn với bề rộng và chiều sâu trong sự tồn tại của một Đấng minh quân như vậy, nhưng lo lắng, buồn bã khi nhận ra những điểm chưa hoàn hảo của chính bản thân khi đối diện với ánh sáng của Người.
Tôi đã bắt đầu cuộc hành trình khám phá đầy tri thức nhằm khẳng định chủ nghĩa vô thần của mình. Giờ đây, nó bị tiêu tan vì lý lẽ của Luật Đạo đức (và rất nhiều nội dung khác), buộc tôi phải chấp nhận sự hợp lý, đáng tin cậy của giả thuyết về khả năng tồn tại Chúa. Thuyết bất khả tri, vốn tưởng đã là một bến đậu an toàn thứ hai, giờ đây có vẻ như một sự thoái thác trách nhiệm to lớn thường thấy. Niềm tin vào Chúa giờ đây dường như hợp lý hơn là hoài nghi.
Một điều cũng trở nên rất rõ ràng với tôi, đó là khoa học, mặc dù có những sức mạnh không cần phải bàn cãi trong việc khám phá những bí ẩn của thế giới tự nhiên nhưng nó cũng không giúp tôi tiến xa hơn trong việc giải quyết câu hỏi về Chúa. Nếu như Chúa tồn tại, thì khi đó, Người hẳn phải ở bên ngoài thế giới tự nhiên và vì vậy, những công cụ của khoa học sẽ không phù hợp để chúng ta tìm hiểu về Người. Thay vào đó, tôi bắt đầu hiểu ra từ khi nhìn vào chính trái tim mình, rằng bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa chắc phải tới từ những chiều hướng khác và quyết định cuối cùng có thể sẽ dựa vào niềm tin chứ không phải vào các bằng chứng. Mặc dù trĩu nặng với những sự không chắc chắn khiến tôi phát bực về việc không hiểu tôi đã đi theo con đường nào, song tôi phải công nhận rằng mình đã đạt tới ngưỡng là chấp nhận khả năng tồn tại thế giới tâm linh trong đó có sự tồn tại của Chúa.
Dường như tôi đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vài năm sau đó, tôi đọc được bài xonê do Sheldon Vanauken viết mô tả chính xác tình thế khó xử của tôi. Bài thơ viết: Giữa những điều có thể đang tồn tại và những gì đã chứng minh được vẫn có một khoảng cách. Sợ phải nhảy qua, chúng ta đứng với dáng điệu ngốc nghếch để rồi nhìn lại đằng sau, một mảnh đất bị lún và còn tồi tệ hơn.
Lập trường chính của chúng ta gãy vụn.
Bình minh tuyệt vọng. Hy vọng duy nhất của chúng ta: lặn ngụp trong Kinh Thánh.
Điều này giúp mở ra vũ trụ đang đóng im lìm.
Đã rất lâu rồi, tôi cứ đứng mãi cạnh miệng của chiếc hố buồn tẻ này. Và cuối cùng, không thấy lối thoát, tôi đã nhảy qua.
Làm sao một nhà khoa học có thể có những niềm tin như thế? Há chẳng phải rất nhiều lời tuyên bố của tôn giáo là không thể so sánh được với câu “Chỉ cho tôi dữ liệu” của những người dành cả đời cho việc nghiên cứu hóa học, vật lý, sinh học và y học hay sao? Bằng việc mở cánh cửa tâm trí cho những khả năng tâm linh, liệu có phải tôi đã khởi đầu một cuộc chiến của những quan điểm có thể sẽ nuốt chửng tôi để cuối cùng đối mặt với chiến thắng không - nhận - lấy - tù - binh của quan điểm này hay quan điểm khác?
2. Cuộc chiến của những quan điểm
NẾU BẠN BẮT ĐẦU ĐỌC CUỐN SÁCH NÀY bằng thái độ của một người theo chủ nghĩa hoài nghi và đã cố gắng đi cùng tôi xa tới tận đây thì chắc chắn trong bạn đã hình thành một loạt phản đối. Tất nhiên, tôi cũng có sự hoài nghi của chính mình: Phải chăng Chúa chỉ là ảo tưởng? Chẳng phải đã có rất nhiều tổn thất gây ra nhân danh Chúa hay sao? Tại sao nào một vị Chúa đầy yêu thương như thế lại để con người phải chịu đau khổ? Làm thế nào một nhà khoa học nghiêm túc lại chấp nhận khả năng có những điều kỳ diệu xảy ra?
Nếu như bạn là người có đức tin, có thể những gì viết trong Chương 1 đã khiến bạn vững lòng đôi chút, nhưng cũng gần như chắc chắn rằng, sẽ có những khía cạnh mà niềm tin mâu thuẫn với những thách thức khác mà bạn phải đối mặt từ chính bản thân mình hay từ những người xung quanh.
Nghi ngờ là một phần tất yếu của đức tin. Paul Tillich đã từng nói: “Nghi ngờ không phải là điều đối lập với đức tin, nó là một phần của đức tin”. Nếu trong trường hợp đức tin vào Chúa là chủ yếu thì khi đó thế giới sẽ có rất nhiều người tin chắc vào một niềm tin duy nhất. Nhưng hãy thử tưởng tượng một thế giới nơi cơ hội tự do lựa chọn niềm tin có thể bị sự chắc chắn của những bằng chứng thực tế phủ nhận. Điều đó mới thú vị làm sao?
Đối với những người có đức tin hay những người hoài nghi cũng vậy, nghi ngờ xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân liên quan tới xung đột giữa những tuyên bố của niềm tin tôn giáo với các phát hiện khoa học. Những vấn đề đó, hiện đặc biệt nổi trội trong lĩnh vực sinh học và di truyền học, sẽ được thảo luận trong những chương sau. Những nội dung khác, chủ yếu nằm trong lĩnh vực mang tính triết học của trải nghiệm con người chính là chủ đề của chương này. Nếu như bạn cảm thấy thoải mái với những điều này thì xin mời lật giở sang Chương 3.
Ở đây, khi đề cập tới những vấn đề triết học này, chủ yếu tôi nói với tư cách của một người ngoài ngành. Nhưng chính bản thân tôi cũng đã từng trải qua những cuộc đấu tranh như vậy. Đặc biệt là trong năm đầu tiên sau khi chấp nhận sự tồn tại của một vị Chúa, Người quan tâm tới toàn nhân loại, tôi bị bủa vây bởi những nghi ngờ tới từ nhiều phía khác nhau. Mặc dù tất cả những câu hỏi này dường như còn rất mới mẻ và chưa thể trả lời ngay khi chúng xuất hiện lần đầu tiên nhưng tôi cảm thấy rất thoải mái khi biết rằng không có mâu thuẫn nào của tôi lại chưa từng
được ai nêu lên, thậm chí còn mạnh mẽ hơn và rõ ràng, rành mạch hơn trong hàng thế kỷ qua. Thú vị nhất là có rất nhiều nhân vật giỏi giang lúc sinh thời đã đưa ra những câu trả lời rất hấp dẫn cho các tình thế khó xử này. Tôi sẽ minh họa một vài tác giả đó trong chương này cùng với những suy nghĩ và trải nghiệm của tôi. Rất nhiều phân tích dễ hiểu nhất nằm trong những bài viết của người cố vấn tốt nghiệp trường Oxford giờ đã trở nên rất thân thuộc với tôi là C.S.Lewis.
Mặc dù chúng ta có thể xem xét rất nhiều lập luận phản bác ở đây nhưng tôi thấy có bốn phản bác đặc biệt khiến tôi băn khoăn trong những ngày đầu tiên khi niềm tin của tôi còn non nớt và tôi tin chúng cũng là những mối băn khoăn lớn nhất mà bất kỳ ai cũng phải đối mặt khi cân nhắc quyết định có nên tin vào Chúa hay không.
Phải chăng ý niệm về Chúa chỉ là ảo tưởng?
Liệu Chúa có thực sự tồn tại không? Hay liệu cuộc tìm kiếm sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên vốn phổ biến trong mọi nền văn hóa từng được nghiên cứu có đại diện cho mong muốn chung nhưng chưa có căn cứ của loài người về một điều gì đó bên ngoài chúng ta nhằm đem lại ý nghĩa cho cuộc đời vô nghĩa và chấm dứt sự day dứt của chúng ta về cái chết hay không?
Mặc dù cuộc tìm kiếm Đấng linh thiêng này ít nhiều đã bị những bận rộn và sôi động của cuộc sống hiện đại lấn át nhưng nó vẫn là một trong những nỗ lực lớn nhất của con người. C.S.Lewis mô tả hiện tượng này xảy ra với chính cuộc đời mình trong cuốn sách hay tuyệt vời Ngạc nhiên vì vui sướng (Surprised by Joy) và “niềm vui” mà ông định nghĩa ở đây chính là cảm nhận về sự khao khát mãnh liệt khởi sinh trong cuộc sống của ông từ một thứ gì đó rất đơn giản như chỉ vài dòng thơ. Ông mô tả trải nghiệm này là “một khao khát không được thỏa mãn bởi bản thân nó có nhiều khao khát hơn bất kỳ một sự thỏa mãn khao khát nào khác”. Tôi có thể hồi tưởng lại rất rõ ràng một vài khoảnh khắc như thế xảy đến trong chính cuộc sống của tôi, khi cái cảm nhận cay đắng về sự khắc khoải, chòng chành giữa vui thích và tiếc nuối tình cờ tóm lấy tôi, khiến tôi phân vân không hiểu những tình cảm mạnh mẽ đó đến từ đâu và làm thế nào tôi có thể có lại một trải nghiệm như vậy.
Khi còn là một đứa bé mười tuổi, tôi đã có cái cảm giác lâng lâng khi nhìn qua chiếc kính viễn vọng mà một nhà thiên văn nghiệp dư nào đó đã đặt trong trang trại của gia đình tôi. Nó khiến tôi cảm nhận được sự rộng lớn của vũ trụ, nhìn thấy miệng núi lửa trên mặt trăng và ánh sáng huyền diệu của chòm sao Kim ngưu. Khi tôi mười lăm tuổi, trong đêm Noel, những lời ca tuyệt diệu
của bài hát mừng Giáng sinh vang lên êm dịu và thành kính đã để lại trong tôi một cảm giác bất ngờ, đó là sự sùng kính, mong ngóng, trông đợi một điều gì đó không thể gọi tên. Khá lâu sau, khi tôi, một sinh viên vô thần tốt nghiệp, tôi kinh ngạc khi lại thấy trong mình cảm giác hơi sợ sệt và có gì đó như mong ngóng, trông đợi, lần này hòa trộn thêm cả cảm giác tiếc nuối cực kỳ sâu sắc khi tiếng nhạc của phần hai bản giao hưởng số Ba của Beethoven (the Eroica) cất lên. Khi cả thế giới đau buồn tiếc thương cái chết của những vận động viên điền kinh Israel bị những kẻ khủng bố giết tại Olympic năm 1972, dàn nhạc giao hưởng lừng danh châu Âu của Đức là Philharmonic đã chơi một chuỗi những bài ca ai oán cung đô thứ tại sân vận động Olympic, hòa trộn giữa sự cao quý lẫn bi kịch, giữa sự sống và cái chết thì trong một vài khoảnh khắc, tôi đã được nâng lên khỏi tầm nhìn thực dụng của thế giới thực tại và bước vào một không gian tâm linh mơ hồ, khó tả, một trải nghiệm khiến tôi hết sức ngỡ ngàng.
Cách đây không lâu, đối với một nhà khoa học hiếm khi có được cái đặc ân là khám phá một điều gì đó con người chưa từng biết tới, có một dạng niềm vui đặc biệt kèm theo những giây phút loé sáng của sự thấu hiểu. Có được một ý niệm mơ hồ về sự thật khoa học, ngay lập tức tôi có cả cảm giác thỏa mãn lẫn khao khát thấu hiểu một Sự Thật thậm chí còn lớn lao hơn. Trong khoảnh khắc như thế, khoa học trở thành một cái gì đó còn hơn cả hành trình khám phá. Nó dẫn tôi tới một trải nghiệm hoàn toàn không thể lý giải bằng tự nhiên học.
Vì vậy, chúng ta phải làm gì để hiểu được những trải nghiệm này? Và cái cảm giác mong đợi một điều gì đó lớn lao hơn bản thân chúng ta là gì? Liệu đó có phải chỉ là một sự kết hợp nào đó thuần tuý của các tín hiệu thần kinh nằm chính xác trên các cơ quan thụ cảm bên phải phóng ra một nguồn điện vào sâu trong phần nào đó của bộ não? Hay liệu đây có phải, giống như Luật Đạo đức đã mô tả trong chương trước, là một ý niệm mơ hồ về cái gì đó ngự trị bên trên, một dấu hiệu nằm sâu trong tâm linh con người chỉ tới một điều gì đó còn lớn hơn bản thân chúng ta?
Quan điểm vô thần cho rằng không nên coi những khát khao như vậy là dấu hiệu của một lực lượng siêu nhiên nào đó và rằng việc biến những cảm nhận tôn kính này thành niềm tin vào Chúa không thể hiện điều gì ngoài sự ảo tưởng, ngoài việc tự sáng tác ra một câu trả lời mà chúng ta muốn nó trở thành sự thật. Quan điểm này đã được rất nhiều người biết tới thông qua các tác phẩm của Sigmund Freud , người đã lập luận rằng, mong ngóng về Thượng đế bắt nguồn từ những trải nghiệm thuở ấu thơ. Trong cuốn Vật tổ và những điều cấm kỵ (Totem and Taboo),
Freud viết: “Phân tích tâm lý học từng cá nhân con người giúp chúng ta hiểu một cách chắc chắn về điều này, đó là Chúa của mỗi người được hình thành dựa trên hình tượng của chính người cha bằng xương bằng thịt của người đó, nó thay đổi cùng với mối quan hệ ấy và cuối cùng thì Chúa cũng không gì khác hơn là một người cha cao thượng”.
Vấn đề đối với lập luận về sự ảo tưởng này nằm ở chỗ nó không đồng nhất với hình ảnh của Chúa trong các tôn giáo lớn trên Trái Đất này. Trong cuốn sách rất giản dị mà thông thái gần đây của mình có tiêu đề Câu hỏi về Chúa (The Question of God), Armand Nicholi , một giáo sư được đào tạo về phân tích tâm lý học từ trường Harvard đã so sánh quan điểm của Freud với quan điểm của C.S. Lewis. Lewis lập luận rằng, sự ảo tưởng như vậy có khả năng đưa ra một kiểu Chúa rất khác với Chúa được mô tả trong Kinh Thánh. Nếu tìm kiếm một đấng nhân từ và bao dung, chúng ta sẽ không tìm thấy ở đây. Thay vào đó, nếu cứ níu chặt lấy sự tồn tại của Luật Đạo đức và rõ ràng là không thể sống đúng theo nó, chúng ta sẽ nhận ra rằng mình gặp rắc rối lớn và có xu hướng tách rời vĩnh viễn khỏi tác giả của Luật đó. Hơn nữa, chẳng phải đứa trẻ nào khi lớn lên cũng trải qua cái tình cảm hai chiều đối với cha mẹ nó, trong đó có cả mong muốn được tự do hay sao? Vì vậy, tại sao ảo tưởng lại là sự mong mỏi về Chúa thay vì mong muốn là chẳng có Chúa nào tồn tại cả?
Nói tóm lại, diễn giải bằng những thuật ngữ logic đơn giản thì nếu một người ủng hộ lập luận rằng Chúa là điều gì đó con người ước muốn thì liệu điều đó có thể loại bỏ khả năng Chúa là có thật hay không? Hoàn toàn không. Cái thực tế là tôi đã mong muốn có một người vợ tuyệt vời đâu biến cô ấy thành ảo ảnh. Cái thực tế là người nông dân mong chờ mưa không khiến anh ta phải nghi ngờ về sự thực là trận mưa rào sẽ đến sau đó.
Trong thực tế, chúng ta có thể nghĩ tới lập luận về sự ảo tưởng này. Tại sao cái ước muốn mạnh mẽ, độc đáo và phổ biến ấy của con người lại tồn tại nếu nó không có cơ hội được thỏa mãn? Thêm nữa, Lewis đã lập luận rất hay rằng: “Không phải con người sinh ra đã có ham muốn trừ khi tồn tại sự thỏa mãn các ham muốn ấy. Một đứa trẻ cảm thấy đói: vậy thì, có gì đó để thỏa mãn cơn đói của nó, đó là thức ăn. Một chú vịt con muốn bơi: vậy thì, có gì đó để thỏa mãn mong muốn của nó, đó là nước. Con người sinh ra đã có ham muốn tình dục: vậy thì, có cái gọi là tình dục. Nếu như tôi cảm thấy bản thân mình có mong muốn mà không tìm thấy sự thỏa mãn nào trong thế giới này, lý giải hợp lý nhất ở đây là có thể tôi đã được sinh ra dành cho một thế giới khác”.
Liệu niềm mong mỏi về một đấng thiêng liêng, một khía cạnh phổ biến và còn khiến nhiều người băn khoăn có thể không phải là ảo tưởng mà hơn thế, là ngọn đèn soi tỏ cho chúng ta thấy có một cái gì đó tồn tại bên trên chúng ta? Tại sao chúng ta lại có cái “Khoảng trống mang hình Chúa” trong trái tim và tâm trí của mình nếu không phải nó ở đó để được lấp đầy?
Trong thế giới thực dụng hiện nay, chúng ta rất dễ quên đi cảm nhận về sự mong mỏi. Trong tuyển tập những bài luận tuyệt vời của mình nhan đề Dạy một hòn đá nói (Teaching a Stone to Talk), Annie Dillard nói về khoảng trống đang lớn dần đó:
Giờ đây, chúng ta không còn chút nguyên sơ nào nữa. Giờ đây, toàn bộ thế giới dường như không còn thiêng liêng… Chúng ta, những con người, đã đi từ phiếm thần (tin vào Chúa là tất cả và tất cả là Chúa) sang liên thần… Rất khó hoàn lại nguyên trạng sau những tác hại do chúng ta gây ra. Rất khó để triệt hại một rừng cây mà khiến bạn thay đổi suy nghĩ. Chúng ta dập tắt một bụi cây đang cháy thì không thể làm nó trở lại nguyên vẹn như xưa nữa. Chúng ta không châm nổi que diêm dưới mỗi cây xanh. Chẳng phải gió đã từng kêu khóc và những khoảng đồi đã cố gào lên van xin? Giờ đây, những thực thể không còn sự sống trên Trái Đất, không còn nói và những thực thể sống ngày càng nói ít đi... Vậy nhưng, bất kể ở đâu có cử động đều có tiếng động giống như khi một chú cá voi nhảy lên khỏi mặt nước là có tiếng nước vỗ bờ và bất kể nơi đâu có sự tĩnh lặng, ở đó đều có một thanh âm nhỏ và tĩnh tại, tiếng nói của Chúa qua cơn lốc, qua những điệu nhảy và lời ca của tự nhiên, qua những điểm trang mà chúng ta học đòi từ thành thị… Trong suốt những thế kỷ qua, chúng ta đã làm được gì ngoài việc cố gắng kêu cầu Chúa quay trở về với rừng núi hay giả sử không phải là điều đó thì cũng để dấy lên một thanh âm về bất kỳ thứ gì đó không phải là chúng ta? Đâu là sự khác biệt giữa một thánh đường và một phòng thí nghiệm vật lý? Chẳng phải cả hai đều đang nói: “Xin chào” đó sao?
Thế tất cả những tổn hại gây ra nhân danh tôn giáo thì sao?
Một rào cản lớn đối với nhiều người tìm kiếm chân lý là các bằng chứng suốt chiều dài lịch sử về những điều khủng khiếp được tạo ra nhân danh tôn giáo khiến họ phải tin là đúng. Ở một mức độ nào đó, điều này xảy ra với gần như mọi tôn giáo, kể cả với những tôn giáo lập luận rằng tình yêu thương và phi bạo lực là những giáo lý chính của họ. Chẳng hạn, đối với sự lăng mạ, bạo lực và đạo đức giả, làm sao một người có thể tin vào những nguyên lý của tôn giáo được những kẻ gây ra tội lỗi ủng hộ?
Có hai câu trả lời cho tình huống này. Trước hết, hãy luôn nhớ là, có rất nhiều điều tốt đẹp đã được tạo ra nhân danh tôn giáo. Giáo hội (và ở đây tôi sử dụng thuật ngữ này một cách chung chung, đại diện cho những cơ sở có tổ chức nhằm thúc đẩy một tôn giáo nào đó mà không đề cập tới một tôn giáo cụ thể nào) đã rất nhiều lần đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ sự công bằng và bao dung. Chỉ lấy một ví dụ, hãy xem xét việc những vị lãnh tụ tôn giáo đã làm gì để giải thoát con người khỏi bị đàn áp: từ sự lãnh đạo của Moses giải phóng người Israel khỏi tù ngục tới chiến thắng của phong trào do William Wilber đứng đầu khiến Quốc hội Anh phải chấm dứt chế độ nô lệ, tới Mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh cả tính mạng để đấu tranh cho phong trào vì nhân quyền ở Mỹ.
Câu trả lời thứ hai lại đưa chúng ta quay trở lại Luật Đạo đức, trở về với thực tế là tất cả chúng ta đều chưa đáp ứng được các chuẩn mực của nó. Giáo hội đã được những người “chưa đạt chuẩn” xây dựng nên. Dòng nước trong sạch, tinh khiết của sự thật tâm linh được đặt trong chiếc thùng chứa đầy gỉ sắt và những thất bại liên tiếp sau đó của giáo hội qua hàng thế kỷ không nên chỉ đổ tại cho bản thân tôn giáo. Điều đó cũng giống như thể đổ tại cho bản thân nước chính là vấn đề. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những người đánh giá sự thật và tính hấp dẫn của đức tin tâm linh thông qua lối hành xử của bất kỳ giáo hội nào thường cảm thấy không thể tưởng tượng được việc họ có thể gia nhập vào đó. Diễn tả sự thù nghịch đối với Giáo hội công giáo Pháp vào buổi bình minh của cuộc cách mạng Pháp, Voltaire đã viết: “Liệu có gì đáng ngạc nhiên vì có những người vô thần trên thế giới khi mà giáo hội lại cư xử tệ hại đến vậy?”.
Thật không khó tìm ra chứng cứ xác đáng trong việc giáo hội đã thúc đẩy những hành động vi phạm các nguyên tắc của đức tin mà lẽ ra nó nên củng cố. Những Điều Phúc Lớn do Chúa Giêsu nói trong Bài thuyết giáo trên đỉnh núi đã bị Giáo hội Công giáo phớt lờ khi họ tiến hành cuộc Thập tự chinh thời Trung cổ và tiếp sau đó là hàng loạt các hình thức trừng phạt, tra tấn. Trong khi bản thân nhà tiên tri Môhamét không bao giờ dùng bạo lực để đối xử với những kẻ ngược đãi ông thì, gần đây nhất, tín đồ của ông là những người Hồi giáo Jihad và cả các cuộc tấn công bạo lực như vụ khủng bố ngày 11/9/2001 đã tạo nên ấn tượng sai lầm rằng đức tin của đạo Hồi cơ bản là bạo lực. Thậm chí cả tín đồ của các tôn giáo được nhìn nhận là ôn hòa như đạo Hindu và đạo Phật cũng tham gia vào những cuộc đối đầu bạo lực như tình hình hiện nay ở Sri Lanka.
Và không chỉ bạo lực mới huỷ hoại giá trị chân lý của đức tin tôn giáo. Nhiều trường hợp đạo đức giả trắng trợn của các nhà lãnh tụ tôn giáo được nhiều người biết tới hơn thông qua sức mạnh tuyên truyền của các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại. Điều này khiến cho những người bấy lâu nghi ngờ kết luận rằng không hề có sự tốt đẹp hay chân lý khách quan nào trong tôn giáo cả.
Thậm chí, âm ỉ và lan rộng hơn là sự xuất hiện trong nhiều nhà thờ đức tin thế tục, không hề dính líu tới tâm linh và loại bỏ mọi khía cạnh bí ẩn, thiêng liêng của đức tin truyền thống. Nó đưa ra một kiểu sống tâm linh tất cả chỉ là những thực tế và/hoặc truyền thống xã hội mà không hề đề cập gì tới việc tìm kiếm Chúa.
Vì vậy, không ngạc nhiên khi một số nhà bình luận chỉ ra rằng tôn giáo là một lực lượng tiêu cực trong xã hội, hay theo ngôn từ của Karl Marx: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Nhưng ở đây, chúng ta hãy cẩn thận. Những cuộc thử nghiệm lớn nhằm thiết lập xã hội hoàn toàn dựa trên nền tảng vô thần là chế độ Mácxít ở Liên Bang Xô Viết và chủ nghĩa Mao Trạch Đông ở Trung Quốc đã chứng tỏ chế độ ấy đã thực hiện được ít nhất là nhiều bằng và có thể còn nhiều hơn việc giết người và lạm dụng quyền lực so với cái chế độ tồi tệ nhất trong tất cả các chế độ tồn tại thời gian gần đây. Trong thực tế, với việc chối bỏ sự tồn tại của bất kỳ đấng quyền năng nào, chủ nghĩa vô thần có khả năng mà giờ đây nhiều người mới nhận ra đó là giải phóng con người hoàn toàn khỏi bất kỳ một trách nhiệm nào mà không cần đến sự đàn áp lẫn nhau.
Vì vậy, trong khi lịch sử dài lâu của những cuộc đàn áp tôn giáo và đạo đức giả đã khiến nhiều người cảm thấy cần cẩn trọng thì những người tìm kiếm đích thực phải nhìn vượt lên hành vi của những con người đã bị hư hoại này nhằm tìm ra chân lý. Liệu bạn có lên án một cây sồi vì gỗ của nó đã bị người ta sử dụng nhằm tạo súc gỗ nặng để phá thành? Bạn có đánh giá tác phẩm Cây sáo thần (The Magic Flute) của Mozart trên cơ sở màn trình diễn chưa tốt của những học sinh lớp năm chưa được tập luyện kỹ càng không? Nếu như bạn chưa từng được tận mắt nhìn thấy hoàng hôn trên bờ biển Thái Bình Dương, liệu bạn có cho phép cuốn sách hướng dẫn du lịch thay thế nó? Bạn có đánh giá sức mạnh của một tình yêu lãng mạn đơn thuần chỉ dựa trên cuộc hôn nhân đầy bạo lực của một gia đình hàng xóm không?
Không. Sự đánh giá chân thực về chân lý của tôn giáo là dựa vào việc nhìn nhận dòng nước trong sạch, tinh khiết chứ không phải là chiếc thùng đầy gỉ sét.
Tại sao Đức Chúa đầy yêu thương lại có thể để cho sự đau khổ diễn ra trên thế giới này?
Có thể đâu đó trên Trái Đất này có những người chưa từng phải chịu đựng đau khổ. Tôi chưa biết đến một người nào như thế và tôi cho rằng không một độc giả nào của cuốn sách này có thể tự nhận mình thuộc số người như vậy. Cái trải nghiệm phổ biến này của con người đã khiến nhiều người đặt câu hỏi: liệu có tồn tại một Chúa đầy yêu thương? Trong cuốn sách Vấn đề của nỗi đau (Problem of Pain), C.S.Lewis đã lập luận như thế này: “Nếu như Chúa là tốt đẹp, Người sẽ mong muốn làm cho tạo vật của Người hoàn toàn hạnh phúc và nếu Chúa là Đấng toàn năng, Người sẽ có thể làm những gì mình muốn. Nhưng các tạo vật của Người lại không hạnh phúc. Vì vậy, Chúa thiếu lòng nhân từ hoặc thiếu sức mạnh hoặc cả hai”.
Có một số câu trả lời cho tình huống này. Một số câu trả lời dễ chấp nhận hơn những câu trả lời khác. Trước hết, chúng ta hãy thừa nhận rằng phần lớn nỗi đau khổ của chúng ta và của những người xung quanh là do chính chúng ta gây ra cho nhau. Chính con người chứ không phải Chúa đã tạo ra những con dao, những mũi tên, khẩu súng, quả bom và tất cả những công cụ tra tấn qua hàng thế kỷ. Bi kịch của đứa trẻ con bị một lái xe say rượu đâm chết, của một chàng trai trẻ ngây thơ bỏ mạng trên trận tiền hay một cô gái trẻ ngã xuống vì bị đạn lạc xuyên qua người khi đi qua khu vực đầy những kẻ tội phạm ở một thành phố hiện đại khó có thể đổ lỗi cho Chúa. Sau cùng, ở một mức độ nào đó, chúng ta đã được trao cho sự tự do ý chí, khả năng làm những gì chúng ta mong muốn. Nhưng chúng ta thường xuyên sử dụng điều này để không tuân theo Luật Đạo đức.
Và khi làm như thế, chúng ta không nên đổ lỗi cho Chúa là đã gây ra những hậu quả này.
Liệu Chúa có nên kìm hãm sự tự do ý chí của chúng ta để ngăn chặn những loại hành vi tội ác như vậy hay không? Cách suy nghĩ này nhanh chóng lâm vào tình thế khó xử mà không có lối thoát nào hợp lý. Một lần nữa, Lewis nói: “Nếu bạn chọn cách nói rằng: „Chúa có thể trao cho tạo vật của mình sự tự do ý chí đồng thời có thể tước bỏ sự tự do ý chí khỏi người đó‟, bạn đã thất bại trong việc nói lên bất kỳ điều gì về Chúa: sự kết hợp các từ vô nghĩa không bỗng chốc tạo nên ý nghĩa chỉ đơn giản vì chúng ta đặt trước chúng hai từ khác đó là ‟Chúa có thể‟. Những lời vô nghĩa vẫn mãi là vô nghĩa, thậm chí cả khi chúng ta dùng chúng để nói về Chúa”.
Ngay cả những lập luận hợp lý vẫn có thể khó chấp nhận khi chúng ta chứng kiến nỗi đau khổ khủng khiếp rơi xuống đầu một người vô tội. Tôi biết một sinh viên đại học đã sống một mình suốt kỳ nghỉ hè khi tiến hành nghiên cứu y học chuẩn bị cho việc trở thành bác sỹ sau này. Đột nhiên thức giấc trong đêm tối, cô gái nhìn thấy một gã đàn ông lạ mặt đột nhập vào căn hộ của mình. Dí sát con dao vào cổ cô gái, bỏ ngoài tai những lời cầu xin, hắn bịt mắt và đè lên người cô. Hắn đã để lại nỗi mất mát vô cùng to lớn trong cô, để rồi hàng năm sau cô gái vẫn còn sống trong nỗi ám ảnh triền miên. Và kẻ phạm tội vẫn chưa hề bị bắt.
Cô gái trẻ đó chính là con gái tôi. Chưa bao giờ tội ác lại rõ ràng đối với tôi hơn cái đêm hôm đó và chưa bao giờ tôi có mong ước mạnh mẽ đến thế, rằng giá như Chúa đã làm gì đó để ngăn chặn hành động phạm tội tồi tệ này. Tại sao Người không làm cho tên tội phạm đó bị sét đánh chết hay ít nhất là khiến hắn bị dằn vặt lương tâm? Tại sao Người không đặt một tấm lá chắn vô hình quanh con gái tôi để bảo vệ nó?
Có thể Chúa đã thực hiện điều kỳ diệu trong những dịp hiếm hoi nào đó. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, sự tồn tại của ý chí tự do và của trật tự trong cái vũ trụ vật lý này là thực tế không thể thay đổi. Mặc dù chúng ta có thể mong muốn những sự giải thoát phi thường đó xảy ra thường xuyên hơn nhưng hậu quả của việc ngăn chặn tự do ý chí và trật tự này có thể là sự hỗn loạn hoàn toàn.
Thế còn những thảm họa thiên nhiên: động đất, sóng thần, núi lửa, lũ lụt và nạn đói thì sao? Ở quy mô nhỏ hơn nhưng cũng không kém phần thương tâm thì căn bệnh mà một nạn nhân vô tội mắc phải, chẳng hạn như một đứa trẻ bị ung thư thì sao? Vị thầy tu người Anh và nhà vật lý lẫy lừng John Polkinghorne đã gọi loại hiện tượng này là “tội lỗi của khoa học” để so với cái “tội lỗi đạo đức” mà con người phạm phải. Chúng ta có thể lý giải điều này như thế nào?
Khoa học đã khám phá ra rằng vũ trụ, hành tinh của chúng ta và bản thân cuộc sống đều liên quan tới quá trình tiến hóa. Hậu quả của nó có thể bao gồm sự thất thường về thời tiết, sự thay đổi kiến tạo địa tầng hay là lỗi của một gen ung thư trong quá trình phân bào bình thường của nó. Nếu lúc đầu, Chúa chọn việc sử dụng những lực lượng này để tạo ra con người thì chắc chắn không thể tránh khỏi những hậu quả thương tâm khác còn hơn như thế. Những can thiệp kỳ diệu nếu xảy ra thường xuyên thì ít nhất sẽ gây ra sự hỗn loạn trong lĩnh vực thể chất vì những can thiệp này sẽ xung đột với những hoạt động tự do ý chí của con người.
Đối với những người tìm kiếm thận trọng, những luận giải hợp lý này vẫn chưa đưa ra được lời giải thích cho nỗi đau trong quá trình sinh tồn của con người. Tại sao cuộc sống của chúng ta lại là một thung lũng của nước mắt hơn là một vườn hoa của niềm vui? Đã có rất nhiều sách vở viết về nghịch lý rõ ràng này và không phải dễ dàng đưa ra được kết luận: nếu Chúa tràn đầy yêu thương và mong ước những điều tốt đẹp cho chúng ta thì có lẽ kế hoạch của Người không giống như kế hoạch của chúng ta. Đây là một quan niệm khó có thể chấp nhận, đặc biệt nếu chúng ta quá thường xuyên tiếp nhận cách lý giải về sự bao dung của Chúa trong đó vai trò của Người không gì nhiều hơn ngoài mong muốn cho chúng ta luôn được hạnh phúc. Lewis cũng nói, “Thực ra, chúng ta không muốn một người Cha ở thiên đường bằng một người Ông ở thiên đường, một người già yếu bao dung “muốn nhìn đàn con trẻ tự vui với chính mình” như người ta thường nói và toàn bộ kế hoạch cho vũ trụ này đơn giản là vào cuối mỗi ngày chúng ta có thể thực sự nói với mình rằng: “Tất cả chúng ta đã có một thời gian tốt lành.”
Trên cơ sở trải nghiệm của con người, nếu ai đó chấp nhận lòng nhân từ đầy yêu thương của Chúa thì Người hẳn còn mong muốn điều này hơn chúng ta. Liệu đây có phải là trải nghiệm trong thực tế của chính bạn hay không? Bạn sẽ hiểu nhiều hơn về chính bản thân mình khi mọi việc diễn ra tốt đẹp hay khi bạn phải đối mặt với những thách thức, bực dọc và đau khổ? “Chúa thì thầm với chúng ta lúc chúng ta vui, nói trong lương tâm của chúng ta nhưng cũng kêu lên những lúc chúng ta đau đớn: Người đang sử dụng chiếc loa của mình để thức tỉnh cả thế giới đang điếc”. Chúng ta muốn tránh những trải nghiệm đó nhiều bao nhiêu thì không có chúng, liệu chúng ta có trở thành những kẻ nông cạn, tự cho mình là trung tâm để rồi cuối cùng có thể mất hết cảm nhận về sự cao quý hay cố gắng giúp những người khác trở nên tốt đẹp hơn hay không?
Hãy suy nghĩ về điều này: nếu quyết định quan trọng nhất chúng ta phải đưa ra trên Trái Đất này là quyết định về đức tin và nếu mối quan hệ quan trọng nhất chúng ta phải phát triển trên Trái Đất này là mối quan hệ với Chúa, nếu sự tồn tại của chúng ta với tư cách là những tạo vật tâm linh, không hạn chế ở những gì chúng ta có thể biết và quan sát được trong suốt thời gian sống trên Trái Đất thì khi đó, những nỗi đau khổ của con người sẽ có một bối cảnh hoàn toàn mới. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu trọn vẹn lý do cho những trải nghiệm đau đớn này nhưng chúng ta cũng có thể bắt đầu chấp nhận quan điểm là có thể có lý do cho những điều như thế. Trong trường hợp của mình, tôi nhận thấy, cho dù lờ mờ, rằng việc con gái tôi bị cưỡng bức là một thách thức để tôi có thể hiểu ý nghĩa thực sự của việc tha thứ trong một hoàn cảnh hết sức ngang trái. Thành thực mà nói, tôi vẫn đang cố gắng thực hiện điều đó. Có thể, đây cũng là một cơ hội để tôi nhận ra rằng tôi thực sự không thể bảo vệ nổi con gái tôi khỏi đau đớn và khổ sở, tôi phải học cách trao trách nhiệm đó cho sự quan tâm đầy yêu thương của Chúa với nhận thức rằng điều đó không phải là để dọn đường cho tội ác mà là một sự đảm bảo rằng những đau khổ của các cháu không phải là uổng phí. Thực vậy, con gái tôi đã nói rằng, trải nghiệm này cho nó cơ hội cũng như động lực để khuyên nhủ và làm an lòng những người cũng lâm vào tình cảnh tương tự.
Cái ý niệm là Chúa có thể tác động tới những tình cảnh trớ trêu không phải dễ dàng được chấp nhận và nó chỉ có thể tìm thấy bến đậu vững chắc trong cách nhìn nhận gắn với khía cạnh tâm linh. Trên thực tế, nguyên lý của sự trưởng thành thông qua đau đớn gần như rất phổ biến trong tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới. Chẳng hạn, Tứ Diệu Đế mà Đức Phật dạy trong bài thuyết pháp ở Vườn Lộc Uyển bắt đầu với câu “Đời là bể khổ”. Đối với những tín đồ đạo Phật, việc nhận ra điều đó lại có thể chính là cội nguồn cho sự giải thoát lớn lao.
Chẳng hạn, người phụ nữ mà tôi chịu trách nhiệm chăm sóc khi còn là sinh viên trường Y, người đã thách thức sự vô thần của tôi bằng thái độ bình thản chấp nhận căn bệnh nặng đến giai đoạn cuối của bà, đã nhìn thấy trong chương cuối cùng cuộc đời mình một trải nghiệm dẫn bà lại gần hơn với Chúa chứ không phải là xa cách với Người. Ở bối cảnh lịch sử rộng hơn, đó là trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Dietrich Bonhoeffer, chuyên gia thần học người Đức, đã tình nguyện rời Mỹ quay trở lại nước Đức để làm những gì ông có thể nhằm bảo vệ giáo hội chân chính tồn tại vào thời điểm khi các tổ chức nhà thờ Công giáo ở nước Đức ủng hộ Quốc xã. Ông bị tống giam vì đã can dự vào âm mưu ám sát Hitler. Suốt hai năm ở tù, chịu đựng sỉ nhục và mất tự do nhưng niềm tin, lòng tôn kính của ông với Chúa không hề lung lay. Không lâu trước ngày bị treo cổ, chỉ cách ngày giải phóng nước Đức ba tuần, ông đã viết những dòng này: “Thời gian bị mất đi chính là thời gian chúng ta không sống đầy đủ cuộc sống thực của một con người, là thời gian không được vun đắp từ trải nghiệm, từ những nỗ lực sáng tạo, từ sự vui sướng và đau khổ”.
Làm sao một người duy lý lại có thể tin vào những điều kỳ diệu?
Cuối cùng, hãy thử xem xét sự phản đối đức tin thường xuất phát từ một nhà khoa học. Làm sao những điều kỳ diệu lại có thể dung hòa với thế giới quan khoa học?
Theo cách nói hiện đại, chúng ta đã làm giảm tầm quan trọng của từ “kỳ diệu”. Chúng ta nói về “những viên thuốc kỳ diệu”, “chế độ ăn kiêng kỳ diệu”, sự kỳ diệu của tảng băng” hay thậm chí cả “những cảnh sát kỳ diệu”. Nhưng tất nhiên, đó không phải là nghĩa ban đầu của từ này. Nói một cách chính xác hơn, điều kỳ diệu chính là một sự việc không thể lý giải bằng những quy luật của tự nhiên và vì vậy, nguồn gốc của nó có tính siêu nhiên.
Tất cả các tôn giáo đều có niềm tin vào những điều kỳ diệu nhất định. Chuyến hành trình vượt Hồng Hải của những người Israel cùng với lệnh của Hoàng đế Ai Cập lúc bấy giờ là dìm chết toàn bộ con trai của những nô lệ người Do Thái là một câu chuyện có sức lôi cuốn mạnh mẽ trong Sách Xuất Hành kể về sự phù trợ kỳ diệu của Chúa trong việc ngăn chặn sự huỷ diệt sắp xảy đến với những người con của Người. Tương tự như vậy, khi Joshua cầu xin Chúa kéo dài thời gian ban ngày để có thể tiến hành thành công một trận chiến đặc biệt, người ta kể rằng mặt trời đã đứng yên theo cách mà họ chỉ có thể nói là kỳ diệu.
Ở đạo Hồi, kinh Koran đã được viết trong một hang động gần thánh địa Mecca, do Môhamét hướng dẫn dưới sự hỗ trợ siêu nhiên từ thiên thần Jibril. Sự thăng thiên của Môhamét rõ ràng cũng là một điều rất kỳ diệu vì ông có cơ hội thấu tỏ tất cả những đặc điểm của thiên đường và địa ngục.
Trong Thiên chúa giáo, những điều kỳ diệu đóng vai trò cực kỳ mạnh mẽ và điều kỳ diệu có ý nghĩa nhất trong tất cả là sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Làm thế nào một người xem mình là hiện đại và duy lý lại có thể chấp nhận những lời tuyên bố như vậy? Đúng, rõ ràng là nếu một người ngay từ đầu đã khăng khăng rằng không thể tồn tại những hiện tượng siêu nhiên thì họ sẽ không thể chấp nhận bất kỳ điều kỳ diệu nào. Một lần nữa, chúng ta hãy trở lại cùng C.S.Lewis để suy nghĩ thật rõ ràng về chủ đề này trong cuốn sách của ông với nhan đề Những điều kỳ diệu (Miracles): “Tất cả mọi hiện tượng được tuyên bố là kỳ diệu thì rốt cuộc sẽ là điều gì đó hiển hiện trước các giác quan của chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, động chạm, ngửi hay nếm được chúng. Và các giác quan của chúng ta không bao giờ phạm sai lầm. Nếu như điều gì đó có vẻ bất thường xảy ra thì chúng ta luôn có thể nói rằng, chúng ta là những nạn nhân của ảo giác. Đây là điều chúng ta thường nói nếu chúng ta nắm giữ triết lý loại bỏ siêu nhiên. Những gì chúng ta hiểu được từ trải nghiệm phụ thuộc vào kiểu triết lý mà chúng ta mang vào trong trải nghiệm. Do đó, thật vô nghĩa khi chúng ta đi vào trải nghiệm trước khi chúng ta giải quyết tốt cái câu hỏi triết lý này”.
Có thể điều này sẽ khiến những người không ưa cách tiếp cận các vấn đề mang tính triết học bằng toán học cảm thấy sợ sệt nhưng chúng ta hãy thử cân nhắc phân tích sau: cha Thomas Bayes là một nhà thần học người Xcốt-len. Không được mọi người biết đến nhiều với những tư tưởng thần học của ông nhưng người ta lại trân trọng ông với tư cách là người đã nêu ra định lý xác suất đặc biệt. Định lý của Bayes đưa ra công thức tính toán xác suất quan sát một hiện tượng nhất định với một số thông tin ban đầu cho trước (cái “cho trước”) và một số thông tin bổ sung (cái “điều kiện”). Định lý của ông đặc biệt hữu ích khi có hai hay nhiều cách lý giải khác nhau về một hiện tượng xảy ra.
Hãy xem xét ví dụ sau. Bạn bị một gã điên giam cầm. Hắn cho bạn cơ hội được giải phóng bằng việc cho phép bạn rút một quân tú-lơ-khơ trên bàn rồi đút nó trở lại, sau đó trộn bộ bài lên và rút lại lần nữa. Nếu cả hai lần bạn đều rút được con Át Pích, hắn sẽ thả bạn ra.
Bạn bắt đầu, lòng đầy hoài nghi không biết nỗ lực thử vận may của mình có đáng thực hiện hay không - và ngạc nhiên làm sao, bạn rút được con Át Pích hai lần liên tiếp. Bạn được tự do trở về nhà.
Theo toán học, bạn tính toán các cơ hội cho vận may này là 1/52 x 1/52 = 1/2704. Một hiện tượng rất hy hữu nhưng nó đã xảy ra. Tuy nhiên, vài tuần sau, bạn phát hiện ra rằng, một nhân viên đầy độ lượng trong công ty sản xuất tú-lơ-khơ, biết được việc cá cược của gã điên nọ, đã cố tình sắp xếp để trong số một trăm cỗ bài này có một cỗ chỉ có 52 quân Át Pích.
Vì vậy, có thể đây không chỉ là một sự may mắn? Có thể một người đầy hiểu biết và yêu thương (người nhân viên kia) mà bạn không biết mặt đã can thiệp để giải thoát cho bạn. Khả năng cỗ bài bạn rút là một cỗ bài thường có 52 quân là 99/100, khả năng một cỗ bài đặc biệt có 52 quân chỉ toàn Át Pích là 1/100. Đối với hai điểm khởi đầu này, xác suất có tính “điều kiện” đối với việc rút hai quân Át Pích trong một hàng sẽ lần lượt là 1/2704 và 100%. Theo định lý của Bayes, giờ đây có thể tính toán xác suất và kết luận rằng, có 96% cỗ bài bạn rút là cỗ bài “kỳ diệu”.
Có thể áp dụng phân tích tương tự với những hiện tượng rõ ràng là kỳ diệu xảy ra trong trải nghiệm hàng ngày. Giả sử bạn gặp phải trường hợp một bệnh nhân ung thư giai đoạn di căn được các bác sỹ kết luận là có thể chết bất cứ lúc nào nhưng tự dưng lại khỏi bệnh. Liệu đây có phải là điều kỳ diệu hay không? Để trả lời được câu hỏi đó theo cách của Bayes đòi hỏi bạn phải chấp nhận ngay từ đầu “cái có trước” thật kỳ lạ ở đây là căn bệnh ung thư tự dưng khỏi. Liệu nó có phải là 1/1000? Hay là 1/1000000? Hay là 0?
Tất nhiên, đây chính là điều mà những người duy lý tỏ ra không nhất trí, đôi khi còn phản đối mạnh mẽ. Đối với người theo chủ nghĩa duy vật này, ngay từ đầu, họ đã cho rằng không thể có điều kỳ diệu nào xảy ra cả (cái “cho trước” của họ sẽ là 0) và vì vậy, thậm chí cả việc bệnh ung thư tự nhiên khỏi cũng không được coi là điều kỳ diệu mà thay vào đó, họ ghi nhận một thực tế là thế giới tự nhiên đôi khi cũng xảy ra những hiện tượng hy hữu. Tuy nhiên, những người tin vào sự tồn tại của Chúa sau khi xác nhận thực tế này có thể sẽ kết luận rằng, họ chưa từng biết tới quy trình khỏi bệnh tự nhiên nào và đã từng một lần thừa nhận rằng khả năng xảy ra điều kỳ diệu cho trước dù là rất nhỏ nhưng không phải là 0, họ sẽ thực hiện cách tính toán theo công thức của Bayes (tính toán không chính thức) để rồi sau đó đưa ra kết luận rằng có nhiều khả năng xảy ra điều kỳ diệu hơn là không.
Tất cả những điều này đơn giản chỉ để nói rằng, cuộc thảo luận về những điều kỳ diệu nhanh chóng chuyển thành cuộc tranh luận về việc liệu người ta có sẵn sàng cân nhắc khả năng tồn tại bất kỳ cái gì thuộc về siêu nhiên hay không. Tôi tin rằng cái xác suất đó có tồn tại nhưng đồng thời, cái “cho trước” nhìn chung là rất thấp. Điều này có nghĩa là khi có một giả định bất kỳ, chúng ta nên thiên về lý giải tự nhiên trước. Những tình huống đáng ngạc nhiên nhưng thông thường không hề tự động kỳ diệu. Đối với các nhà thần luận, những người nhìn nhận Chúa là
Đấng tạo nên vũ trụ nhưng sau đó lại đi tới nơi khác để thực hiện các hoạt động khác thì không có lý do gì để coi hiện tượng tự nhiên là kỳ diệu. Đối với người theo thuyết hữu thần, những người tin rằng Chúa can dự vào cuộc sống của loài người, có thể có rất nhiều khả năng xảy ra điều kỳ diệu, điều này phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân về việc Chúa có khả năng can thiệp như thế nào vào những tình huống hàng ngày.
Dù cho quan điểm của cá nhân có thế nào đi nữa thì chúng ta cũng cần giữ thái độ hoài nghi lành mạnh khi lý giải những hiện tượng có thể là kỳ diệu, chứ không nên quá chú ý vào tính thống nhất và hợp lý của khía cạnh tôn giáo. Điều duy nhất có khả năng loại bỏ sự xuất hiện của những điều kỳ diệu nhanh hơn cả Chủ nghĩa Duy vật là việc tuyên bố rằng điều kỳ diệu xảy ra hàng ngày và luôn có sẵn những cách lý giải hợp lý cho nó. Tất cả những ai tuyên bố rằng bông hoa nở là điều kỳ diệu đều là những người đang dẫm chân lên cách hiểu ngày càng phổ biến của sinh học thực vật vốn đang ngày càng lý giải rõ ràng hơn cho mọi người về tất cả các bước từ khi hạt giống nảy mầm tới khi một bông hoa đẹp và đầy hương sắc ngọt ngào nở rộ. Tất cả những lý giải đó đều do cuốn sách chỉ dẫn về ADN của loài thực vật đó định hướng.
Tương tự như vậy, lòng tin của chúng ta sẽ lung lay khi một người trúng xổ số tuyên bố đó là một điều kỳ diệu và anh ta đã cầu xin Chúa ban cho điều đó. Xét đến cùng, cứ cho là chỉ còn một số tôn giáo tồn tại trong xã hội hiện đại của chúng ta thì rất có khả năng phần lớn những người mua xổ số trong tuần đó cũng nhanh chóng cầu xin Chúa hãy cho họ trở thành người chiến thắng. Nếu điều đó xảy ra thì lời tuyên bố về việc Chúa đã làm nên điều kỳ diệu của người chiến thắng thực sự kia sẽ khiến chúng ta có cảm giác là không có thật.
Chúng ta gặp khó khăn hơn khi đánh giá những tuyên bố về việc một căn bệnh nào đó tự dưng được chữa lành. Là một bác sỹ, hiếm khi tôi gặp trường hợp bệnh nhân mắc phải căn bệnh hiểm nghèo lại có thể tự hồi phục. Tuy nhiên, tôi không sẵn sàng coi những sự kiện đó là do có sự can thiệp kỳ diệu, nhất là khi chúng ta chưa có hiểu biết đầy đủ về bệnh tật cũng như tác động của nó tới cơ thể con người. Thông thường, khi các chuyên gia tiến hành điều tra toàn diện một cách khách quan thì lại không tìm được những bằng chứng chứng tỏ những lời tuyên bố này là đúng. Dù có những nghi ngờ đó và cả yêu cầu cần có bằng chứng cụ thể, tôi không cảm thấy ngạc nhiên khi nghe thấy rằng trong những trường hợp cực kỳ hiếm hoi, những hiện tượng lành bệnh kỳ diệu thực sự đã xảy ra. “Cái cho trước” của tôi là thấp, nhưng nó không phải là 0.
Vì vậy, những điều kỳ diệu không tạo nên xung đột không thể dung hòa đối với những người tin tưởng rằng khoa học là phương tiện để kiểm chứng thế giới tự nhiên và thế giới tự nhiên vận hành theo các quy luật. Nếu như cũng giống như tôi, bạn thừa nhận rằng có thể có một điều gì đó hoặc một ai đó tồn tại bên ngoài tự nhiên thì sẽ không có lập luận hợp lý nào giải thích tại sao lực lượng đó không thể can thiệp trong những dịp hy hữu. Mặt khác, để tránh cho thế giới này không rơi vào trạng thái hỗn độn, những điều kỳ diệu phải rất hiếm xảy ra. Như Lewis đã viết, “Chúa không ngẫu nhiên và dễ dàng tạo nên những điều kỳ diệu. Chúng đến trong những dịp lớn, đó là những tâm điểm lớn của lịch sử - không phải là lịch sử chính trị hay xã hội mà là lịch sử tâm linh mà con người chưa hiểu hết. Nếu bạn không sống gần với một trong những thời điểm lớn này, làm thế nào bạn có thể kỳ vọng nhìn thấy điều kỳ diệu?”.
Ở đây, chúng ta không chỉ nhìn thấy lập luận về sự hiếm hoi của những điều kỳ diệu mà còn thấy cả lập luận rằng chúng ắt hẳn phải có một mục đích nào đó chứ không phải là đại diện cho những hành động siêu nhiên của một thầy phù thuỷ tính khí thất thường. Nếu Chúa là hiện thân cao nhất của những gì tốt đẹp và toàn năng, Người sẽ không đóng vai trò của một kẻ lừa gạt như thế. John Polkinghorne đã tranh luận rất quyết liệt rằng: “Những điều kỳ diệu không phải là những hành động thần thánh chống lại các quy luật của tự nhiên (so với những luật mà bản thân chúng là hiện thân cho ý chí của Chúa) mà hơn thế, chúng là hiện thân tốt đẹp hơn của mối quan hệ giữa Đấng thiêng liêng với các tạo vật của Người. Hãy tin rằng, những điều kỳ diệu chắc chắn chuyển tải một ý nghĩa sâu sắc hơn những gì chúng ta có thể tiếp nhận”.
Dù có những lập luận này nhưng những người hoài nghi theo chủ nghĩa duy vật, những người không muốn đưa ra nền tảng nào cho sự tồn tại một Đấng siêu nhiên và muốn chứng minh rằng Luật Đạo đức cũng như niềm mong mỏi phổ biến của rất nhiều người về Chúa là sai, chắc chắn sẽ nói rằng, nghĩ về những điều kỳ diệu thực sự là không cần thiết. Theo quan điểm của họ, quy luật tự nhiên có thể giải thích tất cả mọi điều, thậm chí cả những điều tưởng chừng như không thể.
Nhưng liệu quan điểm này có thể trụ vững hoàn toàn không? Ít nhất, trong lịch sử cũng có một điều nổi bật, vượt quá cả sự không thể mà các nhà khoa học thuộc hầu hết các ngành đều công nhận là không thể hiểu nổi, sẽ không bao giờ hiểu nổi và những quy luật của tự nhiên hoàn toàn không thể giải thích. Liệu đó có phải là điều kỳ diệu? Mời các bạn tiếp tục theo dõi chương sau.
II. NHỮNG CÂU HỎI LỚN LIÊN QUAN TỚI SỰ TỒN TẠI CỦA CON NGƯỜI
3. Những nguồn gốc của Vũ trụ
CÁCH ĐÂY HƠN HAI TRĂM NĂM, một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất thời bấy giờ là Immanuel Kant đã viết: “Có hai thứ làm tôi ngày càng tràn ngập cảm giác kính nể, ngày càng mong ngóng và thiết tha tìm hiểu chúng đó là: Bầu trời đầy sao trên đầu tôi, quy tắc đạo đức ở trong tôi”. Nỗ lực nhằm hiểu nguồn gốc cũng như quy luật vận hành của vũ trụ đã tạo nên đặc điểm phân biệt của tất cả các tôn giáo trong suốt thời kỳ lịch sử, cho dù đó là tục thờ cúng công khai Thần Mặt trời, gán ý nghĩa tâm linh cho những hiện tượng như nhật thực, nguyệt thực hay đơn thuần là cảm giác sùng kính những điều kỳ diệu.
Nhận xét của Kant có phải chỉ đơn thuần là suy tư tình cảm của một triết gia không được hưởng lợi ích gì từ những phát hiện của khoa học hiện đại, hay liệu có thể có sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo trong câu hỏi lớn vô cùng quan trọng này về nguồn gốc của vũ trụ?
Một trong những thách thức để đạt được sự hài hòa đó là khoa học luôn không ngừng phát triển. Các nhà khoa học liên tục tiếp cận những lĩnh vực mới, khám phá thế giới tự nhiên bằng những phương pháp mới, đào sâu hơn vào những lĩnh vực nơi hiểu biết của con người còn chưa hoàn chỉnh. Trước vô số các dữ liệu gồm những hiện tượng còn gây hoang mang và chưa ai giải thích nổi, các nhà khoa học đã xây dựng nên giả thuyết về các cơ chế có liên quan, sau đó tiến hành thí nghiệm để thẩm định những giả thuyết này. Rất nhiều thí nghiệm khoa học ở những lĩnh vực nổi trội nhất đã thất bại và hầu hết các giả thuyết lại bị chứng tỏ là sai. Khoa học lại tiến lên và tự sửa chữa: không có một kết luận cũng như giả thuyết sai lầm nào có thể duy trì được lâu vì những phát hiện mới hơn sẽ sớm đánh đổ những phát hiện sai lầm trước đó. Nhưng sau một thời gian dài, một loạt những phát hiện có hệ thống đôi khi lại xuất hiện và dẫn người ta tới một hệ thống niềm tin mới. Cái hệ thống niềm tin đó sau này được mô tả chân thực hơn và người ta gọi nó là “thuyết” - thuyết trọng lực, thuyết tương đối, lý thuyết gen.
Một trong những niềm hy vọng mà mỗi nhà khoa học đều ấp ủ là có được một phát hiện gây chấn động trong một lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà khoa học có rất nhiều niềm tin thầm kín, họ hy vọng rằng, một ngày nào đó sẽ có thể tìm ra một thực tế bất ngờ phá vỡ các hệ thống niềm tin hiện thời. Đó chính là ý nghĩa cho sự tồn tại của những giải thưởng như giải Nobel. Trong khía cạnh đó, bất kỳ giả định nào về việc các nhà khoa học có thể nuôi dưỡng ý đồ nhằm duy trì sự tồn tại của một giả thuyết đang được chấp nhận rộng rãi trong khi nó thực sự chứa đựng những sai sót trầm trọng là hoàn toàn đi ngược tư tưởng luôn mong ngóng đưa ra phát hiện mới này của các nhà khoa học.
Nghiên cứu thiên văn học đã chứng minh rất rõ các thực tế này. Trong vòng năm trăm năm qua, đã có rất nhiều biến cố lớn xảy ra bao gồm những thay đổi mạnh mẽ liên quan tới sự hiểu biết bản chất của vật chất và cấu trúc của vũ trụ. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trước mắt chúng ta còn có nhiều thay đổi nữa.
Những sự đổ bể này đôi khi có thể có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nỗ lực nhằm có được sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo, đặc biệt là nếu phía giáo hội gắn nó với quan điểm cái đến trước là cái quan trọng hơn và đưa nó vào hệ thống niềm tin cốt lõi. Sự hòa hợp ngày hôm nay có thể là mối bất hòa của ngày mai. Trong thế kỷ XVI, XVII, Copernicus, Kepler và Galileo (những người tin tưởng sâu sắc vào Chúa) đã xây dựng nên lập luận ngày càng thuyết phục đó là, chỉ có thể hiểu đúng sự chuyển động của các hành tinh khi Trái Đất quay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh Trái Đất. Một số chi tiết trong các kết luận của họ không phải đúng hoàn toàn (Galileo đã phạm phải một lỗi nổi tiếng trong lý giải của ông trước công chúng về thuỷ triều) và rất nhiều nhà khoa học lúc đầu không tin, nhưng cuối cùng, dữ liệu và sự thống nhất trong các giả thuyết đã thuyết phục được cả những nhà khoa học hoài nghi nhất. Tuy nhiên, giáo hội Công giáo vẫn phản đối mạnh mẽ và tuyên bố rằng, quan điểm này không thể so sánh với Kinh Thánh thiêng liêng được. Nghĩ lại, chúng ta thấy rõ ràng là việc lấy nền tảng từ Kinh Thánh để đưa ra những tuyên bố đó là khá mong manh. Tuy nhiên, sự đối lập này vẫn tiếp diễn hàng thập kỷ sau và cuối cùng đã gây ra nhiều tác hại đáng kể cho cả khoa học lẫn giáo hội.
Trong thế kỷ qua, cách nhìn nhận của chúng ta về vũ trụ đã có nhiều thay đổi lớn. Trước đây, người ta cho rằng, vật chất và năng lượng là những thực thể hoàn toàn khác biệt nhưng Einstein đã chỉ ra rằng chúng có thể thay thế cho nhau thông qua phương trình nổi tiếng E = mc2 (E là năng lượng, m là khối lượng và c là tốc độ ánh sáng). Việc phát hiện ra sự tồn tại cả sóng điện từ và hạt - hay rõ hơn là việc vật chất có đồng thời cả hai tính chất của sóng điện từ và hạt, một hiện tượng trong đó các thí nghiệm đã chỉ ra bằng chứng rõ ràng cho sự tồn tại của ánh sáng và các hạt chẳng hạn như các hạt electron, hoàn toàn là điều bất ngờ và nó khiến cả những nhà khoa học được đào tạo bài bản nhất cảm thấy thực sự ngỡ ngàng. Nguyên tắc không chắc chắn trong vật lý học lượng tử của Heisenberg, sự thừa nhận rằng có thể đo được vị trí hoặc động lượng của phân tử chứ không thể đo được cả hai đại lượng cùng một lúc ngay lập tức đã gây ra những hậu quả vô cùng tai hại cho cả khoa học lẫn thần học. Có thể điều có ảnh hưởng nhất là, nó làm thay đổi căn bản quan niệm của chúng ta về nguồn gốc của vũ trụ trong suốt quá trình 75 năm qua trên cơ sở cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm.
Hầu hết những thay đổi lớn trong cách hiểu của chúng ta về thế giới vật chất đều diễn ra trong khuôn khổ tương đối chật hẹp của những nghiên cứu khoa học và đại đa số công chúng vẫn còn chưa biết tới. Những nỗ lực cao quý hiếm hoi, như cuốn Lược sử thời gian (A Brief History of Time) của Stephen Hawking, đã cố gắng giải thích sự phức tạp của vật lý và vũ trụ học hiện đại cho một bộ phận công chúng lớn hơn nhưng dường như có khả năng năm triệu bản sách của Hawking vẫn còn chưa được nhiều người động tới và đại đa số họ thấy khái niệm trong các trang sách này quá kỳ lạ và khó hiểu.
Mặc dù vậy, các khám phá vật lý học trong những thập kỷ qua đã giúp chúng ta thấu hiểu bản chất của vật chất nhưng hiểu được nó quả thực không dễ dàng. Cách đây một trăm năm, nhà vật lý học Ernest Rutherford đã bình luận rằng “Một lý thuyết sẽ chẳng ra gì nếu nó không khiến cho một anh chạy bàn có thể hiểu được”. Căn cứ theo chuẩn mực này thì nhiều lý thuyết hiện đại về những phân tử cơ bản cấu thành nên toàn bộ vật chất chưa làm được điều đó.
Trong số rất nhiều khái niệm kỳ lạ hiện đang được rất nhiều thí nghiệm chứng minh, có những khái niệm như: các hạt neutron và proton (những hạt mà trước đây chúng ta từng nghĩ là các phân tử cơ bản cấu thành hạt nhân nguyên tử) là do sáu nguyên tố vi lượng - hạt quắc tạo thành
(có tên gọi là “lên”, “xuống”, “kỳ lạ”, “lôi cuốn”, “trên”, “dưới”). Sáu nguyên tố vi lượng này thậm chí còn kỳ lạ hơn khi người ta mô tả là mỗi hạt đều có ba màu (đỏ, xanh đậm, xanh nhạt). Những cái tên lạ lẫm được đặt cho những hạt này chí ít cũng chứng tỏ rằng các nhà khoa học của chúng ta rất có khiếu hài hước. Một dãy nhiều đến chóng mặt các hạt cơ bản khác từ photon tới graviton tới gluon rồi tới muon tạo nên một thế giới quá lạ lẫm với những trải nghiệm đời thường của con người, tới mức khiến cho những người không phải là nhà khoa học phải lắc đầu không thể tin nổi. Thế nhưng, tất cả các hạt này lại là những đảm bảo chính cho sự tồn tại của chúng ta. Đối với những người lập luận rằng nên ủng hộ Chủ nghĩa Duy vật hơn thuyết hữu thần bởi vì Chủ nghĩa Duy vật đơn giản hơn và có thể hiểu thông qua trực giác nhiều hơn thì những khái niệm mới này là thách thức lớn đối với họ. Rất nhiều người biết đến nguyên lý nổi tiếng Dao cạo của Occam (Occam‟s Razor) một biến thể của nguyên lý Ernest Rutherford, xuất phát từ niềm tin sai lầm của nhà logic học và vị tu sĩ thế kỷ XIV là William Ockham . Nguyên lý này nói rằng, tốt nhất là đưa ra cách giải thích đơn giản nhất cho bất kỳ một vấn đề nào. Ngày nay, Dạo cạo của Occam dường như ít có ảnh hưởng hơn so với những mô hình kỳ lạ của vật lý học lượng tử.
Nhưng, Rutherford và Occam vẫn được tôn vinh trong một khía cạnh vô cùng quan trọng: cũng phức tạp, rối rắm như những mô tả bằng lời về các hiện tượng mới được phát hiện này, những trình bày mang tính toán học của họ luôn tỏ ra rất thông thái nhưng lại đơn giản đến không ngờ và thậm chí rất tuyệt vời. Khi còn là sinh viên cao học ngành hóa lý của trường Đại học Yale, tôi đã có một trải nghiệm đáng nhớ, đó là được tham gia một khóa học về tương đối luận vật lý học lượng tử do nhà khoa học được giải Nobel là Willis Lamb giảng dạy. Trong cách truyền thụ kiến thức của mình, ông vận dụng từ những nguyên tắc đầu tiên của thuyết tương đối và vật lý học lượng tử. Ông làm điều này hoàn toàn xuất phát từ trí nhớ, thi thoảng lại bỏ bớt các bước và yêu cầu chúng tôi, những sinh viên đang tròn xoe mắt ngưỡng mộ ông, điền vào các chỗ trống trước khi đi sang giảng bài ở lớp tiếp theo.
Mặc dù cuối cùng thì tôi đã chuyển từ ngành vật lý sang sinh học, nhưng trải nghiệm về việc đưa ra các phương trình phổ quát đơn giản và đẹp đẽ mô tả thực tại của thế giới tự nhiên đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là vì kết quả cuối cùng đưa ra bao giờ cũng có sức hấp dẫn lớn về mặt thẩm mỹ. Điều này đã khơi dậy câu hỏi đầu tiên trong số các câu hỏi mang tính triết học về bản chất của vũ trụ vật lý, đó là tại sao sự việc lại vận hành theo cách như vậy? Theo ngôn từ của Eugene Wigner thì cái gì có thể lý giải cho “ấn tượng có vẻ bất hợp lý này của toán học?”.
Liệu đây có phải là chỉ một sự tình cờ thú vị hay nó phản ánh sự thấu hiểu lớn lao nào đó về bản chất thực tại? Nếu một ai đó sẵn sàng chấp nhận khả năng tồn tại đấng siêu nhiên, liệu có phải đó cũng là sự thấu hiểu suy nghĩ của Chúa? Liệu Einstein, Heisenberg và những người khác có trải nghiệm nào về đấng thần thánh này không?
Những câu cuối cùng của cuốn Lược sử thời gian (A Brief History of Time) đề cập tới một thời gian hy vọng khi người ta đưa ra được một thuyết thống nhất và rõ ràng về mọi việc, Stephen
Hawking (nhìn chung thường không đưa ra những lý thuyết suông) nói rằng, “Khi đó, tất cả chúng ta, những nhà khoa học, triết học và cả những người bình thường, có thể tham gia thảo luận câu hỏi về việc tại sao chúng ta và cả cái vũ trụ này lại tồn tại. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là chiến thắng tuyệt vời nhất của loài người - vì khi đó chúng ta có thể biết được những suy nghĩ của Chúa”. Liệu những mô tả mang tính toán học này có thực sự là dấu hiệu cho một trí tuệ nào đó lớn hơn? Liệu toán học cùng với ADN có phải là thứ ngôn ngữ khác của Chúa?
Chắc chắn rằng, toán học đã dẫn các nhà khoa học tới ngay cánh cửa của một số câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả. Câu hỏi đầu tiên trong số đó là: Mọi thứ đã bắt đầu như thế nào?
Vụ nổ lớn
Đầu thế kỷ XX, hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng, vũ trụ không có điểm bắt đầu cũng không có điểm kết thúc. Điều này đã tạo nên những nghịch lý vật lý nhất định, chẳng hạn như làm sao vũ trụ có thể duy trì trạng thái ổn định mà không sụp đổ dưới tác dụng của trọng lực.
Nhưng những giả thuyết khác dường như cũng có vẻ không hấp dẫn lắm. Khi Einstein đưa ra Thuyết Tương đối vào năm 1916, ông giới thiệu một “fudge factor” (tạm dịch là một “đại lượng mềm”) đã ngăn chặn sự bùng nổ của trọng lực và duy trì vũ trụ trong trạng thái vững chắc. Sau này, ông đã gọi “đây là nhầm lẫn lớn nhất trong cuộc đời tôi”.
Các định đề khác đã đưa ra cách lý giải thay thế liên quan tới sự hình thành của vũ trụ, đó là nó bắt đầu vào một thời điểm nhất định sau đó giãn nở và mở rộng tới trạng thái như hiện nay nhưng trước khi các nhà vật lý sẵn sàng cân nhắc nghiêm túc giả thuyết này, cần phải có những kiểm nghiệm bằng thực nghiệm để khẳng định điều này. Những dữ kiện đó đã được Edwin
Hubble đưa ra đầu tiên vào năm 1929 trong một loạt thí nghiệm nổi tiếng mà ở đó ông quan sát kỹ tỷ lệ các dải ngân hà xung quanh đang tách ra khỏi dải ngân hà của chúng ta.
Sử dụng hiệu ứng Doppler - một nguyên tắc tương tự cho phép cảnh sát bang xác định tốc độ xe ô tô của bạn khi bạn cho xe chạy ngang qua thiết bị ra đa của họ, hay tạo nên tiếng còi hiệu to hơn khi tàu đang đến gần bạn - Hubble đã phát hiện thấy rằng, ở tất cả những nơi ông quan sát, ánh sáng trong các dải ngân hà cho thấy chúng đang tách khỏi ngân hà của chúng ta. Những ánh sáng này càng xa thì các dải ngân hà này càng cách chúng ta xa hơn.
Nếu như tất cả mọi vật trong vũ trụ này đều sẽ tản ra xa thì quay ngược mũi kim thời gian, chúng ta có thể dự đoán rằng, vào một thời điểm nào đó, tất cả những dải ngân hà này đều hòa vào một thực thể lớn không thể tưởng tượng được. Các quan sát của Hubble đã khởi nguồn cho những đo đạc thực nghiệm dồn dập mà trong bảy mươi năm qua, phần lớn các nhà vật lý và vũ trụ học đã đưa ra kết luận rằng, vũ trụ này bắt đầu vào một thời điểm nhất định mà ngày nay chúng ta thường đề cập đến với cái tên Vụ nổ lớn (Big Bang). Tính toán cho thấy thời điểm đó xảy ra cách đây khoảng 14 tỷ năm.
Một nội dung cực kỳ quan trọng liên quan tới tính chính xác của lý thuyết này được Arno
Penzias và Robert Wilson đưa ra khá tình cờ vào năm 1965 khi họ phát hiện ra nền tín hiệu vi sóng cứ liên tục xuất hiện khiến họ phát bực dù cho họ có chĩa cái máy tách sóng mới của mình về hướng nào. Sau khi loại bỏ tất cả những nguyên nhân có thể (trong đó có cả nghi ngờ ban đầu rằng thủ phạm chính là những con bồ câu), cuối cùng Penzias và Wilson đã nhận ra âm thanh nền đó tới từ chính bản thân vũ trụ và chính nó đã tạo ra loại ánh hồng ban chiều ở đằng chân trời mà người ta cho rằng đó là do hậu quả của Vụ nổ lớn, xuất hiện từ sự phá huỷ của vật chất và phản vật chất xảy ra vào những thời điểm ban đầu khi vũ trụ nổ.
Một bằng chứng thuyết phục khác củng cố cho tính đúng đắn của thuyết Vụ nổ lớn là tỷ lệ những nguyên tố nhất định trên khắp vũ trụ đặc biệt là hydro, đơteri và heli. Việc thừa đơteri khá bất biến từ những tinh cầu gần kề tới những dải ngân hà xa xôi nhất sát tận chân trời của chúng ta.
Phát hiện đó nhất quán với việc tất cả các đơteri của vũ trụ đã được hình thành ở nhiệt độ cao không thể tưởng tượng vào một thời điểm cụ thể trong suốt thời gian xảy ra Vụ nổ lớn. Nếu như có nhiều sự kiện tương tự như vậy ở những vị trí và thời điểm khác nhau, chúng ta sẽ không thể trông đợi là có một sự thống nhất như thế.
Dựa trên những bằng chứng này và các phát hiện khác, các nhà vật lý học đã nhất trí rằng, vũ trụ khởi nguồn từ một điểm năng lượng tinh khiết không có chiều không gian, hoàn toàn đông đặc. Ở khía cạnh này, các quy luật của vật lý học không thể giải thích nổi và chúng ta vẫn thường gọi nó là “sự kỳ quặc”. Ít nhất là cho tới nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể hiểu những khoảnh khắc sớm nhất của Vụ nổ lớn diễn ra như thế nào. Những khoảnh khắc này xảy ra vào khoảng 10-43 giây đầu tiên (một phần một triệu của một triệu của một triệu của một triệu của một triệu của một triệu của một triệu của một giây!). Sau này, các nhà khoa học có thể đưa ra dự đoán về những hiện tượng chắc hẳn đã phải diễn ra để hình thành nên vũ trụ như hiện nay chúng ta có thể quan sát, trong đó có sự phá huỷ của vật chất và phi vật chất, việc hình thành hạt nhân nguyên tử ổn định và cuối cùng là tạo thành các nguyên tử, đầu tiên là hydro, đơteri và heli.
Câu hỏi mà tới giờ chúng ta vẫn chưa trả lời được là liệu Vụ nổ lớn có dẫn tới một vũ trụ sẽ nở ra mãi mãi, hay, liệu ở một thời điểm nào đó, trọng lực sẽ tăng dần lên, những dải ngân hà sẽ bắt đầu rơi chồng lên nhau và cuối cùng dẫn tới Vụ co lớn . Phát hiện gần đây về những thứ còn nhiều bí ẩn gọi là năng lượng hay vật chất huyền bí, nguồn năng lượng dường như chiếm một lượng rất lớn vật chất trong vũ trụ, khiến câu hỏi này vẫn còn để ngỏ nhưng, bằng chứng tốt nhất có được ở thời điểm đó dự đoán rằng đã xảy ra sự biến mất dần dần chứ không phải một sự sụp đổ nhanh chóng.
Chuyện gì đã xảy ra trước Vụ nổ lớn?
Sự tồn tại của Vụ nổ lớn khiến người ta muốn đặt câu hỏi về việc trước đó đã xảy ra điều gì và ai hay cái gì gây ra nó. Chắc chắn điều này chỉ ra những hạn chế của khoa học vì nó chưa đưa ra thêm hiểu biết sâu sắc nào. Thuyết Vụ nổ lớn có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với thần học. Với các tôn giáo giữ niềm tin truyền thống rằng vũ trụ là do Chúa tạo nên từ cái hư vô thì đây chính là một kết quả rất thú vị. Liệu một sự kiện đáng ngạc nhiên như Vụ nổ lớn có phù hợp với định nghĩa về sự kỳ diệu này hay không?
Cảm giác kính nể tạo nên từ cách nhìn nhận này khiến cho nhiều nhà khoa học bất khả tri có vẻ như trở nên hết sức thần học. Trong cuốn Chúa và các nhà thiên văn học (God and the
Astronomers), nhà vật lý học thiên thể Robert Jastrow đã viết trong đoạn kết rằng: “Ở thời điểm này, dường như khoa học sẽ không bao giờ có thể vén lên tấm rèm về bí mật của sự sáng tạo. Đối với nhà khoa học, người đã sống với niềm tin vào sức mạnh của lập luận, câu chuyện kết thúc như một giấc mơ buồn. Anh ta đã trèo lên những đỉnh núi của sự vô minh và khi gần chinh phục được đỉnh núi, kéo mình lên trên phiến đá cuối cùng thì anh ta được rất nhiều nhà thần học chào đón, họ đã ngồi đó trước anh hàng thế kỷ rồi”.
Đối với những người mong muốn đem các nhà thần học và khoa học lại gần nhau hơn, có rất nhiều phát hiện gần đây về nguồn gốc của vũ trụ có thể khởi nguồn cho sự công nhận lẫn nhau. Trong cuốn sách mang tính khuyến khích của mình, Jastrow đã viết “Giờ đây chúng ta hiểu các bằng chứng thiên văn học có liên hệ với quan điểm về cội nguồn thế giới của Kinh Thánh như thế nào. Chi tiết có thể khác nhưng những yếu tố cốt lõi và lời lý giải của thiên văn học và của Sách Sáng Thế (Genesis) là giống nhau, chuỗi sự kiện dẫn tới việc con người xuất hiện bất ngờ và nhanh chóng vào một thời điểm nhất định, trong một chớp nhoáng của năng lượng và ánh sáng”.
Tôi phải đồng ý. Ở đây, Vụ nổ lớn rất cần lời giải thích thần thánh. Nó củng cố cho kết luận rằng tự nhiên có một khởi đầu xác định. Tôi không thể hình dung được, làm thế nào tự nhiên có thể tự tạo ra chính nó. Chỉ một lực lượng siêu nhiên ở bên ngoài vũ trụ và thời gian mới có thể làm nổi điều đó.
Nhưng thế còn những sáng tạo còn lại thì sao? Chúng ta hiểu gì về quá trình dài, rộng qua đó hành tinh, Trái Đất của chúng ta tồn tại, khoảng 10 tỷ năm sau khi Vụ nổ lớn xảy ra?
Sự hình thành hệ mặt trời và trái đất quay quanh nó
Trong khoảng một triệu năm đầu tiên sau khi xảy ra Vụ nổ lớn, vũ trụ giãn nở, nhiệt độ hạ xuống, các nguyên tử và hạt nhân bắt đầu hình thành. Vật chất bắt đầu kết hợp thành những dải ngân hà dưới tác dụng của trọng lực. Nó đạt được chuyển động luân phiên như trước đó và cuối cùng dẫn tới dạng xoáy trôn ốc của các dải ngân hà như dải ngân hà của chúng ta. Hydro và heli trong những dải ngân hà đó quy tụ cục bộ lại với nhau làm cho mật độ cũng như nhiệt độ của chúng tăng lên. Quá trình kết tụ hạt nhân cuối cùng cũng bắt đầu.
Quá trình trong đó bốn hạt nhân nguyên tử hydro kết hợp với nhau tạo thành năng lượng và một hạt nhân heli tạo nên nguồn nhiên liệu chính cho các tinh cầu. Tinh cầu lớn hơn cháy nhanh hơn. Khi bắt đầu tỏa nhiệt, chúng tạo ra các nguyên tố cacbon và oxy thậm chí còn nặng hơn trong lõi của chúng. Vào thời điểm ban đầu của vũ trụ (trong vòng vài trăm triệu năm đầu tiên), những nguyên tố như vậy chỉ xuất hiện ở tâm của những tinh cầu đang sụp đổ nhưng một số tinh cầu này sau đó lại trải qua những vụ nổ lớn mà chúng ta gọi là siêu tân tinh, bắn những nguyên tố nặng hơn trở lại lớp khí trong dải ngân hà.
Các nhà khoa học tin rằng, mặt trời của chúng ta không hình thành ngay từ những ngày đầu của vũ trụ. Thay vào đó, nó là một tinh cầu thế hệ thứ hai hoặc thứ ba được hình thành cách đây 5 tỷ năm thông qua một sự kết hợp cục bộ. Khi điều đó xảy ra, một phần nhỏ các nguyên tố nặng hơn ở khu vực xung quanh thoát khỏi việc sát nhập vào tinh cầu mới và thay vào đó, chúng tụ hợp thành các hành tinh giờ đây quay xung quanh mặt trời. Trong những hành tinh ấy, có cả Trái Đất của chúng ta, hành tinh mà vào những ngày đầu tiên không được dễ chịu cho lắm. Trái Đất lúc đầu rất nóng và liên tục có những va chạm xảy ra nhưng sau đó, nó dần dần nguội đi, hình thành bầu khí quyển và trở nên dễ chịu hơn. Khi đó, sự sống bắt đầu xuất hiện, cách ngày nay khoảng 4 tỷ năm. Chưa đầy 150 triệu năm sau, Trái Đất đã tràn ngập sự sống.
Tất cả những bước hình thành nên Hệ Mặt trời của chúng ta giờ đây được mô tả rất kỹ lưỡng và nó khó có thể thay đổi dù có thêm các thông tin trong tương lai. Gần như tất cả hạt nhân trong cơ thể của bạn đều đã một lần được nấu trong lò nung hạt nhân của một ngôi sao băng cổ xưa - các bạn thực sự được tạo thành từ tro tàn của những vì sao.
Liệu có tác động thần học tới bất kỳ khám phá nào trong những khám phá này hay không?
Chúng ta hiếm có tới mức nào? Tại sao lại không thể?
Người ta có thể lập luận rằng, nguồn gốc của những hình thái sự sống phức tạp trong vũ trụ này không thể xảy ra 5-10 tỷ năm sau Vụ nổ lớn. Bởi vì, ít nhất, theo những gì chúng ta biết, thế hệ các tinh cầu đầu tiên không thể chứa những nguyên tố nặng như cacbon và oxy mà chúng ta biết chắc là rất cần cho sự sống. Chỉ có tinh cầu thế hệ thứ hai hoặc thứ ba và hệ thống hành tinh đi kèm nó mới có thể có tiềm năng đó. Thậm chí cả khi ấy, cũng cần rất nhiều thời gian để các sinh vật sống đạt được khả năng tri giác và cảm nhận. Mặc dù những hình thái sự sống khác không phụ thuộc vào những nguyên tố nặng có thể đang tồn tại đâu đó trong vũ trụ này nhưng sẽ rất khó nhìn nhận sâu sắc bản chất của những sinh vật sống như vậy bằng kiến thức vật lý và hóa học hiện nay của chúng ta.
Điều này tất nhiên đặt ra câu hỏi về việc liệu sự sống có tồn tại ở một nơi nào đó trong vũ trụ khiến chúng ta có thể nhận biết được không. Trong khi chưa ai trên Trái Đất này có bất kỳ một dữ liệu nào chứng tỏ điều này là sai hay đúng thì Frank Drake, nhà thiên văn học khí quyển, đã đưa ra một phương trình nổi tiếng vào năm 1961 thúc đẩy việc xem xét những khả năng có thể xảy ra. Phương trình của Drake là cách hữu dụng nhất chứng tỏ sự thiếu tri thức của chúng ta.
Drake đã nhấn mạnh một cách đơn giản và logic rằng, số lượng của các nền văn minh giao tiếp trong thiên hà của chúng ta phải là sản phẩm của bảy yếu tố:
Số lượng các tinh cầu trong dải thiên hà (khoảng 100 tỷ), nhân với
Tỷ lệ những tinh cầu có các hành tinh xoay xung quanh, nhân với
Số lượng các hành tinh/tinh cầu có khả năng duy trì sự sống, nhân với
Tỷ lệ của các hành tinh nơi thực sự khởi nguồn sự sống, nhân với
Tỷ lệ của các hành tinh nơi khởi nguồn sự sống có tri thức, nhân với
Tỷ lệ của các hành tinh thực sự phát triển khả năng giao tiếp, nhân với
Tỷ lệ của sự sống ở những hành tinh này trong đó khả năng giao tiếp giao thoa với hành tinh của chúng ta.
Chúng ta có khả năng giao tiếp ra ngoài Trái Đất trong vòng chưa đầy một trăm năm qua. Trái Đất xấp xỉ 4,5 tỷ năm tuổi, vì vậy, thừa số cuối cùng của Drake chỉ phản ánh một phần nhỏ trong hàng tỷ năm trời tồn tại của Trái Đất: 0,000000022. (Nhiều người cho rằng, tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người về khả năng riêng biệt của chúng ta trong tương lai mà phân số đó thậm chí có thể còn lớn hơn thế nhiều).
Công thức của Drake rất thú vị, nhưng cơ bản là không có tác dụng gì bởi vì chúng ta không thể đưa ra bất kỳ tuyên bố chắc chắn nào về giá trị của hầu hết tất cả những số hạng này ngoại trừ số lượng các tinh cầu trong dải Thiên hà. Chắc chắn, những tinh cầu khác từng được phát hiện đều có các hành tinh xoay xung quanh, nhưng những số hạng còn lại vẫn là một bí ẩn. Mặc dù vậy, Frank Drake đã tự thành lập nên Viện Nghiên cứu Trí tuệ ngoài Hành tinh (SETI) hiện đang là nơi quy tụ các nhà vật lý, thiên văn học chuyên và không chuyên và cả những người khác trong nỗ lực tìm ra các tín hiệu có thể tới từ các nền văn minh khác ngoài ngân hà của chúng ta.
Người ta đã đề cập rất nhiều đến tầm quan trọng tiềm năng mang tính thần học của việc phát hiện ra sự sống trên các hành tinh khác. Liệu đó có phải là điều chỉ đến rồi lại đi? Liệu một sự kiện như thế có tự động khiến cho nhân loại trên Trái Đất này ít “đặc biệt” hơn? Liệu việc tồn tại sự sống trên các hành tinh khác có khiến cho một Chúa sáng tạo ít can dự hơn tới quy trình này?
Theo quan điểm của tôi, những kết luận như vậy dường như không thực sự đảm bảo. Nếu Chúa tồn tại và muốn trở thành bạn của những người có khả năng nhận thức như chúng ta cũng như có thể đương đầu với thách thức là giao tiếp với cả 6 tỷ người hiện đang sống trên hành tinh này cũng như vô số những người khác từng sống thì tại sao Người lại không thể giao tiếp với những con người tương tự ở một hoặc một số triệu hành tinh khác. Tất nhiên, sẽ là điều vô cùng thú vị nếu chúng ta khám phá ra việc liệu tạo vật ở những phần khác đó trong vũ trụ có sở hữu Luật Đạo đức hay không, đó là chưa kể tầm quan trọng của nó trong việc giúp chúng ta nhận biết bản chất của Chúa. Tuy nhiên, thực tế là, không ai trong chúng ta có thể biết được câu trả lời cho những câu hỏi này suốt cuộc đời của mình.
Nguyên tắc nhân chủng học
Ngày nay, khi chúng ta hiểu hơn về nguồn gốc của vũ trụ và hệ mặt trời thì có nhiều thực tế rõ ràng là rất hấp dẫn về thế giới tự nhiên được khám phá khiến các nhà khoa học, triết học và thần học phải băn khoăn. Hãy xem xét ba phát hiện dưới đây:
1. Trong giai đoạn ban đầu của vũ trụ sau Vụ nổ lớn, vật chất và phản vật chất được tạo nên với số lượng gần như tương đương nhau. Vào thời điểm một phần một triệu giây, vũ trụ đủ nguội để các hạt quắc và những hạt phản quắc “đông đặc lại”. Hạt quắc gặp một hạt phản quắc sẽ dẫn đến sự huỷ diệt của cả hai, giải phóng một hạt năng lượng photon. Quá trình này xảy ra rất nhanh do mật độ cao của những hạt này. Nhưng sự cân đối giữa vật chất và phản vật chất không hoàn toàn chính xác vì cứ khoảng mỗi một tỷ đôi hạt quắc và hạt phản quắc lại có thêm một hạt quắc.
Chính nhờ phần nhỏ tiềm năng ban đầu đó của toàn bộ vũ trụ này mới tạo nên toàn bộ vũ trụ như chúng ta biết ngày nay.
Tại sao lại tồn tại sự không đối xứng đó? Có vẻ như “tự nhiên” hơn nếu không có tính đối xứng. Nhưng nếu như có sự đối xứng hoàn toàn giữa vật chất và phản vật chất thì cái vũ trụ này có thể sẽ nhanh chóng phát xạ và sẽ chẳng bao giờ tồn tại loài người, các hành tinh, những vì sao và các dải ngân hà.
2. Cách thức vũ trụ này giãn nở sau Vụ nổ lớn phụ thuộc hoàn toàn vào tổng khối lượng cũng như năng lượng mà vũ trụ này có là bao nhiêu, đồng thời phụ thuộc vào sức mạnh của hằng số trọng lượng. Mức độ ăn khớp tới mức khó tin của những hằng số này đã và đang là chủ đề khiến rất nhiều chuyên gia quan tâm. Hawking đã viết: “Tại sao vũ trụ lại khởi nguồn với tỷ lệ giãn nở tới hạn quá gần tới mức tách rời các mô hình tái sụp đổ khỏi những mô hình tiếp tục giãn nở mãi mãi khiến cho tới tận bây giờ, đã 10 tỷ năm sau thời điểm đó, nó vẫn còn đang giãn nở gần tới độ tới hạn? Nếu như tỷ lệ mở rộng một giây sau Vụ nổ lớn nhỏ hơn cả một phần 100 tỷ thì vũ trụ có thể đã tái sụp đổ trước khi nó đạt đến kích thước như bây giờ”.
Mặt khác, nếu như tỷ lệ mở rộng lớn hơn thậm chí chỉ một phần một triệu, các tinh cầu và các hành tinh đã không thể hình thành. Các giả thuyết gần đây đề cập tới việc giãn nở nhanh (lạm phát) không thể tưởng tượng nổi của vũ trụ vào những thời điểm đầu tiên dường như giải thích phần nào lý do tại sao việc giãn nở hiện nay quá gần cái giá trị tới hạn đó. Tuy nhiên, rất nhiều nhà vũ trụ học cho rằng điều này chỉ đẩy trở lại câu hỏi là tại sao vũ trụ lại có khả năng trải qua sự giãn nở có tính lạm phát như vậy. Chúng ta biết rằng, sự tồn tại của một vũ trụ như thế là điều gần như không thể.
3. Tình huống đáng lưu ý tương tự cũng xảy ra đối với việc hình thành các nguyên tố nặng hơn. Nếu như lực hạt nhân mạnh kết hợp các hạt proton và neutron yếu hơn một chút thì khi đó có thể chỉ có hydro hình thành trong vũ trụ này. Mặt khác, nếu lực hạt nhân mạnh hơn một chút thì tất cả khí hydro đã có thể chuyển thành heli thay vì 25% xảy ra từ trước trong Vụ nổ lớn và vì vậy cái lò nung kết hợp của các tinh cầu và khả năng chúng có thể hình thành những nguyên tố nặng đã chẳng bao giờ xảy ra.
Ngoài phát hiện đáng lưu ý này, năng lượng hạt nhân có vẻ như sẽ được điều chỉnh vừa đủ để hình thành nên cacbon. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp tạo nên sự sống trên Trái Đất. Giá như cái lực đó hút mạnh hơn một chút, tất cả các nguyên tử cacbon đã chuyển thành oxy.
Tổng cộng, có 15 hằng số vật lý mà thuyết hiện đại chưa thể ước đoán được giá trị của nó. Chúng là những số đã cho: đơn giản là chúng có giá trị mà chúng có. Danh sách này bao gồm tốc độ ánh sáng, độ lớn lực hạt nhân mạnh và yếu, nhiều thông số gắn liền với điện từ học và trọng lực. Cơ hội, trong đó tất cả những hằng số này nhận những giá trị cần thiết để tạo nên một vũ trụ ổn định có khả năng duy trì các hình thái sự sống phức tạp gần như rất nhỏ. Tuy vậy, những hình thái đó chính xác là các thông số mà chúng ta quan sát. Tóm lại, vũ trụ của chúng ta hoàn toàn kỳ lạ.
Bạn có thể phản đối thẳng thừng rằng lập luận này có vẻ hơi vòng vo: vũ trụ phải có các thông số đi kèm với kiểu ổn định này nếu không chúng ta đã không ở đây để bình luận về nó. Kết luận chung này được gọi là nguyên lý vị nhân, đó là tư tưởng cho rằng vũ trụ của chúng ta được điều chỉnh để dành riêng cho con người. Kể từ khi được nhìn nhận trọn vẹn vài thập kỷ trở lại đây, vũ trụ trở thành nguồn của rất nhiều điều kỳ diệu và ngoạn mục.
Về cơ bản, có thể có ba câu trả lời đối với Nguyên lý vị nhân:
1. Có thể có một số lượng vũ trụ cơ bản là vô hạn, hoặc tồn tại đồng thời với vũ trụ của chúng ta hoặc theo một trình tự nào đó, với các giá trị hằng số vật lý và thậm chí cả những quy luật vật lý khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không thể quan sát được các vũ trụ khác. Chúng ta chỉ có thể tồn tại trong một vũ trụ mà ở đó tất cả những đặc tính vật lý vận hành cùng nhau để tạo nên sự sống và nhận thức. Vũ trụ của chúng ta không phải là kỳ diệu, nó chỉ đơn thuần là một sản phẩm bất thường của thử và sai. Người ta gọi đây là giả thuyết “đa vũ trụ” (“multiverse”).
2. Chỉ có một vũ trụ và nó chính là vũ trụ này. Nó chỉ tình cờ có được những đặc điểm đúng đắn để tạo nên một sự sống có tri thức. Nếu không có nó, chúng ta sẽ không ngồi đây để thảo luận điều này. Chúng ta tồn tại chỉ là do đã rất, rất, rất may mắn.
3. Chỉ có một vũ trụ và nó chính là vũ trụ này. Việc điều chỉnh chính xác tất cả những hằng số vật lý và các quy luật vật lý để tạo nên cuộc sống có tri thức không phải là một sự tình cờ mà ngay từ đầu, nó phản ánh hành động của người đã tạo nên vũ trụ ngay thuở đầu tiên.
Bất kể một người có ưu tiên cho lựa chọn nào trong số các lựa chọn 1, 2 hay 3 đều không thể phủ nhận rằng cơ bản đây là một vấn đề thần học. Ian Barbour đã trích dẫn lời của Hawking nói rằng "Rất nhiều người phản đối việc một vũ trụ như vũ trụ của chúng ta hình thành từ một cái gì đó giống như là một Vụ nổ lớn. Tôi nghĩ chắc chắn có tác động của tôn giáo”.
Thậm chí đi xa hơn một chút, trong cuốn Lược sử thời gian, Hawking đã đề cập: “Sẽ rất khó lý giải tại sao vũ trụ lại khởi nguồn theo cách như vậy, ngoại trừ việc đó là do Chúa đã chủ định tạo nên những thực thể như chúng ta.”
Một nhà vật lý học rất nổi tiếng khác là Freeman Dyson, sau khi xem xét "hàng loạt những sự cố” này đã kết luận: “Càng khám phá vũ trụ và những chi tiết kiến trúc của nó bao nhiêu, tôi càng tìm ra được nhiều bằng chứng hơn rằng ở một khía cạnh nào đó, vũ trụ chắc hẳn đã biết việc loài người chúng ta sẽ xuất hiện”. Và Arno Penzias, nhà khoa học đoạt giải Nobel, người đồng phát hiện sự bức xạ nền vi sóng vũ trụ và là người lúc đầu ủng hộ mạnh mẽ cho Vụ nổ lớn đã lập luận rằng: “Dữ liệu tốt nhất mà chúng ta có hoàn toàn giống với những gì tôi đã dự đoán, tôi không cần phải nói thêm điều gì bên ngoài năm sách của Moses, Sách Thánh Vịnh (Psalm) và toàn bộ Kinh Thánh”. Có thể Penzias đã nghĩ về những từ ngữ mà vua David dùng trong Thánh
Vịnh 8: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài thì con người là chi mà Chúa cần đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?”.
Vì vậy, chúng ta sẽ đặt ba lựa chọn được liệt kê bên trên ở đâu? Hãy tiếp cận chúng một cách logic. Trước hết, chúng ta quan sát vũ trụ đúng như chúng ta biết về nó trong đó có cả bản thân chúng ta. Sau đó chúng ta sẽ tính toán xem cái nào trong số ba lựa chọn ở trên có vẻ thích hợp nhất. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta không có cách hay để xác định khả năng nào là phù hợp, ngoại trừ có thể là lựa chọn thứ 2. Đối với lựa chọn 1, vì số lượng các vũ trụ đạt được sự vô hạn là tương đương nên khả năng ít nhất một trong số chúng có được đặc tính vật lý của sự sống rất lớn. Tuy nhiên, đối với lựa chọn 2, khả năng này sẽ nhỏ gần như bằng 0. Khả năng của lựa chọn 3 phụ thuộc vào sự tồn tại một Đấng sáng tạo siêu nhiên, người quan tâm tới vũ trụ nghèo nàn.
Xét trên cơ sở khả năng, lựa chọn 2 ít hợp lý hơn cả. Khi đó, chúng ta còn lựa chọn 1 và lựa chọn 3. Lựa chọn thứ nhất có thể bảo vệ theo khía cạnh logic nhưng số lượng gần như vô hạn các vũ trụ mà con người chưa thể quan sát được đã khiến cho người ta khó có thể tin vào lựa chọn này. Dao cạo của Occam quả thực đã thất bại. Tuy nhiên những người thẳng thừng bác bỏ sự tồn tại của một Đấng sáng tạo thông thái sẽ lập luận rằng lựa chọn thứ 3 không hề đơn giản hơn chút nào bởi vì nó đòi hỏi sự can thiệp của một đấng siêu nhiên. Tuy nhiên, ta có thể nói là bản thân Vụ nổ lớn dường như cũng hướng thẳng tới một Đấng sáng tạo vì nếu không, câu hỏi về cái gì xảy trước đó sẽ vẫn còn treo lơ lửng.
Nếu một người sẵn sàng chấp nhận lập luận rằng Vụ nổ lớn đòi hỏi phải có một Đấng sáng tạo thì khi đó sẽ không phải là một bước nhảy xa khi đề xuất việc Đấng sáng tạo có thể đã thiết lập các tham biến (hằng số vật lý, các quy luật vật chất,...) để có thể thực hiện một mục đích xác định. Nếu mục đích đó tình cờ bao gồm cả một vũ trụ vốn hơn là một khoảng chân không không có nét gì đặc biệt thì khi đó chúng ta đã tới với lựa chọn thứ 3.
Nhằm đưa ra quyết định lựa chọn 1 hay 3, một câu chuyện ngắn của nhà triết học John Leslie đột nhiên xuất hiện trong tâm trí tôi. Câu chuyện này kể rằng, một người phải đối mặt với một đội súng và 50 thiện xạ lăm lăm những khẩu súng trường. Khi mệnh lệnh phát ra, những tiếng súng vang lên, tuy nhiên tất cả những viên đạn lại sượt khỏi nòng súng và người bị tử hình đó bước đi bình an vô sự.
Chúng ta có thể giải thích thế nào về một sự kiện đáng lưu ý như thế? Leslie cho rằng hai khả năng có thể xảy ra ứng với lựa chọn 1 và 3 của chúng ta. Khả năng thứ nhất, có thể có hàng ngàn vụ hành quyết diễn ra cùng một ngày và thậm chí cả người thiện xạ giỏi nhất thỉnh thoảng cũng bắn trượt. Chính vì vậy, điều hy hữu đã xảy ra có lợi cho người bị xử bắn này và toàn bộ 50 thiện xạ kia đã bắn chệch mục tiêu. Khả năng thứ hai là có cái gì đó được định hướng hơn đang diễn ra và 50 thiện xạ đó chủ đích bắn không trúng. Điều nào có vẻ hợp lý hơn?
Chúng ta phải để ngỏ cánh cửa cho khả năng là tương lai, những nghiên cứu trong vật lý học lý thuyết sẽ chứng minh rằng một số trong 15 biến số vật chất, vốn cho đến thời điểm này cơ bản đã được chứng minh bằng những quan sát thực nghiệm, có thể bị một cái gì đó lớn hơn hạn chế trong giá trị số tiềm năng của chúng nhưng một phát hiện như vậy khó có khả năng xảy ra sớm.
Hơn nữa, theo những lập luận khác trong chương này cũng như các chương trước và sau, không phát hiện khoa học nào có thể đạt tới mức độ là xác thực sự tồn tại của Chúa. Nhưng, với những ai sẵn sàng nhìn nhận quan điểm thần học, Thuyết Nhân chủng này chắc chắn sẽ đưa ra lập luận thú vị ủng hộ sự tồn tại của một Đấng Sáng tạo.
Cơ học lượng tử và nguyên lý bất định
Issac Newton từng là người tin vào Chúa và đã viết nhiều lý giải về Kinh Thánh hơn cả những gì ông viết liên quan tới toán học và vật lý, nhưng không phải tất cả những người đi theo ông đều có niềm tin tương tự. Đầu thế kỷ XIX, nhà toán học và vật lý học lừng danh người Pháp là Laplace đã đưa ra quan điểm: thế giới tự nhiên do một loạt những quy luật vật lý chính xác điều khiển (một số quy luật đã được khám phá, một số quy luật chưa được khám phá) và do đó, tự nhiên chắc chắn phải tuân theo những quy luật này. Theo quan điểm của Laplace, điều đó mở rộng tới cả những phân tử nhỏ nhất, những phần xa nhất trong vũ trụ và tới cả con người cũng như quá trình suy nghĩ của họ.
Laplace đã lập luận rằng khi cấu tạo ban đầu của vũ trụ hình thành, tất cả những sự việc tương lai khác bao gồm cả những sự việc liên quan tới trải nghiệm của con người về quá khứ, hiện tại và tương lai đều được sắp đặt từ trước. Điều này thể hiện dạng thức cực đoan của Thuyết quyết định khoa học , rõ ràng là không để chỗ trống nào cho Chúa (ngoại trừ lúc đầu) hay cho khái niệm về tự do ý chí. Nó đã tạo nên sự khuấy động trong cộng đồng khoa học và thần học (Như câu nói nổi tiếng của Laplace với Napoleon khi Napoleon hỏi ông về Chúa: “Tôi không cần cái thuyết đó”).
Một thế kỷ sau đó, quan niệm của Laplace về quyết định luận khoa học đã bị đảo ngược không phải bằng những lập luận thần học mà bằng khả năng thấu hiểu của khoa học. Cuộc cách mạng được biết đến với tên gọi là vật lý học lượng tử bắt đầu, đơn giản nó thể hiện cố gắng của các nhà khoa học nhằm lý giải những vấn đề trong vật lý học còn chưa sáng tỏ liên quan tới quang phổ ánh sáng. Dựa trên một số quan sát, Max Planck và Albert Einstein đã chỉ ra rằng, ánh sáng không đến trong tất cả những nguồn năng lượng có thể tồn tại mà nó được “lượng hoá” trong những phân tử có nguồn năng lượng chính xác mà ta gọi là các photon. Do đó, cho đến cùng thì ánh sáng không phải là không thể chia tách vô hạn mà nó cũng giống như độ phân giải của chiếc máy ảnh kỹ thuật số không thể nào nhỏ hơn một pixel.
Cùng thời điểm đó, Niels Bohr đã nghiên cứu cấu trúc nguyên tử và băn khoăn làm thế nào các hạt electron có thể duy trì trong quỹ đạo xung quanh các nguyên tử. Điện tích âm của mỗi electron hút nó về phía điện tích dương của mỗi proton trong hạt nhân và cuối cùng dẫn tới việc nổ không thể tránh khỏi của toàn bộ vật chất. Bohr đưa ra lập luận lượng tử tương tự và phát triển một giả thuyết rằng các hạt electron chỉ có thể tồn tại ở một số trạng thái cụ thể hữu hạn.
Nền tảng của cơ học cổ điển bắt đầu lung lay nhưng các hệ quả mang tính triết học lớn lao nhất của những phát hiện này sau đó đã xuất hiện từ nhà vật lý học Werner Heisenberg, người chỉ ra một cách thuyết phục rằng, trong thế giới lượng tử kỳ lạ gồm những khoảng cách và những phân tử rất nhỏ này, chúng ta không thể đo được chính xác cùng một lúc vị trí cũng như động lượng của một phân tử. Nguyên tắc không chắc chắn mang tên Heisenberg này ngay lập tức đã phủ nhận quyết định luận của Laplace vì nó chỉ ra rằng chúng ta không bao giờ có thể xác định được chính xác bất kỳ hình dạng ban đầu nào của vũ trụ như mô hình mang tính phỏng đoán mà Laplace đề ra.
Những tác động của vật lý học lượng tử đối với việc thấu hiểu ý nghĩa của vũ trụ đã trở thành chủ đề của rất nhiều nghiên cứu trong vòng 80 năm qua. Bản thân Einstein, mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển ban đầu của vật lý học lượng tử, ngay từ đầu đã bác bỏ khái niệm về sự không chắc chắn và ông nổi tiếng với câu nói: “Chúa không chơi xúc xắc”.
Những người theo thuyết hữu thần có thể đáp rằng trò chơi này có vẻ như không phải là trò chơi xúc xắc dành cho Chúa, thậm chí cả khi nó có thể là trò chơi dành cho chúng ta. Như Hawking đã chỉ ra: “Chúng ta vẫn có thể hình dung rằng có một tập hợp các luật xác định các hiện tượng hoàn toàn do một thực thể siêu nhiên nào đó chịu trách nhiệm, đó là người có thể quan sát hiện trạng của vũ trụ mà không làm nó nhiễu loạn”.
Vũ trụ học và giả thuyết về Chúa
Tóm lược ngắn gọn này về bản chất của vũ trụ dẫn tới việc xem xét lại tổng thể hơn tính hợp lý của giả thuyết về Chúa. Tôi nhớ tới Thánh Vịnh 19, trong đó, vua David viết: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm”. Rõ ràng là, cách nhìn nhận về thế giới của khoa học chưa hoàn toàn đầy đủ để có thể giải đáp tất cả những câu hỏi thú vị về nguồn gốc của vũ trụ và không có gì mâu thuẫn giữa việc tồn tại một Đấng sáng tạo là
Chúa với những gì khoa học đã khám phá ra. Trong thực tế, giả thuyết về Chúa đã giải quyết được một số câu hỏi vô cùng rắc rối về việc chuyện gì xảy ra trước Vụ nổ lớn và tại sao vũ trụ lại có sự điều chỉnh tuyệt vời như vậy để chúng ta được ở đây.
Đối với người theo thuyết hữu thần, được lập luận về Luật Đạo đức (Chương 1) dẫn dắt nhằm tìm kiếm một Chúa, Người không chỉ đưa vũ trụ vào vận hành mà còn quan tâm tới nhân loại thì có thể dễ dàng dẫn tới sự tổng hợp như thế. Lập luận có thể cơ bản là như thế này:
Nếu Chúa tồn tại, thì Người là siêu nhiên.
Nếu Chúa là siêu nhiên, thì Người không bị giới hạn bởi những quy luật của tự nhiên.
Nếu Người không bị giới hạn bởi những quy luật của tự nhiên, thì sẽ không có lý do gì để Người bị giới hạn bởi thời gian.
Nếu Người không bị giới hạn bởi thời gian, thì Người đã từng tồn tại trong quá khứ, đang có mặt ở hiện tại và sẽ còn xuất hiện ở tương lai.
Hệ quả của những kết luận đó sẽ như sau:
Người có thể tồn tại trước Vụ nổ lớn và Người có thể tồn tại sau khi vũ trụ này dần dần biến mất nếu nó từng như thế
Người có thể biết được kết quả chính xác của việc hình thành vũ trụ thậm chí trước cả khi nó bắt đầu.
Người có thể biết trước được về hành tinh gần rìa ngoài một dải ngân hà hình xoáy trôn ốc cỡ trung bình có những đặc điểm phù hợp cho sự sống.
Người có thể biết trước rằng hành tinh đó có thể dẫn tới sự hình thành những con người có khả năng tri giác thông qua cơ chế tiến hóa của quá trình chọn lọc tự nhiên.
Người thậm chí có thể biết trước được suy nghĩ và hành động của những con người đó, thậm chí cả khi bản thân họ có sự tự do ý chí.
Tôi sẽ còn nói rất nhiều điều nữa về những diễn tiến tiếp theo trong tổng hợp này nhưng giờ đây chúng ta có thể nhìn thấy phác thảo về một sự hòa hợp ăn ý giữa khoa học và đức tin.
Tổng hợp này được đưa ra không nhắm tới việc phớt lờ tất cả các thách thức và quan điểm còn chưa có được sự đồng thuận. Những người theo tôn giáo trên thế giới chắc chắn sẽ gặp khó khăn nhất định trước một số chi tiết về nguồn gốc của vũ trụ do các nhà khoa học dự đoán.
Các nhà thần luận như Einstein, người nhìn nhận Chúa là khởi nguồn cho toàn bộ quá trình nhưng sau đó lại không để ý tới những diễn biến tiếp theo đó, nhìn chung cảm thấy thoải mái với các kết luận gần đây của vật lý học và vũ trụ học với ngoại lệ trong đó có thể ngoại trừ nguyên lý bất định. Nhưng mức độ thoải mái của các tôn giáo hữu thần chính yếu thì có vẻ khác. Ý niệm về sự khởi đầu hữu hạn của vũ trụ hoàn toàn không rõ ràng với đạo Phật vốn cho rằng một vũ trụ liên tục chuyển động có vẻ là hợp lý hơn. Nhưng, những nhánh hữu thần khác như đạo Hindu không có mâu thuẫn gì lớn với thuyết về Vụ nổ lớn. Hầu hết (chứ không phải tất cả) những người theo đạo Hồi cũng như vậy.
Theo truyền thống của những người Kitô giáo gốc Do Thái, những lời mở đầu trong Sách Sáng
Thế (“Vào thuở ban đầu, Chúa đã tạo nên bầu trời và Trái Đất”) hoàn toàn giống với thuyết Vụ nổ lớn. Một ví dụ tiêu biểu là Giáo hoàng Pius XII của giáo hội Công giáo La Mã là người ủng hộ mạnh mẽ thuyết Vụ nổ lớn, thậm chí cả trước khi người ta thiết lập nên các nền tảng khoa học vững chắc để củng cố cho nó.
Tuy nhiên, không phải tất cả những lý giải của Thiên chúa giáo đều củng cố cách nhìn nhận này của khoa học về vũ trụ. Những người hiểu Sách Sáng Thế hoàn toàn theo nghĩa đen kết luận rằng Trái Đất chỉ có 6 ngàn năm tuổi và do đó bác bỏ hầu hết các kết luận đề cập ở trên. Theo một nghĩa nào đó, có thể hiểu sự phản đối của họ là lời yêu cầu có được sự thật: những người có đức tin ở một tôn giáo nhất định được củng cố bởi các kinh sách phản đối một cách thẳng thừng cách hiểu không kỹ càng về ý nghĩa của chúng. Chỉ nên hiểu những kinh sách vốn dường như để mô tả những sự kiện lịch sử là biểu tượng khi nào thực tế thực sự đòi hỏi điều đó.
Nhưng liệu Sách Sáng Thế có ở trong danh mục này không? Không nghi ngờ gì nữa, ngôn ngữ ở đây đầy chất thơ. Liệu nó có sự phóng túng về niêm luật hay không? (Sẽ có nhiều điều để nói về điều này trong chương sau). Đây không phải chỉ là câu hỏi của thời hiện đại mà trong suốt lịch sử, tranh luận đã nổ ra giữa những người giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen và những người không. Thánh Augustine, có thể coi là một trong những người có trí tuệ vĩ đại nhất trong tất cả các tôn giáo, đặc biệt ý thức về sự rủi ro trong việc biến các Thánh Kinh thành những luận đàm khoa học sâu sắc đã trực tiếp đề cập tới Chúa khi viết rằng: “Đối với những vấn đề vẫn còn khó hiểu và cách xa tầm nhìn của chúng ta, chúng ta tìm thấy chúng trong những đoạn văn ở Kinh Thánh và có thể hiểu chúng dưới nhiều cách khác nhau mà không hề ảnh hưởng tới đức tin đã có. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta không nên vội vàng hành động thiếu suy nghĩ cũng như nghiêng hẳn về một phía vì nếu như những tiến bộ hơn nữa trong quá trình tìm kiếm sự thực khiến lập trường đó suy yếu thì chúng ta cũng sẽ thất bại cùng với nó”.
Các chương tiếp theo sẽ nhìn nhận sát thực hơn những khía cạnh mà khoa học đã cống hiến trong quá trình nghiên cứu cuộc sống. Những xung đột tiềm tàng giữa khoa học và đức tin, ít nhất như rất nhiều người nhìn nhận, sẽ tiếp tục xuất hiện. Nhưng, tôi muốn nói rằng, nếu chúng ta khôn khéo áp dụng lời khuyên mà Thánh Augustine đưa ra từ hơn một ngàn năm trước khi cảm thấy có lỗi với Darwin, chúng ta có thể sẽ tìm ra một sự hòa hợp vô cùng thỏa mãn giữa những quan điểm này.
4. Sự sống trên hành tinh của những con vi trùng và loài người
NHỮNG TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC hiện đại đến cùng với sự biến mất của một số lập luận truyền thống liên quan tới niềm tin vào Chúa. Khi chưa hiểu được làm thế nào vũ trụ có thể tồn tại, chúng ta sẽ dễ coi đó là hành động của Chúa hơn trong khi lại có rất nhiều người phân biệt rạch ròi hành động nào là của Người. Tương tự như vậy, cho đến khi Kepler, Copernicus và Galileo làm đảo ngược tình thế vào thế kỷ XVI, thì trước đó đa phần mọi người đều tin rằng việc sắp đặt Trái Đất ở trung tâm của bầu trời đầy sao vô cùng huy hoàng dường như là một minh chứng mạnh mẽ cho sự tồn tại của Chúa. Nếu như Người đặt chúng ta vào sân khấu trung tâm, chắc hẳn Người đã xây dựng nó cho chúng ta. Khi khoa học lấy mặt trời làm tâm tạo ra sự thay đổi nhận thức này, rất nhiều người tin tưởng vào Chúa đã vô cùng sửng sốt.
Nhưng cơ sở thứ ba của đức tin vẫn tiếp tục có một sức nặng đáng kể đó là tính phức tạp của sự sống trên Trái Đất, ám chỉ bất kỳ người quan sát công minh nào về công trình của một kiến trúc sư thông minh. Như chúng ta thấy, giờ đây, khoa học đang lật ngược điều này. Nhưng với hai lập luận sau đây, tôi muốn nói rằng, những người tin vào Chúa không nên chối bỏ khoa học mà nên chấp nhận nó. Thực vậy, sự thông thái ẩn sau tính phức tạp của sự sống chính là lý do cho cảm giác kính nể cũng như lý do cho niềm tin vào Chúa chứ không phải là ở sự đơn giản, thẳng thừng khiến nhiều người thấy là quá hấp dẫn trước khi Darwin xuất hiện.
LẬP LUẬN TỪ SỰ SẮP ĐẶT (ARGUMENT FROM DESIGN) đã tồn tại ít nhất từ thời Cicero
. Nó đã được William Paley đưa ra vào năm 1802 trong cuốn sách có tầm ảnh hưởng lớn, đó là Thần học thiên nhiên (Natural Theology), hay Những bằng chứng cho sự tồn tại và những đặc điểm của Chúa quy tụ từ dáng vẻ của tự nhiên (Evidences of the Existence and Attributes of the
Deity Collected from the Appearance of Nature). Paley, nhà triết học đạo đức và là một mục sư Giáo phái Anh quốc, đã đề xuất phép loại suy nổi tiếng của người thợ sửa đồng hồ:
Khi đi qua một bãi đất hoang, giả sử như tôi đá phải một hòn đá và người ta hỏi tôi là làm sao hòn đá lại có mặt ở đó được, tôi có thể trả lời rằng, theo những gì tôi biết, hòn đá đã luôn nằm ở đó. Có thể dễ dàng chỉ ra sự vô lý trong câu trả lời này. Nhưng giả sử tôi tìm thấy ở chỗ đó một chiếc đồng hồ và người ta có thể hỏi, làm sao nó lại có thể ở chỗ đó, tôi khó có thể nghĩ được câu trả lời giống như tôi vừa đưa ra trên đây rằng, theo những gì tôi biết, chiếc đồng hồ này có thể đã có mặt ở chỗ đó từ trước tới nay… ngoài câu phải có người làm ra chiếc đồng hồ đó: chắc hẳn vào một thời điểm nào đó, ở nơi này hay nơi kia, phải có một hay nhiều người thợ đã tạo ra nó để chúng ta có thể thực sự tìm thấy câu trả lời - những người thợ đã hoàn thành việc thiết kế và chế tạo ra mục đích sử dụng của nó… Mọi chỉ số, mọi hình dáng thiết kế của chiếc đồng hồ đó đều tồn tại trong sự vận hành của tự nhiên với sự khác biệt ở chỗ tự nhiên lớn hơn hoặc nhiều hơn và nó tồn tại ở mức độ không thể tính toán được.
Bằng chứng về sự sắp đặt trong tự nhiên rất hấp dẫn đối với loài người suốt quá trình chúng ta tồn tại. Bản thân Darwin, trước chuyến hành trình trên con tàu HMS Beagle đã từng ngưỡng mộ những bài viết của Paley và thừa nhận ông đã bị những quan điểm này thuyết phục. Tuy nhiên, có một sai lầm trong lập luận của Paley, đơn giản đó là vấn đề logic. Có thể tóm tắt lập luận ông đưa ra như sau:
Chiếc đồng hồ rất phức tạp.
Chiếc đồng hồ có một người thiết kế thông minh.
Cuộc sống rất phức tạp.
Do đó, cuộc sống cũng có một người thiết kế thông minh.
Nhưng thực tế là, hai vật thể cùng có một đặc điểm tương đồng (sự phức tạp) không chứng tỏ rằng chúng cũng sẽ có tất cả những điểm tương đồng khác. Chẳng hạn, hãy xem xét lập luận dưới đây:
Dây điện trong nhà tôi gồm một dòng các hạt electron.
Dây điện tới từ nhà máy điện.
Chớp chứa một dòng các hạt electron.
Do đó, chớp tới từ nhà máy điện.
Dù có vẻ thú vị nhưng lập luận của Paley không thể phản ánh toàn bộ vấn đề. Để xem xét tính phức tạp của sự sống và nguồn gốc của loài người trên hành tinh này, chúng ta phải đi sâu vào những phát hiện thú vị liên quan đến sự thay đổi bản chất của các sinh vật sống mà cuộc cách mạng đương đại trong ngành cổ sinh vật học, sinh học phân tử và công nghệ gen mang lại. Một người có đức tin không cần phải sợ rằng nghiên cứu này sẽ hạ bệ đấng thần thánh. Nếu Chúa thực sự là đấng toàn năng, Người sẽ không có gì phải sợ hãi trước những nỗ lực nhỏ bé và yếu ớt của chúng ta nhằm hiểu về sự vận hành của thế giới tự nhiên do Người tạo ra. Và với tư cách là những người đi tìm kiếm sự thật, chúng ta có thể tìm ra nhiều câu trả lời thú vị cho câu hỏi “Sự sống vận hành như thế nào?” nhờ những phát hiện của khoa học. Điều chúng ta không thể khám phá được chỉ bằng khoa học đó là lời giải đáp cho các câu hỏi “Tại sao lại có sự sống?” và “Tại sao tôi lại ở đây?”.
Nguồn gốc của sự sống trên Trái đất
Khoa học bắt đầu trả lời câu hỏi về tính phức tạp của sự sống với một cột mốc thời gian. Giờ đây, chúng ta biết rằng vũ trụ này xấp xỉ 14 tỷ năm tuổi. Cách đây một thế kỷ, chúng ta thậm chí còn không biết hành tinh này đã xuất hiện được bao lâu. Nhưng, khám phá sau này về phóng xạ và sự phân rã tự nhiên của những đồng vị hóa học cụ thể đã đưa ra một cách khá chính xác và thông minh để xác định tuổi thọ của nhiều loại đá trong vũ trụ. Brent Dalrymple đã mô tả chi tiết cơ sở khoa học của phương pháp này trong cuốn sách của ông có tựa đề Tuổi của Trái Đất (The Age of the Earth). Nó phụ thuộc vào những chu kỳ bán rã rất dài mà chúng ta đều biết trong đó ba nguyên tố hóa học phóng xạ dần dần phân rã và chuyển thành những nguyên tố bền khác nhau: urani dần dần chuyển thành chì, kali dần dần chuyển thành agon và cái nguyên tố kỳ lạ hơn là stronti trở thành nguyên tố hiếm gọi là rubi. Bằng việc đo số lượng của bất kỳ cặp đôi nguyên tố nào trong số này, chúng ta có thể ước đoán được tuổi thọ của bất kỳ loại đá nào. Tất cả những phương pháp độc lập này đưa ra những kết quả trùng khớp đáng kinh ngạc, đó là đều chỉ ra độ tuổi của Trái Đất là khoảng 4,55 tỷ năm, sai sót ở đây ước tính chỉ ở mức 1%. Những hòn đá có nguồn gốc từ mặt trăng trên bề mặt Trái Đất khoảng 4 tỷ năm tuổi nhưng gần 70 thiên thạch và rất nhiều đá cuội có tuổi thọ tới 4,5 tỷ năm.
Tất cả những bằng chứng hiện có chỉ ra rằng trong vòng 500 triệu năm đầu tiên khi nó xuất hiện, Trái Đất khó có thể có sự sống. Lúc bấy giờ, Trái Đất chịu sự tấn công liên tục và có sức tàn phá lớn từ những hành tinh và các thiên thạch nhỏ mà một trong những cuộc tấn công đó đã khiến mặt trăng tách rời Trái Đất. Do vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi những tảng đá có niên đại 4 tỷ năm trước hay nhiều hơn không hề chỉ ra bằng chứng của một sinh vật sống nào. Tuy nhiên, chỉ 150 triệu năm sau đó, người ta đã tìm ra rất nhiều hình thái sự sống khác nhau của vi khuẩn. Các nhà khoa học cho rằng, những sinh vật đơn bào này có khả năng lưu trữ thông tin, có thể là sử dụng ADN và tự sao chép cũng như tiến hóa thành nhiều dạng khác nhau.
Gần đây, Carl Woese đã đưa ra một giả thuyết rất thuyết phục đó là vào thời điểm này trên Trái Đất, việc trao đổi ADN giữa các sinh vật đã được hoàn thiện. Về cơ bản, sinh quyển bao gồm một số lượng lớn những tế bào rất nhỏ độc lập nhưng chúng tương tác mạnh mẽ với nhau. Nếu một sinh vật nào đó tạo ra một chất đạm hay một loạt chất đạm có một lợi ích nhất định thì những sinh vật bên cạnh cũng nhanh chóng có những đặc điểm mới tương tự như thế. Có thể trong hoàn cảnh đó, sự tiến hóa ở thời điểm ban đầu mang tính cộng đồng nhiều hơn là tính cá thể. Loại “chuyển gen ngang” này được lưu giữ trong những cơ thể vi khuẩn cổ xưa nhất và giờ đây vẫn còn tồn tại trên hành tinh (vi khuẩn cổ) có thể đã tạo nên cơ hội cho những thuộc tính mới lan ra nhanh chóng.
Nhưng ban đầu những cơ quan tự sao chép này xuất hiện như thế nào? Sẽ là công bằng khi nói rằng, đơn giản là đến giờ chúng ta chưa biết được điều đó. Hiện chưa giả thuyết nào có thể lý giải trong khoảng thời gian chỉ có 150 triệu năm, cái môi trường tiền sinh học tồn tại trên hành tinh Trái Đất đã hình thành nên sự sống như thế nào. Điều đó không phải để nói rằng chưa có những giả thuyết hợp lý nhưng tính khả thi được trình bày bằng thống kê để lý giải cho sự phát triển sự sống dường như vẫn còn xa vời.
Cách đây 50 năm, Stanley Miller và Harold Urey đã thực hiện những thí nghiệm nổi tiếng, đó là tái cấu trúc sự kết hợp giữa nước và các hợp chất hữu cơ nhằm mô phỏng những gì đã xảy ra trong thời kỳ nguyên thuỷ của Trái Đất. Bằng việc áp dụng kỹ thuật phóng điện, các nhà nghiên cứu này đã có khả năng tạo nên số lượng nhỏ các khối cấu thành sinh học quan trọng chẳng hạn như amino axit. Việc phát hiện ra số lượng nhỏ những hợp chất tương tự trong các thiên thạch từ bên ngoài vũ trụ đã được các nhà khoa học sử dụng để lập luận rằng, những phân tử hữu cơ phức tạp như vậy có thể sinh ra từ các quá trình tự nhiên trong vũ trụ.
Tuy nhiên, ngoài điểm này thì các chi tiết của nó có vẻ hoàn toàn sơ sài. Làm thế nào mà một phân tử mang thông tin tự sao chép lại có thể tự động kết hợp lại với nhau từ những hợp chất này? ADN, với cột trụ của nó là đường photphat và những bazơ hữu cơ được sắp đặt rất phức tạp nằm gọn gàng bên trên nhau và sóng đôi trong mỗi thanh của dãy xoắn kép, dường như là một phân tử hoàn toàn không thể chỉ “vừa xảy ra” - đặc biệt là khi bản thân ADN dường như không sở hữu một phương tiện tự sao chép cố hữu nào. Gần đây, rất nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng ARN là hình thức sự sống tiềm tàng đầu tiên vì ARN có thể mang thông tin và trong một số trường hợp nó cũng có thể tổng hợp các phản ứng hóa học mà ADN không thể. ADN là gì đó tựa như ổ cứng máy tính: người ta cho rằng, nó là một phương tiện ổn định trong việc lưu trữ thông tin (mặc dù, trong máy tính của bạn, những con rệp và chíp hoàn toàn có thể đảm nhiệm chức năng này). Ngược lại, ARN lại giống như một chiếc đĩa Zip hay một ổ USB - nó di chuyển xung quanh những chương trình của mình và có khả năng tự điều khiển mọi việc. Mặc dù nhiều nhà điều tra đã có những nỗ lực to lớn nhưng dạng thí nghiệm Miller-Urey chưa thành công trong việc cấu thành các khối xây dựng cơ bản ARN cũng như chưa có khả năng thiết kế một ARN có thể hoàn toàn tự sao chép.
Do có rất nhiều khó khăn trong việc đưa ra cách giải thích thuyết phục liên quan tới nguồn gốc của sự sống nên một số nhà khoa học, đáng chú ý nhất là Francis Crick (người đã cùng với James Walson khám phá ra dãy xoắn kép ADN) đã đưa ra giả thuyết rằng những hình thái sự sống chắc hẳn phải đến Trái Đất từ bên ngoài hành tinh hoặc được những phân tử nhỏ trôi nổi trong khoảng không của các vì sao và bị trọng lực của Trái Đất hút hoặc do một số nhà du hành vũ trụ cổ xưa cố ý (hoặc vô tình) đem theo xuống đây. Trong khi điều này có thể giải quyết được câu hỏi phức tạp về sự sống trên Trái Đất thì nó lại không giải đáp được câu hỏi quan trọng nhất về nguồn gốc của Trái Đất, bởi đơn giản là nó chỉ đẩy sự kiện đáng kinh ngạc đó tới một thời điểm khác thậm chí lui lại phía sau.
Đến đây tôi muốn đề cập tới sự phản đối mà một số nhà phê bình thường đưa ra liên quan tới bất kỳ khả năng tồn tại nào của sự sống trên hành tinh dựa trên cơ sở Định luật thứ hai về Nhiệt Động lực học. Định luật này nói rằng, trong một hệ kín nơi không có năng lượng hay vật chất nào có thể đi vào hoặc đi ra thì mức độ hỗn loạn (gọi một cách trang trọng hơn là “entropy”) sẽ có xu hướng tăng lên theo thời gian. Bởi vì các thực thể sống được sắp xếp rất có trật tự nên một số người đã lập luận rằng, sự sống không thể thâm nhập vào một thực thể nếu không do một đấng siêu nhiên tạo nên. Nhưng điều này thể hiện sự hiểu lầm về ý nghĩa trọn vẹn của Định luật thứ hai này đó là chắc chắn, trật tự có thể tăng lên ở một phần nào đó của hệ thống (như vẫn xảy ra hàng ngày khi bạn dọn giường hay cất dọn bát đĩa) nhưng điều đó đòi hỏi phải có năng lượng và sự hỗn loạn trong toàn bộ hệ thống không thể suy giảm. Liên quan tới nguồn gốc của sự sống, hệ thống khép kín này cơ bản là toàn bộ vũ trụ, năng lượng có sẵn từ mặt trời và vì vậy sự gia tăng cục bộ trong trật tự thể hiện qua sự lắp ghép ngẫu nhiên đầu tiên của những phân tử vĩ mô sẽ không thể vi phạm Định luật này.
Vì khoa học chưa thể giải thích câu hỏi lớn về nguồn gốc của sự sống nên một số nhà thần học cho rằng thần thánh có thể đã sáng tạo ra ADN và ARN. Nếu như ý định tạo lập nên vũ trụ của Chúa là để dẫn tới những tạo vật mà Người có quan hệ - tức là loài người - và nếu sự phức tạp cần thiết để khởi nguồn quá trình của sự sống vượt quá khả năng tự tập hợp của những chất hóa học này trong vũ trụ thì chẳng phải Chúa đã dấn thân vào việc khởi tạo quy trình này hay sao?
Đây có thể là một giả thuyết hấp dẫn trong khi hiện nay chưa có một nhà khoa học thực thụ nào tuyên bố đã có trong tay lý giải tự nhiên về nguồn gốc của sự sống. Nhưng điều đúng đắn ngày hôm nay có thể sẽ không còn đúng vào ngày mai. Chúng ta cần cẩn trọng khi đặt một hành động thần thánh cụ thể của Chúa vào đây hay vào bất kỳ lĩnh vực nào khác còn thiếu những hiểu biết khoa học. Từ những hiện tượng nhật thực thuở xa xưa tới việc di chuyển của các hành tinh trong thời kỳ Trung cổ tới nguồn gốc của sự sống ngày nay, cái cách tiếp cận “Chúa của những lỗ hổng” này đã quá thường xuyên báo hại tôn giáo (điều này gián tiếp ám chỉ cả Chúa nếu như có thể). Đức tin trong đó đặt Chúa vào những lỗ hổng của hiểu biết hiện thời về thế giới tự nhiên có khả năng đối mặt với sự khủng hoảng nếu như những tiến bộ trong khoa học dần dần lấp đầy được các khoảng trống đó. Trước sự thấu hiểu chưa toàn diện về thế giới tự nhiên, những người có đức tin cần rất cẩn trọng khi đề cập tới thần thánh trong những lĩnh vực mà hiện vẫn còn là một bí ẩn để không xây dựng nên những lập luận mang tính thần học không cần thiết có khả năng dẫn tới thất bại sau này. Có nhiều lý do chính đáng để tin vào Chúa bao gồm cả sự tồn tại của những nguyên tắc toán học và trật tự trong sáng tạo. Đây là những lý do tích cực, dựa trên cơ sở tri thức chứ không phải là những giả định khuôn mẫu dựa trên (sự tạm thời) thiếu tri thức.
Tóm lại, trong khi nguồn gốc của sự sống vẫn còn là một câu hỏi thú vị và việc khoa học hiện đại chưa có đủ khả năng đưa ra một cơ chế mang tính thống kê đang kích thích sự say sưa tìm hiểu và khám phá thì đây không phải là nơi để một người chín chắn đặt cược niềm tin của mình.
Di chỉ hóa thạch
Trong khi các nhà khoa học chuyên và không chuyên đã tìm thấy những hóa thạch trong hàng thế kỷ qua thì 20 năm trở lại đây, những phát hiện này đã đạt đến một giai đoạn cực thịnh. Rất nhiều lỗ hổng trong hiểu biết về lịch sử của sự sống trước đó trên Trái Đất giờ đây đang được lấp đầy thông qua việc phát hiện ra những loài đã tuyệt chủng. Hơn nữa, người ta thường có thể ước đoán được chính xác độ tuổi của những loài vật này dựa trên quá trình tương tự như quy trình phân rã phóng xạ mà qua đó xác định được tuổi của Trái Đất.
Phần lớn những thực thể từng sống trên Trái Đất hoàn toàn không để lại dấu vết tồn tại nào của chúng vì các hóa thạch chỉ xuất hiện trong những hoàn cảnh đặc biệt hy hữu. (Chẳng hạn, sinh vật cần được tìm thấy trong một dạng bùn hay đá nhất định, chưa bị một động vật ăn thịt nào xé xác. Hầu hết xương đều tan, vỡ vụn và các sinh vật này đều phân rã). Bất chấp thực tế đó, chúng ta đã có được một lượng thông tin đáng kinh ngạc về các thực thể từng sống trên hành tinh này.
Thời gian mà những hóa thạch này tiết lộ không hoàn toàn đầy đủ song nó vẫn rất hữu ích. Chẳng hạn, chỉ có những thực thể đơn bào mới xuất hiện trong các trầm tích cách đây hơn 550 triệu năm dù có thể có những thực thể phức tạp hơn đã tồn tại trước thời điểm đó. Đột nhiên, xấp xỉ 550 triệu năm trước, một lượng lớn những sinh vật có xương sống khác nhau xuất hiện trong những hóa thạch. Người ta thường gọi đó là Vụ nổ Cambrian . Nó được nhà văn trữ tình và giàu tình cảm Stephen Jay Gould ghi chép theo trình tự thời gian có thể dễ dàng đọc được trong cuốn sách của ông với tựa đề Cuộc sống tươi đẹp (Wonderful Life). Bản thân Gould đã đặt câu hỏi làm thế nào sự tiến hóa có thể giải thích sự đa dạng đáng kể trong những cơ thể sinh vật chỉ xuất hiện một thời gian ngắn như thế. (Các chuyên gia khác không thấy ấn tượng nhiều lắm với tuyên bố rằng Vụ nổ Cambrian thể hiện sự chấm dứt tính phức tạp của sự sống, mặc dù những tác phẩm của họ ít được lưu hành rộng rãi cho quần chúng nói chung. Chẳng hạn, cái gọi là vụ nổ Cambrian phản ánh một sự thay đổi những hoàn cảnh tạo điều kiện cho sự hóa thạch của một lượng lớn các loài thực sự đã tồn tại hàng triệu năm trước).
Mặc dù, nhiều nhà thần học đã cố gắng lập luận rằng, vụ nổ Cambrian là bằng chứng cho sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên nào đó, tuy nhiên, qua kiểm nghiệm kỹ lưỡng, các dữ liệu dường như không đảm bảo điều này. Đây là một lập luận “Chúa của những lỗ hổng” khác và một lần nữa, những người tin tưởng vào Chúa có thể không khôn ngoan khi đặt niềm tin của họ lên một giả thuyết như thế.
Bằng chứng hiện tại cho thấy, trên mặt đất cằn cỗi không có cây cối cho đến khoảng 400 triệu năm về trước, thực vật chuyển từ sống dưới nước lên sống trên cạn. Chưa đầy 30 triệu năm sau đó, các động vật cũng chuyển lên sống trên cạn. Có lúc, quy trình đã chỉ dẫn tới một lỗ hổng khác đó là các hóa thạch này cho thấy, dường như có rất ít hình thức chuyển đổi giữa những sinh vật sống dưới nước và những động vật bốn chân sống trên cạn. Tuy nhiên, những khám phá gần đây đã ghi nhận các bằng chứng hấp dẫn về loại chuyển đổi này.
Cách đây khoảng 230 triệu năm, khủng long thống trị Trái Đất. Giờ đây, nhiều người nhất trí rằng triều đại của khủng long kéo dài cho tới khi một kết cục bi thảm bất ngờ đã xảy ra xấp xỉ 65 triệu năm trước khi Trái Đất va chạm với một thiên thạch lớn tại khu vực hiện giờ là bán đảo Yucatan ở Mehico. Người ta đã thu lượm được những mảnh tro tàn nhỏ xuất hiện khắp nơi trên thế giới do vụ đụng độ khủng khiếp này gây ra và sự thay đổi khí hậu có tính huỷ diệt do lượng bụi quá lớn tồn tại trong bầu không khí rõ ràng vượt quá sức chịu đựng của những loài khủng long thống trị đã dẫn tới cái chết của chúng và sau đó là việc xuất hiện những loài thú có vú.
Vụ va chạm cổ xưa đó của các hành tinh nhỏ là sự kiện kích thích các nhà khoa học tìm hiểu. Nó có thể là cách duy nhất dẫn tới sự tuyệt chủng của khủng long và sự xuất hiện các loài động vật có vú. Chúng ta có thể đã không có mặt ở đây nếu như tiểu hành tinh đó không rơi xuống Mexico.
Hầu hết chúng ta đều đặc biệt quan tâm tới di chỉ hóa thạch của con người và ở đây cũng vậy, các nhà khoa học đã công bố khá rõ ràng về những phát hiện có được trong vài thập kỷ qua. Với khả năng giải phẫu sọ ngày càng tiến bộ, người ta đã phát hiện ra những bộ xương của hơn một chục họ người khác nhau tại châu Phi. Những mẫu vật đầu tiên đã được công nhận là của người tinh khôn Homo sapiens có niên đại khoảng 195 nghìn năm trước. Các nhánh khác trong sự phát triển họ người dường như đã tuyệt chủng, đó là người Neanderthals sống ở châu Âu cách đây 30 ngàn năm và những “người lùn ăn hang ở lỗ” (“hobbit”) với bộ não nhỏ sống trên đảo Flores tại Indonesia cách đây 13 ngàn năm.
Mặc dù vẫn còn nhiều điểm chưa hoàn chỉnh trong các di chỉ hóa thạch và nhiều băn khoăn cần phải giải đáp nhưng gần như tất cả những phát hiện đều thống nhất với khái niệm cây sự sống của các sinh vật có liên quan. Các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng có giá trị trong những dạng chuyển đổi từ bò sát sang chim và từ bò sát sang động vật có vú. Những lập luận cho rằng mô hình này không thể lý giải cho những loài cụ thể như cá voi chẳng hạn nhìn chung đã thất bại khi các nghiên cứu sâu hơn đã phát hiện có sự tồn tại của những loài chuyển tiếp, thường là vào thời gian và nơi chốn đúng như thuyết tiến hóa đã dự đoán.
Thuyết tiến hóa của Darwin
Sinh năm 1809, ban đầu, Charles Darwin học để trở thành mục sư trong Nhà thờ của Anh nhưng từ trẻ ông đã quan tâm sâu sắc tới tự nhiên học. Mặc dù lúc đầu chàng trai trẻ Darwin bị cuốn hút bởi lập luận về người thợ đồng hồ của Paley và đã nhìn nhận những mô hình trong tự nhiên là bằng chứng cho sự tồn tại của một cội nguồn thần thánh nhưng quan điểm này của ông bắt đầu thay đổi khi ông du lịch trên chiếc tàu HMS Beagle từ năm 1831 tới 1836. Darwin đã tới Nam Phi và quần đảo Galapagos, nơi ông tiến hành nghiên cứu di tích hóa thạch của những sinh vật cổ và quan sát sự đa dạng của các thực thể sống trong các môi trường cách ly.
Trên cơ sở những quan sát này và các công việc nghiên cứu khác đã thực hiện trong hơn 20 năm, Darwin đưa ra thuyết tiến hóa thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Năm 1859, trước khả năng bị Alfred Russel Wallace qua mặt, ông đã viết và công bố những ý tưởng của mình trong cuốn sách có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ Nguồn gốc các loài (The Origin of Species). Nhận ra những lập luận trong cuốn sách này có khả năng gặp phải phản ứng rộng rãi, Darwin đã khiêm tốn bình luận gần cuối cuốn sách rằng: “Khi những quan điểm do tôi và ông Wallace đưa ra dưới góc độ này hay khi những quan điểm tương tự về nguồn gốc các loài nhìn chung được mọi người chấp nhận thì chúng ta có thể lờ mờ dự đoán rằng, sẽ có thể có một cuộc cách mạng to lớn trong lịch sử của tự nhiên”.
Darwin cho rằng, tất cả những thực thể sống đều có cùng một nhóm tổ tiên chung - thậm chí chỉ có một tổ tiên. Ông lập luận rằng, sự khác biệt giữa các loài rất hiếm khi xảy ra và sự sống sót hay huỷ diệt của mỗi sinh vật như vậy phụ thuộc vào khả năng thích ứng của nó với môi trường. Ông gọi đó là quá trình chọn lọc tự nhiên. Nhận ra khả năng có thể xảy ra một cuộc tranh cãi liên quan đến điều này, ông gián tiếp chỉ ra rằng, quá trình tương tự có thể xảy với con người và đã lý giải nó đầy đủ hơn trong cuốn sách sau đó của ông có tiêu đề Nguồn gốc loài người (The Descent of Man).
Cuốn Nguồn gốc loài người ngay lập tức đã tạo nên một cuộc tranh cãi căng thẳng mặc dù phản ứng từ giới tôn giáo không hoàn toàn tiêu cực như ngày nay người ta thường vẽ nên. Trong thực tế, nhà thần học theo đạo Tin lành bảo thủ trứ danh là Benjamin Warfield đã công nhận thuyết tiến hóa như là “một lý thuyết về phương pháp của Chúa” và lập luận rằng, bản thân tiến hóa chắc chắn đòi hỏi phải có một đấng siêu nhiên.
Có rất nhiều chuyện hư cấu liên quan tới phản ứng của quần chúng đối với Darwin. Chẳng hạn, mặc dù giữa Thomas H. Huxley (người ủng hộ nhiệt tình thuyết tiến hoá) và Giáo hoàng Samuel
Wilberforce đã nổ ra một cuộc tranh luận nổi tiếng nhưng Huxley có thể đã không nói (như lịch sử thêu dệt) rằng, ông không hề cảm thấy xấu hổ khi tổ tiên của mình là khỉ mà chỉ cảm thấy xấu hổ khi có quan hệ với những người che đậy sự thật. Hơn thế nữa, Darwin không những không bị cộng đồng tôn giáo tẩy chay mà người ta còn chôn ông trong khu nghĩa trang Westminster Abbey .
Bản thân Darwin rất lo lắng về tác động của thuyết tiến hóa mà ông đưa ra đối với đức tin, mặc dù trong cuốn Nguồn gốc các loài, ông đã chấp nhận đau thương khi chỉ ra rằng có thể có một sự lý giải hòa hợp “Tôi không thấy có lý do nào xác đáng giải thích tại sao những quan điểm đưa ra trong cuốn sách này lại có thể làm tổn hại tới đức tin tôn giáo của bất kỳ ai… Một người nổi tiếng là đức hạnh và tuyệt vời đã viết thư cho tôi nói rằng ông "đã dần học được cách nhìn nhận rằng, việc Chúa tạo nên những hình hài nguyên thuỷ có khả năng tự tái tạo thành những dạng thể sống cần thiết khác cũng cao quý như việc tin rằng Người đòi hỏi một hành động sáng tạo mới để bù đắp khoảng trống do việc thực hiện những hành động theo các quy luật mà Người tạo ra gây ra”.
Thậm chí, Darwin còn đưa ra kết luận ở cuối cuốn Nguồn gốc các loài rằng: “Cách nhìn nhận này về sự sống là vô cùng quan trọng, rằng sự sống, với một vài sức mạnh của nó mà gốc gác là do Chúa truyền hơi thở cho một hay một số dạng thể và rằng trong khi hành tinh này cứ vận động mãi xung quanh quy luật cố định là trọng lượng thì từ những dạng thức ban đầu vô cùng giản đơn đã và đang không ngừng hình thành những dạng thể đẹp và tuyệt vời nhất”.
Niềm tin của Darwin vẫn khá mơ hồ và dường như thay đổi trong suốt những năm cuối cùng của cuộc đời ông. Có lúc ông đã nói rằng “Bất khả tri có lẽ là định nghĩa đúng nhất cho trạng thái tâm trí của tôi”. Có lúc ông lại viết rằng ông gặp thách thức lớn bởi “sự khó khăn vô cùng hay đúng hơn là không thể hình dung được cái vũ trụ kỳ diệu và to lớn này trong đó có cả con người với khả năng nhìn thấu suốt quá khứ và đoán biết trước được tương lai là kết quả của cơ hội hay là quy luật tất yếu mà chúng ta không nhìn thấy. Do đó, khi hồi tưởng lại, tôi cảm thấy bị cuốn vào việc nghĩ về một Người khai thiên lập địa và muốn trở thành người có trí tuệ thông thái ở một mức độ nào đó tương tự như trí tuệ của Người đó và vì vậy, tôi xứng đáng được gọi là một kẻ hữu thần”.
Hiện nay, không một nhà sinh vật học thực thụ nào lại không tin rằng thuyết tiến hóa có thể lý giải được tính phức tạp và đa dạng của sự sống. Trong thực tế, mối liên hệ của tất cả các loài thông qua cơ chế tiến hóa là nền tảng mạnh mẽ để thấu hiểu toàn bộ sinh vật đến mức, rất khó tưởng tượng làm thế nào người ta có thể nghiên cứu về sự sống mà không có nó. Tuy nhiên, còn lĩnh vực nghiên cứu khoa học nào tạo ra nhiều bất đồng với các quan điểm của tôn giáo hơn là thuyết tiến hóa của Darwin? Từ Vụ xét xử con khỉ đối với Scopes vào năm 1925 tới những cuộc tranh luận hiện nay ở nước Mỹ về việc giảng dạy thuyết tiến hóa trong các nhà trường, trận chiến này dường như vẫn chưa có hồi kết.
ADN - Vật liệu di truyền
Sự thấu hiểu của Darwin đáng chú ý hơn vì vào thời điểm đó, lý thuyết tiến hóa thiếu nền tảng khoa học tự nhiên. Người ta phải mất một thế kỷ nghiên cứu mới khám phá được làm thế nào có thể có những thay đổi trong cuốn sách chỉ dẫn về sự sống nhằm dung hòa với quan điểm “những thay đổi từ gốc gác” của Darwin.
Gregor Mendel, vị tu sĩ dòng thánh Augustine ít người biết đến, sống ở nơi bây giờ là Cộng hòa Séc, cùng thời với Darwin và đã đọc cuốn Nguồn gốc các loài của ông nhưng hai người có thể chưa từng gặp nhau. Mendel là người đầu tiên chỉ ra được bằng chứng rằng sự kế thừa có thể xảy ra trong những mạng lưới thông tin riêng rẽ. Thông qua những thí nghiệm hết sức chi tiết với các cây đậu trong tu viện, ông kết luận rằng, các yếu tố di truyền liên quan tới những đặc điểm như hình dáng nhăn nheo hay nhẵn nhụi của các hạt đậu chịu sự kiểm soát của các quy luật toán học.
Ở thời điểm đó, ông không biết gen là gì nhưng những phát hiện của ông đã cho thấy chắc hẳn phải tồn tại gì đó giống như gen.
Công trình của Mendel đã bị quên lãng suốt 35 năm. Sau đó, một trong những biến cố đáng kể hiếm khi xuất hiện trong lịch sử khoa học đã xảy ra, đó là ba nhà khoa học khác đồng thời cũng tái phát hiện ra điều này trước thời điểm nhân loại bước sang thế kỷ XX vài tháng. Trong những nghiên cứu nổi tiếng của mình về “các lỗi bẩm sinh trong quá trình trao đổi chất”, thông qua việc phát hiện những căn bệnh hiếm hoi xảy ra trong các gia đình mà ông điều trị, Archibald Garrod đã kết luận rằng các quy luật do Mendel chỉ ra có thể đúng với cả con người và những sự lộn xộn này xảy ra là do hậu quả của một loại di truyền tương tự như Mendel đã nhận ra khi nghiên cứu trên thực vật.
Mendel và Garrod đưa thêm đặc trưng toán học vào khái niệm về di truyền trong con người. Mặc dù, tất nhiên, thực tế của những đặc điểm kế thừa như màu da và màu mắt đều đã quen thuộc với bất kỳ ai quan sát kỹ lưỡng loài người chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn chưa hiểu hết cơ chế đằng sau những mô hình này vì chưa ai thành công trong việc đưa ra cơ sở hóa học cho sự di truyền. Hầu hết các nhà nghiên cứu trong nửa đầu thế kỷ XX đều cho rằng, những đặc điểm di truyền chắc chắn phải do protein mang vì chúng dường như là những phân tử đa dạng nhất trong tất cả các sinh vật sống.
Cho tới tận năm 1944, thông qua những thí nghiệm vi sinh, Oswald T.Avery, Colin M.MacLeod và Maclyn McCarty đã chỉ ra rằng, chính ADN mới có khả năng mang những đặc điểm di truyền này chứ không phải là protein. Mặc dù người ta đã biết đến sự tồn tại của ADN gần 100 năm, nhưng trước đó, chẳng ai quan tâm đặc biệt tới nó mà chỉ coi nó có vai trò lớn hơn chất liệu phủ ngoài hạt nhân một chút.
Chưa đầy một thập kỷ sau, người ta đã tìm ra được câu trả lời rất hấp dẫn và thông thái liên quan tới bản chất hóa học của sự di truyền. James Watson và Francis Crick đã chiến thắng trong cuộc chạy đua đầy cam go nhằm khám phá cấu trúc ADN vào năm 1953. Cuộc chạy đua này được Watson mô tả rất hài hước trong cuốn sách giải trí của mình là Dãy xoắn kép (The Double
Helix). Tận dụng những dữ liệu mà Rosalind Franklin đưa ra, Watson, Crick và Maurice Wilkins đã có thể kết luận rằng phân tử ADN có dạng xoắn kép, hình một chiếc thang xoắn và khả năng mang thông tin của nó do một loạt hợp chất hóa học tạo nên các nút thang đó quyết định.
Là một nhà hóa học, biết được những đặc tính của ADN đúng là bất thường như thế nào và tuyệt vời làm sao khi nó đưa ra được giải pháp cho việc mã hóa sắp đặt sự sống, tôi thấy kính nể phân tử này. Hãy cho phép tôi giải thích ADN tuyệt vời tới mức nào:
Như các bạn thấy trên hình 4.1, phân tử ADN có một số đặc điểm nổi bật. Dải bên ngoài được làm từ chuỗi các phân tử không đổi gồm phốt phát và đường nhưng điều thú vị lại nằm ở bên trong. Các nút xoắn của thang phân tử ADN được tạo thành từ sự kết hợp của bốn nguyên tố hóa học gọi là “các bazơ”. Hãy gọi chúng là A, C, G và T (trên cơ sở tên hóa học thật của những bazơ ADN này). Mỗi bazơ này có một hình dáng nhất định.
Bây giờ hãy tưởng tượng, trong số bốn hình dạng trên, hình chữ A chỉ có thể vừa khít trên xoắn bậc thang cạnh hình chữ T và hình chữ G chỉ có thể vừa khít cạnh hình chữ C. Đây là “những cặp bazơ”. Khi đó, bạn có thể hình dung được phân tử ADN là một chiếc thang xoắn, mỗi bậc thang do một cặp bazơ hình thành. Có bốn bậc thang cơ bản đó là A-T, T-A, C-G và G-C. Nếu trên một dải bất kỳ có một cơ sở bị hỏng thì người ta có thể dễ dàng sửa được nó bằng cách đối chiếu với phần bên kia: chỉ có thể thay thế một T này bằng một T khác. Có lẽ điểm đáng chú ý nhất ở đây là chuỗi xoắn kép đó gợi cho chúng ta hình dung ngay tới cách thức tự sao chép của nó, vì mỗi dải có thể làm mẫu để sản xuất ra một cái mới. Nếu bạn chia nửa tất cả các đôi, cắt dọc theo tâm thang thì mỗi nửa dãy thang sẽ chứa đựng tất cả các thông tin cần thiết cho việc tái xây dựng một bản sao hoàn chỉnh như nguyên mẫu.
(Xin lỗi, không thể kết nối hình.)
HÌNH 4.1. Dãy xoắn kép ADN. Thông tin do trình tự của các bazơ (A, C, G và T) mang theo.
ADN được gói ghém trong các chromonosome cư trú trong nhân của tất cả các tế bào.
(Xin lỗi, không thể kết nối hình.)
PROTEIN. ARN HÌNH 4.2. Sự truyền tải thông tin trong sinh học phân tử: ADN
Do đó, theo tính toán ban đầu, chúng ta có thể coi ADN là một bản chỉ dẫn, một chương trình phần mềm, nằm trong nhân của tế bào. Ngôn ngữ mã hóa của nó có bốn ký tự (hoặc hai bít trong thuật ngữ máy tính) theo trình tự bảng chữ cái. Mỗi chỉ dẫn nhất định mà chúng ta gọi là gen do hàng trăm hoặc hàng nghìn mã ký tự tạo thành. Tất cả những chức năng phức tạp của tế bào, thậm chí cả trong một thực thể phức tạp như con người chúng ta, đều phải do trình tự của những chữ cái trong nguyên bản này chỉ dẫn.
Ban đầu, các nhà khoa học chưa biết được chương trình đó thực sự “chạy” như thế nào nhưng sau này băn khoăn đó đã được giải đáp thông qua việc nhận dạng ra “ARN thông tin”. Dữ liệu ADN hình thành nên một gen nhất định được sao chép sang một phân tử ARN thông tin mạch đơn. Nó giống như một nửa chiếc thang với các bậc nằm ở một phía. Nửa chiếc thang đó di chuyển từ nhân tế bào (nơi lưu giữ thông tin) sang tế bào chất (một hỗn hợp chất đặc quánh có độ phức tạp cao gồm protein, lipid và cacbonhydrat), ở đó nó đi vào nhà máy sản xuất protein gọi là ribosome. Sau đó, đội ngũ các “nhà phiên dịch” giỏi giang trong nhà máy này đọc những bazơ nhô ra từ ARN thông tin hình một nửa chiếc thang đang trôi nổi để chuyển thông tin trong phân tử này sang một protein nhất định do amino axit cấu thành. Ba “bậc” thông tin ARN này tạo thành một amino axit. Chính các protein làm nhiệm vụ này của tế bào và tạo nên sự thống nhất về mặt cấu trúc cho nó. (Hình 4.2).
Mô tả ngắn gọn này mới chỉ có thể chạm tới bề mặt sự tinh tế của các ADN, ARN và protein vốn vẫn luôn là nguồn của sự kính nể và kỳ diệu. Có tới 64 khả năng kết hợp giữa ba ký tự A, C, T và G nhưng chỉ có 20 phân tử amino axit. Điều đó có nghĩa là, phải có sự thừa liền: chẳng hạn, GAA trong ADN và ARN đều mã hóa cho phân tử amino axit có tên gọi là axit glutamic, nhưng đồng thời GAG cũng vậy.
Nghiên cứu trên nhiều thực thể sống từ vi khuẩn tới con người đã cho thấy rằng, “mã di truyền này”, qua đó thông tin trong ADN và ARN được chuyển thành protein, diễn ra phổ biến trong tất cả các thực thể sống từng được biết tới. Không có tháp Babel nào được phép xuất hiện trong ngôn ngữ của sự sống. GAG có nghĩa là axit glutamic trong ngôn ngữ của các vi khuẩn trong lòng đất, của cây mù tạt, cá sấu châu Mỹ và cả chú thím bạn.
Những tiến bộ này đã tạo tiền đề cho sự ra đời của lĩnh vực sinh học phân tử. Việc khám phá rất nhiều điều kỳ diệu nhỏ khác liên quan tới hóa học trong đó các protein đóng vai trò như những chiếc kéo hay hồ dán đã giúp các nhà khoa học kiểm soát ADN và ARN bằng cách kết hợp các mẩu lặt vặt của những phân tử chỉ dẫn này từ các nguồn khác nhau. Việc tập hợp những thủ thuật thí nghiệm trong sinh học phân tử thường được gọi ADN tái tổ hợp này đã thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ lĩnh vực công nghệ sinh học mới và cùng với những tiến bộ khác hé mở triển vọng trong việc điều trị nhiều căn bệnh.
Sự thật sinh học và những hệ quả của nó
Đối với những người tin vào sự tồn tại của Chúa, những người trước đó đã lập luận là Chúa nhất thiết phải đóng vai trò sáng tạo nên sự sống thì những kết luận đưa ra trong chương này có thể khiến họ cảm thấy không thoải mái. Chúng ta không ngạc nhiên trước việc rất nhiều độc giả đã tự nhìn nhận theo cách riêng của mình hoặc được học từ rất nhiều môi trường tôn giáo khác nhau rằng, vẻ đẹp tuyệt vời của một bông hoa hay trong sải cánh của con đại bàng chỉ có thể tới từ trí tuệ của một đấng siêu nhiên coi trọng sự phức tạp, đa dạng và tính thẩm mỹ. Nhưng, giờ đây, cơ chế phân tử, những con đường di truyền và sự lựa chọn tự nhiên đó đã đưa ra lời giải thích cho tất cả những điều này khiến bạn có thể muốn gào lên: “Đủ lắm rồi! Những lý giải tự nhiên học của các anh đang làm biến mất khỏi thế giới này tất cả những bí ẩn thần thánh đấy!”.
Đừng sợ hãi, những bí ẩn thần thánh vẫn còn lại rất nhiều. Nhiều người sau khi xem xét tất cả những bằng chứng khoa học và tâm linh vẫn nhìn thấy có bàn tay chỉ dẫn và sáng tạo của Chúa trong mọi công việc của thế giới này. Tôi không hề có một chút xíu thất vọng hay vỡ mộng nào trước những khám phá liên quan tới bản chất của cuộc sống mà hoàn toàn ngược lại! Thế giới này mới tuyệt vời và tinh tế làm sao! Sự thông thái của con số trong ADN thật sâu sắc! Các thành tố cấu tạo nên những thực thể sống mới cuốn hút về mặt thẩm mỹ và nghệ thuật đến mức nào! Từ ribosome chuyển ARN thành protein tới sự biến thái của sâu thành bướm, tới bộ lông chim công thần thoại thu hút bạn tình của nó! Sự tiến hóa, với tư cách là một cơ chế, có thể đúng và phải đúng. Nhưng điều đó cũng không nói lên điều gì về bản chất của người sáng tạo nên nó cả. Đối với những người tin vào Chúa, giờ đây vẫn có những lý do để kính nể nhiều hơn chứ không phải ít đi.
5. Thành công trong việc giải mã cuốn sách chỉ dẫn của Chúa Những bài học về hệ gen người
KHI TÔI CÒN LÀ MỘT NGHIÊN CỨU SINH về di truyền học tại Đại học Yale vào đầu những; năm 1980, việc xác định trình tự chính xác của khoảng vài trăm ký tự mã ADN thực sự là một nhiệm vụ đầy thách thức. Các phương pháp nghiên cứu rất cầu kỳ đòi hỏi nhiều bước chuẩn bị. Việc sử dụng các thuốc thử nguy hiểm và đắt tiền chẳng hạn như các chất phóng xạ và việc rót chất ultrathin đặc quánh bằng tay gần như lúc nào cũng tạo ra rắc rối do tạo nên bong bóng và những khó khăn khác. Điều tôi muốn nói ở đây là mất quá nhiều thời gian cho việc phân loại chỉ vài trăm mã ADN của con người với rất nhiều lần cố gắng rồi lại thất bại.
Mặc dù có những khó khăn như thế nhưng bài báo xuất bản lần đầu tiên của tôi về di truyền học con người đã dựa trên cơ sở trình tự ADN. Tôi đã nghiên cứu sự sản sinh ra một protein duy nhất, tìm thấy ở các tế bào hồng cầu của thai người trong tử cung. Người ta cho rằng, nó sẽ dần biến mất sau khi sinh, khi những đứa trẻ bắt đầu thở bằng phổi của chúng. Protein này được gọi là hemoglobin bào thai. Hemoglobin là loại protein cho phép hồng cầu vận chuyển oxy từ phổi của chúng ta tới toàn bộ những phần còn lại của cơ thể. Con người và một số loài linh trưởng khác sử dụng một dạng đặc biệt của hemoglobin trước khi sinh nhằm rút bớt oxy từ máu của