Một Tâm Hồn Quyển 1

(Thánh nữ TÊRÊSA viết - KIM THIẾU dịch) 

Lời nói đầu

Tái bản Một tâm hồn là kỳ vọng của hầu hết những ai đã đọc Một tâm hồn xuất bản mười năm trước đây - 1950.


Khi còn sống dưới trời Âu, tôi đã nhận được nhiều thư biên sang yêu cầu tái bản. Ba nhà sách đã xin xuất bản và nói từ năm nay người ta đòi hỏi Một tâm hồn nhiều lắm, mà không còn.


Khi trở về nước, cuối năm vừa qua - 1959 - không mấy bạn gặp tôi mà không nhắc tới Một tâm hồn và giục giã tái bản mau. Hôm lễ Mẹ hồn xác lên trời vừa qua, tôi lại nhận được bức thư đề ngày 11-8-1960. Trong thư có lời rằng:


“Sách Một tâm hồn của cha đã hết từ lâu. Nhiều linh hồn khao khát để theo con đường thơ ấu Chị Thánh đã đi...”.


Những lời tâm huyết này đã kích thích chúng tôi lắm và khiến tôi bắt tay vào việc ngay.


Vậy để khỏi phụ lòng các bạn mong đợi quá lâu và cũng để tạ lòng mong đợi ấy, Một tâm hồn tái bản đây và mong muốn nó chóng tới tay các bạn thân ái.


Với lần tái bản này, Một tâm hồn chỉ có những sửa chữa một ít từ ngữ cho nhẹ nhàng để phù hợp tâm tình Chị Thánh cách trọn vẹn. Tư tưởng và luận điệu thâm thiết trong cách diễn đạt của Chị Thánh vẫn được thận trọng bảo tồn để giữ chân giá trị.


Cúi xin Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm “mưa hoa hường” xuống trên các bạn để hết thảy thi đua tiến mạnh trên Đường thơ ấu mà Người đã vạch vẽ cho các linh hồn.


               Chào thân ái

               Đalat, ngày 15-8-60

               KIM THIẾU


Lời Đức Cha Phêrô Maria PHẠM NGỌC CHI

GIÁM MỤC ĐỊA PHẬN BÙI CHU


----------------------------------------

Bảy tháng tránh nạn, trong gian phòng nhỏ kín, với ngọn đèn con đều đặn cháy suốt ngày, linh mục VŨ ĐỨC KHÂM đã công phu dịch sách chuyện MỘT TÂM HỒN (Histoire d’une Âme) bằng pháp ngữ ra Quốc văn để kỷ niệm đoạn đời gian nan.


Lời lẽ đơn giản, nhưng tha thiết. Tư tưởng cao siêu, nhưng minh bạch. Những đặc sắc ấy trong văn chương Thánh Nữ TÊRÊSA đã được khéo léo chuyển cả sang bản dịch. Thật quý hoá và rất đáng khâm phục.


Tôi bất tất phải nói: Chuyện MỘT TÂM HỒN là một kiệt tác trong chuyện các thánh xưa nay, một kiểu mẫu thánh thiện của thế hệ này. Chuyện MỘT TÂM HỒN được dịch sang tiếng các nước nhiều nhất. Chuyện MỘT TÂM HỒN được thiên hạ say đọc hơn hết: bất luận ngôn ngữ nào, in bao nhiêu cũng chưa đủ, xuất bản bao nhiêu cũng không vừa. Không ai chịu thiếu quyển sách quý hoá đó.


Chắc những ai đã đọc Chuyện MỘT TÂM HỒN đều dễ nhận có một Học Thuyết tự nhiên, nhưng rất cao thượng, luôn luôn ẩn hiện trong các lời lẽ, cho nên càng đọc càng hiểu, càng hiểu càng thấy say sưa cõi lòng...


Tôi hân hoan giới thiệu cuốn sách MỘT TÂM HỒN với hàng Giáo sĩ, Tu sĩ, Nữ tu, Học sinh, và tất cả các gia đình bất luận Lương, Giáo. Ai đọc chuyện đó chắc sẽ cảm thấy lòng nhẹ nhàng khoan khoái, phấn chấn như đã gần tới HẠNH PHÚC...


Mong Chuyện MỘT TÂM HỒN sẽ đem nhiều người mạnh bạo bước vào con đường thánh thiện.


               Bùi Chu, ngày 4-8-1950

               PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI

               Giám Mục Địa Phận Bùi Chu


----------------------------

TỰA

Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc và gồ ghề lên nhà Dòng thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rất tư lự và như đang mơ mộng đắm theo một lý tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và đượm nét rầu rầu, tố lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.


Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc khen ngợi... phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc... Rồi lại bước đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ phía ánh sáng hy vọng và bác ái.


Cha Bề trên Dòng phải ngẩn lạ khi nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an quý thân phụ, quý quán và quý danh. Quý danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại uý trong đoàn quân pháo thủ bình giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh Alençon, mà cậu là trưởng tử.


Có phải vì muốn du lịch, muốn lên thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru, nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm trú một đêm ở ngọn non hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn đời.


Cha bề trên hỏi:


- Cậu đã học mãn khoá Latinh chưa.


- Lạy cha, chưa.


- Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau chúng tôi sẽ được hân hạnh nhận cậu.


Người khách bất mãn của chúng ta lộn đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly: nhưng trong tâm trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng thánh Bernard chỉ là một kỷ niệm êm ái trong đời cậu, chứ không phải là cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một chương trình khác.


Cũng trong thành Alençon, mấy năm sau, một buổi sáng mát dịu dàng, trên đường phố trở lại nhà Dòng thánh Vincent de Paul, ngọn cây, ngành cây hai bên vỉa hè rung rung theo gió, xô đi giồ lại như dùng dằng... ngần ngại... một thiếu nữ dáng thuỳ mị nết na, gương mặt tươi tỉnh gợn nhiều nét đoan chính và can trường, tên cô là Marie Guérin, cùng với bà mẹ nhẹ nhàng gót sen bước lại phía nhà các bà Sơ (Soeur). Lòng thiếu nữ ôm đã lâu một chí tu tác, nhưng chợt trông thấy cô, bà Bề trên được ơn soi sáng ngay, nên sau mấy lời niềm nở cười nói chào hỏi, bà trả lời dứt khoát rằng: Chúa không muốn.


Cô Marie Guérin ngậm ngùi trở lại nhà, ở cùng chị cả và một em trai - người em trai này được nhắc đến nhiều lần trong Chuyện MỘT TÂM HỒN.


Hiểu là việc tu không thành, cô thiếu nữ không nghĩ gì đến tu nữa. Ngày đêm cô thầm thì trong lòng lời cầu xin chất phác này:


Lạy Chúa, con không đáng làm bạn trăm năm Chúa như chị con, con vui lòng kết duyên trao ngãi với người thế gian để hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con cái: con sẽ cho đi tu hết.


Chúa đã để dành cho cô một thanh niên xứng đáng trao gởi hồn xác mà chúng ta vừa đọc ở trên. Và một ngày đã định, ngày 13 tháng 8 năm 1858, trong nhà thờ Đức Bà thành Aleçon người ta thấy cử hành trọng thể lễ cưới cô Marie Guérin đẹp duyên cùng cậu Louis Martin.


Chính chiều ngày lễ cưới, Louis Martin đã tỏ lời tâm huyết cùng bạn trẻ: mình ước ao gìn giữ và chỉ yêu dấu bạn như em yêu dấu nhất thôi... Nhưng qua mấy tháng tâm tình trao đổi, Louis Martin hiểu thấu tâm ý bạn, mơ ước bạn, thì đã đồng tâm hiệp ý cùng bạn ước mơ thấy có đàn con nhởn nhơ chơi để vui ấm cửa nhà và rồi nhẩn nha cho đi tu hết. Lúc ấy, như thánh Tobias, đã có thể cầu xin cùng Chúa:


“Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi, tôi đi kết bạn chỉ vì ước ao có dòng đõi để chúc tụng ngợi khen Chúa đời đời”.


Tổ uyên ương ấy nở được 9 bông hoa trắng: 4 bông vừa nở, thiên đàng ngắt ngay lấy đem về làm cảnh, còn 5 bông sau lần lượt hái dâng cho hai dòng: Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.


Têrêsa là út của 6 chị và 2 anh: chị Louise, chị Pauline, chị Léonie, chị Hélène sống có 4 năm, chị Céline, chị Mélanie Thèrèse sống được 3 tháng. Hai anh: Louis được 5 tháng và Jean Baptiste được 9 tháng đều mất cả.


Hai anh sinh ra cũng là bởi nước mắt và lời cầu nguyện. Sau 4 chị, cha mẹ Têrêsa thiết tha nài xin Chúa và cậy Thánh Cả Giuse bầu cử cho nhà mình một Linh mục Truyền giáo thì lần ấy sinh được con trai tốt đẹp đặt tên là M.J. Louis. Nhưng than ôi! Đứa bé chỉ mới ra mắt với mẹ được 5 tháng đã vội vã về nghỉ thiên đàng.


Cha mẹ lại khẩn khoản khấn hết tuần chín ngày này đến tuần chín ngày khác, thế nào cũng xin Chúa ban cho gia đình một Linh mục Truyền giáo. Nhưng ý Chúa không như ý chúng ta, đường lối Chúa đi khác đường lối nhân loại. Cha mẹ lại sinh được con trai thứ hai, thật là chứa chan hy vọng, và cái đau đớn, chưa đầy 9 tháng, đứa bé lại theo anh về thiên đàng.


Thôi, thế là xong! Cha mẹ Têrêsa không hy vọng gì có con đi truyền giáo nữa.


A! Phải mà lúc đó, cha mẹ Têrêsa biết được tương lai rực rỡ vẻ vang của con gái út sẽ sinh sau, đoán được phần thưởng trọng hậu Chúa sẽ trả công lòng ước ao truyền giáo của mình. Người con gái út ấy sẽ được Hội Thánh tặng phong là Thánh Sư các nơi truyền giáo, đồng hàng vinh dự cùng thánh Phanxicô Xaviê, thì vui sướng chừng nào?


Về cô gái út này, một văn hào giá trị đã viết:


“Têrêsa là một vị truyền giáo lạ lùng của đời nay, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có cuộc đời vui tươi và dịu ngọt mãi, linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt ấy quyết không còn muốn giam cầm mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội lỗi”.


Về cha mẹ Têrêsa, một cha dòng Tên đã viết trên đầu cuốn chuyện MỘT TÂM HỒN dịch sang tiếng Bồ Đào Nha trước nhất lời đề tặng này:


“Muôn đời kính nhớ Thân phụ phúc hậu chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công giáo”.


Câu đề tặng đó, đủ để khen ngợi quý thân phụ Têrêsa, khen ngợi cái tinh thần Truyền Giáo muôn cách cũng bằng khen ngợi cái tinh thần giáo hoá đàn con nên lành thánh.


Lần lượt trong các chương sau đây của Chuyện MỘT TÂM HỒN, chúng ta nghe Têrêsa nhẩn nha kể lể rất khéo léo sự thể gia đình Người, con đường Người tu đức và nên thánh, nên trọn lành.


Chúng ta sẽ được hứng vui và được kích thích rất mạnh trên đường nhân đức.


               Quần Phương, ngày 24-4-1948

               KIM THIẾU




CHƯƠNG I: NHỮNG CUNG ĐẦU BÀI CA TÌNH ÁI

TRUYỆN MÙA XUÂN

BÔNG HOA NHỎ TRẮNG


Kính gởi Mẹ Đáng Kính Agnès de Jésus

(Chị ruột Người, Pauline)


VI 6-1-1961


Lạy Mẹ Đáng Kính, nay con xin kể hầu Mẹ Chuyện Tâm hồn con. Hôm Mẹ bảo con viết chuyện, mới đầu, con tưởng việc đó sẽ phân tâm con nhiều; nhưng rồi Chúa cho con hiểu cứ vâng lời Mẹ là đẹp lòng Chúa. Vậy hôm nay con bắt đầu hát những sự mà con phải ngân nga hát đời đời lòng Chúa thương xót...


Trước khi cầm bút viết, con đã quỳ dưới chân tượng Đức Mẹ Nữ Vương thiên đàng. Đấng đã yêu dấu gia đình nhà ta cách riêng. Con xin Đức Mẹ cầm tay con, đừng để con viết dòng nào mà chẳng vừa lòng Mẹ. Đoạn mở sách Phúc Âm, con nhìn ngay thấy những lời này:


Lúc ấy Chúa Giêsu đứng trên núi, Người gọi những kẻ Người yêu lại với Người  . Ấy chính là sự mầu nhiệm về ơn Chúa gọi con, về cả đời con sống, nhất là về những đặc ơn Chúa ban cho linh hồn con.


Chúa không gọi những người đáng gọi, một gọi những người Chúa yêu, quả như lời thánh Phaolô đã nói: “Đức Chúa Trời thương kẻ Người muốn thương, tỏ lòng lành với kẻ Người muốn tỏ lòng lành  . Vậy chẳng phải bởi việc ai muốn, hay công ai chạy, một chỉ bởi lòng Chúa thương xót thôi”  .


Lâu nay con vẫn vấn tâm sao Chúa lại có những cách biệt đãi ấy, sao các linh hồn không được chịu ơn Chúa bằng nhau? Con lạ lùng thấy Chúa ban nhiều ơn cả thể cho những người rất tội lỗi như thánh Phaolô, Augustinô, Madalena và nhiều đấng khác, nói được là Chúa ép ơn cho. Con lạ lùng nữa, lúc đọc chuyện thánh, thấy Chúa mơn mớn yêu dấu nhiều linh hồn từ buổi sơ sinh cho đến lúc chết, không để cuộc đời các đấng ấy phải vấn vương một ngăn trở nào làm khó dễ sự kết hiệp chí thiết cùng Chúa; cũng không để tội lỗi làm hoen ố chiếc áo trắng sạch phép rửa tội.


Con hỏi mình cớ sao lại có nhiều người, chẳng hạn những người mọi rợ phải chết vô số, chết mà chưa được nghe nói tên cực trọng Đức Chúa Trời lần nào?


Đức Chúa Giêsu đã dạy con lẽ sâu nhiệm ấy.


Người mở ra trước mắt con quyển sách thiên nhiên là phong cảnh trời đất. Ngắm cảnh thiên nhiên, con nhận thấy rằng tất cả những hoa Chúa dựng nên đều xinh đẹp hết: màu hồng hoa mân côi, và sắc trắng phau phau hoa huệ, cũng không át được mùi thơm hoa má tía, cũng không làm mất vẻ đơn sơ xinh tươi hoa cúc tây. Phải rồi, nếu tất cả những hoa tý tý ấy lại muốn làm hoa hồng cả, thì cảnh thiên nhiên sẽ mất vẻ đẹp lý thú mùa xuân, các cánh đồng sẽ chẳng còn muôn hoa rực rỡ nở.


Ấy cảnh trời thiêng của giới linh hồn cũng thế.


Trong vườn sống này, Chúa dựng nên những vị đại thánh để sánh với hoa huệ, hoa hồng. Chúa lại dựng nên những thánh nhỏ, giống như hoa cúc đơn, hoa má tía để Chúa vui lòng lúc nhìn xuống chân thấy cảnh trời đất tưng bừng đẹp đẽ...


Hoa nào càng vui theo thánh ý Chúa, càng nên trọn lành tốt đẹp.


Con hiểu thêm điều này: Một linh hồn dầu rất mộc mạc đơn sơ, nếu không cưỡng ơn Chúa, Chúa cũng yêu quý như yêu quý linh hồn đấng thánh cả. Vì chưng, sự tự nhún là riêng tính của tình yêu. Nếu linh hồn nào cũng cả thể như linh hồn các thánh tiến sĩ làm thơm danh Thánh Hội, và Chúa chỉ nhún mình xuống tới những linh hồn ấy thôi, thì chưa kể là đã nhún đến cùng. Song Chúa đã dựng nên trẻ thơ con nít, chẳng biết gì, chỉ biết khóc oe oe, Chúa đã dựng nên người rợ mọi, chỉ biết sống theo luật tự nhiên và Chúa đã nhún mình xuống tận những linh hồn ngây thơ ấy.


Những linh hồn ngây thơ chất phác này, chính là những hoa nở ngoài đồng, mà vẻ đơn sơ mộc mạc làm say lòng Chúa, và bởi sự tự nhún dường ấy, Chúa đã tỏ ra quyền cả vô cùng của Chúa. Như mặt trời, một trật soi sáng cây hương nam và cây hoa nhỏ, mặt trởi thiêng liêng cũng soi sáng cho từng linh hồn lớn nhỏ tuỳ sức chịu đựng của mỗi một: Tựa hồ trong cảnh thiên nhiên hoa cúc đơn tuy là thứ hoa rất mọn, mà Chúa cũng đã an bài rõ ràng ngày nào là ngày hoa ấy nở.


Thưa Mẹ, con dám chắc Mẹ phải bỡ ngỡ tự vấn: Con muốn nói chi thế này, viết tới đây, mà chưa thấy gì về chuyện đời con. Nhưng Mẹ đã chẳng bảo con rằng cứ viết tự nhiên, viết theo trí khôn nghĩ? Vì thế đọc những trang viết đây Mẹ sẽ chẳng thấy chuyện đời con rõ rệt bằng những tư tưởng của con về ơn Chúa đã khứng ban cho con.


Bây giờ đây, con có thể quay nhìn lại đoạn đời dĩ vãng. Linh hồn con đã thành kiên nhẫn vì những gian nan trong ngoài mà con đã trải qua. Ngày nay, như chiếc hoa sau trận bão, ngẩng đầu lên con nhận thấy đã ứng nghiệm nơi con những lời này trong Thánh Vịnh:


“Đấng chăn dắt tôi là Chúa, tôi không phải thiếu gì. Người cho tôi nằm nghỉ trong các đồng cỏ xanh rờn và tươi tốt; Người êm ả dẫn tôi đi theo dọc suối nước. Linh hồn tôi theo dõi Người mà chẳng thấy mệt... Dù khi tôi bước xuống thung lũng u ám bóng sự chết, tôi cũng không lo ngại vì đã có Chúa hằng ở cùng tôi”  .


Vâng, đối với con, Chúa vẫn dịu dàng thương xót và rất êm ngọt, hay nhịn và nhân từ lắm!  . Bởi thế, thưa Mẹ, con rất hân hạnh được đến gần Mẹ để ngợi hát khong khen những ơn hải hà Chúa ban.


Con viết chuyện “Bông hoa nhỏ” Chúa đã hái, là viết để mình Mẹ đọc, con phải nghĩ thế mới nói cho thoả được, nói mà không cần văn vẻ; nói lạc chạc thế nào cũng không sao. Một con trẻ dù bập bẹ chưa lên tiếng, lòng mẹ vẫn hiểu thấu ý con mình muốn nói. Con tin chắc con cũng được Mẹ hiểu và đoán ra hết những ý tứ lời lẽ mà con muốn nói...


Nếu hoa nhỏ kia mà biết nói, thiết nghĩ nó sẽ nói thật thà những ơn Chúa thương ban cho nó. Nó chẳng cần phải giấu giếm gì hết. Nó chẳng vịn cớ khiêm nhường mà bảo mình là vô duyên vô nhị, mặt trời làm mình phai màu nhợt sắc, mưa bão làm mình giập nát rũ rợi, mà tựu kỳ trung, lòng nó lại nghĩ khác, nhận định khác.


Cái hoa kể chuyện mình đây, vui mừng hân hạnh được cao rao những hồng ân Chúa tô điểm cho thân thể mình nên xinh đẹp. Nó nhận biết thân phận nó chẳng có gì cho đáng Chúa nhìn đến. Chúa rộng lòng thương chỉ vì Chúa yêu dấu nó thôi. Chúa đã cho nó sinh nở trong đất thánh, đất được tẩm nhiễm khí vị đồng trinh. Trong khối tình yêu muôn thuở, Chúa đã gìn giữ nó cho khỏi hơi độc thế gian và khi nó vừa chớm nở, Chúa đã đánh ngay đem trồng trên đỉnh núi Carmel, một nơi Đức Mẹ Đồng Trinh đã kén chọn cách riêng.


Thưa Mẹ, con đã toát yếu trong ít lời những ơn Chúa ban cho đời con. Bây giờ con xin kể rành mạch quãng đời thơ ấu. Con biết trước rằng quãng đời thơ ấu này, người ngoài đọc thì chán ngắt, nhưng Mẹ đọc, trái tim Mẹ sẽ rung cảm thấy thú, thấy hay.


Và đây, những ghi nhớ mà con sắp nhắc lại, cũng là những ghi nhớ của Mẹ, bởi vì được cùng Mẹ, con đã qua sống những ngày thơ ấu, và thân phụ đã yêu dấu chiều chuộng con cũng như yêu dấu chiều chuộng Mẹ.


Ôi! Ước chi thân phụ làm phép lành cho đứa con út và giúp nó ngợi khen lượng xót thương hải hà của Chúa.


Lòng người mẹ

Chuyện “Tâm Hồn Con” từ bé cho đến khi vào Dòng Kín có thể phân ra ba giai đoạn rõ rệt: Giai đoạn thứ nhất, tuy không lâu dài gì, nhưng cũng lắm điều, đáng nhớ; giai đoạn này kể từ khi con có trí khôn cho đến khi mẹ yêu dấu về thiên đàng; hay nói cách khác, cho đến khi con được bốn năm, tám tháng.


Đức Chúa Trời đã cho con trí khôn rất sớm. Người ghi tạc rất sâu vào ký ức con những việc xảy ra trong hồi thơ ấu, đến nỗi nay con còn nhớ như việc mới xảy bữa qua. Sở dĩ Chúa muốn con biết và quý mến người mẹ khôn sánh mà Chúa đã ban cho con. Thảm thương! Chính tay Chúa lại đã cất mẹ về thiên đàng sớm quá!


Suốt đời con, Chúa chỉ những thương cùng yêu con lắm. Những kỷ niệm đầu tiên đời con nhuộm toàn màu vui tươi và đẫm tình yêu đương mơn trớn. Bên ngoài Chúa để con được chiều chuộng nâng hứng cho hoà nhịp bên trong: Một trái tim non mềm mại, rất dễ yêu và dễ cảm. Không ai có thể tưởng tượng được lòng con yêu mến cha mẹ đến chừng nào. Con đã dùng ngàn cách để tỏ tình yêu, tha thiết ấy: Con không thể yêu mà không tỏ tình; nhưng những cách con tỏ tình khi ấy, nay nghĩ lại đến phải bật cười.


Thưa Mẹ, Mẹ đã trao cho con xem một ít thư Mẹ viết cho mẹ trong hồi Mẹ còn là chị Pauline lưu học ở trường các bà Dòng Thăm Viếng tỉnh Mans. Con còn nhớ nguyên văn những thư ấy. Con có thể kể lại đây dễ dàng một ít đoạn thư Mẹ viết, thường thường là Mẹ nói khen con. Những lời khen ấy, chẳng qua cũng chỉ bởi lòng yêu của người mẹ: Con hát Mẹ khen hay, điều đó dĩ nhiên không lạ.


Để làm chứng lời con nói về cách tỏ tình yêu mến cha mẹ, đã có chính lời Mẹ viết trong mấy thư sau đây:


“Con bé tinh nghịch không ai bằng. Nó đến hôn mẹ, rồi chúc cho Mẹ chết: ‘A Me ơi, con ước ao Me chết lắm!’. Người ta mắng nó nói láo, nó tỏ vẻ bỡ ngỡ rồi chữa mình: ‘Con chúc thế để mẹ lên trời, vì mẹ đã bảo có chết mới lên Trời được!’ hễ khi nó yêu cha quá, nó cũng chúc cha chết như thế”.


Con láu lĩnh ấy không rời mẹ lúc nào; theo mẹ cả ngày, và được theo như thế lấy làm sung sướng lắm, nhất là lúc nó theo mẹ ra vườn. Khi mẹ về nó cũng chẳng thèm ở vườn. Nó đòi cho kỳ được người ta đem nó về với mẹ mới thôi. Lúc lên thang, cũng không chịu lên một mình, mỗi bước lại mỗi lần: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Bao nhiêu bậc, bấy nhiêu tiếng Mẹ ơi. Mà nếu nhỡ lần nào mẹ quên trả lời “ừ con ơi!” Là nó đứng lỳ lại, không lên mà cũng không xuống nữa.


Khi con sắp lên ba, Mẹ đã viết những lời này:


... Một hôm, con Têrêsa hỏi mẹ xem mình có được lên thiên đàng không, mẹ trả lời: “Được, nếu con ngoan” - A! Thưa mẹ, nếu con không ngoan, con phải xuống hoả ngục à? Nhưng con đã có cách này: khi mẹ lên trời, con cũng theo mẹ, rồi mẹ ôm rõ chặt con vào lòng, thế Chúa làm gì mà gỡ được con ra.


Mẹ trông mặt nó bấy giờ có vẻ tự đắc lắm: nó mà ẩn trong cánh tay mẹ, Chúa chẳng làm gì được nó.


Con Marie cũng yêu em lắm. Têrêsa thật là trẻ làm vui cả nhà. Nó ngay thật lạ lùng: trông nó chạy theo mẹ mà thú tội rõ ngoan: “Mẹ ơi, con giẩy chị Céline một lần con đánh chị một lần, nhưng rầy đi con không dám hỗn thế nữa”.


Hễ bao giờ nó làm một tý gì không phải, chẳng mấy chốc ai ai cũng biết hết: như hôm qua nó vô ý làm rách một tý giấy hoa dán ở tường, nom bộ nó khốn nạn lắm, nó mong được thú ngay tội với cha. Bốn giờ sau cha mới về, lúc ấy chẳng còn ai nghĩ đến việc nó làm rách giấy, thế mà nó chạy ngay lại với chị Marie, nói: “Chị ra mách cha cho em ở nhà làm rách giấy”. Rồi nó đứng sững ra như một tội nhân đứng đợi tuyên án phạt mình; nhưng nó chắc bụng rằng nó thú tội rồi thế nào cũng được tha.


Nhắc đến tên Cha, con lại sực nhớ đến mấy điều rất vui. Hồi ấy, khi cha đi đâu về, bao giờ con cũng chạy ra đón, rồi ngồi lên giày cha. Cha cứ để con ngồi vậy mà bước đi, đi khắp cả nhà, ra cả vườn, đi mãi đến bao giờ con muốn thôi mới thôi. Một lần mẹ trông thấy phì cười và kêu cha chiều con quá. Cha trả lời:


- “Khốn, nó là Công Chúa, biết sao được”.


Rồi cha ẵm con vào lòng, lại nâng lên thật cao, lại để ngồi xuống vai mà hôn và vuốt ve mơn trớn đủ cách dấu yêu chiều chuộng.


Tuy nhiên cũng không nói được là cha nuông con đâu. Con nhớ một lần, con đang chơi đu vui thích lắm, cha đi qua gọi con rằng:


- Công chúa cha ơi, lại hôn cha nào.


Không hiểu sao hôm ấy con không muốn lại, con đứng yên đấy và thưa hỗn xược:


- Cha lại đây kia.


Cha đã xử rất phải: Không lại.


Chị Marie cũng đang chơi ở đấy, mắng con:


- Em mất dạy, thưa cha hỗn thế à?


Lập tức, con xuống khỏi đu, nhận mình phải mắng là quá phải. Rồi có tiếng khóc ăn năn tội ầm ĩ cả nhà. Con lên ngay trên gác, lần này không dám mỗi bước lại mỗi mẹ ơi nữa; con chỉ để trí nghĩ đến tìm được cha mà làm hoà với cha. Con đã làm hoà được ngay.


Một khi con thấy mình đã làm mất lòng cha mẹ, con không thể để thế lâu được. Sự biết nhận lỗi, đối với con chỉ là việc trong giây phút. Chính mẹ đã kể rõ tính ấy trong chuyện sau đây:


“Có một sáng, mẹ muốn hôn Têrêsa rồi mới xuống gác. Xem như nó còn ngủ mệt, mẹ không dám làm nó thức dậy; song chị Marie nó thưa: “Mẹ ơi, con chắc em giả cách ngủ đấy!”. Mẹ liền cúi hôn mặt nó, nó kéo ngay chăn lên trùm kín cả mặt rồi nói lụng bụng: “Chẳng cần ai thăm nom con hết!”. Mẹ đã không bằng lòng cử chỉ ấy và cũng làm nó hiểu thế. Hai phút qua, đã nghe thấy tiếng khóc, và nhanh không ngờ, quay lại mẹ thấy nó đã đứng ở bên, nó dậy một mình và đi chân không xuống gác lụng thụng trong chiếc áo ngủ dài hơn người. Nước mắt đầy mặt, nó lăn vào lòng mẹ van lơn: “Mẹ ơi, lạy mẹ, con láo quá, mẹ tha cho con nhé!”. Mẹ tha ngay, mẹ lại ôm con bé ngoan vào lòng, ôm chặt và ôm mãi”.


Tình chị em

Thưa Mẹ, con còn nhớ khi ấy con mến chị Marie lắm. Chị mới mãn học ở trường Dòng Thăm Viếng về. Tuy bề ngoài con không tỏ dấu gì, nhưng con đã biết lắm: Con để ý từng việc xảy ra và từng lời người ta nói mà con nghe được. Có lẽ bấy giờ con cũng đã biết nhận xét công việc như bây giờ. Con chăm chỉ nghe chị Marie dạy chị Céline học. Con đã phải ở rất ngoan và vâng lời các chị mọi đàng, mới được phép ở lại phòng trong giờ các chị học. Chị Marie lại hay cho quà con, quà thường nhưng cũng đủ làm con vui thích.


Con có thể nói, vì hai chị mà con đã được hiên ngang nhiều. Chị Pauline hồi ấy đi vắng xa, nhưng con nhớ chị cả ngày. Khi con vừa biết nói, hễ lần nào mẹ hỏi con nghĩ gì đấy, con cũng thưa:


- Con nghĩ chị Pauline!


Có khi con nghe nói chị Pauline sẽ đi tu, mà dù chưa hiểu tu là gì, con cũng bảo mình: “Tôi cũng đi tu”.


Đó chính là một trong những ghi nhớ trước nhất của đời con. Trở đi từ đó, con không hề đổi ý đi tu. Thế là từ hai tuổi, con đã được trông gương chị con mà trìu mến BẠN các kẻ đồng trinh.


Ôi thưa Mẹ, đối với Mẹ, còn biết bao tâm tình êm ái, tư lự dịu dàng mà con ước ao bày tỏ ra đây, nhưng sợ dài lời...


Chị Léonie cũng chiếm một phần lớn trong trái tim con. Chị yêu con lắm. Chiều chiều đi học về, chị thường ở nhà giữ em để cả nhà đi chơi mát. Để ru con ngủ, chị hay ngâm nga hát lắm bài rất hay, cung giọng trong trẻo, hình như bây giờ con còn đang nghe tiếng chị hát phảng phất bên tai. Con không thể quên cái ngày chị chịu lễ lần đầu; con còn nhớ cả cô con gái nhà nghèo, là bạn thân chị mà mẹ đã may áo mới cho để mặc ngày ấy, như thói lành những nhà khá giả trong tỉnh Alençon.


Cô bạn, suốt ngày vui mừng ấy, không rời chị Léonie một phút. Đến tối lúc ăn tiệc mừng, cô được hân hạnh ngồi ghế danh dự chính giữa!


Thảm hại con quá! Bấy giờ còn bé không được vào dự tiệc; nhưng đến khi ăn món ăn tráng miệng, con cũng được thông công bữa tiệc một chút, là ơn cha thương hại công chúa người, có đem cho công chúa một miếng bánh ngon ngoan quá.


Bây giờ con nói về chị Céline, bạn chí thiết cùng con từ nhỏ. Với chị, con nhớ nhiều điều lắm, đến nỗi không biết chọn mà nói điều nào. Hai chúng con nên một lòng một ý cùng nhau luôn. Con tuy có phần tỉnh táo hơn chị, nhưng lại thua chị ở lòng thật thà.


Thưa Mẹ, đây là một bức thư làm chứng chị Céline hiền lành mà Têrêsa tinh nghịch dữ tợn. Thư này Mẹ viết khi con chưa tới ba tuổi, chị Céline đã tới sáu năm rưỡi:


“Con Céline ngoan ngoãn dễ dạy, Têrêsa nghịch như giặc, không biết rồi sau ra thế nào. Nó bé tí mà đáo để lắm: Trí khôn rất sáng, nhưng không nhu mì hiền lành như chị được phần nào, nhất là có chứng cứng cổ hầu như bất trị. Lúc nào nó đã không, chẳng còn ai bảo được nó nữa, giá bỏ tù một ngày mà bắt nói có, nó cũng không nói, nó thà ngủ trong tù còn hơn?”.


Con còn một nết xấu mà không thấy Mẹ nói trong các thư Mẹ viết: lòng tự ái quá lẽ. Hai chuyện sau đây đủ chứng minh:


Một hôm, ý chừng mẹ muốn biết lòng kiêu căng của con đến chừng nào, mẹ cười bảo con rằng:


- Têrêsa con ơi! Nếu cúi xuống hôn đất, mẹ sẽ cho con một xu.


Một xu, với con khi ấy, là cả một cơ nghiệp. Mà để lấy đồng xu ấy, con cũng chẳng phải cúi gì mấy, vì từ mình con xuống tời đất, có xa cách bao nhiêu đâu. Thế mà lòng kiêu hãnh nổi lên ngay, con đứng ngay người lại và thưa thẳng thắn:


- Ôi thưa mẹ, nhất định không, thà chẳng có xu thì chớ.


Một lần cả nhà về quê thăm bà con thân thích. Mẹ bảo chị Marie lấy áo đẹp nhất vận cho em nhưng đừng vận thứ áo hở cánh. Khi ấy con không nói gì và làm ra chuyện dửng dưng không thiết như các trẻ nhỏ khác; song trong lòng đã lụng bụng:


- Giá cho vận áo hở cánh, có xinh hơn không?


Với tính nết ấy, con trộm nghĩ, nếu phải tay cha mẹ không có nhân đức, không biết dạy con, có lẽ con đã là đứa xấu nết dữ tợn lắm, và mất linh hồn cũng chữa biết chừng. Song Chúa đã gìn giữ vị hôn thê nhỏ của Chúa. Người đã dùng những tính hư nết xấu ấy để làm lợi cho con lắm, vì chưng được kìm hãm sớm, những tính nết ấy đã giúp con tấn tới rất nhiều trên nẻo trọn lành.


Bởi con vừa có lòng tự ái, vừa có lòng mến việc lành, nên chỉ cần bảo con một lần không nên làm thế, đủ rồi, con không hề tái phạm nữa. Con thấy Mẹ nói trong các thư rằng con càng lớn, càng làm cho mẹ vui lòng, con vui sướng quá! Âu bởi con hằng được xem gương sáng trước mặt, nên đã bắt chước mà làm được cách tự nhiên dễ dàng.


Năm 1876, Mẹ đã viết những lời sau đây:


“Đến con Têrêsa cũng đua làm việc lành! Chị Marie cho riêng em một cỗ tràng hạt để đếm việc lành. Chúng nó hội nhau mà diễn thuyết về đạo nực cười lắm. Một lần Céline giảng rằng: ‘Sao Đức Chúa Trời lại có thể ngự trong hình bánh nhỏ thế được?’. Têrêsa thưa:


- Chẳng lại gì điều ấy, bởi vì Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng! - Phép tắc vô cùng nghĩa là gì? - Nghĩa là Chúa muốn làm gì cũng được!


Nhưng còn điều này lý thú hơn nữa: Têrêsa mỗi ngày thò tay vào túi đến trăm lần để lần hạt, tính việc lành đã làm.


Hai đứa không thể rời nhau và đã dủ dê chơi cùng nhau cả ngày. Người vú cho Têrêsa một con gà sống và một con gà mái nhỏ; con bé liền biếu chị con gà sống. Ngày nào cũng cơm xong, thì chị nó đi bắt con gà sống, mà bắt gà sống thì được cả gà mái một trật. Thế là hai chị em đem nhau lại ngồi bên lò sưởi, chơi không còn biết chán.


Có một sáng Têrêsa tự tiện bỏ giường lại nằm chung với chị Céline. Khi người vú đến giường để vận áo cho, thấy giường không, trông ra mới biết nó đang nằm chung với chị. Nó liền ôm chặt lấy Céline, hôn và nói:


- Để kệ em, vú Louise xem này, hai chúng em như hai gà mái trắng, không thể rời nhau được!”


Sự thật, bấy giờ con không thể ở đâu mà không có chị Céline ở với; dù khi ăn cơm, con chưa kịp ăn món tráng miệng, nếu thấy chị Céline đứng dậy, con cũng đứng dậy không ăn nữa. Con thà bỏ dở bữa ăn để chạy đi chơi với chị thì thích hơn.


Ngày Chúa nhật, bởi con còn bé, chưa đi lễ được, mẹ thường ở nhà với con. Những khi ấy, con ăn ở rất ngoan ngoãn, con đi lại rất dón dén; nhưng thoạt khi thấy mở cổng là con mừng rỡ lắm: con chạy ngay ra đón chị yêu dấu của con, con reo mừng hỏi chị:


- A! Chị Céline! Bánh phép cho em đâu?


Phải một lần chị không có... làm sao được? Con thì con không có thể mà nhịn cho qua đâu, vì con lấy bánh phép làm lễ Missa của con. Bỗng dưng một ý nghĩ hay vụt trong óc:


- Vậy chị không có bánh phép, chị lãy làm cho có đi!


Chị con liền mở tủ lấy bánh cắt một miếng, rồi tay cầm, miệng trịnh trọng cúi xuống đọc kinh Kính Mừng, trao cho con chịu lấy. Con vừa làm dấu thánh giá, vừa ăn rất sốt sắng, ăn ngon lành, như ăn bánh phép.


Một ngày kia, chắc là chị Léonie nghĩ mình lớn rồi không tiện chơi em phỗng nữa. Chị cầm cả cái rổ con của chị đầy những áo, những mụn vải đẹp và nhiều đồ quý hoá khác, có cả em phỗng đang nằm trơ hơ ở trên, chị đến với hai chúng con mà bảo rằng:


- Cho hai em chọn, em nào muốn lấy gì thì lấy!


Chị Céline nhìn, rồi chọn lấy búi chỉ lụa ngũ sắc. Còn con, con nghĩ một giây, rồi nói:


- Em chọn ráo!


Con vừa nói, vừa vơ lấy cả rổ, cả em phỗng.


Cử chỉ thơ ngây này coi như một toát yếu cuộc đời con. Đến sau, khi con đã biết ái mộ đàng nhân đức, con hiểu rằng muốn nên thánh, cần phải chịu đau khổ nhiều, phải luôn luôn tìm sự trọn hảo nhất, phải quên mình đi cho hẳn. Đàng trọn lành thánh thiện có nhiều bậc, mỗi linh hồn được tự do tiến tới theo ơn Chúa, được tự do hành động nhiều ít tuỳ sở nguyện; tắt một lời, được tự do chọn trong những cách hy sinh mà Chúa muốn.


Vậy, như hồi thơ ấu, con đã kêu cùng Chúa rằng:


Lạy Chúa, con chọn ráo; con không muốn làm thánh nửa vời; con chẳng sợ như thế thì phải chịu khổ sở nhiều vì Chúa đâu, con chỉ sợ điều này là không bỏ được ý riêng con thôi. Xin Chúa nhận lấy ý riêng con, bởi vì con chọn tất cả những sự Chúa muốn, con chọn trót ý Chúa.


Một chiêm bao

Nhưng, thưa Mẹ yêu dấu, con lại sảng sốt: đang kể chuyện lúc ba bốn tuổi, con nói xiên đến chuyện khi đã nhơn nhớn.


Trong giai đoạn thứ nhất này, con chiêm bao một điều mà nay vẫn còn nhớ rõ ràng lắm:


“Con chiêm bao đi bách bộ một mình ở vườn, bỗng thấy hai thằng quỷ con rất xấu xí, đang thoăn thoắt nô nhảy ở trên thùng vôi gần giàn cây mát mặc dầu chân chúng vẫn còn đeo xích sắt rất nặng. Hai thằng trợn mắt đỏ như lửa nhìn con; rồi như kinh khiếp, rúc cả vào thùng. Chúng lại chui ra lối nào không biết mà cắm đầu cắm cổ chạy lẫn vào nhà giặt ở đàng đầu vườn. Thấy hai quỷ nhát như cáy, con muốn theo dõi xem chúng còn giở trò gì. Con đánh bạo chạy lại nhòm cửa sổ... Hai quỷ bí lối tẩu thoát, chạy quẩn quanh trên bàn giặt nhưng vẫn không tránh được mắt con. Thỉnh thoảng, chúng lại gần cửa sổ, sợ sệt ghé mắt nhìn qua cửa kính, mà thấy con còn đứng đấy, thì lại hoảng sợ chạy như thất vía”.


Đành rằng chiêm bao chẳng có gì là; nhưng con tin rằng Chúa đã dùng chiêm bao này để tỏ cho con biết một linh hồn có nghĩa với Chúa, chẳng phải sợ gì lũ quỷ: chúng hèn lắm, nhát sợ cả cái nhìn của đứa trẻ nít.


Ôi! Thưa Mẹ, trong tuổi này, lòng con tràn ngập vui sướng; chẳng những cảnh đời vui cười niềm nở với con mà đàng nhân đức cũng ru lòng con dịu dàng lắm. Xưa cũng như rầy, hình như tâm hồn con vẫn giữ một thái độ, vẫn làm chủ quyền trong mọi việc làm. Bởi vậy từ bé con đã tập được thói quen không hề phàn nàn khi ai lấy gì của con; hay khi bị cáo gian cũng không kêu ca một điều. Con quý sự ở lặng hơn sự chữa mình. Con không có công gì ở chỗ đó, tự nhiên con giữ được thế thôi.


Tuy những năm nhuộm ánh hồng rực rỡ ấy, những năm tươi như hoa nở của tuổi thơ trôi đi mau lẹ, nhưng vẫn còn ghi dấu êm dịu và mát thơm ở hồn con, tưởng trọn đời không hết mùi hương vị!...


Con vui sướng nhớ lại những ngày cha dẫn đi thăm trại ngoài thành; nhất là những ngày Chúa nhật, con được theo mẹ đi dạo mát, qua những cánh đồng lúa bát ngát xanh tươi, chen thêm những bông hoa sặc sỡ trắng, vàng, đỏ... Con ngắm cảnh nên thơ và mỹ lệ trời đất, mà lòng cảm xúc mạnh mẽ sâu xa lắm, nay tưởng như vẫn còn được xem trước mắt.


Tuổi ấy, con đã biết thú ngắm phong cảnh xa xa, trông trời đất cao rộng, nhìn cây cổ thụ um tùm to lớn! tắt, rằng cảnh thiên nhiên tốt đẹp đã làm say lòng con lắm, nâng rước tâm hồn con lên tới cõi Thiên Thai.


Đi chơi mát hay gặp kẻ khó, nên mẹ đã giao cho con công tác mang tiền làm phúc. Nhận công tác ấy, lòng con rất vui sướng. Nhiều lần sợ đi xa quá mệt công chúa nên cha dẫn con về trước. Con không thích thế tý nào, nhưng cũng phải vâng ý cha. Và chị Céline như để an ủi con, đi chơi về thường đem cho con một rổ đầy hoa sặc sỡ.


Ôi! Thực khi ấy thế gian niềm nở cùng con quá! Mọi cái mọi vui tươi: con đi bước nào cũng gặp hoa, hoa nở tưng bừng! Lại cái tính vui vẻ của con càng giúp cho đời sống: người vui cảnh lại vui thêm.


Nhưng một giai đoạn mới sắp sửa vén màn.


Chúa GIÊSU, đã chọn con làm vị hôn thê sớm lắm, nên tự sớm lắm, con đã phải chịu đau khổ. Ví như hoa tiết xuân bắt đầu nẩy mầm dưới sương tuyết, đợi ánh nắng mặt trời mọc mới nở bông thế nào, thân hoa mọn viết chuyện đây, cũng phải trải qua một tiết đông đau lạnh, phải chịu đựng trong đài hoa non những hạt sương lệ sầu thể ấy...




CHƯƠNG II: MẸ TRINH NỮ QUA ĐỜI


Đầu cuối câu chuyện mẹ bệnh, và nhất là mấy tuần lễ sau hết mẹ sống ở thế gian, nay con còn nhớ hết.


Hồi ấy, chị Céline và con như hai đứa trẻ phải đi đày! Sáng nào bà X... cũng đến đón chúng con về nhà bà.


Hai chúng con ở đấy cả ngày.


Một lần hai chị em chưa kịp đọc kinh sáng, đã phải ra đi; chị Céline vừa đi vừa khẽ bảo con:


- Có nên thú chưa đọc kinh không?


- Ô! Nên lắm chứ. Con trả lời.


Bấy giờ, chị con mới nhút nhát tỏ sự ấy cùng bà X... Bà bảo ngay chúng con rằng:


- Thế thì chúng con đọc kinh đi đã.


Chúng con liền vào một gian phòng rộng lớn, còn bà thì lảng ra chỗ khác. Thấy vậy, chị Céline bỡ ngỡ nhìn con; con cũng bỡ ngỡ nhìn chị và nói:


- Bà không được như mẹ! Mẹ, bao giờ mẹ cũng kèm chúng ta đọc kinh kia mà.


Suốt ngày, dù người ta dùng trăm cách để làm khuây khoả chúng con, nhưng cũng không thể làm chúng con thôi nghĩ đến mẹ luôn luôn. Con nhớ một lần người ta cho chị Céline quả mơ chín, chị liền ghé vào tai con nói:


- Chúng ta đừng ăn, để chị đem về cho mẹ.


Ôi! Khi ấy mẹ mệt lắm rồi, còn ăn gì được hoa quả thế gian nữa, chỉ còn đợi về thiên đàng, để hưởng no đầy sự vui mừng cả sáng Đức Chúa Trời, và uống rượu mầu nhiệm cùng Đức Chúa Giêsu, thứ rượu mà Chúa đã nhắc đến trong bữa tiệc ly, và hứa sẽ chia phần nào cho chúng ta trên nước Cha Cả.


Con cũng nhớ tất cả những lễ phép rất cảm động khi Thầy cả làm phép Xức dầu thánh cho mẹ; con còn trông thấy chỗ người ta bảo con quỳ; con còn nghe thấy những tiếng cha nức nở khóc...


Hôm sau ngày mẹ chết, tức là ngày 28 tháng 8 năm 1877, thọ 46 tuổi, cha bế con vào phòng để xác mẹ và bảo rằng:


- Con vô hôn mẹ con lần sau hết!


Con chẳng nói được lời nào, chỉ lặng lẽ cúi xuống hôn mặt đã lạnh lẽo!...


Con không nhớ có khóc mẹ lắm không. Con cũng chẳng nói cùng ai những tâm tình lâm ly thống thiết đầy ngổn ngang trong lòng. Con cứ lặng lẽ đứng nhìn và nghe xem các công việc. Con xem được cả những sự người ta muốn giấu con. Có một lúc, chỉ có mình con đứng trước quan tài đặt ở ngoài hè; con ngắm một lúc lâu sự xưa nay con chưa từng thấy mà con cũng hiểu được! Khi ấy con bé quá, phải nghển mãi mới nhìn thấy hết quan tài. Quan tài to lắm mà cũng bi đát lắm!...


Mười lăm năm sau, lại có lần con đứng trước một quan tài, quan tài Mẹ Đáng Kính Geneviève lập Dòng Kín Lisieux. Khi này lòng con lại bồi hồi thổn thức sự xưa? Bao nhiêu kỷ niệm xé ruột lại diễn ra trong trí. Ấy cũng là Têrêsa nhỏ xưa mà nay đã lớn, đã biết coi quan tài là nhỏ, không phải nghển cổ mà nhìn như xưa, chỉ phải nghển cổ mà ngắm nền trời cao sáng lộng lẫy đẹp thôi. Gian nan cơ cực của đời đã hun chín, đã tôi luyện kỹ lưỡng linh hồn Têrêsa rồi, đời chẳng còn gì khó có thể làm Têrêsa nản lòng và mất vui được nữa.


***


Cái ngày Hội Thánh làm phép xác mẹ và an táng; Đức Chúa Trời không nỡ để con mồ côi quá; Người cho con một mẹ khác và cho chọn tuỳ ý.


Khi ấy chị em chúng con cả thảy là năm người, mặt ủ mày chau, buồn bã nhìn nhau. Thấy thảm cảnh nhà đương tan nát, người vú cũng rầu lòng thương hại, quay nhìn chị Céline và con mà nói rằng:


- Khốn nạn, các cô không còn mẹ nữa!


Chị Céline liền chạy ngay vào lòng chị Marie mà nói:


- Chị nhé! Chị làm mẹ em đấy!


Con xưa nay vốn hay làm theo chị Céline, thấy chị nhận chị Marie làm mẹ, cũng toan bắt chước chị như thế; nhưng nghĩ lại nếu vậy thì chị Pauline buồn vì thấy mình trơ trọi không có em nào nhận. Cho nên, thưa Mẹ, con liền nhìn Mẹ, nhìn cách yêu dấu, rồi ngả đầu vào ngực Mẹ, con nói:


- Em nhận chị Pauline làm mẹ!


Như trên con đã nói, từ giai đoạn này, con đã bước sang đoạn đời thứ hai, đoạn đời phải nếm mùi đau khổ nhiều hơn và càng đau khổ hơn nữa từ ngày chị Pauline mà con đã nhận làm mẹ lại bỏ con, đi vào Dòng Kín. Đoạn đời đau khổ này dài vắn cũng ngót mười năm. Trong tuổi 14 này con lại khôi phục được tính vui vẻ khi xưa và càng am hiểu rõ rệt lẽ nhân tình thế thái ở đời.


Thưa Mẹ, Mẹ cũng biết khi mẹ vừa mất, tính nết con liền đổi hẳn.


Trước con vui vẻ, hay nghịch, hay nói, bấy giờ ra nhút nhát hiền lành và rất đa cảm: Chỉ một cái nhìn cũng đủ làm mếu khóc, nên hơn hết con ước ao đừng ai săn sóc trông nom gì con nữa. Nhà đông khách đến chơi, con cũng bứt rứt khó chịu. Con chỉ còn vui được khi có chị em nhà ở cùng nhau thôi.


Trong gia đình, con vẫn được cha và các chị thương yêu chiều chuộng lắm. Lòng cha yêu lũ con đã thắm thiết, nay lại giấu thêm cả tình yêu thắm thiết của tấm lòng mẹ; các chị cũng tận tình yêu em như mẹ thương con.


Ôi! Nếu Chúa không giãi những tia sáng yêu thương thể ấy xuống thân hoa mọn này, lẽ nào hoa mọn này còn sinh sống được ở thế gian. Bởi thân hoa còn non nớt, chưa có sức chịu đựng những trận mưa to gió lớn, nên cần phải được ấp ủ trong bầu không khí ấm áp, có sương sa mát mẻ, có hơi gió xuân nhẹ nhàng phe phẩy; dầu khi phải trải qua những trận tuyết gian nan, những ơn kia cũng vẫn man tràn đầy dẫy.


Trong trại Buissonnets, gà trống nuôi con

Qua ít ngày, gia đình bỏ tỉnh Alençon, dọn về ở tỉnh Lisieux gần nhà cậu ruột, sở dĩ là để nhờ mợ đỡ cha coi sóc đàn con côi cút.


Phần con, thấy đổi sang ở Lisieux cũng chẳng buồn, lại theo tính tình tự nhiên còn vui thích là khác. Đến nay, con vẫn còn nhớ cuộc hành trình di cư lần ấy, đi mãi gần tối mới đến nhà cậu. Mợ với hai em Jean và Marie đã thấy đứng đón ở cổng. Con thấy cậu mợ và các em tỏ tình nghĩa yêu quý gia đình nhà ta như thế, cảm động quá!


Ngày hôm sau, cậu đưa cha con nhà sang ở nhà mới trong trại Buissonnets, một nơi tĩnh mạc gần vườn chơi mát quen gọi là Vườn sao.


Địa thế nhà mới phong quang lắm: nhà có sân trên mái, đứng đó nhìn được rất xa. Trước nhà có vườn cảnh, sau nhà có vườn trồng rau. Địa thế đẹp và quang đãng này đem lại cho trí tưởng tượng ngây thơ của con một cảnh vui thú. Trong ngôi nhà đã biến thành rạp hát ấy, trên sâu khấu đã phô diễn biết bao cảnh vui buồn thương nhớ của gia đình, tưởng không bao giờ nhạt lòng tri niệm. Vả lại, như đã nói ở trên, con là đứa đi đày, không khỏi khóc, không khỏi nhớ rằng mình đã mất mẹ rồi; nhưng ở nơi đây, lòng con lại cởi mở, đời sống lại tươi cười vui vẻ.


Mỗi sáng thức dậy, các chị đến hôn con rồi cho con ngồi đọc kinh bên các chị. Chị Pauline lại dạy con đọc sách. Con nhớ rằng khi con biết đọc một mình, con đã đọc tiếng TRỜI trước hết. Tập đọc xong, con lên ngay trên gác chỗ cha thường ngồi. A! lần nào được điểm tốt đem lên khoe cha, con vui sướng quá!


Chiều chiều, con thường được theo cha đi chơi mát, rồi vào nhà thờ viếng Mình Thánh, hôm nay nhà thờ này, hôm mai nhà thờ khác. Nhân thế mà con được vào viếng Chúa ở nhà nguyện Dòng Kín lần thứ nhất. Lần ấy, cha bảo con rằng:


- Này! Con xem bên trong phên sắt, hàng có các bà Dòng thánh thiện cầu nguyện cả ngày.


Phải mà khi ấy con biết nghĩ rằng chín năm sau, con sẽ được vào ở với các bà và trong nhà thánh này, Chúa sẽ ban cho con nhiều ơn cả thể!


Đi chơi về, con làm bài; làm bài xong, còn tí thì giờ nào, con chạy ra vườn nô chơi quyện quanh bên cha. Con không biết chơi em phỗng. Cái vui chơi của con khi ấy là đi nhặt nhạnh những hạt, những vỏ cây mà nấu nước. Khi nước nấu đã thành sắc đẹp, con rót vào chén nhỏ coi ngon lành ai cũng muốn dùng, con bưng mời cha uống. Cha chiều con thật, bỏ ngay việc đấy, tủm tỉm cười, làm ra bộ uống rất ngon lành.


Con cũng thích cấy hoa, thích chơi bày bàn thờ ở góc tường xây bao vườn. Bày bàn thờ xong, con chạy đi mời cha lại xem. Để chiều ý con, cha đứng ngắm nghía, rồi khen lao và khéo léo mỹ thuật! Thưa Mẹ, nếu con kể đến ngàn điều nữa, vị tất đã hết các điều con nhớ. Thật không lẽ nào nói hết những cách cha quý yêu chiều chuộng công chúa cha được!


Những ngày tươi đẹp của đời con, cũng là những ngày con được vua yêu dấu - con thích gọi cha bằng tên ấy - cho theo đi câu cá. Cũng có bận con vác cần câu nhỏ của con đi tập câu: thường thường con thích ngồi xa trên đám cỏ hoa lăn tăn, những khi ấy trí khôn con ngẫm nghĩ rất xa xăm, và tuy chưa biết nguyện ngắm, linh hồn con cũng như mê mệt trong việc trao đổi tình ý thâm thiết cùng Chúa. Rồi rừ xa xa con nghe như có tiếng ai nói, có tiếng gió đưa rì rào, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng nhạc nhà binh trong tỉnh phảng phất bay ra như mơ hồ, như não nùng làm ngao ngán lòng người câu cá, lòng khách xa lạ.


Trong những giây phút buồn vui lơ lửng ấy, con cảm thấy rõ rằng thế gian là chốn lưu đày, bơ vơ... Lòng lại mong mỏi về nơi phúc lạc!


Những buổi chiều thơ mộng ấy rất chóng vắn, chưa chi đã phải thu dọn trở về trại. Nhưng trước khi thu dọn về, con mở thúng nhỏ lấy bánh ăn. Khốn nạn! bánh nhân mức các chị mới làm đẹp thế mà đã nhợt hết màu; con thấy bánh không còn ngoan lành như trước, lại trông như cũ và ỉu, thì nhân đó lại sinh lòng chán ngán thế gian hơn. Con hiểu chỉ có sự mừng vui thiên đàng mới khỏi vầng mây u ám.


Nói đến mây, con nhớ một hôm trời đang thanh quang, tạnh ráo, bỗng rừng mây đùn lên đen nghịt cả vòm trời, rồi cơn mưa kéo đến, rồi chợp loè, rồi sét đánh râm ran tứ phía. Khi ấy không chợp mắt, con quay nhìn tứ tung để kịp xem hết cảnh oai hùng của Tạo Hoá, thì một tiếng sét nổ vang trời ở cánh đồng bên chỗ con ngồi, nhưng con chẳng khiếp chút nào, lại có phần thinh thích. Con có cảm giác như Chúa trời đất đang ở gần con. Cha không thích như con, người lại cầm tay con dắt về. Bấy giờ cỏ cùng những cây hoa cao hơn con mọc ở bờ ruộng, đều đã ướt cả, lóng lánh như dát đá ngọc quý. Hai cha con còn phải đi qua nhiều ruộng cỏ nữa mới lên tới đường về. Tuy đã phải mang xách những đồ câu, cha cũng còn cõng con. Ngồi trên lưng cha, con cúi nhìn những hạt nước óng ánh như kim cương mà tiếc không được ướt đẫm cả mình.


Lòng thương kẻ khó

Con chưa nói khi đổi về Lisieux, cũng như khi còn ở Alençon, những khi đi chơi mát hàng ngày, con thường đem tiền để bố thí cho kẻ khó.


Một chiều kia, gặp ông lão đi nạng khệnh khạng, con lại gần đưa cho ông một đồng tiền. Ông cứ nhìn con, nhìn buồn bã rồi bằng một nụ cười đau đớn, ông lắc đầu không lấy. Con không thể nói được nỗi lòng thổn thức của con khi ấy; ý con muốn an ủi và giúp đỡ ông một chút, hay đâu lại làm ông thêm tủi, thêm phiền?


Chắc ông đã đoán được tâm sự con, nên một lúc sau, ông đã quay lại nhìn con rồi mỉm cười.


Cùng lúc ấy, cha vừa cho con một chiếc bánh, con muốn chạy ngay đem cho ông lão. Bụng bảo dạ:


- Ông không muốn lấy tiền, chắc ông vui lòng lấy bánh.


Rồi không hiểu tại sao, con đâm lo sợ không dám chạy lại nữa, ruột gan bồn chồn thổn thức quá! Con không cầm nổi nước mắt. Cho đến khi sực nhớ tới câu người ta thường nói hôm chịu lễ lần đầu muốn xin Chúa ơn gì cũng được, lòng con mới yên yên. Dù mới sáu tuổi, lúc ấy con cũng bảo mình rằng:


- Hôm chịu lễ lần đầu, tôi sẽ cầu nguyện cho ông này.


Qua năm năm sau, con đã giữ trọn lời hứa ấy, con vẫn đinh ninh lời con cầu xin cho phần thân thể đau đớn này của Chúa, đã được khứng nhận và tán thưởng.


Con càng lớn, lửa mến Chúa càng cháy mạnh mẽ trong linh hồn con. Con năng đọc kinh mẹ đã dạy khi xưa để dâng lòng cho Chúa. Trong mọi việc làm con chỉ cố làm đẹp lòng Chúa và giữ ý kẻo mất lòng Chúa cách nào. Phải một hôm con phạm một lỗi đáng tội kể lại đây. Lỗi ấy, nghĩ đến mà xấu hổ, nhưng con tin mình đã ăn năn đền tội đủ.


Tháng 5 năm 1878 vì còn bé, chị Pauline không cho con theo chị đến nhà thờ thông công việc kính Đức Mẹ. Con phải ở nhà với người vú. Ở nhà, con rủ người vú làm việc kính Đức Mẹ ở bàn thờ riêng con đã bày: Bàn thờ bé, thành ra các đồ thờ phượng cũng bé, chân nến bé, lọ hoa bé, vv...


Chỉ hai ngọn nến bé con đốt lên cũng đủ soi sáng tất cả. Thỉnh thoảng vú Victoire muốn tiết kiệm nến nhỏ của con, có đem cho con vài khúc nến to, nhưng cũng năm chừng bảy hoạ mới có một lần.


Một hôm, lúc sắp bắt đầu việc tháng Đức Mẹ, con bảo vú rằng:


- Xin vú xướng kinh Lạy Thánh Nữ để em đốt nến.


Vú đã giả cách như xướng kinh, rồi lại nhìn con mà cười phì lên. Con thấy nến của con cháy hao lắm, một lần nữa con giục vội vú đọc kinh Lạy Thánh Nữ nhanh đi. Vú không đọc! Vú cứ cười sặc sụa! Bấy giờ con mới giận quá đứng ngay dậy, quên hẳn cái tính hiền lành mọi khi, con giậm chân giậm tay kêu ầm ĩ rằng:


- Victorie! Vú dữ tợn thế!


Người vú liền thôi cười, ngẩn nhìn con, rồi thò tay vào túi áo lấy ra hai khúc nến to đưa cho con. Khốn nạn! trước con đã khóc vì giận dữ, bây giờ lại khóc vì hối hận! Con xấu hổ quá, tự thẹn thuồng và đã quyết chí không có lần như thế nữa.


Xưng tội lần đầu


Ít lâu sau, con được dọn mình xưng tội lần đầu. Thật là một kỷ niệm rất dịu dàng êm đẹp!


Thưa Mẹ yêu dấu, khi ấy Mẹ bảo con rằng:


- Hỡi em Têrêsa, nay em đi xưng tội; em xưng với Chúa, chẳng phải là xưng với người nào thế gian.


Con cũng đã biết điều ấy lắm, nên con có thưa lại Mẹ một cách thận trọng rằng có phải trình với Cha Ducéllier: con mến người hết lòng không, bởi vì con trình với người điều ấy cũng như trình với Chúa vậy.


Khi đã học biết đủ các lẽ cần dọn mình kỹ càng xong, con vào quỳ trước toà xin tội. Cha giải tội mở cửa toà không thấy ai hết. Bởi con thấp quá đầu chưa tới nơi vịn cửa toà. Cha liền bảo con đứng dậy mà xưng. Con vâng đứng ngay, ngẩng mặt nhìn thẳng mặt người. Con xưng hết các tội và chịu phép giải tội cách sốt sắng lắm. Con nhớ lời Mẹ đã dạy trước rằng trong giây phút nghiêm trọng ấy, nước mắt Chúa Giêsu sẽ rửa sạch linh hồn con. Nay con vẫn còn nhớ những lời cha khuyên bảo, nhất là cha tha thiết khuyên con sự sốt sắng kính mến Đức Mẹ Đồng Trinh; con đã hứa cùng cha xưa nay con vẫn yêu mến Đức Mẹ, nhưng rầy đi con sẽ yêu dấu Người gấp bội.


Đoạn con đưa tràng hạt nhỏ của con xin Người làm phép, rồi bước ra khỏi toà, trong lòng khoan khái nhẹ nhàng! Con chưa cảm thấy được vui mừng thể ấy bao giờ.


Bấy giờ trời đã tối.


Khi về qua cột đèn, con ngừng chân lại, móc túi lấy tràng hạt vừa làm phép ra xem, ngắm nghía mãi. Mẹ liền hỏi con:


- Em Têrêsa ngắm nghía gì thế?


- Em xem tràng hạt làm phép xem thế nào?


Câu nói tự nhiên ấy đã làm Mẹ vui cười lắm!


Phần con, con đã giữ được ơn phép Giải tội rất lâu, và trở đi từ đó, con năng xưng tội các ngày lễ trọng. Con có thể nói, lần nào xưng tội xong, lòng con cũng được an ủi và rất vui mừng.


Các Lễ Trọng!... A! Biết bao kỷ niệm thơm tho ấp ủ trong tiếng Lễ Trọng!... Con thích những ngày Lễ Trọng lắm! Hồi ấy, Lễ Trọng nào Mẹ cũng giải nghĩa sự mầu nhiệm cho con nghe. Những ngày ấy ở khách đày, đối với con, vui như những ngày vui thiên đàng. Nhất là con thích những ngày kiệu Thánh Thể!


Còn sướng gì bằng sướng được tung hoa dưới chân Chúa!


Bao giờ con cũng có ý tung rõ cao, cho hoa chạm Mặt Nhật đã, rồi hãy rơi xuống thì lòng mới thoả.


Những Lễ Trọng. Ôi! Nếu những lễ trọng hoạ hiếm mới có, thì tuần nào cũng có ngày Chúa nhật! để thoả lòng con rồi.


Tưng bừng sáng sủa thay ngày Chúa nhật! Ngày phụng sự Thiên Chúa, ngày nghỉ ngơi việc phần xác.


Ngày Chúa nhật nào tất cả nhà cũng đi xem lễ hát. Con nhớ mỗi khi đến lúc giảng, lại phải tìm chỗ ở giữa nhà thờ mà ngồi để nghe cho dễ; ngồi gian cạnh, xa toà giảng quá không nghe được. Mà mỗi khi tìm được chỗ, cũng không phải là dễ. Nhưng bởi ai ai cũng có lòng vị nể hai cha con, nên sẵn sàng nhường chỗ. Cậu thấy hai cha con cùng có chỗ thì mừng. Cậu hay gọi là tia sáng nhỏ của mặt trời, và nói pha trò rằng trông vị lão già đạo mạo khả kính, cầm tay con gái nhỏ dắt đi, như trông một bức hoạ đẹp lý thú!


Phần con, ai nhìn mặc ai, con chỉ cầm trí nghe giảng. Bài giảng mà con hiểu được trước hết là bài giảng cuộc tử nạn Chúa Cứu Thế. Tuy con mới hơn năm tuổi, con cũng cảm động sâu xa. Và tự đấy về sau, nghe giảng lần nào con cũng hiểu được cả.


Một lần kia, khi giảng về Mẹ thánh Têrêsa, cha liền cúi xuống khẽ bảo con rằng:


- Con cầm trí nghe, đang nói về thánh quan thầy con đấy.


Con vẫn cầm trí; song xin nói thực rằng con hay nhìn cha hơn nhìn diễn giả. Diện mạo cha tốt đẹp, nói cùng con nhiều sự lắm; thỉnh thoảng hai mắt cha ứa lệ, cha cố giữ mà không giữ nổi, phải để tràn ra.


Khi nghe giảng về những chơn lý đời đời, cha hình như không còn phải là người dương thế nữa, linh hồn cha như đã bay xa về thế giới khác, chìm đắm trong cõi phúc đâu đâu! Nhưng hỡi ôi! Đường đời còn dài, cha còn phải phiêu lưu lâu mới về tới quê thật; cha còn phải sống nhiều năm đau khổ nữa, mới đến ngày được thấy cửa trời mở, được thấy Chúa giơ tay gạt nước mắt cho đầy tớ trung trực Người...


***


Con trở lại câu chuyện ngày Chúa nhật.


Ngày Chúa nhật vui thì vui thật, song mau chóng lắm, lại cũng không khỏi có sự buồn; con chỉ vui được tự sáng đến khi đọc kinh tối (Complies), rồi trở đi tâm tình buồn lại vẩn lên trong mình. Con nghĩ đến ngày mai cũng lại có thế: Lại sống, lại làm việc, lại học bài, mà chạnh lòng ngao ngán kiếp phù sinh, mãn và ước ao mau mau về an nghỉ chốn đời đời, để vui sống ngày Chúa Nhật trường cửu trên Quê Thật.


Lần nào cũng thế, khi đi nhà thờ về, mợ cũng mời các cháu vào chơi tối ở nhà mợ, lần thì cháu này, lần thì cháu khác. Đến lượt con, con rất vui. Ở nhà mợ, cậu kể chuyện cho nghe rất thú; chuyện nào cậu nói cũng hay, cũng có vị. Chắc khi ấy cậu không nhận được con chú ý nghe chuyện cậu thế nào. Có nhiều chuyện nghe vừa thích vừa ghê ghê, nhất là lúc cậu yêu cháu, cho ngồi lên gối cậu rung đùi hát bài “Bộ Râu Xanh” hát tiếng to ghê sợ, con rợn cả mình!


Phỏng 8 giờ, cha lại đón con về. Lúc về đường, nhìn lên nền trời muôn sao nhấp nhánh đẹp xinh, lòng con rạo rực khoái trá quá. Con nhìn thấy trên ngọn trời chót vót một đám sao sáng như ngọc óng ánh xếp thành hình chữ T..., thì lòng càng vui sướng, con nói cùng cha rằng:


“Cha ơi! Cha xem tên con đã viết ở trên trời kìa!”.


Đã thấy trời, con chẳng muốn nhìn xem đất nữa; con thưa với cha để người dắt con đi, con cứ ngẩng mặt nhìn trời sao mà chẳng biết mỏi, cũng chẳng biết chân mình bước làm sao.


Những buổi tối mùa đông

Những buổi tối mùa đông ở trại Buissonnets. Ôi! Con biết nói sao bây giờ! Vui thú lắm! Các chị hết đánh cờ, lại đọc sách, khi thì đọc sách “Lễ nhạc quanh năm”, khi thì đọc những sách gì hay và có ích. Trong những cuộc vui gia đình ấy, con thường được ngồi vào lòng cha; và khi đọc sách xong, bao giờ cha cũng hát, tiếng rất hay, hát những bài êm tai dịu lòng lắm, dường như để ru con ngủ. Con gục đầu vào ngực cha, cha lắc lư ôm con yêu dấu chừng nào!...


Chơi đoạn, cả nhà lại lên gác đọc kinh. Ở trên gác con vẫn được ngồi bên cha, con chỉ cần nhìn cha cũng biết được cách các thánh cầu nguyện.


Đọc kinh xong, chị Pauline đưa con đi ngủ; lần nào đến bảy giờ con cũng hỏi chị:


- Hôm nay em có ngoan không?


- Chúa có bằng lòng em không?


- Các thiên thần nhỏ có bay lượn chung quanh em không?


Bao giờ chị cũng trả lời có; nếu mà không thưa có, có lẽ con khóc cả đêm.


Hỏi xong bấy nhiêu điều, các chị hôn con, rồi mới để Têrêsa bé tí nằm ngủ một mình trong phòng tối!


Con coi như một ơn trọng được tập bạo dạn tự thủa bé. Nhiều khi tối, chị Pauline còn sai con lại buồng xa lấy cái nọ, cái kia. Thưa Mẹ, bấy giờ Mẹ đã bảo, thế nào cũng phải đi; với con đó là điều cần thiết lắm, chẳng vậy không làm sao cho con khỏi được tính rát quá lẽ; nhưng ngày nay làm sợ hãi được con là tất cả một việc rất khó.


Con thường vấn tâm làm sao Mẹ đã khéo dạy con thế! Yêu thì rất yêu, mà không làm con hư. Con hiểu là vì Mẹ đã không làm ngơ cho con một lỗi nào, lại cũng chẳng khi nào mắng con vô cớ, và điều gì Mẹ đã bảo là phải y một phép, nói rồi không nói lại.


Chị Pauline lại là người tâm sự của con; bao nhiêu tình ý tha thiết trong lòng, con đều tỏ hết cùng chị; gặp nghi nan gì cũng nói để chị giải thích cho an lòng. Một lần kia con hỏi chị rằng:


- Em lạ! sao Chúa không ban sự vui vẻ cả sáng cho các thánh bằng nhau; e rằng các thánh chẳng được trọn vui tất cả.


Chị liền bảo con đi lấy cái cốc uống nước của cha, đặt cốc ấy bên một tách nhỏ, chị rót nước vào đầy cả cốc, cả tách, rồi hỏi con cái nào đầy hơn.


Con thưa chị:


- Em xin cái nào cũng đầy cả, cái nào cũng không thể đổ nước thêm được nữa, vì hết sức chứa rồi.


Bấy giờ chị giảng nghĩa cho con hiểu ở trên thiên đàng cũng vậy, vị thánh nhỏ nhất không phân bì phúc trọng của đấng thánh cả, đấng nào cũng được trọn phúc trọn vui hết thảy. Thí dụ này đã mở lối cho con hiểu thêm nhiêu lẽ sâu nhiệm khác. Chị đã nuôi linh hồn con bằng của ăn cần thiết và rất bổ vậy.


Điềm lạ

Hằng năm, khi gần đến ngày phát thưởng, lòng con rạo rực mừng vui lắm; tuy chỉ có mình con là thí sinh, mà bài thi vẫn chấm rất thẳng. Con chỉ được những phần thưởng đáng được mà thôi.


Lần nào đứng nghe tuyên bố kết quả, lần nào tiến lên lĩnh thưởng và vòng hoa bởi tay Vua cha trước mặt toàn gia đình, tâm hồn con cũng hồi hộp quá; con có cảm tưởng như phải đứng trước toà phán xét.


A! Khi thấy cha vui vẻ như thế, lẽ nào con đoán được rằng sau này cha con phải nhiều nỗi gian nan tân khổ; song đã có một ngày Chúa cho con xem điềm lạ; dường như triệu chứng rõ rệt sự gian nan đau đớn đang đến.


Vậy hồi ấy, cha đi vắng xa chưa thể về được. Một hôm vào lúc hai ba giờ chiều, mặt trời nắng gay gắt, cảnh vật tưng bừng như ngày hội, một mình con đang đứng bên cửa sổ trông ra vườn lòng trí những liên miên nghĩ chuyện đâu đâu, thì thoát chốc, trông thấy ở đàng trước nhà giặt đối diện nơi con đứng, một người ăn vận giống hệt cha, tầm thước và điệu bộ cũng như cha mọi đàng, chỉ khác điều này là coi bộ già hơn cha và khom lưng hơn.


Con nói già hơn là nói đại khái khổ người coi như thế, chứ con không nom được rõ mặt đâu, vì đầu ông ấy đã trùm kín một khăn vải đầy.


Ông bước đi thong thả, bước đều đặn, đi đường dọc vườn. Bỗng rưng cả người con giợn lên ghê quá, con thét lên một tiếng to và kinh hãi:


- Cha! Cha!


Nhưng ông lạ kia hình như không nghe thấy tiếng con kêu, cứ nhẩn nha lừ lừ bước đi, đi cho đến bụi cây thông ở đầu lối vào vườn. Con ráng đợi xem ông có qua bụi thông mà trở lại không, thì thôi, chẳng còn thấy ông nữa! Điềm sấm đã biến mất!


Các sự này xảy ra nhanh chóng trong chốc lát; một chốc lát mà cũng in sâu vào ký ức con, đến nay tuy đã bao năm trường, mà mắt như còn đang xem hình người lạ trước mắt.


Thưa Mẹ, khi ấy chị Marie đang ở phòng bên cạnh cùng Mẹ. Nghe tiếng con gọi cha, cả hai chị cũng giật mình sợ hãi. Chị Marie trấn tĩnh ngay, chạy sang hỏi con:


- Cha còn đang ở Alençon, sao em lại gọi cha như thế?


Con liền kể lại cho chị nghe điềm lạ con vừa xem thấy; rồi như để dỗ con đừng sợ, chị bảo con rằng ý chừng người vú đội vạt áo lên đầu để nhát em đấy, đừng sợ.


Nhưng gọi vú Victoire ra hỏi, vú bảo vú có ra khỏi bếp lúc nào đâu, và lại, sự thật đã sáng rõ trong trí con rồi: con đã trông thấy một người, và người ấy giống hệt như cha.


Bấy giờ ai nấy cũng chạy lại đàng sau bụi thông thử xem có gì không, thì chẳng thấy gì. Mẹ liền bảo con đừng nghĩ đến nữa.


Đừng nghĩ đến nữa!


A! Cái đó con không có thể. Con không muốn nghĩ, mà luôn luôn trí vẽ cứ hình dung người lạ ra trong óc; luôn luôn con cố khám phá ra sự bí mật ấy. Ở thâm tâm, con vẫn tin rằng rồi đây sẽ có ngày sự bí mật ấy phải tiết lộ tỏ tường.


Thưa Mẹ yêu dấu, nay Mẹ đã hiểu sự bí mật ấy rồi; ấy chính là cha mà Chúa đã cho con xem thấy đó; xem thấy trong hình dung một ông lão khom lưng vì nặng tuổi, diện mạo uy nghi khả kính, đầu trắng xoá in dấu đau thương của kiếp phong trần đày đoạ. Như nhan thánh Chúa Giêsu phải che trong tuần chịu nạn, dong nhan đầy tớ trung thực này cũng phải che giấu trong những ngày thê thảm, để có ngày càng thêm vinh quang chói loà rực rỡ trên nơi cả sáng thiên đàng.


Ôi! Chúa xử đãi con nhân hậu dường nào! Người cho con xem trước cây thánh giá quý trọng ấy, khác thể cha hiền kia cho con mình biết trước phần cơ nghiệp đã sắm cho mai sau; mà chính cha, bởi yêu dấu con, cùng hả lòng, hả dạ lúc nhìn xem của cải để làm phần gia tài cho con cháu.


Nhưng trí khôn con lại nghĩ rằng, sao Đức Chúa Trời đã tỏ sự ấy cùng một con trẻ, mà giả như nó hiểu được, có lẽ sẽ chết vì đau đớn.


Sao thế?


Đó là một trong những mầu nhiệm ta chỉ có thể hiểu ở trên trời để đời đời cảm mến ngợi khen quyền phép Chúa.


Lạy Chúa tôi, Chúa khoan nhân lân ái dường nào! Chúa hàng lựa sức con mọn mà gởi cho đau khổ, thánh giá. Hồi ấy, dầu nghĩ mà thôi con cũng chưa có can đảm để nghĩ rằng rồi đây, sẽ có ngày cha phải chết.


Một ngày kia, cha đang ở trên ngọn thang, con thì đứng ngay dưới chân thang. Cha bảo con rằng:


- Công chúa cha đứng xa ra, kẻo cha ngã đè bẹp con mất.


Con cảm thấy cả một sự phản động nổi lên trong mình, con càng bước lại gần chân thang với ý nghĩ:


- Nếu cha ngã, ít là mình được chết theo cha, để khỏi cái đau đớn đứng nhìn cha chết.


Lòng con yêu mến cha, con không thể nói hết! Con cảm phục cha lắm lắm. Một lần kia cha cắt nghĩa cho con như cho một người đã lớn tuổi nghe tư tưởng của cha trầm mặc về những việc quan trọng. Con đã thưa cha cách ngây thơ thật thà rằng:


- Lạy Chúa, cha mà nói những lẽ khôn ngoan cao thượng cùng các quan trong nước, nhất định các ngài sẽ bầu cha làm vua ngay, và nước Pháp, sẽ được thịnh vượng hơn khi nào hết; nhưng cha sẽ phải khổ, vì sự khổ là số phận chung các nhà vua. Và rồi cha cũng chẳng còn là vua riêng của mình con nữa. Nhân thế, chớ gì nhà nước đừng để ý đến cha thì hơn.


Trên bãi biển

Khi đã sáu bảy tuổi, con mới được xem biển lần thứ nhất. Cảnh uy hùng vô cùng ấy xúc động tâm hồn con rất mạnh mẽ sâu xa. Lòng con suy chẳng mỏi, mắt con nhìn chẳng chán: mênh mông bát ngát tiếng muôn sóng gầm ầm ầm như cao rao quyền cả phép tắc vô lượng vô biên của Chúa trời đất muôn vật.


Con nhớ lần chơi biển này có hai ông bà nào cũng để mắt nhìn con mãi, lại hỏi cha rằng:


- Có phải con bé nhà ông đấy không? Gớm, cô em xinh quá!


Cha liền làm hiệu để họ đừng khen. Con hiểu ngay và cũng mừng vì con chẳng cho mình là xinh đẹp gì. Lại các chị cũng giữ gìn ý tứ để con khỏi phải nghe những lời nói có thể làm mất sự thật thà đơn sơ tự nhiên của con. Con cũng chỉ tin lời các chị thôi nên ai nói hay dở thế nào, nhìn ngắm làm sao cũng mặc. Con kể như không và cũng chẳng nghĩ gì đến.


Buổi chiều ấy, lúc mặt trời như lặn xuống tắm mát trong biển bao la sóng nước, còn vương lại nơi chân trời một luồng sáng trắng vàng dịu dàng. Con cùng chị Pauline lại ngồi chơi trên một ghềnh đá thanh vắng; con cứ chăm chú nhìn theo luồng sáng vàng đẹp ấy mà chị bảo là hình bóng ơn Chúa soi đàng dẫn lối cho các kẻ lành vượt biển hiểm thế gian. Khi ấy lòng trí con như muốn tung bay lên giữa giãi sáng, phất phới như chiếc thuyền lan nhẹ, có cánh buồn trắng xinh xinh nhởn nhơ trôi... Và con quyết tâm không một giây phút nào dám để thuyền con rời mắt Chúa, cho thuyền cứ việc theo gió lướt đi lanh lẹ và bình an mà tới bến thiên đàng vui vẻ.




CHƯƠNG III: ĐI LƯU HỌC


Khi chị Léonie mãn học ở trường các bà Dòng Thánh Benedicto, thì con vừa được tám tuổi rưỡi. Cha cho con đi thế chân chị. Ở trường, các bà nhận con vào lớp các chị đều lớn hơn con; có một chị 14 tuổi, hơi kém phần trí khôn, nhưng lại có tính hiếu thắng. Chị thấy con trẻ nhất mà làm bài hầu như nhất mãi, lại được các bà Dòng yêu, chị sinh lòng ghen tuông và làm khó dễ cho con lắm.


Với bổn tính nhút nhát và hay mủi lòng, con không biết đối phó thế nào cho phải. Còn đành ngậm tăm mà khóc.


Thưa Mẹ, khi ấy chị Céline cũng như Mẹ, chẳng chị nào biết nỗi khổ tâm của em, mà con cũng chẳng có nhân đức để nén mình chịu đựng những điều cơ cực ấy, cứ ngậm ngùi cho lòng thêm ưu tư sầu muộn.


May chiều nào tan học rồi cũng được về nhà. Khi ấy bao nhiêu nỗi lòng được cởi mở hết: con chạy đến xoắn xuýt bên cha, khoe những điểm được ở trường.


Một cái hôn yêu cha ban đủ làm tan hết mọi nỗi u buồn.


Con vui sướng biết bao lúc trình cha kết quả bài thi thứ nhất: con được nhất.


Cả nhà lại thưởng cho con một hào; con bỏ hào ấy vào ống để dành cho kẻ khó. Thường thứ năm nào ống của con cũng được thêm một hào. Ôi! Con cần phải được chiều chuộng thể ấy! Một cây hào non mà năng được bón rễ tơ bằng đất vụn nền nhà thì quý lắm chứ. Nó không còn tìm đâu được chất nuôi bổ và cần thiết hơn.


Các thứ năm, ở trường được nghỉ học; nhưng con không thích bằng những ngày chị Pauline cho nghỉ ở nhà mà con được lên gác ở bên cha hầu cả ngày. Con không biết chơi như chị em chơi, thành thử khó chơi với chị em lắm. Con đã cố bắt chước mà không sao được.


Đừng kể chị Céline, nói được là không thể rời con, con lại hay chơi với chị Marie là chị em họ. Chị dễ dãi cho con được thong dong, chọn cách chơi tuỳ ý thích. Hồi ấy, chúng con đã thân thiết nhau lắm, chặt chẽ một lòng một ý, y như Chúa đã cho chúng con linh cảm trước rằng, một ngày kia hai chúng con sẽ cùng chung sống trong Dòng Kín.


Thường thường bên nhà cậu hay có hài kịch này: Marie và Têrêsa ở với nhau, như hai nữ tu hành hãm mình nhiệm nhặt. Cả hai có một lều nhỏ, một miếng đất cỏn con để cấy lúa, một cái vườn bé tý để trồng rau.


Suốt ngày hai chị tu hành chỉ siêng năng đọc kinh nguyện ngắm, nghĩa là thay phiên nhau: chị này đọc kinh thì chị kia làm việc. Mọi sự đều thoả thuận, lặng lẽ và giống cách thức nhà dòng.


Lúc đi dạo, hai chị cũng giữ thói thầy tu hành; vừa đi vừa lần hạt, nhưng đếm bằng đốt ngón tay thôi, kẻo người ta kêu mình sốt sắng quá. Phải một bận, chị Têrêsa có cái bánh bỏ ra ăn, chị làm dấu to quá làm những người qua lại bật cười.


Thỉnh thoảng có lần sự đồng tâm hiệp ý của hai chúng con đi quá trớn. Như buổi chiều kia, lúc về học chúng con muốn bắt chước các thầy tu hành đi rõ trang nghiêm. Con bảo chị Marie rằng:


- Tôi nhắm mắt vào đây, chị dắt tôi nhé!


- Tôi cũng nhắm mắt, chị Maria trả lời.


Thế là cả hai chị tu hành tự ý nghiêm trang nhắm mắt đi, và đi trên vỉa hè để khỏi phải tránh xe.


Nhưng vừa mới vui vẻ bước đi được mấy phút, lòng đang hí hởn cái thú đi không phải trông, thì cả hai xô ngã vào cái kiện hàng để ngoài cửa hiệu, làm đổ lộn kiện hàng của người ta. Chủ hiệu bực bõ quá, vừa chạy ra nâng kiện hàng lại, vừa sốt mắng ầm ĩ. Hai người mù tự ý kia vội vàng bò nhỏm dậy, mắt mở cho to, chân chạy cho nhanh và vểnh tai nghe chị Jeanne mắng cho một mẻ không kém gì người chủ hiệu.


Con xin nói đến cách thức chị Céline cùng con ăn ở với nhau trong hồi này:


Ở Lisieux tính nết hai chúng con đổi ngược lại: Céline tinh nghịch ghê gớm; Têrêsa nhu mì hiền lành, nhưng dễ mủi lòng lắm. Bởi vậy Têrêsa cần phải có một trạng sư năng đi kèm để bênh đỡ luôn. Chị Céline đã có gan sắt đứng ra nhận trách nhiệm ấy. Hai chúng con hễ có quà gì cũng ăn chung, thành thử gây được một hạnh phúc thú không gì bằng.


Tuổi ấy của chúng con không biết nhàm chán; hai tâm hồn tươi tốt đua nở như hoa xuân, hớn hở hứng lấy những bụi sương mát mẻ lúc bình minh và phất phơ động rung theo hơi gió nhẹ nhàng phe phẩy. Thật vui nào cũng là vui chung cho cả hai, nên ngày Céline được chịu lễ lần đầu, lòng con cũng hoan lạc sung sướng không kém gì chị!


Khi ấy con mới bảy tuổi, chưa được đi học ở trường các bà Dòng. Nay nhớ lại thời kỳ chị dọn mình chịu lễ lần đầu, con thấy lòng êm nhẹ dịu dàng quá! Mấy tuần trước ngày hạnh phúc ấy, chiều nào chị Pauline cũng nhắc đến ơn rất trọng mà chị Céline sắp được, để chị dọn lòng cho thật sốt sắng. Những lúc ấy, thường con cũng đứng nghe và cũng muốn dọn mình, cho nên khi bị chị bảo đi chỗ khác mà chơi thì bực lòng lắm! Con nghĩ bụng, bé thì bé, dọn mình rước Chúa sớm trước bốn năm thì đã làm sao!


Một hôm, con nghe thấy chị Pauline khuyên chị Céline lời quý hoá này:


- Hễ em chịu lễ lần đầu rồi, em phải bắt đầu sống đời sống hoàn toàn mới!


Nghe lỏm được câu ấy, con liền quyết chí cũng bắt đầu sống đời sống hoàn toàn mới với chị Céline, không cần phải mỏi lòng đợi cho đến khi được chịu lễ lần đầu.


Trong khi chị Céline cấm phòng dọn mình, chị ở lại nhà Dòng như một lưu học sinh. Con lấy thời gian vắng chị ít ngày làm lâu quá. Nhưng rồi ngày hạnh phúc đẹp đẽ ấy đến. A! ngày ấy để lại nơi lòng con một cảm tưởng dịu ngọt dường nào! Tựa hồ một bản đàn dạo trước ngày hạnh phúc của con cũng đang đến! Chúa đã ban cho con nhiều ơn trong ngày đó, kể con là một trong những ngày vui vẻ nhất, đẹp đẽ nhất của đời con vậy.


Biệt ly đau đớn

Để nhắc lại kỷ niệm êm ái chịu lễ lần đầu của chị Céline, con đã phải lùi chuyện lại một tí. Bây giờ con xin nói đến một biệt ly làm đau lòng con lắm - biệt ly chị Pauline yêu dấu đi vào Dòng Kín.


Trước kia đã có lần con nói cùng chị rằng con muốn theo chị lên tu hành ở rừng rõ xa. Chị trả lời đó cũng là ý chí, nhưng còn phải chờ con lớn lên đã. Lời hứa không thể thực hiện này, Têrêsa vẫn ôm lòng như một điều quan trọng. Cho nên lẽ nào Têrêsa không buồn bã khi thấy chị Pauline lại nói chuyện với chị Marie, mình sắp sửa vào Dòng Kín. Lúc ấy, con chưa hiểu Dòng Kín là thế nào; chỉ hiểu rằng chị Pauline sắp bỏ con mà đi tu, chị không đợi con nữa!


Con không nói xiết nỗi cực lòng khi ấy! Trong giây phút, cuộc đời hiện ra trước mắt con với tất cả sự thật chua chát: đau khổ rồi lại đau khổ, đau khổ chồng chất; biệt ly rồi lại biệt ly, biệt ly mãi mãi! Ôi! Hai hàng nước mắt tuôn rơi, ruột đau như cắt tơi bời xót xa!... Hồi ấy nào con đã biết lấy hy sinh làm vui sướng? Con hèn sức yếu đuối lắm, đến nỗi nay con cho là ơn cả thể: đã chịu sự gian truân coi như quá sức ấy mà không chết.


Con sẽ nhớ mãi những lời êm ái dịu dàng chị Pauline đã an ủi con. Chị cắt nghĩa cho con nghe sự ở nhà Kín; và một buổi chiều tà, ngọn gió hiu hiu thổi như gợi lòng con đang thở thẩn một mình, nghĩ lại những lời chị đã nói về Dòng Kín, con nhận thấy rằng Dòng Kín cũng là chốn tu hành vắng, là nơi Chúa muốn con vào ở. Con thấy lòng chắc chắn lắm, không nghi ngờ chút nào, không là mơ mộng của nữ nhi, mà là tiếng Chúa kêu gọi tỏ tường. Mối cảm xúc mà con không thể tả đây, đã để lại nơi lòng con một bình an khoan khoái lạ!


Hôm sau, con kể tâm sự ấy cho chị Pauline. Chị cũng nhận đó là ý Chúa, và hứa mai ngày sẽ dẫn con đến nhà Kín thăm Mẹ Bề Trên, cũng tỏ cho Mẹ hay việc Chúa kêu gọi.


Vậy ngày chọn đi thăm nhà Kín là ngày Chúa Nhật.


Khi con biết chị Marie là chị họ, còn bé, cũng sẽ theo con đi con lúng túng quá. Con cần phải có lúc được một mình hầu chuyện Mẹ Bề Trên về việc linh hồn, mà chị Marie theo thì làm thế nào được? Sau con đã nghĩ được một kế: Con bảo chị Marie rằng ta được đến thăm Mẹ Bề Trên là rất quý, nên phải ở cho hết sức ngoan và lịch sự, tử tế; phải trình Mẹ một vài điều kín trong linh hồn, mà khi người này trình, người kia phải ra đứng ở ngoài.


Chị Marie ngần ngại vì phải tỏ sự kín mà chị không có, nhưng chị cũng giữ lời con đã dặn. Nhân thế con mới có dịp được gặp Mẹ Marie de Conzague một mình. Mẹ nghe con trình việc linh hồn cũng cho là có ơn Chúa gọi, nhưng Mẹ lại bảo nhà Dòng không khi nào nhận trẻ chín tuổi vào tập tu, con phải đợi đến tuổi 16 sẽ hay.


Biết sao được! Con đành phải cầm lòng chịu tuy con ước ao được vào cùng chị Pauline, và được chịu lễ lần đầu chính ngày chị mặc áo Dòng.


Thấm thoát thoi đưa, mồng 2 tháng 10 đã đến! Mồng 2 tháng 10 là ngày nước mắt, ngày mùa ân, ngày Chúa Giêsu hái hoa nở trước hết trong khóm hoa của Người. Bông hoa được chọn hái đây ít năm sau đã trở nên Mẹ thật các em mình.


Trong khi Cha yêu dấu cùng Cậu và chị Marie leo lên núi Carmel để tế lễ Chúa của lễ đầu tiên, thì mợ dẫn lũ cháu là chị Léonie, chị Céline và con đi xem lễ. Thấy chúng con bước vào nhà thờ, đôi hàng lệ chan chứa, người ta bỡ ngỡ không hiểu sao chị em chúng con khóc! Mặc, chúng con vẫn cứ khóc! Con lại nghĩ bụng sao mặt trời không tối đi cho rồi!


Thưa Mẹ, có lẽ Mẹ cho là con phóng đại nỗi lòng! Quả nhiên nay chính con cũng nghĩ rằng sự biệt ly ấy chẳng lẽ làm con rầu rĩ đau đớn đến thế; nhưng thực tình, bấy giờ tâm hồn con còn non nớt yếu đuối lắm. Ngày nay con tới bến bình an này, ngày nay con được vui vẻ nếm những hoa trái ngon lành trong việc bỏ hẳn mình đi và yêu mến Chúa cách chí thiết, chính là vì con đã phải trải qua nhiều gian nan nguy hiểm trước.


***


Chiều mồng 2 tháng 10 năm 1882, con được nhìn chị Pauline yêu dấu đã thành Bà dòng Kín với cái tên Agnès de Jésus! Chị đứng bên trong phên sắt ở phòng khách nhà Dòng.


Thật, nơi đây đã làm con đau đớn quá! Bởi con viết chuyện linh hồn con, nên con phải nói hết. Con thấy rằng những nỗi lòng chua xót lúc chia tay trước, chẳng thấm đâu với những đoạn trường lúc này! Xưa nay con vẫn quen lòng cùng phơi giãi tâm tình cùng chị lâu giờ; bận này phải chờ mãi đến lúc mọi người nói chuyện chán chê xong, con mới được vài phút cùng chị than thở! Ôi! Vài phút ấy con đã khóc, đã đổ hết nước mắt thương nhớ chị và lúc từ giã chị ra về, ruột đau như cắt, tim rầu như nẫu!...


Con không hiểu vì lý do gì mà hai chị em không được cùng nhau chuyện trò một vài khắc, còn cha cùng chị Marie lại phải để cho nói chuyện lâu thế. Vì không hiểu, nên con nghĩ thầm rằng, thôi thế là con mất hẳn chị Pauline! Lúc ấy lòng con như phải phanh ra ngâm trong đau thương chua xót, sức mọn chịu chẳng nổi liền ngã bệnh rất nặng.


Con mắc bệnh này, hẳn là cũng bởi ma quỷ ghen ghét, hậm hực ấm ức việc chị Pauline vào Dòng Kín lắm, rồi quay ra thù hằn con vì lẽ gia đình nhà sau này sẽ làm thiệt hại chúng nó nhiều.


Nhưng lầm!


Quỷ mê muội chẳng biết Nữ Vương thiên đàng gìn giữ và niềm nở cùng hoa mọn Người luôn. Người sẵn sàng để khiến gió bão yên, một khi thân hoa mọn, cánh hoa giòn này sắp chực gẫy nát.


Từ cuối năm 1881, con luôn luôn bị chứng rức đầu; nhưng chưa đến nỗi phải bỏ học. Bệnh cứ dai dẳng cho đến lễ Phục sinh năm 1883. Kỳ ấy cha cùng hai chị Léonie Marie sang thành Paris, đã đem gởi chị Céline và con ở đằng nhà cậu mợ.


Một hôm chỉ có hai cậu cháu ngồi chơi, cậu nhắc lại chuyện mẹ cho con nghe. Thuật lại nhiều kỷ niệm dĩ vãng; cậu nói bằng giọng rất thương hại cháu, làm con cảm động quá phải khóc! Con khóc làm cậu cũng mủi lòng. Cậu thấy cháu mới bằng ấy tuổi mà đã biết thương nhớ mẹ dường ấy thì lạ. Rồi trong cả kỳ hè cậu hằng bày nhiều cách chơi để khuây khoả nỗi lòng thương nhớ của cháu.


Rồi thánh ý Chúa định khác. Chính chiều ngày ấy, bệnh con phát nặng lắm, con bắt chứng run rẩy suốt đêm. Mợ đã thương cháu như mẹ thương con, không rời cháu lúc nào! Trong hồi con bệnh, mợ chăm nom săn sóc thuốc thang thật là tận tình tận nghĩa.


Con không thể nói được sự đau đớn của lòng cha khi ở Paris về! Người thấy bệnh con quá trầm trọng, đã lo tính mệnh con không biết thế nào; nhưng có lẽ Chúa đã tỏ cho cha biết: “Bệnh này chẳng chết đâu, một chỉ làm cho danh Đức Chúa Trời thêm cả sáng thôi”  .


Mà thật danh Chúa đã sáng trong cơn bệnh nạn này lắm! Phần thì cha đã vui lòng vâng theo ý Chúa cách lạ lùng; phần thì các chị cũng vui lòng chịu khổ sở vất vả vì em, nhất là chị Marie. Chị Marie đã phải cơ khổ vì con nhiều. Con phải biết ơn chị thế nào cho xứng. Chị đã tự đoán những sự cần mà giúp đỡ con. Thật lòng người mẹ thương con chu đáo và mạnh mẽ hơn nhà bác sĩ bội phần!


Thưa Mẹ, hồi này đã gần tới ngày Mẹ mặc áo Dòng. Nhà không muốn nói cho con biết, sợ con buồn vì chưa khỏi bệnh để đi dự lễ. Dầu vậy, con vẫn tin mạnh mẽ, thế nào đến ngày ấy, Chúa cũng cho con sự an ủi được xem thấy chị Pauline mến nhớ của con. Con đã đoán ngày lễ ấy chắc hoàn toàn vui, vì Chúa Giêsu chẳng chịu để vị hôn thê của Chúa đã phải đau lòng vì em bệnh, nay lại phải buồn vì vắng mặt em. Quả thật ngày ấy con đã được đi dự lễ, được ôm hôn, ngồi trong lòng chị, chui đầu vào lúp chị và được chị hết lòng yêu dấu. Khi ấy, con ngắm nghía dong nhan chị ăn vận toàn màu trắng tươi sáng láng.


Thật là một ngày vui trong chuỗi ngày sầu của đời con; nhưng ngày đó, hay đúng hơn, giờ đó mau như biến, để con lại phải ngậm ngùi từ giã Carmel ra về.


Khi về trại Bulssonnets, dầu con không nhọc, nhà cũng bắt con đi nằm. Đến hôm sau, bệnh phục tác nguy kịch lắm, đến nỗi theo sức chạy chữa thế gian, con không thể trông sống được nữa.


Con không biết tả cái bệnh kỳ dị ấy làm sao! Những ngày ấy, con nói huyên thuyên luôn miệng, nói mà không nghĩ gì hết; con làm nhiều điều nhảm nhí, làm như có người bắt ép phải làm. Hầu ngày nào con cũng mê mẩn như điên; nhưng con nhớ trí khôn khi ấy vẫn tỉnh táo như thường. Có nhiều lúc con nằm đờ ra trong mấy giờ: chân không động đậy, tay không nhúc nhích. Trong những cơn bệnh phi thường ấy, tai con vẫn tỉnh, nghe rõ hết các tiếng nói ở chung quanh, dù nói khẽ.


Thừa cơ ấy, ma quỷ còn bày vẽ nhiều điều rất kinh sợ! Cái gì bấy giờ con coi cũng giùng mình ghê sợ cả: Chung quanh giường nằm, con thấy những vực sâu hoắn chỉ chực nuốt trửng, những cái đinh, đóng ở tường trông như những ngón tay to và đen đủi quá sức, làm cho con kinh khiếp phải thét lên.


Có một ngày, đang khi cha rầu rĩ lặng lẽ đứng nhìn con, cái mũ cha cầm ở tay, tự nhiên con trông như biến thành một quái vật không hiểu là giống gì mà gớm ghiếc lắm; con liền hoảng hốt giật mình sợ hãi, cha phải lùi đi bưng mặt khóc!


Tuy bề ngoài Chúa cho phép ma quỷ đến sán quấy con, nhưng Người cũng sai nhiều Thiên Thần đến an ủi và khuyến khích con mạnh dạn can đảm; chẳng hạn như chị Marie, dù con quấy chị lắm chị cũng chẳng nề quản, chẳng tỏ một chút dạ phiền, chẳng hề rời con; con cũng không thể rời chị. Dù lúc chị đi ăn cơm, đã có vú Victoire ở với con, con cũng cứ luôn miệng gọi chị:


- Chị Marie! Chị Marie ơi!


Con chỉ chịu nằm yên để chị đi khỏi nhà hai lúc này: Một là đi nhà thờ, hai là đi thăm chị Pauline.


Còn chị Léonie và Céline yêu dấu! Có phải hai chị chẳng thương gì con chăng? Ngày Chúa nhật, hầu cả ngày hai chị không rời cái con ngẩn ngơ này mấy giờ!


Ôi, các chị yêu dấu! Em đã làm khổ các chị lắm lắm!...


Cậu mợ cũng thương cháu trọn tình trọn nghĩa. Ngày nào mợ cũng lại chơi thăm cháu, đem cho đủ thứ bánh quà! Trong hồi bệnh này, lòng con càng quý mến cậu mợ nói không xiết. Con hiểu thấm thía hơn bao giờ lời cha vẫn thường dặn chúng con:


- Hỡi chúng con, chúng con phải ghi lòng tạc dạ tấm lòng cậu mợ thương chúng con như thế, rất ít có đấy!


Từ lúc mình già tuổi yếu, chính cha cũng nghiệm thấy trong mình tấm lòng đầy đặn tình nghĩa quý hoá của cậu mợ.


Ngày nay lẽ nào cha lại quên bang trợ và chúc lành cho những kẻ mà cha đã mang nặng nghĩa đầy ơn xưa!


Những lúc trong mình thấy bớt đau và dễ chịu, con chỉ lấy sự này làm vui thích, là lấy các hoa kết mũ triều thiên kính dâng Đức Mẹ. Khi ấy là tháng Đức Mẹ: muôn hoa xuân rực rỡ nở trong cảnh trời đất tươi tốt đó vậy, chỉ có thân hoa mọn này là sắc phai màu lạt cánh rũ rợi... Vậy mà ánh sáng mặt trời cũng thương tình giãi đến hoa mọn. Mặt trời ấy là Đức Mẹ Nữ Vương thiên đàng. Hoa mọn này hằng quay đài về phía Mặt Trời riêng, dù sắc màu lợt lạt, dù thân thể bại đau, cũng gắng nghiêng mình nhìn sang mà cầu xin Đức Mẹ chiếu tình thương con.


Một ngày kia con thấy cha bước vào phòng, điệu bộ tiều tuỵ lắm, nét mặt rầu rầu, cha tới giao chị Marie mấy đồng vàng, bảo viết thư gởi ngay sang Paris, xin thầy cả làm lễ tuần cửu nhật ở đền thờ Đức Bà Thắng Trận khấn cho em được lành.


Ôi, con thấy cha mạnh tin và có lòng kính mến ấy, con cảm động quá! Con ước chi được ngồi ngay dậy để thưa cha rằng con được khỏi bệnh rồi. Nhưng thảm hại! Sự ước ao của con không làm nổi phép lạ, cần phải có một phép lạ cả thể để chữa bệnh con. Phép lạ cả thể ấy, Đức Bà Thắng Trận thành Paris đã làm.


Đức Mẹ mỉm cười

Vậy ngày Chúa nhật trong tuần cửu nhật, lúc chị Marie vừa ra ngoài vườn, để con trong nhà với chị Léonie đang ngồi đọc sách bên cửa sổ. Qua mấy phút, con liền khe khẽ gọi:


- Chị Marie ơi! Chị Marie ơi!


Chị Léonie tưởng con rên như mọi khi, không để ý. Con liền gọi rất to, chị Marie chạy vào ngay. Rõ mắt con thấy chị ấy vào rồi, mà khốn nạn! lần này là lần thứ nhất con không nhận được chị nữa! Con nhìn chung quanh, nhìn ra vườn, áy náy thổn thức, con lại gọi:


- Chị Marie ơi! Chị Marie ơi!


Con rất đau đớn vì cơn hoảng này, nỗi đau không lời nói hết. Có lẽ chị Marie còn đau lòng hơn con. Chị đã cố hết sức làm con tỉnh lại mà không được. Chị quay nói thầm gì với chị Léonie rồi mặt mày tái mét, mình mẩy run rẩy chị lại bước ra vườn.


Sau đó chị Léonie bế con ra đứng bên cửa sổ. Con trông ra vườn cũng không nhận được chị Marie ở vườn: bấy giờ chị tiến lại thong thả, giơ tay với con, rồi cười, rồi nói, nói rất thong thả dịu dàng:


- Em chị ơi! Têrêsa ơi!


Ngọt ngào đến thế mà thấy con vẫn không nhận được chị, chị buồn bã quá, quỳ xuống bên giường con sùi sụt khóc! Chị quay sang phía tượng Đức Mẹ kêu van thảm thiết như mẹ lành thương con thảo, tiếc xót sự sống đứa con đang nguy cấp! Chị Léonie và Céline cũng quỳ gối cầu xin như chị. Ba linh hồn than khóc, một lòng tin sắt đá, tiếng cầu xin thống thiết mạnh mẽ vang lên như chấn động cửa trời phải mở tung ra.


Con thấy linh đơn dược diệu thế gian đã hết thế chạy chữa! Con thấy bệnh trong mình vẫn đau đớn như hầu phải chết! Con lại cố gượng quay nhìn lên phía tượng Đức Mẹ Đồng Trinh, hết lòng tha thiết cầu xin Đức Mẹ thương con trong lúc vật vờ nguy hiểm ấy.


Bỗng dưng tượng Đức Mẹ linh động như người sống! Đức Mẹ hoá nên xinh tốt lạ lùng quá trí khôn lường! Miệng lưỡi phàm trần không thể nói được sự xinh đẹp trên trời! Dong nhan Đức Mẹ dịu dàng hiền hậu và từ ái lắm; nhưng điều xúc động tâm hồn con một cách khoan khoái lạ, là sự Đức Mẹ mỉm cười rất xinh. Với nụ cười xinh xắn ấy, bao nhiêu nỗi u uất đau đớn trong mình con đều biến hết! Hai hàng nước mắt ứa lên và từ từ chảy...


A! Đó là những giọt nước mắt vui mừng hoan hỉ! Sự hoan lạc thiên đàng ban xuống không lẫn lộn chút bụi buồn nào. Đức Mẹ Đồng Trinh tiến lại gần con! Người mỉm cười cùng con... Con sung sướng quá. Khi ấy con định bụng sẽ chẳng nói phúc trọng này cùng ai kẻo mất vui chăng! Đoạn, dễ dàng, con quay mặt lại nhìn và nhận được chị Marie ngay! Chị nhìn lại con cách yêu dấu và rất cảm động, nhưng có vẻ còn do dự về ơn Đức Mẹ vừa chữa con khỏi bệnh.


Ôi! Chính là nhờ chị, nhờ lời cầu xin thống tình thiết tha của chị mà con được ơn Đức Mẹ mỉm cười! Khi thấy con đăm đăm nhìn lên tượng Đức Mẹ, chị nói:


- Em Têrêsa được khỏi bệnh!


Vâng hoa mọn này được hồi sinh rồi; mặt trời riêng đã giãi chiếu ánh sáng dịu dàng, và đã chữa bệnh nguy cấp cho con rồi!


Tiết đông thảm đạm đã qua, con mưa đã tạnh  .


Hoa mọn của Mẹ Đồng Trinh được nhuộm sắc thêm hương rất chóng, 5 năm sau, đã thấy tươi nở đẹp đẽ trên ngọn non xanh rờn Carmel.


Chị Marie vẫn yên chí khi Đức Mẹ chữa bệnh con, chắc có ban cho con một vài ơn nữa mà con còn giấu chị; cho nên lúc nào có hai chị em ở cùng nhau, chị cũng hỏi con nhiều câu thân thiết lắm, khẩn khoản lắm, làm con nể lòng quá phải nói hết cùng chị.


Ôi, con đã không nhầm! Hạnh phúc của con sắp trở nên sự đắng cay ray rứt lòng con! Ròng rã bốn năm, mỗi khi nhớ đến ơn trọng đã được, lòng chỉ những bứt rứt buồn bực! Sau con phải sang viếng đền thờ Đức Bà Thắng Trận, sấp mình kêu van dưới chân Mẹ lành mới lại được lòng vui như xưa. Sự vui Đức Mẹ trả lại lần này được đầy đặn như lần trước. Sau này con sẽ nói đến ơn thứ hai ấy.


Vậy duyên do cái vui của con thành nỗi buồn là thế này: Số là khi chị Marie nghe con tường thuật thật thà và tự nhiên về ơn đã được, chị muốn con để chị kể lại cho Mẹ Bề Trên dòng Kín biết. Lại một lần nữa nể lòng chị, con phải nghe.


Khi chúng con đến thăm Dòng Kín lần ấy, thấy chị Pauline mặc áo Đức Bà rất đẹp, vui mừng quá. Giờ phút chị em gặp gỡ đằm thắm biết bao! Rất lắm điều thân thiết để trao đổi! Những nỗi lòng chị em cùng chung khổ xưa, ôn lại sao hết! Con nghẹn giọng, nói chẳng nên lời, lòng đầy đến cổ!...


Mẹ đáng kính Marie de Gonzague cũng ra tiếp chuyện. Mẹ tỏ tình thương con lắm! Con lại được gặp thêm mấy chị Dòng, các chị hỏi thăm con về phép lạ khỏi bệnh, chị thì hỏi rằng Đức Mẹ có bế Đức Chúa Giêsu không? Chị khác hỏi thêm, có thiên thần hầu Đức Mẹ chứ, vv... Những câu hỏi rộn rã làm con rối rít khó chịu. Con chỉ biết thưa lại thế này:


- Con xem Đức Mẹ Đồng Trinh tốt đẹp lắm. Người lại gần và mỉm cười cùng con.


Con nhận thấy các bà Dòng có vẻ ngờ vực gì đó, làm con phải bẽn lẽn như mình đã nói dối. Giả như đừng tỏ cho ai biết thì đâu mất được sự vui trong lòng Song ý Đức Mẹ đã muốn thế để tấn ích cho linh hồn con. Nếu con không bị cực lòng như vậy, có lẽ con đã lên mày mặt khoe khoang; và thay vì vui mừng ở khiêm nhượng, con lại nhìn mình mà ghê tởm.


Lạy Chúa! chỉ mình Chúa hiểu thấu lòng con mọn đau đớn!




CHƯƠNG IV: QUYẾT LÀM THÁNH


Nhân kể chuyện thăm Nhà Kín lần này, con lại nhớ lần đi tiễn chân chị Pauline vào Dòng. Buổi sáng ấy con hỏi mình không biết khi vào Dòng đặt tên gì được; con biết đã có một chị tên là Têrêsa Giêsu rồi, mà con thì không thể bỏ được cái tên Têrêsa đẹp đẽ của con. Tức thì con nghĩ đến Chúa Hài Đồng Giêsu mà con yêu mến lắm, con đã nói thầm một mình:


- A! Tôi mà được gọi tên là Têrêsa Hài Đồng Giêsu thì sướng quá!


Con chỉ nghĩ thế, chứ chẳng tỏ cho ai biết sốt. Thế mà còn đang nói chuyện. Mẹ Bề Trên đã bảo con rằng:


- Này chị, sau này chị vào ở với chúng tôi, chị sẽ được gọi là Têrêsa Hài Đồng Giêsu.


Con vui quá! Sự gặp gỡ may mắn trên đường tư tưởng đó, con xem như một nhã ý Chúa Giêsu xử tình cùng con.


Thưa Mẹ, con còn có tính thích xem tranh ảnh và ham đọc sách mà con chưa nói. Những tranh ảnh Mẹ cho con xem hồi ấy, đã ảnh hưởng rất hay, đã làm con vui thú lắm, kích thích con tiến tới mạnh mẽ trên đàng nhân đức. Con xem ảnh từng mấy giờ không chán? Chẳng hạn như mẫu ảnh vẽ “Bông hoa nhỏ đặt trước nhà chầu” gợi lòng yêu mến thanh sạch biết bao! Như rủ rỉ với hồn con trăm ngàn sự hiểu được mà nói chẳng được. Con nhìn ảnh mà hồn thiếp đi trong cõi tình cao khiết...


Con dâng mình làm hoa mọn đứng trước ngai Chúa, con muốn an ủi Chúa, tới gần bên Chúa. Chúa nhìn con như chiếc hoa, bón tưới, vun trồng và hái lúc nào tuỳ ý Chúa.


Bởi con vụng chơi, nên giờ chơi, thường là con đọc sách. Với con có lẽ đọc sách cả đời cũng không chán. Con được mấy chị như thiên thần chỉ sách tốt cho con đọc, lại vừa tầm trí khôn con, vừa giải trí, thêm kiến thức, mở rộng tâm hồn. Nhưng giờ phút quý hoá ấy chẳng có là bao, lại đã nên dịp cho con phải hãm mình rất nhiều. Con thích đọc thật, nhưng hết giờ, thì thôi ngay, dầu câu sách đang đọc hay mấy, thích mấy cũng gấp đấy đã, đi làm việc khác.


Về cảm tưởng bởi đọc sách, con phải thú nhận rằng khi con đọc chuyện những vị anh hùng cái thế, nhiều lần con không hiểu lẽ đời thế nào là phải. Còn khi đọc những chuyện ái quốc của các bậc cứu tinh nước Pháp, nhất là vị Thánh nữ anh hùng Jeanne d’Arc, con thấy lòng ái mộ nối gót các ngài lắm. Hồi đó, con được một ơn mà vẫn suy là một trong những ơn cả thể đời con, vì khi ấy, con chưa được ơn trên soi sáng như bây giờ.


Đức Chúa Giêsu đã soi cho con biết sự vinh hiển nhất và chân thật phải là sự vinh hiển vĩnh viễn; muốn đạt tới vinh hiển ấy, chẳng cần phải có sự nghiệp to tát lừng lẫy, chỉ cần phải ăn ở nhiệm nhặt, làm việc đừng thích phô trương, cũng đừng cho mình biết theo lời Phúc Âm dạy: “Tay trái chẳng biết việc tay phải làm”  . Lúc ấy con thầm nghĩ rằng: Đã mang danh làm người đứng giữa càn khôn, tất phải có công danh, mình phải lo phương liệu thế cho tới bước công thành danh toại. Con đang trầm ngâm tư tưởng ấy thì Chúa soi cho hay rằng công danh của con là làm thánh; công danh ấy tuy không rực rỡ trước mắt thế gian, nhưng là vinh hiển thật.


Chút cao vọng làm thánh này có thể coi là càn dở, nếu ai đã biết con hồi ấy thế nào rồi; và ngày nay, tuy đã vào tu tác bấy nhiêu năm trời mà vẫn còn khô khan lạnh lẽo. Nhưng ai nghĩ sao thì nghĩ; phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con. Người sẽ làm con nên thánh.


Khi ấy con chưa nghĩ rằng làm thánh thì phải đau khổ nhiều, song chẳng mấy chốc Chúa đã soi cho biết, chính vì ham muốn công danh làm thánh, mà con đã phải bao phen ngậm đắng nuốt cay như đã kể trên.


Con trở lại câu chuyện khỏi bệnh.


Khỏi bệnh vừa được ba tháng, con được theo cha trong một cuộc viễn du vui lắm; cuộc viễn du này làm con am hiểu cuộc thế. Mọi cái mọi vui, hạnh phuc như vây phủ con; khắp đó đây đều cho lời khen ngợi, mừng chúc và rất chiều đãi; tắt rằng trong 15 ngày, con sống như nằm giữa muôn hoa thơm tươi rực rỡ. Lời sách Khôn Ngoan đã nói rất phải: “Tâm hồn dù trung chính cũng sẽ siêu vì sự vui thế gian làm mê mẩm”  .


Lòng trẻ mười tuổi lẽ nào khỏi háo hức. Con thấy cảnh đời vui chơi sung sướng ấy, cũng bén lòng mừng thích. Ra như người ta lại muốn trà trộn sự phù vân giả trá vào việc làm tôi kính Chúa! Người ta quên bẵng giờ lâm tử.


Tuy nhiên, thần chết vẫn đến cướp biết bao người thân kẻ thích, nào già, nào trẻ, nào phú hộ vinh sang! Con thích hồi tưởng những lâu đài gác tía mà xưa kia, người thác đi đã sống phong lưu sung sướng, để hỏi mình họ đi đâu mất rồi! Lâu đài ấy, dinh thự ấy xưa đã làm êm ái, thú sướng biết bao cuộc đời họ, nay há chẳng giúp họ đôi chút sao! Hay chẳng qua chỉ là sương sa ngọn cỏ? Ôi! Thế mới hay mọi sự đều huyễn hoặc hư vô, trừ một sự làm tôi kính mến Đức Chúa Trời mới là phúc thật mà chớ  .


Chịu lễ lần đầu

Ngày con chịu lễ lần đầu, chính là một kỷ niệm muôn phần đẹp đẽ của đời con, hễ nhớ là vui; con đã dọn mình kỹ càng hết sức.


Thưa Mẹ, chắc Mẹ còn nhớ cái quyển sách nho nhỏ xinh xinh mà Mẹ đã cho con ba tháng trước ngày hạnh phúc. Quyển sách quý hoá thay! Đã giúp con dọn mình chu đáo và rất mau chóng. Nếu từ lâu trước con đã nghĩ đến sự chịu lễ lần đầu, thì những ngày ấy, lẽ nào chẳng nghĩ đến hơn và sinh lòng sốt sắng mới chớm nở nhiều hoa việc lành như sách dạy vẽ.


Ngày nào con cũng tích cóp lấy nhiều hy sinh, nhiều việc mến Chúa, như muôn hoa nở trong linh hồn, hầu làm ngai thơm đẹp đẽ Chúa ngự trong ngày đại phúc.


Khi chị Pauline vào Dòng, chị Marie thế chân chị, dạy bảo con. Chiều nào con cũng được ở bên chị lâu giờ, con thích nghe chị dạy vẽ lắm! Chị đã nói biết bao sự đẹp đẽ khéo léo! Hình như cái tâm hồn to lớn đảm đương và độ lượng của chị đã chuyển cả sang người con. Như xưa, các nhà thiện chiến tập cho con em việc binh đao thế nào chị cũng tập con cách đánh giặc thiêng liêng thể ấy; chị lại khuyến khích lòng hăng hái và tưởng lệ rất khéo sự chiến mà thắng và khải hoàn vinh hiển, chỉ cúi xuống là thu nhặt được vô số của vô giá; mà tiếc thay, nhiều khi lại đang chân giày xéo lên như bộ không thiết!


Thật, chị lợi khẩu quá! Ước chi nhiều người được đến nghe lời chị như con: khi ấy con nghĩ thật thà rằng những người tội lỗi lâu năm, giả như được nghe chị khuyên bảo, có lẽ cũng động lòng ăn năn trở lại, sẽ khinh chê sự giàu có sang trọng thế gian và chỉ lo tìm của thật trên trời.


Giai đoạn này, con đã biết lấy sự suy ngắm làm êm dịu ngọt ngào lắm; nhưng chị Marie cho là con đạo đức đủ rồi, chỉ cho phép con đọc kinh thôi. Một lần kia ở trường học, có bà giáo hỏi con, những ngày nghỉ học về trại Buissonnets chăm làm những việc gì, con nhút nhát thưa rằng:


- Con thường lẻn vào góc phòng bên trong màn che giường con và ở đấy, con suy nghĩ...


- Con suy nghĩ cái gì? Bà giáo cười hỏi tiếp.


- Con suy nghĩ Đức Chúa Trời, con suy nghĩ cuộc đời mau chóng; con suy nghĩ sự đời đời hằng có mãi; tắt rằng con suy nghĩ!


Bà giáo nhớ mãi câu chuyện này, sau thỉnh thoảng lại hỏi con xem có còn suy nghĩ nữa không... Nay con hiểu rằng, những giờ phút suy nghĩ ấy là những giờ phút suy ngắm thật, và Chúa đã dạy dỗ linh hồn con cách dịu dàng thâm thiết lắm.


Ba tháng dọn mình rước lễ lần đầu đã qua mau chóng: Con đã được vào phòng, và trong tuần phòng, con lưu lại trường cả tuần. Ôi! Hồng phúc thay tuần phòng! Con không tin ngoài các tu viện người ta còn thể nếm sự vui mừng ấy ở nơi nào khác. Số trẻ cấm phòng ít, nên sự giúp đỡ bảo ban riêng từng trẻ được dễ dàng lắm. Thật, con viết mấy lời này mà lòng chan chứa biết ơn các bà như tình con thảo. - Các bà chăm chút chúng con như mẹ nuôi con thơ. Con không hiểu tại duyên cớ gì khi ấy các bà lại săn sóc con hơn các trẻ khác.


Tối nào, bà giáo nhất cũng cầm đèn đến giường con, sẽ mở màn rồi nhẹ nhàng đặt lên trán con một cái hôn yêu lắm. Con thấy bà thương con thể ấy, cả tấm lòng tốt của bà, nên một tối con đã trình bà rằng:


- Thưa bà, con mến bà lắm, con muốn tỏ cùng bà một điều kín.


Nói xong, con rút ở dưới gối một quyển sách nói về Dòng Kín đưa cho bà xem. Bà êm nhẹ cầm lấy, mở xem vài tờ rồi bảo con rằng có phúc lắm đấy.


Trong tuần phòng, nhiều lần con nhận thấy, những trẻ phải số phận mồ cô mẹ như con, rất ít trẻ được yêu quý như con trong lúc còn đầu xanh thơ dại.


Các giờ Cha Domin dạy giáo lý, con rất chăm chỉ để nghe; con thường biên được đại ý để nhớ. Còn những điều con suy nghĩ ra, con không biên vì biết mình có thể nhớ được; nay con vẫn còn nhớ.


Giót tuần phòng, con được hân hạnh thông công cùng các bà hết các giờ thiêng liêng! Chị Léonie cho con một tượng chuộc tội lớn: để có vẻ khác chị em, con đã đeo tượng ấy vào dây lưng làm như kiểu các cha truyền giáo, người ta ngờ con muốn bắt chước chị đang ở Dòng Kín. Cũng có phần đúng, vì lòng trí con vẫn luôn luôn nhớ đến chị! Chị lại cũng đang cấm phòng, không phải cấm phòng để rước lễ; mà là cấm phòng để kết nghĩa trao duyên cùng Chúa. Ngày hợp hoan ấy lại nhằm chính ngày con chịu lễ lần đầu! Rõ không hẹn mà hò! Tuần phòng đã thành quý hoá gấp bội.


Sau hết, ngày muôn xinh ngàn đẹp, muôn mong ngàn đợi đã đến! Biết bao kỷ niệm vui mừng từng phút của ngày hỉ hoan không lời tả hết ấy, còn rực rỡ trong lòng con! Vầng đông tươi sáng; chị em mừng rỡ; các bà Dòng yêu; phòng đóng bộ đầy những áo trắng xinh xắn, em nào cũng được ăn vận rất đẹp!


Nhất là những trái tim non ấy rạo rực lúc bước chân vào nhà nguyện, tai được nghe đang hát vãn du dương:


- A! A! Trên cung thánh!


Muôn thiên thần rung cánh đứng chung quanh!


Ôi! Thưa Mẹ, con chẳng muốn và muốn cũng chẳng thể nói hết lòng mừng; có lắm cái mất thơm khi phải đưa ra gió; có lắm tư tưởng thâm thiết mất nghĩa cao thượng siêu vượt khi phải đụng chạm tới lưỡi phàm trần!


Ôi! Tâm hồn con khi được giao hoan với Chúa, được Chúa ẵm hôn lần thứ nhất, ngon lành dường náo Thật là cái hôn tình, hôn nghĩa, cái hôn làm con cảm thấy mình được yêu và yêu lắm. Trong phút tình yêu ngây ngấy ấy, con đã thân thưa Chúa Giêsu rằng:


- Con yêu Chúa, yêu lắm! Con phó trót mình con cho Chúa đến trọn đời!


Khi ấy, Chúa không đòi con gì khác, cũng không buộc con phải hy sinh gì. Từ đã lâu, Giêsu và Têrêsa đã thân nhau lắm, đã hiểu nhau lắm... nên lần gặp nhau đây, chẳng còn nhìn nhau suông, một là thấu nhập vào nhau như keo sơn gắn bó; không còn phải là hai. Têrêsa đã trở nên hạt nước rơi tan trong biển cả, đã mất Têrêsa, chỉ còn Giêsu là Chúa Cả, là Vua cầm quyền thống trị! Têrêsa đã van xin Chúa cất sự thong dong của mình đi, chẳng để làm chi nữa. Còn thong dong, chỉ thêm bận lòng lo sợ, Têrêsa biết thân phận mình mỏng manh hèn yếu nên hằng giây hằng phút, hằng muốn kết hiệp cùng Đấng mạnh mẽ vô cùng.


Nhưng sự hoan lạc dào dạt quá, lòng mọn Têrêsa chứa không hết, những hạt lệ mừng đã cuồn cuộn tràn ra, chị em chúng bạn phải ngẩn lạ; đến sau đã thì thầm cùng nhau rằng:


- Sao hôm ấy Têrêsa lại khóc? Lương tâm chị có điều áy náy chăng?


Chị khác cãi không phải, hôm ấy con tủi vì không có Mẹ hay chị yêu dấu đang ở Dòng Kín đến dự lễ!


Tuyệt nhiên, chẳng ai hiểu cho rằng bởi sự vui thiên đàng tràn ngập lòng nhỏ hẹp, siêu bạt, đoạ đày và mỏng manh này, nên sướng quá thì rơi lệ mừng đó thôi.


Con buồn vì nỗi vắng lời, khuất mặt Mẹ trong ngày diễm phúc ấy? Nào cả thiên đàng đã chẳng rời đến đóng đô trong linh hồn con sao? Chịu lấy Chúa Giêsu vào lòng, con được thửa tiếp cả Mẹ nữa... Con khóc vì nỗi chị Pauline không đến dự lễ? Còn giờ phút nào chị em được hợp vui bằng giờ phút ấy! Một lần nữa, con nhắc lại, con khóc chỉ vì lẽ vui mừng quá, sự vui không lời tả hết, sự mừng không lẽ nói cùng...


Chiều ngày ấy, con được thấy các chị em đọc kinh dâng mình cho Đức Mẹ. Các bà giáo cắt con đọc, chắc là vì lẽ thấy con phải mồ côi mẹ sớm nhất. Con đã cầm trí hết sức đọc kinh ấy; con thiết tha nài xin Đức Mẹ giữ gìn con! Xem như Đức Mẹ đã nhìn hoa mọn Người cách yêu dấu và mỉm cười nữa. Khi ấy con lại nhớ đến lần Đức Mẹ mỉm cười chữa con khỏi bệnh, mà lòng chứa chan biết ơn Mẹ nhân lành! Chính Đức Mẹ, sáng ngày mồng 8 tháng 5 năm ấy đã chẳng hiện đến trao Chúa Giêsu Con Mẹ là hoa nở ngoài đồng và huệ mọc nơi thung lũng cho linh hồn con ẵm bế là gì!


Dâng mình cho Đức Mẹ xong, cha dẫn con lại Dòng Kín thăm chị Pauline. Chị đã trở nên bạn trăm năm Chúa rồi! Lễ cưới đã cử hành cũng sáng ngày ấy. Con thấy chị trùm lúp trắng như con, đầu đội mũ hoa mân côi đẹp đẽ! Con vui sướng, con ước ao mau mau được vào ở cùng chị và cùng chị mong chờ ngày về quê thiên đàng...


Tối về trại Buissonnets, cha đã cho bày tiệc mừng, con cảm động quá! Người lại thưởng con một đồng hồ quít rất xinh. Ngày hạnh phúc thật đã hoàn toàn hoan hỉ cho cả hồn lẫn xác, trọn vẹn yên hàn vui vẻ.


Và đêm tối đã đến. Ngày vui thế mà cũng có đêm! Chán cõi trần ai: Ngày càng sáng đêm lại càng tối! con chạnh lòng mong mỏi cái ngày hồng phúc kia - ngày mà được hiệp nghĩa cùng Chúa đời đời trên cõi trường sinh; ngày ấy mới cả sáng thật, không có đêm u ám chen lấn.


Không lâu la gì, ngay hôm sau màn buồn đã thấy buông! Những khăn áo đẹp, những quà mừng rỡ được bữa qua đã thấy nguôi lòng thích! Lòng chỉ còn biết vui, biết thích một mình Chúa, ước ao mong mỏi rước Chúa lần thứ hai. Thật mong đêm mong ngày, và đến lễ Chúa Lên Trời, con đã được sự mong mỏi rước Chúa. Lần ấy lên chịu lễ, con được hân hạnh quỳ giữa cha cùng chị Marie. Lòng đầy vui mừng ngọt ngào, nước mắt chảy ra. Giây phút ấy, con luôn luôn than thở cùng Chúa lời Thánh Paulo: Không phải tôi sống, một là Chúa sống trong tôi  .


Từ khi rước Chúa lần thứ hai, lòng con lại càng khao khát chịu lễ hơn nữa! Con đã được phép chịu lễ các ngày lễ trọng. Nhưng các lễ trọng lại lưa thưa quá!


Các chiều áp lễ trọng, chị Marie vẫn giúp con dọn mình như khi chịu lễ lần đầu. Con nhớ một lần chị cắt nghĩa về sự đau khổ chị nói có lẽ Chúa không để con phải đi đường đau khổ, Người sẽ bồng bế con như trẻ thơ. Sáng hôm sau, khi chịu lễ đoạn, con liền nhớ đến những lời chị đã nói tối hôm trước, và tin tưởng thánh giá chờ con vác rất nhiều. Bấy giờ trong linh hồn, trào lên những an ủi ngọt ngào chưa từng cảm thấy bao giờ. Trở đi từ đó, sự đau khổ thành sở thích của con, con nhận thấy nhiều lý thú trong lẽ đau khổ. Những cái vui lý thú trong đau khổ đã làm tươi tỉnh đời con, làm vui say tâm hồn mà trí khôn vẫn chưa hiểu tại sao.


Khi ấy con lại ước ao một điều cả thể khác: ước ao chỉ kính mến Đức Chúa Trời và chỉ tìm vui nơi Chúa mà thôi. Trong những phút cám ơn chịu lễ, con hay thầm thĩ lời sách Gương Phúc rằng: “Lạy Chúa Giêsu là của ăn ngon ngọt vô cùng, xin Chúa đổi những sự an ủi đời này nên sự cay đắng cho lòng con chịu”  . Những lời cầu xin tha thiết ấy, miệng lưỡi con đọc lên rất dễ dàng. Con đọc mà lòng chẳng hiểu, tựa hồ đứa trẻ ai nhắc làm sao đọc làm vậy.


Thưa Mẹ, sau đây Mẹ sẽ thấy Chúa thực hiện lòng khát vọng của con thế nào. Người đã trở nên sự êm dịu ngọt ngào cho linh hồn con làm sao. Nếu con nói ngay ra đây, có lẽ câu chuyện sẽ mất thứ tự, vì trong giai đoạn thứ hai này, còn nhiều điều mà con chưa thưa Mẹ hết.


Chịu phép Thêm Sức

Sau chịu lễ lần đầu ít lâu, con lại cấm phòng dọn mình chịu phép Thêm Sức. Con đã sửa soạn rất chu đáo để tiếp rước Chúa Thánh Thần ngự vào linh hồn con. Con không hiểu lý do người ta không lấy làm quan trọng việc dọn mình chịu phép bí tích dấu yêu này.


Chính ngày định chịu phép Thêm Sức đã ngăn trở, tuần phòng được kéo dài thêm, con lấy đó làm lẽ an ủi.


Ôi! Khi ấy linh hồn con vui mừng lắm! Như các Thánh Tông đồ, con vui sướng đợi Đấng an ủi đến, con mừng rỡ vì sắp được trở nên người giáo hữu hoàn toàn, được mang đời đời trên trán dấu thánh giá mầu nhiệm của phép bí tích rất trọng.


Ngày chịu phép Thêm Sức, con không nghe thấy tiếng gió ào ào thổi như ngày lễ Hiện Xuống thuở xưa; nhưng con đã thấy một thứ gió nhè nhẹ phe phẩy mà tiên tri Elias đã nghe rì rào trên núi Horeb. Ngày ấy, Đức Chúa Thánh Thần đã ban cho con sức mạnh để chịu đau khổ; đó là ơn cần thiết cho đời con lắm; vì ít lâu sau, linh hồn con đã phải chìm nổi khốn nạn trong bao nỗi gian truân cơ cực.


Xong những cuộc lễ vui mừng và không thể quên này, con lại phải theo đuổi việc học. Trong việc học vấn, con cũng có phần tấn tới lắm, và dễ nhớ những điều đã lĩnh hội được. Con chỉ vất vả khổ sở khi phải học thuộc lòng từng chữ; nhưng khi học sách Bổn, sự cố gắng của con vẫn kết quả đẹp. Cha coi trường đã tặng con cái danh hiệu Tiến sĩ nhỏ của Ngài. Ngài tặng cho thế chắc chỉ vì cái tên Têrêsa của con thôi.


Giờ giải trí, con thích đứng xa xa xem chị em nô đùa vui vẻ và ngẫm nghĩ sự xa xôi. Đó là cách giải trí hợp với tính tình con nhất. Con cũng đã bày ra một cách chơi mà lấy làm thú, là đi tìm chim non bị rơi tổ nằm chết ở các gốc cây to, rồi chọn một đám cỏ xanh làm nghĩa địa và mai táng một cách kính cẩn cả những chim thiệt phận ấy. Có lúc con ngồi kể chuyện cổ tích cho chị em nghe; các chị lớn cũng hay đến dự thính, nhưng chẳng bao lâu, một bà giáo khôn ngoan cấm con tiếp tục cái nghề diễn thuyết ấy; bà muốn chúng con chạy chơi, chứ đừng xúm lại gẫu chuyện.


Tình nghĩa

Ở trường học, con làm bạn với hai chị bằng tuổi con; nhưng lòng người hẹp hòi quá! Trong hai chị, một vì tình cảnh gia đình bó buộc, phải nghỉ học mấy tháng. Trong mấy tháng xa chị con không hề quên chị, vẫn mến nhớ; và khi thấy chị lại tới học, con vui mừng quá! Trời ôi, chị lại nhìn con bằng cặp mắt dửng dưng! Tình nhạt như nước lã! Tình yêu của con không chị hiểu; con ngậm ngùi vậy... Con đã dốc lòng rầy đi chẳng bè bạn một cách quá dễ như trước nữa. Nhưng Chúa đã cho con một tấm lòng thuỷ chung như nhất, đã yêu ai thì yêu cho trọn, nên con vẫn còn cầu nguyện cho chị hằng ngày và mến nhớ luôn.


Con thấy chị em trong trường, kẻ thì trìu mến bà giáo này, người thì yêu quý bà giáo khác. Con đã muốn bắt chước các chị mà không được. Ôi, sự vụng về may phúc! Sự vụng về ấy đã giúp con tránh khỏi bao điều rất đáng tiếc. Con đội ơn Chúa đã cho con chỉ gặp sự cay đắng trong tình nghĩa thế gian! Với một trái tim non như trái tim con, có lẽ sẽ bị dụ hoặc rất dễ dàng, sẽ bị sém cháy ngay; lúc đó còn trông bay về chốn an nghỉ làm sao được?


Một trái tim đã có tình kia nghĩa nọ, đã dan díu với nhân vật thế gian, còn thể mến Chúa chí thiết chăng? Hẳm không có thể. Con đã được mục kích nhiều linh hồn phải dụ hoặc mê mẩn vì nghĩa giả dối ấy, họ ngờ là ánh sáng thật, họ chạy xô lại như những con thiêu thân bay quyện quanh mồi lửa, để phải trụi lông, cháy cánh, khi trở lại cùng Chúa, đã tang thương lắm rồi, tê bại cả hồn lẫn xác; lửa thiêng dọi vào chẳng bén!


Ôi! Nay con hiểu, bởi Chúa biết phận con hèn sức yếu đuối, đã không để con phải mắc mưu độc địa. Giả như Chúa ngơ để con theo dõi ánh sáng giả dối ấy, hẳn là con đã bị thiêu đốt khốn nạn trong mồi lửa. Nơi mà các linh hồn mạnh mẽ gặp sự vui, rồi lại trung thành dứt lòng ra được, con chỉ gặp thấy ưu tư phiền muộn. Nào có phải con đã hoạt động nhiều nên đã tránh được tình quyến luyến tạo vật? Không đâu, con được thế chỉ bởi lòng lành Cha Cả xót thương kẻ yếu đuối mà chớ!


Con nhận thấy rằng nếu Chúa chẳng thương con, có lẽ con sa ngã không kém bà thánh Madalêna; và lời cao ý sâu nhiệm xưa Chúa phán cùng ông Simon thuộc dòng Pharisêo, đã vang dội trong linh hồn con cách rất êm đềm dịu dàng. Thật, con vẫn biết “Kẻ được tha ít, mến ít”  . Con nhận thấy Chúa Giêsu đã tha cho con nhiều hơn bà thánh Madalêna. Ôi! Ước chi con bày tỏ hết tâm tình! Con xin lấy ví dụ này để giãi bày đôi chút tâm tình ấy:


Ví dụ ông bác sĩ danh giá kia có cậu ấm, đi đường vấp phải đá ngã gẫy tay. Tình cha thương con, khiến ông bác sĩ vội vã chạy lại nâng cậu ấm dậy, thương xót, xoa bóp, băng bó. Ông dùng mọi phương pháp tài giỏi trong y khoa để chữa cho con chóng lành. Qua ít bữa, tay gẫy cậu ấm được khỏi hẳn! Cậu đội ơn cha vạn bội. Đành rằng cậu có lẽ lắm để yêu mến cha cậu! nhưng cô em sau đây thì sao!


Cha cô biết trước rằng, quãng đường con gái yêu của mình sẽ đi, có khối đá nguy hiểm nằm ngang giữa đàng; cha cô liền chạy trước, lăn đá ấy ra bên cạnh mà chẳng ai biết. Nhất định cô em được cha âu yếm quan phòng cho chu đáo thế, mà không biết gì đến tai nạn được khỏi mắc, cô cũng chẳng ân huệ gì cha cô chỗ đó, cô cũng chẳng yêu cha bằng cậu ấm ngã gẫy tay được cha chữa khỏi. Nhưng nếu cô em lại hiểu biết tình cha thương, được nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, thì, hỏi rằng cô có yêu cha hơn cậu ấm gấp bội không?


Ấy, thưa Mẹ, cô em nói đây là chính con, một đối xích của tình yêu quan phòng, người Cha “không sai Ngôi Hai xuống cứu kẻ lành, một sai xuống để chuộc lại kẻ tội lỗi”  .


Người muốn con kính mến Người hết lòng hết sức, vì Người đã tha thứ cho con chẳng phải là nhiều, một là tha tất cả. Chúa không đành đợi con kính mến Người nhiều như đã đợi thánh Madalêna. Người đã lập cách cho con hiểu rằng: Người vốn yêu con chí thiết lắm, quan phòng rất chu đáo, để nay con có lý mà mến yêu Chúa cho say sưa như mê mệt trong lửa tình ái.


Nhiều lần trong tuần phòng hay dịp nào khác, con đã nghe nói chưa gặp thấy một linh hồn nào sạch tội lại yêu mến Chúa bằng linh hồn tội lỗi đã thống hối! Chà! Nói thế mà thật cao, con muốn cải chính lời nói ấy.


Bệnh bối rối

Ở đây con lại lạc đề xa quá, không còn biết phải bắt chuyện lại từ chỗ nào...


Trong tuần phòng dọn mình rước lễ, lần thứ hai, con mắc phải chứng bệnh khốn nạn lắm - bệnh bối rối. Có đau mắt mới thương người mù, có bệnh này mới hay nỗi lòng cực. Con không thể nói hết những cơ cực phải chịu hầu giót hai năm trời. Bất cứ suy nghĩ gì, làm việc gì, dù rất nhỏ nhặt, lòng con cũng lo âu áy náy. Cơ khổ quá! Cái gì cũng phải đi nói hết với chị Marie mới yên lòng được; thành thử những tư tưởng rất dông dài cũng phải kể lể từng tí! Khổ vậy mới trút được gánh nặng, mà gánh nặng vừa trút xuống, sự bình an vừa thử nếm thì lại biến nhanh như ánh sáng loè trong đêm tối, linh hồn lại bối rối như nắm tơ vò.


Lạy Chúa, con đã làm bận lòng nhẫn nại của chị yêu dấu con lắm lắm!


Vụ hè năm ấy chúng con được phép đi chơi biển 15 ngày. Mợ vốn là người nhân nghĩa tử tế, thương các cháu như mẹ thương con, chiều đãi mọi cách vui có thể nghĩ ra được: nào cho các cháu cưỡi lừa đi chơi, nào cho cần câu đi câu cá, vv... Cả đến cách ăn mặc cũng cho các cháu được đỏm đáng lắm. Con nhớ có lần mợ đã cho con những dãi lụa xanh xanh da trời để buộc tóc. Tuy mới 12 tuổi rưỡi, được buộc tóc bằng những dãi lụa đẹp con cảm thấy lòng đã vui thích. Đến khi xưng tội ở thành Trouvill, con đã bối rối lo lắng vì tội làm dáng này lắm; con cho sự vui thích ngây ngô ấy là một tội.


Lại cũng trong dịp này, con rút được một kinh nghiệm rất hay: Chị Marie, con gái yêu của mợ, kỳ ấy hay rức đầu. Mợ thương hại lắm, chiều chuộng lắm, đặt cho nhiều tên rất yêu, rất hay để gọi cho chị khuây khoả; song chị vẫn nước mắt đầy mặt, vẫn năn nỉ luôn miệng:


- Cháu rức đầu lắm.


Phần con, thật không ngày nào là không rức đầu, nhưng con không rên như thế. Phải một hôm, vì muốn học mót chị, con vào ngồi ghế ở phòng khách, rồi sụt sịt khóc. Khóc được một lát, chị Jaenne thân thiết của con đến thăm rồi mợ cũng đến và hỏi con tại sao mà khóc. Con cũng nũng nịu như chị Marie, vừa mếu vừa nói:


- Cháu rức đầu lắm!


Mợ và chị Jeanne xem ra không tin con khóc vì nhẽ rức đầu, nên không yêu dấu mơn trớn cháu như mọi khi, lại nghiêm nét mặt và mắng cháu như mắng một người đã biết điều; chị Jeanne cũng khó chịu, trách con êm nhẹ mấy điều và tỏ bộ buồn vì con không thật lòng nói cho mợ biết tại sao mà khóc; chị ngờ là con phải bối rối điều gì quá chăng.


Thấy kết quả không hay, không lợi, lại bị mắng, con đã nhất định rầy đi không chơi cách đó nữa, cũng chẳng học mót ai làm gì. Con hiểu câu chuyện ngụ ngôn con lừa và con chó con, mà hổ thẹn... Con tự ví mình là lừa, thấy chủ vuốt vẻ chiều chó con, cũng bắt chước ghệ bàn chân cuốc lên bàn để chủ hôn và vuốt ve. May mà con không phải gậy đập vào lưng như con lừa khốn nạn kia; nhưng cũng đã được một bài học nên thân. Bài học ấy đã chữa con khỏi hẳn cái bệnh muốn làm nũng, muốn được để ý...


Sự lương tâm bối rối, đã làm con sinh bệnh phần xác. Con phải bỏ dở dang việc học hồi 13 tuổi. Nhưng để kết thúc việc học vấn ấy, hàng tuần cha thường dẫn con lại đàng nhà một bà quý phái kia để xin bài học. Bà đã cho con nhiều bài học rất hay, quý hoá lắm, giúp con tấn tới cả đôi đàng: thêm kiến thức, từng trải việc đời.


Nhà bà ăn chơi theo lối cổ; trong phòng bày biện sách vở báo chí rất nhiều, quý khách vào ra tấp nập hầu cả ngày. Bà cụ thân sinh ra bà chuyên môn có việc tiếp khách.


Những ngày đông khách đến chơi, con học chẳng được mấy, mũi dòm sách mà tai vẫn để nghe chuyện đâu đâu, thành thử con nghe được hết, cả những mẩu chuyện không nên nghe, cũng vào tai con cả. Có bà nói khen con có tóc đẹp quá! Bà khác lúc ra về, còn hỏi với lại con bé nào mà xinh thế! Những lời khêu gợi lẳng lơ này, lẽ ra đừng nói để con nghe mới phải, đã làm động tình vui thích trong mình con. Sự động tình vui thích đó, chứng tỏ lòng tự ái của con quá mạnh mẽ.


Thương hại! Có biết bao linh hồn hư đi khốn nạn cũng chỉ vì thế! Đường đời rắc hoa dễ chiêu người lắm! Chắc rằng, một linh hồn đã có phần khôn ngoan cao thượng đôi chút, sẽ hiểu ngay được sự êm ngọt của đường đời vốn pha lẫn mùi chua chát cay đắng, và những lời tô nịnh trong giây phút, chẳng thể làm thoả mãn lòng ao ước bao la man mác của mình; một lần nữa, con nhắc lại nếu lòng con đã không hướng về Chúa ngay từ lúc bắt đầu biết cảm, nếu cuộc đời đã niềm nở vui cười cùng con ngay từ khi vừa chạm trán với đời, không biết con sẽ trở nên giống gì?


Ôi! Mẹ yêu dấu, con phải ngợi khen lòng lành thương xót Chúa dường nào! Nào Chúa đã chẳng thương con như lời sách Khôn Ngoan dạy: “Trước khi thế gian mưu mô ám hại phần trí khôn và giở trò giả dối để dụ hoặc linh hồn tôi, Chúa đã cất tôi ra khỏi đó”


Để dâng mình cách riêng cho Đức Mẹ, con đã thành tâm quyết chí vào hội Con Đức Mẹ; bởi thế, tuần lễ nào con cũng phải vào nhà Dòng hai lần. Sự năng vào ra như thế, con rất ngại vì vốn tính con rất nhát. Tuy vẫn quý mến và biết ơn các bà dạy dỗ con nhiều, nhưng như con đã nói, con không trìu mến riêng bà nào như các chị em trong trường, để trò chuyện từng giờ, từng mấy giờ. Những khi đến nhà Dòng con cứ lặng lẽ làm việc bổn phận cho xong; và thừa lúc không ai để ý đến, con lên ngay sàn gác nhà Nguyện, ở đấy cho đến khi cha đến đón con về.


Con rất được an ủi những khi viếng Chúa lặng lẽ thể ấy. Nào Đức Chúa Giêsu không phải là nghĩa thiết số một của con sao? Con chỉ biết chuyện trò với Chúa. Nói chuyện với chị em, dù là những chuyện đạo đức, linh hồn con cũng dễ nhọc lắm. Sự thật, những lúc trơ trọi một mình đó, nhiều lần con cũng cảm thấy tẻ lạnh; nhưng con thường hay tự an ủi bằng cách ngâm nga lời thơ đẹp đẽ mà cha đã có lần đọc cho con nghe rằng:


Thế gian không phải là nhà,

Thuyền con xuôi bến, ấy là thế gian...


Con bé thì bé thật, nhưng khi đọc những lời thơ cảm khái ấy, con thấy tâm hồn dũng mãnh lên nhiều. Tới ngày nay đã bao năm trường, dầu con đã quên nhãng nhiều cảm tình sốt sắng lúc còn nhỏ, nhưng hình ảnh cái thuyền con không thể quên. Thuyền vẫn như chờn vờn trong trí khôn con, làm con vui thích, giúp con chịu đựng hăng hái cuộc chìm nổi ở chốn ba đào.


Trong Sách Thánh đã nói:


Cuộc đời ví thể thuyền trôi,

Lao mình trong nước xé đôi sông ngàn!


Băng băng còn biết hỏi han?

Một làn nước mặn xoá tan vết đường...


Trong giờ phút tâm niệm ngẫm nghĩ những lời văn này, đôi mắt con như mơ mộng, siêu chìm trong cõi vô biên! Con tưởng thuyền đã trôi xa, mắt đã nhìn thấy bến đời đời! Đức Chúa Giêsu đã yêu dấu ôm con vào lòng... Con mơ thấy Đức Mẹ Đồng Trinh cũng vui vẻ ra đón con, có cả cha mẹ và bốn anh chị như bốn Thiên Thần rất xinh đẹp! Con tưởng chừng đã đến giờ hiệp hoan hưởng phước đời đời trên Quê thật!


Khúc tân ly biệt

Nhưng có đâu mà được về nghỉ ngơi trên nhà Cha Cả! Con còn phải chịu đau lòng nhiều vì nỗi sanh ly tử biệt. Chính năm con được nhận vào hội Con Đức Mẹ, chị Marie là cột chống đỡ linh hồn con, lại từ giã gia đình vào nhà Kín Lisieux.


Từ khi chị Pauline vào Dòng, con chỉ còn chị Marie để hỏi han nương tựa, cho nên con quý mến chị lắm, không ở đâu là không có chị có em.


Vừa khi được biết chị nhất định bỏ thế gian, con cũng nhất định không thiết gì ở thế gian nữa. Con nhớ khóc chị cả ngày! Hồi ấy con dễ khóc lắm: bất cứ xảy ra việc quan trọng hay tầm thường, con cũng khóc. Chẳng hạn như mấy dịp sau đây:


Con ái mộ đi đàng nhân đức, nhưng lại thích làm việc nhân đức cách kỳ dị: con không quen hầu mình; chị Céline thường thu buồng hộ con, con cũng không phải mó tay đến việc cửa nhà. Thỉnh thoảng để làm vui lòng Chúa, con thu xếp chăn chiếu, hay buổi chiều chị đi vắng chưa về, con thu cất bình hoa của chị Céline vào nhà. Như con đã nói, chỉ vì mến Chúa mà con làm những việc ấy. Vậy thì lẽ ra làm rồi đừng mong được ai trả ơn mới phải. Nhưng khốn nạn! Nếu chị Céline đã biết con giúp chị công việc như thế, khi về mà không tỏ mặt vui vẻ, không lấy làm lạ sao con làm được như vậy, thì con lại khó chịu, chẳng bằng lòng và mắt lại ướt!


Lại giả như con vô tình làm phiền ai điều gì, lẽ thì phải xin lỗi mà sửa lại ngay; nhưng không, lại còn buồn bã để sinh bệnh nạn ốm yếu, thành thử đã lỗi lại lỗi thêm; và khi tự biết an ủi vì điều lỗi đó, lại quay ra hối hận mà khóc vì trước đã khóc.


Thật là tội nợ! Chỉ mình làm tội mình mà khổ!


Ngày nay không thế nữa; Chúa đã ban cho con ơn không còn phải xao xuyến vì lẽ gì thế gian. Nghĩ lại chuyện xưa, việc cũ, con không thể nào cảm tạ Chúa cho xiết được. Ơn Chúa ban đã làm cho con đổi hẳn tính nết, đến nỗi nay chẳng còn giống xưa một tính nết nào.


Khi chị Marie vào dòng Kín, là con hết người để tỏ bày tâm sự. Con đã ngửa mặt lên trời thở than với bốn Thiên Thần nhỏ là các anh chị con đang hưởng phúc trên đó. Con nghĩ bụng những linh hồn thánh này, xưa sống ở thế gian, không hề phải biết đến những nỗi âu lo sợ hãi, hẳn sẽ thương tình đứa em út còn đang sầu khổ ở nơi khách địa tha phương.


Con đã lấy tình em thật thà đơn sơ thưa với bốn thiên thần anh chị con rằng:


Trong nhà thì em là út, cho nên cha mẹ và các chị đều có lòng thương yêu chiều chuộng cả. Phải mà ngày nay còn được họp mặt cả ở thế gian, chắc cái lòng cha mẹ thương con, anh chị yêu em cũng vẫn còn, và có lẽ đến nay kể là đã lâu ngày tháng, cái tình thương yêu đó lại càng thắm thiết hơn bội phần.


Nhưng các thánh đã về quê Thiên đàng, lẽ đó có phải là lẽ đủ để bỏ quên em chăng? Trái lại, rầy anh chị được ở gần kho tàng vô giá Thiên Chúa, âu là nhớ em lắm, xin gởi xuống cho em sự bình an để minh chứng: trên trời người ta cũng biết thương yêu.


Con vừa thân thưa xong, thì thấy trả lời ngay: trong hồn con dớn lên những đợt sống bình an thư sướng lắm.


Thế là con đã được yêu, yêu ở dưới đất, yêu ở trên trời! Từ đó, lòng con càng sốt sắng mến nhớ các anh chị thiên thần; con những thích cầu xin, chuyện vãn kể lể cho các anh chị biết hết những nỗi buồn thảm thế gian và phơi giãi tấm lòng khát khao mong mỏi chóng được về với các anh chị để hưởng phúc cực lạc quê Thiên đàng.




CHƯƠNG V: ƠN ĐÊM SINH NHẬT


Nếu trời đổ ơn xuống cho con, cũng chẳng phải là bởi công lênh mà con được. Tuy con vẫn thật lòng ước ao đi đàng nhân đức; nhưng việc thực hành nhân đức còn khuyết điểm lắm. Tính đa cảm của con đã làm cho con dở hơi quá; hồi ấy lý lẽ đối với con cũng vô ích hết, con đã biết là xấu thói mà không thể chừa. Như vậy, còn muốn vào Dòng Kín sao được?


Phải có phép lạ mới có thể giúp con trong một thời hạn vắn, trở nên người biết điều. Phép lạ mong ước ấy, Đức Chúa Trời đã làm trong ngày không thể quên kia – ngày 25 tháng 12 năm 1886. Trong đêm Sinh Nhật – một đêm hồng phúc – Chúa Hài đồng Giêsu, chỉ trong một giờ, đã đổi hẳn đêm tăm tối u mù của linh hồn con thành những vầng sáng rực rỡ chói lói. Tình yêu vô lượng đã khiến Chúa sinh làm con trẻ ngây thơ yếu ớt, để con là chính kẻ yếu đuối dại dột trở nên mạnh dạn can đảm. Người trao khí giới Người cho con dùng. Với những chiến khí, con bước tới đâu thắng tới đấy, thắng luôn luôn; có thể nói: Con có bước đi của tướng đại lộ, thành công nhanh như chớp. Suối lệ từ đó cũng khô, rất khó khóc, rất hoạ hoằn mới lại khóc.


Thưa Mẹ, con xin kể trường hợp Chúa ban cho con ơn quý hoá biến đổi tính nết đó:


Năm ấy, đi lễ nửa đêm về, quen thân quen thói như lúc còn nhỏ, con lon ton chạy lại bên lò sưởi lấy kẹo bánh và các đồ chơi trong giầy – cử chỉ này minh chứng cho đến năm ấy – con còn được chiều chuộng như trẻ nít. Cha cũng thích xem con sung sướng thích nghe con reo mừng mỗi khi rút ở giày ra một cái quà. Con thấy cha thích, lòng càng hớn hở.


Nhưng giờ đã đến giờ, Chúa Giêsu muốn con thoát ly những thói hư tuổi trẻ và từ bỏ những vui thích ngây thơ. Chúa cũng khiến cha đừng nuông con như mọi khi, nên lần này cha tỏ vẻ khó chịu không bằng lòng với con. Khi bước lên phòng, con nghe thấy cha nói những lời như xé ruột rằng:


“Một con gái lớn như Têrêsa mà còn phải chiều thế này, trẻ con lắm! Cha hy vọng đây là lần sau hết”.


Chị Céline, vì đã biết con hay mủi lòng, khẽ bảo con rằng:


“Thong thả một chứ đã, em đừng xuống vội, kẻo thấy cha và quà cha cho, em lại khóc mất!”.


Nhưng Têrêsa này khác Têrêsa xưa rồi... Chúa Giêsu đã hoán cải tâm tình!


Chùi nước mắt cho sạch, con nhanh nhẩu chạy xuống phòng ăn, và hãm trái tim rung quá mạnh, con cầm lấy những chiếc giày vui vẻ rút ra bao nhiêu là đồ chơi, kẹo bánh, mặt mày hớn hở, như vị công chúa. Cha cũng vui cười, trên gương mặt không thấy dấu gì bất bình khó chịu; chị Céline bỡ ngỡ tưởng mình đang mơ! Nhưng mơ chi mà mơ! Đó là một sự thật đẹp dịu dàng: Têrêsa vừa đã phục hưng cái sức mạnh mẽ linh hồn, cái sức mạnh đã mất hồi bốn tuổi rưỡi.


Chính trong đêm sáng sủa này đã mở đầu giai đ0ạn thứ ba trong đời con – một giai đoạn đẹp đẽ nhất, hồng ân nhất.


Trong nháy mắt, công cuộc hằng bao năm trời cố gắng không xong, Đức Chúa Giêsu đã làm xong ngay; làm vì thương con có lòng ngay lành. Như các môn đệ Chúa, con đã có thể nói:


“Lạy Chúa, con đánh cá cả đêm mà chẳng được con nào!”  . Đức Chúa Giêsu tỏ tình yêu con hơn yêu các Tông đồ. Người đã cầm ngay lấy lưới, tung xuống rồi kéo lên đầy những cá to; Người đã làm con trở nên người đánh cá thiêng liêng... Đức ái nhân đã dồn dập vào lòng con, thôi thúc con hằng phải quên mình mãi mãi, và cũng tự giây phút ấy, con mới thấy mình được phúc cho thật.


Tha thiết phần rỗi

Một ngày Chúa nhật, khi lễ xong, con gấp quyển sách con lại, mẫu ảnh Chúa chịu nạn kẽ sách, còn thò ra ngoài mép, để con trông thấy một bàn tay Chúa phải đanh đóng thâu qua, máu chảy ròng ròng. Khi ấy, lòng con xúc động phi thường, trái tim như nứt vỡ tan tành vì đau đớn quá chừng; con thấy Máu rất châu báu ấy tầm tã nhỏ xuống đất, mà chẳng có ai vội vã hứng lấy! Con liền dốc lòng đem trí khôn đến “thường trực” dưới chân Thánh giá chẳng khi đừng, hứng lấy Máu Thánh hay sinh phần rỗi ấy, hầu phân phát cho các linh hồn nhờ.


Từ đấy về sau, tiếng tha thiết dấu yêu Chúa đã than thở trên Thánh giá lúc hấp hối sinh thì: “Tao khát!” từng giây phút, hằng vang inh ỏi trong trái tim con, làm cho lòng con nóng nảy quá, như ngọn lửa bầng bầng cháy liên. Con muốn dâng nước cho Chúa uống kẻo khát! Con cũng cảm thấy lòng con khát khao phần rỗi linh hồn người ta lắm; con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục.


Như để kích thích lòng con tha thiết phần rỗi, ít lâu sau, Chúa đã tỏ cho con biết Người rất vui lòng vì những ước ao của linh hồn con. Có lần con nghe nói tên tù phạm Pranzini bị luận án tử, vì những tội loạn thường gớm ghiếc. Nó cứng lòng chẳng chịu ăn năn, ắt sẽ phải thêm án trầm luân khốn nạn đời đời. Con muốn ra tay cứu tội nhân cho khỏi án trầm vong muôn kiếp; con đã dùng mọi phương pháp thiêng liêng; và biết mình hèn hạ không đáng gì, con đã dâng tất cả những công nghiệp trọng vô cùng của Chúa Cứu Thế, mọi kho tàng Hội Thánh để chuộc lại linh hồn ấy.


Lòng con như tin chắc người tội lỗi sẽ trở lại. Nhưng để được chấn phấn theo đuổi công cuộc phần rỗi, con đã thực tình nài xin Chúa rằng:


- Lạy Chúa tôi, tôi tin chắc Chúa sẽ thứ tha cho Pranzini tội lỗi khốn nạn; dù nó không xưng tội, không tỏ một dấu gì ăn năn, tôi cũng vẫn tin vững vàng chắc chắn, vì tôi trông ở lượng hải hà xót thương Chúa lắm.


Song, lạy Chúa tôi! Này là kẻ tội lỗi thứ nhất mà tôi lo lắng cứu lấy, bởi lẽ đó, tôi dám xin Chúa nhân từ vô cùng, khấng ban cho nó tỏ một dấu ăn năn, để an ủi lòng tôi cậy trông ở Chúa!


Lời cầu xin của con đã được đắt từng chữ! – Xưa nay chẳng bao giờ cha cho phép chúng con đọc báo; nhưng phen này có đọc cột thời sự về vụ án xử tử tội nhân Pranzin, con không tin là lỗi đức vâng lời. Hôm sau ngày xử Pranzini, con vội vàng mở tờ báo “La croix” ra xem. Chao ôi! Lòng cảm động, nước mắt trào ra! Con không thể đứng yên phải chịu rút lui đi chỗ khác. Pranzini không xưng tội, không được chịu phép giải tội, đã bước lên đoạn đầu đài; khi lý hình đằng xác hắn lên tấm ván để xử, bỗng chốc được ơn trên soi sáng thôi thúc, hắn quay mặt lại cầm thánh giá vị linh mục vẫn còn theo để an ủi khuyên bảo trao cho, hôn ba lần những thương tích Chúa!...


Ấy là dấu Pranzini ăn năn trở lại mà con cầu xin Chúa, và Chúa đã khấng ban cho; dấu này làm êm dịu lòng con lắm lắm. Ấy vì nhìn thấy những thương tích đau đớn Chúa, vì trông thấy những hạt bửu huyết Chúa nhỏ xuống ròng ròng mà lòng con khát khao phần rỗi linh hồn người ta dường ấy! Con muốn đưa Máu cực thánh ấy cho các linh hồn uống, để rửa sạch mọi bợn nhơ ô uế. Thì đây, tội nhân này thật là con đầu lòng của con, lúc hòng sa xuống hoả ngục, đã áp môi đau đớn hôn vết thương Chúa, uống bửu huyết Chúa! A, Chúa đoái nghe lời ta cầu nguyện dường nào!


Từ khi được ơn trọng này, sự tha thiết phần rỗi các linh hồn càng mạnh mẽ trong lòng con; con nghe như Chúa thì thầm cùng con lời xưa đã phán cùng người nữ Samaritano: “Hãy cho Ta uống!”  . Đó là một cách trao đổi tình ái rất thân: Con trao Máu Thánh Chúa cho các linh hồn uống, con tiến Chúa những linh hồn ấy, đã được mát mẻ vì Máu Thánh Chúa tưới giội. Con tưởng làm thế mới giải khát lòng Chúa được một hai phần; nhưng càng dâng nước cho Chúa uống, con càng thấy lòng con khát khao hơn. Con xem sự nóng nảy khát khao này là phần thưởng Chúa ban, phấn chấn lòng con mọi đàng.


Tính hiếu học

Trong một thời gian vắn, Chúa đã dẫn con ra khỏi khu vực hẹp hòi mà con đã sống trước. Đã bước được một bước dài; nhưng, con đường phải đi còn rất xa xăm!


Sau khi khỏi bệnh bối rối, bỏ được tính đa sầu đa cảm, tâm trí con cởi mở lắm. Trước con đã ưa thích cái to, cái đẹp; từ bấy giờ lại bắt thêm cái thích: Thích thông thái am hiểu nhiều sự. Không lấy những bài học các bà giáo ra làm đủ, con chuyên riêng nhiều khoa khác; và theo sự cố gắng riêng ấy, chỉ trong mấy tháng, con đã lượm được nhiều kiến thức hơn tất cả những năm học ở trường. Ôi! Sự nhiệt thành này phải chăng là sự giả trá vô ích, sự bận lòng cực trí?


Với tính khí nóng nảy ấy, con thấy mình ở vào quãng đời nguy hiểm nhất. Nhưng Chúa đã xử đãi con như lời tiên tri Ezéchiel nói xưa:


“Người thấy tôi đã đến tuổi cần được yêu; Người giao ước lấy tôi ngay, và tôi đã trở nên bạn Người; Người khoác áo ngoài mình lên tôi; tắm rửa tôi bằng những nước thơm quý báu rồi vận áo bóng bẩy đẹp đẽ cho tôi, lại cho đeo vòng vàng xuyến ngọc và xức nước hoa hảo hạng cả mình. Người nuôi tôi bằng thứ bột rất tinh sạch, bằng thứ mật rất quý, bằng thứ dầu rất ngon, thứ nào cũng rất hậu. Khi ấy tôi đã trở nên xinh tốt đẹp mắt Người lắm. Người lại phong tôi là Hoàng Hậu uy quyền lộng lẫy”  .


Thật, Chúa đã yêu con đúng từng nét. Con có thể lấy từng chữ của đoạn văn tuyệt bút mà tiên tri nói đấy, để ướm vào mình lời nào cũng hợp cả. Nhưng chẳng cần, những ơn Chúa ban cho con xưa rày như đã kể trên, là chứng cớ cụ thể rồi. Đây con chỉ nói về cách Chúa nuôi con rất hậu.


Từ lâu trước, con vẫn bồi dưỡng sự sống thiêng liêng linh hồn con bằng “thứ bột rất trong sạch” chứa trong sách Gương Phúc. Hồi ấy con chỉ biết tấn tới bằng sách ấy thôi. Nhưng kho tàng châu báu trong sách Phúc Âm, con chưa biết khám phá đến. Con không rời sách Gương Phúc khỏi tay khi nào. Cả nhà ai cũng thích đọc sách ấy; nhiều lần mợ mở bất ưng, gặp trang nào bảo con đọc trang ấy cho mợ nghe.


Khi lên 14 tuổi, nhận thấy con rất hiếu học, Chúa đã pha thêm nhiều mật và dầu vào bột tinh sạch cho con dùng. Thứ mật và dầu này Người cho con cảm thấy trong tập diễn văn của cha Arminjon nói về sự bế mạc thế gian và những sự mầu nhiệm đời sau.


Đọc tập diễn văn ấy, linh hồn con như được gieo trong hạnh phúc, thứ hạnh phúc không phải của thế gian, con đã cảm thấy trước những êm dịu ngọt ngào sung sướng Đức Chúa Trời để dành cho những kẻ kính mến Người; con thấy phần thưởng trọng hậu quá, chút công lênh bé mọn làm thuở bình sinh chẳng đáng gì; bởi vậy con muốn kính mến Chúa cho hết tình chí thiết, cho tận nghĩa say sưa, con muốn tỏ tình thắm thiết ấy bằng muôn cách có thể được.


Dây thân ái giữa Céline và Têrêsa

Chị Céline đã nên người tâm sự của con, nhất là từ lễ Sinh Nhật trở đi, bao nhiêu tâm tình ý chí, con tỏ hết cùng chị. Chúa muốn cho hai chị em, tay cầm tay, tiến bước trên nẻo trọn lành; ngoài cái tình ruột thịt khăng khít, Chúa lại buộc lòng chúng con yêu quý nhau bằng dây thân ái thiêng liêng, bền chặt hơn dây huyết quản nhiều. Người làm hai linh hồn chúng con nên hai chị em nghĩa thiết.


Chúng con thấy thực hiện nơi chúng con những lời cha Thánh Gioan Thánh Giá đã vịnh trong ca thiêng liêng rằng:


Lạy Chúa chí ân, chí ái

Chân Chúa đi lốt để lại đàng

Các thiếu nữ nhẹ nhàng theo bước,

Sáng rực rỡ soi,

Rượu thơm tho dẫn

Các thiếu nữ hớn hở thở hơi thơm ngát...


Vâng, dõi theo lốt chân Chúa, chúng con cảm thấy nhẹ nhàng thảnh thơi lắm! Những ánh hồng rực rỡ Chúa giãi xuống hồn chúng con, rượu ngon thơm tho và bổ Người cho chúng con uống, làm phai mờ nhạt nhẽo trước mắt chúng con tất cả những phù vân giả tạm thế gian; và từ miệng lưỡi chúng con thở ra những lời khát khao sực mùi tình ái.


Nay nhớ đến những câu chuyện chị em thỏ thẻ cùng nhau khi ấy, vui thú êm đềm lạ! Chiều nào hai chúng con cũng rủ nhau lên sân thượng say sưa ngắm cảnh trời xanh thăm thẳm, lốm đốm sao vàng đẹp đẽ, xem chừng khi ấy chúng con được nhiều ơn trọng lắm. Lời sách Gương Phúc: “Có khi Đức Chúa Trời thông mình ra trong giữa nơi quang ánh chói lói; có khi Người êm nhẹ né mình dưới bóng rợp và hình bóng”  . Đó là cách thức Chúa đã tỏ mình cùng chúng con. Nhưng bóng rợp kia, hình bóng kia cũng rất nhẹ nhàng thấp thoáng! Chúng con nhận được Chúa ngay, không do dự chút nào. Chúng con cũng không còn phải tin cậy gì nữa, lòng kính mến đã giúp chúng con tìm thấy Đấng chúng con tìm rồi. Chúng tôi đã gặp thấy một mình Người Người hôn mặt chúng tôi, để sau này chẳng còn ai có thể khinh chúng tôi được  .


Những xúc cảm thiêng liêng này chẳng phải là không sinh công hiệu, không có ảnh hưởng; con đã nhận thấy sự thi hành nhân đức được dịu dàng và tự nhiên. Khi đầu, cũng phải cầm cự chống trả xác thịt, nhưng dần dần cái lạ thành cái quen, sự bỏ mình cũng không còn là việc khó.


Đức Chúa Giêsu đã phán: “Kẻ đã có lại cho thêm, nó sẽ nên giàu có dư dật”  . Bởi con trung thành giữ ơn Chúa, Chúa đã ban nhiều ơn khác tiếp theo. Con đã được chịu lễ nhiều lần hơn là lòng dám mong ước. Con ra luật cho mình rằng, phải dọn mình chịu lễ rất sốt sắng những lần cha linh hồn ban phép, đừng xin thêm bao giờ. Nay con không cứ lối ấy nữa, vì thiết nghĩ một linh hồn thấy ái mộ siêng năng chịu lễ, phải tỏ lòng ái mộ ấy cho cha linh hồn biết. Chẳng phải vì bình vàng mà Chúa hằng ngày bởi Trời ngự xuống thế gian đâu, Người muốn tìm đến một thiên đàng khác: thiên đàng ấy là chính linh hồn chúng ta, trong đó, Người thoả thuê sung sướng!


Chúa thấy lòng con khát khao thể ấy. Người đã soi cho cha giải tội ban phép con được chịu lễ mỗi tuần nhiều lần. Con thấy được chính cha giải tội ban ơn đó, lòng xiết đỗi vui mừng hoan lạc. Trong kỳ ấy, con chẳng bày tỏ hay bàn hỏi gì về tâm tình kín đáo trong mình, con đường con đi đã thẳng thắn và sáng sủa lắm. Con chẳng cần phải có hướng đạo nào ngoài Chúa Giêsu. Con vẫn ví các cha linh hồn như những tấm gương trong trẻo phản chiếu Chúa trong các linh hồn; nhưng như con, con trộm nghĩ, Chúa chẳng muốn dùng ai làm trung gian, chính Người đã hoạt động trực tiếp trong lòng con.


Một khi người làm vườn muốn chăm cho thứ quả nào chóng chín, họ chẳng để quả treo lủng lẳng mãi ở nhành cây đâu, họ hái đem về rấm, hầu kịp chín để bày tiệc đã định ngày cho lịch sự trọng thể. Đức Chúa Giêsu đã ban nhiều ơn cho thân hoa hèn này cũng không ngoài cái định tâm ấy. Người muốn làm lừng lẫy ở nơi con lòng xót thương hải hà Người. Thuở bình sinh trong một lần hứng vui, Chúa đã kêu lên rằng:


“Lạy Đức Chúa Cha, Con ngợi khen Cha vì đã giấu những người khôn ngoan thông thạo, các sự này để chỉ tỏ cho những kẻ hèn mọn biết”  .


Bởi con hèn mọn yếu đuối, nên Chúa đã thương tình chiếu cố đến và dịu dàng dạy bảo con những sự kín nhiệm về tình yêu Chúa. Như lời thánh Gioan Thánh giá đã vịnh trong ca linh hồn rằng:


Đèn sôi người dẫn nào có có!

Ta chỉ có ánh sáng trong lòng.

Dẫn ta đi sáng như giờ ngọ,

Ta đã về chốn vẫn chờ mong.

Ta gặp bạn tình xưa quen biết,

Đã cùng ta thân thiết mặn mà...


Chốn chờ mong đó, chính là nơi Dòng Kín, nhưng trước khi được nằm nghỉ dưới bóng Đấng yêu mến  , con đã phải qua biết bao gian nan cơ cực! Mặc lòng, tiếng khẩn khoản Chúa kêu gọi kia, dù phải bước qua lửa mà đến cùng Chúa, con cũng không quản ngại nghe theo.


Để phấn khởi ơn Chúa kêu gọi con, khi ấy con chỉ gặp được một linh hồn – linh hồn chị Pauline yêu dấu. Trái tim con rất ăn nhịp cùng trái tim chị; giả như không có chị cảm khái cho, nhất định con không thể tới bến phúc lộc mà chị đã tới 5 năm trước.


Thật, thưa Mẹ, 5 năm xa cách Mẹ, con tưởng như đã phải vĩnh biệt Mẹ rồi; ngờ đâu trong lúc gian nan xo giụi, lại được chính Mẹ đứng ra vạch đường chỉ nẻo, con rất cần sự an ủi ấy, bởi vì cả những lần đến thăm nhà Dòng, mà chị em gặp nhau ở nhà khách, con cũng thấy nặng lòng quá: Con không thể nói đến việc xin vào tu mà không bị hất hủi; chị Marie cứ nhất thiết rằng con còn bé, vào làm sao được mà vào. Thoạt kỳ thuỷ, con gặp ngăn trở như trấu rắc. Đàng khác, con chưa dám nói gì cùng chị Céline, mà sự lặng lẽ này làm khổ lòng con lắm; con phải giữ bí mật với chị một điều gì, thật là khó khăn quá.


Nhưng chẳng bao lâu chị cũng đã biết ý định của con, và quý hoá thay! Chị không can gián, chị đã can đảm hy sinh đứa em yêu dấu một cách gan góc lạ lùng! Nhẽ ra phải để chị đi trước vì chị cũng quyết tâm tu đã lâu; song le, như xưa các thánh tử đạo đã vui lòng từ biệt các em mình bước vào pháp trường chiến đấu trước thế nào, thì nay chị cũng bình tâm để con từ giã chị thể ấy, đồng thời chị lại vui lòng nhận một phần sự gian truân trong việc lo liệu con cho theo ơn kêu gọi chẳng khác gì như lo cho chính mình chị vậy.


Têrêsa xin phép cha vào Dòng Kín 15 tuổi

Vậy xét phần chị Céline, con không phải lo ngại gì rồi; nhưng còn phần cha, khó khăn quá! Con chẳng biết liệu cách nào mà trình Người được. Cha vừa mới phải hy sinh hai con cho Chúa, nỗi thương nhớ còn đầy lòng, bây giờ lại nói đến chuyện phải lìa công chúa cha sao cho đành? Vả nữa năm ấy chúng con thấy cha phải chứng bệnh bại thân đau lắm, tuy đã chóng khỏi thật, nhưng cũng còn phải lo ngại cho sau này.


Ôi! Trước khi tỏ việc cùng cha, lòng con đã phải bối rối âu lo dường nào! Nhưng dù sao cũng phải nói cho xong, vì con đã sắp 14 tuổi rưỡi, chỉ còn sáu tháng nữa đến lễ Sinh nhật là ngày con đã nhất định vào Dòng Kín, cũng một giờ năm trước con được ơn sửa đổi tính nết.


Con đã chọn ngày lễ Hiện Xuống để thưa cha việc quan trọng này. Cả ngày ấy, con những cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng, kêu van các Thánh Tông đồ nguyện giúp cầu thay, để con được biết lời mà nói cho cha vui lòng. Có lẽ nào một trẻ mọn đã quyết chí dốc lòng từ bỏ mọi sự, phú dâng mạng sống và cả đời, chỉ để chăm lo cầu nguyện cho các môn đệ Chúa, lại chẳng đáng các Thánh Tông đồ bang trợ sao?


Đến khi hát kinh Chiều về, con đã gặp được dịp mỏi lòng mong đợi. Thấy cha ra chơi ngoài vườn, ngồi khoanh tay ngắm cảnh mỹ diệu thiên nhiên. Mặt trời sắp lặn, những ngọn cây cao lớn còn vương ánh vàng nhợt nhạt, các chim con ríu ríu nguyện kinh tối, phim trời đã hòng chiếu hết.


Thấy dong nhan cha nghiêm nghị như trầm mặc trên Trời, con hiểu được lòng cha bình an thư thái mọi đàng. Con lặng lẽ lại ngồi kề bên cha, miệng chưa kịp nói lời gì mà nước mắt tràn đầy hai mí. Cha đã nhìn con cũng tỏ lòng yêu dấu chí thiết. Cha ẵm đầu con vào ngực mà hỏi:


- Con, việc gì vậy? Nói cho cha nghe nào...


Đoạn cha đứng dậy như để nén lòng thổn thức xuống cứ ôm con vào lòng, bước đi bước lại cho khuây khoả.


Lúc ấy con mới gạt nước mắt, nói tới việc Dòng Kín và tỏ lòng ước ao được vào Dòng cho chóng. Cha nghe cũng phải khóc! Nhưng người chẳng nói lời gì ngăn cản ơn kêu gọi của con; người chỉ bảo rằng con còn trẻ đã quyết định việc quan trọng đó làm sao được. Song con cứ nài nẵng và nói nhiều lẽ nhất thiết xin cho bằng được, thì cha đã theo lòng thẳng thắn và độ lượng sẵn có mà phục lý và ưng cho. Rồi hai cha con dạo chơi trong vườn mãi: lòng con nhẹ nhỏm, mắt cha khô lệ, cả hai an lòng vừa đi vừa chuyện vãn vui vẻ. Con nghe cha nói chuyện như nghe một đấng thánh.


Khi đã tới một bức tường cao cao, người chỉ cho con xem đám hoa nhỏ trắng giống như những bông huệ cỏn con, người nhổ một cái đưa cho con và cắt nghĩa đã bao công phu Chúa làm cho hoa nở và gìn giữ tươi tốt tới ngày nay.


Con nghe cha nói chuyện hoa như nghe chuyện mình: hoa trắng nhỏ này và Têrêsa bé mọn đây có chuyện giống nhau như lột. Con đã giữ lấy hoa ấy như một báu vật. Con thấy cha nhổ được cả rễ, không giập, không đứt rễ nào, dường như còn để đem trồng nơi đất tốt màu hơn. Cái công việc nhổ cây hoa đó, chính là ám chỉ về mình con: người vừa cho phép con từ giã gia đình, thân quyến mà đi lên ở trên núi Carmel.


Con đã dán hoa nhỏ ấy vào ảnh Đức Bà Thắng Trận: Hình như Đức Mẹ thấy hoa thì mỉm cười, và Chúa Giêsu cầm lấy trong tay. Ngày nay hoa vẫn còn dính trên ảnh, chỉ có thân hoa nơi gần rễ là đã giập; chắc nhân đó, Chúa muốn tỏ cho con biết chày kíp Người sẽ bứt đứt tất cả những dây, những rễ chằng chịt thân hoa mọn Người, chẳng đành để nó vật vờ chìm nổi mãi ở chốn phong đào nguy biến...


Những bước gay go

Khi đã xin được phép cha vào Dòng, con tưởng như đã có thể tung mình bay một lèo tới đỉnh núi Carmel, không còn phải e sợ gì. Nhưng ngao ngán thay đàng ngàn dặm mới qua vài bước! Cậu, sau khi nghe con tỏ bày ý kiến xin vào Dòng, bực tức quá, đã trả lời dứt khoát rằng 15 tuổi đầu vào Dòng ngặt phép ấy, không phải là khôn ngoan gì, cái đó chỉ là mang tiếng sự đạo, vì cho trẻ con vào tu một Dòng quá khắc khổ! Cậu lại nói thêm, sẽ triệt để phản đối việc tu này, và nếu không có phép lạ can thiệp, cậu không hề đổi ý.


Thấy cậu cả quyết như thế, con nghĩ bụng nói thêm lẽ gì bây giờ cũng bằng thừa, cũng vô ích, con liền rút lui, lòng rầu rĩ cay quá, nghẹn ngào không biết nghĩ làm sao, chỉ còn biết an ủi mình bằng lời cầu nguyện. Con đã nài xin Chúa Giêsu lấy phép lạ can thiệp vào việc tu của con, vì chỉ có phép lạ, con mới có thể vâng theo tiếng Chúa gọi.


Qua đi một thời gian lâu lâu, tưởng là cậu chẳng còn nhớ gì đến chuyện cũ; nhưng sau con mới rõ cậu vẫn để ý đến việc con xin vào Dòng.


Trước khi để ánh sáng hy vọng dọi chiếu vào linh hồn con, Chúa đã gởi cho con một đau đớn, dằn vặt con đủ ba ngày. Trong cơ hội này, con mới hiểu thấm thía hơn bao giờ, nỗi lòng đau của Đức Mẹ và thánh Giuse khi đi tìm Chúa Giêsu ở các phố thành Giêrusalem.


Con coi mình như bị lạc vào một rừng thẳm sâu ghê sợ; hay đúng hơn, linh hồn con như chiếc ghe mong manh đi ngoài khơi, bị cơn giông dữ dội vặn gẫy tay lái, phải để dật dờ trôi theo sóng gió. Con cũng biết có Chúa ở thuyền con, đang nằm ngủ; nhưng giữa đêm tăm tối mịt mù ấy, trông thấy Chúa sao được? Giả như giông tố để mưa xuống, hẳn là sẽ có chớp, chớp sẽ loè ánh sáng trong mây đen nghịt, và đành rằng ánh sáng của chớp tuy buồn bã thật, nhưng ít là nhờ nó trong nháy mắt, để nhìn thấy Đấng ân ái của lòng trìu mến.


Nhưng không, chỉ thấy có đêm mịt mùng u thảm! Chỉ thấy có trời lạnh lẽo vắng tanh, tẻ lạnh như sự chết! Con đã cảm thấy mình bơ vơ trơ trọi như xưa Chúa Giêsu bơ vơ trơ trọi trong vườn Hấp Hối! Chẳng còn tìm đâu ra an ủi, trông lên cũng hết, ngó xuống cũng cùng! Thấy con héo hắt quá, trời đất cũng chạnh lòng buồn: giót ba ngày mặt trời không mọc, trái đất không được một tia nóng nào, chỉ có mưa, mưa như sụt trời xuống trọn ba ngày.


Con nghiệm thấy rằng, trong mọi hoàn cảnh đời con, trời đất như màn ảnh phô diễn tâm hồn: Khi con khóc, trời tầm tã mưa; khi con vui, trời quang quẻ nắng, vòm không trung xanh biếc, không có dải mây nào lơ lửng trôi.


Sang ngày thứ bốn tức là thứ bảy trong tuần, con lại đến thăm cậu. Lần này cậu đổi hẳn thái độ, làm con ngạc nhiên quá! Con chưa kịp thưa trình gì, cậu đã bảo con vào phòng làm việc của cậu. Cậu mở đầu khiển trách con qua loa mấy lời êm nhẹ về cách con ăn ở chẳng được hả lòng cậu, rồi bảo luôn rằng phép lạ nài hôm nọ chẳng cần nữa; cậu đã cầu xin biết thánh ý Chúa bằng cách vui lòng cho con vào Dòng, nay cậu đã thấy vui lòng rồi.


Khi ấy con chẳng còn nhận ra cậu nữa: cậu ôm lấy con, yêu dấu như một người cha và nói giọng rất cảm động rằng:


“Hỡi cháu yêu dấu, cậu chúc cháu đi Dòng bằng an; cháu là bông hoa nhỏ yêu quý riêng của Chúa, nay Chúa muốn hái, cậu chẳng ngăn được”.


Con mừng rỡ quá, hớn hở trở về trại; trông lên thấy ngọn trời trong vắt sáng sủa đẹp đẽ. Trong linh hồn, đêm tối cũng chấm hết.


Chúa Giêsu đã thức dậy trả lại vui mừng cho con rồi. Con chẳng còn nghe thấy tiếng biển gầm, tiếng gió rít: thay vì gió gian nan lạnh lẽo, một cơn gió mát nhẹ nhàng phe phẩy đưa chiếc thuyền con trôi về bến. Con tưởng mình đã tới bến! Trời ơi! Còn hơn một giông tố nữa sẽ nổi lên! Đã có lúc con sợ cuống quýt sợ, vì thuyền trôi xa quá, e không vào tới bến mỏi lòng mong chờ!


Thưa Mẹ, dàn xếp với cậu xong con lại tiếp được thư Mẹ cho hay rằng: Cha Bề Trên Dòng không cho phép con vào trước 21 tuổi. Chẳng ai nghĩ đến lời kháng nghị quá nghiêm khắc, quá găng này bao giờ! Mặc dầu không ngã lòng, con và cha đã đến trình bày sự thể cùng người. Người đã tiếp hai cha con rất lãnh đạm. Nói làm sao cũng không nghe, cứ nhất thiết trả lời không được. Lạnh lẽo chúng con từ biệt ra về! Người nói với một câu:


“Tuy thị thế, tôi chẳng qua chỉ là thay mặt Đức Giám, ngoài ra nếu Ngài cho phép thì còn phải nói gì nữa!”.


Hai cha con vừa bước ra khỏi nhà Chung, trời liền mưa rào! Trong linh hồn con cũng kéo mây đen ngòm! Cha không còn biết an ủi làm sao, hỏi con có muốn đi Bayeux hầu Đức Cha thì người sẽ dẫn đi. Con cảm ơn cha, vâng ngay.


Têrêsa thân việc vào Dòng cùng Đức Cha Hugonin

Trước khi lên đường đi tỉnh Bayeux, đã dồn dập xảy đến rất lắm chuyện. Bề ngoài, con vẫn như thường: Vẫn học hành, vẫn tấn tới trong đàng kính mến Chúa. Nhiều lần con được sốt sắng nóng nảy lắm, cảm hứng lạ lùng.


Một hôm, yêu mến Chúa quá, không biết phải thưa Chúa làm sao! Lòng con ước ao chớ gì hết mọi người thế gian đều thờ phượng ngợi khen Chúa, lòng con lại đau đớn nghĩ đến nơi trầm luân hoả ngục chẳng có ai kính mến Đức Chúa Trời, chẳng có một chút việc gì là việc yêu mến! Con đã thật tình than thở rằng, tôi vui lòng gieo mình xuống nơi cực khổ cực nạn đầy dẫy những lời lộng ngôn dữ tợn ấy! Tôi đành lòng ở đấy để kính mến Đức Chúa Trời đời đời! Có lẽ thế chẳng phải là làm sáng danh Chúa, Chúa chỉ muốn ban hạnh phúc cho ta thôi, nhưng trong lúc quá yêu, người ta cảm thấy sự cần phải nói ngàn điều dở. Nếu con đã dở thế, chẳng phải là con không quý phúc thiên đàng; sở dĩ là trong con yêu đó, với con, thiên đàng cũng chỉ là tình yêu thôi; mà trong lúc nhiệt liệt yêu, con thiết nghĩ chẳng có gì gỡ được con khỏi tay Đấng mà con đã say sưa yêu mến...


Trong giai đoạn thứ ba này, Chúa đã ban cho con một điều an ủi được sống gần gũi mấy linh hồn thơ ấy. Trước hợp ấy thế này:


Một gia đình nghèo khó kia, người mẹ goá lâm bệnh, có hai con dại chưa biết làm ăn gì. Con liền nhận coi sóc hộ bà hai em dại ấy: con chị chưa đầy sáu tuổi. Thấy hai em ngay thật, có lòng tin cẩn mọi lời khuyên bảo, con vui thích lắm. Con nói làm sao, hai em cũng tin; thật phép rửa tội đã in sâu trong linh hồn những nhân đức siêu nhiên, cho nên từ bé người ta đã biết tin cậy phần thưởng tốt lành đời sau, mà vui vẻ chịu đựng những nỗi gian nan tất tưởi đời này. Thoảng hoặc một đôi khi thấy hai em bất bình chi đó, nếu muốn xử hoà cho hai em lại thân thiết yêu nhau, thay vì hứa cho đồ chơi, cho kẹo bánh, con nói cho hai em nghe phần thưởng trọng vọng thiên đàng. Chúa Giêsu để dành cho những trẻ em ngoan ngoãn, biết ăn lời. Con chị, trí khôn đã bắt đầu mở mang, mặt mày hớn hở nhìn con mà hỏi nhiều câu rất hay về Chúa Giêsu, về nước thiên đàng tốt đẹp. Lại hứa vui vẻ rằng rầy đi sẽ nhường nhịn em và không khi nào dám quên lời “cô cả” dạy – hai em quen gọi con cái tên cô cả.


Nhận thấy những linh hồn trẻ thanh sạch sấy, con sánh ví như sáp ong mềm mại, muốn in hình gì cũng dễ, hình sự dữ, thương hỡi, cũng dễ như hình sự lành. Con đã hiểu thấm thía lời Chúa quở trách: “Thà nó gieo mình xuống biển, chẳng thà làm gương mù cho một con trẻ!”  . Ôi! Phải mà được dạy dỗ hẳn hoi từ bé, đã có biết bao linh hồn tới bậc thánh thiện rất cao.


Đành rằng Đức Chúa Trời chẳng cần ai để làm ai nên thánh, nhưng như Chúa muốn người làm vườn khéo léo tỉa chăm chú các cây non nớt và hiếm có thế nào, Chúa cũng muốn người ta giúp Chúa trong việc vun tưới các linh hồn thể ấy. Chúa soi cho biết cách vun tưới mà thôi, còn sự cây sinh chồi nẩy lộc, khai hoa kết quả là việc riêng Chúa, chẳng ai làm nổi. Nếu người làm vườn lại vụng về không biết chắp ngành cây, không am hiểu tính riêng từng cây, lại đem chắp, thí dụ: ngành hồng vào thân cây đào, muốn có bông hồng nở trên ngành đào làm sao được?


Nhân đấy con nhớ câu chuyện nuôi chim xưa:


Ngày xưa, con nuôi nhiều chim, được một con bạch yến hót rất hay, cũng có một con sẻ rừng mà con chăm riêng vì thương hại nó phải lìa mẹ khi còn trong tổ. Con sẻ rừng này chẳng được học mẹ để hót tiếng mẹ, từ sáng đến chiều chỉ phải nghe giọng hót du dương vui vẻ của chim bạch yến. Sẻ rừng cũng muốn hoà giọng hót theo, nhưng tiếng sẻ rừng lại ngâm cùng bạch yến khó biết chừng nào! Con thấy nó cố bắt cái tiếng kêu se sẽ của nó hoà với giọng hót bổng và râm ran của bạch yến mà phải nực cười! Nhưng lạ chưa? Chẳng bao lâu sẻ rừng đã đi tới thành công: tiếng hót và giọng đưa của nó hay như bạch yến! Cả hai con hót nghe như một.


Ôi! Mẹ yêu dấu, Mẹ cũng đã rõ ai đã tập hót cho con thuở nhỏ và tiếng ai đã làm say lòng con lắm! Ngày nay con hy vọng rằng dầu là hèn sức yếu đuối, sẽ có một ngày con được cùng Mẹ ngâm nga mãi bài ca Tình Ái mà nhiều lần con đã được nghe Mẹ hát rất dịu dàng êm ái ở thế gian này...


Mấy mẩu chuyện trên đây đưa con đi xa quá... lạc mất cả đề! Con xin trở lại vấn đề hoạt động để theo ơn Chúa kêu gọi?


Ngày 31 tháng 10 năm 1887, cha và con cùng trẩy đi Bayeux, lòng con chứa chan hy vọng, nhưng cũng giật mình khi nghĩ đến lúc phải đứng hầu Đức Cha ở Toà Giám Mục. Bữa này là lần thứ nhất, con đi xa mà không được các chị cùng đi với, lại là lần đi hầu Đức Giám! Xưa nay con có nói gì, chẳng qua chỉ là nói mà thưa lại lời người ta hỏi; lần này phải xuất đầu lộ diện mà trình bày và giải thích các lẽ muốn vào Dòng Kín, để Đức Cha thấy rõ ơn kêu gọi mình vào Dòng.


Con phải khó nhọc chiến đấu với tính nhút nhát nhiều lắm! Con đã nghiệm thấy lời sách Gương Phúc nói rất thật: Tình yêu không lấy gì làm không có thể, tình yêu tin tưởng cái gì cũng có thể, cái gì cũng được phép!  . Đúng tâm lý lắm. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu mới có thể làm con chặt đứt hết các dây trắc trở, lướt thắng mọi khó khăn đã đến và còn đang đến. Con đã phải mua hạnh phúc bằng giá rất đắt, bằng nhiều gian nan cả thể. Nhưng nay, con lại cho giá ấy còn rẻ và giả như chưa mua được, dù phải trả giá đau khổ gấp nghìn lần xưa, con cũng sẵn sàng mua ngay.


Khi hai cha con vừa tới dinh Đức Giám, các thác trên trời mở ra mưa xuống như trút. Cố Chính Révérony, đã hẹn ngày cho chúng con đến, ra tiếp chúng con niềm nở lắm, nhưng hơi có vẻ bỡ ngỡ. Người thấy mắt con ướt lệ thì bảo:


- A! Cha thấy con lắm giọt ngọc lắm! Ý thì không nên để Đức Cha nom thấy!


Khi đi qua những phòng khách rộng rãi, con nghĩ mình không bằng con kiến mà đâm lo không biết phải thưa trình thế nào! Lúc ấy Đức Cha còn đang bách bộ với hai cố ở hè; con thấy cố Chính trình gì với Đức Cha mấy lời, rồi cùng theo Đức Cha ra phòng khách nơi chúng con đang đợi.


Ở phòng khách đã dọn ra ba ghế bành to, phía sau có lò sưởi lửa đang cháy.


Thấy Đức Cha bước vào, cha liền quỳ xuống bên con chịu phép lành, đoạn Đức Cha mời chúng con ngồi. Cố Chính chỉ con ngồi ghế giữa, con thưa lễ phép không dám; Người không nghe lại giục con thử ngồi xem đã biết vâng lời chưa? Con liền ngồi ngay, không ngần ngại gì nữa. Nhưng con rất ngượng khi thấy Cố Chính to lớn ngồi chiếc ghế thường, mà mình bé bủn lại chỗm chệ ngồi chiếc ghế bành rộng rãi, có dễ bốn người lớn bằng con ngồi cũng vừa và vừa hơn là để con ngồi bẽn lẽn một mình! Bấy giờ con mong để cha nói trước; nhưng cha lại giục con thân việc với Đức Cha đi. Con đã dùng hết tài lợi khẩu mà thân thưa Đức Cha công việc; tuy vẫn biết một lời của Bề Trên Dòng nói giúp, có giá trị bằng vạn những lý lẽ con trình. Nhưng người đã không muốn, còn trông nói giúp làm sao!


Đức Cha hỏi:


- Con ước ao vào Dòng Kín đã lâu chưa?

- Vâng, thân thưa Đức Cha, lâu lắm rồi ạ.


Cố Chính liền cười mà ngắt lời:


- Phải, lâu lắm rồi ạ, mà cũng chưa lâu được 15 năm chứ?

- Vâng, chính thế! Nhưng cũng không phải trừ đi mấy đâu, vì con đã ước ao dâng mình cho Chúa từ lúc 3 tuổi.


Đức Cha tưởng là để vui lòng cha, đã khuyên bảo con hãy ở lại nhà với cha ít lâu đã. Bất ngờ, cha cũng vào bè với con, làm Đức Cha phải ngẩn lạ và cảm động! Người liền tỏ mặt rất hiền từ bảo nên trẩy đi viếng Rôma làm một cùng ban tổ chức Địa phận hồi này, và nếu con chưa xin được phép vào Dòng, thì hôm ấy, đừng ngại tâu Đức Thánh Cha ban phép cho.


Nhưng trước khi quyết định việc này, Người đã buộc phải trình Cha Bề Trên biết đã. Con không nghe lời gì mà lấy làm khó chịu bằng lời phải trình lại Cha Bề Trên đã; vì con biết Người nhất định ngăn hẳn công việc của con, cho nên bấy giờ con chẳng còn kể gì lời Cố Chính đã nhặn đừng để Đức Cha nom thấy những hạt ngọc bám ở mắt; chẳng những đã để Người nom thấy, con lại trao cho Người những hạt ngọc ấy nữa. Con thấy Đức Cha cũng cảm động. Người mơn trớn con cách yêu dấu, có lẽ chưa thiếu nữ nào được yêu vậy bao giờ.


Đức Cha bảo con rằng:


- Con chưa nên ngã lòng vội: cha rất bằng lòng để con theo cha con sang Toà Thánh: như thế ơn kêu gọi của con được chắc chắn... Hỡi con, đừng khóc, con nên vui mừng mới phải! Vả lại tuần sau cha cũng đi Lisieux, Cha sẽ nói chuyện việc con với Cha Bề Trên, và có thế nào Cha sẽ trả lời. Chắc con sẽ nhận được thơ Cha ở Italie.


Đoạn Đức Cha tiễn chân hai cha con ra đến vườn ngoài; cha vừa đi vừa hầu Đức Cha câu chuyện sáng ấy con đã uốn tóc để được già giặn người ra. Đức Cha nghe lấy làm khoái chí lắm. Người vẫn nhớ cái mánh khoé ấy! Nay hễ lần nào Người nói chuyện cùng ai về đứa con mọn, Người cũng nói cả câu chuyện uốn tóc. Tình thực con muốn đừng nói thì hơn!


Cố Chính tiễn chân ra tới cổng. Người nói rằng chưa thấy thế này bao giờ: Cha sẵn lòng dâng con cũng như con vui lòng dâng mình cho Chúa.




CHƯƠNG VI: CUỘC HÀNH TRÌNH RÔMA


Ở Bayeux về được ba hôm, con lại phải bắt đầu một cuộc hành trình khác xa và lâu hơn, cuộc hành trình Rôma.


Cuộc hành trình này đã cho con một nhận thức tường tận về lẽ hư không của mọi sự phù vân giả tạm thế gian. Tuy nhiên, con đã mục kích những đền đài nguy nga, những dinh thự rực rỡ; con đã chiêm nghiệm những công trình kiến trúc của nghệ thuật và tôn giáo; nhất là con đã được hân hạnh đặt chân lên đất các thánh Tông đồ đã giẫm xưa, đất đã nhuộm thấm biết bao máu các thánh Tử đạo, và linh hồn con đã thành to lớn bởi được đụng chạm tới những di tích Thánh.


Con vẫn sung sướng lắm vì đã được sang Rôma; nhưng con hiểu bấy giờ có nhiều người đoán cha cho con đi Rôma, sở dĩ để làm khuây khoả lòng con ao ước vào Dòng. Phải, nếu tâm tu mà không chí thành, hẳn cũng đã ngã thật!


Trước hết, những người đi viếng Rôma, không kể chị Céline và con, toàn là những bậc vị vọng quý phái cả; nhưng chúng con không phải loá mắt vì nhẽ đó, chúng con đã trông những danh vị quyền quý ấy như mây khói, chẳng mấy chốc mà tan! Con đã hiểu lời sách Gương Phúc nói: “Chúng con đừng theo dõi cái bóng dáng mà người ta kêu là danh tiếng”  .


Con nhận thấy đai danh của một người không vụ tại ở chức vị, một là ở sâu xa trong linh hồn.


Thánh Tiên tri Isaia đã nói: “Đức Chúa Trời sẽ cải tên cho những kẻ Người chọn”  , và trong sách Khải Hoàn chúng ta thấy thánh Gioan nói: “Thắng giả sẽ được lĩnh một thoi đá trắng, trên đá đã thích một tên mới mà chẳng ai biết, trừ người được lĩnh”  .


Vậy đợi ngày về Thiên đàng, chúng ta sẽ biết được vì thứ chúng ta. Khi ấy Chúa sẽ thưởng ai tuỳ công lênh ấy  . Ai trong thuở bình sinh, đã vì lòng mến Chúa mà chọn phần nghèo khổ, mà ẩn tích mai danh, trên Thiên đàng, kẻ ấy sẽ dự hàng nhất, vẻ vang sang trọng nhất, giàu có phú quý nhất.


Kinh nghiệm thứ hai con lượm được ở Rôma là kinh nghiệm liên can đến hàng Giáo sĩ.


Cho đến khi ấy, con vẫn chưa hiểu mục đích chỉnh sửa lại Dòng Carmel. Cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại, đó là việc con say làm lắm; nhưng cầu nguyện cho các thầy cả, những đấng con thiết nghĩ linh hồn trong sạch hơn thuỷ tinh, con rất lạ lùng! Ở bên Ý, con đã hiểu được ơn Chúa kêu gọi con. Sang Ý mà thêm được kiến thức phổ cập này, đã có gì là phải đi xa quá!


***


Trong một tháng, con đã được hân hạnh gặp nhiều thầy cả đạo đức, thánh thiện, con nhận thấy nếu chức cao trọng linh mục đã tâng các thầy cả vượt trên hàng Thiên Thần, các ngài cũng vẫn còn là loài người, có bổn tính giòn mỏng và yếu đuối. Vậy như các thầy cả thánh thiện mà Chúa Giêsu đã gọi trong Phúc Âm là muối đất, còn tỏ mình cần lời cầu nguyện lắm, thì phải nghĩ sao về những thầy cả lạnh lẽo khô khan? Nào Chúa đã chẳng phán: “Nếu muối đã nhạt, còn lấy gì mà ướp nó mặn được nữa?”  .


Ôi! Thưa Mẹ, đẹp đẽ thay ơn kêu gọi ở Dòng Kín! Ơn kêu gọi của chúng ta! Ở Dòng Kín, Chúa đã ký thác nhiệm vụ giữ gìn muối đất, bảo tồn muối đất! Chúng ta hàng dâng mọi lời cầu nguyện, mọi hy sinh cho những tông đồ mở Nước Chúa. Chính chúng ta là tông đồ các thầy cả, trong khi các ngài lấy lời nói, lấy gương sáng việc làm giảng dạy anh chị em ta biết đàng làm tôi kính mến Chúa.


A, cao thượng thay, vẻ vang thay thiên chức, sứ mệnh của chúng ta! Nhưng thôi, con không dám nói nữa! Con nhận thấy nói đến thiên chức đó, ngọn bút của con không biết ngừng...


***


Thưa Mẹ yêu dấu, bây giờ đây, con xin thuật ít điều tai nghe mắt thấy trên đường đi Rôma.


Mồng 4 tháng 9 năm 1887, hồi 3 giờ sáng, chúng con đi qua tỉnh Lisieux. Thành phố bấy giờ còn lịm trong bóng tối của đêm khuya lạnh. Rất nhiều cảm xúc chạy trong tâm hồn: con thấy mình đi đây là đi một nơi chưa từng quen biết, nơi ấy có biết bao sự quan trọng đang chờ đợi con!


Thành Paris

Khi đến kinh thành Paris, cha dẫn chúng con đi thăm những nơi thắng cảnh trong cả thành, nhưng đối với con chỉ có một nơi danh thắng là Đền Thờ Đức Bà Thắng Trận. Những tâm tình cảm thấy trong nơi thánh đó, con không thể nói được! Con thấy Đức Mẹ ban cho con những ơn khi rước lễ lần đầu: trong mình đầy bình an đầy hạnh phúc... Ở nơi thánh ấy, Đức Mẹ đã tỏ cho con biết chính Người đã đến mỉm cười và chữa bệnh cho con ngày xưa.


Con đã thiết tha nài xin Đức Mẹ hằng giữ gìn con luôn và thực hiện lòng mơ ước của con, lại cho con luôn luôn nấp bóng áo đồng trinh Mẹ! Con cũng xin Người cho con biết xa lánh mọi dịp hiểm nghèo tội lỗi.


Con nhận thấy trong cuộc hành trình Rôma, con đã gặp nhiều nhân vật và cảnh ngộ có thể làm xao xuyến lòng con; bởi con chưa biết gì sự tội, nên rất sợ phải biết mà thêm nặng lòng. Khi ấy con chưa có kinh nghiệm rằng mọi sự thanh sạch cho những kẻ thanh sạch  , một linh hồn đơn sơ, thẳng thắn không thấy sự tội đâu hết, bởi vì sự tội chỉ ở những tấm lòng nhơ bẩn, chớ chẳng ở những vật vô tri vô giác.


Con cũng cầu xin Thánh Cả Giuse bang trợ con: từ bé vẫn có lòng kính mến Người cùng Rất Thánh Đức Mẹ. Ngày nào con cũng đọc kinh: “Lạy Thánh Cả Giuse là Cha và là Đấng Bảo hộ những kẻ đồng trinh...”. Xem như con đã được Người che chở phù hộ và giúp con thoát mọi hiểm nghèo.


Khi đã làm việc dâng mình cho trái tim Chúa Giêsu ở thánh đường Montmartre, chúng con từ giã kinh thành Paris. Hôm ấy là mồng 7 tháng 1.


Trên xe hoả, người ta bàn vấn đề đặt tên Thánh các toa xe; thường thường danh dự này nhường cho thầy Cả ngồi trong toa: hoặc lấy chính tên thánh sư ngài, hoặc tên thánh sư xứ sở ngài coi sóc mà gọi tên toa.


Vậy đang lúc đông đủ cả phái đoàn du lịch, chúng con nghe xướng tên thánh Martino là thánh sư cha. Nhã ý biệt đãi của phái đoàn du lịch làm cha cảm động qua1 Người liền tiến lại đội ơn Đức Cha Legoux địa phận Contances hướng dẫn phái đoàn. Từ đó, nhiều người cứ gọi cha là cụ thánh Martino – Monsieur Saint Martin.


Cố Chính Révérony hằng để ý quan sát rất kỹ từng việc con làm; con thấy ngài ngồi xa xa để dễ trinh sát con. Đến lúc ăn, nếu con không ngồi đối diện Ngài, Ngài cũng liệu cách xoay sở để nhìn được con ăn và nghe con nói. Con trộm nghĩ Ngài phải được thoả lòng với công tác điều tra quá chu đáo ấy; bởi vì lúc du lịch về, con thấy Ngài tán thành việc con lắm. Con nói lúc du lịch về, chứ cả như ở Rôma, Ngài chẳng nói đỡ con được một lời, sau đây Mẹ sẽ rõ.


Phong cảnh nước Suisse

Trước khi tới đích cuộc đi viếng Rôma, chúng con đã vượt qua nước Suisse, có lắm núi cao, ngọn tuyết phủ trắng xoá, hoà lẫn mây trời. Có những thác nước đổ xuống trắng như màn bạc, có nhiều thung lũng sâu rườm rà cây to lớn, nhiều bụi thạch bi hoa đỏ chói, coi rất ngoạn mục.


Thưa Mẹ yêu dấu, phong cảnh thiên nhiên hữu tình đẹp đẽ, chẳng biết từ đâu tung ra không còn có chừng có mực này, đã làm ích cho linh hồn con lắm lắm!


Nó nâng rước linh hồn con lên tới Đấng Tạo Hoá, đã chẳng ngần ngại vất xuống cõi trần một mai sẽ phải hư đi, những công trình vĩ đại bao la đó!


Thỉnh thoảng chúng con được đưa lên tới đỉnh non vòi vọi; đứng đấy chúng con nhìn xuống chân thấy những vực sâu hoắm đuối tầm mắt, không còn biết đâu là cùng là tận. Chúng con có cảm giác tựa hồ những vực thẳm ấy chỉ chực nuốt chúng con xuống mãi đâu đâu. Xa xa hơn, chúng con lại đi qua một làng coi cũng vui mắt; Các nhà ở làm toàn bằng gỗ, một ngôi thán


h đường xinh xinh với ngọn tháp chọc trrời, trông mây vẩn vơ như quyện quanh nô giỡn. Chỗ kia có chiếc hồ rộng, lăn tăn làn nước xanh biếc pha lẫn ánh vàng lợt lạt của mặt trời đang lặn.


Con biết nói sao những cảm xúc lúc đứng nhìn phong cảnh hùng vĩ ấy, nên thơ ấy?


Con đã liên tưởng những lạ lùng đẹp đẽ trên trời... Khi ấy cũng như bây giờ, con đã hiểu như thế nào là cuộc đời tu: đi tu là phải sống theo khuôn phép nhiệm nhặt, sống bằng hy sinh hàng ngày, sống với muôn vàn sự cầm hãm mà không để một ai biết tới. Con đã biết, vì thế người ta dễ nản lòng lắm, người ta có thể quên mục đích cao thượng về ơn kêu gọi dễ như không. Nên con đã răn mình rằng:


“Sau này được tu thân trong Dòng Kín, gặp khi gian nan hay là bị cám dỗ quẩn quanh rằng mình chỉ được trông có một quãng trời hẹp, lúc ấy tôi sẽ nhớ lại ngày hôm nay: tôi đứng giữa thiên nhiên muôn uy hùng lộng lẫy, muôn cảnh đẹp mắt vui tai, để thêm can trường mà tu thân tích đức. Nghĩ đến oai quyền Chúa, phép tắc Chúa, tôi chẳng còn thiết gì những lợi ích cỏn con của mình. Tôi quyết chí yêu một mình Chúa. Tôi chẳng để lòng dính bén sự thế gian là bụi rác. Giờ đây tôi đã thấy những sự tốt lành vui vẻ Đức Chúa Trời dành cho những kẻ mến Người ở thế gian”.


Thành phố Milan

Suy ngắm những công trình vĩ đại Chúa đã dựng nên, con lại đi xem những công trình kiến trúc người thế gian làm.


Thành phố thứ nhất nước Ý mà chúng con ngoạn mục là thành Milan. Nhà thờ chính toà trong thành xây toàn bằng đá hoa trắng, bày kính nhiều tượng quý rất đẹp, trông sầm uất như một buổi triều đông quan văn võ bái yết Đấng Thượng Đế. Chúng con đã được dịp quan sát kỹ lưỡng.


Có ít bà đi với chúng con rút rát quá, vừa mới lên được vài bậc thang tháp đền thờ đã bưng mặt trở lại. Mặc các bà, chị Céline và con, cứ theo những người bạo trèo lên tới ngọn tháp nhỏ nhất, cao chót vót. Đứng nơi cao ấy, chúng con được cái thú nhìn cả thành Milan quây quần dưới chân, coi người nào người nấy nhỏ như con kiến gió, mà chúng con thì to lớn ghê! Thưởng ngoạn xong, chúng con lấy xe đi thăm viếng các nơi danh thắng hết vừa một tháng. Cuộc viễn du bằng xe lần này làm cho thoả thuê mãi cái thú du lịch bằng xe hơi.


Nghĩa địa Campo Santo khéo léo đẹp lắm! Những tượng bằng đá hoa trắng, trạm chổ rất tài tình, trông như người thật, đứng rải rác trong cả cánh đồng rộng thênh thang; cách xếp đặt coi rõ khườn mà lại vui mắt lạ. Nom bộ diện các tượng y như người âu sầu rầu rĩ đau đớn ấy, ai cũng chạnh lòng muốn chạy đến an ủi. Thật là một cách phô diễn rất tài giỏi tinh thần sầu thương thê thảm, điềm đạm và tôn giáo! Kỳ công kiệt tác thay! Chỗ này, tượng một đứa trẻ đang rắc hoa trên mả bố, trông chẳng ai nghĩ được là người đá: Những cánh hoa mềm mại nắm ở tay rơi xuống nhẹ nhàng như thật ! Chỗ kia, tượng những bà chồng chết đang chùm khăn đứng tư lự gió bay rối rả cả khăn lẫn áo; lại mấy cô con gái trẻ, mồ côi cha, cũng bờ phờ đang đứng đấy, chẳng còn biết gì đến ngọn gió vô tình đánh phất phơ những dải lụa buộc tóc trên đầu.


Đang lúc chúng con chưa tìm được lời để tỏ chút lạ lẫm khen ngợi, một ông già vẫn theo chúng con đi, lẩm bẩm như khó chịu không muốn đồng tình với chúng con, ông nói lậu bậu rằng:


- Gớm! Những người Pháp sao mà dễ nhiệt thành niềm nở với!


Con trộm nghĩ ông tây khó tính này giá ở quách nhà thì hơn. Đi du lịch mà buồn bã quá, không ưa thích một cái gì hết, chỉ biết lẩm bẩm chê trách luôn miệng: chẳng tỉnh nào ông thích, chẳng khách sạn nào ông ưa, chẳng người nào ông vừa ý. Ông bất mãn với tất cả.


Cha, tính tình lại khác hẳn ông tây khó nết ấy; bất cứ gặp ông tây già ở chỗ nào, cha cũng bố bày vui cho ông; khi thì nhường chỗ trên xe, khi thì theo tính ôn tồn đại lượng sẵn có, giải hoà những điều ông thắc mắc, cố đưa ông đến chỗ hay trong công việc; dầu vậy cũng không mua vui cho ông được! Thế mới rõ bá nhân bá tính! Đó là bài học rất hay! Bài học cá tính ấy, toan giã đời mình mà học được cũng mừng!


Tỉnh Venise

Ở Venise, cuốn phim lại xoay khác hẳn. Thay vì những dinh thự đồ sộ nguy nga, phố xá rộn rã, người ta chỉ nghe văng vẳng trong im lặng những tiếng ồn ào của phu chở đồ những tiếng máy chèo chém nước. Tỉnh này cũng lắm vẻ đẹp mắt, nhưng tẻ lạnh. Chính dinh các quan tỉnh lộng lẫy khá mà cũng đượm vẻ buồn rầu. Đã từ lâu, trong toà không còn nghe sang sảng tiếng quan tỉnh quát tháo, hoặc tuyên án sinh tử cho tù tội. Những phạm nhân đáng tội tử hình cũng không còn phải cái khổ bị chôn sống trong ngục tối nữa.


Khi lần vào xem những ngục gớm ghiếc ấy, con có cảm giác mình đang sống đời các Thánh tử đạo. Nếu cần phải xưng đạo ra con vui lòng chọn ngục tối này làm nơi nghỉ; con đang ngẫm nghĩ thế, thì người hướng đạo giục đi. Con đã đi qua cái cầu gọi là cầu thở dài; gọi thế vì những tù phạm bị giam trong ngục tối chốn họ lấy làm cơ cực hơn phải tử hình, khi được tha, lúc bước lên qua cầu, họ thở dài vì đã thoát cực.


Từ giã tỉnh Venise, chúng con đã tới tỉnh Padoue kính viếng lưỡi ông thánh Antôn; tới tỉnh Bologne, kính viếng xác bà thánh Catarina, trên má còn in dấu hôn của Chúa Hài Đồng Giêsu.


Thành Loretta

Trên đường đi Loretta, con cảm thấy lòng vui sướng quá! Đức Mẹ đã khéo chọn chốn này để di nhà sang. Ở đây cái gì cũng khó khăn, cũng mộc mạc cũ kỹ: đàn bà còn ăn vận theo lối cổ dân tộc Ý; không như đàn bà các nơi thành thị khác, đua ăn mặc theo mốt Paris.


Thành Loretta như vậy đã vừa ý con lắm.


Con phải nói gì về nhà Đức Mẹ? Thật lòng cảm động rất sâu xa khi thấy mình được đứng dưới cũng một mái nhà như Đức Mẹ; khi được ngắm nghía những bức tường mà Chúa đã nhìn xưa; khi được đặt chân lên đất đã thấm nhuộm mồ hôi nước mắt Thánh Cả Giuse, và bàn chân thánh sạch Đức Mẹ đã đứng lúc cưu mang Con trong lòng, lúc ẵm con trên ngực đồng trinh cùng cho bú sữa! Con vào xem cả gian phòng Đức Mẹ đã chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Con bỏ tràng hạt con và bát Chúa ăn cơm. Ôi, những kỷ niệm quý báu dường nào!


Chúng con còn được điều an ủi hơn nữa: được chịu lễ trong chính nhà Chúa ở xưa, như thế là được trở nên đền thờ sống của Chúa trong cũng một nơi Chúa đã sống thuở xưa.


Theo lễ phép Rôma: nhà thờ nào cũng chỉ một bàn thờ được để Mình Thánh; và các thầy cả chỉ cho giáo hữu chịu lễ nơi bàn thờ ấy.


Ở Loretta bàn thờ để Mình Thánh thuộc về nhà thờ lớn bao chùm Nhà Thánh gọn lỏn bên trong như hạt kim cương quý giá gói trong chiếc hộp đá hoa trắng. Chúng con chẳng hài lòng chịu lễ ở bàn thờ thuộc về nhà thờ lớn, chúng con muốn ăn bánh các Thiên Thần trong chính hạt kim cương chớ không ăn trong hộp đựng kim cương. Cha thì tính vốn dễ dàng, cứ theo các người du lịch làm sao, cũng làm vậy; nhưng hai con gái của cha không chịu nước ấy, đã bảo nhau đi lại chỗ Nhà Thánh.


Cùng lúc ấy, một thầy cả được ơn riêng, đang dọn mình làm lễ ở đấy; chúng con tỏ ý ước ao để người hay, người liền xin hai bánh nhỏ đặt trên đĩa thánh rồi làm lễ. Mẹ ôi! Mẹ có đoán được hạnh phúc không lời nói hết này của chúng con chăng, hạnh phúc chịu lễ lần ấy. Thật là mừng rỡ vô cùng. Sau này khi chúng ta chịu lễ đời đời trên nhà Cha Cả thiên đàng, lòng mừng rỡ ấy còn cả thể biết chừng nào! Khi ấy chẳng phải lo hết vui, chẳng phải buồn vì phải ra về, chẳng phải cạo trộm chút vôi vữa ở tường Nhà Thánh như chúng con đã làm; vì chưng nhà Cha Cả đã nên nhà chúng ta đời đời.


Người chẳng muốn cho ta nhà Người ở dưới đất; chỉ bằng lòng cho ta xem, để nhân đó ta sinh lòng ái mộ sự khó khăn và quý trọng cuộc đời mai danh ẩn tích. Nhà Chúa dành cho ta là chính đền đài vinh quang rực rỡ của Chúa, trên đó chúng ta không còn thấy Chúa ẩn mình trong hình bánh, hay giấu thân trong hình con trẻ, một thấy Người tỏ tường trong sự uy nghi sáng láng tốt đẹp vô cùng.


Thành Rôma

Bây giờ mới là chuyện chính thành Rôma. Đến Rôma, con tưởng thế nào cũng được an ủi; mà ngán thay, con đã gặp Thánh giá nặng!


Khi xe tới Rôma, trời đã khuya lạnh; con đang thiu thiu ngủ trong toa, thì giật mình thức dậy vì những tiếng huyên náo ồn ào nói, và hành khách tíu tít reo mừng: Rôma! Rôma! Thật phen này đã đến Rôma, chớ chẳng còn phải là mơ Rôma nữa!


Ngày thứ nhất, chúng con dạo chơi ngoài châu thành; có lẽ ngày đó là vui thú nhất. Đâu đấy, các lăng tẩm đền dài, nhà cửa còn giữ nguyên lối cổ; đối lại, các khách sạn, các cửa hiệu to lớn trong thành kiến thiết theo lối tân rất xa hoa lộng lẫy! Đứng đó, người ta có thể ngờ mình đang ở Paris!


Cuộc dạo chơi những cánh đồng Rôma đã để lại nơi lòng con một kỷ niệm dịu thơm cách riêng. Con không biết lấy lời gì để tả lòng cảm xúc mạnh mẽ lúc đứng nhìn hí trường Colisée! Con đã được xem rõ ràng sân đua vật rộng rãi mà biết bao Thánh tử đạo anh hùng đã vì đạo ngãi, vì mến Chúa, chiến đấu cho đến thịt nát xương tan, cho đến giọt máu cuối cùng! Con đã nhăm nhe chực quỳ xuống hôn kính đất thánh đã biên chép hàng bao trận thắng oanh liệt của các thánh Tử đạo.


Người ta đã thi nhau đào bới hết của quý giá ấy rồi: chính sân đua vật đã lóm sâu hơn nền tám thước; lại bởi sự đào bới đó nên giữa sân thành nhiều ụ nhiều hố coi rất ngổn ngang; người ta đã đặt một hàng rào ngăn lối vào sân. Vả, cũng chẳng ai dám vào giữa nơi điêu tàn đổ nát cheo leo ấy!


Đã có công đến Rôma, chẳng nhẽ lại không xuống tới sân đua vật hí trường Colisée? Không, không thể thế được! Mặc người hướng dẫn cắt nghĩa thế nào thì cắt nghĩa, con không nghe nữa; con chỉ nhất thiết xuống cho tới sân đua vật!


Trong Phúc Âm kể rằng bà Madalena gan lắm, không chịu về, cứ ở lỳ lại nơi mồ Đức Chúa Giêsu, cúi đầu vào, dòm đi dòm lại phía trong mồ và kết quả: bà đã xem thấy hai Thiên Thần.


Con cũng bắt chước bà, cứ lân la cúi xuống, bước vào và cũng kết quả, chẳng phải là được trông hai Thiên thần, mà là gặp thấy chính sự con muốn tìm. Con mừng rỡ quá, gọi to chị Céline rằng:


- Chị Céline ôi! Lại đây đi với em, em xem có thể vào được lắm.


Đoạn hai chúng con cứ bước sắn vào, trèo cả lên những đống gạch vữa đổ dưới chân; cha ở đằng xa, thấy chúng con quá táo bạo, cứ gọi dồn dập, nhưng hăm hở quá, chúng con chẳng nghe thấy gì.


Ví như những binh tướng ngoài mặt trận, lúc vào chiến, càng thấy cheo leo thì lòng càng cảm khái, càng hăng hổ; chúng con cũng vậy, càng thấy khó nhọc và cheo leo, thì lòng vui càng khoái trá càng nhất thiết vượt cho đến đích kỳ vọng.


Chị Céline sáng suốt hơn con, khi nghe người hướng dẫn nói, chị nhớ được câu này: ở chỗ có hòn đá khắc chữ thập là chính nơi các Thánh tử đạo đã thắng trận xưa. Chị đã chú ý tìm hòn đá ấy. Một lát liền tìm thấy ngay: hai chị em chúng con cùng quỳ xuống nơi đất tốt lành ấy, hai linh hồn hoà hiệp sốt sắng trong một lời cầu nguyện thiết tha... Khi con cúi xuống hôn đất đã thấm máu các thánh Tử đạo, lòng con hồi hộp quá! Môi con được chạm và dính lấy những bụi hồng... Con đã nài xin Chúa ban cho con được phúc chết vì mến Chúa, mà lòng cảm thấy như Chúa đã đắt lời cầu xin ấy.


Giây phút nghiêm trọng quý hoá này cũng chẳng được lâu. Chúng con vội nhặt lấy mấy viên đá nhỏ, rồi quay lại phía tường mà lần trở lại. Cuộc mạo hiểm đã thành công! Cha thấy chúng con mặt mày hớn hở mừng rỡ, cũng chẳng nỡ quở trách; lại xem có phần hiên ngang vì hai con can đảm.


***


Kính viếng hí trường Colisée xong, chúng con lại đi thăm hang Catacombes. Trong hang, hai chị em lại cố chui vào tận cùng mồ của Thánh Nữ Cêcilia mà nằm chung ở đấy với nhau một lúc, rồi bốc một ít đất thánh nơi mộ làm kỷ niệm.


Trước đi Rôma, thật tình con không có lòng kính riêng Thánh nữ Cêcilia chút nào, nhưng từ khi được vào viếng mộ và nơi Thánh nữ chịu tử đạo lại nghe thấy thiên hạ tặng khen Thánh nữ là Nữ hoàng ca nhạc vì có cung giọng rất du dương êm ái, thuở bình sinh đã hết lòng hát vãn đồng trinh cho Bạn Thánh nghe, con thấy lòng mộ mến lắm, chí thiết quá tình chị em. Từ đó, con quý mến Thánh nữ vào hàng nhất, hay tỏ bày tâm sự cùng Người. Thánh nữ Cêcilia đã nổi về hai nhân đức mà con rất mộ mến: đức phó mình và đức trông cậy phi thường.


Với hai nhân đức ấy, Thánh nữ đã có thể “đồng trinh hoá” những linh hồn chỉ ước ao sự vui sướng thế gian, ưa đắm mình trong khoái lạc hôi tanh nhơ nhớp. Người rất giống bạn tình trong Ca Đệ Nhất. Ở nơi Người, con trông thấy hội nhạc như ở bãi chiến  . Cuộc đời Người chỉ là một ca khúc du dương, cả những lúc bị gian nan tân khổ rất mức; nhưng điều đó chẳng làm con lạ, vì sách Phúc Âm hằng nằm trên trái tim Người   và bên trong trái tim, Bạn Thánh các kẻ đồng trinh cũng hằng nằm an nghỉ.


Chúng con đã vào viếng đền thờ thánh Agnès. Lòng cũng dịu dàng vui thú lắm. Trong thánh đường, con đã được hân hạnh gặp bạn cố tri lúc nhỏ. Con đã cố lấy chút di vật đem về biếu chị Agnès de Jésus, mà không có thể. Người ta nhất định không cho, nhưng Đức Chúa Trời bằng lòng cho: Tự nhiên một mảnh đá hoa sắc hồng hào rất đẹp ghép ở tường từ đời Thánh Nữ chịu tử đạo rơi ngay xuống chân con.


A, đẹp đẽ thay! Sướng thay! Chính tay Thánh Nữ Agnès lấy quý vật nhà mình để đãi con.


Vào triều yết Cửu Trùng

Chúng con thăm viếng các nơi danh thắng thành Rôma vừa hết sáu ngày, sang ngày thứ bảy, chúng con được vào triều yếu Đức Giáo Hoàng Leo XIII.


Đây mới là nơi danh thắng nhất, nguy nga nhất, đẹp đẽ rực rỡ nhất! Hôm nay là ngày vừa mừng vừa lo, rất quan trọng đến ơn kêu gọi của con. Bởi con chưa được thư Đức Cha địa phận Bayeux trả lời, nên chỉ còn hy vọng ở phép rộng Đức Thánh Cha ban thôi. Nhưng cho được phép rộng ấy thời phải xin; mà xin thời phải có can đảm dám thân tâu Đức Thánh Cha trước triều đình có đông đủ các quan văn võ, các Đứng Hồng Y Tể Tướng, các Đức Tổng Giám Mục và Giám Mục! Ôi mới nghĩ mà đã thất kinh hồn, đã choáng váng cả đầu óc!


Vậy sáng Chúa nhật 20 tháng 1, chúng con vào xem lễ Đức Thánh Cha làm trong đền Vatican, ở nhà nguyện riêng Người. Đúng 8 giờ, Đức Thánh Cha làm lễ. Trong khi tế lễ Chúa, Người sốt sắng nghiêm trang lắm, thật rất xứng đáng Đấng thay mặt Chúa ở dưới đất, xứng đáng là Cha rất thánh!


Bài Phúc Âm lễ ngày ấy nhắc lại lời Đức Chúa Giêsu phán xưa rằng: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ kia, đừng lo sợ, Cha Ta đã vui lòng ban nước Người cho bây”  . Con nghe lời ấy, rất đỗi vui mừng mạnh mẽ cậy trông ở Chúa. Con không còn sợ hãi gì, chỉ đinh ninh chầy kíp sẽ được vào ở nước Carmel.


Phải khi ấy con suy thêm lời này nữa: “Như Cha Ta đã dọn nước cho Ta thế nào, Ta cũng dọn nước cho các ngươi như vậy”  . Nghĩa là Ta để dành cho các ngươi nhiều thánh giá phải vác, nhiều gian nan phải chịu, có thể các ngươi mới xứng đáng vào nhận lấy nước Ta trị. – Chúa Giêsu cũng cần phải chịu đau khổ nhiều mới tới bước vinh quang của Người  . Nếu các ngươi muốn được ngồi hai bên tả hữu Người, các ngươi cũng phải uống chén cay đắng Người đã uống”  .


Đức Thánh Cha làm lễ và cám ơn xong, Người ra ngự triều ngay.


Người ngự trên bệ ngọc, vận đơn sơ chiếc áo trắng dài và áo khoác vai cũng trắng. Chung quanh bệ rồng có đông đủ các chức vị sang trọng, các đấng bậc uy quyền trong phẩm trật Hội Thánh đứng chầu oai nghi phép tắc.


Theo phép triều, mỗi người vào bái yết Cửu Trùng, phải cứ lần lượt đến quỳ trước ngai vàng, kính cẩn hôn chân rồi hôn tay Đức Giáo Hoàng, đoạn nhận phép lành Ngài ban; sau đó, hai viên lính thị vệ lấy ngón tay sẽ chạm làm hiệu cho người ta chỗi dậy, sang phòng khách để lượt người sau.


Khi ấy chẳng ai nói lời gì, im lặng như tờ, nhưng con đã nhất định thể nào cũng tâu việc xin vào Dòng. Bỗng đâu, Cố Chính Révérony đứng hầu bên hữu Đức Thánh Cha, bảo lên hiệu mọi người phải im lặng, cấm ngặt không ai được tâu Đức Thánh Cha điều gì.


Con quay ngay chị Céline đưa mắt hỏi chị làm thế nào; trái tim hồi hộp quá lẽ.


- Em cứ tâu! Chị con khẽ bảo thế.


Khi đến lượt con vào chầu Đức Thánh Cha, con hết lòng cung kính quỳ trước tôn nhan Người. Con hôn giày xong. Người giơ ngay tay cho con hôn. Khi ấy con ngẩng mặt đầy nước mắt nhìn Người con tha thiết cầu xin rằng:


- Lạy Cha rất thánh! Con xin Đức Thánh Cha khấng ban cho con mọn một ơn rất trọng!


Đức Thánh Cha liền cúi đầu bạc xuống tôn nhan Người hầu áp mặc con mọn; trông hai con mắt đen nhánh và sầu như muốn nhìn suốt linh hồn con.


Con tâu lại rằng:


- Lạy Cha rất thánh! Xin Cha chuẩn cho con mọn được vào Dòng Kín 15 tuổi!


Cố Chính Révérony nghe vậy thì sửng sốt không bằng lòng, liền tâu ngay rằng:


- Muôn tâu Đức Thánh Cha, trẻ này ước ao vào Dòng Kín; nhưng các đấng Bề trên còn đang xét việc chưa xong.


Đức Thánh Cha phán rằng:


- Vậy hỡi con, con hãy cứ vâng lời các Đấng Bề trên sẽ chỉ định.


Con liền chắp hai tay đặt lên đầu gối Đức Thánh Cha, thảm thiết nài xin rằng:


- Thân lạy Cha rất thánh, nếu Cha ưng, thì mọi người đều muốn hết.


Đức Thánh Cha liền nhìn con cách yêu dấu lắm, và trịnh trọng phán rõ ràng từng tiếng một rằng:


- Ừ được... Ừ được... ví bằng Chúa muốn con vào, con sẽ vào.


Con đang toan tâu thêm thì hai viên lính hầu Đức Thánh Cha mời con chỗi. Các ngài thấy mời không xuôi liền lấy tay lôi con dậy, cả Cố Chính cũng mó tay vào việc lôi kéo này, bởi vì bấy giờ hai tay con vịn chặt lấy đầu gối Đức Thánh Cha. Trong lúc phải lôi như thế, Đức Thánh Cha dịu dàng đặt tay lên môi con đoạn giơ lên làm phép lành, và cứ nhìn theo con mãi tỏ tình Cha thương con chí thiết.


Cha được vào chầu Đức Thánh Cha trước, nên không rõ công việc con, lúc thấy con ở phòng chầu bước ra còn sùi sụt khóc, người khó chịu lắm. Về phần cha, Cố Chính đã ở hết tình yêu quý, đã giới thiệu với Đức Thánh Cha có hai con ở nhà Kín. Nghe lời giới thiệu, Đức Thánh Cha liền tỏ lòng yêu quý cha cách riêng. Người đặt bàn tay ngọc Người lên đầu bạc cha, dường như lấy danh Chúa mà in dấu mầu nhiệm vào.


Ôi! Ngày nay cha đang ở trên trời cha được bốn con vào Dòng Kín! Rầy chẳng phải tay Đấng Đại diện Chúa đặt lên trán cha mà báo trước những của lễ còn phải tế lễ Chúa nữa; một là chính tay Bạn các kẻ đồng trinh, chính tay vị Vua Cả trởi đất ôm ấp cha, và tay cực thánh ấy sẽ chẳng khi nào rời trán hiển vinh sáng láng cha nữa.


Cơn sầu này thật là rầu rĩ cả thể; nhưng bởi con chỉ muốn hoạt động theo sức con có thể để đáp lời Chúa gọi nên con thú thật rằng đã bao phen nước mắt chan hoà mà lòng vẫn lặng lẽ bình an. Song sự bình an này lắng chìm tận đáy lòng, còn sự cay đắng thì như nổi lều phều ứa lên tới miệng... Đức Chúa Giêsu cứ thản nhiên như vô sự, như vắng mặt... không tỏ dấu gì ở cùng con cả.


Ngày buồn bã ấy, mặt trời cũng không dám ra mặt: bầu không trung đẹp đẽ, xanh biếc của nước Ý cũng nặng trĩu những tầng mây u ám thảm sầu, và đã cùng con khóc để chia buồn! Ôi! Thế là hỏng việc rồi. Cuộc hành trình từ đây chẳng còn chút gì vui thú nữa, sái đích rồi!


Nhưng đáng lẽ con nên vui mừng và an ủi mình vì mấy lời sau hết Đức Thánh Cha đã phán và nên coi như lời tiên tri, vì chưng dù trở ngại mấy, nhiêu khê mấy, Chúa đã muốn thì phải nên trọn: Chúa không cho phép ta muốn làm gì thì làm, ta phải làm theo ý Chúa mà chớ.


Trước đây, con đã tự dâng mình làm đồ chơi nhỏ của Chúa Hài Đồng Giêsu. Con đã xin Chúa đừng xem con như một đồ chơi quý mà trẻ chỉ được nhìn thôi, chớ chẳng được mó đến; một coi con như quả bóng nhỏ rẻ tiền, vất đâu cũng được, đấm hay đá cũng chẳng sao, có chọc thủng rồi đem bỏ xó hay muốn ôm ghì vào lòng cũng tuỳ sở thích. Tắt một lời, con chỉ muốn làm Chúa vui, và muốn Chúa nô đùa con cho thoả thích.


Lời cầu xin ấy vừa được Chúa nghe xong! Ở Rôma Chúa đã chọc thủng quả bóng nhỏ của Người... chắc là Người muốn xem bên trong nó thế nào... và khi xem đắc rồi, Người vất nó lăn lóc dưới đất mà nằm ngủ.


Trong giấc ngủ êm ái ấy, Chúa có mơ gì không, và quả bóng vất xó kia thế nào?


Chúa mơ vẫn còn chơi bóng, hết cầm lên lại bỏ xuống, lại đá đi thật xa, lại chạy theo vồ lấy ôm chặt vào lòng rồi không còn rời quả bóng khỏi tay lúc nào nữa.


Thưa Mẹ, chẳng nói Mẹ cũng rõ nỗi buồn của quả bóng khi bị bỏ lăn dưới đất! Tuy thị thế, quả bóng vẫn giàu lòng trông cậy.


Hồi hương

Sau ngày 20 tháng 1, cha đưa chúng con đến thăm một thầy Dòng nhân đức lắm tên là Fèrè Siméon, đã sáng lập và hiện đang làm giám đốc trường Thánh Giuse. Khi chúng con đến thì đã thấy Cố chính Révérony đang ở đấy rồi. Cha có hơi trách yêu Cố Chính vài lời vì không nói đỡ con trong công cuộc khó khăn của con; rồi người thuật lại chuyện cho Frère Siméon nghe. Thầy Dòng tuổi tác tốt lành này nghe tỏ bộ thích chí lắm, thầy có ghi lấy ít điều vào cặp nhỏ, rồi nói cách cảm động rằng:


- Ở Ialie, không thấy chuyện thế này bao giờ!


Tỉnh Naples và Pompei

Hôm sau ngày chầu Đức Giáo Hoàng, chúng con phải trẩy đi tỉnh Naples và Pompei. Như để chào mừng chúng con đã đến, núi phun lửa Vésuve nổ nhiều tiếng to như tiếng súng đại bác, và miệng núi khóc bốc lên đen sũi ngùn ngụt. Những hoả hoạn thành Pompei phải chịu vì núi phun lửa còn ghi dất rất tang thương, rất điêu tàn! Trông phải giùng mình ghê sợ. Thật là chứng tỏ quyền phép Chúa trông đất, đất chuyển động, đá đến núi, núi hoá nên tro bụi  .


Giá cõi lòng không ôm ấp một cảnh tĩnh mạc khác; có lẽ con đã ước ao được một mình đi lại giữa nơi điêu tàn này để chiêm nghiệm sự giòn mỏng thế gian.


Ở tỉnh Naples, chúng con được một cuộc ngoạn cảnh rất thú, cuộc lên thăm nhà Dòng San Martino, xây trên ngọn đồi cao nhất thành. Nhưng đến khi xuống xe về, ngựa sinh chứng lồng dữ quá con tưởng giá không có Thiên thần bản mệnh phù phộ, chắc rằng còn thân làn lặn mà về tới khách sạn.


Khách sạn chúng con trú lần này sang trọng lắm. Từ bắt đầu cuộc hành trình Rôma, con chưa thấy khách sạn nào chững chạc bằng, tuy những khách sạn chúng con đã ở đều lo lớn lịch sự. Cũng là dịp để nói: phú quý chẳng làm nên hạnh phúc. Với hy vọng được vào Dòng Kín, dầu phải ở nhà tranh vách đất, con sung sướng hơn ngàn lần ở nhà cao rộng, có thang đá hoa, có màn lụa lĩnh, nằm đệm nhiễu, đắp chăn nhung mà phải sầu cay trong cõi lòng son.


Ôi! Con nhận thấy rất thật rằng sự vui không ở trong các vật chung quanh ta, một ở thẳm sâu trong tâm hồn. Người buồn cảnh có vui đâu! Ngồi trong ngục tối, người ta có thể được vui bằng ngồi trong điện vua chúa. Bởi vậy được vào Dòng Kín, dù con phải khổ trong khổ ngoài chừng nào, con cũng lấy làm vui sướng hơn bội phần ở thế gian với mọi sung sướng, với cả sự được nâng hứng chiều chuộng trong chốn vui gia đình.


Tuy lòng con phải đắm chìm trong buồn bã; bề ngoài con vẫn thản nhiên như thường! Sở dĩ con muốn giấu không muốn để ai biết việc đã tâu Đức Thánh Cha. Nhưng chẳng mấy chốc câu chuyện đã bị lộ. Duyên cớ thế này: Một hôm, chỉ còn con với chị Céline ngồi lại xe, các hành khách xuống hàng tất cả. Con thấy Đức Cha Legoux ra đứng ngoài cửa xe. Người nhìn con kỹ càng lắm, rồi mỉm cười nói:


- Sao, bà Dòng Kín của chúng tôi thế nào?


Bấy giờ con mới hiểu là cả đoàn du lịch đã biết việc con rồi; lại có nhiều người nhìn con cách thương tình lắm, chỉ được điều là không ai hỏi han gì con về công việc đó thôi.


Về đến thành Assise, lại xảy ra một chuyện cũng hay hay. Khi đã thăm những nơi lừng tiếng nhân đức của thánh Phanxicô và bà thánh Clara mà ra về, con sờ thấy đã rơi mất cái khoá dây lưng ở nhà Dòng. Hối hả con lộn lại tìm và mắc vào dây xong thì bị nhỡ xe. Ra tới cổng nhà Dòng, các xe đã chạy hết, chỉ còn xe Cố chính cũng ình ịch sắp sửa chạy! Làm sao bây giờ? Chạy đuổi những xe đã đi khuất, liều mình phải nhỡ chuyến tàu hoả, hay là lạy van Cố chính xin một chỗ ngồi? Phân vân...! Nhưng cho chắc việc, con đã nhất định lạy van.


Bây giờ con làm ra bộ không cuống quýt gì cả, mặc dầu lòng cuống quýt lắm con thưa sự thể với Cố Chính. Chính ngài lại cuống quýt không biết phải liệu làm sao vì xe ngài cũng hết chỗ rồi. Nhưng một ông ngồi trong xe vội vàng bước xuống nhường chỗ cho con và chạy lên ngồi ghẹ bên cạnh người đánh xe.


Khi ấy con như con sóc giập phải lưới không thể làm sao để chịu được. Chung quanh toàn những chư tôn liệt vị, nhất là cái khổ phải ngồi đối diện người mình kinh khiếp nhất. Nhưng Cố chính lại tỏ lòng yêu quý con lắm, thỉnh thoảng dừng chuyện để nói về Dòng Kín với con. Cố đã hứa sẽ hết sức giúp việc con vào Dòng 15 tuổi.


Lần hội ngộ này con thấy vết thương lòng được dìu dịu, nhưng vẫn còn đau. Con đã mất hết hy vọng ở người thế gian con chỉ còn trông cậy một mình Chúa thôi.


Từ Florence về Lisieux

Dầu lòng phải âu sầu, buồn bã, song con vẫn lấy sự được kính viếng những nơi Thánh làm ơn ích rất trọng.


Ở thành Florence, con được viếng xác bà Thánh Madalena đệ Pazzi đặt ở giữa nhà nguyện Dòng Kín. Các người đi viếng đất Thánh, ai ai cũng muốn đá tràng hạt vào mộ Đấng Thánh, nhưng tay to không thò vào được; chỉ có tay con nhỏ lọt được phên giậu sắt chắn ở ngoài mà thôi. Con đã được hân hạnh giúp mọi người công việc quý trọng ấy trong một giờ lâu và rất được tự hào.


Cũng không phải lần đây mới là nhất sơ, mà con được ơn hơn người. Ở Rôma, khi vào viếng đền thờ kính Thánh giá Đức Chúa Giêsu, con đã được xem nhiều mảnh gỗ Thánh Giá với hai cái gai và một đanh sắt. Con muốn xem kỹ hơn nên đã nhẩn nha vào xem sau. Khi thầy coi việc toan đem những của châu báu ấy cất lên bàn thờ, con hỏi thầy rằng có được đá đến không. Thầy trả lời được vì tưởng tay con chẳng thể với tới. Con liền đưa ngón tay út vào khe hòm, chạm tới chiếc đanh đã dính máu Thánh Chúa. Thật con ở với Chúa như một trẻ tưởng mình muốn làm gì cũng được, coi của châu báu Cha Cả như của mình.


Chúng con còn qua hai tỉnh Pise và Gênes mới về tới biên giới nước Pháp. Trên đường gặp nhiều phong cảnh rất thi vị. Khi thì xe chạy men theo bờ biển, một hôm gặp phong ba nước biển dâng lên, sóng biển ùa vào tới đường xe chạy, tung nước mặn lên như muốn té ướt chúng con. Khi thì xe chạy trên những cánh đồng giồng cam giồng Oliva, cấy gồi trông vui mắt lắm. Đến chập tối, dưới đất các cửa bể rực rỡ sáng, trên không vòm trời xanh biếc lấp lánh sao vàng... Cảnh thần tiên này qua đi cũng chẳng tiếc, lòng chỉ mơ ước và nơi bồng lai non nước khác.


Cha lại tỏ ý muốn cho con sang viếng thành Giêrusalem: dĩ nhiên con thích sang kính viếng những nơi thánh địa đã in lốt chân Chúa thuở xưa; song vì du lịch ở chốn khách đày bằng ấy cũng đủ nhọc rồi, con chỉ ước ao ngắm cảnh đẹp trên trời; và để đưa các linh hồn lên nghỉ ngơi thanh nhàn ấy, con muốn được mau chóng bỏ tù mình trong Dòng Kín.


Ôi! Con cảm thấy rằng cho đến ngày được xem thấy cửa ngục hồng phúc ấy mở cho con vào, con còn phải chiến đấu, còn phải đau khổ nữa; nhưng lòng cậy trông vẫn vững vàng, con vẫn hy vọng vào Dòng ngày 25 tháng chạp, ngày lễ Sinh Nhật.


Vừa về đến Lisieux, chúng con vội vã vào thăm nhà Kín trước hết. Cuộc gặp gỡ lần ấy thế nào, chắc Mẹ còn nhớ rõ.


Phần con, con đã hoạt động hết sức rồi, con giao phó mặc Mẹ lo liệu. Mẹ liền bảo con viết thư ngay sang Đức Cha trình lại lời Ngài hứa xem thế nào; con đã vâng viết ngay. Thư bỏ trạm rồi, con tưởng chầy kiếp sẽ được tung cánh bay ngay. Nhưng mỗi ngày mỗi ngán! Cánh hồng mong mà chẳng thấy! Lễ Sinh Nhật đến, Chúa Giêsu vẫn còn ngủ. Quả bóng nhỏ Chúa vất xó vẫn còn ở xó, chẳng được một cái nhìn!


Nguồn sầu ứa lên, cơn thảm kéo đến, thật là gớm ghê ghê gớm! Nhưng Đấng mà lòng chỉ biết thương, biết yêu đã dạy con rằng: đối với một linh hồn có đức tin bằng hạt cải, Người cho làm phép lạ để lòng tin nhỏ hẹp ấy được thêm mạnh mẽ; chí như đối với những bạn thân thiết Chúa, đối với Đức Mẹ, Người lại thử thách lòng tin trước đã, rồi mới làm phép lạ sau.


Nào xưa Chúa đã chẳng để Lazaro chết, dù hai bà Martha và Maria đã cho đến báo tin ông ấy ốm? Nào, trong bữa tiệc cưới thành Cana, Chúa đã chẳng trả lời Đức Mẹ xin giúp chủ nhà: chưa đến giờ? Nhưng mà thử xong thì thưởng liền: nước trở nên rượu! Lazaro sống lại!... Nay Chúa cũng xử đãi Têrêsa mọn của Chúa như thế: thử thách rất lâu rồi ban ơn rất hậu.


Thư Đức Cha Hugonin

Ngày Tết năm 1888, Đức Chúa Giêsu lại gởi mừng tuổi con một thánh giá. Mẹ Maria de Gonzague viết thư cho con báo tin rằng đã nhận được thư Đức Cha ngày 28 tháng chạp, ngày lễ các Thánh Anh Hài. Cứ như thư Đức Cha thì con nhận vào Dòng ngay, nhưng nhà Dòng đã định mùa Chay qua mới mở cửa.


Nghĩ đến phải hoãn lâu dường ấy, con không thể cầm nổi nước mắt! Càng nghĩ càng héo hắt: Đã qua luỹ ngoài, lại mắc thành trong, đâu đó trắc trở đã yên, chính tổ lại đuổi chim non!


Ba tháng chờ đợi ấy, ơn Chúa cũng lắm, đau khổ cũng nhiều đã qua đi thế nào?


Trước hết con nghĩ ngay rằng không nên bó buộc mình quá, nên giảm bớt cách sống quá luật phép trước đi cho khuây lòng; nhưng rồi Chúa đã cho con hiểu biết giá trị của thời hạn trì hoãn, nên con lại quyết chí sống nhiệm nhặt và hãm mình nhiều.


Khi nói hãm mình, con không có ý nói những cách hãm mình của các Thánh. Con chẳng dám sánh mình cùng những linh hồn mạnh mẽ đẹp đẽ từ thuở thơ ấu đã phạt mình đánh tội đủ thế đủ cách; phận hèn con chỉ biết hãm mình là bỏ ý riêng, không đôi chối, giúp đáp chị em những việc lặt vặt mà chẳng kể công và ngàn việc nhỏ nhặt khác như vậy.


Bằng cách thi hành những việc không đáng gì đó con sửa soạn để trở nên vị hôn thê Chúa Giêsu.


Thời gian phải chờ đợi mà mong đêm ngày này đã giúp con tiến tới nhiều trên đàng nhân đức, nhất là đức phó mình và đức khiêm nhượng: Có nói cũng chẳng thể nói cho cùng...




CHƯƠNG VII: TÊRÊSA VÀO DÒNG KÍN


Thứ hai, ngày 9 tháng 4 năm 1888 là ngày con được vào Dòng Kín. Hôm ấy nhà Dòng mới mừng lễ Truyền Tin mùa Chay hoãn lại.


Tối trước ngày biệt ly, toàn thể gia đình họ hàng bà con thân thuộc cùng ngồi quây quần một mâm cơm, con là người ăn bữa sau hết! Trong bữa cơm giã này, đã nói biết bao lời chia biệt não nùng, thương nhớ. Ai ai cũng cố ý gượng vui cho quên sầu, thì ai ai cũng cứ bật miệng ra những lời từ giã thâm thiết quá, đau đớn quá, thành thử lòng càng thêm xót, ruột càng thắt chặt, cảnh biệt ly càng thêm lai láng!...


Sáng ngày sau, lúc còn tinh sương, con đưa mắt nhìn trại Buissonnets, nhìn tổ êm ấm đã nằm bấy lâu lần sau hết rồi bước ra đi về phía Nhà Kín. Những thân tình cốt nhục đã đến hợp mặt lần sau hết tối qua, sáng nay cũng đi xem lễ hết, và ngồi chung quanh con. Khi lên chịu lễ, con nghe lòng sầu bi ai nấy đều nấc nở. Riêng con, con không rơi hạt nước mắt nào; nhưng đến lúc phải đứng lên đi lại phía vào nhà trong, trái tim con rung động mạnh mẽ quá, con đã hỏi mình là giờ chết chăng!


Chao ôi, giây phút quá nghiêm trọng! Lòng đau dường bằng cơn hấp hối. Ai không trải qua, quyết không hiểu ra.


Từ giã bà con thân quyến đoạn, con quỳ xuống trước mặt cha, xin người chúc lành cho con. Cha cũng quỳ xuống vừa chúc lành vừa nức nở khóc, hạt châu lệ tầm tã như mưa. Thật là bức phông ai xem cũng phải chạnh lòng, các Thiên thần nhòm xuống không thể nín cười. Ông già râu tóc trắng xoá đem con gái đang xuân mơn mởn tế lễ Chúa!


Khi con vừa bước vào trong, cửa nhà Dòng liền đóng sập lại! Đồng thời các chị yêu dấu chạy đến hôn con âu yếm lắm, rồi cả chị em nhà Dòng cùng đến ôm con mừng rỡ chí thiết, ngoài thế gian khó có mối tình thân ái chân thành và yêu thương dường ấy.


Thế là mong đợi đã qua, bao nhiêu mong ước đã thành sự thật! Khi ấy linh hồn con cảm thấy bình an thư thái dịu dàng man mác, toả trong khắp mình, không thể nói được. Đã ngót chín năm nay sự bình an ấy hằng vẫn ở trong mình con, cả những lúc gian truân khổ sở rất mực, lòng con vẫn thấy nhẹ nhàng bình tĩnh.


Vào nhà Dòng, con thấy mọi cái mọi vui; con ngờ mình đã đi đến một cảnh rừng thanh vắng! Cái phòng nhỏ con ở, càng làm con vui thích.


Nhưng thưa Mẹ, con nhắc lại, hạnh phúc của con đây rất phẳng lặng yên hàn, dường như ngọn gió nam nhẹ đưa chiếc thuyền con lướt trôi trên mặt nước lặng như tờ mà không làm gợn sóng lăn tăn. Vòm trời xanh của con cũng chẳng thấy mảnh mây nào vẩn vơ trôi. A! Gian nan sinh hạnh phúc! Nay con thấy mình được thưởng trọng hậu lắm. Con rất vui mừng khoan khoái mà nhắc lại lời này: “Rày tôi được ở đây cho đến chết!”.


Những gian nan đầu tiên

Hạnh phúc của con chẳng như mây toả khói tan, có đấy rồi lại mất đấy, cũng chẳng bày xoá như những sự háo hức buổi đầu. Háo hức! A, Chúa đã thương chẳng để con phải tính háo hức. Trước con đã tưởng tượng nhà Dòng làm sao, rầy con cũng nhận thấy như vậy, không một hãm mình phạt xác nào phép Dòng dạy làm mà con bỡ ngỡ và thưa Mẹ, Mẹ đã biết đấy, khi con mới vào Dòng, con đã giẫm bước phải nhiều chông gai hơn là gặp hoa đẹp.


Trước hết, linh hồn con phải khô khan cay cực như của nuôi mình hằng ngày. Đoạn Chúa để Mẹ Bề trên xử với con rất thẳng nhặt mà chính Người cũng không ngờ. Chẳng lần nào con gặp Người mà không bị một vài lời quở trách. Con nhớ một lần quét nhà để sót màng nhện trong hiên. Người đã trách con trước mặt chị em rằng: “Ai chẳng biết trẻ 15 tuổi đã quét nhà! Thật là tội nghiệp! Thôi, con đi nhặt màng nhện ấy đi, và từ rày phải làm kỹ lưỡng hơn”.


Thoảng hoặc khi có việc phải lên Người từng giờ, con cũng bị mắng hầu cả giờ, nhưng cái khổ ấy chưa bằng cái khổ con không biết cách phải sửa mình làm sao, thí dụ: sửa tính chậm chạp, sửa thói ít nhiệt thành trong các việc phải làm.


Một ngày kia, con đã nghĩ có khi Người muốn con dùng những giờ thong dong mà con thường đọc kinh để làm việc chăng nên con cứ cắm đầu ngồi khâu vá, chẳng ngẩng mặt lên chút nào, cũng chẳng để ai biết, con chỉ cốt ở sao cho trung thành như tôi ngay con thảo, con chỉ muốn làm việc để một mình Chúa biết.


Trong kỳ thử, chiều nào cũng tư rưỡi, Mẹ coi nhà tập sai con ra vườn làm cỏ, làm cỏ thì khó gì, nhưng cái khó cho con là ra được tới vườn, hầu như lần nào cũng gặp Mẹ Maria de Gonzague ở lối đi. Một lần Người trách con rằng:


- Thế thì trẻ này không làm gì à? Tập tành chi mà ngày nào cũng phải cho đi chơi thế này!


Ấy trong bất cứ việc gì, Người cũng xử với con như thế.


Ôi! Mẹ yêu dấu, con phải đội ơn Chúa dường nào! Người đã thương cho con được giáo huấn một cách rất nghiêm khắc, rất quý hoá! Đó là ơn vô giá! Giả như con được chiều chuộng như quý vật trong nhà Dòng theo như người đời nghĩ, thì làm sao? Có lẽ con không còn biết nhìn nhận các Bề trên là kẻ thay mặt Chúa, một trông như người thường, và chút công phu giữ lòng son sẻ bấy lâu ở thế gian, khéo đã phải vương vấn trong chốn viện tu cũng chửa biết chừng! Phúc cho con! Tai nạn ấy, con đã được đề phòng rất chu đáo.


Con có thể nói đừng kể những ưu tư trầm phiền vừa kể, còn nhiều nỗi gian nan cay cực hơn nữa, sự đau khổ đã bắt tay con ngay từ lúc bước chân vào Dòng, nhưng càng gian nan, lòng con càng ham chịu khó, càng phải uống chén đắng, lòng mến Chúa càng thấy ngon ngọt. Lập trường mà con quyết thi hành trong Dòng Kín, con đã cung khai trong bản dự án đại thể thảo sẵn trước ngày lễ Khấn rằng:


“Tôi vào Dòng để lo cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại, nhất là cầu nguyện nhiều cho hàng Giáo sĩ nên trọn lành thánh thiện!”.


Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ nhiên người ấy phải dùng phương thế. Đức Chúa Giêsu đã cho con biết phương thế cứu vãn các linh hồn là Thánh giá, cho nên càng gặp nhiều Thánh giá, lòng ái mộ chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm vừa qua, con đã bước đi đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm để ý mà con muốn dâng tiến Chúa đấy. Hoa mọn này có chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi.


Con vào Dòng mới được hai tháng, Cha Pichon Dòng Tên đã phải ngạc nhiên về cách Chúa hoạt động trong linh hồn con. Cha tin tưởng vào lòng sốt sắng ngây thơ của con, và đường lối rất êm dịu con đi. Giả như khi ấy con biết cởi mở tâm hồn cùng người cách dễ dàng, hẳn là lòng con đã được an ủi biết chừng nào! Tuy nhiên con đã được xưng tội chung với cha một lần, lần ấy cha bảo con rằng:


- Cha xin nói trước mặt Chúa, trước mặt Đức Mẹ Đồng Trinh, các Thiên thần và các Thánh Nam Nữ rằng: Con chưa phạm tội trọng nào bao giờ, con hãy đội ơn Chúa vì ơn rất trọng ấy, thật chẳng phải bởi công lênh con”.


Ôi! Con vẫn tin tưởng thế, con chẳng có công lênh gì, lại còn hèn sức yếu đuối là khác, lòng con duy chỉ có đầy sự nặng nghĩa tri âm mà thôi. Xưa nay con những lo sợ hoặc đã làm hoen ố áo trắng sạch phép Rửa tội, rày thấy chính miệng Đấng chỉ dẫn linh hồn vừa thông thái, vừa nhân đức như Mẹ Thánh Têrêsa ước ao, phân phô cho thế, con nghe như chính Chúa phán. Cha lại bảo con rằng:


- Hỡi con, con hãy lấy Chúa làm Bề Trên, làm Thầy dạy, coi sóc con hằng ngày.


Chính thế. Đức Chúa Giêsu chẳng những là Bề Trên là Thầy lại là Cha linh hồn con nữa. Nhưng không vì đó mà con nói như mình chẳng muốn tỏ linh hồn cho các Bề Trên biết đâu. Trái lại, con chẳng giấu giếm gì sự thể linh hồn con, con vẫn mở lòng con như cuốn sách mở để các Bề Trên xem xét.


Mẹ coi sóc chúng con hồi ấy, đáng là vị đấng Thánh, là kiểu mẫu cụ thể về chị em Dòng Kín đời xưa. Con không lìa Người lúc nào, vì hằng được tập việc với Người. Lòng tốt Người đối với con thật không thể nói hết, con yêu mến Người lắm, kính phục lắm, nhưng linh hồn con không cởi mở được. Khi ấy con chẳng biết bày tỏ linh hồn làm sao, muốn nói mà nói không ra, nên việc chỉ dẫn linh hồn con đã thành một hình khổ, một ách nặng.


Có một mẹ như hiểu thấu nỗi lòng con, ngày kia đang buổi chơi, bảo con rằng:


- Con ơi! Xem ý ra con chẳng có gì đáng tỏ cùng các Bề Trên.


- Thưa Mẹ, sao Mẹ lại nghĩ thế?


- Mẹ thấy linh hồn con đơn sơ lắm mà sau này nên trọn lành, con cũng sẽ đơn sơ hơn nữa! Người ta càng gần Chúa, càng hoá đơn sơ.


Lời Mẹ nói rất phải. Tuy sự khó cởi mở tâm hồn là bởi tính nết đơn sơ con thật, nhưng bấy giờ con rất lấy làm khó chịu. Ngày nay, sự đơn sơ vẫn còn, mà sự tỏ bày tâm tình tư tưởng, con cảm thấy dễ dàng hơn nhiều.


Con đã nói Chúa Giêsu là Cha linh hồn con. Khi cha Pichon vừa mới nhận việc coi sóc linh hồn con, thì Bề Trên lại sai người sang Canada, thành thử mỗi năm con chỉ còn được một lá thư người gởi cho con. Hoa mọn giồng trên núi Carmel, nay lại hướng về Cha Cả các linh hồn, chớm nở dưới bóng rợp cây Thánh giá, lấy nước mắt và máu cứu chuộc làm sương sa mát mẻ, lấy Thánh nhan Chúa làm mặt trời giãi ánh chiếu.


Thưa Mẹ, trong hồi đó, nhờ Mẹ chỉ giáo, con mới biết những kho tàng châu báu tích chưa nơi Thánh nhan Chúa. Mẹ đã vào Dòng trước ba em, Mẹ cũng hiểu trước ba em những mầu nhiệm về tình yêu thắm thiết ẩn hiện trên Thánh nhan Bạn Cực Thánh. Mẹ đem phân phát những lĩnh hội ấy cho các em, làm Têrêsa hiểu được thấm thía, hiểu hơn bao giờ, cái vinh hiển nào là vinh hiển thật.


Đấng mà nước Người trị không phải là thế gian  , đã cho con hiểu biết chỉ có một vinh hiển đáng thèm, đáng tranh đua cho kỳ được sự ái mộ được ẩn tích mai danh được khinh thường coi rẻ  , lấy sự tự hạ làm vui thích. Ôi! Cũng như Nhan Thánh Chúa, con ước ao được che mặt cho kín, thế gian đừng ai nhận biết con  . Con khao khát được quên mình cho hẳn.


Ôi! Đường Chúa dắt con đi hằng ngày lân ái dường nào! Người chẳng mở lòng ao ước gì mà chẳng ban, bởi đó chén cay đắng Người trao cho uống, con vẫn cảm thấy dịu ngọt ngon lành.


Cuối tháng 5 năm 1888, sau lễ khấn của chị Marie, chị cả, mà Têrêsa, em út được hân hoan đội mũ hoa ngày chị kết ngãi trao duyên với Chúa, thì ở nhà lại phải sự khó nặng. Từ khi cha ngã bệnh bại thân lần thứ nhất, chúng con đã nghiệm thấy cha dễ nhọc lắm. Trong cuộc hành trình Rôma, nhiều lần trong sắc mặt cha, chúng con cũng biết cha mệt mã và đau đớn trong mình. Nhưng còn điều này làm con cảm động nhất, là thấy cha tấn bộ lạ lùng trên đường nhân đức, tính tự nhiên cha rất nóng mà cha đã cầm hãm như thường, cha rất thản nhiên nhìn sự thế vật lộn, cuộc đời đổi thay!


Thưa Mẹ, tiện đây con kể một nhân đức của cha:


Trong cuộc hành trình Rôma, đối với hành khách những ngày đêm nằm ngồi trên xe xem ra lâu dài lắm, dĩ nhiên hành khách sốt ruột, rồi thở dài ra đánh, rồi cãi lẫy nhau. Một hôm, họ mời chúng con chơi: chúng con đã kiến nói rằng không quen chơi mấy. Với chúng con, ngày đêm vẫn như thường, dài gì đâu, đứng mà ngắm cảnh trời đất phong quang đẹp đẽ hằng bày xoá trước mặt, có khi còn cho vắn là khác. Khách mời chơi không được, tỏ bộ bất bình, cha phải can thiệp ngay, người bình tĩnh nói năng ôn tồn bênh đỡ chúng con, lại nói như để họ nghe thấy rằng đi viếng Thánh địa mà để giờ đọc kinh chẳng thừa bao giờ.


Trong đám chơi, một kẻ đã quên sự kính trọng người bạc đầu không suy nghĩ, nói mỉa mai ngay rằng:


- May, đời này không sẵn Phariseo mấy!.


Cha không đối lại một lời, cứ điềm đạm vui vẻ, rồi sau tìm dịp bắt tay người ấy chuyện trò tử tế, dường như không nghe thấy lời nói khích bác khi nãy, hay có nghe mà đã quên.


Vả lại, thưa Mẹ, tấm lòng độ lượng hay tha thứ của cha, chẳng phải là trường hợp này mới thấy. Theo lời Mẹ và các người quen biết cha nói, chẳng khi nào cha nói lời gì phạm đến đức yêu thương.


Nhân đức tin và lòng đại lượng của cha hằng ngát mùi thơm trong mọi trường hợp bất trắc. Đây con nhớ mấy lời cha than thở cùng một bạn thân khi nói chuyện việc con vào Dòng:


“Têrêsa công chúa nhỏ của tôi đã vào Dòng sáng hôm qua! Chỉ có Chúa mới có thể đòi tôi dâng của lễ ấy. Nhưng Chúa cũng thương tôi lắm, trong lúc ruột đau rơi lệ, lòng vẫn tràn đầy vui vẻ!”.


Với một tôi trung con thảo thể ấy, phải có một phần thưởng cân xứng lòng nhân đức, chính cha đã xin Chúa ban cho cha phần thưởng trọng đó. Mẹ ôi! Chắc Mẹ còn nhớ, hôm cha đến thăm lần ấy, cha đã nói gì!


“Các con cha hỡi, cha vừa ở Alençon về. Trong đền thờ Đức Mẹ ở Alençon, cha đã được nhiều ơn cả thể, an ủi lòng lắm, cha đã than thở cùng Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, quá đủ rồi! Lòng tôi vui sướng quá, tôi không thể lên thiên đàng thế này được, tôi muốn chịu khó vì Chúa một chút. Rồi tôi dâng mình tôi làm...’”.


Tiếng của lễ cha không dám nói ra lời trước mặt các con, cha chỉ hơi nhích môi, nhưng các con yêu dấu cha cũng thừa hiểu!


Thưa Mẹ, xin Mẹ hồi tưởng nỗi lòng trầm uất, cay đắng, đau đớn lúc ấy! Những kỷ niệm xé ruột ấy, con xin miễn kể ra đây...


Lễ hỏi thiêng liêng

Kỳ này con sắp được mặc áo Dòng rồi. Đức Cha đã định vào ngày 10 tháng 1. Thật không ai ngờ kỳ đó cha lại được khỏi bệnh lần thứ hai. Phỉ lòng mong đợi, và đẹp đẽ thay ngày lễ Mặc áo! Ngày vui mừng ấy chẳng thiếu sót gì, tuyết trời cũng rơi mừng!


Thưa Mẹ, con có tính thích tuyết. Khi còn nhỏ, thấy tuyết trắng, con rất thích. Lý do lòng vui thích đó, có lẽ là vì thân hoa mọn này đã nở vào tiết đông: Vừa mở mắt chào đời, đã thấy đời mặc áo tuyết trắng. Nhân đó, con mới ước ao trong ngày mặc áo Dòng được xem cảnh thiên nhiên cũng tô điểm màu trắng như con.


Nhưng chiều ngày áp lễ, bỗng dưng khí trời dịu lại, ấm áp như mùa xuân, làm con không còn hy vọng sáng mai có tuyết nữa. Sáng mai tức là 10 tháng 1, trời vẫn ấm, không thay đổi gì! Thấy vậy, con đã bỏ ngay lòng ao ước ngây thơ không thể thực hiện kia và bước ra nhà ngoài.


Cha đã đứng đợi ngoài cửa, thấy con ra, liền tới lại bên con, rơm rớm nước mắt, ôm con vào lòng kêu lên:


“A! Công chúa nhỏ tôi đây rồi!”.


Đoạn cha để tay cho con bám, hai cha con trịnh trọng bước vào nhà nguyện.


A, ngày ấy là lễ khải hoàn sau hết của cha ở dưới đất! Được bao nhiêu con, cha đã tế lễ Chúa tất cả, cả gia đình đã thuộc về Chúa. Chị Céline cũng đã trình cha ý kiến mai ngày sẽ xin vào Dòng Kín. Cha đã hết sức vui mừng trả lời:


“Hỡi con, hãy theo cha! Cha con cùng đến nhà thờ trước Mình Thánh Chúa, lạy tạ ơn Chúa đã thương nhà ta lắm, đã ban cho cha vinh dự là kén chọn tất cả chúng con làm bạn trăm năm. Người thương cha thế, thật là cho cha một vinh dự rất lớn. Nếu cha còn gì quý hơn quyết là cha dâng tiến Chúa”.


Cái gì quý hơn đó, chỉ có thể là chính thân già của cha nữa thôi. Chúa đã nhận cha như một lễ vật toàn thiện. Người đã lọc luyện cha như lửa luyện vàng, đã công nhận cha là của lễ xứng đáng  .


Khi các lễ phép bên ngoài cử hành đã xong, con liền tiến vào nhà trong, đồng thời Đức Cha xướng hát kinh Te Deum. Một cha vội vàng nhắc Đức Cha kinh Te Deum chỉ hát khi làm lễ Khấn; nhưng vì đang sốt sắng Đức Cha cứ hát cho rồi.


Bước vào nhà trong, trước hết mắt con nhìn lên tượng Chúa Hài Đồng mỉm cười đứng giữa muôn hoa và nến sáng. Rồi nhìn ra sân, con thấy sân đầy tuyết. Chao ôi! Chúa Giêsu chiều con quá! Vị hôn thê Chúa muốn gì cũng cho, muốn tuyết được tuyết! Trong nhân loại, một người quyền phép mấy mặc lòng, hỏi có thể khiến trời rơi tuyết dù một nắm cỏn con thôi để đẹp lòng người yêu của mình được chăng?


Sáng ấy, ai thấy tuyết sa cũng ngẩn lạ, coi như một điều gì đó, và rồi những người biết được lòng ước ao của con, thường hay nói hôm con mặc áo có phép lạ nhỏ, lại cho cái tính thích tuyết của con là một tính tình ngộ nghĩnh... Càng hay! Có ngộ nghĩnh thế mới càng tỏ rõ cái lòng yêu chiều quá đỗi của Bạn các kẻ đồng trinh, của Đấng ưa thích những bông huệ trắng như tuyết.


Xong lễ, Đức Cha vào nhà trong tỏ tình yêu quý con như người cha trước mặt nhiều thầy cả theo hầu; Đức Cha đã nhắc lại việc con đến thăm người ở tỉnh Bayeux, việc con đi Rôma xin phép Toà Thánh, cả câu chuyện uốn tóc! Người đặt hai tay lên con mơn trớn yêu đương một lúc. Trong phút được yêu ấy, con liên tưởng tới ngày sẽ được chính tay Chúa mơn trớn, yêu quý trước mặt thần thánh trên trời, thì lòng càng dịu dàng êm ái quá, không lẽ nói được. Sự an ủi ngọt ngào này, với con đã dịu dàng như được nếm trước phúc thiên đàng.


Nỗi lòng cực

Con vừa nói ngày 10 tháng 1 là lễ khải hoàn của cha: con so sánh với ngày Chúa nhật lễ Lá, quân Giudêu rước mừng Chúa vào thành Giêrusalem cách trọng thể. Cũng như tình cảnh Chúa, cha qua được một ngày vinh hiển liền tiếp đến ngày thương khó; và như cuộc Tử nạn Chúa Giêsu, đã đâm gan xé ruột Đức Mẹ thể nào, lòng chúng con cũng phải tan nát thể ấy vì những thương tích những cơ cực người yêu quý nhất đời của chúng con phải chịu.


Con nhớ hồi tháng 6 năm 1888, - đang khi lo cha mắc chứng bệnh đau óc – con có nói lời này làm Mẹ nhà Tập phải bỡ ngỡ:


- Thưa Mẹ, con đau đớn lắm, nhưng con cảm thấy mình còn thể chịu đau đớn hơn!


Lúc ấy con đã nghĩ đâu đến cơn gian nan đang chờ đợi. Con không biết rằng sau ngày con mặc áo một tháng, ngày 12 tháng 2 – cha yêu dấu phải uống một chén quá đắng... phải đến điều trị ở nhà dưỡng bệnh! Ôi, lúc này chẳng còn nói được mình còn thể, chịu đau đớn hơn nữa! Lời lẽ không thể diễn tả nỗi lòng cực này! Con cũng chẳng muốn thử viết làm gì...


Sau này ở trên trời, chị em ta cùng nhau ôn lại những ngày u uất trầm phiền ấy của khách địa.


Thật, ba năm đau khổ cha đã chịu, cao quý lắm, đã làm ích cho con cha rất nhiều. Nếu phải đổi ba năm đau khổ ấy lấy những giờ nguyện gẫm cao siêu ngất trí, con nhất định không đổi. Đứng trước kho tàng vô giá ấy, lòng tri ân của con chỉ biết kêu lên:


“Lạy Chúa, chúng con ngợi khen Chúa vì những năm ân nghĩa mà chúng con đã được trải qua trong đau khổ” .


Ôi Mẹ yêu dấu, Thánh giá cay đắng, nặng nề mà chúng ta vác đây quý trọng dường nào! Êm dịu biết bao! Được vác, trái tim chúng ta chỉ biết rung lên và vang ra những tiếng lòng tri ân tri nghĩa. Trên nẻo trọn lành, chúng ta không còn rón rén từng bước, chúng ta đã vùng chạy, đã tung cánh bay...


***


Trong giai đoạn này, hai chị Léonie và Céline, tuy còn phải sống giữa thế gian, nhưng chẳng còn là người thế gian nữa. Những lá thư hai chị viết cho con, nhuộm đẫm mùi Dòng, mùi muốn đi tu mặc dầu còn đang nhẫn nại chờ đợi.


Với chị Céline yêu dấu mà con phải xa cách, không được gặp gỡ, tưởng chị một nơi em một ngã là hết trò hết chuyện, mà không, bức phên sắt nghiêm nghị của nhà Dòng càng thu hút mạnh mẽ hai chị em chúng con lại làm một: Một tư tưởng, một nguyện vọng, một tình yêu thắm thiết Chúa Giêsu, yêu thắm thiết các linh hồn. Không khi nào có một lời chuyện đời pha vào chuyện hai chị em chúng con. Cũng như xưa còn chung sống ở trại Suissonnets hai chị em chẳng còn lấy mắt mà nhìn, một lấy lòng mà suy, hai tâm hồn chắp cánh đua bay tít trên không gian, bay vượt thời gian, và để bay cho tới cõi phúc trường sinh, hai chúng con đã ý hiệp tâm đồng chọn đau khổ, khinh chê ở thế gian làm phương pháp, làm đôi cánh.


Lòng ước ao chịu đau khổ, thật đã được phỉ nguyện. Nhưng con vẫn còn ước ao chịu đau khổ thêm, không giảm bớt phân ly. Hễ lòng càng đầy muôn sự trầm phiền, tâm hồn lại càng thông phần tân khổ. Sự khô khan tâm hồn con mỗi ngày một thêm: Trên trời dưới đất chẳng còn thấy chi an ủi, ủi an, sự gian nan như nước vỡ bờ, tràn vào lai láng tâm hồn, quả nhiên cầu được ước thấy mà cũng quả nhiên con cảm thấy được thoả thuê sung sướng hơn mọi loài.


Ấy là tình cảm tâm hồn con trong thời hạn làm vị hôn thê của Chúa. Ôi! Lâu chi lắm cho mỏi lòng mong đợi! Hết năm Tập, Mẹ Bề Trên lại bảo con đừng nghĩ đến việc khấn nữa: Cha Bề Trên nhất định chưa cho khấn, phải đợi thêm 8 tháng!


Mới đầu, con lấy làm khó chịu quá; nhưng rồi ơn Chúa trấn tĩnh tâm hồn ngay.


Trong kỳ hoãn này, con đã dùng sách Nền tảng đời sống thiêng liêng của Cha Surin soạn làm sách gẫm. Một ngày đang suy gẫm, con nhận ra rằng lòng quá mong ước được khấn đó có ph