Lời Kinh Cha Mẹ Dạy

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ 

LỜI NGỎ

PHẦN MỞ ĐẦU

PHẦN 1: KHI CẦU NGUYỆN, ANH EM ĐỪNG LẢI NHẢI NHƯ DÂN NGOẠI; HỌ NGHĨ RẰNG: CỨ NÓI NHIỀU LÀ ĐƯỢC NHẬN LỜI. ĐỪNG BẮT CHƯỚC HỌ, VÌ CHA ANH EM ĐÃ BIẾT RÕ ANH EM CẦN GÌ, TRƯỚC KHI ANH EM CẦU XIN.

PHẦN 2: VẬY, ANH EM HÃY CẦU NGUYỆN NHƯ THẾ NÀY: LẠY CHA CHÚNG CON LÀ ĐẤNG NGỰ TRÊN TRỜI, XIN LÀM CHO DANH THÁNH CHA VINH HIỂN.

PHẦN 3: TRIỀU ĐẠI CHA MAU ĐẾN, Ý CHA THỂ HIỆN DƯỚI ĐẤT CŨNG NHƯ TRÊN TRỜI.


PHẦN 4: XIN CHA CHO CHÚNG CON HÔM NAY LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

PHẦN 5: XIN THA TỘI (NỢ) CHO CHÚNG CON NHƯ CHÚNG CON CŨNG THA CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ LỖI (NỢ) VỚI CHÚNG CON

PHẦN 6: XIN ĐỪNG ĐỂ CHÚNG CON SA CHƯỚC CÁM DỖ

PHẦN 7: NHƯNG CỨU CHÚNG CON CHO KHỎI SỰ DỮ

LỜI KẾT

TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NGỎ

Chập chững bước vào cuộc đời. Trong tình yêu thương của Cha Mẹ, tôi được đưa tới thánh đường giáo xứ để nhận bí tích rửa tội, và được trở nên con cái của Thiên Chúa. Đó là một món quà quý báu của cuộc sống làm người.

Lớn lên trong mái ấm của gia đình, còn gì hơn khi được ẩn náu trong vòng tay êm ấm của Mẹ Cha.

Vòng tay ru con thơ ngủ.

Vòng tay mớm bát cháo thìa cơm.

Vòng tay chở che nâng đỡ.

Vòng tay dạy dỗ bảo ban.

Thật vậy, trong vòng tay của Mẹ Cha, tôi đã học được những bài học thật quý giá. Bài học làm người, bài học làm con cái của Thiên Chúa.

Một trong những bài học tuyệt vời nhất là lời kinh Lạy Cha, mà Mẹ Cha đã dạy.

Vẫn nhớ những buổi tối Cha Mẹ và tất cả con cái trong gia đình ngồi lại trước bàn thờ, và dâng Chúa lời kinh Lạy Cha được “gói” trong tràng chuỗi Mân Côi.

Nhìn lại sao mà đẹp quá vậy.

Cái đẹp của tình Mẹ tình Cha,

cái đẹp của một bầu khí gia đình ấm cúng,

cái đẹp của những giây phút thiêng liêng cầu nguyện trong gia đình.

Và cái đẹp của những lần ngủ gục trong giờ kinh nữa chứ.

Làm sao quên được một buổi tối khi Mẹ cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Cả nhà cần đáp lại: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có nợ với chúng con. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.

Trớ trêu thay, trong khi mọi người trong gia đình sốt sắng đáp lại, thì thằng bé ngồi bên Mẹ lại ngủ gà ngủ gật. Điều gì xảy ra? Một cái cú Mẹ tặng ban, để cần thức tỉnh, để cần học biết lời kinh Cha Mẹ dạy.

Lời kinh Cha Mẹ dạy là lời kinh hướng về Thiên Chúa là Cha trên trời, để tôn vinh và cầu xin với Ngài, đừng để con cứ ngủ gục nhiều như thế, đừng để con cứ sa chước cám dỗ của thần dữ và của cuộc đời, xin cứu con ra khỏi sự dữ. Xin tha thứ cho con, vì con là kẻ tội lỗi, cũng xin dạy dỗ con và cho con có khả năng và thiện chí biết tha thứ cho anh chị em. Cũng xin cho gia đình con và mọi người trên thế gian, có đủ cơm ăn mỗi ngày. Tất cả xin cho Danh Cha cả sáng, nước tình yêu của Cha được trị đến, và thánh ý cao quý của Cha được thể hiện mọi nơi, cả trên trời cao cũng như dưới đất thấp.

Lời kinh Cha Mẹ dạy cùng với cái cú đầu bảo ban đã đi với tôi trong cuộc đời. Mỗi chặng đường, khi có Cha Mẹ hay không có Cha Mẹ ở bên, lời kinh đó vẫn vang lên.

Giờ đây, Cha Mẹ đã khuất, nhưng lời kinh Cha Mẹ dạy vẫn còn sống trong tôi, cùng “đồng hành với tôi” trên từng chặng đường của đời người, lúc quỳ trong nhà nguyện, khi ngồi trong ghế học viện của nhà Dòng, lúc rảo bước trên phố phường để thăm viếng và phục vụ những anh chị em bất hạnh, khi ngồi chia sẻ với anh chị em trong bầu khí thiêng liêng.

“Lời kinh Cha Mẹ dạy” giờ đây xin được là một tập sách suy niệm về kinh Lạy Cha. Một tập sách nhìn lại những tâm tình thiêng liêng qua những kinh nghiệm trên hành trình làm người, làm con cái và làm tôi tớ của Thiên Chúa. Tập sách suy niệm này cũng được gợi hứng bởi tác phẩm chú giải thiêng liêng về kinh Lạy Cha của Đức Hồng Y Carlo Maria Martini được chuyển dịch qua Pháp ngữ: « Ne méprisez pas la Parole – Đừng khinh miệt Lời ». Ngoài ra, tập sách suy niệm này cũng tham khảo nhiều tác phẩm thiêng liêng và các tác phẩm chú giải Thánh Kinh khác.

Như một nén hương chân thành, xin gởi đến hương hồn Cha Mẹ tập sách suy niệm lời kinh Lạy Cha, “Lời kinh Cha Mẹ dạy”, để cả cuộc đời, xin cố gắng là một người con như lòng Cha Mẹ ao ước; để cả cuộc đời trong ân sủng của Chúa, mỗi ngày xin cố gắng trở nên tôi tớ đẹp lòng Thiên Chúa là Cha trên trời nhiều hơn nữa.

Tất cả xin để vinh danh Chúa hơn.

Kinh Lạy Cha

7 "Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời.

8 Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,

trước khi anh em cầu xin.

9 "Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này:

"Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,

xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

10 triều đại Cha mau đến,

ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

11 Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;

12 xin tha tội cho chúng con

như chúng con cũng tha

cho những người có lỗi với chúng con;

13 xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ,

nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

(Mt 6, 7-13)


PHẦN MỞ ĐẦU

Vài hàng sơ lược về kinh Lạy Cha.

Xuyên suốt qua các thời đại, kinh Lạy Cha được các Kitô hữu đọc, cầu nguyện, suy niệm và chú giải. Những chú giải cổ xưa nhất hiện vẫn còn được giữ gìn như của Tertulian (+ khoảng 220), chú giải khác của Origine (+ khoảng 254). Cyprian thành Carthage (+ khoảng 258) đã coi kinh Lạy Cha như là “Lời cầu nguyện của Chúa - oratio domenica”[1]. Ngoài ra, Adalbert G. Hamman, với tác phẩm “Le notre père dans l´église ancienne”, đã giới thiệu những bài giảng và những chú giải về kinh Lạy Cha của những giáo phụ khác, như của Grégoire de Nysse (+ khoảng 394), của Cyrille de Jérusalem (+ khoảng 368), của thánh Augustin (+ khoảng 430), của Théodore de Mopsueste (+ khoảng 428), của Maxime le Confesseur (+ khoảng 662). Trong thời trung cổ, kinh Lạy Cha tiếp tục được các tín hữu chú ý tới qua các bài giảng, và được giải thích trong các sách giáo lý. Sách giáo lý tin lành của Luther (xuất bản năm 1529), sách giáo lý công giáo của thánh Canisius (xuất bản năm 1555) cũng như bộ sách giáo lý Rôma - Catechismus Romanus (xuất bản năm 1566) đã nêu bật ba chức năng của kinh Lạy Cha: là lời cầu nguyện nền tảng, là bản tóm lược của đức tin và là những điều luật cho cuộc sống[2].

Ngoài ra, một số vị thánh khác cũng chú ý tới kinh Lạy Cha, như Thánh Phan-xi-cô thành A-si-si đã viết một lời cầu nguyện tán tụng Thiên Chúa với kinh Lạy Cha, thánh Tê-rê-sa thành A-vi-la thì để lại cho chị em những lời huấn dụ và giải thích kinh Lạy Cha thật sâu sắc trong tác phẩm “Le chemin de perfection”. Trong thế kỷ 20 của chúng ta, cũng có rất nhiều chú giải về kinh Lạy Cha, ở đây xin kể đến Bonhöffer, mục sư và là thần học gia người Đức đã bị phát-xít Đức giết trong thế chiến thứ hai, đã viết tác phẩm “Nachfolge”, một cuốn sách thiêng liêng giải thích và suy niệm về bài giảng trên núi rất sâu sắc. Trong đó có một phần giải thích về kinh Lạy Cha. Cũng là một nạn nhân của phát-xít Đức, linh mục dòng Tên Alfred Delp, đã để lại một bài suy niệm sống động về kinh Lạy Cha. Bài suy niệm này được cha Delp viết trong phòng giam ở Berlin, khi tay của cha bị trói bởi dây xích. Bài suy niệm này, và nhiều bài suy niệm khác, cùng với 120 lá thư được Cha Delp truyền ra ngoài một cách bí mật. Ngoài ra, còn có những nghiên cứu và chú giải về kinh Lạy Cha của các nhà Thánh Kinh học, như của Joachim Jeremia với “Abba” (1966), của P. Bonnard chung với J. Dupont và F.Refoulé với “Notre Père qui est aux cieux” (1968). Cũng nên chú ý đến các chú giải Tin Mừng Mát-thêu của Piere Bonnard (1963), của Joachim Gnilka (1986), của Ulrich Luz (phần 1, 1985).... Một số sách chú giải thiêng liêng khác về kinh Lạy Cha trong thời đại chúng ta cũng cần được nhắc tới, như tác phẩm“Gebet und Wahrheit“ của Romano Guardini (1960), „Glaubensbekenntnis und Vater unser“ của Eugen Biser (1993), „Our Father“ (2002) của Scott Hahn, „The Lord´s prayer” (2006) của nhà thánh kinh học Gerald O´ Collin SJ. Đặc biệt, đức hồng y Carlo Maria Martini SJ, một nhà thánh kinh học lỗi lạc có hai tập sách suy niệm rất hữu ích về kinh Lạy Cha: « Le notre Père » (2001), và « Ne méprisez pas la Parole » (2005). Một nhà thần học lớn của thời đại là Josef Ratzinger, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, cũng đã có phần giải thích kinh Lạy Cha rất hay trong tác phẩm « Jesus von Nazareth » (phần 1, 2006). Và sách giáo lý mới của Giáo Hội : « Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo » (bản tiếng Việt, 2009) có phần thứ tư về Kinh nguyện Kitô giáo. Trong phần này có đoạn giải thích kinh Lạy Cha.

Thật vậy, không thể kể hết tất cả các tác giả xuyên suốt qua nhiều thời đại đã giải thích và suy niệm về kinh Lạy Cha. Điều đó chứng tỏ rằng, kinh Lạy Cha, lời cầu nguyện của Chúa, được trân quý và giữ gìn, cầu nguyện và sống động một cách đặc biệt trong hành trình đức tin và thiêng liêng của người Kitô hữu. Ngoài ra, kinh Lạy Cha thường được giải thích dựa trên ba cách thức căn bản: (1) giải thích trong ý nghĩa của tín lý. (2) giải thích trong ý nghĩa luân lý. Gregor von Nyssa là đại diện cho hình thức giải thích này: kinh Lạy Cha không chỉ được hiểu là lời kinh dẫn vào cầu nguyện, mà còn là sự dẫn vào đời sống theo tinh thần của Chúa dạy. Và cuối cùng, (3) kinh lạy Cha cũng được giải thích trong ý nghĩa cánh chung học[3].

Đó là những hình thức căn bản cho việc giải thích kinh Lạy Cha mà Chúa Giê-su dạy trong môi trường xã hội của người Do-thái. Như vậy, có thể có một sự liên hệ nhất định giữa kinh Lạy Cha với Do-thái giáo hay không?

Kinh Lạy Cha trong bối cảnh của Do-thái giáo.

Trong Do-thái giáo cũng có những lời cầu xin giống như kinh Lạy Cha, đặc biệt là kinh Qaddisch và kinh cầu 18 (Schemone Esre) của các hội đường Do-thái cổ xưa. Gọi là kinh cầu 18, vì trong kinh này có 18 lời cầu xin chúc lành[4]. Vì có những sự tương hợp này, nên một số học giả người Do-thái coi kinh Lạy Cha có nguồn gốc trong Do-thái giáo. Như Robert Aron, một nhà văn Pháp gốc Do-thái nói rằng: “Lời kinh nền tảng này của Kitô giáo, trong nhiều câu, bắt nguồn trực tiếp từ những lời cầu nguyện nền tảng của người Do-thái, nên có thể Chúa Giê-su đã cầu nguyện, hay đã lắng nghe lời cầu nguyện này ở những hội đường trong những năm sống ở Na-gia-rét”[5].

Thực tế, thì hình thức của kinh Lạy Cha có vẻ có sự liên hệ với một số lời cầu nguyện của người Do-thái. Tuy nhiên, theo nhà thánh kinh học Francois Refoulé thì, trong tính cách lịch sử, lời rao giảng của Chúa Giê-su được viết trong cái khung của những những tư tưởng và những quan niệm của xã hội Do-thái giáo... Còn trong ý nghĩa thần học, lời rao giảng của Chúa Giê-su có sự liên hệ với giao ước cũ. Nhưng không chỉ thế, lời rao giảng của Chúa Giê-su còn làm cho giao ước cũ được trở nên trọn vẹn: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). Trong ý nghĩa này, cha Henri de Lubac đã viết như sau: “Giao ước mới khởi đi từ giao ước cũ, nhưng không phủ nhận giao ước cũ. Giao ước mới không phá hủy giao ước cũ: Trong khi làm cho giao ước cũ được kiện toàn, thì giao ước mới biến đổi và làm sống động lại giao ước cũ…Tóm lại, giao ước mới đã biến đổi những từ ngữ của giao ước cũ vào trong tinh thần”[6]. Như vậy, kinh Lạy Cha có liên hệ với những kinh nguyện Do-thái giáo, nhưng lại mang một sắc thái khác. Trong khi những lời cầu nguyện của Do-thái giáo có vẻ dài dòng văn tự, thì lời kinh Lạy Cha lại ngắn gọn xúc tích, và tập trung vào những điều nền tảng. Thật vậy, những lời cầu xin trong kinh Lạy Cha mà Chúa Giê-su dạy mang một tinh thần mới. Ngoài ra, theo Refoulé, kinh cầu 18 của Do-thái giáo có 12 lời cầu xin, và những lời cầu xin cuối cùng tập trung vào cuộc sống của người Do-thái, cầu xin cho đời sống hiện tại và cầu xin cho tương lai. Với lời cầu xin này, người Do-thái xin với Gia-vê gầy dựng lại vương quốc mang tính cách chính trị cho dân tộc họ, xin Gia-vê dẹp tan ách thống trị của ngoại bang, và tập họp lại những người Do-thái đang tản mác, cũng như cầu xin cho nhà lãnh đạo chính trị là đấng Mê-si-a đến với dân tộc Do-thái. Tất cả những lời cầu xin này không có trong lời kinh Lạy Cha của Chúa Giê-su. Lời kinh Lạy Cha của Chúa Giê-su không mang tính cách chủ nghĩa quốc gia và không mang tính cách chính trị. Hơn nữa, lời kinh Chúa Giê-su dạy có tính cách phổ cập cho mọi người[7].

Về mặt ngôn ngữ, cũng có sự khác biệt. Theo Luz, trong khi kinh Lạy Cha được viết bằng tiếng A-ram, thì đa số các kinh nguyện của người Do-thái được viết bằng tiếng Híp-ri. Tiếng A-ram thời đó không phải là ngôn ngữ chính thức được dùng trong các hội đường Do-thái. Chỉ có một số kinh nguyện mang tính cá nhân của nhóm người bình dân được dùng bằng tiếng A-ram. Như vậy có thể nói rằng, Chúa Giê-su đã dùng ngôn ngữ của dân chúng, chứ không dùng ngôn ngữ được sử dụng cho việc phụng vụ trong các hội đường thời đó. Và Chúa Giê-su đã không đồng tình với một số kinh sư đã bác bỏ ngôn ngữ A-ram[8].

Đó là vài sự khác biệt căn bản và quan trọng giữa những lời kinh của Do-thái giáo với lời kinh Lạy Cha, mà Chúa Giê-su dạy trong hai tin mừng của Mát-thêu và của Luca.

Kinh Lạy Cha trong phúc âm thánh Mát-thêu và phúc âm thánh Luca.

Trong bốn Tin Mừng, kinh Lạy Cha được Mát-thêu và Luca viết lại. Ngoài ra, trong “giáo huấn của các tông đồ - Didache[9], kinh Lạy Cha cũng được trích dẫn và bản văn này rất gần với bản văn của Mát-thêu. Ở đây, xin có cái nhìn sơ lược về kinh Lạy Cha trong hai tin mừng Mát-thêu và Luca.

Bản văn kinh Lạy Cha trong phúc âm của Luca được viết tóm tắt hơn, còn bản văn ở Mát-thêu thì đầy đủ và có nhịp điệu rõ ràng hơn, và được các cộng đoàn tiên khởi mau chóng đón nhận, cũng như được đưa vào trong phụng vụ. Nhưng tại sao bản văn kinh Lạy Cha ở Mát-thêu lại được ưa chuộng hơn? Theo Refoulé, thì có thể vì Mát-thêu không chỉ là đồ đệ (disciple), mà còn là tông đồ (Apôtre), và kết cấu của bản văn kinh Lạy Cha ở Mát-thêu thì rõ ràng và mạch lạc, có tính cách sư phạm nhiều và mang đậm lời của Chúa Giê-su. Ngoài ra, bản văn của phúc âm thứ nhất cũng đáp ứng đúng nhu cầu mục vụ của Giáo Hội tiên khởi. Đi vào hai bản văn chúng ta sẽ nhận ra thêm những điểm khác biệt và những điể m tương đồng[10].

Mt 6, 9-13

9 "Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: "Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

10 triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

11 Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;

12 xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc nợ với chúng con;

13 xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Lc 11, 2-4

2 Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến,

3 xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy;

4 xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."

Hai bản văn rõ ràng có những điểm tương đồng, và có những từ ngữ giống nhau. Tuy nhiên, cũng có nhiều điểm khác biệt. Những điểm khác biệt rõ ràng nhất là:

1) Bối cảnh lịch sử của hai bản văn kinh Lạy Cha không giống nhau. Mát-thêu đặt kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13) trong bài giảng trên núi (Mt 4,23 - 7,29), và trong thời điểm Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ của Ngài. Cụ thể, sau những giáo huấn về các mối phúc, về ánh sáng và về các lời khuyên trong cách hành văn mang tính cách mâu thuẫn ở chương 5, Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ về việc bố thí, về cầu nguyện và về việc ăn chay trong chương 6. Trong chương này, Ngài đã dạy kinh Lạy Cha cho các môn đệ. Lời đầu tiên dẫn vào kinh Lạy Cha là lời Chúa kết án cách thức cầu nguyện mang tính cách giả hình và phô trương. Sau đó, Chúa chỉ ra tâm tình cần có khi cầu nguyện với Chúa Cha (Mt 6,5-6). Tiếp đến chính là lời Kinh Lạy Cha như là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất.

2) Còn Luca lại đưa kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4) vào thời điểm trễ hơn, nghĩa là sau sứ vụ ở Ga-li-lê, Chúa Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9,51 - 19,27). Nghĩa là theo Luca, thì kinh Lạy Cha được Chúa Giêsu dạy trong thời gian cuối của cuộc đời Ngài. Như vậy, Luca giúp ta hiểu rằng: Các môn đệ say sưa nhìn Đức Giêsu cầu nguyện và khám phá thấy cầu nguyện đóng một vai trò hết sức căn bản trong đời sống của Chúa Giêsu, cầu nguyện chiếm rất nhiều thời gian trong đời sống của Người, có khi cả một đêm trọn. Thế là họ ao ước được biết cầu nguyện như Người[11].

3) Tình tiết bắt đầu kinh Lạy Cha trong hai bản văn cũng khác nhau. Trong Luca, các môn đệ xin Chúa Giê-su dạy cho các ông cầu nguyện và Ngài đã dạy cho các ông lời kinh Lạy Cha: “Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” (Lc 11,1). Còn ở Mát-thêu thì chính Chúa Giê-su là người khởi xướng và dạy dỗ kinh Lạy Cha: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này…” (Mt 6, 7-9).

4) Thính giả của hai bản văn cũng khác nhau. Theo Jeremias, lời cầu nguyện kinh Lạy Cha trong Mát-thêu được gởi tới những người đã được học cầu nguyện từ thời ấu thơ, nhưng đời sống cầu nguyện của họ đang gặp phải nhiều khó khăn. Đó là cộng đoàn Kitô hữu gốc Do-thái. Còn bản văn trong Luca được gởi đến những người Kitô hữu mới, họ không phải là người Do-thái, để dạy dỗ họ cách thức cầu nguyện. Lời kinh Lạy Cha được dạy trong cả hai cộng đoàn thời đó với hai hoàn cảnh khác nhau nói lên một điều là: người Kitô hữu dù mới hay cũ đều cần phải học biết cầu nguyện với kinh Lạy Cha[12].

5) Bản văn của Mát-thêu khai triển lời kinh Lạy Cha với bảy lời cầu xin, còn trong bản văn của Luca chỉ có năm lời cầu xin. Ngoài ra, khi so sánh hai bản văn thì nhận thấy rằng, trong lời đầu tiên của kinh Lạy Cha, Mát-thêu viết “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”, còn Luca chỉ viết: “Lạy Cha”. Cụm từ đàng sau mà Mát-thêu sử dụng trong câu này không có trong Luca. Tiếp đến, trong bản văn của Mát-thêu có lời cầu xin “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, còn Luca thì không nhắc đến lời cầu xin này. Về lời cầu xin tha thứ, đối chiếu với bản văn tiếng Hy-lạp, thì Mát-thêu sử dụng từ ngữ “opheilema - nợ”, cụ thể là: “xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc nợ với chúng con”. Còn Luca thì không sử dụng từ ngữ “nợ”, mà ông dùng từ ngữ “harmatia - tội”, cụ thể là: “xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho những người mắc lỗi với chúng con”. Phần cuối của kinh Lạy Cha, Mát-thêu nhắc đến hai lời cầu xin: “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, còn Luca thì chỉ nhắc đến lời cầu “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Đó là một vài sự khác biệt sơ lược trong hai bản văn theo mặt ngôn từ.

Ngoài ra, nhìn một cách tổng quát sẽ nhận ra rằng, bản văn kinh Lạy Cha của Luca hầu như được nhắc đến trong bản văn của Mát-thêu. Và vì bản văn của Mát-thêu đầy đủ hơn Luca, nên bản văn này đã được truyền tụng trong Giáo Hội tiên khởi. Cả sách Didache (giáo huấn của các tồng đồ) được viết vào thế kỷ thứ 2 cũng có kinh Lạy Cha trong phần giáo huấn về phụng vụ[13] , cụ thể về việc cầu nguyện ở chương 8, 2-3.

Trong tập sách suy niệm này, xin tập trung vào bản văn kinh Lạy Cha trong phúc âm của thánh Mát-thêu.

Nguồn gốc, ngôn ngữ, thể văn và cấu trúc của kinh Lạy Cha trong tin mừng của Mát-thêu.

Kinh Lạy Cha bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu. Vì thế, kinh Lạy Cha được gọi là “Oratio Domini – Lời kinh Chúa dạy”. “Một đàng qua những lời kinh này, Con Một Thiên Chúa quả thật ban cho chúng ta những lời mà Chúa Cha đã ban cho Người: Người là Thầy dạy chúng ta cầu nguyện. Đàng khác, là Ngôi Lời nhập thể, nên trong trái tim nhân loại của Người, Người biết rõ nhu cầu của những anh chị em loài người của Người, và Người bày tỏ những nhu cầu đó cho chúng ta: Người là mẫu mực của việc cầu nguyện của chúng ta”[14].

Về ngôn ngữ nguyên thủy, theo một số nhà chú giải Thánh Kinh, kinh Lạy Cha được Chúa Giê-su dạy bằng tiếng A-ram[15]. Về thể loại văn học, thì kinh Lạy Cha thực sự là một lời cầu nguyện, nhưng không mang tính cách ca tụng hoặc thánh thi (Hymne), mà mang tính cách cầu xin[16]. Như thế, kinh Lạy Cha, với những lời cầu xin dâng lên Cha trên trời, muốn giúp cho những người cầu nguyện khám phá ra sự gần gũi của Cha trên trời[17].

Theo Ulrich Luz[18], một cách dễ dàng người ta có thể chia Kinh Lạy Cha trong phúc âm thánh Mát-thêu làm hai phần. Phần 1 gồm ba lời cầu xin đầu tiên hướng trực tiếp về « Cha » (câu 9-10), và phần 2 với 4 lời cầu xin hướng về « chúng con » (câu 11-13). Theo anh em nhà Hurault, thì « trong Mát-thêu, có 12 vế làm thành 7 ý nguyện : hai con số hoàn hảo. Ba ý nguyện (con số ba ngôi) quy về Thiên Chúa, bốn ý nguyện (con số 4 phương mặt đất) liên quan đến chúng ta »[19]. Và theo Đức thánh Cha Biển Đức 16, thì kinh Lạy Cha gồm lời mở đầu và 7 lời cầu xin. Ba lời cầu xin đầu tiên quy về những điều của Thiên Chúa trong tương quan với thế giới này, và bốn lời cầu xin sau diễn tả những niềm hy vọng, những nhu cầu và những khó khăn của chúng ta. Tiếp đến, Đức Thánh Cha so sánh kinh Lạy Cha với bảng Mười điều răn. Trong nền tảng, Mười điều răn cũng được chia làm hai phần. Phần đầu tiên là những giới răn liên quan đến Thiên Chúa (giới răn 1-3), và phần thứ hai (giới răn 4-10) là những giới răn dạy yêu thương tha nhân. Đó như là một cách thức chỉ đường dẫn vào con đường của tình yêu. Và kinh Lạy Cha cũng vậy, phần đầu tiên hướng về Thiên Chúa. Điều này có ý nghĩa: Để có thể cầu nguyện cho tốt, thì trước hết con người phải đứng trong sự thật, trong chân lý. Mà chân lý đó chính là Thiên Chúa và vương quốc của Ngài (x. Mt 6,33). Như vậy, khi bước vào cầu nguyện, chúng ta cần phải ra khỏi chính mình, và mở lòng ra với Thiên Chúa. Tiếp đến chúng ta được dẫn bước đến con đường của nhân loại, của chính chúng ta. Trên con đường đó, chúng ta đi tới chỗ cuối cùng, xuống tới chỗ mà sự dữ đang đe dọa nhân loại. Nhưng chính ở chỗ sâu thẳm hiểm nguy đó, chính ở điểm cuối cùng đó, điểm bắt đầu vẫn hiện diện, Thiên Chúa là khởi nguyên của chúng ta vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta, và bàn tay của Ngài vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng đang nắm lấy bàn tay yếu đuối của chúng ta và sẵn sàng che chở và cứu rỗi chúng ta[20].

Tầm mức quan trọng của kinh Lạy Cha.

Theo Tertulian, thì Kinh Lạy Cha như là bản tóm tắt toàn bộ giáo lý đức tin và luân lý, cũng như tóm tắt toàn bộ Tin Mừng của Đức Kitô. Còn với thánh Tôma Aquinô thì: “Lời kinh Chúa dạy là lời cầu nguyện tuyệt hảo...Nhưng trong lời kinh đó, không những chúng ta cầu xin những điều chúng ta có thể ước ao cách chính đáng, mà còn theo một trật tự những điều ao ước nữa: như vậy, lời kinh này không những dạy chúng ta cầu xin, mà còn huấn luyện toàn thể tâm tình của chúng ta”[21].

Ngoài ra, kinh Lạy Cha nằm ở trung tâm bài giảng trên núi (Mt 5-7), và lấy lại nội dung chính yếu của Tin Mừng dưới hình thức một kinh nguyện[22]. Nằm trung tâm ở bài giảng trên núi, kinh Lạy Cha phải có một ý nghĩa nhất định. Theo Luz, thì sau khi các môn đệ được dạy dỗ về những huấn giáo mà họ cần tập sống để trở nên hoàn thiện (Mt 5, 20-48), thì họ được dẫn vào trong trung tâm của bài giảng trên núi để học biết cầu nguyện, và đặc biệt học biết về thánh ý của Cha trên trời. Thánh ý này không mang sắc thái hủy diệt, cũng không phải là sự đòi hỏi quá sức của con người, mà thánh ý của Cha có sức chữa lành và đem lại ơn cứu độ. Như thế, con đường tập sống nên hoàn thiện được nối kết với con đường cầu nguyện. Và từ con đường cầu nguyện, con đường tập sống theo tinh thần của Chúa lại tiếp tục được mở ra và được đào sâu hơn. Như thế, hoạt động và cầu nguyện luôn có sự nối kết chặt chẽ. Đó là điểm đặc biệt mà Mát-thêu muốn diễn tả trong bài giảng trên núi[23]. Cũng trong ý nghĩa này, chúng ta đọc được trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo: “Bài giảng trên núi là giáo huấn để sống, Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện, nhưng trong cả hai, Thần Khí của Chúa đem lại thể thức mới cho những ao ước của chúng ta, cho những biến chuyển nội tâm làm sinh động cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu dùng lời Người dạy chúng ta về cuộc đời mới và dạy chúng ta nài xin cuộc đời mới này bằng cầu nguyện. Sự trung thực của cuộc đời chúng ta trong Người sẽ tuỳ thuộc vào sự trung thực của lời cầu nguyện của chúng ta”[24].

Kinh Lạy Cha còn là lời kinh mới tương hợp với giao ước mới. Đó chính là bầu mới chứa đựng rượu mới. Vì thế, lời kinh Lạy Cha không chỉ là lời cầu nguyện nền tảng của Kitô giáo, mà còn là một trong các bản văn nền tảng của tín lý.[25].

Hơn nữa, trong giáo hội tiên khởi, kinh Lạy Cha được coi là một báu vật trong kho tàng thánh của giáo hội, nên kinh Lạy Cha được giành riêng cho những tín hữu thuộc về giáo hội cách trọn vẹn. Vì thế, kinh Lạy Cha không được phép đưa cho những người ngoài giáo hội cầu nguyện. Và trong một thời gian lâu, từ thế kỷ thứ ba trở đi, người Kitô hữu được khuyên phải trân trọng kinh Lạy Cha và không được cầu nguyện cách cẩu thả. Dựa vào tầm quan trọng nền tảng và vì được tín hữu cầu nguyện thường xuyên, nên kinh Lạy Cha là lời kinh được sử dụng nhiều nhất, không có lời kinh nào sánh bằng.

Trung thành với truyền thống của Giáo Hội, kinh Lạy Cha vẫn đóng vai trò quan trọng trong Hội Thánh Công Giáo. Thật vậy, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã gọi kinh Lạy Cha là “Lời Kinh của Hội Thánh – Oratio Ecclesiae”[26]. Vì thế, kinh Lạy Cha được đưa vào trong phụng vụ và kinh nguyện của Hội Thánh, ngay từ thời giáo hội tiên khởi[27], cho đến hôm nay.

Kinh Lạy Cha trong phụng vụ.

Kinh Lạy Cha được đưa vào trong phụng vụ khi nào, chúng ta không thể xác định cách chính xác được nữa. Nhưng theo thánh Cyril thành Giêrusalem (+ 387), thì kinh Lạy Cha được đặt sau phần lời nguyện giáo dân, trước phần phụng vụ Thánh Thể của thánh lễ. Vào khoảng năm 400, trong giáo hội Châu Phi, kinh Lạy Cha được đặt ngay trước phần chúc bình an. Trong nghi thức phụng vụ hiện nay, ước đoán rằng chính Thánh Giáo Hoàng Gregors cả đưa kinh Lạy Cha vào và ấn định vị trí, nghĩa là trước phần chúc bình an và sau kinh nguyện Thánh Thể. Theo Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, “trong phụng vụ Thánh Thể, lời kinh Chúa dạy rõ ràng mang tính cách là lời kinh của toàn thể Hội Thánh, với đầy đủ ý nghĩa và hiệu năng. Được đặt giữa kinh nguyện Thánh Thể và phụng vụ hiệp lễ, kinh Lạy Cha một đàng gồm tóm mọi lời cầu xin và chuyển cầu đã được diễn tả sau kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần, và đàng khác, lời kinh này gõ cửa Bàn tiệc Nước Trời mà việc hiệp lễ là tiền dự”.[28]

Ngoài ra, trong giáo lý, kinh Lạy Cha đóng vai trò quan trọng như là bản tóm tắt và tổng hợp giáo lý Kitô giáo, và như lời kinh nền tảng cho tất cả mọi tín hữu. Đặc biệt, người tân tòng đón nhận kinh Lạy Cha như là bản tóm lược của chân lý mới mà họ « bước vào ». Như vậy kinh Lạy Cha như là lời cầu nguyện của những ai được tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, “trong bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, nghi thức trao kinh Lạy Cha nói lên ý nghĩa việc sinh hạ mới vào sự sống thần linh.Vì việc cầu nguyện của Kitô giáo là ngỏ lời với Thiên Chúa bằng chính lời của Thiên Chúa, nên những người “đã được tái sinh..., nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống” (1Pr 1, 23) học kêu cầu Cha của mình, bằng Lời duy nhất mà Cha luôn đoái nhận. Và từ nay trở đi, họ có thể làm như thế, bởi vì ấn tín của việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần đã ghi dấu không thể xoá nhoà trong lòng họ, trên tai họ, trên môi họ, trên trọn vẹn thực tại làm con của họ”[29].

Và qua chính Thánh Thần Chúa, kinh Lạy Cha của Giáo Hội cũng trở nên lời kinh cầu nguyện tuyệt vời của mỗi cá nhân, của từng thành phần trong Giáo Hội[30].

Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện căn bản.

Trong phương diện thiêng liêng và đạo đức, giáo huấn của các tông đồ khuyên cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày 3 lần (x.Did 8,3)[31]. Ngoài ra, Cyprian đề nghị thêm hai lần nữa trong ngày, vào lúc bình minh và khi hoàng hôn. Còn đối với thánh Âu-tinh, thì một ngày sống sẽ không qua đi, nếu trong ngày đó người Kitô hữu không cầu nguyện với kinh Lạy Cha. Và thánh Âu-tinh cũng nhắc nhớ rằng: “Bạn hãy rảo qua mọi lời cầu nguyện có trong các Sách Thánh, như tôi thiết nghĩ, bạn sẽ thấy không có điều gì mà Lời Kinh Chúa dạy lại không chứa đựng và bao gồm”[32].

Trong thời Trung Cổ, kinh Lạy Cha đóng vai trò quan trọng trong giờ kinh phụng vụ của các tu sĩ, nhưng đối với giáo dân thì kinh Lạy Cha từ từ bị quên lãng. Vào cuối thời Trung Cổ và từ thời Tin Lành cải cách, thì kinh Lạy Cha tìm lại được chỗ đứng của mình trong đời sống đạo đức của giáo dân. Với Luther, thì kinh Lạy Cha không chỉ là bản văn nền tảng cho việc dạy Giáo Lý, mà còn là nguồn cho đời sống đạo đức[33].

Trong ý nghĩa thiêng liêng, một số vị thánh coi kinh Lạy Cha như là con đường dẫn họ đến với Cha trên trời, để khám phá sâu hơn tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Thánh Phan-xi-cô khó nghèo, khi suy niệm kinh Lạy Cha, ngay tại hai chữ đầu tiên « Lạy Cha », thánh nhân đã « tuyên xưng » Cha trên trời là Đấng chí thánh và là Đấng tạo dựng chúng ta, cứu rỗi và an ủi chúng ta[34]. Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, trong cuốn «Chemin de perfection», ở phần dẫn nhập vào những từ ngữ đầu tiên của kinh Lạy Cha, đã thốt lên những tâm tình sau : « Lạy Cha chúng con ở trên trời !...Ô ! thật là chính đáng khi linh hồn bước vào trong cõi thâm sâu của mình. Linh hồn có thể vươn lên trên chính mình, và lắng nghe lời của Chúa Con chỉ cho thấy nơi mà chính Cha của linh hồn đang cư ngụ, Cha đang ngự ở trên trời. »[35]. Và đối với thánh Tê-rê-sa Hài Đồng thì : « Đôi lúc, khi tâm hồn tôi khô khan tột cùng đến nỗi tôi không tìm đâu ra một tâm tình hay suy nghĩ nhỏ bé nào giúp tôi kết hiệp với Thiên Chúa nhân lành, thì tôi liền nhẩm đi nhắc lại lời kinh Lạy Cha và kinh Truyền Tin. Chính những lời kinh này đã đưa lại cho tôi niềm vui, và nuôi dưỡng linh hồn tôi với những « thức ăn » thiêng liêng bổ ích[36] ».

Kinh Lạy Cha với ba thời điểm thiêng liêng.

Theo Martini[37] , dựa vào cấu trúc của kinh Lạy Cha, chúng ta có thể nhận ra được ba thời điểm thiêng liêng được diễn tả sống động qua hình ảnh của những giếng nước ở một số công viên. Thời điểm đầu tiên tương hợp với hình ảnh của các tia nước phát xuất từ nguồn nước. Thời điểm thứ hai là hình ảnh các tia nước bắn lên trên cao và hình ảnh thứ ba là lúc các tia nước rơi xuống và bắn tung tóe.

Thời điểm thiêng liêng đầu tiên là tại nguồn nước, lời cầu nguyện “lạy Cha” được cất lên trong tinh thần trẻ thơ. Nghĩa là, khi thưa “lạy Cha” là người cầu nguyện như những trẻ thơ trước mặt Cha trên trời, đang sống động lại bí tích Thánh Tẩy. Thật vậy, tinh thần trẻ thơ là nền tảng cho những lời cầu nguyện. Thái độ của trẻ thơ đối với người Kitô hữu mang một ý nghĩa quan trọng, vì đời sống vĩnh cửu hệ tại ở tinh thần và đời sống trẻ thơ. Đối với Martini, cũng thật là ý nghĩa để nhấn mạnh rằng, chúng ta có thể kêu lên “lạy Cha” trước mỗi lời cầu xin trong lời kinh Lạy Cha: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển; lạy Cha, xin cho triều đại Cha mau đến; lạy Cha, xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời; lạy Cha, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; lạy Cha, xin tha tội cho chúng con; lạy Cha, xin gìn giữ chúng con trước các cơn cám dỗ và lạy Cha, xin cứu chúng con ra khỏi sự dữ.

Thời điểm thứ hai là những lời cầu xin với Cha trên trời như là những tia nước được bắn lên trời cao: “Nước Cha trị đến, danh Cha cả sáng, ý Cha thể hiện”. Những tâm hồn đã được thanh tẩy, với sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa đang ngẩng đầu lên hướng về trời cao, hướng về Cha để cầu nguyện với Cha, Đấng tạo dựng, Đấng là trung tâm điểm của cuộc sống.

Thời điểm thứ ba là những tia nước được bắn lên giờ đây lại rơi xuống. Nghĩa là, chúng ta đang được Thánh Thần Chúa ngự xuống và tràn đầy vào cuộc sống chúng ta. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống diễn tả tâm tình chúng ta đang đói khát, chúng ta đang cần đến sự thứ tha, chúng ta yếu đuối và bất cứ lúc nào cũng có thể rơi vào những cám dỗ. Vì thế, khi chúng ta cầu nguyện với kinh Lạy Cha, là lúc chúng ta đang “trằn trọc” với chính cuộc sống và sự hiện diện của mình: Lạy Cha, xin đừng để con rơi vào những cám dỗ. Cha thấy đấy, con luôn phải đối diện với biết bao nhiêu cạm bẫy, và con cũng yếu đuối, mệt mỏi, dễ vỡ và mỏng dòn biết bao. Xin hãy cứu con ra khỏi tất cả những chướng ngại nguy hiểm ngăn cản con đến để gặp gỡ Cha, tin tưởng vào Cha và yêu thương Cha. Đó là ba thời điểm thiêng liêng mà Martini diễn giải. Giờ đây xin đi vào tâm tình suy niệm lời kinh tuyệt hảo này.

----------------------

[1] X. O´ COLLIN G., The Lord´s prayer, Darton, Longman and Todd Ltd., London 2006, trang (t).xii.

[2] GOTTFRIED B./ HUNZE G., trong “Lexicon für theologie und Kirche”, zehnte Band, Herder Verlag, Freiburg-Basel-Rom-Wien 2001, cột (c.) 549.

[3] X. LUZ U., EKK, „Das Evangelium nach Matthäus“, 1.Teilband (Mt 1-7), Benziger Verlag und Neukirchener Verlag, Zürich, Einsiedeln, Köln 1985, t.339.

[4] Để tìm hiểu thêm về kinh cầu 18 (Schemone Esre) và kinh Qaddisch của Do-thái giáo, và so sánh các kinh này với kinh Lạy Cha, có thể tham khảo các tác phẩm sau : (1) BILLERBECK I, t.406tt ; (2) BILLERBECK IV, t.208tt và (3) GNILKA Joachim, das Matthaeusevangelium, teil 1, t.212-213 và (4) BONNARD P., DUPONT J., REFOULE F., Notre père qui est aux cieux, t.22-28.

[5] Trích dẫn bởi Refoule, trong tác phẩm của BONNARD P., DUPONT J., REFOULE F., Notre père qui est aux cieux, Cerf, Paris 1968, t.23.

[6] Trích dẫn bởi Refoule, trong tác phẩm của BONNARD P., DUPONT J., REFOULE F., Notre père qui est aux cieux, t.26.

[7] X. BONNARD P., DUPONT J., REFOULE F., Notre père qui est aux cieux, t.27-28.

[8] X. LUZ U., EKK, „Das Evangelium nach Matthäus“, 1.Teilband (Mt 1-7), t. 350.

[9] Xem (X.) WENGST Klaus, Didache - Banabasbrief - zweiter Klemensbrief - Schrift an Diognet,

[10] X. BONNARD P., DUPONT J., REFOULE F., Notre père qui est aux cieux, t.17-19.

[11] X. HAMMAN Adalbert G., Abrégé de la prière chrétienne, Desclée, Paris 1987, t.47.

[12] X. JEREMIAS J., “Das Vater-Unser”, Calwer Verlag, Stuttgart 1962, t.11.

[13] X. WENGST Klaus, Didache - Banabasbrief - zweiter Klemensbrief - Schrift an Diognet, t.63.

[14] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản tiếng Việt của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2009, số 2765, t.766.

[15] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband (Mt 1-7), t.336. Và x. BORING E., trong NIB – The new interpreter´s Bible, Volume VIII, Abingdon Press, Nashville 1995, t.202.

[16] X. GNILKA J., Das Matthaeusevangelium, 1. Teil, Herder Verlag, Freiburg - Basel - Wien 1986, t.212.

[17] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband (Mt 1-7), t.351.

[18] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband (Mt 1-7), t.334.

[19] Chú thích Mt 6 ,9 của Hurault B., trong « Lời Chúa cho mọi người », Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, bản dịch của nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội 2006, t. 1594.

[20] RATZINGER J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, Herder Verlag, 3. Auflage, Freiburg – Basel – Wien 2007, t.168.

[21] Trích trong “Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo”, số 2763, t.766.

[22] X. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2763, t.765.

[23] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband (Mt 1-7), t.352.

[24] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2764, t.766.

[25] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband, t.336-337 và x. Martini, Ne méprisez pá la Parole, t. 9.

[26] https://drive.google.com/file/d/0B-_JDLZpIaA3VzAyLXZVWXpQZTQ/view?usp=sharing

[27] X. JEREMIAS J., “Das Vater-Unser”, t.7.

[28] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2770, t.767-768.

[29] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2769, t.767.

[30] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband , t.337-340.

[31] X. WENGST Klaus, Didache - Banabasbrief - zweiter Klemensbrief - Schrift an Diognet, t.79.

[32] Trích trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2762, t.765.

[33] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband, t.338.

[34] X. HAMMAN Adalbert G., Le notre Pére dans l’église ancienne, Les Editions Franciscaines, Paris 1995, t.222.

[35] THERESE d´ Avila, Le chemin de perfection, Les édition du Cerf, Paris 1981, p.124.

[36] X. MARTINI trích dẫn trong Ne méprisez pas la Parole, Bayard, Paris 2007, t.11.

[37] X. MARTINI, C.M., Mein spirituelles Wörterbuch, Pattloch, Ausburg 1998, t.167-168.


PHẦN 1: KHI CẦU NGUYỆN, ANH EM ĐỪNG LẢI NHẢI NHƯ DÂN NGOẠI; HỌ NGHĨ RẰNG: CỨ NÓI NHIỀU LÀ ĐƯỢC NHẬN LỜI. ĐỪNG BẮT CHƯỚC HỌ, VÌ CHA ANH EM ĐÃ BIẾT RÕ ANH EM CẦN GÌ, TRƯỚC KHI ANH EM CẦU XIN.

Đừng lải nhải như dân ngoại.

Chắc chắn dân ngoại cũng có những lời cầu nguyện vắn tắt và có nội dung rất sâu sắc, nhưng bình thường thì sự lải nhải là điều mà dân ngoại thường làm khi cầu nguyện với các thần thánh của họ. Phải chăng họ nghĩ rằng, họ cần phải nói nhiều, phải lải nhải không ngừng trong lúc cầu nguyện, mới có thể làm cho các vị thần thánh xuôi lòng và « đưa tai ra hứng » những điều họ cầu xin, hay vì những lời lải nhải của họ sẽ làm cho các thần thánh đến một lúc nào đó phải « xiêu lòng». Có những người ngoại, khi cầu nguyện với thần thánh, họ kêu tới kêu lui đến 50 lần tên của vị thần thánh đó, trước khi họ mở lời xin vị thần thánh đó điều gì[1]. Phải chăng qua đó họ đỡ bị bối rối ? Phải chăng vị thần thánh của họ ở quá xa, nên họ phải gào lên, và cứ lải nhải kêu cho đến khi vị thần thánh kia xuất hiện ? Chúa Giêsu đã liên hệ đến kiểu cầu nguyện lải nhải nhiều lời của dân ngoại, để làm bài học cho các môn đệ của mình, khi Ngài dạy các ông cầu nguyện với Cha trên trời bằng tấm lòng chân thành.

Cầu nguyện với Cha bằng tấm lòng chân thành.

Thiên Chúa là Cha trên trời mong chờ tấm lòng chân thành chứ không phải của lễ sang trọng, và Ngài cũng không thích thú gì với những lời bóng bảy hay những lời cầu nguyện lải nhải dài dòng và rỗng tuếch. Nói khác đi, lời cầu nguyện và những thái độ thờ lạy phát ra ngoài miệng phải tương hợp với tâm hồn bên trong. Hy tế và hò la có nhiều đến đâu cũng vô ích, cái quan trọng là tâm hồn của mỗi người[2]:

« Chúa chẳng ưa hy lễ và hiến tế…

Lạy Chúa, sách đã chép về con

Rằng con thích làm theo ý Chúa,

Tận đáy lòng, ấp ủ luật Ngài.” (TV 39).

Nội tâm hoá là một đòi hỏi trường kỳ của Tin mừng. Đức Giêsu bảo người phụ nữ Samari: “Này chị, hãy tin Tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… những người đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong theo thần khí và sự thật”. (Ga 4, 21-23).

Vì thế, « đừng bắt chước họ », đừng bắt chước dân ngoại. Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời rất xa nhưng cũng rất gần. Ngài « đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin ». Nghĩa là Ngài biết tất cả và nhìn thấu tất cả, cả những gì tiềm ẩn nơi kín đáo nhất. Đôi mắt thấu hiểu của Ngài là đôi mắt của người cha, chứ không phải là đôi mắt lạnh lùng đầy phê bình và nghi vấn của một triết gia hay nhà nghiên cứu. Thiên Chúa nhìn bằng đôi mắt của tình yêu. Ngài biết điều gì chúng ta đang cần tới, vì thế chúng ta không cần phải gào thét lên và cũng chẳng phải lải nhải nhiều lời để làm cho Thiên Chúa phải chú ý tới. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không còn phải cầu nguyện nữa, không còn phải kêu xin Thiên Chúa nữa. Chúng ta vẫn tiếp tục cầu nguyện và hơn nữa cần phải cầu nguyện không ngừng như thánh Phao-lô khuyên nhủ (x. 1Tx 5,17). Và trong khi cầu nguyện chúng ta ý thức rằng, Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đang hiện diện bên cạnh chúng ta, và như người cha nhân từ, Thiên Chúa lắng nghe chúng ta. Sự lắng nghe và hiện diện của Chúa động viên chúng ta tiếp tục chạy đến với Chúa và kêu cầu cùng Ngài. Đức Kitô khuyên chúng ta đừng lải nhải nhiều lời khi cầu nguyện, nhưng Ngài cũng động viên chúng ta ý thức kêu xin cùng Thiên Chúa: « Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. » (Mt 7, 7-8). Vâng, lời cầu nguyện kêu xin của Kitô hữu không bao giờ thừa thãi cả.

Hơn nữa, lời cầu nguyện của chúng ta cũng không phải là nguyên nhân cho các ân sủng của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được, mà là dấu hiệu chỉ ra rằng, chính Thiên Chúa đã chuẩn bị và ban phát các ân sủng đó cho chúng ta. Nghĩa là lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy chúng ta dựa trên sự lắng nghe và sự hiện diện tình yêu của Thiên Chúa. Vâng, « Nếu Thiên Chúa càng ở sâu trong chúng ta, thì chúng ta càng ở gần Thiên Chúa trong những lời cầu nguyện »[3].

Như vậy, nếu Thiên Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta với tình yêu của một người Cha, và lắng nghe chúng ta bằng đôi tai và con tim nhân từ, thì chúng ta cần ý thức chuẩn bị sao cho lời cầu nguyện của chúng ta cũng phát xuất từ chính con tim khiêm nhường của mình. Dù có nhiều yếu đuối và lầm lỡ nhưng thật chân thành chạy đến với Cha. Không cần nhiều lời, nhưng rất đơn sơ xin Cha tha thứ những lầm lỡ của chúng ta, xin Cha ban cho chúng ta của ăn mỗi ngày sống, xin Cha che chở thân phận mỏng dòn dễ vỡ trước sức mạnh của sóng to gió lớn trên biển đời, và xin Cha cứu chúng ta ra khỏi bóng đêm đe dọa nuốt chửng tia sáng nhỏ bé là chính chúng ta. Có như vậy, thì lời cầu nguyện chúng ta sẽ đẹp lòng Thiên Chúa, vì lời cầu nguyện luôn hiệp nhất với tinh thần và tâm hồn chân thành, vì lời cầu nguyện của con người có chung một nhịp điệu với Thần Khí của Thiên Chúa. (Ss. Tu luật thánh Biển Đức, số 19,7)[4]. Trong tâm tình của người con khiêm tốn và đơn sơ, chúng ta ngước mặt lên trời và cầu nguyện cùng Cha, Đấng ngự trên trời.

--------------------------

[1] X. TRILLING W., Das Evangelium nach Mathaeus, 1.Teil, patmos Verlag, Düsseldorf 1962, t.144-145.

[2] HAMMAN Adalbert G., Abrégé de la prière chrétienne, t.22.

[3] RATZINGER J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, t. 164.

[4] Tu luật thánh Biển Đức. Bản tiếng Việt của Đan Viện Thánh Mẫu Maria, Nữ Biển Đức, Thủ Đức (Lưu hành nội bộ).


PHẦN 2: VẬY, ANH EM HÃY CẦU NGUYỆN NHƯ THẾ NÀY: LẠY CHA CHÚNG CON LÀ ĐẤNG NGỰ TRÊN TRỜI, XIN LÀM CHO DANH THÁNH CHA VINH HIỂN.

Nguyên lý và nền tảng của kinh Lạy Cha.

Trong những trang đầu tiên của sách Linh Thao, thánh I-Nhã đưa ra chủ đề « nguyên lý và nền tảng », trong đó I-Nhã nhắc đến mục đích của cuộc sống của con người, nhắc đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cũng như thái độ nền tảng cần có để con người có thể đi tìm thánh ý Chúa và tập sống theo điều Chúa muốn cho con người, hầu con người có thể đạt đến được cứu cánh của mình (ss. Linh Thao số 23). Theo Martini, chúng ta cũng có thể tự hỏi xem, trong kinh Lạy Cha có « nguyên lý và nền tảng » không ? Câu trả lời là chắc chắn có. Trong phần đầu của kinh Lạy Cha chứa đựng những nguyên lý rất nền tảng cho đời sống thường ngày của con người, đặc biệt trong ba lời cầu xin đầu tiên hướng về Cha trên trời chỉ ra nguyên lý nền tảng của đời sống con người, trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là Cha trên trời[1].

« Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời ». Kinh Lạy Cha bắt đầu như vậy. Lời cầu nguyện bắt đầu bằng hai từ « Lạy Cha » là một điều rất lạ. Không có Thánh Vịnh nào bắt đầu như thế. Vậy thì sự bắt đầu với việc kêu lên « Cha » có ý nghĩa gì ? Chúng ta cần phải tìm hiểu về ý nghĩa của điều này, bằng cách chúng ta cùng đi vào phần suy niệm và tìm hiểu từ ngữ « Cha ».

« Cha » trong ý nghĩa tự nhiên của cuộc sống.

Trước hết, từ ngữ « Cha » trong bản chất của nó chứa đựng nhiều yếu tố tình cảm. Một số người có những tương quan rất sống động và gần gũi với cha đẻ của mình từ thời ấu thơ, nhưng cũng có người lại không cảm thấy gần gũi với cha mình lắm. Đó là điều bình thường. Nhưng dù thế nào, thì cách gọi « Cha » đều đụng tới nhiều khía cạnh của tâm hồn chúng ta. Nói chung, cách gọi « Cha » chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu. Trước hết, cha cùng với mẹ, qua sự kết hiệp của cả hai, sinh ra một mầm sống mới, một người con. Sau khi sinh con ra, người Cha đóng vai trò giáo dục con cái qua chính cách thức riêng của mình, nghĩa là với sức mạnh và với quyền thế. Vì thế, trong khi giáo dục con cái, đôi khi cha cũng cần phải có những hình phạt, nhưng hình phạt của cha luôn luôn đi đôi với tình yêu thương. Ngoài ra, một cách nào đó, người cha cũng đóng vai trò chính yếu trong việc cung cấp lương thực và nuôi sống con cái và gia đình. Hơn nữa, cha cũng sẵn sàng bảo vệ và che chở con mình. Đôi bàn tay của cha chính là chỗ nương ẩn cho những đứa con thơ bé. Nếu chúng ta quan sát, sẽ thấy các em bé thường hay nhảy vào lòng cha, khi có gì đe dọa các em. Người Cha sẽ ôm con vào lòng, và sẽ che chở con mình. Như vậy, cha chính là biểu tượng cho sự ẩn núp và cho sự trợ lực. Hơn nữa, cha cũng diễn tả tinh thần của truyền thống, của giống nòi. Khi chúng ta kêu « cha », chúng ta cũng đụng tới chính nguồn gốc của chúng ta và cả căn tính của chúng ta. Theo Martini, từ ngữ “cha” trong kinh Lạy Cha mà Chúa Giê-su dạy chứa đựng tất cả những ý nghĩa vừa kể trên[2].

Nhưng không chỉ vậy, từ « Cha » trong kinh Lạy Cha phải còn có nhiều ý nghĩa khác nữa, vì một điều rõ ràng là « Cha » trong kinh Lạy Cha hướng về Thiên Chúa Cha trên trời. Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu về hình ảnh Thiên Chúa là Cha trong kinh Lạy Cha, thiết nghĩ cũng nên tìm hiểu chút về hình ảnh Thiên Chúa là Cha trong Cựu Ước.

Cựu Ước có gọi Thiên Chúa là Cha không?

Trong Cựu Ước Thiên Chúa ít khi được gọi là Cha. Khi Thiên Chúa được nhắc đến như là người Cha trong Cựu Ước, thì tình phụ tử của Thiên Chúa không giành cho tất cả mọi người trên trái đất, mà chỉ giành cho những người được Thiên Chúa tuyển lựa. Dân Ít-ra-en được coi là những người được Thiên Chúa chọn và là những người con đầu tiên[3]. Khi dân Ít-ra-en phải làm nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã gởi một sứ điệp cho vua Pha-ra-ô: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Con đầu lòng của Ta là Ít-ra-en. Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta." (Xh 4, 22-23). Chính Mô-sê cũng đã nêu bật tình phụ tử của Thiên Chúa trong bài ca của ông, bài ca ông gởi cho dân Ít-ra-en trước khi ông qua đời. Trong bài ca đó có câu:

“Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố

lại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!

Hỡi dân tộc ngu si khờ dại,

ngươi đáp đền ơn ĐỨC CHÚA vậy sao?

Há chính Người chẳng phải cha ngươi,

Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố?” (Đnl 32, 5-6).

Tình phụ tử của Thiên Chúa cũng được các tiên tri nhắc đến. Như tiên tri Hô-sê-a đã miêu tả sự chăm sóc của Thiên Chúa là Cha giành cho dân Ít-ra-en: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về” (Hs 11,1). Giê-rê-mi-a cũng giới thiệu khuôn mặt củaThiên Chúa là người Cha nhân từ:

“Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi,

Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng,

dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng,

trên đó chúng không còn vấp ngã.

Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha,

còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31, 9).

Tình phụ tử của Thiên Chúa cũng được tiên tri I-sa-i-a diễn tả thật dễ thương:

“Thế nhưng, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con;

chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài,

chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 64, 7).

Ngoài ra, thánh vịnh gia cũng nêu bật khuôn mặt người Cha của Thiên Chúa:

“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,

Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của Cha,

ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2, 7).

"Ngài chính là Thân Phụ,

là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ! " (Tv 89, 27).

Và trong sách Khôn ngoan, Thiên Chúa được nhắc đến cách đặc biệt với hình ảnh là người Cha luôn thương yêu và dẫn dắt con cái của mình. Như trong đoạn 14,3: « Thế nhưng lạy Cha, chính Cha mới quan phòng hướng dẫn vì Cha đã vạch đường giữa biển, rẽ lối an toàn trên sóng nước ».

Như vậy, trong Cựu Ước Thiên Chúa được coi là Cha và dân Ít-ra-en được gọi là con. Tuy nhiên, đối với Cựu Ước tình cha con này không mang tính cách tự nhiên, mà được giới hạn trong sự chọn lựa của Thiên Chúa. Nghĩa là chỉ có những ai được chọn lựa mới được gọi là con của Thiên Chúa. Trong Cựu Ước là thế, còn trong Tân Ước thì sao?

Chúa Giêsu với Cha trên trời.

Trong Tân Ước, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa trên trời chính là Đấng mà Ngài gọi là Abba – Cha, và Thiên Chúa trên trời cũng gọi Ngài là Con yêu dấu. Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng : « Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.’ » (Mt 3, 16-17). Ngoài ra, khi Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Abba - Cha, thì Ngài không dựa trên nền tảng của Do-thái giáo, mà dựa trên tương quan có một không hai của Ngài với Thiên Chúa. Trong khi người ta không tìm thấy trong các tài liệu về cầu nguyện và phụng vụ của Do-thái giáo một chỗ nào dùng từ ngữ Abba để chỉ cho Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su lại luôn dùng từ ngữ Abba để chỉ về Thiên Chúa, ngoại trừ tiếng kêu của Ngài trên thập tự (x. Mk 15, 34). Vì thế, cách gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi, là cách gọi riêng của Chúa Giê-su,[4] một cách gọi rất thân thương và mang tính cách gia đình. Theo Tertullianô, thì “danh hiệu Thiên Chúa là Cha, chưa từng được bày tỏ cho một người nào cả. Cả khi ông Môisen hỏi Thiên Chúa là ai, ông chỉ được nghe một danh khác. Danh hiệu này được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Con. Vì trước khi ‘Con’ đến, chưa có danh hiệu ‘Cha’”[5].

Nhưng tại sao, cách gọi Abba lại không được sử dụng trong những lời cầu nguyện và phụng vụ của Do-thái giáo? Theo Jeremias, thì người Do-thái tránh tối đa dùng những ngôn từ mang tính cách gia đình để gọi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng họ thờ lạy, nên không bao giờ họ nghĩ đến chuyện họ gọi Thiên Chúa là Abba[6].

Như vậy, cách thức cầu nguyện của Chúa Giê-su gọi Thiên Chúa là Abba thật là mới mẻ. Đó cũng là cách thức của một em bé dùng để kêu chính cha đẻ của mình, một cách thức xưng hô rất thân thương và chất chứa niềm tin tưởng mạnh mẽ[7], niềm tin luôn hướng về sự vâng lời Cha cách tuyệt đối mà chính Chúa Giê-su đã sống. Như vậy, khi Chúa Giê-su sử dụng cách thức xưng hô bình dị và thân tình này để cầu nguyện, thì Ngài muốn chỉ ra mối tương quan rất gần gũi và đầy tin tưởng của Ngài với Cha[8].

Từ ngữ Abba tương đương với ‘bố ơi, ba ơi hay tía ơi’ mà trẻ em Việt Nam thường dùng để gọi Cha mình, một từ ngữ chứa đầy lòng tin tưởng và sự thân tình, mà không có từ ngữ nào khác diễn tả được. Và cũng thật đặc biệt, khi trong tiếng Việt có thêm chữ « lạy » vào chữ « Cha », phải chăng khi người công giáo Việt Nam kêu lên “Lạy Cha” là một đàng họ muốn diễn tả lòng kính trọng tôn thờ Thượng Đế, tôn thờ Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, và đàng khác họ cũng muốn diễn tả một tương quan rất thân tình với Đấng Tạo Dựng, với Thượng Đế, Ngài chính là Cha của chúng ta.

« Cha » là một từ ngữ xác định bản chất thật của Thiên Chúa, và nói lên quan hệ chặt chẽ nối kết Đức Giêsu với Thiên Chúa là Cha trên trời, một quan hệ diễn ra trong sự yêu thương nhau tuyệt vời khôn tả. Đó chính là tiếng gọi của Ngôi Con kết hợp với Cha, cũng như qua sứ mạng mà Cha đã giao cho Người là cứu thoát nhân loại. Chính vì thế, Đức Giêsu mới dám nói: « Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con ». Và vì yêu thương mọi người, nên Chúa Giêsu hướng dẫn mọi người bước vào trong tương quan thân tình với Cha.

Qua Đức Kitô, con người bước vào « căn nhà Cha-Con » với Thiên Chúa.

Thật vậy, “chúng ta có thể kêu cầu Thiên Chúa là ‘Cha’, bởi vì Con của Ngài nhập thể mạc khải cho chúng ta và vì Thần Khí của Ngài làm cho chúng ta nhận biết ngài. Điều con người không thể nhận biết và các cơ binh Thiên Thần không thể nhìn ra, về tương quan ngôi vị của Chúa Con với Chúa Cha, thì Thần Khí của Chúa Con đã làm cho chúng ta, những người tin Chúa Giêsu là Đức Kitô và là những người được sinh ra bởi Thiên Chúa, được tham dự vào trong tương quan đó”[9].

Từ khi sống lại, Đức Kitô càng cho các môn đệ chia sẻ sâu xa hơn thân phận làm Con Thiên Chúa của mình, là Con sống trong tương quan gần gũi với Cha. Người kết hợp mọi tín hữu lại với Người, thành một thân thể, thành một dân mới. Người sai Thánh Thần đến tập cho các tín hữu làm quen với mầu nhiệm kinh hoàng đó, mầu nhiệm đã làm cho họ trở thành con cái Chúa.

Như vậy, qua kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su mở cánh cửa cho phép tất cả các môn đệ cùng những tín hữu của Giáo Hội tiên khởi ngày xưa, và chúng ta ngày nay bước vào « căn nhà Cha-Con » với Thiên Chúa, cho phép chúng ta tham dự vào trong tình Cha-Con cao quý này. Tâm tình này được Henri Nouwen diễn tả rất sống động: “Gọi Thiên Chúa “Abba” là bước vào trong một tương quan thân mật và không sợ hãi, đầy tin tưởng và phó thác với Thiên Chúa như Chúa Giê-su vậy...Gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi” (Rm 8,15; Gl 4,6) là một tiếng kêu từ con tim, một lời cầu nguyện tràn ra từ tận đáy lòng của con người”[10].

Và khi cầu nguyện « Lạy Cha chúng con », chúng ta, những Kitô hữu, nói lên một điều mà chỉ nhờ Tin Mừng chúng ta mới biết được: chỉ có một nhân vật có thể cho chúng ta biết rõ hết sự thật của cách gọi Lạy Cha, nhân vật đó là Người Con của Ngài, là Người Con độc nhất. Bởi đó cũng chỉ có Người mới xứng đáng gọi Cha ‘của Tôi’ và Cha ‘của anh em’ (Ga 20,17)[11]. Đối với Karl Rahner, khi nói về Cha của Chúa Giê-su Kitô, thì “Ngài cũng là Cha của chúng ta! Nhưng chỉ qua sứ điệp của niềm tin mà chúng ta biết được điều này, và điều này luôn là điều vĩ đại và bao la, nếu con người nhận biết Thiên Chúa là gì và chúng ta là gì”[12].

Thánh Phao-lô nói rằng : « Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Abba! Cha ơi! " Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. » (Rm 8, 15-16) và « Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi! » (Gl 4,6). Chúa Giê-su đã ban tặng Thần Khí cho chúng ta, và trong Thần Khí của Ngài, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Cha của Giê-su cũng chính là Cha của chúng ta. Đó là một ân sủng vô cùng lớn lao của Đức Kitô và của Thần Khí ban tặng cho chúng ta.

Ân sủng càng cao quý, thì càng dễ làm cho lòng người bị rung động mạnh, và càng dễ đưa tâm hồn con người đến gần với tâm hồn của Cha trên trời. Cha Brémond có kể giai thoại về một thiếu nữ chăn bò cho một nữ tu viện chiêm niệm, mỗi lần đọc ‘Lạy Cha chúng con’ đều xuất thần: « Cô thiếu nữ kỳ diệu ấy, mặt ràn rụa nước mắt, đã xin Mẹ Marie de Valence dạy cho mình biết cách để đọc cho hết kinh Lạy Cha, vì theo ngôn ngữ của người miền núi, cô ta nói ‘Con không thể nào đọc hết kinh ấy. Từ gần 5 năm nay, mỗi khi thốt lên hai chữ ‘Lạy Cha’, và nghĩ rằng Đấng ở trên nơi cao kia, vừa nói cô vừa lấy ngón tay chỉ lên trời, chính là Cha con…Con liền khóc, và cả ngày, khi trông coi bò con cứ ở mãi trong trạng thái đó[13]. Chính kinh nghiệm đơn sơ và nhỏ bé của cô thiếu nữ nông thôn trên giúp cho chúng ta khám phá sâu hơn căn tính của người Kitô hữu chúng ta.

Căn tính người Kitô hữu: là con cái của Cha trên trời.

Ân sủng cao quý là con cái của Cha trên trời còn có giá trị hơn, khi chúng ta khám phá ra được chính mình và căn tính của mình qua kinh Lạy Cha.

Khám phá ra mình mang một thân phận thấp hèn, tội lỗi, nhưng được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và đón nhận, nghĩa là từ một đầy tớ xấu, nhờ ân sủng và tình yêu của Cha, chúng ta trở nên những người con ngoan. Thánh Ambrôsiô giúp chúng ta hiểu được điều này cách rõ ràng: “Hỡi con người, bạn không dám ngước mắt lên trời, bạn đưa mắt nhìn xuống đất, rồi bỗng nhiên, bạn nhận được ân sủng của Đức Kitô, mọi tội lỗi của bạn được tha thứ. Từ một người đầy tớ xấu, bạn được trở thành người con ngoan...Vậy, bạn hãy đưa mắt nhìn lên Chúa Cha, Đấng đã sinh ra bạn nhờ Phép Rửa, Đấng đã cứu chuộc bạn nhờ Con của Ngài, và hãy thưa: ‘Lạy Cha chúng con...’. Nhưng bạn đừng đòi hỏi điều gì riêng biệt. Thiên Chúa là Cha riêng biệt đối với Đức Kitô mà thôi, và là Cha chung của tất cả chúng ta, bởi vì Ngài đã sinh ra một mình Chúa Con, còn chúng ta thì được Ngài tạo dựng. Vì thế, nhờ ân sủng bạn hãy thưa: ‘Lạy Cha chúng con”, ngõ hầu bạn xứng đáng là con của Ngài”[14].

Khám phá ra căn tính cao quý của mình. Đó là giờ đây chúng ta là những người con trai, con gái của Cha trên trời. Để phần nào hiểu và ý thức được căn tính cao quý này, chúng ta cần phải giành thời gian để cầu nguyện và suy gẫm câu mở đầu của kinh Lạy Cha nhiều lần. Trước hết, căn tính là con cái của Cha trên trời được ban tặng cho chúng ta, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thanh tẩy, và căn tính đó trải dài trong suốt hành trình cuộc sống của chúng ta. Hơn nữa trong nền tảng, căn tính là con cái của Cha trên trời đem lại cho chúng ta một niềm vui nội tâm sâu sa, và sự bình an tuyệt hảo, sự bình an của một trẻ thơ nép mình lòng Cha. Trong lòng Cha, tâm hồn của trẻ thơ an vui vô ngần. Và vui hơn nữa, khi trong bầu khí tĩnh lặng, trẻ thơ nghe được lời Cha dịu hiền vang lên: « Con là con yêu dấu của Cha », và thật đơn sơ trẻ thơ thưa lại rằng: « Thưa Cha »[15]. Đến đây, tôi nhớ lại một kinh nghiệm rất đặc biệt của cha Alfred Delp, một tu sĩ dòng Tên người Đức, trong chiến tranh thế giới thế hai, đã bị Phát-xít Đức bắt, bởi vì Ngài đã có những thái độ chống lại sự độc tài và bất công của chế độ. Cha Alfred kể lại rằng, khi bị tống giam vào ngục tù, một trong những điều đầu tiên các tù nhân nhận được, đó là họ được gắn vào trên ngực áo một con số như là căn tính mới của họ. Và tất cả đều phải nhớ nằm lòng con số của mình, vì từ đó trở đi các cai ngục sẽ không còn gọi tên của tù nhân nữa, mà chỉ gọi số tù của họ thôi. Như vậy, một cách nào đó, tên mà cha mẹ đẻ đã đặt cho giờ đây bị những kẻ ác độc tước mất. Và khi tước đi tên của người khác, thì chúng đang nhẫn tâm cắt đứt tất cả mối tương quan của họ. Ở đây là mối tương quan giữa tù nhân với gia đình, với bạn bè và với tất cả những người thân của họ. Hơn nữa, qua đó căn tính của con người bị đe dọa, và phẩm giá làm người bị xúc phạm cách trầm trọng. Suy nghĩ nhiều về điều này, Alfred Delp cảm thấy đau đớn vô cùng. Nhưng chính trong sự đau khổ đó, Alfred đã nhận được một sự ủi an sâu thẳm, khi cầu nguyện với kinh Lạy Cha. Với Alfred, dù cuộc đời này tàn nhẫn và dã man cướp mất tên mà cha mẹ đẻ đã đặt cho, và thay vào đó là con số vô nghĩa kia, nhưng cuộc đời này không thể cướp mất tình phụ tử cao quý mà Cha trên trời giành cho Alfred.

Muôn muôn đời và trong mọi hoàn cảnh, ngay cả trong hoàn cảnh đau khổ nhất, mỗi người đều có thể hướng mắt lên trời và thân thưa : « Lạy Cha – thưa Cha – Cha ơi ». Thật vậy, không có bất cứ thế lực nào có thể lấy mất được tư cách, cùng căn tính làm con Cha trên trời của mỗi người chúng ta. Cũng vậy, không ai có thể « bẻ gãy » tương quan giữa chúng ta với Cha trên trời, vì chúng ta luôn là những người con được Cha trên trời yêu thương, Đấng mà chúng ta hằng tin tưởng và cậy trông .

Sống tâm tình cầu nguyện “Lạy Cha” là sống niềm tin vào Cha trên trời.

Khi chúng ta kêu « lạy Cha » hay « thưa Cha » hoặc “Cha ơi”, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin sâu sắc của mình vào Cha trên trời. Chính tình yêu của Đức Kitô, một tình yêu hiện diện nơi người mình yêu cho đến tận thế (x. Ga 13,1), chỉ ra chính bản chất nền tảng của Cha trên trời. Cha chúng ta ở trên trời chính là tình yêu, và Ngài cũng chính là nguồn mạch của mọi sự tốt lành và sự công chính, là thước đo và là mẫu gương của tất cả những ai đã hay đang ao ước trở nên thiện hảo. Vâng, « Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. » (Mt 5,45). Tiếp đến, Đức Kitô chỉ cho chúng ta nhận ra rõ hơn khuôn mặt của Cha trong phúc âm Mát-thêu : « Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao? » (Mt 7, 9-11). Còn Luca thì diễn tả như sau: « Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?» (Lc 11,13). Ở đây Luca muốn nói rằng, ân sủng và quà tặng của Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Sự tốt lành Ngài muốn ban tặng cho chúng ta là chính Ngài. Vâng, chỉ có món quà này là cần thiết. Khi có Chúa là có tất cả[16]. Thánh Tê-rê-sa Avila đã nói rằng : « Thiên Chúa đủ cho tôi ». Còn với Mary Ward thì : « Mọi sự không bao giờ đủ cho bạn, ngoại trừ Thiên Chúa ra ». Cầu nguyện là một con đường, trên đó chúng ta có thể sàng lọc và sửa đổi tất cả những ao ước và đam mê của mình, và từ từ chúng ta nhận ra điều duy nhất mà chúng ta cần tới. Đó chính là Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài.

Trong niềm tin tuyên xưng Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng ta, chúng ta vui mừng vì qua đó chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, và cùng với Đức Kitô được bước vào trong « ngôi nhà Cha-Con ». Sự thông hiệp của tình Cha Con với Thiên Chúa không dừng bước ở đó. Nói khác đi, tư cách làm con của Cha trên trời của chúng ta chưa kết thúc, mà chúng ta là con đó nhưng chúng ta vẫn ở trên đường tập sống để trở nên con của Cha trên trời, và hơn nữa mỗi ngày trở nên giống Cha hơn.

Sống tâm tình cầu nguyện “Lạy Cha” là quyết chí muốn nên giống Cha.

Ngay từ ngày đầu tiên khi được sinh vào cuộc đời, con người chúng ta đã được mang hình ảnh của Chúa, được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài. Nhưng vì tội lỗi, con người đã đánh mất đi vẻ đẹp thanh cao của người con của thuở ban đầu. Tuy vậy, nhờ ân sủng, con người chúng ta được phục hồi việc nên giống Cha trên trời. Vì thế, trong ân sủng chúng ta cần phải cố gắng nỗ lực qua cách sống, cách suy nghĩ và hành xử của mình sao cho tương xứng với vai trò là con, những người con quyết chí muốn nên giống Cha, như lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).

Thánh Cyprianô cũng nhắn nhủ rằng: “Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải hành động như những người con của Thiên Chúa”. Còn thánh Gioan Kim Khẩu thì: “Anh em không thể gọi Thiên Chúa là Cha nhân lành nếu vẫn còn lòng độc ác và bất nhân; bởi vì anh em không còn giữ được trong mình chứng tích về sự nhân lành của Cha trên trời nữa”. Và thánh Grêgôriô Nyssênô mời gọi: “Hãy luôn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Cha trên trời, và phải tô điểm tâm hồn mình theo vẻ đẹp đó”[17].'

Thật vậy, nếu chúng ta càng gắn chặt với Cha, càng tin tưởng mạnh mẽ vào Cha, và càng sống gần gũi với Cha trong một ngôi nhà, thì chúng ta đang tô điểm mình theo vẻ đẹp của Cha, và càng dễ dàng trở nên người con giống Cha.

Như vậy, « là con » đồng nghĩa với tinh thần sống đức tin, và đồng nghĩa với tinh thần sống quyết tâm nên giống Cha. Và “là con”, chúng ta cũng luôn hướng nhìn lên Đức Kitô, là Anh Cả của chúng ta, Người Anh đã dẫn chúng ta đến với Cha. Người Anh đã sống theo tinh thần của Cha và sống kết hiệp mật thiết với Cha cách đặc biệt và sống trọn vẹn theo thánh ý của Cha.

Sống tâm tình cầu nguyện “Lạy Cha” là sống theo thánh ý của Cha.

« Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con. » (Ga 17,10). Đức Kitô đã thốt lên như vậy trong lời cầu nguyện của Ngài với Cha. Trong dụ ngôn người cha nhân hậu, người Cha cũng đã thốt lên một lời tương tự như vậy đối với người con cả: « Tất cả những gì của cha đều là của con. » (Lc 15,31). Trong sự kết hiệp sâu sắc với Cha, Đức Kitô luôn sống đúng tinh thần của Cha. Thánh Ý của Cha chính là lương thực nuôi sống Ngài, lương thực đó Đức Kitô khát khao đón nhận ngay cả những lúc bóng đêm đen tối bao phủ Ngài : « Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. » (Mt 26,39). Chúng ta đừng quên rằng Đức Kitô đã lặp lại lời đó đến ba lần trong khi cầu nguyện trong vườn cây dầu (x. Mt 26, 42 và 44).

Như vậy, khi dạy chúng ta cầu nguyện « lạy Cha », Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta, những anh chị em của Ngài, tham dự vào trong quyết định thật quả quyết, là sống thi hành trọn vẹn thánh ý Cha trên trời. Vâng, « ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. » (Mt 12,50). “Sống thánh ý của Cha”, nói thì dễ nhưng trong thực tế thì thật khó. Không ít lần, vô ý hay hữu ý chúng ta sống ngược lại hoàn toàn với những gì Chúa dạy. Chúa Giê-su đã hiểu thấu sự cứng đầu và tội lỗi của con người chúng ta, là thường xuyên làm ngược lại thánh ý Chúa. Và cũng chính Đức Kitô đã đón nhận những hậu quả thật đau đớn của tội lỗi chúng ta gây nên. Đó là chính cái chết của Ngài trên thánh giá. Dù vậy, trước khi chết, Ngài vẫn nhân từ cầu cho chúng ta : « Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. » (Lc 23, 34). Cái u muội đần độn của con người hy vọng sẽ là bài học quý báu cho mỗi người trong từng thế hệ. Mong sao chúng ta luôn ý thức tập sống luôn gần gũi với Cha trên trời, cả những lúc vui cũng như lúc buồn, cả những khi được an ủi cũng như khi buồn bã chán nản. Ước ao sao chúng ta luôn can đảm đi con đường mà Cha muốn chúng ta đi, con đường của tình yêu, của niềm tin tưởng, của vâng phục, của ăn năn và của trở về. Có như vậy thì ở chặng cuối của con đường đời, chúng ta có thể thốt lên như chính Đức Kitô : « Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. » (Lc 23,46).

Hy vọng lời kinh Lạy Cha mà chúng ta đọc mỗi ngày « Lạy Cha chúng con ở trên trời », luôn sống động trong chúng ta. Nghĩa là, « khi chúng ta cầu nguyện như thế, thì chúng ta đang vâng phục thánh ý của Chúa » (Tertulian)[18]. Và lời kinh lạy Cha cũng nhắc nhớ chúng ta cẩn trọng đừng để ý riêng của chúng ta đi lệch với thánh ý của Chúa. Hơn nữa, một cách chân thực, người con giống cha không chỉ với khuôn mặt, mà cần giống cả cách cư xử nữa[19].

Tóm lại, có thể nói chữ ‘Cha’ diễn tả trọn vẹn mạc khải của Kitô giáo, diễn tả trọn vẹn đức tin của người tín hữu: quan hệ con thảo với Thiên Chúa của Đức Giêsu và, trong Người, quan hệ con thảo của mọi tín hữu. Thánh Augustin kết luận: « Con cái Thiên Chúa là thân thể của Con Một Thiên Chúa ». Chỉ nhờ đức tin ta mới được sinh ra từ nơi Thiên Chúa và mới sửng sốt khám phá ra rằng chúng ta có một « Cha ở trên trời »[20].

Như vậy, không phải nhờ trí tuệ, mà là nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta đã vượt qua được ngưỡng cửa của mầu nhiệm sâu thẳm ấy: trong mầu nhiệm đó, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, là Đấng khai sinh ra sự sống mới, sự sống ấy đã vọt lên như một nguồn suối. Đức tin sẽ cắm chúng ta vào sâu nơi Thiên Chúa, cho chúng ta thông công với sức sống sâu xa của Người, mà theo lời của Clément (Alexandrie) sự sống đó là một « mùa xuân bất tận »[21]. Và ở trong mùa xuân vĩnh cửu này, chúng ta cùng hiệp thông với hai vị thánh cả chúc tụng cha trên trời. Trước hết cùng thánh Phê-rô: « Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. » (1P 1,3-4). Và cùng thánh Phao-lô : « Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. » (2Cr 1,3-4).

Hai lời chúc tụng trên thật đẹp biết bao. Ước sao, hai lời chúc tụng đó thực sự là những lời chúc tụng của chúng ta, những người con cầu nguyện cùng Cha: “Lạy Cha chúng con”.

Lời kinh số nhiều với từ ngữ « chúng con ».

Trong khi Luca (11,2) chỉ viết « Lạy Cha », thì Mát-thêu lại thêm vào hai từ « chúng con », để nhấn mạnh đến tinh thần hiệp thông của một cộng đoàn cầu nguyện. Như vậy, kinh Lạy Cha không chỉ là lời cầu nguyện của cá nhân, mà trên hết là lời cầu nguyện của cộng đoàn, của tập thể. Tinh thần cộng đoàn trong cầu nguyện cũng là điều quen thuộc đối với người Do-thái, vì đối với họ, khi cầu nguyện, tâm hồn của mỗi người cần phải hướng về và hiệp nhất với cộng đoàn của mình[22].

Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì : « Thật vậy, chúng ta gọi Ngài là Cha ‘chúng con’ vì Hội thánh của Ðức Kitô là sự hiệp thông gồm đông đảo anh em, tạo nên ‘một trái tim và một linh hồn’ (Cv 4,32) »[23]. Trong Thánh Lễ, mọi người trong cộng đoàn dân Chúa luôn hiệp thông cầu nguyện với kinh Lạy Cha qua chính lời mời gọi của chủ tế: « Chúng ta dám nguyện rằng. »

Khi chúng ta, cộng đoàn dân Chúa, đáp lời: “Lạy Cha chúng con”, là chúng ta thoát được chủ nghĩa cá nhân, bởi vì tình yêu, mà chúng ta đón nhận, giải thoát chúng ta khỏi điều đó. Thuật ngữ “chúng con”, ở đầu kinh Lạy Cha, cũng như thuật ngữ “chúng con” trong bốn lời xin cuối cùng, không loại trừ một ai. Để thật lòng đọc kinh Lạy Cha, chúng ta phải vượt qua mọi chia rẽ và đối nghịch[24].

Đối với Martini, « chúng con » ở đây còn được hiểu rộng hơn nữa, nghĩa là không chỉ giới hạn ở những tín hữu đã lãnh nhận bí tích rửa tội. « Chúng con » ở đây cũng chỉ đến những anh chị em « Kitô hữu vô danh ». Đó là thuật ngữ mà thần học gia Karl Rahner sử dụng đầu tiên để diễn tả những anh chị em dù không quen biết Đức Kitô, nhưng với tất cả sự ý thức, trong ân sủng của Đức Kitô, họ đang sống tinh thần của Đức Kitô. Họ cũng là những người con của Thiên Chúa là Cha trên trời[25]. Như vậy, khi chúng ta kêu lên « lạy Cha chúng con », tức là chúng ta đang hiệp thông với rất nhiều anh chị em rải rác trên mặt đất. Sự hiệp thông này vượt qua hàng rào của ngôn ngữ và văn hóa, của chủng tộc và quốc gia, của thành phần và giai cấp. Với thánh Âu-tinh, thì khi chúng ta cầu nguyện « lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời », là lúc chúng ta khởi đi từ một gia đình thật lớn. Trước mặt Cha ở trên trời này, kẻ giàu cũng như người nghèo, người chủ cũng như nô lệ, kẻ danh giá cũng như người tầm thường đều là anh chị em của nhau[26].

Còn đối với gia đình gần gũi thân thương, khi cầu nguyện « lạy Cha chúng con », là chúng ta đang cùng hiệp thông với cha mẹ và anh chị em của chúng ta, với bạn bè tri kỷ và và những người quen rất thân thương, với anh em trong cộng đoàn tu trì, với mọi người trong giáo xứ, và với những người chúng ta đã từng gặp gỡ. Sự hiệp thông thân tình này vượt trên ngưỡng cửa của sự sống và của sự chết, nghĩa là dù cha mẹ hay ông bà, người thân hay bạn bè của chúng ta đã qua đời, chúng ta vẫn hiệp thông và hiệp nhất với họ, khi chúng ta đọc lên « lạy Cha chúng con ».

Nhưng để có thể cầu nguyện trong tinh thần hiệp thông, thì mỗi người chúng ta cần phải ý thức bước ra khỏi cái tôi đóng kín của mình, và với tinh thần hy sinh can đảm bước vào trong cộng đoàn của Giáo Hội, trong tương quan với rất nhiều anh chị em khác. Trong tinh thần này, chúng ta nói lời xin vâng với Giáo Hội, lời xin vâng đón nhận anh chị em khác[27]. Và trong mối dây hiệp thông với cộng đoàn dân Chúa, trong tương quan rất gần với mọi người trong gia đình, và với rất nhiều anh chị em khác trên thế giới, chúng ta cầu cùng « Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời ».

Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời, không xa lạ nhưng rất gần gũi.

Với từ ngữ « Đấng ngự trên trời » trong lời kinh của chúng ta, chúng ta không đưa Thiên Chúa, Cha của chúng ta, đến một hành tinh xa lạ nào, mà chúng ta tôn vinh và thờ lạy Ngài đang ngự ở trên trời và cũng ở rất gần bên chúng ta. Hơn nữa, « người đồng thời với Chúa Giê-su dùng chữ Trời để chỉ Thiên Chúa vì sợ phạm húy. Cũng trong nghĩa đó, Chúa Giê-su nói : « Cha chúng con (là) Đấng ngự trên trời, để chỉ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cũng thế, chúng ta nói « Ông Trời » để chỉ một thế giới khác, một thực tại khác không thuộc vật chất, không phải ở bên trên cũng không phải ở bên dưới, nhưng là một cõi, nơi đó Thiên Chúa là tất cả… Khi hướng lòng về Đức Chúa Trời, chúng ta không nghĩ là Người ở nơi xa vời, quá cao xa đối với chúng ta. Chúng ta chỉ cố gắng nâng tâm hồn lên tới Người[28] ».

Ngoài ra, tất cả những ai được gọi là cha dưới thế đều bởi Cha trên trời mà ra, và Cha trên trời cũng chính là tiêu chuẩn và là nguồn cội của mọi tình phụ tử, như Thánh Phao-lô nói : « tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. » (Ep 3,14-15). Chúng ta cũng nghe lời Đức Kitô nhắc rằng : « Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. » (Mt 23,9). Thực vậy, tình phụ tử của Cha trên trời giành cho chúng ta cao quý hơn tình phụ tử mang tính cách con người, bởi vì trong sâu thẳm chúng ta có thể hiện diện trên mặt đất này, là do bởi Cha trên trời, vì chính Cha trên trời mới có thể ban cho chúng ta ngôi nhà của Cha thực sự, một ngôi nhà tồn tại mãi mãi. Và nếu tình phụ tử mang tính cách con người qua đi, thì tình phụ tử của Cha trên trời vẫn tồn tại, và lúc đó sẽ nhanh chóng đến với chúng ta. Trời là chốn cao vời của Thiên Chúa, từ đó chúng ta được sinh ra, và chúng ta cũng sẽ trở về nơi đó, về với Cha[29]. Ngài hiện diện trên trời trong ánh sáng vĩnh cửu, nơi Ngài không còn sợ hãi, không còn bất công, tội lỗi cũng không còn nữa.

Trời cũng là nơi mà thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện cách tuyệt hảo, thánh ý làm cho tình yêu được tròn đầy, thánh ý ban tặng bình an hoàn hảo. Về tâm tình này, Đức hồng y Martini đã suy niệm như sau : « Tâm tình cầu nguyện này luôn đem lại cho tôi sự bình an. Trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ sống trong hoàn cảnh rõ ràng, không ít thì nhiều, chúng ta luôn luôn sống trong sự thỏa hiệp, và đôi khi chúng ta chìm sâu trong đó. Chúng ta sống trong hoàn cảnh tối tăm có nhiều sự đe dọa. Trong bối cảnh đó, đôi khi chúng ta không biết phải cư xử thế nào cho đúng với tinh thần của Tin Mừng. Hằng ngày, chúng ta thường chạy trên con đường nhập nhằng không định hướng. Nhưng khi chúng ta cầu nguyện rằng : « Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời », chúng ta tin rằng có một nơi mà ở đó ánh sáng đang chiếu soi và mọi sự đều rõ ràng, nơi đó sự công chính và chân lý đang ngự trị. Nếu chúng ta nhìn xung quanh mình, chúng ta như cảm thấy mệt mỏi và nặng nề, đôi khi bị đè nặng bởi những «đống» bất công, chúng đang bủa vây xung quanh chúng ta. Và dù muốn hay không, đôi khi chúng ta cũng tham dự vào trong những sự bất công đó. Khi tuyên xưng : « Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời », chúng ta xác tín rằng có một nơi chốn mà ở đó không còn bất công, không còn nước mắt và đắng cay, không còn mờ ám và không còn hiểu lầm. Nơi đó mọi sự đều tỏ tường và mang nét đẹp thanh cao, nơi đó mọi sự đều trong sạch. Thực, lời cầu nguyện đầu tiên của kinh lạy Cha có khả năng nuôi sống, nâng đỡ và an ủi tâm hồn[30]». Vì qua đó, chúng ta nhận được niềm hy vọng lớn lao là sẽ được gọi là những người con của Cha trên trời, là những công dân của trời cao, nơi mà tình yêu, sự công chính và nền hòa bình vĩnh cửu đang ngự trị. Và trên chốn cao vời đó, chúng ta được phép hiệp thông cùng triều thần thiên quốc tung hô danh thánh Cha vinh hiển.

« Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển ».

Đây là lời cầu xin đầu tiên trong kinh lạy Cha. Lời cầu xin này quy về đối tượng duy nhất là chính Cha trên trời. Như vậy, lời cầu xin này mang một nguyên lý và nền tảng sâu sa: chỉ có Cha là « tác giả duy nhất » làm cho chính Danh của Ngài được vinh hiển, và thông phần với Cha là chính Đức Kitô, Con yêu dấu của Cha. Qua Đức Kitô cũng như sự dạy dỗ của Ngài, chúng ta, một cách nào đó, cũng được thông phần làm cho danh Cha được vinh hiển[31]. Tuy nhiên, tên Đức Chúa Trời hay « Danh thánh Cha » là gì vậy ?

« Ta là Đấng Hiện Hữu ».

Muốn hiểu được phần nào danh Thánh Chúa, thì cần phải đi vào câu chuyện của ông Mô-sê gặp Chúa nơi bụi gai (Xuất hành 3). Đang khi Mô-sê chăn chiên trên núi Khô-rếp, thì nhìn thấy bụi gai cháy bừng, nhưng lại không bị thiêu rụi. Vì hiếu kỳ tò mò, Mô-sê tự nói với mình : « Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? » Khi tới gần bụi gai thì có tiếng nói với ông rằng : « Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. » (Xh 3,6). Và chính Thiên Chúa này đã sai ông trở về Ai-cập với sứ mạng, đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập để trở về đất hứa. Như vậy, trong danh Thánh Thiên Chúa, Mô-sê đòi hỏi Pha-ra-ô cho dân Ít-ra-en tự do trở về.

Nhưng vào thời đó có rất nhiều thần thánh mà dân chúng tôn thờ, nên Mô-sê liền hỏi tên của Thiên Chúa. Câu trả lời của Thiên Chúa vừa là sự thinh lặng vừa là sự mạc khải. Sự mạc khải cả về danh Thánh, cả về sự vô danh của Ngài. Vì thế, mà ở Ít-ra-en danh thánh Thiên Chúa, danh mà người ta lắng nghe qua từ ngữ « JHWH - Giavê », không được phép kêu lên. Người ta không được phép làm cho danh Thánh của Chúa trở nên thấp hèn. Cho nên không thể chuyển ngữ danh Thánh Chúa, một danh Thánh thật huyền bí, và nếu có chuyển ngữ thì cần phải cẩn trọng vô cùng. Simon Weil, một nhà huyền bí người Pháp, gốc Do-thái, đã nói rằng : « Chỉ có Thiên Chúa có khả năng tự đặt tên cho chính mình. Môi miệng của con người không thể kêu tên của Ngài được »[32].

Trở về với câu chuyện của Mô-sê, đương nhiên Thiên Chúa không im lìm trước câu hỏi của Mô-sê, và Ngài đã trả lời rằng : « Ta là Đấng Hiện Hữu ».Theo ĐTC Biển Đức 16, thì câu trả lời này vừa mạc khải danh Thánh, vừa chỉ cho thấy tính cách vô danh của Thiên Chúa. Làm sao có thể hiểu được tính cách nước đôi trong câu trả lời trên? Đầu tiên, chúng ta cần phải làm sáng tỏ một điều : Tên thực sự là cái gì vậy ? Một cách nào đó chúng ta có thể nói rằng, tên giúp cho chúng ta có thể gọi hay kêu một ai đó, nghĩa là tên đóng vai trò quan trọng để tạo nên mối tương quan. Ông A-đam khi đặt tên cho thú vật, thì không có nghĩa là để chỉ về bản chất của chúng, mà ông muốn đưa chúng vào trong thế giới của con người, ông đặt cho mỗi con vật một tên để mọi người có thể gọi chúng. Qua đó, ông tạo nên mối tương quan giữa con người và các loài thú. Từ đó, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, Thiên Chúa cũng muốn xây dựng mối tương quan với chúng ta, qua chính danh thánh của Ngài. Ngài cho phép chúng ta kêu lên Ngài với chính tên của Ngài. Thiên Chúa bước vào trong tương quan với chúng ta và giúp chúng ta cũng có thể có tương quan với Ngài. Điều này có ý nghĩa là Thiên Chúa sẵn sàng hiến thân mình cho thế giới của nhân loại. Ngài luôn ở đó, để bất cứ ai cũng có thể kêu cầu đến, và Ngài cũng có thể bị con người xúc phạm và tổn thương. Vâng, khi đồng ý bước vào tương quan với con người, là Thiên Chúa sẵn sàng đi vào một cuộc phiêu lưu. Qua biến cố Nhập Thể của Đức Kitô, Danh Thánh của Thiên Chúa được mạc khải cách trọn vẹn. « Con đã cho họ biết danh Cha. » (Ga 17,6). Chúa Giê-su đã nói như thế trong lời cầu nguyện của mình với Chúa Cha. Như vậy, có thể nói rằng, biến cố gặp gỡ Chúa của Mô-sê ở bụi gai đã được thực hiện cách trọn hảo qua chính Mô-sê mới là Chúa Giê-su, người Con của Cha trên trời. Bây giờ, trong người Con này, Thiên Chúa có thể được kêu lên với chính danh thánh của Ngài. Vâng, Thiên Chúa đã đi vào thế giới và đã phó mặc chính mình vào trong đôi tay của nhân loại[33].

Danh Thánh của Cha trên trời có thể bị xúc phạm.

Thiên Chúa càng phó mặc chính mình cho chúng ta, thì chúng ta càng có thể làm cho ánh sáng của Chúa bị lu mờ đi. Cũng thế, Thiên Chúa càng gần chúng ta chừng nào, thì những hành động xấu xa của chúng ta càng dễ làm cho khuôn mặt của Thiên Chúa mờ nhạt đi, và càng dễ xúc phạm đến danh thánh của Chúa.

Trong Cựu Ước, tiên tri Ê-dê-ki-en cũng đã nêu lên sự xúc phạm danh Thánh của Thiên Chúa, bằng cách ông đã trích dẫn lời của Thiên Chúa nói với nhà Ít-ra-en rằng : « Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng » (Ed 36,22-23). Và « Ta sẽ làm cho danh thánh Ta được nhận biết giữa dân Ta và sẽ không để cho danh thánh của Ta bị xúc phạm nữa. Bấy giờ các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng Thánh của Ít-ra-en ». (Ed 39,7).

Như vậy, lời cầu nguyện « xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển » trong kinh Lạy Cha, cũng liên hệ đến những sự kiện trong quá khứ mà thánh danh Chúa đã bị con người xúc phạm[34]. Nói một cách khác đi, lời cầu xin trên mà Chúa Giê-su dạy chúng ta vang lên trong một thế giới đen tối, ác độc, xấu xa. Trong bóng đêm của cuộc đời, lời cầu xin như chỉ cho chúng ta thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là công chính, chỉ có Thiên Chúa, Cha trên trời, là thánh và là nguồn ánh sáng chiếu soi và sưởi ấm cuộc đời này. Chân lý này được mọi người tín hữu chân chính đón nhận và tuyên xưng. Mẫu gương đặc biệt trong các tín hữu là chính Đức Mẹ Maria.

« Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! »

Để đi sâu hơn nữa vào lời cầu xin này của kinh Lạy Cha, chúng ta chạy đến với Mẹ Maria để học cùng Mẹ, vì chính Mẹ đã cảm nghiệm sâu huyền nhiệm của danh thánh Thiên Chúa. Trong bài ca Magnificat, Mẹ đã cất lên lời ca: « Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! » (Lc 1,49). Tâm tình ca ngợi danh thánh Chúa của Mẹ Maria nhắc nhớ chúng ta một điều, đó là hành động của Thiên Chúa luôn tương hợp với bản chất của Ngài. Bản chất của yêu thương, của lòng nhân từ vô bờ bến. Về điều này, François Bovon đã nói rằng : « Trong sự trung thành với danh Thánh của mình, nghĩa là trung thành với chính mình, Thiên Chúa cứu rỗi dân của Ngài »[35]. Và tất cả những người được cứu đều biết đến Danh Thánh của Đấng Cứu Rỗi, bằng cách họ đã đón nhận và được sống trong ân sủng và tình yêu thương của Đấng Cứu Rỗi. Trong Cựu Ước, thánh vịnh gia cũng đã thốt lên : « Người đem lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến muôn đời. Tôn danh Người thánh thiêng khả uý. » (Tv 111, 9).

Như vậy, Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu sa ân sủng cứu rỗi và yêu thương của Thiên Chúa, vì thế với tất cả tâm hồn Mẹ đã thốt lên lời ca ngợi tuyệt vời như vậy. Và không chỉ Mẹ, mà tất cả chúng ta, ai khám phá dấu ấn tình yêu Chúa trong đời mình, đều muốn thốt lên như thế.

Cùng cầu nguyện với Mẹ Maria: « xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển ».

Khi chúng ta cầu nguyện « xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển », là chúng ta đang ao ước tất cả mọi người trên thế giới này đều khám phá được Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời và cũng là Cha dưới đất, người Cha nhân từ, người Cha luôn đứng chờ con ở cửa nhà, và vui mừng hớn hở khi thấy con đi hoang trở về. Và lúc con mới xuất hiện ở đầu làng, Cha đã chạy đến ôm lấy con mình, hôn lấy hôn để khuôn mặt lấm bụi đời của con. Nụ hôn và vòng tay của Cha trả lại cho con tư cách làm con, đeo lại cho con chiếc nhẫn của tình cha con, mặc cho con chiếc áo mới nhất, tẩy sạch tất cả những gì ô uế trên thân mình con, và mở tiệc mừng con trở về và sống lại với con bê đã vỗ béo (ss. Lc 15, 11-32). Tất cả cần phải ăn mừng, mọi người đều hân hoan dâng lời ca tụng như Mẹ Maria: « Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! »Và tiếp tục kêu xin: « xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển ».

Lời cầu xin này chúng ta dâng lên trong sự hiệp thông không chỉ với Mẹ Maria, mà với cả Chúa Giê-su, Đấng làm vinh hiển danh Thánh Cha trên trời cách trọn hảo: « Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha.» (Ga 17,6) Và « con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa. » (Ga 17, 26). Đức Kitô xuống trần để loan báo Tin Mừng cứu độ, loan báo về Nước Thiên Chúa, và trong sứ mạng loan báo đó, Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết về Cha. Nói khác đi, Ngài làm vinh hiển danh Cha trong lòng thế giới của chúng ta. Và danh Cha được hiển vinh trong cuộc đời của Đức Kitô cách trọn hảo, đặc biệt trong chính biến cố Phục Sinh của Đức Kitô.

Khi mạc khải danh Cha cho chúng ta, Đức Kitô cũng dạy dỗ và cho phép chúng ta thông phần làm vinh hiển danh Cha. Vâng, chúng ta đang thông phần làm vinh hiển danh Cha trên trời, khi chúng ta hằng ngày trung thành cầu nguyện và sống lời kinh Lạy Cha mà chính Đức Kitô đã dạy chúng ta. Hơn nữa, trong Cựu Ước, tiên tri I-sa-i-a có nói rằng: « vì khi Gia-cóp nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Gia-cóp là thánh, và sẽ kính uý Thiên Chúa của Ít-ra-en. » (Is 29,23), và ở sách Lê-vi có ghi lại như sau : « Các ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành. Ta là ĐỨC CHÚA. Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en. Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá các ngươi. » (Lv 22,31-32). Như vậy, chúng ta có thể thông phần làm cho danh Cha trên trời được vinh hiển, khi chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cứu độ của Ngài, sự cứu độ mà chính chúng ta đã được lãnh nhận. Và danh Thánh của Thiên Chúa đặc biệt được vinh hiển qua chính thái độ sống tuân theo những điều Chúa dạy của chúng ta, nghĩa là qua chính đời sống thường ngày của chúng ta[36].

Thánh Phêrô Kim Ngôn cũng đã chia sẻ điều này: “Chúng ta cầu xin Thiên Chúa thánh hoá Danh Ngài, nghĩa là Ngài cứu độ và thánh hoá toàn thể tạo vật bằng sự thánh thiện của Ngài. Danh đó là Danh ban ơn cứu độ cho trần gian đã hư mất. Nhưng chúng ta cầu xin để Danh Thiên Chúa được thánh hoá trong chúng ta bằng hành động của chúng ta. Bởi vì nếu chúng ta sống tốt lành, thì Danh Thiên Chúa được chúc tụng; nếu chúng ta sống tệ hại, thì Danh Ngài bị phỉ báng. Hãy nghe lời thánh Tông Đồ: ‘Chính vì các người mà Danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân’ (Rm 2, 24). Vì vậy, chúng ta cầu xin để Danh Thiên Chúa là thánh bao nhiêu, thì chúng ta sống xứng đáng với sự thánh thiện của Ngài bấy nhiêu”[37].

Nói khác đi, việc tung hô Danh Chúa luôn đi đôi với đời sống tương hợp với giáo huấn và thánh ý của Chúa. Trong Cựu Ước, các tư tế khinh thường danh Chúa đã được nhắc nhớ như sau : « Con phải kính trọng cha; tôi tớ kính trọng chủ. Vậy nếu Ta là cha, thì đâu là lòng kính trọng Ta? Và nếu Ta là chủ, thì đâu là niềm kính sợ Ta? ĐỨC CHÚA các đạo binh phán với các ngươi là những tư tế khinh thường danh Ta. - Nhưng các ngươi nói: "Chúng con khinh thường danh Ngài ở chỗ nào? " - Khi các ngươi tiến dâng thức ăn ô uế trên bàn thờ của Ta - các ngươi lại nói: "Chúng con đã làm cho Ngài ra ô uế ở chỗ nào? " - Khi các ngươi nói: "Chính bàn của ĐỨC CHÚA đáng tởm." Khi các ngươi tiến dâng một con vật mù để làm lễ tế, đó chẳng phải là xấu sao? Và khi các ngươi dâng một con vật què hay bệnh tật, đó chẳng phải là xấu sao? Hãy dâng con vật ấy cho tổng đốc của ngươi, liệu nó có bằng lòng với ngươi chăng? Hay nó có sẵn sàng đón nhận ngươi không? » (Mal 1, 6-8). Như vậy, khi các tư tế không hành động theo các giáo huấn của Chúa, thì họ không thể làm vinh hiển danh Chúa được.

Tóm lại, lời cầu nguyện « xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển » một cách nào đó vẫn còn chút huyền bí. Có lẽ lời cầu nguyện này tìm được « sự trọn vẹn hoàn toàn » của mình, khi chính Thiên Chúa là Cha làm cho danh của Ngài được vinh hiển. Vì thế, với tất cả tâm tình chúng ta tiếp tục dâng lên Cha lời cầu nguyện này, và cũng xin được hiệp thông với Đức Kitô để cố gắng sống một cuộc đời tương hợp với giáo huấn và thánh ý của Chúa. Cũng như xin Ngài giúp chúng ta luôn ý thức khám phá những hồng ân cứu độ trong cuộc đời chúng ta, và có được lòng biết ơn sâu thẳm trước Chúa là Cha. Lòng biết ơn thúc đẩy chúng ta cảm tạ Cha trên trời, và cao rao danh thánh của Ngài trên mọi nẻo đường chúng ta đi. Danh Thánh đem lại niềm hy vọng, củng cố niềm tin và chất chứa sức mạnh cứu rỗi, và cũng Danh Thánh đó đưa chúng ta về mảnh đất của yêu thương và của an bình. Mảnh đất đó chính là vương quốc của Cha.

-----------------------------

[1] X. MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.37-38.

[2] X. MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.39-40.

[3] X. The Theological-Historical Commission for the Great Jubilee of the year 2000, God, the Father of Mercy, Translate from Italian by Robert R. Barr, The Crossroad Publishing Company, New York 1998, t.35-36.

[4] X. JEREMIAS J., Abba,Vandenhoeck & Ruprecht, Göttingen 1966, t.59.

[5] Trích trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2779, t.770.

[6] X. JEREMIAS J., Abba, t.63.

[7] X. GNILKA J., Das Matthaeusevangelium, teil 1, t.217.

[8] X. LUZ U., EKK, Das Evangelium nach Matthäus, 1.Teilband (Mt 1-7), t.341.

[9] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2780, t.770.

[10] NOUWEN H., The only necessary thing, The Crossroad Publishing Company,New York 1999, t.59.

[11] X. HAMMAN Adalbert G., Abrégé de la prière chrétienne, t.50.

[12] RAHNER K., Betrachtungen zum Ignatianischen Exerzitienbuch, Kösel Verlag, München, 1965, t.20.

[13] X. HAMMAN Adalbert G., Abrégé de la prière chrétienne, t.49-50.

[14] Trích trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2783, t.771.

[15] X. MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.41-42.

[16] X. RATZINGER J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, t.170.

[17] Các trích dẫn trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2784, t.772.

[18] Trích dẫn bởi HAMMAN Adalbert G. trong « Le notre Pére dans l’église ancienne », t.29.

[19] X. Hiến luật của bậc thầy (la règle du Maître), trong « Adalbert G. Hamman, Le notre Pére dans l’église ancienne », t.182.

[20] Trích bởi HAMMAN A. G., Abrégé de la prière chrétienne, t.51.

[21] X. HAMMAN A.G., Abrégé de la prière chrétienne, t.51.

[22] X. BILLERBECK P., Das Evangelium nach Matthaüs, I Band, C.H. Becksche Verlag, München 1922, t.410.

[23] X. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2790, t.773.

[24] X. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2792, t.774.

[25] X. MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.45.

[26] X. AUGUSTIN, bài giảng số 59, trong « Adalbert G. Hamman, Le notre Pére dans l’église ancienne », t.134-135.

[27] X. RATZINGER J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, t.175.

[28] Chú thích Mt 6 ,9 của Hurault, trong « Lời Chúa cho mọi người », Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, t. 1595.

[29] X. RATZINGER J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, t.175-176.

[30] MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.47-48.

[31] MARTINI, Ne méprisez pas la Parole, t.71.

[32] WEIL S., Attente de Dieu, La Colombe, Paris 1950, t.213.

[33] X. Ratzinger J., Benedikt 16, Jesus von Nazareth, t.176-178.

[34] X. GNILKA Joachim, Das Matthaeusevangelium, teil 1, t.218.

[35] BOVON F., Das Evangelium nach Lukas, EKK, III/1, Benzinger Verlag, Zürich 1989, t.89.

[36] X. GNILKA Joachim, Das Matthaeusevangelium, teil 1, t.219.

[37] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2814, t.779.


PHẦN 3: TRIỀU ĐẠI CHA MAU ĐẾN, Ý CHA THỂ HIỆN DƯỚI ĐẤT CŨNG NHƯ TRÊN TRỜI.

“Triều đại Cha mau đến”, triều đại được Đức Kitô rao giảng.

Đây là hai lời cầu xin được gói gọn trong một câu. Sau đây xin đi vào từng lời cầu xin. Trước hết, xin đi vào lời cầu xin cho triều đại Cha mau đến.

Theo một số nhà chú giải kinh thánh, lời cầu xin này là lời cầu xin rất căn bản. Để tìm hiểu và suy niệm lời cầu xin này, trước hết chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ « triều đại » hoặc « vương quyền » trong lời cầu xin.

Trong tiếng Hy-lạp, từ ngữ này được gọi là « basileia » vừa có nghĩa là vương quốc, vừa có nghĩa vương quyền và triều đại. Vương quốc hay triều đại nói tới trong lời cầu xin này thường được Đức Giê-su dùng, vì thế có thể nói rằng, đó là « từ ngữ của Chúa Giê-su »[1].

Chúng ta cũng nhận ra rằng, Vương quốc Thiên Chúa gắn liền với Chúa Giê-su và sứ mạng của Ngài. Rao giảng vương quốc của Thiên Chúa, đó chính là mục đích chính yếu mà Đức Giêsu muốn nhắm tới trong lời Người giảng và trong các việc Người làm.

Trong phúc âm Mát-thêu, chúng ta đọc lại câu hỏi của các nhà chiêm tinh bên Đông Phương : « Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt 2,2). Qua câu hỏi này, các nhà chiêm tinh muốn nói về Vương Quốc và Vua của Vương Quốc đó. Và hậu quả là vị vua Do-thái thời đó là Hê-rô-đê đã sợ hãi và tìm cách để khử trừ « Vị Vua của Vương Quốc » mới được sinh ra trên chính mảnh đất Do-thái. Để tránh mối họa đó, vị Vua trẻ thơ của Vương Quốc đã được cha mẹ đưa đi lánh nạn ở Ai-cập.

Sau khi trở về lại Do-thái, vị Vua của Vương Quốc là Chúa Giê-su đã sống ẩn dật ở Na-gia-rét, cho đến khi Ngài lớn lên và bắt đầu sứ vụ của mình : « Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ´Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng´. » (Mc 1, 14-15)[2].

Đi sâu hơn, chúng ta hỏi rằng Chúa Giê-su cách nghĩa từ ngữ này như thế nào ? Trong tin mừng nhất lãm, Chúa Giê-su đã dùng nhiều cách thức khác nhau để diễn tả triều đại Thiên Chúa, đặc biệt trong các dụ ngôn. Chẳng hạn như trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, Chúa Giê-su đã nói rằng : « Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất… » (Mc 4,26), và sau đó ở Mc 4,30, Ngài lại đưa hình ảnh Nước Trời vào dụ ngôn khác : « Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. » (Mc 4, 30-32). Ngoài ra, cũng nên nhắc đến dụ ngôn quen thuộc nhất diễn tả Nước Thiên Chúa, đó là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4, 1-20).

Tóm lại, Chúa Giê-su khi nói về Nước Thiên Chúa, Ngài thường dùng dụ ngôn để nói, để diễn đạt và so sánh. Nhưng Ngài không bao giờ nêu lên một định nghĩa nào về Nước Thiên Chúa[3].

“Triều đại Cha” với trí hiểu giới hạn của con người.

Trở về với chính mình, chúng ta tự hỏi xem, phần chúng ta hiểu thế nào về Nước Thiên Chúa, mỗi lần chúng ta đọc hay lắng nghe những từ ngữ đó ? Bản thân tôi, từ trước đến giờ vẫn luôn mường tượng Nước Thiên Chúa là nơi Thiên Chúa ngự trị, và nơi đó tình yêu của Ngài đang hiện diện, nơi đó không còn bất công và khổ đau, nơi đó tất cả mọi người và mọi vật đều được hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau, một sự hiệp nhất trong tình yêu.

Alfred Delp khi viết bài suy niệm kinh Lạy Cha trong nhà tù của phát-xít Đức, đã nói rằng : « Khi con người ở trong ân sủng của Thiên Chúa, khi thế giới ở trong trật tự của Thiên Chúa : Đó là Nước Trời »[4]. Thực vậy, nước Thiên Chúa không chỉ là nơi cao xa mà triều thần thánh đang hiện diện và Thiên Chúa đang ngự trị ở giữa, mà Nước Trời cũng đang hiện diện ở giữa lòng thế giời này, khi thế giới tuân theo trật tự của Thiên Chúa và sống theo thánh ý của Ngài, cũng như khi con người đồng ý đón nhận ân sủng Chúa ban và sống trong ân sủng của Người. Như thế, triều đại của Thiên Chúa luôn hiện diện trong tình yêu và với tình yêu. Triều đại đó, trên hết cần phải được xây dựng qua sự can thiệp của Thiên Chúa, qua sự can thiệp của Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su xây dựng Nước Thiên Chúa.

Chúa Giê-su xây dựng Nước Thiên Chúa bằng cách thức của Thiên Chúa, chứ không bằng cách thức của loài người chúng ta. Ngài không dùng đến bạo lực, không dùng đến sức mạnh và vũ lực để chiến thắng trong vinh quang, để xây dựng một « lâu đài » nguy nga là biểu tượng của vương quyền. Ngược lại, cách thức Ngài dùng rất nhẹ nhàng và rất đơn sơ. Đó là cách thức của kẻ tôi trung, của người phục vụ trong khiêm hạ. Qua chính cách thức rất khiêm nhường này, Ngài đã cứu thoát và chuộc lại tất cả mọi người khỏi vương quyền của Satan. Vâng, trước khi Nước Thiên Chúa xuất hiện thật rực rỡ trong vinh quang vào ngày cánh chung, lúc đó tất cả mọi người đều được hiện diện trước tôn nhan huy hoàng của Thiên Chúa, thì Nước Thiên Chúa xuất hiện rất nhỏ bé như hạt cải bé nhỏ nhất. Hạt cải nhỏ bé này đã được vùi sâu vào mảnh đất của nhân loại hôm nay, và qua Giáo Hội đang phát triển từ từ trên trái đất này. Một ngày nào đó, hạt cải mọc thành cây lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá của nó xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Đó chính là mầu nhiệm của nước Thiên Chúa, mầu nhiệm vượt qua khỏi trí hiểu của con người.

Chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm sâu sa của nước Trời, nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm được phần nào sự hiện diện của Nước Trời qua chính Đức Kitô, Đấng xây dựng Nước Trời trong tinh thần hiền lành và khiêm nhượng. Tinh thần đó được bắt đầu bằng chính các mối phúc hiền lành, nghèo khó, công chính, hòa bình…, mà chính Đức Kitô đã rao giảng, và chính Ngài là người sống và thực hành đầu tiên. Chúa Giêsu sống tinh thần của Nước Trời, nên Ngài chính là Con Thiên Chúa cao sang, nhưng đã sẵn sàng đón nhận sự nghèo khổ nhất cho chính mình. Ngài đã tự hạ mình và hy sinh cho nhân loại, đến nỗi Ngài để mình bị nộp vào tay người đời:

“Đức Giê-su Ki-tô

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ,

trở nên giống phàm nhân

sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình,

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập tự.” (Phi 2, 6-8).

Với sự vâng lời Cha, Đức Kitô sống dấn thân cho Nước Trời, và cuối cùng Ngài đã đón nhận kết cục thật dã man. Đó chính là vành móng ngựa của con người xét xử Ngài.

Như vậy, Vương Quốc của Đức Kitô hoàn toàn khác với tất cả những vương quốc trên trần gian, những vương quốc mà trong đó sức mạnh và quyền lực của con người được đề cao. Trong vương quốc của Đức Kitô sự thật và chân lý ngự trị. Chân lý của tình yêu, của công bằng và lòng nhân. Phi-la-tô dù đã được Chúa Giê-su trả lời rõ ràng như thế, nhưng cuối cùng vẫn kết án tử Chúa Giê-su như là một kẻ cầm đầu nổi loạn chống lại cường quyền chính trị thời đó. Vì thế, trên thánh giá của Đức Kitô, Phi-la-tô ra lệnh treo tấm bảng với dòng chữ: “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái” (Ga 19,19)[5].

Khi bị treo trên thập giá, thì Chúa Giêsu, sống theo tinh thần của Nước Trời, không thù hằn người đã hãm hại mình, ngược lại Ngài đã cầu xin cho họ: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 34). Và khi sống trong tinh thần của Nước Trời, Chúa Giê-su không bao giờ chọn ý mình để làm lương thực, mà ngược lại, "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34), và “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." (Mc 14,36).

Tóm lại, như Martini nói: “Vương Quốc Thiên Chúa chính là Chúa Giê-su, là chính cuộc sống của Ngài, một đời sống yêu thương và sẵn sàng chịu khổ đau”[6]. Còn đối với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI thì: « Nơi đâu Chúa Giê-su đang hiện diện, thì Nước Trời cũng đang có mặt »[7]. Cũng thế, thánh Cyprianô cũng đã nói: “Có thể nói, Nước Thiên Chúa là chính Đức Kitô, Đấng chúng ta hằng ngày khát khao Người đến, và chúng ta mong mỏi việc Người ngự đến mau mau được tỏ hiện cho chúng ta”[8].

Như vậy, Nước Trời được chính Đức Kitô giới thiệu trong cách thức thật tuyệt vời. Nước Trời gắn liền với sự nghèo khó khiêm hạ của hang bò lừa ở Bê-lem; với những dấu chân rảo bước của người Mục Tử hiền lành, khiêm nhượng và nhân lành, luôn sẵn sàng bảo vệ chiên trước thú dữ đe dọa, và sẵn sàng hiến mình cho chiên; với chính sự tự nguyện chết cho tất cả những người con yêu dấu của Ngài; và với thập giá giương cao để cứu độ tất cả mọi người. Chúng ta, những con người được Chúa Giêsu yêu thương cứu rỗi cũng được Ngài cho phép thốt lên lời cầu xin cho triều đại Cha mau đến.

« Xin cho triều đại Cha mau đến », lời cầu xin của chúng ta.

« Xin cho triều đại Cha mau đến ». Lời cầu xin này cũng chính là lời cầu xin của chúng ta. Và phải chăng khi cầu xin như vậy, là chúng ta cũng đang cầu xin cho được trở nên giống như Đức Kitô, cầu xin cho được « tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. » (Gal 2,20). Để khi Đức Kitô sống trong tôi thực sự, thì tôi ở đâu, thì Nước Trời cũng hiện diện. Như vậy, lời cầu xin thứ hai của kinh Lạy Cha cũng là lời cầu xin cho được sống tinh thần theo bước Đức Kitô, cho được trở nên một với Ngài trong một thân thể duy nhất. Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã nói rằng : « Cầu Xin cho triều đại Cha mau đến có nghĩa là đang nói với Chúa Giê-su : Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên những người thuộc về Ngài. Xin hãy ngự đến trong chúng con, xin hãy sống trong chúng con ; xin hãy hiệp nhất tất cả nhân loại đang bị phân tán về thân thể của Ngài, để trong Ngài tất cả đều quy phục Thiên Chúa và Ngài có thể trao tất cả cho Cha, để Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả và trong tất cả »[9].

Như vậy, có thể nói rằng, Nước Thiên Chúa tiếp tục được sống động trong chính đời sống của chúng ta, các tín hữu, những tâm hồn thuộc về Đức Kitô, những cuộc đời dám quên chính mình đi, để giờ đây dù chính mình sống đấy, nhưng như không sống, vì Đức Kitô đang sống trong chúng ta. Khi có Đức Kitô là nguồn sống, thì chúng ta sẽ sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí, nghĩa là chúng ta sẽ từ bỏ con người cũ, con người thuộc về tội lỗi, để mặc lấy con người mới với tâm hồn trong sạch. Thánh Cyrillô nói rằng: “Chỉ tâm hồn thanh sạch mới có thể tin tưởng nói lên: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’. Quả thật, ai nghe lời thánh Phaolô dạy: ‘Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa’ (Rm 6, 12), và biết giữ hành động, tư tưởng và lời nói của mình trong sạch, người đó mới có thể thưa với Thiên Chúa: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’”[10].

« Xin cho triều đại Cha mau đến ». Lời cầu xin này chính là lời cầu xin của chúng ta. Khi cầu nguyện như vậy là chúng ta đang sống trong sự ý thức : « Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho » (Mt 6, 33). Qua lời nhắn nhủ này của Đức Kitô, tiêu chuẩn ưu tiên hàng đầu cho tất cả mọi việc làm và mọi hành động của con người được xác định. Thực vậy, lời của Đức Kitô giúp chúng ta phân biệt được điều gì quan trọng nhất cho đời sống làm người của chúng ta trong một thế giới phức tạp, một thế giới có quá nhiều « khuôn mặt », có quá nhiều ý thức hệ luôn nài kéo con người, một thế giới mà trong đó con người hôm nay đang là con người của kỹ thuật, của tự động hóa, của computer…, con người hiện đại của ngày hôm nay đang muốn tự hoàn thiện mình, đang muốn đặt toàn bộ lịch sử đời mình vào trong bàn tay nhỏ bé nhưng đầy tham vọng của mình. Con người hiện đại đó đang muốn trở nên « đấng tạo hóa » của chính mình, và muốn làm chủ và điều khiển hoàn toàn tương lai của mình. Vì thế, con người hôm nay đang tự biến mình thành những siêu nhân. Một kiểu siêu nhân mà Sa-tan ngày xưa đã hứa với ông bà A-dong và Ê-và : "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 2,4).

Những vị thần biết thiện và ác như là biểu tượng của những con người siêu nhân, có thể làm được mọi chuyện, có thể định đoạt và biến đổi mọi chuyện, có thể tạo nên một Vương Quốc thật quyền lực và thật hoàn hảo giành cho superman, cho các idole, cho các superstar. Chúng ta có thể nhận ra được trào lưu này qua các bộ phim, qua các trò chơi computer, qua chính sự quảng bá và quảng cáo của một số ý thức hệ. Trào lưu đó chỉ ra được một khát khao và cao vọng của con người. Và khi con người tưởng rằng mình càng ngày càng gần đạt được mục đích đó, càng cảm thấy rằng tháp Ba-bel đang ở giai đoạn hoàn thành cách mỹ mãn và hoàn hảo, thì chính lúc đó con người đang đánh mất chính mình. Vương quốc nhân trần với tháp Ba-bel cao chút vút kia tưởng như xuyên suốt qua tầng trời để rồi làm bá chủ cả đất với trời, bỗng chợt bị sụp đổ hoàn toàn thành đống tro bụi. Bụi tro phải trở về với tro bụi của đất thấp. Bụi tro chỉ có thể được biến đổi trở nên những thành phần yêu dấu của trời cao, khi bụi tro khiêm nhường đón nhận thân phận thấp bé của mình, và công nhận Đấng trên trời cao là Chủ của mình, và chỉ có Ngài mới hoàn hảo, chỉ có Vương Quốc của Ngài mới thực sự cao chút vút, một Vương Quốc của sự công chính và tình yêu.

Như vậy, lời cầu xin cho Nước Cha trị đến giúp loài người chúng ta biết luôn chỉnh đốn đời sống và hành động của mình theo trật tự của Thiên Chúa. Nói khác đi, lời cầu xin của chúng ta cũng chỉ ra trách nhiệm của con người chúng ta. Trách nhiệm dám quyết định từ chối những « tháp Ba-bel cao chút vút của cuộc đời », dám « xóa đi và giục bỏ » những tưởng tượng và những công trình làm ra một mẫu người siêu nhân. Trách nhiệm xả thân để cố gắng xây dựng một thế giới trong trật tự của Thiên Chúa, xây dựng một văn hóa yêu thương và một xã hội công bằng. Đối với Alfred Delp, lời cầu nguyện xin cho Nước Cha trị đến chỉ là lời cầu nguyện thực sự, khi con người thi hành những trách nhiệm trên cách trọn hảo, ngoài ra thì đó chỉ là lời cầu nguyện đạo đức suông mà thôi[11].

Tóm lại, khi thế giới chúng ta ở trong trật tự của Thiên Chúa, thì Vương Quốc của Thiên Chúa đang hiện diện, và chúng ta được phép sống trong đó. Nghĩa là, nơi đó Thiên Chúa và nhân loại chúng ta gặp gỡ nhau. Cuộc gặp gỡ này chính là cao điểm của hạnh phúc đời người. Hạnh phúc chúng ta được hưởng chính là được chung hưởng Nước của Chúa : « Như lương tâm làm chứng với họ, họ biết rõ rằng hễ khi nào Nước ấy xuất hiện họ sẽ được vào chung hưởng Nước ấy » (J. Cassien)[12].

Cuộc gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa cũng được thực hiện qua chính biến cố giáng trần của Đức Kitô, Đấng đã đến để xây dựng Nước Trời. Đúng là chỉ có Đức Kitô mới có thể xây dựng Nước Trời theo cách thức của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta luôn ý thức mình phải cầu xin Thiên Chúa và Đức Kitô làm cho Nước Trời đến. Trong lời cầu xin này, chúng ta cũng ý thức rằng, con người chúng ta không có khả năng xây dựng nước Trời, mà chúng ta chỉ có thể cộng tác với Chúa trong công trình đặc biệt này của Chúa. Cụ thể, chúng ta ý thức thấm nhuần và sống theo tinh thần của Đức Kitô, tinh thần của người phục vụ chứ không phải của ông chủ, tinh thần của mối phúc chứ không phải của những « bó luật lệ » nghiêm khắc, tinh thần của thánh ý Chúa chứ không phải của những mệnh lệnh đầy bạo lực. Trong tâm này chúng ta đi tiếp đến lời cầu xin thứ ba.

Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lời cầu xin này được Mát-thêu nhắc đến, còn trong Phúc Âm của Luca thì không có (x. Lc 11,2). Lời cầu xin này cũng liên hệ đến lời cầu xin cho Nước Chúa được ngự đến. Ở đây có thể nói rằng : Nước Trời ngự đến thật sự, khi thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn.

Giờ đây, từng bước một chúng ta cùng suy niệm lời cầu xin này. « Xin cho Ý Cha được thể hiện ! » Khi chúng ta thốt lên và kêu cầu như vậy, là chúng ta đang kêu cầu đến Thiên Chúa và cầu cho Ý của Ngài được thực hiện. Ở đây, một lần nữa chúng ta tự hỏi Thiên Chúa Cha là ai và thánh ý của Ngài là gì, để chúng ta kêu cầu như vậy ?

Một lần nữa chúng ta hỏi Thiên Chúa Cha là ai và thánh ý Ngài là gì?

Trong niềm tin, chúng ta tuyên xưng rằng, Thiên Chúa Cha chính là Đấng tạo dựng, Đấng toàn năng, Đấng có thể làm được mọi sự, làm được điều Ngài muốn. Sức mạnh của Ngài thì tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng Thánh, là Đấng tốt lành, Đấng luôn có ý muốn thánh thiện, ý muốn chân thật và đúng đắn, ý muốn xây dựng và thăng tiến mọi sự. Và đối với chúng ta, thật ý nghĩa biết bao, vì Ngài còn là Cha chúng ta. Đọc lại câu đầu tiên của kinh tin kính: « Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất », và chúng ta cũng nhớ lại nghi thức của bí tích rửa tội mà linh mục cử hành : « Cha rửa con, nhân danh Cha, và Con và Chúa Thánh Thần » (x. Mt 28,18), và ở đây trong kinh Lạy Cha, Đức Kitô dạy chúng ta mở đầu bằng hai từ « Lạy Cha » hoặc « Thưa Cha ». Trong thế kỷ thứ 2-3, với biểu tượng « Cha », tương quan của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, với thế giới được diễn tả cách sống động. Theo Medard Kehl, đối với các Kitô hữu thế kỷ thứ 2, thì tình phụ tử của Thiên Chúa chiếm một ý nghĩa quan trọng. Chúng ta có thể đọc lại một đoạn của Irenäus von Lyon : « Nếu Đấng Tạo Dựng, tự chính mình, sáng tạo và hoàn thiện tất cả trong sự tự do và với sức mạnh của chính Ngài, và nếu bản chất của tất cả mọi loài thọ tạo đều hướng về lại với Thánh Ý của Ngài, thì Ngài tự mạc khải như là Thiên Chúa thật, Đấng đã làm nên tất cả, và như là Đấng toàn năng duy nhất, cũng như là người Cha duy nhất…Ngài là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, Thiên Chúa của mọi người sống. Những điều luật đã nhắc đến Ngài, các tiên tri đã loan báo về Ngài, Đức Kitô đã mạc khải về Ngài, các tông đồ cũng đã giảng về Ngài, và Giáo Hội đã tuyên xưng Ngài. Qua Ngôi Lời của Ngài, nghĩa là qua người Con của Ngài, Ngài là Cha của Chúa Giê-su, Chúa chúng ta »[13]. Như vậy, tình phụ tử của Thiên Chúa được nêu bật ngay từ những thời đầu tiên và tình phụ tử của Thiên Chúa cũng vẫn sống động trong thời đại hôm nay của chúng ta. Với tình phụ tử đó, chúng ta được dẫn vào trong tương quan gần gũi và cá nhân với Ngài. Vâng, như Medard Kehl nói : « Sự hiện diện của tôi và mạng sống của tôi chắc chắn được Thiên Chúa là Cha mang vác và nói lời xin vâng »[14]. Tâm tình này có thể nhắc nhớ chúng ta về dụ ngôn « Người Cha Nhân Hậu » trong Luca 15, 11-32. Thật vậy, sau khi Chúa Giêsu nói với chúng ta về người Cha nhân hiền, mọi sự không còn y như trước nữa. Giờ đây chúng ta biết Thiên Chúa: Người là Cha chúng ta, vì yêu thương đã tạo dựng chúng ta tự do và cho chúng ta có lương tâm, Người cũng đau khổ khi chúng ta lạc đường và ăn mừng khi chúng ta trở về. Thiên Chúa luôn luôn trung thành, dù cho chúng ta xa lìa Người, và lạc lối, Người tiếp tục theo dõi chúng ta với tình yêu của Người, tha thứ các lỗi lầm và nói trong nội tâm với lương tâm chúng ta để kêu gọi chúng ta trở về với Người. Trước tình yêu nhân hậu của người Cha, Chúng ta hãy tự nhìn thấy mình trong vai trò của hai người con, và trên hết chúng ta hãy chiêm niệm trái tim của người Cha. Chúng ta hãy lao vào cánh tay Người, để cho chúng ta được tái tạo bởi tình yêu xót thương của Người.

Trong cánh tay của Thiên Chúa là Cha, giờ đây chúng ta lắng nghe nhịp đập của trái tim tình yêu và thánh ý của Cha trên trời, cụ thể chúng ta tìm hiểu sâu hơn cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Theo Guardini[15], khi Thiên Chúa sáng tạo muộn vật, và đặc biệt tạo vật cao quý nhất là con người, Thiên Chúa lần đầu tiên đã bộc lộ thánh ý của Ngài. Thánh ý sáng tạo nên sự sống trong thế giới. Thật vậy, thế giới này và trong đó các tạo vật hiện diện cách sống động, là vì Thiên Chúa muốn như vậy. Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, Ngài đã đưa vào những định luật tự nhiên, để thế giới và các tạo vật được phát triển hài hòa và dồi dào, vì thế các định luật đó cũng phản ảnh rõ ràng thánh ý của Thiên Chúa. Nên vật nào tuân phục thánh ý của Ngài, cũng như tuân theo những định luật tự nhiên đã được Chúa « cấy » vào, thì sẽ phát triển một cách tốt đẹp. Ngược lại, tạo vật nào cứng đầu « bước ra ngoài » quy luật tự nhiên, thì sẽ tự hủy hoại mình. Trong sách Khởi Nguyên (chương 1), chúng ta đọc được những lời : « Thiên Chúa phán », và « cái này rồi cái kia » được tạo thành. Khi ngắm nhìn các tạo vật đó, Thiên Chúa nói « thật tốt », thật đúng, thật xứng hợp. Điều đó diễn tả một Thiên Chúa có trách nhiệm, một trách nhiệm của tình yêu, của thánh ý hoàn hảo của Ngài.

Thánh Ý của Cha: tạo dựng con người mang hình ảnh của Ngài.

Sau khi đã tạo nên muôn vật, Thiên Chúa tạo nên thụ tạo cao quý nhất. Đó là con người mang chính hình ảnh của Chúa (Kn 1,27). Vì mang hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta có một phẩm giá cao quý. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng, phẩm giá của con người là một « kho tàng » cao quý và không ai được phép làm « tổn thương ». Hơn nữa, với phẩm giá cao quý này, nghĩa là với tâm tình « mang chính hình ảnh của Thiên Chúa », con người sống trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Đó là mối dây liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và con người ngay từ thuở ban đầu. Trong tình yêu đó, con người chúng ta còn nhận ra một điều căn bản quan trọng. Đó là mỗi người chúng ta là « người có một không hai » trên trái đất này. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là mỗi viên ngọc quý, và là viên ngọc độc nhất vô nhị trong cuộc đời này. Thật vậy, Bạn là người độc nhất vô nhị, tôi là người độc nhất vô nhị. Trong lớp giáo lý xưng tội của giáo xứ tôi, các em thiếu nhi đã khám phá tính cách độc nhất vô nhị này qua chính dấu tay của con người. Trong số hơn 8 tỷ người trên thế giới này Bạn vẫn là người độc nhất vô nhị. Ngoài Bạn ra, không có ai có dấu tay của Bạn cả. Cuộc sống của Bạn là cuộc sống độc nhất vô nhị. Không có ai đã một lần sống đời sống của Bạn, và trong tương lai cũng chẳng có ai sẽ sống đời sống của Bạn. Cuộc đời của Bạn là một viên đá độc nhất vô nhị trong một bức tranh ghép mảnh (mosaic). Cuộc đời của Bạn vô giá và không thể thay thế được. Trong tâm tình này, Medard Kehl đã thốt lên rằng : « Tôi biết ơn Thiên Chúa trong phẩm giá của tôi, một phẩm giá làm người độc nhất vô nhị, phẩm giá làm người duy nhất. Tôi cũng cám ơn Thiên Chúa trong những giới hạn của tôi, và trong cả những khả thể của tự do tôi »[16].

Là tạo vật cao quý, con người mang trong mình tinh thần và lý trí. Con người không chỉ cảm nhận được thế giới xung quanh, mà con người còn thấu hiểu được mọi vật, hiểu được bản chất, trật tự của chúng, hiểu được nguyên nhân và ảnh hưởng, hiểu được nguồn gốc và đích điểm. Hơn nữa, con người còn có được sự tự do Thiên Chúa ban tặng, một sự tự do của tình yêu thương. Với tất cả những khả năng cao quý đó, con người phân biệt với các tạo vật khác, và con người được Thiên Chúa ban cho trách nhiệm xây dựng thế giới này. Nói cách khác, Thiên Chúa đã trao vào đôi tay của con người những tạo vật rất giá trị của Ngài. Điều này làm nổi bật một lần nữa phẩm giá cao quý của con người. Một phẩm giá không chỉ dựa trên tâm tình, con người được mang chính hình ảnh của Chúa, mà còn dựa vào sự tin tưởng của Thiên Chúa giành cho con người. Như vậy, phẩm giá con người mang trong mình như diễn tả tâm tình tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Ở đây, chúng ta có thể để lời Chúa dịu dàng nói với chúng ta qua tiên tri I-sa-i-a : « Trước mắt Cha, con thật là quý giá, vốn được Cha trân trọng và mến thương. » (Is 43, 4). Vâng, trong tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta: « Hãy xem, Ta đã ghi khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta » (Is 49, 16). Khắc tên chúng ta nghĩa là Ngài ban cho chúng ta một sự sống cao quý, độc nhất vô nhị. Khắc tên trong lòng bàn tay của Ngài, nghĩa là chúng ta thuộc về Ngài, và khi thuộc về Ngài, thì Ngài luôn ở bên và nhủ thầm với chúng ta : « Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi, ngươi là của riêng Ta ». (Is 43, 1b). Trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về Ngài. Hơn nữa, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu không chỉ khắc tên, mà tình yêu đó còn gọi chúng ta bằng chính tên chúng ta. Với cái tên mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta thấy phẩm giá làm người của chúng ta cao quý biết dường nào.

Tất cả những tâm tình cao quý mà con người nhận được, chúng ta gọi là « ân sủng ». Với ân sủng đó, con người được sống trong vườn địa đàng, nơi đó có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa vui mừng, vì có mặt các tạo vật của Ngài ở gần bên, và đặc biệt có sự hiện diện của con người mang hình ảnh của Ngài. Niềm vui của Đấng Sáng Tạo thật đẹp biết bao nhiêu, và cũng thật tuyệt vời khi chiêm ngắm vẻ vinh quang, đẹp đẽ và lớn lao của các tạo vật. Nhưng những nét cao quý đó chỉ tồn tại khi các tạo vật và con người với sự tự do của mình, luôn ý thức sống trung tín, vâng phục và luôn gắn bó với Thiên Chúa.

Lời xin vâng của Thiên Chúa giành cho con người từ ngày đầu tiên vẫn không thay đổi.

Nhưng nếu con người bất tuân và bất trung, thì Thiên Chúa là người Cha Nhân Hậu vẫn tỏ lòng từ bi, và không triệt hạ con người và các tạo vật yêu quý của Ngài. Ngược lại, với đôi mắt yêu thương, Thiên Chúa vẫn ngắm nhìn con người và phẩm giá cao quý mà Ngài trao ban cho con người. Trong đôi mắt của Thiên Chúa là Cha, con người vẫn luôn quý giá, dù con người thế nào đi nữa. Lời xin vâng của tình yêu Thiên Chúa giành cho con người ngay từ ngày đầu tiên vẫn không thay đổi, dù cho con người có „quay mặt đi“ với thánh ý của Ngài. Giao ước mà Thiên Chúa là Cha ký kết với con người trong công trình tạo thành của Ngài vẫn không đổi thay, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa của Ngài, trung thành với tình yêu của Ngài giành cho con người cho tới muôn muôn đời.

Đây thực sự là một mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta không thể thấu hiểu được. Vâng, làm sao một Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và Đấng vô biên, lại vẫn yêu thương và trung tín với con người, một tạo vật đầy giới hạn và bất trung?

Không chỉ thế, Thiên Chúa còn đón nhận trách nhiệm mà tội lỗi con người đã gây ra. Trách nhiệm của Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu cao quý, tình yêu đã thúc đẩy Ngài tiếp tục thực hiện ý muốn thánh thiện: « Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất ». (Mt 18, 14).