Linh Đạo Hôn Phối

THEO THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

PHẦN 3

(Nguồn: www.vietcatholic.net)

TÌNH YÊU VỢ CHỒNG: MỘT BÀI PHỤNG CA

của Gs Trần Văn Cảnh

"Hai vợ chồng dần dần cảm thấy giảm bớt về dục vọng, nhưng gia tăng về tự do hiến thân cho nhau, kết hợp với nhau theo nam tính và nữ tính, trong ý nghĩa vợ chồng đích thực của thân xác… Như vậy, đời sống vợ chồng, theo một nghĩa nào đó, trở thành lời phụng ca…" (Đức Gioan Phaolô II, triều yết 04.07.1984).

Trong các đề tài của đời sống con người, có lẽ "tình yêu" là đề tài được nói đến nhiều nhất, trong khắp các thời đại, ở khắp các lục địa, qua khắp các thể loại nghệ thuật và văn chương. Đã là người, ai mà chẳng yêu. Nhưng yêu là gì? Vì sao yêu? Yêu do động lực nào? Yêu vì mục đích nào? Yêu thế nào? Yêu ở đâu? Yêu khi nào? Ai yêu? Yêu ai? Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã lưu ý chúng ta phải "nhớ đến sự đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ ‘tình yêu’: chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu thích việc làm, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa" [28].

Dưới khía cạnh tình yêu vợ chồng, có ba ơn gọi chính: ơn gọi sống khiết tịnh, ơn gọi sống tình yêu vợ chồng và ơn gọi sống góa. Bản thân là một người đã chọn sống ơn gọi tình yêu vợ chồng, muốn tìm hiểu hơn về ơn gọi này hầu giúp mình và giúp những người mình có trách nhiệm phải giúp, trong bài này, người viết chỉ muốn đề cập đến ơn gọi thứ hai là ơn gọi sống tình yêu vợ chồng. Và xin khởi đầu với ba câu hỏi căn bản: Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu?


1. Tu là cõi phúc, tình là giây oan

Văn chương bình dân Việt nam có một kho tàng phong phú về hấp lực yêu thương, tình ái trai gái.

Bài hát quan họ Bắc Ninh:

"Yêu nhau cởi áo ối à cho nhau,

về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a,

rằng a ối a qua cầu (x2),

tình tình tình gió bay (x2).

"Yêu nhau cởi nhẫn ối a cho nhau,

về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a,

rằng a ối a qua cầu (x2),

tình tình tình đánh rơi (x2).

Yêu nhau cởi nón ối à cho nhau,

về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a,

rằng a ối a qua cầu (x2),

tình tình tình gió bay (x2)".

Ca dao bình dân:

"Anh về, em chẳng cho về.

Em nắm vạt áo, em đề tặng anh.

Câu thơ ba chữ rành rành:

Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba.

Chữ trung thì để phần cha,

Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình".

Nhưng về tình yêu vợ chồng, thì chữ tình, chữ yêu lại ít được dùng đến, mà hay dùng những chữ khác, như nghĩa tào khang, chồng hòa, vợ thuận, nhà thường:

"Vợ chồng là nghĩa tào khang,

Chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui,

Sinh con mới ra thân người

Làm ăn thịnh vượng, đời đời ấm no".

Dường như về tình yêu vợ chồng, văn chương bình dân, phát xuất từ tâm tình bột phát, của sức sống tự nhiên, đã đè nén cái hấp lực yêu thương tình ái trai gái để khép mình vào khuôn khổ lễ nghi, thuần phong, mỹ tục của văn chương bác học, qua những tư tưởng hướng đạo của ba tôn giáo Phật, Lão, Khổng, mà truyền thống dân tộc đã chịu ảnh hưởng sâu xa.

Đạo Phật do đức Phật Thích Ca Mâu Ni (-623-543) sáng lập, mà nền tảng xây trên Tứ Diệu Đế.

Khổ đế (chân lý về khổ): đời là bể khổ; khổ vì đau khổ, như sinh lão bệnh tử; khổ vì sự thay đổi và khổ vì duyên sinh.

Tập khổ đế (chân lý về nguồn gốc của khổ): nguồn gốc của đau khổ là vô minh, ham muốn.

Diệt khổ đế (chân lý về diệt khổ): muốn diệt khổ phải thắng được vô minh, ham muốn.

Đạo đế (chân lý về con đường thoát khổ): con đường thắng vô minh, ham muốn là con đường tu, là chiêm niệm, từ bi, thờ ơ với phúc họa, để ra khỏi vòng luân hồi của cõi vô thường, tới được niết bàn là nơi thinh không, thanh tịnh không còn ham muốn.

Chữ tình ái, được nói đến trong thập nhị nhân duyên, ở duyên thứ 8 (thụ sinh ái: cảm nhận với thế giới bên ngoài sinh ham muốn) và thứ 9 (ái sinh thủ: ham muốn sinh ra chiếm đoạt), là một trong thập nhị nhân duyên lôi cuốn con người vào vòng luân hồi "vô thường".

"Tu là cõi phúc, tình là giây oan" là câu thơ mà Nguyễn Du đã dùng để diễn tả xác tín Phật giáo của văn hóa Việt Nam rằng con đường tu bát chánh đạo là con đường chân chính đưa vào cõi phúc Niết bàn, nhờ xa lánh trần tục, nuôi tâm dưỡng tính; Còn tình lưu luyến trai gái chỉ là giây oan, vì nó là một ham muốn mãnh liệt, là sợi dây oan nghiệt trói buộc con người vào ham muốn, vô minh, đau khổ.

Đạo Lão do Lão Tử (-604-531) sáng lập, mà những điều căn bản đã được ghi chép trong "Lão Tử - Đạo Đức Kinh". Lão tử bác bỏ thuyết trời sinh ra vạn vật, mà có cái gì khác sinh ra vũ trụ, có trước thượng đế. Cái đó, ông không biết tên là gì, tạm đặt tên cho nó là "đạo" Đạo là "mẹ của vạn vật" (Đạo Đức Kinh, ch.25). Đạo bất biến, vô danh, vô vi. "Đạo sinh ra vạn vật, đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…); vật chất khiến cho mỗi vật thành hình; hoàn cảnh [khí hậu, thủy thổ] hoàn thành mỗi vật" (Chương 51).

Đạo có ba tính chất là mộc mạc, tự nhiên và quay trở về. "Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tính cách, bản chất của đạo)mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định" (Chương 37). [Đạo] lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về) (Chương 5).

Đạo có cái gì tương đối và tương phản. "Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng" (Chương 45). "Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung chăng? Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì đưa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu" (ch.77). "Đạo người thì không vậy [thói thường ở đời thì không như đạo trời], bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc đạo mới làm được như vậy” (ch.77).

Vấn đề tình yêu trai gái hay vợ chồng không phải là đề tài quan trọng và hầu như không được đề cập đến trong Đạo Đức Kinh. Ông chê những đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và trung hiếu của đạo Khổng. "Cho nên đạo mất rồi, sau mới có đức. Đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là sự biểu hiện của sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của hỗn loạn. Dùng trí tuệ mà tính toán trước thì chỉ là cái loè loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội" (ch.38). Và có một câu gián tiếp nói về gia đình: "Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung" (Chương 18).

Đạo Khổng do Khổng Tử (-551-479) sáng lập, có kỳ vọng đảm bảo sự hài hòa tương quan tam tài "thiên, địa, nhân", đặc biệt chú trọng đến trật tự, nề nếp xã hội, dựa vào ngũ luân, ngũ thường. Ngũ luân là năm tương quan: Cha con có tình thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín); Ngũ thường là năm nguyên tắc cư xử ở đời: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Qua ngũ luân, ngũ thường, lý tưởng là đạt được chữ trung dung, quân bình giữa hai lực đẩy và hai sức hút, là âm dương. Kinh Dịch viết: "Âm dương giả, thiên địa chi đạo giả, vạn vật chi cương kỷ", nghĩa là "Âm dương là đạo của trời đất, là cương kỷ của vạn vật". Rộng hơn và cụ thể hơn, thì âm dương phải phối hợp mới có trời đất. Khí âm hay sinh, nhưng phải có khí dương mới sinh được; Khí dương hay nuôi vật, nhưng nếu không có khí âm, thì không lớn được. Cho nên, theo luật tự nhiên của trời đất, đã có khí âm, khí dương, ắt phải có đôi lứa vợ chồng. Trai phải có vợ; Gái phải có chồng; Phải phối hợp âm dương thì mới có thể sinh trưởng được. Như vậy, theo Khổng giáo, đời sống vợ chồng là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng được giáo hóa đi vào khuôn khổ luân thường.

Có một tâm hồn thấm nhuần sâu xa tư tưởng âm dương Khổng giáo, Ôn Như Hầu đã viết trong "Cung oán ngâm khúc", từ câu 125 đến 128 về tình yêu vợ chồng rằng:

"Kìa điểu thú là loài vạn vật

Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng

Có âm dương có vợ chồng

Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê".

2. Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai

Đức tin Công Giáo đã đưa cho tình yêu vợ chồng một ý nghĩa và một vai trò rất cao cả. Thi sĩ bác sĩ Công Giáo Vân Uyên Nguyễn Văn Ái đã tóm gọn rất khéo rằng: "Chữ yêu trong tình nam nữ và vợ chồng, theo Thánh kinh, bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên ý mong muốn con người bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này, qua kiếp sống phu thê và sẽ còn nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là như vậy. Con người lấy gì đền đáp lại? Chỉ có yêu mới đền đáp được tình yêu. Đó là nguồn thi hứng dẫn đến câu thơ Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai" [29].

Nhưng Thánh kinh đã viết gì về tình yêu nam nữ và vợ chồng? Bác sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái trả lời qua một bài trình bày như sau [30]:

Trong Cựu Ước theo sách Sáng Thế, ngay từ khi tạo dựng ra trời đất và con người, Thiên Chúa đã chúc phúc cho sự kết hợp nam nữ được coi như có một giá trị tôn giáo độc đáo. Cả nam lẫn nữ, con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa.

Người nam khi thấy người nữ đã kêu lên: "Đây là xương thịt của tôi". Do đó người nam từ bỏ cha mẹ, lưu luyến người nữ, và cả hai trở thành "nhất thể" (Gn, 1-2), một thân xác (une seule chair).

Nhiều đấng Tiên Tri trong Cựu Ước, như Osée (1,2+), Jérémie (18,1+), Isaïe (1,21), Ezéchiel (16,23),… khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Cựu Do Thái (Israel) đã xử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ.

Các tiên tri coi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân được chọn (Israel) cũng như tình của người nam. Một người nam vừa hiền từ chung thủy, vừa đòi hỏi, ghen tương. Các tiên tri cũng nói về những phản bội, chối bỏ, tà đạo của dân cựu do thái (Israel) được coi như người nữ bất trung. Có khi còn dùng cả danh từ nặng hơn chữ bất trung.

Nhưng dù vậy, tình của Thiên Chúa cũng không dập tắt, vì Thiên Chúa yêu cho đến cùng (Jn 13, 1)

Khi nói đến tình yêu nam nữ trong Cựu Ước không thể nào không nói tới bài Diễm ca (Cantique des Cantiques), một điệp khúc nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thủy.

Lời thơ là lời của người nữ được yêu (la bien aimée) nói về tình yêu của người yêu đối với mình. Theo truyền thuyết, tác giả bài này là vua Salômông. Đây là một bài thơ ngụ ngôn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel, giống như tình yêu nam nữ.

Bài Diễm Ca được trình bày và sắp xếp theo những đoạn đường trở lại và những hy vọng của dân Israel, gồm có 5 bài ca, một phần mở đầu và một phần kết, xen lẫn (theo kiểu kịch thuật Hy Lạp) một vài đoạn đồng ca hoặc song ca đối đáp với người nữ.

Nhiều nhà thần học coi bài Diễm Ca như một bài thánh ca thánh nhất trong các bài thánh ca. Theo tôi, bài Diễm Ca là một bài tình ca tình nhất trong các bài tình ca. Đây chỉ là một cách nói, vì theo đạo của chúng ta, thánh và tình là một, thánh là yêu mà tình cũng là yêu.

Xin nêu làm thí dụ ba câu đầu lời nói của người nữ được yêu (la bien aimée), để có một ý niệm về tính chất diễm tình của bài Diễm ca diễn tả mối tình đắm say cả hồn lẫn xác; ba câu này trích trong cuốn Bible de Jérusalem viết bằng pháp ngữ:

"Qu’il me baise des baisers de sa bouche

Tes amours sont plus délicieuses que le vin

L’arôme de tes parfums est exquis" (Ct, 1, 2-3)

Theo ấn bản Kinh Thánh mới nhất vừa được Tòa Tổng Giám Mục Sài gòn thực hiện năm 1998 (trang 1231) ba câu này được dịch như sau:

"Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi miệng chàng

Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn rượu

Mùi hương anh thơm ngát".

Minh châu dịch:

"Môi tìm môi đón nụ hôn tình ái

Ngây ngất say hơn hẳn rượu ngọt bùi

Hương ai tỏa xác hồn xao xuyến mãi".

Vân Uyên dịch:

"Đợi môi âu yếm đến hôn em

kết tình dịu ngọt hơn bồ tửu

Ngây ngất hương người thật ấm êm".

Điểm lạ lùng của chữ yêu trong Cựu Ước là tình yêu nam nữ cả hồn lẫn xác được đặt tận đỉnh cao của tình thiên tính.

Theo Tân Ước, tình yêu nam nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa và đạt tới sự thật, khi qua hôn nhân bí tích trở thành tình yêu vợ chồng.

Trong thơ gửi tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô gọi tình yêu vợ chồng là "huyền nhiệm lớn" (grand mystère). Huyền nhiệm đã kỳ lạ. Huyền nhiệm lớn là kỳ lạ trên sự kỳ lạ (Ep 5,32).

Tình yêu vợ chồng được thánh Phaolô so sánh với tình của Chúa Kytô đối với Giáo Hội. Tình yêu vợ chồng, mà thường tình cho là trần tục, trở thành "kỳ lạ trên sự kỳ lạ" vì được coi như mối tình mầu nhiệm không bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian, của "Thiên Chúa làm người", kết hợp với "nhiệm thể" của mình là Giáo Hội (Ep 5, 23-25).

Như vậy, tình yêu vợ chồng trở thành như một trong những trung tâm điểm của đức tin. Nói cách khác, tình yêu vợ chồng khi đạt tới mức "yêu" cũng là một con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc.

Theo Tân Ước, nhiều lần Chúa Kytô đã ví nước Trời như một Tiệc Cưới và tự ví mình như chàng rể (Mt 9,15; 22,1-14; 25,1-13; Ga 3,29).

Chúa Kitô đã giảng về tính chung thủy gắn bó, không có gì có thể phân chia của tình vợ chồng trong hôn nhân bí tích. Theo Phúc Âm của thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói: "Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ" (Mat 19,6).

Đối với người đời xưa cũng như đời nay, những lời nói này thật không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính những môn đệ của Chúa Kytô cũng đã thốt lên: "Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn còn hơn". Và Chúa Kytô đã trả lời « Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu" (Mat 19, 10-11).

3. Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài

"Thiên Chúa là Tình yêu", thông điệp của Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI ban hành tại Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 25.12.2005, có lẽ đã là cách Chúa cho chúng ta hiểu hơn về tình yêu hôn nhân (eros) toàn vẹn cả hồn lẫn xác, có thể dẫn tới tình yêu bác ái (agape) của Giáo Hội mà đưa ta tới Thiên Chúa, tới cõi phúc.

Yêu chồng, yêu vợ mặn mà

Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.

Vợ chồng "nhất thể" đôi ta

Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài

Thông điệp được chia làm hai phần. Phần I nói về "Sự thống nhất của tình yêu trong sáng tạo và lịch sử cứu độ". Phần II nói về "tình yêu bác ái và hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cộng đoàn của tình yêu". Đức ông Giuse Mai Đức Vinh đã tóm tắt thông điệp như sau cho khóa Gặp Gỡ Huấn Luyện Giới Trưởng Thành lần thứ XIII, từ 21 đến 24, tháng 05, năm 2009 tại Orsay, ngoại ô Paris [31]:

Phần I: Đức Thánh Cha xác định một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một cách huyền nhiệm và nhưng không. Những dữ kiện đó là:

1. 'Tình yêu' bộc lộ dưới nhiều hình dạng (yêu nước, yêu nghề, yêu bạn bè… yêu Chúa). Nhưng mọi hình dạng đều quy về một tình yêu duy nhất và hoàn toàn trổi vượt, đó là Tình Yêu nơi Thiên Chúa (số 2).

2. Ba hình dạng chính yếu của tình yêu là (số 3):

3. Đức Thánh Cha nói riêng về ‘tình ái’ (Eros) (số 4-5): Văn hóa Hy lạp đề cao dạng tình yêu này, coi tình yêu này là mãnh lực mạnh nhất (Omnia vincit amor, et nos cedamus amori). Nhiều tôn giáo ‘suy tôn khả năng sinh sản’, ‘tục mại dâm thiêng liêng trong các đền thờ’ đều coi tình ái như một thứ quyền lực thiêng liêng, ngang hàng với Thiên Chúa. Cựu Ước cực lực chống lại chủ trương trên đây của tôn giáo này, coi đó là tiêu biểu cho một cám dỗ chống lại đức tin độc thần và chống lại nó như một hình thái sa đọa tôn giáo. Tuy nhiên Cựu Ước không hề loại bỏ tình ái (eros) đúng nghĩa… Vì khi được uốn nắn và thanh luyện, tình ái dẫn con người đến gần với Thiên Chúa… Khi nói về tình ái (eros), người ta nghĩ đến thân xác, đến dục tính… và người ta chỉ trích Kitô Giáo trong quá khứ, đã coi thường và khinh bỉ thân xác và dục tính... Tuy nhiên, phải khẳng định: lối tôn sùng thân xác ngày nay là một sai lầm, vì nó đã biến thân xác và tình dục thành đồ vật mua bán, và chính con người cũng trở thành ‘món hàng’ thương mại (số 4-5).

4. Ngài cũng nói riêng về ‘tình bác ái’ (Agape) tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tình bác ái (agape) và tình ái (eros) không tách rời nhau hoàn toàn, nhưng tình bác ái (agape) vượt lên trên tình ái (eros), thay vì tình ái ích kỷ, chỉ đi kiếm ‘điều lợi cho mình’, thì tình bác ái (agape) lo tìm điều tốt, điều lợi cho người mình yêu, nó sẵn sàng từ bỏ và chấp nhận hy sinh. Nói cách khác, tình ái (eros) là tình yêu ‘trần thế’ (mondain), còn tình bác ái (agape) là tình yêu lấy đức tin làm cơ sở. Tình ái (eros) thì hẹp hòi, tạm bợ, còn tình bác ái (agape) rộng mở và lâu bền. Tình bác ái (agape) chính là tình ái (eros) được siêu nhiên hóa, nhân bản hóa, được mở rộng cho mọi người và đến với mọi người… như giáo huấn của thánh Phaolô: "Ai kết hợp với Chúa Giêsu (eros), thì trở nên cùng một thần trí với Ngài (agape)" (1Cr6,17). Sau cùng tình bác ái (agape) diễn tả huyền nhiệm của bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa Giêsu hoàn toàn hiến thân (agape) cho nhân loại… (số 6-11)

5. Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa: ‘Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu chúng ta trước và đã ban Đức Giêsu, con chí ái của Ngài cho chúng ta. Do đó, Chúa Giêsu là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa giữa chúng ta (tam cùng với chúng ta): cùng sống, cùng hoạt động và cùng yêu với chúng ta… Và như vậy, Thiên Chúa gia tăng niềm vui, Thiên Chúa trở thành niềm vui cho chúng ta… Niềm vui này chúng ta có thể múc lấy mỗi ngày nơi Bí Tích thánh Thể… và như vậy, vì yêu chúng ta, ‘Thiên Chúa trở nên tất cả trong mọi sự’ (1Cr 15,28) cho chúng ta. Đó là tình yêu Agape tuyệt hảo! (số 12-18)

Phần II: Đức Thánh Cha nói về những thể hiện tình bác ái (agape) cụ thể trong Hội Thánh, theo giới răn ‘yêu thương người ta như chính mình’ (Mc 15, 31). Dĩ nhiên không thể nói hết, Đức Thánh Cha chỉ ‘nói đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một năng động mới mẻ mà con người hay chính Giáo Hội phải thực hiện hầu đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa’. Vì thế, Giáo Hội là một Cộng đồng yêu thương, thể hiện tình yêu. Đức Thánh Cha nêu bật những điểm sau đây:

1. Hoạt động bác ái của Hội Thánh là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi: Vì thế thánh Aucơtinh viết: "Tìm thấy tình bác ái (agape) là nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi" (19).

2. Bác ái là nhiệm vụ của Hội Thánh (20-25):

3. Bác ái không đủ, còn phải có công bằng: từ thế kỷ XIX, người ta chống lại hoạt động bác ái của Hội Thánh, nhất là thuyết Maxít, người ta bảo: người nghèo không cần đến bác ái nhưng cần công bằng…

-- Vì thế Giáo Hội ra các thông điệp xã hội: Đức Lêo ‘Rerum Novarum’961), (1891), Piô XI ‘Quadragesimo Anno’ (1931), Gioan XXIII ‘Mater et Magistra’, Phaolô VI ‘Populorum’ (1967), Octogesima Adveniens’ (1971), Gioan Phaolô II ‘Laborem Exercens’ (1981), ‘Sollicitudo Rei Socialis’ (1987). Hội Đồng Công Lý Hòa Bình ‘Cuốn tóm lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh’ (2004).

-- Về ‘công bằng xã hội’, Hội Thánh không thay thế chính trị hay chính quyền, nhưng Hội Thánh không đứng ngoài lề cuộc đấu tranh cho công bằng.

-- Tuy nhiên việc hình thành các cơ cấu công bằng không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực chính trị, lãnh vực Quốc gia hay Nhà Nước (luật pháp, kinh tế, xã hội, hành chánh, nghiệp đoàn…). Với tư cách công dân, người tín hữu có bổn phận hợp tác và tuân thủ đúng đắn…

-- Mặt khác các tổ chức bác ái của Hội Thánh làm thành một công trình riêng (opus proprium), và hoạt động ngay giữa lòng quốc gia, xã hội. Hội Thánh không bao giờ được miễn trừ hoạt động bác ái, trong mọi hoàn cảnh, việc bác ái của người tín hữu luôn là cần thiết (số 29).

4. Nhiều cơ cấu bác ái trong xã hội hiện nay: Vài nét tổng quát của cuộc tranh đấu công bằng và tình yêu hiện nay trên thế giới:

5. Khía cạnh riêng biệt của hoạt động bác ái của Hội Thánh (31).

-- Nguồn gốc: Thiên Chúa là tình yêu… (1Ga 4,8); Yêu thương người khác như chính mình… (Mc 12,31). Tám mối phúc thật… (Mt 4,3-12). Xét xử theo luật bác ái (Mt 25,31).

-- Tổ chức Caritas quốc tế hiện nay… quy tụ cơ cấu, tài lực, nhân sự, phương án…

-- Hoạt động bác ái Kitô giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ… Hoạt động bác ái phải thể hiện tình liên đới và hiệp nhất giữa cá nhân, trong cộng đoàn, ngoài xã hội…

-- Hoạt động bác ái không được xử dụng như kế hoạch chiêu dụ tín đồ… (31)

6. Những ngưòi chịu trách nhiệm về hoạt động bác ái của Hội Thánh.

-- Là chính Hội Thánh, cụ thể từ thời Đức Phaolô VI là Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum). (x. Giáo luật Đ 394). Luôn nhân danh Giáo Hội, luôn phải có sự phối hợp theo cấp bậc hoạt động (32).

-- Không lấy cảm hứng từ các ý thức hệ với mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng luôn luôn ‘tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2Cr5,14) (33).

-- Không thể không cộng tác với các tổ chức khác… tuy nhiên luôn giữ vững căn tính ‘tình yêu Chúa thúc đẩy chúng ta…’ (34)

-- Phải phục vụ trong khiêm tốn… ‘chúng ta chỉ là đầy tớ vô dụng’ (Lc 17,10) (35).

-- Cần giữ quân bình giữa hai cực đoan: - tham vọng muốn làm hết, làm ngay, không đo sức mình… - cám dỗ đầu hàng, khoanh tay… (36)

-- Yếu tố giúp giữ quân bình: lòng đạo đức, việc cầu nguyện (gương chân phước Têrêsa Calcutta) (số 36-37). Cầu nguyện để ‘giải tỏa’ những thắc mắc theo kiểu ông Gióp (xG 23,3+5-6+15-16), lời than của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá (Mt 27,46), lời sách Khải Huyền (kh 6,10)… và để giữ vững niềm tin, đức cậy và lòng bác ái (số 38-39).

LỜI KẾT

Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu?

Về câu hỏi thứ nhất, chúng ta đã tìm được câu trả lời của văn hào Nguyễn Du rằng: "Tu là cõi phúc, tình là giây oan". Văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú về tình yêu trai gái và tình yêu thân xác. Văn chương truyền thống tam giáo Lão, Phật, Khổng, thì hoặc là không nói đến tình yêu vợ chồng, hoặc là nói đến như một nhân duyên của cõi vô thường, hoặc nói đến những ngũ luân ngũ thường như những luật lệ để đối xử với nhau, hầu giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội; còn tình yêu vợ chồng, thì đó chỉ là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng phải được giáo hóa để đi vào khuôn khổ luân thường.

Về câu hỏi thứ hai, bác sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái đã trả lời thay cho chúng ta rằng: "Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai", vì tình yêu vợ chồng là một bí tích trao truyền lại cho thế giới hữu hình cái mầu nhiệm vô hình được che đậy nơi Thiên Chúa từ đời đời. Đó là mầu nhiệm về chân lý và về tình yêu, mầu nhiệm của cuộc sống thiên tính, mà loài người được thực sự chia phần. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm "Thiên Chúa là Tình Yêu", yêu bất chấp sự đau khổ và sự chết. Tình yêu vợ chồng, khi đạt tới mức yêu, cũng là một con đường dẫn tới cõi phúc, yêu để đền nghì tình Chúa yêu ta (Ai là Thiên Chúa).

Trả lời câu hỏi thứ ba, chúng ta đã tìm được cánh cửa đức tin mở lối qua thông điệp "Thiên Chúa là Tình yêu" của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, giúp ta hiểu rằng tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu đầy đủ hồn xác của bí tích vợ chồng Công Giáo đưa ta từ tình yêu người bạn đời đến tình yêu mọi người và đến đáp trả tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta tóm gọn trong bốn câu thơ:

Yêu chồng, yêu vợ mặn mà

Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.

Vợ chồng "nhất thể" đôi ta

Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài

Tình yêu vợ chồng, đầy đủ hồn xác, đưa ta đến hạnh phúc, đến tình yêu bác ái với mọi người và đến tình yêu Thiên Chúa. Điều này cũng dễ hiểu, vì tình yêu vợ chồng đầy đủ hồn xác là một tình yêu toàn diện, là một dâng hiến về thân xác, một hiệp thông về tình cảm, một tha thứ chịu đựng theo lý trí, một hòa thuận theo ý chí và một tâm tình kính yêu của con tim. Tất cả tình yêu vợ chồng toàn diện này, cũng như tất cả các tình yêu bác ái với mọi người, tình yêu với Thiên Chúa đều là bài ca, một bài ca phụng tự. Tình yêu vợ chồng toàn diện này, nói theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là "Bí tích các thân xác", "bí tích trọng đại", "không chia cắt điều Chúa đã nối kết" và là "Ơn gọi các thân xác" [32].

Paris, ngày 30 tháng 03 năm 2014

------------------------------

[28] ĐGH Bênêđictô XVI, Thiên Chúa là Tình yêu, 2005, số 2.

[29] Nguyễn Văn Ái: Chữ tình và chữ yêu; trong "Đường vào tình yêu", Giáo Xứ Việt Nam Paris, 2000, tr. 255-265).

[30] Ibidem.

[31] Lm Mai Đức Vinh: Tìm hiểu thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu; trong Trần Văn Cảnh: Công Giáo Việt Nam tại Pháp, 226 năm hành trình Đức Tin, 1784-2010; 2011, tr. 164-170

[32] Yves Semen, La Spiritualité conjugale selon Jean-Paul II, Ed. Presse de la Renaissance, Paris 2010, pp. 55-67.



THÁNH GIÁ VÀ KHỔ CỰC CỦA ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

của Ls Lê Đình Thông

"Người chồng và người vợ phải phục tùng lẫn nhau, tương nhượng lẫn nhau (…) Cộng đoàn hay đơn vị họ kiến tạo trong đời sống hôn phối của họ, chỉ được thể hiện trong sự trao ban tương hỗ, nghĩa là hai người phục tùng lẫn nhau" (Đức Gioan-Phaolô II, buổi triều yết 11.8.1982)

1. Tông huấn ‘Cộng Đồng Gia Đình

Thánh Gioan-Phaolô II là thánh nhân của các gia đình Công Giáo. Vào đúng ngày bị ám sát hụt (13/5/1981), ngài đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình. Ngày 22/11/1981, ngài công bố Tông huấn Familiaris consortio. "Consortio": "partnership" trong tiếng Anh, có thể chuyển ngữ là "đồng hội đồng thuyền". Ngoài ra còn có Học viện Gioan-Phaolô II về Gia đình nữa. Chính đức Gioan-Phaolô II từng nói ngài muốn người ta nhớ đến ngài như vị giáo hoàng của gia đình.

Tông huấn ‘Cộng Đồng Gia Đình’ (Familiaris consortio) đề cập đến nhiều vấn đề ngày nay vẫn còn mang tính thời sự: vai trò của gia đình trong việc phúc âm hóa, ơn gọi tình yêu của gia đình, ơn gọi truyền giáo của gia đình, mục vụ gia đình.

Trong phần gia đình trong thế giới ngày nay, tông huấn cho biết gia đình có hai mặt tích cực và tiêu cực:

Ÿ Tích cực, vì ngày nay ta quan tâm hơn về sự liên hệ vợ chồng trong đời sống hôn nhân, nhân phẩm phụ nữ được thăng tiến, việc sinh đẻ có trách nhiệm, vấn đề giáo dục con cái, sự liên hệ giữa các gia đình với nhau để giúp nhau về mặt tinh thần cũng như vật chất.

Ÿ Tiêu cực, vì vợ chồng có ý nghĩ sai lầm về sự độc lập của mỗi người, về sự liên hệ giữa cha mẹ và con cái. Số ly hôn gia tăng, số phá thai, việc làm tuyệt sinh sản, vấn đề ngừa thai…

Các hiện tượng tiêu cực phần lớn vì lứa đôi không hiểu đúng về tự do của mỗi người, khiến đời sống gia đình thường bị lục đục.

Ở Việt Nam, gia đình thiếu cơm ăn, áo mặc, nhà cửa chật chội, thiếu thuốc men v.v. cũng là nguyên nhân gây ra bất hòa. Tại Pháp, đời sống quá sung túc, lúc nào cũng chỉ lo mua sắm khiến ta lo lắng không biết tương lai sẽ ra sao. Tình trạng này là sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối. Theo thánh Augustinô, đó là sự xung đột giữa yêu Chúa và sự ích kỷ không kể gì đến Thiên Chúa.

Sống trong một thế giới như vậy, dưới ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, nhiều khi các gia đình Công Giáo không ý thức rằng các giá trị căn bản bị lu mờ mà không tạo được tinh thần nhân bản trong gia đình.

Ngày nay, một số gia đình cử hành bí tích hôn nhân cho có lệ mà không sống đạo thực sự. Ngoài ra, họ không được hướng dẫn về đời sống tính dục trong hôn nhân Công Giáo. Vì vậy, Giáo Hội, gần nhất là Giáo Xứ, cần tìm một phương hướng để gia đình nhận ra các giá trị thực sự. Học thuyết nhân bản mới hướng dẫn gia đình đến với Chúa.

Ngoài tông huấn Cộng Đồng Gia Đình, mỗi khi tiếp các gia đình, đức Gioan-Phaolô II thường khuyên nhủ các cặp vợ chồng. Trong cuộc tiếp kiến ngày 11/8/1982, ngài nói như sau: "Vợ chồng phải nhường nhịn nhau, phải nghe lời nhau. Gia đình hôn nhân là cho nhau và phục tùng lẫn nhau".

Ca dao ta có câu:

Con quốc khắc khoải mùa hè

Làm thân con gái phải nghe lời chồng

Sách cho chữ rằng: phu xướng phụ tòng

Làm thân con gái lấy chồng xuất gia

Lấy em về thờ mẹ kính cha

Thờ cha kính mẹ ấy là người ngoan

Câu thơ này chỉ đúng một nửa. Ngày xưa phu xướng phụ tòng. Còn ngày, phu phụ xướng, phu phụ tòng, đức Gioan-Phaolô II gọi là phục tùng lẫn nhau (soumission réciproque). Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh để làm khuông vàng thước ngọc cho sự phục tùng lẫn nhau: "Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau". (Ep, 4,2)

2. Lời khuyên của đức Gioan Phaolô II.

Lời khuyên của đức Gioan-Phaolô II dựa trên Kinh thánh: "Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng". (Cl 3,18-21).

Đức Gioan-Phaolô II diễn giảng như sau: "Vợ chồng phải phục tùng lẫn nhau để thực hiện sự viên mãn trong chân lý hôn nhân. Đó không phải là sự nhường bước cho trào lưu nam nữ đồng đều. Ngài đưa ra nguyên tắc này dựa trên Kinh Thánh. Người vợ vâng phục chồng vì tìm thấy tương quan với Chúa Kitô: ‘‘Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh". (Ep 5,25) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho Hội thánh là hy sinh đến độ hiến mình trên thập giá.

Vợ chồng phải phục tùng nhau vì tình yêu đã kết hợp họ nên một. Trong nghi thức hôn phối, đôi tân hôn cầm tay nhau, rồi bên nam nói:

-- "Anh T... nhận em T... làm vợ, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời anh”.

Bên nữ đáp lại:

-- "Em T... nhận anh T... làm chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt đời em”.

Cả hai đều nói câu yêu thương và tôn trọng. Đức Gioan-Phaolô II mệnh danh là tình yêu phục tùng nhau. Ngài còn nói thêm tình yêu vợ chồng loại bỏ việc người vợ phải phục tùng chồng như người làm mà không có qua có lại. Vợ chồng cần nói với nhau rằng "Không phải là ý anh, mà là ý em”, noi gương Chúa Kitô tại vườn Oliu: "Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha”. (Lc 22,42)

3. Thánh giá trong đời sống vợ chồng.

Đó chính là thánh giá của đời sống vợ chồng, trong những cảnh ngộ éo le của cuộc sống. Nhưng đó còn là niềm vui khi vợ chồng biết hy sinh cho nhau, cũng như sau Thập giá, Chúa Kitô hưởng niềm vui nước Trời: "Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con”. (Gn 17,13)

Thánh giá trong đời sống vợ chồng, vì sự hy sinh không trọn vẹn hoặc đồng đều. Vợ hoặc chồng cảm thấy đau khổ vì không có khả năng hy sinh hoàn toàn. Vợ hoặc chồng phải chịu vết thương lòng vì sự bạo hành trong đời sống tình cảm hoặc trong chăn gối.

Cuộc sống cực nhọc cũng ảnh hưởng đến sự hy sinh, sự lo lắng giáo dục con cái, bệnh tật, tinh thần sa sút. Nhưng còn là sự biếng nhác, ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sự tức giận… Nhiều khi ta hy sinh hoàn toàn nhưng nhận lại chẳng được bao nhiêu cũng khiến ta cực lòng. Cũng có khi ta hy sinh không tính toán, trong khi người khác lợi dụng nhỏ nhen, ích kỷ. Thánh giá trong cuộc sống gia đình gì khác hơn là yêu mà không được đáp lại, là hy sinh mà không được đền bù.

Thánh giá trong đời sống vợ chồng là sự thất bại của hôn nhân. Ta có thể chịu trách nhiệm về thất bại này, nhưng sự thất bại không phải là đơn phương: ích kỷ, ngoại tình, chểnh mạng, uể oải trong yêu đương.

Trong kịch bản Tiệm Kim hoàn, đức Gioan-Phaolô II đã thác lời Anna, người phụ nữ này bị đổ vỡ trong cuộc sống hôn nhân với Stêphanô: "Stêphanô không ở chung với tôi nữa. Tại sao không ai hàn gắn sự yên lặng này. Dường như Stêphanô chịu trách nhiệm. Tôi nhận thấy tôi không có lỗi. Cuộc sống của tôi thật là cực khổ. Chúng tôi xa nhau dần. Lúc này chỉ còn là bổn phận chập chờn”. Vào hồi kết cục, Stêphanô và Anna khỏi phải xa nhau chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Trong cuộc sống, nhiều khi cũng có cơn sóng thần vì bị chấn thương tâm lý, bị tai nạn, tinh thần sa sút, thất bại trong công ăn việc làm… Ta thường đổ lỗi vì không ai thấy trước được. Cách suy nghĩ này nhiều khi quá đơn giản, trong khi thực tế lại quá phức tạp. Một số người tính đến chuyện xin Giáo Hội hủy phép hôn phối. Ta cần nhận rằng dù là thất bại nhưng phép hôn phối vẫn có hiệu lực.

Trong tông huấn Cộng Đồng Gia Đình, đức Gioan-Phaolô II đã mời gọi các vị chủ chăn và cộng đoàn dân Chúa giúp đỡ các người ly dị tái hôn, với tấm lòng bác ái, để họ không cảm thấy bị tách ra khỏi Giáo Hội. Họ là những người đã chịu phép rửa nên phải được dự phần vào cuộc sống. Ước mong Giáo Hội cầu nguyện cho họ, giữ họ trong đức tin và đức cậy.



BÍ TÍCH THÁNH THỂ, MẦU NHIỆM HÔN NHÂN

của AC Vũ Khiêm Đào.

"Bí tích Thánh Thể chính là nguồn mạch của hôn nhân Kitô giáo... Chính trong hy lễ của Giao ước mới và vĩnh cửu ấy mà các đôi bạn Kitô hữu tìm được nguồn mạch tuôn trào làm cho giao ước hôn nhân của họ được khuôn đúc từ bên trong và được sinh động bền bỉ".

ĐGH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, n° 57

1. Hai thời điểm quan trọng: 'tiệc cưới Cana' và 'Bữa tiệc ly'.

Toàn bộ Tin Mừng của Thánh Gioan, vị tông đồ của tình yêu, bằng cách nào đó được đóng khung bởi hai thời điểm quan trọng, đó là hai bữa tiệc biểu lộ một sự thật hết sức thiêng liêng mà các đôi vợ chồng được mời gọi đến thưởng thức, suy gẫm và để chiêm ngưỡng ngay cả trong sự kết hợp mật thiết của họ: “Tiệc Cưới Cana” và “Bữa Tiệc Ly”.

Không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu đã chọn để bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng một phép lạ trong tiệc cưới Cana, miền Galilê. Theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ Maria: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3), Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời dường như kỳ lạ, theo bản kinh thánh bằng tiếng La tinh của Thánh Giêrômi: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và con?” (Ga 2,4). Trong chú giải về Phúc Âm, Dom Delatte cho ta thấy một sự giải thích đúng đắn của câu trả lời đó, sau khi loại trừ tất cả những giải thích có xu hướng nhìn thấy trong đoạn văn này ý Chúa Giêsu muốn thiết lập một khoảng cách với mẹ của mình. Chúng ta có thể hiểu đúng được những lời trìu mến sau đây của Chúa Giêsu muốn nói với mẹ Ngài: "Chưa, hãy để con, hãy chờ đợi, giờ của con chưa đến".

Giờ mà Chúa Giêsu gợi lên là giờ của cuộc Tử Nạn của mình, được bắt đầu với những lời sau đây: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha” (Ga 17,1). Hai khoảnh khắc phù hợp với nhau, khi bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu và trước khi Ngài chết trên thập giá, trong cả hai trường hợp Chúa Giêsu gọi mẹ của Ngài: "Bà", “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26), qua đó nói lên ý nghĩa làm mẹ phổ quát của Mẹ Maria. Nhưng cần lưu ý rằng: lời cầu nguyện trọng thể của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Tử Nạn, diễn ra sau khi đã cử hành lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ. Chính trong Bữa Tiệc Ly này, Chúa Giêsu đã lập ra bí tích Thánh Thể, ban ơn cứu chuộc cho Giáo Hội của Ngài, nhờ sự dâng hiến chính Mình và Máu Ngài cho đến tận cùng. “Tiệc Cưới Cana” và “Bữa Tiệc Ly”, hai điểm đầu và cuối trong Tin Mừng của Thánh Gioan, là hai bữa tiệc cưới...

Bí tích Thánh Thể là một bữa tiệc cưới của Chúa Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê. Tại tiệc cưới Cana, tuy giờ của Chúa Giêsu chưa đến, nhưng Ngài loan báo trước giờ lễ cưới của Hôn Phu với Giáo Hội-Hiền Thê và bí tích Thánh Thể là một tặng phẩm của quà cưới. Trong bữa tiệc Thánh Thể Chúa Giêsu tự hiến mình, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng Hội Thánh của Ngài. Sự dâng hiến đến tận cùng của Thiên Chúa làm người để nhân loại được sống và sống dồi dào. Đó là tình yêu Thánh Thể. Đức Gioan Phaolô II đã nói: "Sự tự hiến đó cho Chúa Cha, bằng cách vâng phục cho đến chết, cũng đồng thời vì ‘Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh’ (Ep 5,25). Trong sự biểu hiện này, tình yêu cứu chuộc biến thành tình yêu phu thê, Đức Kitô, trong khi tự hiến mình cho Hội Thánh, cũng qua hành động cứu chuộc ấy, Ngài kết hợp mãi mãi với Hội Thánh, như Hôn Phu kết hợp với Hôn Thê, như chồng với vợ, bằng sự hiến thân trọn vẹn cho Hội Thánh một lần cho tất cả". (Tiếp kiến chung ngày 18/08/1982)

Bản tính sâu xa nhất của nền tảng hôn nhân Kitô giáo, chính là hình ảnh cuộc hôn nhân nhiệm mầu của Đức Kitô với Hội Thánh. Thư gửi tín hữu Êphêsô của Thánh Phaolô (Ep 5,22-33) mạc khải cho chúng ta sự thật cốt yếu về hôn nhân, từng là bức thư được đọc trong các lễ cưới. Một đàng, nó giúp ta hiểu rõ hơn mầu nhiệm hôn nhân giữa Đức Kitô và Hội Thánh, “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Đàng khác, nó giúp ta đi sâu vào bản chất của hôn nhân. Hôn nhân là ơn gọi cao quý của các đôi bạn Kitô hữu được mời gọi để sống. Họ chỉ tìm thấy được ý nghĩa hôn nhân đích thực khi nào nó phản ảnh được tình yêu của Đức Kitô-Hôn Phu hiến ban mình cho Hội Thánh-Hiền Thê của Ngài. Phần Giáo Hội, nhận biết mình được Chúa Kitô yêu thương và cứu chuộc, trọn vẹn thuộc về Ngài, nên Giáo Hội đã hoàn toàn và luôn luôn “tùng phục Chúa Kitô... trong hết mọi sự” (Ep 5,24). Tình yêu ấy là hình ảnh và là mẫu mực cho tình yêu vợ chồng trong đời hôn nhân, khi cả hai người tùng phục lẫn nhau “Vì lòng kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21).

Nhờ bí tích Hôn Phối, đôi vợ chồng trở thành hình ảnh sống động của sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chính vì thế mà hôn nhân Kitô giáo mang tính bất khả phân ly. Do đó, vợ chồng được mời gọi hiến thân cho nhau cho đến tận cùng. Đó là lý do tại sao "bí tích Hôn Phối phải cử hành trong Thánh Lễ" (Sacrosanctum Concilium, 78), giữa phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Vị trí này dành cho việc cử hành hôn lễ, qua nghi thức đó vợ chồng trao tặng cho nhau, tận hiến cho nhau. Một lần trao tặng cho nhau rồi, họ kết hợp với nhau ngay trong hy tế Thánh Thể của Chúa Kitô: họ kết hợp món quà cưới của họ cùng với món quà cưới của Chúa Kitô dành cho Hội Thánh.

Để được toàn vẹn, món quà cưới của họ đòi hỏi phải có sự ưng thuận bằng lời thề hứa, được khẳng định qua sự hiến thân và đó là lý do tại sao việc cử hành bí tích Hôn Nhân không kết thúc trong khi cử hành bí tích công khai, nó chỉ được hoàn tất trong phòng tân hôn, hành động hiến thân là một phần trong việc cử hành phụng vụ hôn nhân. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh: "Là một bí tích, lễ cưới được thực hiện qua những lời thề hứa, là một dấu chỉ của bí tích qua nội dung của nó: ‘Tôi nhận bạn làm vợ tôi - làm chồng tôi’ […] Tuy nhiên, lời thề hứa trong bí tích này, chỉ là dấu hiệu cuộc hôn nhân đã được thực hiện. Và sự thành hình của cuộc hôn nhân không đi ngoài sự động phòng, đến nỗi, nếu có chứng cớ rằng: một cuộc hôn nhân đã được thiết lập về mặt giáo luật nhưng không có sự động phòng thì cuộc hôn nhân đó sẽ không thành tựu. Thật vậy, những lời thề hứa: ‘Tôi nhận bạn làm vợ tôi - làm chồng tôi’ […] chỉ có thể được hoàn tất qua sự kết hợp thân xác của vợ chồng" (Tiếp kiến chung ngày 05/01/1983).

Vì thế, sự ưng thuận tự hiến mình của Chúa Kitô cho Giáo Hội qua phép Thánh Thể, đòi hỏi phải được xác nhận bằng sự hiến thân cứu chuộc của Ngài trên Thập Giá. Sự hy sinh cứu độ của Ngài trên cây Thập Giá đạt đến đỉnh cao của sự dâng hiến, khi Chúa Giêsu nói lời cuối cùng, theo bản kinh thánh bằng tiếng La tinh của Thánh Giêrômi: “Consummatum est”, thường được dịch: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19,30). Toàn bộ công trình cứu chuộc lúc bấy giờ được hoàn tất, là công trình hiến thân của Chúa Giêsu-Hôn Phu cho Hội Thánh-Hiền Thê của Ngài. Chính lúc Chúa Giêsu ban tặng cho Giáo Hội hơi thở cuối cùng của mình trên Thập Giá, lúc đó quà cưới trao tặng cho Hội Thánh-Hiền Thê của Ngài đã được hoàn toàn thực hiện vì Ngài đã hiến dâng trọn vẹn.

Chính vì vậy, hình ảnh của sự kết hôn cho phép chúng ta hiểu được sự cao cả của các bí tích đến từ công trình cứu độ. Công trình cứu độ được kết thúc và hoàn tất trong quà cưới của Chúa Kitô trao ban cho Giáo Hội. Từ đó, tất cả các bí tích của Giáo Hội biểu lộ tràn đầy công trình cứu chuộc, mang chiều kích hôn nhân và chứng minh thành quả của sự kết hợp nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Đây là lý do mà đức Gioan Phaolô II, đặt nền móng cho một sự đổi mới hoàn toàn của thần học bí tích, và không ngần ngại nói rằng "tất cả các bí tích của Giao Ước Mới, trong một ý nghĩa nào đó tìm thấy được nguyên mẫu của nó trong bí tích hôn nhân như là bí tích nguyên thủy" (Tiếp kiến chung ngày 20/10/1982). Khi trao ban cho nhau trong hôn nhân, bằng cách khắc ghi sự kết hợp của họ vào trong các dấu chỉ cứu chuộc của cuộc hôn nhân nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, hành động đó mang tính cách tiên tri: "Căn cứ vào phép tiên tri về thân xác, các thừa tác viên của bí tích Hôn Nhân hoàn tất một hành động có tính cách tiên tri. Qua cử chỉ này, họ xác nhận nhiệm vụ tham gia vào trong sứ mệnh loan báo mà Chúa Kitô đã trao phó cho Giáo Hội" Đức Gioan Phaolô II (Tiếp kiến chung ngày 19/01/1983).

2. Sự mật thiết vợ chồng và tính sâu kín Thánh Thể

Thánh Thể, được coi là bí tích biểu lộ tính hôn nhân nhiều nhất. Bằng bí tích này, Chúa Kitô-Hôn Phu hình thành món quà hiến tế để nuôi dưỡng Hội Thánh-Hiền Thê bằng chính Mình và Máu của Ngài. Rước Mình Thánh Chúa Kitô không chỉ là cơ hội cho một cuộc gặp gở "chân thành" với Chúa Giêsu, nó cũng là - theo ý nghĩa phù hợp nhất - diễn tả "sự kết hợp với Thân Thể Chúa Kitô" của mỗi người chúng ta, là một thành viên của Giáo Hội-Hiền Thê. "Bánh Thánh Thể làm cho những phần tử khác nhau của cộng đồng gia đình trở nên một thân thể duy nhất, một hình ảnh diễn tả và một sự tham dự vào Thân mình “bị phó nộp” và vào Máu “đã đổ ra” của Đức Kitô sẽ trở nên một nguồn mạch bất tận cho gia đình Kitô hữu đến múc lấy năng lực cho hoạt động thừa sai và tông đồ". (Familiaris Consortio, n° 57).

Tất cả các bí tích của Giao Ước Mới, bằng cách nào đó, đều được xây dựng từ "nguyên mẫu" của hôn nhân, Thánh Thể thực hiện đầy đủ chiều kích hôn nhân đó, đồng thời được biểu lộ trong mỗi bí tích của Giáo Hội, như sự tuôn đổ của công trình cứu chuộc và hôn nhân nhiệm mầu thực hiện bởi Chúa Kitô. Nếu Thánh Thể là "nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Kitô hữu", (Lumen Gentium, n°11), hoàn thành sự viên mãn cuộc kết hợp hôn phối của Đức Kitô với Hội Thánh của Ngài. Các đôi vợ chồng chỉ có thể hoàn toàn hiệp nhất với nhau qua sự kết hợp với bí tích Thánh Thể và là nơi họ hiến trao cho nhau, cùng hiệp thông với tất cả các phần tử khác của Giáo Hội, với vị Hôn phu duy nhất. Đó là lý do tại sao bí tích Thánh Thể là một cơ hội để đôi vợ chồng được vĩnh viễn tái sinh đời sống hôn nhân của họ. Thánh Thể không chỉ là bí tích mà các đôi vợ chồng đến tìm lại sức mạnh để sống những đòi hỏi trong cuộc sống hôn nhân của họ. Bí tích Thánh Thể còn hoàn tất đầy đủ tất cả những gì họ được mời gọi để sống, giúp họ đạt tới sự thánh thiện trong việc tận hiến cho nhau.

Chúng ta hiểu được rằng khi đôi vợ chồng sống xa bí tích Thánh Thể, với lý do vì đời sống xác thịt của họ không có sự trong sạch đầy đủ để lãnh nhận Thánh Thể một cách xứng đáng. Chúng ta cũng hiểu được khi đức Gioan Phaolô II chỉ trích mãnh liệt Ma Ni giáo dưới mọi hình thức của nó, đôi khi mang tính chất đề cao về sự trinh tiết và đời sống độc thân đối với đời sống hôn nhân. Đức Gioan Phaolô II rất rõ ràng ở điểm này: "Những lời của Chúa Kitô […] không có một căn bản nào để có thể cho rằng đời sống hôn nhân thấp kém hơn, hoặc sự trinh tiết, hoặc đời sống độc thân là cao cả hơn, để từ đó chúng ta có thể viện lý do, đi tới không còn kết hợp thân xác trong đời sống vợ chồng […] Việc kết hôn và sự tiết dục không trái ngược với nhau, không tự phân chia cộng đồng nhân loại và Kitô giáo ra thành hai phe, khi nói: đó là hoàn hảo vì sự tiết dục và ít hoàn hảo hay không hoàn hảo vì thực tế của cuộc sống hôn nhân của họ" (Tiếp kiến chung ngày 14/04/1982).

Chắc chắn có những lỗi lầm mà vợ chồng có thể vấp phạm và thậm chí có thể dẫn họ tới việc không tham dự bí tích Thánh Thể khi họ chưa nhận được sự tha thứ của bí tích Hòa Giải. Không có gì trái ngược giữa đời sống xác thịt trong Hôn Nhân và Thánh Thể. Ngược lại, mối tương quan giữa hai bí tích Thánh Thể và Hôn Nhân có những thuận lợi nội tại, một sự tương ứng sâu sắc. "Nếu người ta muốn hiểu và sống sâu đậm các ân sủng và trách nhiệm của hôn nhân và gia đình Kitô hữu, thì tuyệt đối cần phải khám phá và đào sâu tương quan ấy". (Familiaris Consortio, n° 57). Ma Ni giáo là một chất độc thực sự, luôn tìm cách xâm nhập vào Giáo Hội và đối với Giáo Hội đã luôn cố gắng chiến đấu cho sự thật của Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II quyết định cuối cùng về vấn đề này: "khuynh hướng Ma Ni giáo chủ yếu đánh giá thân xác và tình dục của con người luôn luôn đi ngược lại với Tin Mừng" (Tiếp kiến chung ngày 22/10/1980).

Ngay cả trong tình trạng bị tổn thương do tội nguyên tổ, nhờ công trình cứu chuộc được thánh hóa qua bí tích Hôn Nhân, cùng được thanh tẩy bởi máu của Con Chiên, nên sự hiến thân có thể trãi qua ở nguyên vẹn ý nghĩa của nó. Đức Gioan Phaolô II: "Ngay cả trong trạng thái này, - tức là tình trạng tội lỗi của con người do tội nguyên tổ - hôn nhân vẫn không ngừng là hình ảnh của bí tích mà tác giả của thư gửi tín hữu Êphêsô đề cao ‘mầu nhiệm cao cả’" (Tiếp kiến chung ngày 13/10/1982). Đời sống Kitô hữu đích thực, là sống trong sự năng động của ân sủng, là một đời sống hiệp nhất. Sự hợp nhất của thân xác và linh hồn chúng ta cũng như là sự hợp nhất của đôi vợ chồng trong Thánh Thể, phải là những dấu hiệu rạng rỡ của đời sống Kitô giáo thực sự. Đây là kết quả của sự chiến đấu, sự thanh lọc, sự hy sinh, nỗ lực không ngừng uốn nắn lại trái tim của chúng ta, để xứng đáng đón nhận ân sủng, nhưng chủ yếu là nhờ vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô cho chúng ta.

3. Tiệc cưới Con Chiên

Phần Chúa Kitô, sự hy sinh cao cả của Ngài cho Giáo Hội là toàn hảo. Việc Ngài chết trên thập giá là lúc hoàn toàn dâng hiến chính Ngài. Sự đáp trả tình yêu của Giáo Hội cho tình yêu phu thê của Chúa Kitô phải được hoàn hảo hơn, để sự hiệp nhất của Chúa Giêsu và Giáo Hội một ngày nào đó sẽ hoàn toàn được thực hiện. Giáo Hội, nghĩa là mỗi người trong chúng ta phải sẵn sàng đón nhận, được xem như là Hiền Thê của Chúa Kitô-Hôn Phu, để đạt đến sự viên mãn của bản thân món quà. Để được như vậy, Giáo Hội phải được thánh hoá hết tội lỗi, vì nó làm cản trở sự dâng hiến hoàn toàn của mình. Vào ngày sau hết, Chúa Kitô trở lại trong vinh quang để đón nhận sự dâng hiến trọn vẹn của Giáo Hội cho Ngài, Hiền Thê sẽ hoàn toàn sẵn sàng để chào đón Hôn Phu của mình như trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan đã mạc khải: “vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19,7). Đó cũng là mỗi lần chúng ta được chuẩn bị cho bí tích Thánh Thể "mà Chúa Kitô trong tình yêu phu thê của Ngài, đã nuôi dưỡng Giáo Hội" Đức Gioan Phaolô II (Tiếp kiến chung ngày 01/09/1982).

“Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!” (Kh 19,9), lời mời dự tiệc do vị chủ tế nhân danh Chúa Kitô cử hành trong nghi thức hiệp lễ. Theo lời mời này, Giáo Hội-Hiền Thê, qua mỗi người chúng ta chỉ có thể đáp lại với sự khiêm nhường và niềm hy vọng: "Dominus, non sum dignus - lạy Chúa, con không xứng đáng với bữa tiệc cưới này. Hiền Thê Ngài không xứng đáng, trái tim con vẫn chưa sẵn sàng để đón nhận món quà cao quý của Ngài, nhưng hãy đến, lạy Chúa, chữa lành trái tim của con, đến dưỡng nuôi con, đến gợi lên trong con sự khát khao tận hiến cho Ngài". Lời khao khát thể hiện lòng mong muốn mình được biến đổi để có một ngày, được đón nhận Hôn Phu một cách trọn vẹn, Giáo Hội sẽ không ngừng và sẽ tiếp tục lặp đi lặp lại lời này, cho đến khi sẵn sàng đón nhận quà tặng của Hôn Phu cho mình, lúc Ngài trở lại trong vinh quang. Ngày đó Giáo Hội sẽ đến trước mặt Hôn Phu “xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”. (Ep 5,27).

Vinh quang của Chúa Kitô khi Ngài trở lại vào ngày sau hết sẽ là vinh quang của Hôn Phu được Hiền thê chào đón. Chính lúc đó, Giáo Hội-Hiền thê, cuối cùng có thể nói với Hôn Phu những lời mà bất kỳ người vợ nào cũng thì thầm với chồng khi cô cảm thấy sẵn sàng để đón nhận món quà hiến thân của chàng: "Hãy đến! - Maranatha, hãy đến, Chúa Giêsu!" Sự hiến thân của Hôn Phu đối với Hôn Thê, cuối cùng sẽ được hoàn toàn đáp trả từ Hôn Thê cho Hôn Phu. Cuộc hôn nhân của họ sẽ được thực hiện đầy đủ, trọn vẹn trong một nghi lễ đời đời, hiệp thông vào bàn tiệc Thánh Thể vĩnh cửu, và sự khao khát hiệp thông được khắc ghi trong trái tim của người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu bởi Đấng Tạo Hóa sẽ hoàn toàn thoả mãn. Qua bữa tiệc cưới vĩnh cửu đó, công trình cứu chuộc nhân loại chúng ta cuối cùng sẽ được hoàn tất. Các đôi vợ chồng Kitô hữu nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, họ được mời gọi làm sứ giả loan báo từ ngày hôm nay và cho đến ngày sau hết.

Suy gẫm việc kết hôn nhiệm mầu giữa Ðức Ki-tô và Hội Thánh qua chương 5 của thư gửi Tín hữu Êphêsô, dẫn chúng ta vào trọng tâm của thực tại và cùng đích của hôn nhân, và đồng thời là một sự thật toàn thiện. Đức Gioan Phaolô II đã nói: "Bản văn này, cho chúng ta thấy tầm quan trọng của ngôn ngữ của thân xác vì nó có thể được gọi là ‘huyền nhiệm’. Thực sự, hôn nhân là một ‘mầu nhiệm cao cả’ […] Mặc dù mầu nhiệm này đã hoàn tất trong hôn nhân của Chúa Kitô-Đấng Cứu Chuộc với Giáo Hội và Giáo Hội-Hiền thê với Chúa Kitô, và mầu nhiệm đó thật sự sẽ được thực hiện vĩnh viễn trong thời tận thế […] tác giả của bức thư gửi tín hữu Êphêsô không ngần ngại, tuy nhiên, để mở rộng sự so sánh hôn ước của Chúa Kitô và Giáo Hội trong tình yêu phu thê […] dấu chỉ bí tích của giao ước hôn nhân của người nam và người nữ" (Tiếp kiến chung ngày 04/07/1984).

Bản văn này thuộc kho tàng vĩ đại của Giáo Hội, kho tàng này tiếp tục đào sâu và không ngừng gia tăng sự ngưỡng mộ về tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa yêu thương loài người. Mỗi ngày kho tàng giúp Giáo Hội hiểu thêm hơn về con người trong tất cả sự thật và hiểu được tầm quan trọng ơn gọi cao quý của mình, đồng thời là một mầu nhiệm mà "chỉ được soi sáng thực sự trong mầu nhiệm Nhập Thể" (Gaudium et Spes, n°22). Mầu nhiệm Nhập Thể, tức Mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra, “Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Mt 1,23), nên hôn nhân gia đình chính là cung thánh linh thiêng Thiên Chúa ngự trị và tỏ mình ra, qua những thăng trầm của cuộc sống vợ chồng, để cuộc sống hôn nhân gia đình của họ trở thành một Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II nói tiếp: "Chúng ta phải thừa nhận, bản văn tuyệt vời này đã hoàn toàn giải phóng suy nghĩ của chúng ta về các khuynh hướng Ma Ni giáo hoặc nhận xét không nhân vị của thân xác, và đồng thời làm cho ngôn ngữ của thân xác nằm trong dấu chỉ bí tích hôn nhân gần gũi hơn với sự thánh thiện thực sự".

Bản văn này cũng cho thấy sứ mệnh đặc biệt của các đôi vợ chồng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô là Giáo Hội: suốt cuộc đời của các đôi vợ chồng trong Giáo Hội, mỗi cử chỉ của họ phải thể hiện một tình yêu chân thật như sự tận hiến chính mình, cho thấy toàn bộ ý nghĩa dấu chỉ bí tích của hôn nhân. Rằng cuộc hôn nhân nhiệm mầu của Chúa Kitô và Giáo Hội, tiệc cưới sẽ được hoàn thành vào ngày sau hết, lúc Chúa Kitô-Hôn Phu trở lại trong vinh quang để đón nhận món quà cưới của Hiền Thê Ngài. Và đó là lý do tại sao Đức Gioan Phaolô II đã kết luận: "Trong dấu chỉ này - thông qua ngôn ngữ của thân xác - người nam và người nữ sẽ tiến tới ‘mầu nhiệm cao cả’ để chuyển ánh sáng của mầu nhiệm này - ánh sáng của sự thật và nét đẹp thánh thiện, biểu lộ bằng ngôn ngữ phụng vụ - ngôn ngữ của thân xác, tức là trong ngôn ngữ truyền thống của tình yêu".



TÓM LƯỢC THẦN HỌC THÂN XÁC THEO ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II

của Lm Mai Đức Vinh

‘Thần học về thân xác của Đức Gioan Phaolô II có thể được coi như một khúc quặt, không chỉ đối với thần học Công Giáo mà còn đối với cả tư tưởng hiện đại’ (lm George Weigel).

Trong những trang dưới đây, chúng tôi mạo muội tóm lược về thần học thân xác (Compendium de la théologie du corps) múc ra từ những ý tưởng của đức Gioan Phaolô II.

Đức Gioan Phaolô II đã dành hơn năm năm đầu triều đại giáo hoàng của ngài (.9.1979-28.11.1984) để trình bày giáo huấn về ‘thần học thân xác’, đặc biệt vào những buổi triều yết chung ngày thứ tư. Ít nhất đã có 129 bài gồm lại thành gần 800 trang viết. Đọc những trang này, đức Hồng Y Angelo Scola, lúc còn là viện trưởng đại học Latran đã nhận định: ‘Đây là huấn giáo tuyệt tác của đức Gioan Phaolô II’ (magistère génial de Jean-Paul II) [33] và cha George Weilgel, tác giả cuốn tiểu sử đức Gioan Phaolô II đầy đủ và uy tín nhất, không ngần ngại gọi ‘đây là quả bom nổ chậm của thần học’ (bombe à retardement théologique). Cha còn nói thêm: "Thần học về thân xác của đức Gioan Phaolô II có thể được coi như một khúc quặt, không chỉ đối với thần học Công Giáo mà còn đối với cả tư tưởng hiện đại" [34]. Có điều mâu thuẫn, huấn giáo của đức Gioan Phaolô II không được phổ biến rộng rãi và sớm sủa vào đại chúng, mãi tới mấy năm gần đây người ta mới khám phá ra những chiều kích đáng giá về thần học của huấn giáo.

Ngay bây giờ chúng tôi cũng cảm thấy ‘nhột dạ’ khi dám tóm lược thần học thân xác của đức Gioan Phaolô II vào mấy trang sách [35] đang khi phải nhìn nhận tính cách phức tạp và khó nắm bắt tư tưởng của nền thần học này. Vì thế để dễ dàng nắm bắt, chúng tôi xin dựa trên những lời Thánh Kinh mà đức Gioan Phaolô II đã dùng, để trình bày bản tóm lược này. Quả vậy, đức Gioan Phaolô II đã dùng ba lời thánh kinh mà chính Chúa Giêsu đã công bố, để làm nền tảng xây dựng thần học thân xác [36]. Ba lời này (trityque) được nêu bật nhờ cách chú giải hoàn toàn mới mẻ của đức Gioan Phalô II, và ngài luôn quy hướng hôn phối về viễn tượng ‘cứu chuộc’ và được đồng hình với hôn phối huyền nhiệm của Đức Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,22-23).

Việc đức Gioan Phaolô II diễn tả ba lời chính yếu này thật giàu ý nghĩa. Ba lời này làm thành ba bức tranh mà đề tài của mỗi bức tranh bổ túc cho nhau và soi sáng lẫn nhau. Có thể nói đây là bộ ba bức tranh thánh kinh về thần học thân xác, cũng là ba đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu:

1. Chương trình của Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ về sự phối hợp của người nam và người nữ (Mt 19,3-8).

Lời thứ nhất của Tin Mừng: Có mấy người Biệt Phái đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài. Họ nói : ‘Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do gì không?’. - Ngài đáp: ‘Các ông không đọc thấy điều này sao: Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã dựng nên con người có nam có nữ và Người đã phán: ‘Vì thế người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly’. - Họ thưa với Ngài: ‘Thế sao ông Maisen lại truyền cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?’ - Ngài bảo họ : ‘Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Maisen đã cho phép các ông rẫy vợ, chớ thuở ban đầu không có thế đâu’.

Hai lần, đức Gioan Phaolô II đã lưu ý: Đức Kitô nhắc đến những nguồn gốc. Nói cách khác, về vấn đề luật pháp người Biệt Phái đặt ra: Người ta có quyền không…? Trong trường hợp nào người ta có thể…? Đức Kitô không trả lời thẳng câu hỏi, nhưng Ngài dẫn họ về tận nguồn gốc. Vì người biệt phái không biết Thánh Kinh bao nhiêu, nên Chúa Giêsu muốn dẫn họ về tận nguồn gốc: nguồn gốc của hôn phối còn ghi lại trong các văn bản mạc khải và thánh thiêng của sách Sáng Thế, qua các trình thuật về việc sáng tạo và việc đoạn tuyệt do tội lỗi trong lịch sử loài người. Đức Gioan Phaolô II đã đi theo sự chỉ dẫn của chính Đức Kitô và nghiên cứu kỹ lưỡng bản văn sách Sáng Thế, Ngài soi chiếu bản văn bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ.

Nhờ bản Tin Mừng của thánh Matthêu, chúng ta trở lại sách Sáng Thế, và tìm ra nguồn gốc của câu này: ‘Họ không còn phải là hai nhưng chỉ là một’. Đức Gioan Phaolô II đã chú giải câu này cách sâu sắc: chính lúc khám phá ra sự hiệp thông trong hai thân xác mà người nam và người nữ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa cách toàn vẹn, họ trở nên như một kiệt tác và sự hoàn tất của việc sáng tạo. Hành động xác thịt, trao ban thân xác, là những việc làm vô tội tự nguồn gốc, chúng diễn tả toàn thể sự hiến thân của người này cho người khác. Ngài gọi đó là ơn gọi hay sứ mệnh. Ơn gọi này vẫn tồn tại cho dù đối với chúng ta, việc thể hiện này còn khó hơn đến độ, nếu không có ơn sủng, chúng ta không thể hoàn tất. ‘Là một nhân vị’, có nghĩa là con người hiện hữu như một thực thể trao ban, khi thấy ‘mình toàn mãn’ trong sự hiệp thông [37]. Tự đầu trong chương trình của Thiên Chúa, người nam và người nữ có ơn gọi, nhờ sự hiệp thông với nhau trọn vẹn, trong đó có sự hiệp thông hai thân xác, trở nên hình ảnh sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn đặt trong xác thịt hình ảnh của Ngài từ muôn thuở. Đó là sứ mệnh của thân xác nhân loại trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đầu cho chúng ta trở nên món quà trao ban của chính chúng ta. Được đóng ấn bởi hồng ân này, thân xác của loài người mạc khải Thiên Chúa cho trần gian: "Thân xác đã được dựng nên để chuyển thông vào thực tại hữu hình của thế giới mầu nhiệm dấu kín từ đời đời nơi Thiên Chúa và trở nên dấu chỉ hữu hình của mầu nhiệm ấy" [38].

Điều căn bản nhất mà người ta có thể giữ lại theo sự chú giải đoạn sách Sáng Thế của đức Gioan Phaolô II: Con người là hình ảnh của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, trước tiên nhờ sự hiệp thông giữa ‘con người - nhân vị’, hơn là nhờ sự kiện ‘con người - thụ tạo’ được phú bẩm thần linh tính (spiritualité). Thiên Chúa là một hữu thể thuần túy thiêng liêng. Chúng ta chỉ được phú bẩm một mức độ thần tính nào đó thôi. Các thiên thần được phú bẩm nhiều thần tính hơn con người. Các ngài là thần linh thuần thục. Vì thế, hình ảnh của Thiên Chúa nơi các thiên thần đậm nét hơn nơi chúng ta. Thế mà, sách Sáng Thế không nói đến các thiên thần là hình ảnh của Thiên Chúa, mà chỉ nói người nam và người nữ là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự hiệp thông giữa người nam và người nữ được hoàn tất trong sự hiệp thông của thân xác. Từ đầu việc sáng tạo, dục tính (sexualité) được coi là một sự tốt lành căn bản. Chính nhờ vậy mà sự hiệp thông giữa người nam và người nữ ngay trong xác thịt, là hình tượng của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Đức Gioan Phaolô II nói: "Con người đã trở nên tương giống và là hình ảnh của Thiên Chúa nhờ sự hiệp thông nhân vị mà người nam và người nữ tạo nên từ ban đầu (…). Lúc sống cô đơn, con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa, một cách đuối kém hơn lúc con người sống hiệp thông. Vậy, ngay từ đầu, xét theo yếu tính, con người là hình ảnh của một sự hiệp thông không thể dò thấu của Ba Ngôi Thiên Chúa" [39]. Đức Giáo Hoàng còn nói thêm: "Thậm chí, điều này có thể thiết lập nên một khía cạnh thần học sâu xa nhất mà người ta có thể nói về con người" [40].

2. Trái tim con người đã bị thương từ tội nguyên tổ (Mt 5,27-28)

Lời thứ hai của Tin Mừng: "Anh em đã nghe luật dạy rằng: ‘chớ ngoại tình’. Còn Thày, Thày bảo anh em biết: ‘ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn họ, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (a déjà commis l’adultère avec elle dans son cœur)" (Mt 5,27-28). Đức Gioan Phaolô II trưng dẫn một lời dịch khác cổ thời hơn và ngài cho là đúng hơn: "Còn Ta, Ta nói cho anh em : ‘Ai nhìn một người phụ nữ và thèm muốn họ, thì đã làm cho họ ngoại tình trong lòng của họ rồi’ (l’a rendue adultère dans son cœur)" [41]. Chỉ hơn một năm mà ngài đã nhắc lại câu này quãng 40 lần trong các buổi triều yết (16.4.1980 -6.5.1981). Theo ngài, ‘Lặp lại như vậy vì ý nghĩa của những lời này là nồng cốt cho toàn bộ thần học về thân xác được chứa đựng trong giáo huấn của Chúa Kitô’ [42].

Như vậy, ngoại tình trong lòng là một hành động đã được định nghĩa rõ ràng cái nhìn thèm muốn, nghĩa là cái nhìn chăm chú trên một người khác để chiếm hữu họ, để xử dụng họ, để được thỏa mãn, để lợi dụng họ, để dụ bắt họ. Đức Gioan Phaolô II còn dùng một kiểu nói vừa rất chính xác vừa rất hoảng hồn: ‘Đó là cách cưỡng đoạn sự hiến thân của họ dành cho một hữu thể nhân loại khác (người nam dành cho người nữ hay ngược lại) và thu rút hồng ân ấy thành một đối vật thuần túy dành cho mình’ [43]. Như vậy Ngài muốn chứng tỏ rằng: Những lời của Chúa Kitô trong bài giảng trên núi tố cáo tất cả những thái độ có ý từ chối phẩm tính nhân vị nơi một người khác xét theo họ là chủ thể hiến dâng (sujet de son don).

Chính đó là hậu quả của tội lỗi nơi chúng ta, hay rõ hơn, là nguồn gốc của ba dục vọng thánh Gioan nói đến trong thơ của ngài, đặc biệt về dục vọng xác thịt [44]. Khác với điều chúng ta đọc được trong sách Sáng Thế ‘Bấy giờ cả hai người nam và người nữ đều trần truồng và họ không cảm thấy xấu hổ khi đứng trước mặt nhau’ (St 2,25). Lúc đó họ ở trong tình trạng vô tội, có cái nhìn trong sáng hoàn toàn. Họ nhận ra trong nam tính và nữ tính có những dấu chỉ về ơn gọi chung của họ là hiệp thông vào sự hiến thân của chính họ. Đức Gioan Phaolô II nói: "Nếu họ không cảm thấy xấu hổ, điều ấy có nghĩa là họ được kết hợp bởi sự ý thức về sự hiến thân, họ đã cùng nhau ý thức về ý nghĩa hôn phối của thân xác họ, ý nghĩa diễn tả sự tự do của việc hiến thân và bày tỏ tất cả sự giàu sang bên trong của con người xét theo là hữu thể hiến dâng" [45].

Trái lại, sau khi phạm tội thì theo sách Sáng Thế, hậu quả đầu tiên là: "Bấy giờ mắt hai ông bà mở ra, và họ thấy mình trần truồng, họ mới kết lá và làm khố che thân" (St 3,7). Như vậy, điều đầu tiên người ta nhận thấy chính là sự thối nát của tội nguyên tổ. Không phải là thái độ của Thiên Chúa, (chỉ sau khi phạm tội người nam và người nữ mới trốn tránh Thiên Chúa) [46], nhưng chính là thái độ mà hai người dành cho nhau, nhìn vào nhau. Cái nhìn của họ không còn trong suốt nữa, cũng không phải là cái nhìn chiêm ngưỡng về ơn gọi hiến thân, nhưng là cái nhìn đã đổi hướng và từ nay thấy người khác như là đối vật có tiềm năng hưởng thụ ích kỷ. Đó là cái nhìn thèm muốn, cái nhìn coi người khác như một đối vật (objet) chứ không phải như một chủ thể (sujet). Đi xa hơn đức Gioan Phaolô II còn khẳng định: "Cái nhìn đưa đến sự ngoại tình trong lòng, người nam cũng có thể phạm tội ngoại tình đó đối với chính người vợ của mình, vì lúc đó ông coi vợ ông như một đối tượng để thỏa mãn những đòi hỏi theo bản năng của ông mà thôi" [47].

Trong nhiều buổi triều yết, đức Gioan Phaolô II chú tâm đến những lời này trong bài giảng trên núi và ngài đã chứng minh cách tuyệt vời rằng: Chính trái tim con người mới bệnh hoạn vì hậu quả của tội chứ không phải thân xác bệnh hoạn. Thân xác vô tội. Chúng ta lạm dụng chính bản thân chúng ta khi chúng ta tố cáo thân xác chúng ta, trong khi chính trái tim mới cần phải khám nghiệm. Sự dơ bẩn dưới mọi dạng thức không phải là tội của thân xác nhưng là một tội chống lại thân xác. Đức Gioan Phaolô II khẳng định: "Đối với người có não trạng nhị nguyên thuyết (mentalité manichenne) thì thân xác và dục tính tạo nên cái người ta gọi là ‘phản giá trị’ (anti-valeur), trái lại đối với Kitô giáo thì giá trị của thân xác còn được trân trọng quá ít. Cách nhận thức và đánh giá trị về thân xác và dục tính của thuyết nhị nguyên thì chính yếu xa lạ với Tin Mừng. Nhiều người đã bắt được ý nghĩa đích thực của những lời này mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi" [48]. Ít lâu sau, trong một vài buổi triều yết, đức Gioan Phaolô II còn nhấn mạnh: Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu mời gọi con người trở về với tình trạng nguyên thủy vô tội, tức là tìm lại những ý nghĩa căn bản trường tồn, dưới nhiều dạng thức bền vững, của cái được gọi là ‘nhân tính’ sống động của con người mới. Như vậy, sẽ có sự nối kết giữa ‘nguyên thủy’ (origine) và ‘viễn tượng của ơn cứu độ’ [49].

3. Hôn nhân là như sự công bố và chuẩn bị ơn phục sinh (Mt 22,23-30).

Lời thứ ba của Tin Mừng: là câu Chúa Giêsu trả lời cho người Sađuxê. Một phái người Do Thái mang tên là Sađuxê không tin vào sự sống lại của thân xác, đã đến gặp Chúa Giêsu và đặt với Ngài một câu hỏi liên hệ đến ‘luật anh em thế nhau’ (loi du lévirat). Trong luật Do Thái, khi một người nam chết, thì một trong các anh em trai của họ phải kết hôn với người nữ góa bụa hầu bảo đảm dòng giống cho người anh em quá cố. Những người Saduxê đặt vấn nạn với Chúa Giêsu như sau: "Thưa Thày, ông Maisen có nói: nếu ai chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ góa, để sinh con nối dõi cho anh hay em mình. Mà trong chúng tôi có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, và vì không có con nối dòng, nên để vợ lại cho em. Người thứ hai, rồi thứ ba, cho đến hết bảy người, người nào cũng vậy. Sau hết, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà?" - Đức Giêsu trả lời họ: "Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng của Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ sống như các thiên thần trên trời" (Mt 22,23-30).

Chúa có ý nói rằng: một khi đã sống lại, không còn hôn nhân nữa, vì hai lý do: Lý do thứ nhất việc sống lại xảy ra lúc Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, đánh dấu sự kết thúc của lịch sử. Lịch sử đã hoàn tất, không còn cần thiết việc sinh sản nữa, và vì thế không còn việc dựng vợ gả chồng nữa. Lý do thứ hai, chính chúng ta có một cái nhìn rất chật hẹp về sự sống lại, hay đúng hơn một cái nhìn của người theo tự nhiên thuyết (naturaliste): Chúng ta thường lẫn lộn sự sống lại với một hy vọng tự nhiên về sự bất tử (immortalité). Đó là một quan niệm sai lầm mà chúng ta phải gạt bỏ. Đức Gioan Phaolô II nói: "Phục sinh không chỉ có nghĩa là sự vãn hồi thân xác và tái lập sự sống của con người, hầu con người trở lại tình trạng nguyên vẹn nhờ sự kết hợp của linh hồn và thân xác, nhưng còn có nghĩa là sự vãn hồi một tình trạng tuyệt đối mới mẻ của chính sự sống con người" [50].

Căn cứ vào đâu để nói đến tình trạng tuyệt đối mới mẻ này? - Đức Gioan Phaolô II bảo: "Tình trạng này được khởi sắc nhờ ‘một hệ thống tuyệt hảo đầy sức mạnh trong những tương quan hỗ trợ giữa tinh thần và thể xác của con người" [51]. Nghĩa là trong sự sống lại, có sự đối lập mà người ta trải nghiệm trong đời sống hiện nay, cụ thể là những hậu quả của tội nguyên tổ. Đó là sự đối lập giữa những khát vọng của tinh thần chúng ta và những nặng nề của thân xác chúng ta, sự đối lập này sẽ bị đẩy lui hoàn toàn bởi sự hiệp nhất và sự hòa hợp tuyệt hảo của thân xác và tinh thần. Đức Giáo Hoàng nói tiếp: "Nhờ sự sống lại mà thân xác sẽ tìm lại sự hiệp nhất và hòa điệu toàn hảo với tinh thần. Con người sẽ không còn bị khống chế bởi sự đối lập giữa những yếu tố tinh thần và những yếu tố thân xác nơi con người nữa. Việc tinh thần hóa không chỉ có nghĩa là tinh thần sẽ thống trị thân xác, nhưng tinh thần thâm nhập hoàn toàn thân xác và những sức mạnh của tinh thần sẽ thấm nhiễm vào các nghị lực của thân xác" [52].

Sức mạnh của tinh thần sẽ thấm nhiễm và thống trị sức mạnh của thể xác chúng ta, rồi sẽ dẫn chúng ta vào trong một bậc sống cao trọng hơn bậc sống thực nghiệm tại thế. Nhờ ơn sủng, chúng ta sẽ đạt tới sự trọn lành tột độ của chương trình thần linh hóa. Đức Gioan Phaolô II viết: "Mức độ linh đạo hóa riêng của con người thời cánh chung nảy sinh và lớn lên theo mức độ thần linh hóa của con người. Mức độ thần linh hóa vô cùng trổi vượt sánh với mức độ người ta có thể đạt tới trong đời sống trần thế. Còn phải thêm rằng: ở đây không nói đến một mức độ khác biệt, nhưng theo một ý nghĩa nào đó, là nói về một loại thần linh hóa khác. Việc tham dự vào đời sống nội tâm của chính Thiên Chúa, việc yếu tố thực chất nhân bản được thấu triệt và thâm nhập bởi yếu tố thực chất là thần linh, sẽ đạt tới trọn đỉnh. Ngay đời sống tinh thần của con người cũng đạt tới độ cao mà trước đó tuyệt đối không thể nào vươn tới được (…). Sự thần linh hóa trong một thế giới khác mà những lời dạy của Chúa Giêsu ám chỉ đến, sẽ đem lại cho kinh nghiệm của con người một ‘âm giai’ kinh nghiệm về sự thật và về tình yêu vượt xa tất cả những cái mà con người có thể đạt được trong đời sống tại thế" [53].

Tuy nhiên sự sống lại sẽ không phải là ‘sự thoát xác’ (désincardination). Chúng ta sẽ không trở thành thuần tuý tinh thần, và điều đó là điều Chúa Giêsu muốn đề cao khi nói "Trong ngày sống lại, người ta như các thiên thần". Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh: "Dĩ nhiên ở đây không nói đến việc biến đổi bản tính nhân loại thành bản tính thiên thần, nghĩa là thành tinh thần thuần tuý. Văn mạch chỉ rõ rằng: trong thế giới khác, con người sẽ còn bảo toàn bản tính riêng của con người tâm lý nhục thể (psychosomatique). Nếu hiểu cách khác, thì việc nói về sự sống lại sẽ mất hết ý nghĩa" [54].

Thân xác chúng ta đã được phục sinh vẫn là thân xác con người. Chúng vẫn giữ nam tính hay nữ tính của chúng. Tuy nhiên, hôn phối sẽ ngừng hiện hữu trong thân phận sống lại. Tại sao? Bởi vì trong thân phận mới này của nhân loại, nghĩa là trong sự sống lại, sự hiệp thông của Thiên Chúa với con người sẽ tuyệt hảo đến nỗi sẽ làm thỏa mãn sự hiệp thông của chúng ta một cách toàn diện và chan chứa, dư đầy. Mục đích chúng ta được dựng nên, là để chúng ta trở nên những hữu thể hiệp thông. Lý tưởng chúng ta phải thực hiện trong hôn nhân tại thế là sống theo gương mẫu trọn hảo ‘việc Thiên Chúa hiến thân cho mỗi người’. Chúng ta sẽ không còn lấy vợ lấy chồng nữa, bởi vì việc hiến thân của chính chúng ta cho một người sẽ vô cùng thấp kém sánh với việc chúng ta được hưởng kiến hồng phúc nhan thánh Thiên Chúa. Đức Gioan Phaolô II cho biết: "Những người sẽ tham dự vào thế giới mới, nghĩa là vào sự hiệp thông tuyệt hảo với Thiên Chúa hằng sống, họ sẽ vui hưởng một chủ thể tính tuyệt hảo. Nếu trong chủ thể tính tuyệt hảo này không còn dựng vợ gả chồng nữa, và vẫn duy trì nam tính và nữ tính trong thân xác phục sinh của họ, nghĩa là thân xác vinh quang, thì điều đó được cắt nghĩa bởi sự kết thúc của lịch sử, nhưng cũng và đặc biệt bởi sự kiện của ngày cánh chung (…). Như vậy, sau ngày cánh chung người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, người ta sẽ bước vào đời sống miên trường, luôn hưởng kiến Thiên Chúa, diện đối diện. Lúc đó, sẽ nảy sinh một tình yêu thật sâu thẳm và thật mãnh liệt quy hướng về chính Thiên Chúa. Tình yêu ấy sẽ chiếm hữu hoàn toàn chủ thể tính tâm lý nhục thể (subjectivité psychosomatique)" [55].

Diễm phúc được hưởng kiến mầu nhiệm tình yêu Chúa Ba Ngôi giúp chúng ta đạt tới sự hiệp thông toàn hảo và phổ quát. Đức Gioan Phaolô II nói: "Quy hướng mọi hiểu biết và tình yêu thương vào Thiên Chúa, chính là tham dự trọn vẹn vào đời sống nội tâm của Thiên Chúa nghĩa là vào đời sống của chính Ba Ngôi cực thánh (…)" [56]

Nếu trong ngày sống lại không còn hôn phối nữa, không phải vì sự sống lại phủ nhận giá trị hôn phối, nhưng vì sự hiệp thông mà hôn phối loan báo đã được thực hiện toàn mãn. Hôn phối là như công trình hiệp thông, loan báo sự sống lại. Và sự sống lại loan báo sự hiệp thông toàn mãn của Thiên Chúa nơi chúng ta. Bởi đó, sự hiệp thông của chúng ta với mọi người theo khuôn mẫu tín điều ‘các thánh cùng thông công’, giúp chúng ta làm trong sáng bậc sống hôn nhân và nêu bật những ý nghĩa phong phú của hôn nhân.

Chúng ta có thể kết thúc chương sách này bằng lời của đức Hồng Y Barbarin, người đề tựa và giới thiệu cuốn sách ‘Linh đạo hôn phối theo đức Gioan Phaolô II’: "Tuy vắn gọn, những trang tóm lược (Compendium) về thần học thân xác theo đức Gioan Phaolô II thật hữu ích. Bản tóm lược hiến tặng chúng ta những nét trục chính, giúp chúng ta đào sâu những giáo huấn thần học của đức Gioan Phaolô II. Hy vọng nhiều đôi bạn sẽ múc lấy được những điều cần thiết để canh tân đời sống nội tâm của mình và thông truyền nguồn phong phú tiếp thu được đến các gia đình khác" [57].

Sau cùng là lời của chính đức Gioan Phaolô II, ngài nhấn mạnh: "Thần học thân xác này cần thiết để hiểu cho đúng lời dạy của quyền giáo huấn (magistère) của Giáo Hội đương thời" [58]  [59].

-----------------------------

[33] x Carlo Caffara, ‘Identidad y diferencia. La relacionbombre y mujer’, Madrid, nxb. Encuentro, 1989 tr. 34.

[34]   George Weigel, ‘Jean Paul II, témoin de l’Espérance’, JC Latès, tr.427.

[35] Có thể đọc tác phẩm đầy đủ và kỹ thuật về thần học thân xác của đức Gioan Phaolô II của ông Yves Semen ‘La sexualité selon Jean-Paul II’, Presses de la Renaissance, 2004.

[36] Triều yết chung ngày 11.11.1981, s.1

[37] x. Hiến Chế Mục Vụ ‘Gaudium et Spes’ s. 24.        

[38] Triều yết chung ngày 20.02.1980, s.4

[39] Triều yết chung ngày 14. 11. 1979, s.31    

[40] Triều yết chung ngày 14.11.1979, s.3

[41] Triều yết chung ngày 6.8.1980, s.5

[42] Triều yết chung ngày 22.10. 1980, s.1.

[43] Triều yết chung ngày 6.2.1980, s.3

[44] X. 1Ga 2,16  

[45] Triều yết chung ngày 20.2.1980, s.1

[46] x. Ga 3,8

[47] Triều yết chung ngày 8.10.1980, s.3        

[48] Triều yết chung ngày 22.10.1980 ss 3+5

[49] Triều yết chung ngày 3.12.1980, s.3

[50] Triều yết chung ngày 2.12.1981, s.3        

[51] Triều yết chung ngày 9.12.1981, s.1

[52] Triều yết chung ngày 9.12.1981, s.1        

[53] Nt, s.3+4.

[54] Buổi triều yết 2.12.1981, s.5          

[55] Triều yết chung ngày 16.12.1981, s.2+3.

[56] Nt s.4

[57] Yves Semen, La spiritualité Conjugale selon Jean-Paul II, Paris, Presses de la Renaissance, 2010, tr.14

[58] Triều yết chung ngày 8.4.1981, s.5

[59] Bài viết trên đây dựa theo phần phụ lục ‘Annexe, Compendium (abrégé) de la théologie du corps’, của cuốn ‘La Spiritualité Conjugale selon Jean-Paul II’, … tr.217-236.