117 Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Dẫn Nhập
UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II vẫn nuôi hoài bão đưa thế giới trở về cùng Thiên Chúa. Ngài muốn trình bày sự vinh quang của các vị thánh cho từng lớp người và trong mọi trường hợp có thể cho từng quốc gia hay từng miền một hay nhiều vị Thánh sinh trưởng tại địa phương, quen thuộc với nền văn hóa và các phong tục của chúng ta làm mô phạm cho mọi người noi theo để không bị thế giới vật chất hóa lôi cuốn.
Từ trên cao các vị Thánh, đủ mọi mầu da sắc tộc, như những ngọn đèn trời soi chiếu, như những tấm gương linh động sẽ kêu gọi, sẽ thúc đẩy và cổ võ con người thời nay trở về nếp sống đạo đức xứng đáng với danh nghĩa người con Thiên Chúa.
Hồ sơ 117 vị Tử Ðạo Việt Nam là cả một kho tàng châu báu của Giáo Hội Việt Nam, tiềm tàng chứa đựng cái gì là tinh hoa của Ðạo Thiên Chúa hơn ba thế kỷ đã được truyền bá trên khắp giang sơn đất Việt: Ðức Tin thuần tuý, Ðức Tin sắt đá, Ðức Tin nồng nàn quảng đại của Tổ Tiên Việt Nam. 117 vị Tử Ðạo là 117 đoạn lịch sử oai hùng riêng biệt, không ai giống ai, trừ một điểm: ai cũng chết oanh liệt, làm chứng cho Ðức Tin.
LM. Đào Trung Hiệu, O.P.
KINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Kính lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam,
là con thảo của Cha trên trời,
là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô,
là thành phần trung kiên của Hội thánh.
Nay chúng con xin hợp với các ngài
và với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a
là nữ vương các thánh Tử Đạo
mà ca tụng Chúa muôn trùng cao cả.
Xưa Chúa ban cho các ngài
được vững tin vào Lời Chúa
và đầy sức mạnh của Thánh Thần,
nên các ngài đã kiên tâm chịu gian lao đau khổ,
quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá
và hy sinh đến giọt máu cuối cùng.
Các ngài đã chấp nhận nên hạt lúa gieo vào lòng đất,
để Hội thánh Việt Nam
thu lượm được mùa lúa dồi dào.
Nay Hội thánh lại dâng các ngài lên Chúa
như hoa quả đầu mùa để cảm tạ tri ân.
Các ngài đã yêu mến quê hương,
xin cầu cho đất nước được an vui hạnh phúc
và góp phần xây dựng một thế giới hòa bình.
Các ngài đã cam lòng chịu chết mà không oán hận,
xin cầu cho đồng bào mọi giới
biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Các ngài đã hy sinh tất cả vì đức tin,
xin cầu cho mọi ki-tô hữu
biết sống và chia sẻ niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam
là những bậc tiền nhân đã hoàn thành sứ mạng,
xin chuyển cầu cho chúng con là con cháu
được noi gương các ngài
biết đem lòng bác ái mà dấn thân phục vụ,
để một ngày kia trên thiên quốc
chúng con được hợp tiếng với các ngài
ca ngợi tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển. A-men.
Phaolô Nguyễn Văn Bình, TGM. Gp. TpHCM
Vần A (Theo tên thánh)
Anê LÊ THỊ THÀNH (Bà Đê)_(1781 - 12/7/1841)
Thánh nữ tiên khởi Việt Nam
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất vì Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng “hùm xám tỉnh Nam” (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyến dụ ngon ngọt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng, đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung tóe vì đòn vọt đã trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng. Anê Lê thị Thành, Thánh Nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Người mẹ gương mẫu
Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái: Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau: “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc giục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ”.
Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh: “Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi: Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng đón nhận Thánh Giá chúa gửi cho.
Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.
Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.
Từ bác ái đến tử đạo
Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.
Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.
Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trước nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre:
“Xin cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt”.
Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa.
Mặc áo hoa hồng
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.”
Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn”
Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một lòng trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá”
Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Quả thật bà đã thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:
“Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một lòng”.
Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: “Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Bà còn khuyên: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”
Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gửi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con”.
Cuối cùng bà dâng lời sau hết: “Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự”.
Bà Anê Đê đã về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.
Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.
Ngày 02.05.1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Anrê NGUYỄN KIM THÔNG (Thuông)_(1790-15/7/1855)
Phải đi cho trọn hành trình
Nhận được án lệnh lưu đày, thánh Anrê Thông bị áp giải từ Bình Định vào Mỹ Tho. Đường xa xôi diệu vợi, lại chập trùng hiểm trở. cổ mang gông, tay đeo xiềng nặng nề, nhưng thánh nhân vẫn kiên trì tiến bước leo đèo vượt suối và băng rừng. Vào đến Gia Định, quan Tổng Trấn cho phép ở lại đây, nhưng thánh nhân từ chối vì muốn đi cho đến đỉnh đồi Canvê của mình. Và khi đã tới Mỹ Tho, sức cùng, lực kiệt, ngài còn năn nỉ người ta dìu tới Gò Bắc ở cuối tỉnh, tới trại giam lưu đày vĩnh viễn được chỉ định. dù chỉ sống thêm ít phút. Thánh Anrê Thông đã hoàn tất hành trình chứng tá cho Thiên Chúa và đã tới đích Thiên Đàng vĩnh cửu.
Cuộc đời phục vụ.
Anrê Nguyễn Kim Thông sinh khoảng năm 1790 tại Gò Thị, một họ đạo kỳ cựu nhất của giáo phận Qui Nhơn, thôn Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, cách tỉnh 20 cây số về hướng bắc. Ông còn có tên khác là Năm Thuông.
Là chủ một gia đình khá giả, đạo đức, ông Thông đã tận tâm giáo dục con cái sống đạo tốt lành. Hai người con của ông được Thiên Chúa ân thưởng đặc biệt là linh mục Nguyễn Kim Thư và nữ tu Anna Nhường, dòng Mến Thánh Giá. Dân làng tín nhiệm, có thời ông đã làm xã trưởng, nhiệt tình phục vụ dân chúng bất kể lương hay giáo. Về sau ông được đề cử làm trùm họ và được Đức cha Cuénot Thể đặt làm trùm họ cả phụ trách toàn thể hạt Bình Định.
Ngoài mẫu gương liêm chính, bác ái và tận tâm, ông còn thừa hưởng truyền thống của họ Gò Thị về lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt. Ông siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, và kiến thiết một nhà nguyện dâng kính Trái tin Vẹn Sạch Đức Mẹ. Với uy tín sẵn có, ông phụ tá đắc lực cho hàng giáo sĩ trong việc tông đồ, khéo léo trong việc tìm nơi trú ẩn cho các ngài trong thời bách hại. Đức cha Thể và nhiều linh mục đã tạm trú lâu ngày tại nhà ông. hơn nữa ông còn là ân nhân cả về vật chất lẫn tinh thần cho viện mồ côi trong vùng.
Xin nhận chén đắng.
Một người cháu của ông trùm cả tên là Út vốn tính ngang tàng, phóng đãng nên hay bị ông quở mắng. Để trả đũa, y viết một lá thư nặc danh lên quan tỉnh, tố cáo ông về tội chứa chấp giáo sĩ. Thế là quan quân liền đến vây bắt ông cùng với bốn giáo sĩ khác, rồi giam vào ngục thất ở Bình Định.
Quan tỉnh vốn quen biết từ hồi ông là xã trưởng, và trước đây được ông đãi ngộ rất hậu, nên tỏ ra rộng rãi với ông. Nhờ đó, ông trùm cả không bị đánh đập, và thỉnh thoảng lại được phép về thăm nhà. Ông lơi dụng cơ hội này khuyên nhủ con cháu trung kiên với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Ông nói: “Tôi đã già, cũng chẳng ham sống lâu nữa. tôi sẵn sàng chịu tù đày và chịu chết vì danh Đức Kitô, nhất định tôi không vận động xin tha”. Rồi ông lại tình nguyện vào ngục trình diện.
Nhiều lần quan tỉnh gọi ông Trùm cả ra công đường, nhỏ nhẹ khuyên ông bỏ đạo. Quan nói: “Ông dẫm chân lên thập giá đi ! Chỉ tôi và ông biết thôi, rồi về xưng tội là xong chứ có chi đâu”. Ông trả lời: “Không được, thập giá tôi tôn kính mà dẫm lên sao được”. Và ông khẳng định với quan: “Thà tôi bị lưu đày và chết vì Chúa chớ tôi không chối đạo”. Sau ba tháng tù, ông nhận được án phát lưu vào Mỹ Tho thuộc miền Lục tỉnh, Nam Kỳ. Các con ông dự định bỏ tiền vận động xin giảm án, nhưng ông cản: “Các con cứ để thánh ý Chúa được thể hiện”.
Uống cạn chén Chúa trao
Đường vào Nam xa xôi, cùng với bốn tín hữu, ông bị đày vào Vĩnh Long. Ông Trùm cả vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông xiềng, nên bước đi một cách khó khăn mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm dưới ánh nắng gay gắt, tối đến đoàn tù nhân được tạm giam trong các đồn canh hay nhà tù địa phương. Được vài ngày, quân lính thấy ông Trùm cả đuối sức quá, sợ không đủ sức đi tới nơi thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Khi đi ngang qua tỉnh Bình Thuận, ông may mắn gặp linh mục Nguyễn Kim Thư, con trai ông và xin lãnh bí tích Giải tội.
Tại Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông ngày càng suy yếu, cha Được ban bí tích Xức Dầu cho ông. Sau đó, ông lại tiếp tục mang gông xiềng đi xuống miền Tây. Bốn người bạn tù với ông xuống Vĩnh Long, có báo tin cho cha bề trên Borelle Hòa về tình hình nguy tử của ông. Cha Borelle liền cử một y sĩ đến Mỹ Tho chăm sóc nhưng không kịp nữa. Vị chứng nhân của Chúa khi đặt chân đến nơi lưu đày được chỉ định, mới kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở đang khi cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria. Hôm đó là ngày 18 tháng 7 năm 1855.
Thi hài của vị tử đạo được viên y sĩ của cha Borelle Hòa đưa về Cái Nhum (Vĩnh Long), và sau đó là các hiệu tử Thư, ông Ngọc, ông Xa dời về an táng ở nhà thờ Gò Thị. Hiện nay, tại Gò Thị còn lăng của ông, nhưng hài cốt đã được di chuyển về chủng viện Làng Sông (Bình Định).
Đức Thánh Cha Piô X suy tôn ông Trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông lên bậc chân phước ngày 02.5.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Anrê PHÚ YÊN (1625 - 26/7/1644)
Ba thế kỷ rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Thầy anh dũng dâng hiến mạng sống vì trung thành với đức tin Kitô và những lời Thầy cam kết với Chúa Kitô trong tư cách là người truyền bá Tin Mừng và giáo lý Kitô, nhưng ký ức về Thầy vẫn không suy giảm; trái lại, tấm gương của Thầy Anrê vẫn là một nguồn mạch nâng đỡ và khích lệ đích thực cho các tín hữu Công Giáo tại Việt Nam, giúp đỡ họ sống phù hợp và trung thành với đức tin, mặc dù đất nước phải trải qua nhiều thăng trầm phức tạp và khó khăn.
Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh Phú Yên (giáo xứ Mằng lăng, Giáo phận Quy Nhơn), là con út của một phụ nữ tên thánh là Gioanna. Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện. Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Ðắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi tiếng, đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.
Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời, tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.
Một năm sau khi chịu phép Rửa Tội, tức là năm 1642, Anrê được cha Ðắc Lộ nhận vào nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng gọi là "Nhà Ðức Chúa Trời" mà cha Ðắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà Ðức Chúa Trời cam kết, bằng lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội trong việc giúp các linh mục và truyền bá Tin Mừng.
Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo Thiên Chúa rộng ban cho Thầy.
Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng Anrê sinh sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá đạo Kitô trong nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.
Cha Ðắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao, nhưng ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có đông người dân bản xứ theo đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Ðàng Trong để trở về Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì bị trừng phạt rất nặng nề.
Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Ðắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một thầy giảng già 63 tuổi tên là Anrê, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi ấy, quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio. Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Anrê trẻ: để khỏi trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại, rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm 1644, Thầy được dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một "thầy giảng khác giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về đạo Kitô và khuyến khích họ theo đạo".
Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê "từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ lòng tin".
"Những thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ đạo mình tuyên xưng: nên xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy".
Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa, quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ thầy Anrê già.
Cha Ðắc Lộ và một vài thương gia Bồ Ðào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Anrê trẻ thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu nguyện cho Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, "dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Ðấng đã hiến mạng sống vì loài người... những lời Thầy luôn lập lại cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là: Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp trả tình yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp trả mạng sống".
Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Anrê già 63 tuổi và Anrê trẻ, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng Anrê trẻ, rồi ra lệnh dẫn Thầy trở về ngục thất.
Còn thầy Anrê già thì được tha vì lý do tuổi tác nhờ lời xin của cha Ðắc Lộ và các thương gia Bồ Ðào Nha.
Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và dẫn Thầy Anrê đi qua các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành. Cha Ðắc Lộ, nhiều Kitô hữu Bồ Ðào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.
Theo thói quen tại đây, cha Ðắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu dưới người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy Anrê không muốn nhận điều ấy, Thầy muốn máu mình thấm xuống đất, để được giống như máu cực trọng Chúa Kitô đã đổ ra. Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững trong đức tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho Thầy được trung thành tới cùng.
Cuộc hành quyết Thầy Anrê được thi hành bằng mấy nhát dao đâm thấu cạnh sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém đầu, Thầy lớn tiếng kêu lên "Giêsu".
Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.
================
Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC (1795 - 21/12/1839)
Theo gương thánh Phêrô
“Quo vadis, Domine ?” Lạy Thầy, Thầy đi đâu ?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Néron đang giáng xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác
Thập Giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảnh khắc im lặng. Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế. Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút gì giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa. và bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt ngào: “Khi anh rời bỏ dân ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”. Phêrô lặng người đi và chợt hiểu.
Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn sư Giêsu, người thợ mộc làng Nazaret đã chết gục vào tuổi 33 trên Thập Tự để cứu chuộc nhân loại.
Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn thì giờ đây ngài bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại. để có thể trở nên giống Thầy mình. Từ đó, trên tảng đá Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó đã nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. ngài xin tín hữu đừng chuộc ngài nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở lên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu này.
Ba lần bị bắt
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên Thánh là Anrê. Ít lâu sau, cậu dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau 10 năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đó, về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo Hội, cha còn giữ chay suốt Mùa Chay, và nhiều khi cả các thứ sáu, thứ bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẻ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 06.1.1833, cha phải ẩn náu tại các nhà bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Oâng tổng Thìn bỏ ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy cha đổi tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200 quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên viên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retordd Liêu tìm cách chuộc cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình, ngài nhắn với Đức cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.
Được cảm tình mọi giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt Lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: “Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy ?”. Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo”. Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được cảm tình của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu được phép đem cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình, nên dặn họ được đem thịt hay cá. Các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó hai cha ăn thật ít, chỉ vừa đủ sống.
Lễ các Thánh (1-11-1939), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Dũng Lạc ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. Sau đó cha cung kính rước lễ và trao Mình Thánh cho cha già Thi.
Cuối năm 1939, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu, trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với cha: “Chúng tôi không biết các Thày có tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thầy đừng chấp”
Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền anh cứ thi hành”. Sau đó hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21-12-1839 tại bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Đức giáo hoàng Lêo XIII suy tôn chân phước cho linh mục Anrê Dũng Lạc ngày 27-5-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn ngài, đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Nhớ đến thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực (trích theo Nguyễn Văn Tự, 42 Á Thánh Tử Đạo, Tr 76) rằng:
“Lạc rầy đã rõ chốn quan quân
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả
Dạ thương khách chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thời Xuân đến
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an.
Làm kẻ anh hùng quản chi khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng”
================
Anrê TRẦN VĂN TRÔNG (1814 - 15/7/1835)
Trong vòng tay người mẹ
Trong hành tích thánh Anrê Trần Văn Trông, người quân nhân xứ Huế, ta thấy nổi bật lên chân dung của một bà mẹ. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII ca tụng bà đã thể hiện lòng can trường “theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”. Như Đức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến Người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng.
Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan: “Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi”. Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đem về mai táng trong nhà.
Tuổi xuân ước mơ.
Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà, thế mà năm 15 tuổi, người cha lại mất sớm, khiến gia đình lâm cảnh mẹ góa con côi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông đành giã từ sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Đúc dệt tơ cho hoàng gia. Là người ngay thật, cậu không ăn bớt của công, luôn chăm chỉ làm việc và không ưa những chuyện gây gổ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên. Sử gia Rodriguez đã diễn tả tâm trạng của cậu qua những vần thơ sau (Martirologie III, pp. 158 - 159):
“Ôi êm đềm cảnh thiên nhiên trầm lặng,
Dưới ngàn cây râm mát thoảng hương hoa,
Nước lung linh nghe thanh thản tâm hồn,
Sông in dáng bóng non xanh xanh biếc.”
Nhưng cuộc đời êm ả đó không kéo dài được lâu mãi. Đồng lương ít ỏi của người thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình. Năm 20 tuổi, Anrê Trông đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.
Xông vào cuộc chiến
Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Đúc đến “ra mắt” quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man. lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử ngay.
Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anrê sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Đức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món quà tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quý mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.
Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trông liền xin viên cai ngục và được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to “Tâm sự” và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho siết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.
Tảng sáng hôm sau, anh Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị “khách quý”, anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: “Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời”. Anh thưa: “Amen”. Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Nỗi lòng hai mẹ con
Sau một năm tù, không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28.11.1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: “Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”.
Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con”. Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.
Khi được con cho biết không vướng gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. đến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói: “Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm”. Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.
Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, dầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lắp lại: “Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !”.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo xưa trên đỉnh Can-vê. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Anrê NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (1812 - 16/6/1862)
Niềm tin được chứng giám
Cuộc đời năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi và Đaminh Nguyên tưởng như đã được trình bày cụ thể trong thư gửi giáo đoàn Do Thái:
“Có những người vì đức tin bị căng nọc, bị đánh đòn, họ đã từ khước giải thoát ngõ hầu được hưởng sự sống hoàn hảo hơn. Có những người chịu thử thách, chịu sự sỉ nhục, chịu đòn vọt, họ còn bị xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, bị cưa sẻ, bị thiêu đốt, bị hiến đạp, bị hành hạ. Hết thảy những người đó đã được thiên Chúa chứng giám nhờ đức tin” (Dt 11, 35-37, 39).
Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chiếu chỉ Phân Sáp, năm giáo hữu đồng hương này đã đồng lao cộng khổ, để cuối cùng đồng vinh quang trên nước trời. Thiên Chúa đã chứng giám cho niềm tin của họ.
Số phận gắn bó với nhau.
Dưới thời vua Tự Đức, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo nằm trong chín làng xã. Do đó làng Ngọc Cục bao gồm hai họ đạo Ngọc Cục (Bổn mạng lễ Truyền Tin) và họ Phú Yên (Bổn mạng thánh Vinh Sơn).
Ba ông Anrê Tường, Vinh Sơn Tương và Đaminh Nguyễn Đức Mạo. Thuộc họ Phú Yên. Anrê Tường sinh năm 1812 và Vinh Sơn Tương sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Thân phụ là ông Đaminh Tiên làm Trùm họ và thân mẫu là bà Maria Gương. Ông Tương tuy thua anh hai tuổi, nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn Đaminh Nguyễn Đức Mạo sinh năm 1818, con ông Đaminh Giỏi làm Xã trưởng và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt ông được 44 tuổi và làm Hương quản lo an ninh trâït tự trong làng.
Hai ông Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Đaminh Nguyên sinh năm 1800, con ông Đaminh Duệ làm Xã trưởng. Khi bị bắt ông đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy, con trai ông Đaminh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Còn Đaminh Nhi, người trẻ nhất trong nhóm, sinh năm 1822, con ông Đaminh Vương và bà Catarina Vân.
Năm ông đều đã lập gia đình, đều là những tín hữu nông gia khá giả và tốt bụng, nên được dân làng rất kính nể và tôn trọng. Riêng Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc nên có nhiều cơ hội thực thi đức bác ái và ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có thân thiết với nhau không, nhưng với một số điểm tương đồng trên, các ông đã là những đối tượng đầu tiên được lưu ý khi chiếu chỉ Phân sáp được áp dụng tại làng Ngọc Cục.
Chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 05.05.1861 gồm năm nội dung chính: Phân tán các làng Công Giáo; sáp nhập họ vào ca làng ngoại giáo, tịch thu tài sản ruộng nương; thích tự hai bên má những người theo đạo; rồi giao cho lương dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, năm ông đã bị bắt ngày 14.09.1861. Quan phủ Xuân Trường ra lệnh ép các ông phải chà đạp Thánh Giá. Nhưng các môn đệ Chúa Kitô đã khẳng khái biểu lộ niềm tin của mình, cương quyết khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Thế là quan giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Tù đày và lời chứng.
Tiếp theo là bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay bị xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần giã man, những năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo Chúa. Cũng theo chiếu chỉ Phân sáp này, quân lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các ông. Đau vì nhức nhối khủng khiếp và vết phỏng trên mặt lâu ngày mới khỏi, nhục vì phải trình bày cho mọi người thấy dấu hiệu chế giễu khinh mạn niềm tin đạo giáo. Nhưng tất cả các ông nhẫn lại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thành với đức tin chân chính.
Để kín múc ơn trợ lực của Thiên Chúa, hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng tuyệt đối của mình vào bàn tay quan phòng, và phó dâng đời mình cho thánh ý ngài. Có thể nói, chính nhờ những lời nguyện sốt sắng phát xuất từ đáy con tim đó, các ông đã tìm được nghị lực và can đảm lướt thắng mọi gian nan thử thách. Ngoài ra, các ông còn giúp nhau sám hối những lỗi lầm, và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày để đón chờ hồng phúc tử đạo.
Trong bức thư đề ngày 02.08.1862, linh mục Estévez Nam đã trình bày cơn sốt bắt đạo tại Nam Định như sau:
“Trong tỉnh Nam Định, người Công Giáo bị đuổi khỏi nhà, quân lính chói từng năm người một, họ chỉ được đem theo mấy nắm gạo đủ ăn chừng hai ngày. Có 300 giáo hữu đang bị giam, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh cấm tiếp tế lương thực và chỉ mấy ngày sau, 240 người gục chết, những người còn lại hấp hối chờ chết. Ngày 18.05.1862, ông ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43 người, ngày 26 chém 67 người. Ngày 30.05 ông tuyên trói 112 người buông thả sông, rồi hôm sau đến lượt 112 người khác.
“Việc làm của Tổng đốc được các quan phủ huyện noi theo. Người công giáo phải chết hàng trăm, kẻ bị chém, người chịu thiêu sinh trong ngục, hoặc có ai tháo chạy ra ngoài được, cũng bị lý hình cầm gươm dí họ vào lửa cho đến chết. Có lần 150 người bị xử một lúc, lý hình vì không thành thạo, chém đi chém lại chỉ giết được 20 người, số còn lại lính đẩy xuống sông. Nhưng sông lại nhỏ, một số người sống sót lội vào bờ, quân lính tóm bắt, rồi cứ hai người một, buộc vào nhau ném xuống giếng sâu chết cả”.(1).
Riêng với năm chiến sĩ đức tin Anrê Tường, Ving Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi, quan vẫn còn nhân nhượng. Ngày 15.06.1862, một lần nữa, quan yêu cầu các ông chà đạp Thánh Giá, các ông lại từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm ông đem ra phơi nắng suốt cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói khát và mệt lả, ông Đaminh Mạo đại diện cho anh em khẳng khái trả lời: “Sao quan lại dụ dỗ chúng tôi như vậy ? Chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đau đớn, nên quan khuyên dụ chúng tôi xúc phạm Thiên Chúa ư ? Nếu chà đạp Thánh Giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập thì chúng tôi đã làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo đâu”.
Đón phúc vinh quang.
Tức giận trước những lời trên, quan truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị tôi tớ kiên trung của Chúa. Quân lính điệu các ông ra pháp trường Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các chứng nhân đức tin vui mừng phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin ngài ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thật các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoài ông Đaminh Nhi, cả bốn vị kia đều yêu cầu lý hình, thay vì chém đầu một nhát thì xin họ chém ba nhát để các ông tỏ lòng kính Chúa Ba Ngôi.
Hôm đó là ngày 16.06.1862. Thi thể năm vị anh hùng tuyên giáo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay nơi tử đạo, năm sau thì cải táng về nhà thờ họ quê làng.
Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng suy tôn năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Nguyễn Đức Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Antôn NGUYỄN ĐÍCH (1769 - 12/8/1838)
Gia trưởng một gia đình tử đạo.
Thánh Antôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ, người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai chứng nhân đức tin khác (hai vị này không có trong số 117): ông Lý Thi, bị xử giảo năm 1858 thời vua Tự Đức (con thứ hai ông Trùm Đích), và ông phó Nhâm, người con thứ tư, cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó. Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói. Mà bằng chính mẫu gương chứng tá đức tin sống động của mình.
Lý lịch thân phụ tôi
Muốn biết lý lịch của thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính lời con cái ngài là cô Maria Mến (Miều), góa phụ của thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, cung khai trước tòa điều tra phong Chân Phước: “Bố tôi là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ông bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi bố tôi lập gia đình ở đó.
“Hồi đó bố tôi tên là Khiêm, khi sinh con đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là Hiếu, đến khi sinh người con thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là Đích và giữ tên đó mãi.
“Gia đình chúng tôi làm nghề nông rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao lãng việc đạo đức, trái lại vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan tâm đến đời sống đạo đức của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi ngày, ông chỉ định một hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi thấy bố tôi làm tròn các nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục con cái, mời thầy đồ đến nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con gái cho những thanh niên gia đình giàu có mà không giữ đạo sốt sắng”.
Bốn vị tử đạo đạo trong một gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của nền giáo dục đạo đức đó.
Một lòng vì Giáo Hội
Đặc biệt quan tâm đến tương lai của Giáo Hội, ông Trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh, quảng đại tiếp đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn dịch tả, nhiều chủng sinh ly trần, các bề trên quyết định phân tán các chú. Ông trùm Đích tình nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.
Đức bác ái của ông còn tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường xuyên thăm viếng an ủi những người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức của ông mà người ta gọi ông là “Trùm”, mặc dù ông không giữ nhiệm vụ ấy.
Gặp thời cấm đạo ngặt nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong hai năm một lớp chủng viện. Đức cha Havard Du, Giám mục giáo phận, cũng đã trú ẩn tại nhà ông trong thời kỳ cấm đạo triều vua Minh Mạng.
Vị gia trưởng đáng kính
Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo: “Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?”. Ông Đích trả lời với giọng vững vàng: “Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo”.
Quan truyền khiêng ông qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng, nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của con rể chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Oâng Lý mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.
Ít phải chịu cực hình thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng việc bác ái và đạo đức. Thực phẩm, tiền bạc cho gia đình tiếp tế, ông chia sẻ cho các bạn tù ngoại giáo. Ông chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ sốt sắng ngay trong nhà giam.
Thấy không thể khuyên dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh. Đây là nội dung sớ tâu luận tội:
“Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp đạo trưởng Mai Năm cho quan, lại còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước. Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời: 'Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà bỏ đạo'. Vậy xin luận xử trảm quyết làm gương cho kẻ khác”.
Bản án được vua Minh Mạng châu phê chấp thuận ngày 12.08.1838, ông trùm Antôn Nguyễn Đích cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và người con rể Micae Nguyễn Huy Mỹ bị điệu ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh mục Mai Năm, lý hình chém đầu ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xử tử ông Lý Mỹ.
Thi hài ông Antôn Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân làng tổ chức lễ quy lăng rất trọng thể, rồi an táng trước nhà ông, nơi ông đã để lại bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng đáng kính.
Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Antôn NGUYỄN HỮU QUỲNH (1768 - 10/7/1840)
Vay mượn để giúp người
“Nếu bà và các con không cho tôi lấy của nhà giúp người, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê, kiếm tiền giúp họ”. Đó là một câu nói đầy cương quyết nhưng chân thành của quan vệ uý, cũng là ông lang và là ông trùm: Ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Câu nói đó cho chúng tôi thấy và hiểu về một cuộc đời 72 năm phục vụ con người để phục vụ Thiên Chúa.
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là Mađalêna Lộc. Theo gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ nhất Công Thần Nguyễn Trãi (1380-1442). Vì là con thứ năm, nên thường được gọi là Năm Quỳnh.
Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình có ý học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên gia đình gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc cắt cử của làng xã, anh gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được thăng chức Vệ Uý. Đến khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông thấy đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ. Trở về quê nhà, ông mua một thửa đất canh tác và buôn bán thêm để sinh sống. Đồng thời ông dành nhiều giờ đọc thêm nghề thuốc, và dần dần trở thành một lương y nổi tiếng khắp vùng. Nhờ đó kinh tế gia đình ngày càng khá giả hơn.
Gia đình, xã hội và giáo hội
Thế nhưng đối với ông Quỳnh, tài sản khả năng Chúa ban cho là để phục vụ mọi người, nên thay vì thu tích cho bản thân, ông quan tâm phục vụ dân nghèo một cách tận tình. Đối với họ ông chữa bệnh miễn phí, săn sóc và đôi khi còn tặng họ thêm tiền để làm vốn nữa. Khi vợ con lên tiếng kỳ kèo, ông trả lời rằng: “Tôi chưa thấy những ai hay giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn bao giờ. Kinh thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao ? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”
Khi các con khôn lớn, ông nói với chúng: “Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ”
Lòng thương người của ông được biểu hiện rõ rệt hơn khi làng ông gặp thời kỳ dịch tả. Ông bỏ ra cả hàng trăm quan tiền để phát thuốc nuôi dưỡng và chăm sóc các bệnh nhân cách tận tụy quên mình. Thế nhưng tinh thần bác ái Kitô giáo đòi ông phải đi xa hơn một bước nữa. Ông vâng lời Đức Cha Labartette Bình dạy giáo lý trong hạt. Để phục vụ con người một cách trọn vẹn hơn cả xác lẫn hồn, ông Năm Quỳnh nhận lời làng Mỹ Hương giữ chức trùm trưởng.
Trong thời cấm đạo các linh mục tu sĩ phải rút vào bóng tối, vai trò của những người như ông rất cần thiết. Từ nay nhà ông biến thành lớp giáo lý trong hạt, thành nơi tiếp nhận các thừa sai và giáo sĩ. Từ nay ông đứng ra điều khiển tổ chức mọi sinh hoạt kinh nguyện, tang lễ và bác ái trong vùng. Tuổi càng cao, ông càng sắp xếp công việc một cách trọn vẹn và chín chắn hơn, do đó ông càng được mọi người tin phục. Điều đáng lưu tâm là dầu bận rộn với công việc tông đồ, ông vẫn khéo léo chăm sóc dạy dỗ con cái sống Tin Mừng. Cô gái lớn gia nhập dòng mến Thánh Giá, sau làm bà nhất toàn thể dòng mến Thánh Giá giáo phận. Những người con khác cũng theo gương ông: trung kiên với niềm tin, và cùng với ông quên lợi riêng để lo cho công ích.
Hoa quả của đức tin
Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh truy nã linh mục thừa sai Candalh Kim. Ông Quỳnh thân hành đưa cha lên Kim Sen, một trang trại cũ của tổ tiên mình, và đem theo một số sách vở cũ, ảng tượng của xứ Mỹ Hương. Thấy ông đi vắng lâu ngày, quan sai lính đến nhà ông khám xét. Họ lôi các đầy tớ ra đánh đập tra khảo, một người sợ quá đã khai ra chỗ ở của chủ. Khi đó quan định bắt luôn bà Quỳnh và hai cô con gái út, một cô 14 tuổi, một cô 10 tuổi đang ở nhà. Quan cưỡng bức ba mẹ con xuất giáo nhưng không ai tuân lệnh. Tức giận quan cho lính đánh vào chân hai đứa bé để ép buộc bước qua Thánh Giá, hai cô vẫn không chịu khuất phục. Đám lính liền xông đến lôi kéo hai chị em bước qua. Dĩ nhiên với tuổi nhỏ sức yếu, hai cô bé không thể chống cưỡng lại được, nhưng một mực hai cô bé kêu khóc mình bị ép buộc, chứ lòng luôn luôn tôn kính Thánh Giá. Quan không dấu được sự thán phục tấm lòng son sắt, và đã tha cho cả ba mẹ con.
Tiếp đó quân lính đến vây trại Kim Sen. Sau khi bắt được ông Quỳnh và thâu được một số sách đạo, họ liền áp giải ông về Đồng Hới. Giữa đường ông nhắn tin một người con kín đáo đến gặp và hối lộ cho lính 50 quan tiền để đốt sổ ghi tên những người tín hữu trong xứ.
Tại trại giam Đồng Hới, ông Quỳnh vui mừng vì gặp được linh mục thừa sai Borie Cao, cha Điểm, cha Khoa cùng thầy Tự. Nhiều lần ông cũng bị tra tấn chung với các vị ấy. Nhưng bao giờ ông cũng tuyên xưng: “Thà chết không thà chối Chúa, dù chỉ trong giây lát”. Có lần quan cho lính lôi ông qua Thánh Giá, ông liền lớn tiếng phản kháng rằng: “Việc này do quan lớn làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi”. Câu nói đó làm quan bực mình truyền đóng gông giải ông về ngục. Mấy bữa sau quan hỏi cha Cao tại sao ông Năm lại cứng cổ đến thế. Vị thừa sai trả lời: “Các giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu”. Thất vọng quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu), hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thầy Tự và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng “giam hậu”, nghĩa là lệnh xử sẽ ban hành sau.
Thời gian trôi qua quá nhanh thấm thoát ông Quỳnh và Thầy Tự đã giam hai năm tròn. Trong thời gian đó quan sốt ruột gửi sớ về kinh ba bốn lần xin xử tử, nhưng vua Minh Mạng cứ trì hoãn, viết thư khuyên quan quân cứ từ từ kiên nhẫn. Trong một lá thư gửi về hội Thừa Sai, cha Miche Mịch giải thích lý do như sau:
“Ông Antôn quen biết nhiều các quan, lại từng chữa bệnh cho nhiều vị quan nữa. Rất nhiều người biết đến nhân đức và kiến thức của ông nên trọng nể. Do đó, thái độ của ông có tầm ảnh hưởng lớn trong dân. Đối với họ, cướp được con mồi lớn như thế từ tay Đức Giêsu là một chiến thắng lớn lao. Thế nên chẳng lạ gì “hỏa ngục” phải tìm trăm nghìn phương kế để dành lại phần thắng sắp mất”.
Phần ông Quỳnh dù đã 72 tuổi, vẫn biểu lộ đức can đảm và nhẫn nại đáng khâm phục. Suốt ngày ông lo đọc kinh cầu nguyện, như mọi giáo hữu ở ngoài, ông giữ chay và yêu thương giúp đỡ mọi người. Nghề lang y của ông vẫn có cơ hội dùng đến, có lần ông chữa cho một viên quan ở Đồng Hới, và nhất là chữa bệnh cho các bạn tù đồng số phận.
Lời trăn trối sau cùng
Thấy thời gian cũng không làm nản lòng ông Quỳnh, vua Minh Mạng chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo ông ngày 10-07-1840. khoảng 100 binh lính dẫn ông ra pháp trường chung với thầy Tự. Đến nơi hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai linh mục Khoa và Điểm năm trước, rồi dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện: “Lạy Chúa xin tạ ơn Chúa cho con được ân phúc như các ngài.” Nguyện cầu xong, ngồi xuống, ông Quỳnh bình tĩnh chậm rãi hút hết điếu thuốc được quan trao cho.
Hai người con đến từ giã, ông nhắc họ qua giã biệt thấy Tự, xin thầy về bên Chúa nhớ khẩn cầu cho các con. Thế rồi ông nói những lời sau cùng:
“Cha gửi lời chào các chức sắc và anh em giáo hữu Mỹ Hương. Cầu chúc mọi người bình an, trung thành giữ đạo. Hãy yêu thương nhau và sống đạo đức, các con sẽ gặp lại cha trên Thiên Đường”
Nói xong ông nằm xuống trên chiếu trải sẵn, ông quỳnh giang tay ra nói: “Xưa Chúa cũng chịu giang tay như thế này để chịu đóng đinh”. Quân lính tròng dây qua cổ và giữa tiếng thanh la vang rền. Họ mạnh tay siết chặt hai đầu dây, đưa người tôi trung của Đức Kitô về hưởng hạnh phúc trường sinh.
Đức giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày nay mọi người vẫn còn cảm kích với hai câu thơ khắc trên bia mộ ông Quỳnh ở xứ Kim Sen, nơi thi hài ông được an táng với tổ tiên dòng họ:
“Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông”
================
Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI (1806 - 19/12/1839)
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những kitô hữu vững tin nhất.
Chúa quan phòng
Ông Augutinô Nguyễn Văn Mới sinh năm 1809 ở làng Bồ Trang cũng gọi là Kẻ Bái tỉnh Thái Bình. Cha mẹ ông là người ngoại, ông bỏ quê đến làng Đức Trai làm thuê mướn kiếm ăn, nhưng Chúa quan Phòng đã có chương trình tiền định sẵn cho ông, ở đây không những ông được phúc làm con cái Chúa mà lại là một chứng nhân tuyên xưng đức tin và chết vì danh Chúa.
Được ơn Chúa soi sáng năm 31 tuổi ông chịu phép rửa tội, từ đấy trở đi ông giữ đạo sốt sắng, nhất là ông nêu gương về sự chăm chỉ lần hạt Mân Côi, dù mệt nhọc, bận rộn tối khuya cũng không bỏ, ông hiền lành ngay thật; về sau ông lập gia đình với một người ở làng này.
Khi quan tỉnh Bắc Ninh đến vây làng Đức Trai bắt đạo trưởng theo lời tố cáo của một bổn đạo, Cha Phêrô Tự bị bắt, các quan đòi dân làng ra điểm mục để bắt khóa quá, ai không khóa quá phải điệu về tỉnh. Trong làng nhiều người khóa quá, một số người trốn thoát, ông Mới và bốn ông Mận, Úy, Đệ, Vinh vì không khóa quá nên phải giải về Bắc Ninh cùng với Cha Tự.
Vua Minh Mệnh nhận được sớ tâu về việc này thì truyền các quan phải tra tấn để các ông sợ mà vâng lệnh vua.
“Theo đạo Thiên Chúa là tội rất nặng”
Căn cứ lệnh vua, quan làm khổ các ông nhiều cách, khi thì dụ dỗ ngon ngọt, lúc thì đe loi, nhưng dù thế nào các ông vẫn vững vàng xưng đạo. Tra tấn gần một tháng, các quan tâu vua rằng: “Chúng tôi đã xét đạo Giatô là tà đạo, dạy bảo những sự dối trá làm cho nhiều người tưởng là đạo thật, bỏ các thói tục nhà nước, làm xôn xao, sinh nhiều tai họa, cần phải phá tuyệt. Năm thứ XIII, vua đã ra sắc chỉ cấm đạo, nhưng các Tây dương đạo trưởng còn trốn ẩn dạy dỗ người ta, chia ra thành các xứ, các họ sai các đạo đồ đi nhiều nơi giảng đạo, tuyên truyền phổ biến sách đạo nên nhiều người ngu dốt mù quáng tin theo, tưởng là đạo thật. Chúng tôi đã làm hết cách chúng cũng không khai nơi ở của các Tây dương đạo trưởng, và càng ngày càng tin đạo vững vàng hơn. Vậy chúng tôi xin phạt chúng cách nghiêm khắc để chúng biết cải tà quy chính. Theo luật nước, đã phạt những người làm phù thuỷ, đồng cốt phải xử giảo, ai tin theo phải phạt 100 roi, đày đi xa 3000 ngàn dặm.
“Vậy chúng tôi đã bắt được đạo trưởng Nguyễn Văn Tự và người chứa nó là Hoàng Lương Cảnh, chúng tôi xin phạt hai tên đứng đầu này theo như luật trên là phải xử giảo, còn hai đầy tớ của đạo trưởng là Mận, Úy, và ba tên tin theo là Mới, Đệ, Vinh sẽ phạt 100 roi và đầy đến tỉnh Bình Định”.
Nhận được sớ này, vua Minh Mệnh không thuận, vua cho rằng tội theo đạo Thiên Chúa nặng hơn những người làm nghề phù thuỷ, đồng cốt, phải tra khảo thêm nếu không chịu khóa quá sẽ trảm quyết hai tên Nguyễn Văn Tự và Hoàng Lương Cảnh, còn các tên Mận, Uý, Mới, Đệ, Vinh sẽ phải xử giảo giam hậu.
Buồn đổi thành vui
Được lệnh vua, các quan lại tra khảo các ông nhiều lần nữa, các hình khổ tra tấn bày sẵn sàng để uy hiếp tinh thần các ông. Quan gọi riêng từng ông, đến lượt ông Auguttinô Mới, các quan vừa khuyên vừa đe không khóa quá sẽ bị giết, khi các quan bắt ông bước qua ảnh Thánh giá, ông đến gần ảnh, quỳ lạy, hôn kính và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa tôi! Dù chết tôi cũng không dám bước qua ảnh Chúa tôi, tôi không bỏ đạo, lại tuyên xưng đạo Chúa tôi cách vững vàng hơn nữa”.
Các quan tức giận, truyền giam ông vào ngục với các bạn. Các ông đọc kinh cầu nguyện, ăn chay hãm mình nhiều hơn để xin Chúa thêm sức chịu mọi sự khó bằng lòng.
Ngày 159 nghe tin Cha Tự và ông Cảnh phải trảm quyết, ông Mới và các bạn tự nhiên buồn rầu, lo lắng không biết mình có vững vàng đến cùng được không vì thiếu Cha Tự là nguồn nâng đỡ. Nhưng ba ngày sau khi chết, Cha Tự hiện về an ủi các ông rằng: “Chúng con đừng lo buồn, chúng con sẽ được phúc chết vì đạo, Chúa sẽ gìn giữ chúng con, nhưng chúng con phải dọn mình sốt sắng để lĩnh ơn trọng đại ấy”.
Được tin này, nỗi buồn của các ông đổi thành niềm vui hân hoan, các ông làm thêm nhiều việc lành phúc đức hơn nữa. Ông Mới và các bạn còn yên ủi các bạn tù, chia cho họ tiền bạc, của ăn áo mặc mà giáo hữu biếu các ông.
Những trận chiến cuối cùng
Từ khi Cha Tự bị xử, các ông phải ở trong ngục gần một năm nữa, vua truyền các quan phải tra khảo lại, nếu khóa quá sẽ tha, nếu không sẽ giết. Thế là một chiến dịch khác lại mở đầu, nhưng ông Mới và các bạn dự những trận chiến cuối cùng này cách dũng cảm. Quan truyền lính lôi các ông qua ảnh Thánh giá, ông Mới đến gần Thánh giá cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa tôi, xin cứu tôi, tôi xin phó linh hồn và xác trong tay Chúa”, và chống cự hết sức. Các quan thấy thế thì truyền đưa mỗi ông để một nơi. Vì các ông hiền lành thật thà nên các quan thương muốn tha nhưng phải theo ý vua.
Cả năm ông đều mặc áo dòng Ba Thánh Đaminh, trước khi chết, các ông ước ao và đã được khấn dòng để dọn mình lĩnh phúc tử đạo.
Ngày 24-11, các quan lại đòi các ông lên công đường bắt khóa quá, ông Mới và ông Vinh quỳ gối trước ảnh đọc kinh và hôn kính ảnh. Quan bảo rằng: “Các người bị án đã lâu, ta thương tâu vua xin để thong thả, nhưng vì các người cứng lòng quá nên sẽ phải chết”.
Ngày 18-12, có lệnh vua ra truyền phải xử ngay, quan Thượng đòi các ông lên dỗ rằng: “Hôm nay vua truyền xử các người, ta thương các người không có tội gì, chỉ tin theo những lời dại dột, hãy khóa quá, ta sẽ tàu vua tha”. Các ông đồng thanh nói: “Xin quan xử chúng tôi theo lệnh vua”. Quan lại bảo: “Thôi, các người không đạp tượng cũng được, ta chỉ cần các người đi chung quanh tượng ta sẽ tha”. Nhưng các ông thưa rằng: “Chúng tôi không dám làm vì thế cũng là khóa quá”.
Bấy giờ quan Giám sát và lính đưa các ông đi xử ngay. Các ông đi nghiêm trang chắp tay, đọc kinh phó linh hồn to tiếng. Người ta theo xem rất đông, họ ngạc nhiên thấy các ông tươi vui, mọi người đều thương vì các ông bị chết oan.
Xử xong, bổn đạo xông vào lấy di tích của các ông và hôm ấy tự nhiên có cơn gió rất mạnh nổi lên như bão, nhờ đó giáo dân lấy được xác các ông đưa về táng ở các họ đạo tỉnh Bắc Ninh. Xác ông Augutinô Nguyễn Văn Mới được đưa về nhà thờ họ Phương Vĩ.
Ông Augutinô Nguyễn Văn Mới được phúc tử đạo ngày19-12-1839 ở Cô Mê – Bắc Ninh và được Đức Thánh Cha Lêô XIII phong chân phúc ngày 27-5-1900, và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
================
Augustinô PHAN VIẾT HUY (1795 - 13/6/1839)
Dâng sớ biểu lộ niềm tin.
Một ngày mùa hạ năm 1839, vua Minh Mạng rời hoàng cung đi dạo và quan sát dân tình Huế. Tất cả sinh hoạt đều tạm ngưng, mọi người phải dạt vào lề đường, chờ xa giá nhà vua đi qua mới tiếp tục công việc mình được. Nhưng kìa, có hai người lính không thuộc đội cận vệ, bỗng từ đâu xuất hiện, tiến ra và quỳ rạp trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Viên quan nhận sớ trình cho vua xem. Tuy chỉ có hai người lính, nhưng số sớ tên ba người, là các ông Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể, Đinh Đạt. Nội dung lá đơn ấy như sau: “Cha ông chúng tôi đã theo đạo Gai Tô, năm ngoái các quan tra tấn ép buộc bước qua Thánh Giá, chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm không muốn. Nay chúng tôi xin tiếp tục giữ đạo để tròn đạo hiếu với cha ông chúng tôi”.
Đó là biến cố chính đưa đến cái chết tử đạo của ba quân nhân xã Lục Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Augustinô Phan Viết Huy sinh năm 1795 tại làng Hạ Linh, thuở bé có dâng mình cho Chúa, chuẩn bị làm thầy giảng, nhưng sau xin ra ngoài lập gia đình, ông đã phục vụ trong quân ngũ mười năm. Người thứ hai là ông Nicolas Bùi Đức Thể sinh năm 1792 tại làng Kiên Trung, tính đến ngày vị bắt, ông mới đi lính được một tháng. Người thứ ba là Đaminh Đinh Đạt sinh năm 1803 tại làng Phú Nhai, tuy ít tuổi nhất nhưng ông đã gia nhập quân đội được 12 năm.
Đâu phải lính là can đảm.
Tổng đốc Nam Định bấy giờ là ông Trịnh Quang Khanh. Năm 1838, ông đã từng bị triệu về kinh và bị khiển trách vì tội lơ là việc thi hành bắt đạo của vua. Từ đó, ông trở thành một thứ “hùm xám” tỉnh Nam Định, thề quyết không đội trời chung với “Gia Tô tả đạo”, cho quân đi lùng bắt khắp nơi. Để công việc có hiệu quả, đối tượng đầu tiên ông quan tâm là thanh lọc lại ngay trong hàng ngũ quân đội, những người ông sẽ phái đi thi hành truy lùng trong dân chúng.
Sau nhiều ngày suy tính kế hoạch và chuẩn bị, Tổng đốc tổ chức đại tiệc chiêu đãi tất cả các binh sĩ Công Giáo ở Nam Định, dựa vào lý lịch của họ. Hôm đó có khoảng 500 anh em đến dự. Trong bữa tiệc, Tổng đốc đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai trung thành với vua. Ông cũng khéo léo đe dọa những ai cố chấp không bỏ tà đạo. Khi tiệc đã tàn, ông cho mời hết thảy vào dinh để thử lòng họ. Tại đây, quan để sẵn những dụng cụ tra tấn như gông cùm, xiềng xích, roi kìm. và đặt tượng Thánh Giá dưới đất. Tất cả được tự do chọn lựa, bước qua ảnh Chuộc Tội, hoặc chịu gia hình thì tùy ý. Tiếc thay trong số 500 lính hôm đó chỉ có 15 người trung kiên, từ chối bước qua tượng ảnh Chúa, còn bao nhiêu đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc 15 người kia bị bắt giam vào trong ngục tối.
Ngày hôm sau, quân lính đưa 15 tín hữu này ra công đường, đánh đòn và bắt ép các ông bước qua ảnh Chúa, sáu người sờn lòng bỏ cuộc, chỉ còn 9 người vững vàng trước trận đòn chí tử. Cả 9 bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, Đạt thuộc nhóm 9 người này. riêng ông Huy, vì trước đây có lấy vợ nhỏ ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam bỏ vợ nhỏ với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở vô tù với anh em.
Ngày thứ ba, chín người trên lại được đem ra trình diện với quan, Tổng đốc hứa thưởng tiền cho ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nge lời, quan ra lệnh đánh đật tàn nhẫn, rồi cho lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ còn năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng phái thêm tướng Lê Văn Đức đem 2000 kinh binh ra tăng viện cho Nam Định. Viên tướng này vừa tới nơi đã là người cộng tác rất đắc lực với Tổng đốc trong cuộc bách hại. Ngày 25.06, khi đem Đức Cha Henares Minh và thày Chiểu ra sử tử, tướng Lê văn Đức cho dẫn năm binh sĩ bướng bỉnh ra pháp trường, có ý hù dọa để các ông sợ. Không ngờ các ông đều tỏ ra hân hoan vì tưởng sắp chết vì đạo.
Chỉ còn ba người trung tín
Thấy thế quan lại cho giải năm ông trở về trại giam. Ít bữa sau, quan truyền gọi năm ông ra tòa, mới đầu quan dùng lời ngon dụ dỗ, nhưng không thành công, liền thịnh lộ sai quân lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lê trên tượng Chúa, các ông liền co chân lên. Họ lấy roi đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân cá ông xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai binh sĩ nữa bỏ cuộc sau trận đòn này, chỉ còn ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết trả lời với quan rằng: “Các ngài cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng lòng chúng tôi không chiều theo, thì chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu”. Quan liền cho lệnh đóng gông thật nặng và giam cả ba vào trong ngục.
Từ đó trở đi, ba ông còn phải chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Khi thì mỗi người 24 roi, khi thì 150 roi. Một lần quan dùng lý luận khuyên các ông bỏ đạo tà, ông Huy thay mặt anh em đáp lại: “Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi theo đạo nào bây giờ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi”. Quan hét lên: “Nếu đạo chúng bay là đạo thật, sao Đức Vua lại nghiêm cấm?”. Bấy giờ ông Huy có dịp sử dụng những gì xưa đã học khi chuẩn bị làm thầy giảng, để cắt nghĩa các lẽ đạo và trả lời cách mạch lạc sáng sủa những câu hỏi quan đặt ra. Thấy mình đuối lý, quan cho lệnh giam ba ông với linh mục Giacobê Năm, ông Lý Mã và ông Trùm Đích. Cha Năm hỏi ba ông: “Hôm nay thế nào, được hay thua?”. Các ông đáp: “Chúng con chẳng chịu quá khóa, nên quan đã làm án xử rồi”.
Thế nhưng các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt ba ông bỏ đạo vì “khi dầu đã đứt, chẳng còn phép chi nối lại được nữa”. Giai đoạn này, Trịnh Quang Khanh đang bị ngưng chức Tổng đốc, Tổng trấn Lê Văn Đức tạm thay quyền đã cho lệnh đóng gông và dưa ba chiến sĩ Đức Kitô phơi nắng chỗ công cộng, ông Huy và Thể ở cửa Đông, ông Đạt ở cửa Nam suốt 21 ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ nhục tùy ý. Nhưng quan lại một lần nữa thất bại.
Tháng 10.1838, Trinh Quang Khanh được phục chức Tổng đốc, nên hết lòng tìm cách đền đáp ơn vua. Tổng đốc cho những người đã bỏ đạo trước đây vào ngục thất khuyên dụ dỗ ba ông bỏ đạo, nhưng những người này bị các ông khiển trách là kẻ hèn nhát dại dột, nên mắc cỡ không dám nói năng gì cả. Tổng đồ chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con, thân nhân, bạn bè của ba ông, bắt họ vào nài nỉ dụ dỗ, hy vọng các ông sẽ xiêu lòng. Nhưng cả ba vị vẫn cương quyết trung thành với Chúa.
Một phút lầm lỡ. Và thống hối
Cuối cùng Tổng đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và ra hẹn trong một tháng phải ép ba chiến sĩ đức tin bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau, những người này vẫn chưa hoàn thành được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các kỳ mục và cho lệnh đánh đòn họ trước mặt ba người chiến sĩ Đức Kitô. Và lần này ông thành công. Ông Thể động lòng trước cảnh một bô lão làng Kiên Trung chịu đòn thâm tím vì mình, xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ý bước qua Thập Giá. Quan vỗ tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua Thập Giá. Riêng ông Huy vẫn chưa chịu khuất phục.
Đêm hôm đó, quan cho người vào ngục dụ dỗ ông Huy: “Chẳng ai cười chú đâu, vì chú đã chịu khó rất cam đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng cứ bước đại qua Thập Giá để khỏi rầy rà”. Ông Huy nghe thấy hơi xiêu lòng, lại thấy hai bạn mình được tự do cả rồi, nên sáng hôm sau ông cũng theo chân các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người mười quan tiền và cho trở lại trong quân ngũ.
Thế nhưng ba người lính được tự do trở về nhà lại thấy lòng áy náy, lương tâm cắn rứt, các ông không ngờ vụ án mình không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối trong nhóm 500 binh sĩ trở thành tin buồn khá lớn lao cho tập thể. Có người không tin các ông đã đạp lên Thánh Giá, dù các ông hoàn toàn nhận lỗi nơi mình, họ bảo rằng chắc các quan dùng thuốc mê khiến các ông mất sáng suốt. Thế là ba ông sau khi xưng tội, bàn bạc với nhau và cương quyết lên tỉnh để tuyên xưng đạo một lần nữa.
Lòng can đảm hy hữu
Đến tỉnh, ba ông vào thẳng dinh quan Tổng đốc trình bày nguyện vọng của mình: “Thưa quan, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đã chót dại quá khóa. Nay chúng tôi xin trả tiền lại cho quan để được giữ đạo Chúa thật lòng”. Quan nghe nói tức giận chửi mắng ba ông thậm tệ, rồi ra lệnh giam vào ngục để tìm cách dụ dỗ như lần trước. Nhưng vì quan đã báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo lên muốn bỏ qua chuyện, chỉ truyền đánh đòn ba ông rồi rồi đuổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông trả, quan trao cho hưởng chức ba làng của các ông.
Trở về nhà ba ông cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bãc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên xưng niềm tin. Ba ông hỏi ý kiến cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ý, chứ tội các ông không buộc phải đến bằng cách đó. Cha Chính Jimenô Lâm (sau này làm Giám Mục giáo phận Đông Đàng Ngoài) nghe tin thì viết thư tán thành sáng kiến đó. thế là ba ông ngổi lại với nhau viết một lá đơn cho vua, bày tỏ niềm tin của mình. Ông Đạt cũng ký vào đơn, nhưng vì đang phải công tác với đội binh nên ở lại. Hai ông Huy và Thể có cơ hội tức tốc khăn gói đi vào Huế.
Trước khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải trông cậy vào Chúa hơn là sức mình, phải cầu nguyện nhiều mới có thể can đảm làm chứng cho đạo Chúa. Hai vị xưng tội một lần nữa, chào giã biệt họ hàng thân thích và xin mọi người góp lời cầu nguyện. Sau 20 ngày đi bộ, các ông vào tới kinh đô đầu tháng 05.1839. Một người con ông Huy mới 16 tuổi cũng theo chân người cha để nghe ngóng tin tức.
Theo thủ tục khi đó, ba ông đến nộp đơn ở tòa Tam Pháp chờ đợi. Các quan nhận đơn, nhưng lại bỏ qua không trình lên vua. Trong thời gian chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà Đông, cũng là một tín hữu ở Huế. Sau đó hai vị làm thêm một lá đơn thứ hai, nhưng tòa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ như cũ. Thế là các ông phải tính đến một kế hoạch táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự giá đi dạo trong thành phố. Hai ông đón đường để trình đơn thẳng lên nhà vua. Đọc xong vua nổi giận truyền tống giam cả hai, và giao cho các quan bộ hình cứu xét.
Khổ hình và vinh phúc.
Các quan ở kinh đô khuyến dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi tra tấn đánh đập, nhưng hai nhân chứng vẫn cứ trước sau như một, tuyên xưng là những binh sĩ có đạo. Tướng quân Lê Văn Đức ở Nam Định trở về, vì đã từng biết sự gan dạ của hai ông nên nói: “Đừng hy vọng thuyết phục bọn này, đánh chúng chỉ mỏi tay thôi”. Một hôm quan hỏi tại sao trong đơn còn có chữ ký của Đinh Đạt, hai ông trả lời: “ Thưa quan, anh Đạt cũng không chịu quá khóa, nhưng bận việc quân nên không đi với chúng tôi được. Anh ấy dặn: chúng tôi thế nào, anh ấy cũng như vậy”.
Các quan trình bày sự việc lên vua để lãnh ý. Sau đó, theo lệnh vua, quan cho bày trước mặt hai ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ra biển”. Hai ông bày tỏ ý muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng nổi giận truyền viết bản án sau:
“Trước đây ta đã làm án tử hình, nhưng ta thương chẳng muốn giết, nào ngờ chúng đã mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Ta đã mở lối cho chúng ăn năn và chừa cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Gia Tô tả đạo, lại bỏ việc quân vào kinh nộp đơn. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh, đáng ghét, chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem ra biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng rồi bỏ xác xuống biển, để ai lấy biết tỏ điều răn cấm .”
Phần sau bản án, vua giao cho Trịnh Quang Khanh việc điều tra ông Đinh Đạt và dặn trình báo lại. Ngày 13.06.1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông lên thuyền chèo ra giữa biển, đặt một Thánh Giá ngay trong thuyền, để thử xem các ông có đổi ý đạp lên chăng. Khi thất vọng, họ trói hai ông vào cột chèo, thay vì chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi bổ thân ra làm bốn, ném xuống biển làm mồi cho cá.
Bổ làm tám cũng được
Về phần ông Đinh Đạt, sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị tâm hồn đón nhận cái chết anh hùng. Cuối tháng 06.1839, một người bạn đồng đội đến báo tin ông Huy và Thể đã bị hành hình, ông đạt tỏ ra rất vui mừng, báo tin cho cha mẹ, bà con, từ giã mọi người. Ông không tính chuyện chạy trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con khóc lóc, ông lựa lời an ủi và quả quyết Chúa đã lo liệu quan phòng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt, ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi thản nhiên đi theo họ lên tỉnh. Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi, suy niệm các mầu nhiệm kinh Mân Côi.
Đến Nam Định, lính đưa ông vào gặp Trịnh Quang Khanh, quan Tổng đốc bảo ông: “Hai bạn của ngươi vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ tà đạo đi để về với vợ con”. Ông Đạt thẳng thắn thưa: “Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều cực hình khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được”. Quan biết có đe dọa cũng không thành công, liền lập án gửi về kinh xin xử giảo.
Ông Đạt khi nghe đọc bản án thì rất bình tĩnh, vui mừng đón nhận cái chết gần kề. Ngày 18.07.1839 ông theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa chăm chú đọc kinh. Đến nơi xử, ông quỳ tr6en chiếu cầu nguyện giây lát, rồi chờ quân lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống. Lý hình đứng hai bên dùng dây siết cổ ông cho đến khi tắt thở. Tín hữu làng Phú Nhai thương lượng với quan quân đem thi hài vị anh hùng tử đạo về an táng tại khu đất của người anh cả vị anh hùng. Sau hài cốt của ông Đạt được lưu giữ tại nhà thờ Phú Nhai.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ba vị anh hùng tử đạo: Augustinô Phan Viết Huy, Nicôlas Bùi Đình Thể và Đaminh Đinh Đạt lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Augustinô SCHOEFFLER ĐÔNG (1822 - 1/5/1851)
Ơn gọi loan báo tin mừng
Đối với thánh Augustinô Đông sứ mệnh loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ cao cả nhất. đặc biệt cho những vùng truyền giáo xa xôi. Đó là điều thánh nhân hằng mong ước khi gia nhập hội Thừa Sai Paris. Mặc cho gia đình nhiều lần đã cản trở, thánh nhân đã một lòng dứt khoát theo ý Chúa hơn nghe lời cha mẹ trần gian, và khi rời đất Pháp ngài đã nói: “Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, nhưng điều tệ nhất có thể đến, đó là phải chịu một nhát gươm... Nhưng tôi tin rằng người tội lỗi như tôi sẽ chẳng đáng được ơn trọng ấy”.
Augustinô Đông sinh ngày 22-11-1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine, nước Pháp. Từ bé, cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa vào chủng viện giáo phận Nancy. Trong chủng viện cậu tuân giữ đúng đắn kỷ luật, vâng lời bề trên, hoà thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến, sau khi học triết học và năm thứ nhất thần học, thầy Augustinô Đông cảm thấy Chúa kêu gọi mình đi truyền giáo nên xin phép ba mẹ chuyển qua hội Thừa Sai Paris.
Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gửi về không được sáng sủa. Đi truyền giáo như đi vào cõi chết. Do đó song thân thầy cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời. Augustinô Đông đắn đo nhiều nhưng căn cứ vào lời Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn thầy thì không đáng làm môn đệ thầy.” (Mt.10,37). Augustinô Đông quyết định gia nhập hội Thừa Sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thầy viết thư cho một người bạn: “Than ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ mắc đường kia”. Người bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được Chúa gọi thì nguy cơ mất linh hồn đó”. Thầy trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”
Không để ai liên lụy
Gia nhập hội Thừa Sai ngày 09-10-1846 thì ngày 29-05-1847, thầy Augustinô Đông được thụ phong linh mục. Sau đó được gửi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Retordd Liêu, vui mừng đón tiếp giữ cha lại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu rõ tình hình hơn. Sau đó cử cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới cha Đông tích cực làm việc mục vụ và truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1848, cha nói: “Kỳ này trong chúng tôi thế nào cũng có kẻ bị chém, chớ gì người đó là tôi.” Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc trong ba năm.
Ngày 01-03-1851, sau khi đến giảng phòng mùa chay cho xứ Bầu Nọ, cha Đông đi đường rừng qua giảng ở Bản Mộ thì bị quân lính bắt. Thời đó cuộc nổi loạn của Hoàng Bảo (Trưởng tử của vua Thiệu Trị) mới thất bại, lính tuần dinh đang truy lùng các thành viên còn sót lại. Tín hữu Bầu Nọ cũng biết chuyện, nhưng chủ quan lính chỉ đi lùng vào ban đêm, nên đưa cha Đông đổi chỗ giữa ban ngày, không ngờ có một tín hữu ham tiền đã đi báo cho quan. Họ bố ráp và bắt cha đang len lỏi trong rừng rậm. Một linh mục Việt và hai chú giúp lễ cũng bị bắt với Ngài.
Quan tuần phủ địa phương tuyên bố mình không có ý giải nộp vị Thừa Sai, và ra giá chuộc là một nén vàng với 100 nén bạc, chợt hiểu ra rằng những người này dù đòi được tiền rồi, cũng nộp mình cho quan lớn như thường, nên cha nói: “Vì quý ông nhất thiết đòi tiền chuộc, hãy thả những người này về, chỉ có họ mới biết chỗ tôi để tiền” Quan tuần trưởng thật trả tự do cho cha Việt Nam và hai chú giúp lễ. Phần cha Đông khi thấy họ đã đi xa, mới nói rõ ý muốn chỉ một mình bị bắt thôi.
Tức giận viên quan
cho giải cha lên tỉnh Sơn Tây. Dọc đường gặp một người tín hữu, cha nói: “Hãy về nói với anh chị em đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi cũng không khai một ai cả”. Khi đến tỉnh các quan điều tra về quê quán, tên tuổi, đến An Nam bao lâu, cư trú những nơi nào, có biết vua cấm đạo không. Cha đáp:
“Tôi tên là Augustinô Đông, quê ở nước Pháp, năm nay 29 tuổi, tôi đến đây để giảng đạo Đức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử. Còn việc ở đâu tôi sẽ không nói, đừng hỏi nữa làm gì.”
Ngày 05-03, lại bị điệu ra tòa, cha Đông vẫn khai như cũ và cương quyết từ chối bước qua Thánh Giá, nên ngày hôm đó các quan gởi án về kinh đô: “Tên Ao-du-tinh là người Tây dám coi thường việc nước, đến đây giảng đạo dân chúng. Chiếu theo sắc chỉ Đức Vua, y phải chịu trảm quyết, bỏ đầu trôi sông. Về những kẻ chứa chấp, thần đã tra hỏi nhưng y không chịu nói. Lý trưởng và những kẻ có công, xin theo lời truyền, thưởng 30 lạng bạc. Riêng viên tuần phủ, xin thưởng thêm một số nữa”. Tuy nhiên mãi đến tháng 04-1851, nhà vua mới châu phê bản án.
Suốt một tháng tù, cha Đông bị quản thúc rất chặt chẽ. Một thầy giả làm lính canh đến gần ngục mà vẫn không nói gì. Khi thấy cha thầy thổn thức muốn khóc nên phải vội trở ra ngoài ngay, sợ bị lộ. Một tín hữu quan hệ riêng với quan cai ngục để vào tiếp tế ít nải chuối, vô tình quan tỉnh đi ngang qua nhìn thấy, liền ra lệnh sa thải viên cai ngục đó. Tuy nhiên dù nghiêm ngặt như thế, cha Phượng cũng vào giải tội cho Ngài được một lần, nhờ giả dạng làm người bán hàng rong.
Ngày 11-04 bản án của vua ra đến Tây Sơn: “Trẫm đã cứu xét hồ sơ tây dương đạo trưởng ở Sơn Tây. Luật nước đã cấm đạo Gia-tô. Thế mà tên Ao-du-tinh vẫn cả gan vào nước ta giảng đạo lừa dối dân. Trẫm truyền trảm quyết, đầu y thì bỏ trôi sông để răn dạy kẻ khác”. Bản án xác định ngày xử là 01-05 Dương lịch, đúng ngày đầu tháng hoa dâng kính Đức Mẹ. Cha Đông nghe tin đó thì thì vui mừng quỳ xuống đất tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã xếp đặt cho mình được tử đạo vào ngày đầu tháng Đức Mẹ.
Ngày khải hoàn
Ngày xử diễn ra như một ngày hội, cha Đông đi chính giữa, hai bên là 8 binh sĩ tay cầm gươm sáng loáng, phía trước là hai hàng lính, mỗi hàng 50 người, một hàng cầm súng hàng kia cầm giáo. Khi có hiệu lệnh, lính ở hai hàng bắt chéo súng và giáo làm thành một cổng chào. Phía sau có hai thớt voi trận chở hai quan giám sát. Vị chứng nhân đi giữa hàng rước, cười tươi tỉnh như ngày khải hoàn. Cổ mang gông, đầu ngẩng cao, hai tay ôm xích sắt để khỏi vướng, cha thỉnh thoảng nhắm mắt lại để cầu nguyện. Đức cha Retord Liêu sau này đã phải kêu lên: “Đẹp biết bao cái chết của vị tử đạo !”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm đó bao quanh cha đều sửng sốt và thán phục.
Khi đến nơi xử, pháp trường năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi cầm thánh giá đeo trên cổ một cách cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không được phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó người lý hình run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt. Phải lấy gươm cắt phần thịt còn lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ, sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn cha Augustinô Đông lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Vần B
Bênadô VŨ VĂN DUỆ (1755 - 1/8/1838)
Người tù già hy sinh tự nguyện
Mùa thu năm 1838 tại nhà giam Nam Định, một tù nhân đã 83 tuổi hình như vẫn coi sự khác nghiệt của trại giam là nhẹ. Những đêm mưa to gió lạnh, chỗ của cụ nằm bị nước mưa giột, nhưng cụ vẫn không chịu dời chỗ khác theo lệnh của lính canh. Từ ngày vào tù, cụ trải chiếu dưới đất, không nhận tiếp tế chăn mền, rồi khoảng một tuần sau, cụ bỏ luôn chiếu để nằm trên đất.
Cụ già đó là linh mục Bênadô Vũ văn Duệ. Đối với ngài, phải có những hy sinh tự nguyện để bổ túc cho những hy sinh bất đắc dĩ. Những hy sinh đó là những phương pháp luyện ý chí để đủ sức đối đầu với những thử thách cuối cùng ngoài pháp trường. Đối với ngài, suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu phải dưa đến việc tham dự, chia sẻ những nỗi cơ cực các Chúa trong thực hành. Cha nói: “Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn thánh giá Chúa Giêsu xưa kia nhiều”.
Vị linh mục khắc khổ
Bernadô Vũ Văn Duệ sinh năm 1755 tại làng Quần Anh Hạ (Quần Phước), tỉnh Nam Định, trong một gia đình Công Giáo. Ngay từ nhỏ, cậu Duệ đã dâng mình cho Chúa, và chuẫn bị học hành hướng tới chức linh mục. Nhưng việc học của cậu bị gián đọan nhiều lần vì tình hình bách hại các chúa Trịnh và thời vua Cảnh Thịnh. Mãi đến năm 1795, thày Duệ mới được toại nguyện, thụ phong linh mục đã 40 tuổi. Cha Duệ phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong nhiệm vụ mục tử suốt 37 năm. Đến năm 1832, năm ngài 77 tuổi, Đức Cha xét thấy tình trạng bệnh tật, đã cho cha về hưu tại xứ Trung Lễ.
Không thể phục vụ Giáo Hội trực tiếp nữa, cha Duệ đã dâng những ngày tháng bệnh tật để cầu nguyện cho Giáo Hội. Tuy đã già, mỗi ngày cha vẫn tiếp tục đọc, suy niệm, chia sẻ Tin Mừng và hướng dẫn cho các tín hữu trong vùng tìm đến bàn hỏi. Cha gia tăng những việc khổ chế hãm mình: bỏ nằm giường để ngủ trên đất, không nằm mùng để muỗi tự do đốt. nhiều người cản trở vì lo cho tuổi già của cha, cha trả lời: “Bấy nhiêu hãm mình đã là gì ? Tôi không có cơ hội dể làm việc lớn thì tôi chọn lựa một chút khó khăn vậy thôi”.
Giá trị một lời hứa
Từ ngày vua Minh Mạng lệnh cho quan Trịnh Quang Khanh gắt gao truy lùng các giáo sĩ, Đức Cha Delgado Y, Giám mục giáo phận Đông phải bỏ trụ sở Bùi Chu đi trốn. Một hôm trên đường xuống Kiên Lao, Đức Cha ghé vào Trung Lễ gặp cha Duệ. Đức Cha nói nửa đùa nửa thật: “Cụ còn sức theo tôi đến thủ phủ Nam Định chăng ?”. Cha Duệ hiểu ý người cha chung giáo phận muốn nói về việc tử đạo, nên trả lời: “Thưa Đức Cha, khi nào Đức cha bị bắt, xin cho phép con theo cùng”.
Có lẽ vị Giám mục nói đùa rồi quên đi, nhưng cha Duệ không bao giờ quên điều mình đã nói. Từ ngày 28.05.1838, khi nghe tin Đức cha bị bắt ở Kiên Lao, cha Duệ đã khóc lóc và muốn ra trình diệnnvới quan quân để được tử đạo với Giám mục của mình. lúc đó cha đã 83 tuổi, mắt thì lòa nên đi đâu phải có người dẫn, thế nhưng không ai chịu đưa cha đến nộp cho các quan cả.
Cũng từ đó, nằm trong nhà, hễ nghe có tiếng chân người bên ngoài, cha lại hô lên: “Hãy báo tin cho các quan biết tôi ở đây. Tôi là linh mục, hãy đến mà bắt tôi”. Các giáo hữu xin cha thinh lặng kẻo liên lụy đến dân làng. Cha đáp: “Tôi không thể im được vì tôi đã hứa với Đức cha”. Một hôm lính đi qua, nghe tiếng cha gọi thì bước vào. Cha nói: “Bây giờ các ông đã có linh mục, hãy bắt mà nộp cho quan đi”. Một thày giảng đứng đó liền nói: “Ông nội tôi đó, các ông đừng để ý làm gì, ông ấy già nua nên lú lẫn, tự cho mình là linh mục đó thôi”. Cha Duệ thanh minh rất tỉnh táo chớ chưa lẩm cẩm. Nhưng lính thấy cụ già đã ngoài 80 tuổi, nằm liệt trên giường như thế thì tin lời thày giảng rồi bỏ đi. Quân lính đã xa rồi mà cha già Bernadô cứ lẩm bẩm phàn nàn vì người ta đã làm cha mất cơ hội bị bắt.
Những ngày sau đó, cha Duệ vẫn tiếp tục la lên yêu cầu mội người đi ngang báo cho quan đến bắt mình. Các tín hữu thấy không cản được ngài nữa thì bàn tính với nhau, họ đưa cha đến một túp lều của một người cùi ở ngoài đồng, nhờ một bà đạo đức chăm sóc cơm nước. Họ nghĩ rằng quân lính chẳng đến khu vực đó. không ngờ ngày 04.07.1838, một toán lính vô tình đi ngang qua nghe tiếng cha đã ghé vào. Cha nói “Các chú tìm đạo trưởng hả ? Tôi là đạo trưởng đây”. Không có ai ở đó để cải chính như hôm trước, nên cha bị bắt đem về nộp cho Tổng đốc Trịnh Quang Khanh.
Vững nhu bàn thạch
Tổng đốc thấy lính dẫn đến một người quá già nua tuổi tác thì cười, rồi cho đặt tấm ảnh Chúa trên đất và nói: “Ông lão bước qua tấm ảnh đi, ta sẽ tha cho về”. Cha Duệ đáp: “Xin quan lớn đừng bảo tôi làm thế, dù thế nào tôi chẳng thể vâng lời quan”. Bấy giờ trời đã gần tối, quan cho giam cha trong một ngôi chùa gần đó và bỏ đói suốt đêm. Sáng hôm sau lính giải cha về Nam Định. Viên quan án ở đây cũng để một Thánh Giá yêu cầu cha bước qua. Cha trả lời ông như đã nói với quan Tổng đốc. Viên quan tội nghiệp tuổi già nên không đánh đập gì, như bắt cha phải mang gông và cho đưa vào trại giam.
Gần hai tháng trong tù, nhiều lần quan cho người vào dụ dỗ cha bỏ đạo, nhưng cha cương quyết từ chối. Những ngày đầu trong trại giam trật hẹp, hôi hám, cha Duệ phải trải chiếu dưới đất ngủ, có người thương đem đến biếu cha một chiếc chăn để quấn cho ấm, cha từ chối và nói: “Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn Thánh Giá Chúa Giêsu xưa nhiều”. Có một hôm mưa giột ướt hết nơi cha nằm, lính đến bảo cha dời chỗ, cha không chịu: “Cứ để tôi ở chỗ ướt này cũng được, không can chi. Tôi chỉ lo những sự đời sau và ước ao đổ máu vì dạo Chúa Kitô thôi”.
Ngày 12.07, Đức cha Y đã lìa thế, ly trần trong ngục nhưng vẫn bị đem ra pháp trường xử chém. Nghe tin đó, cha Duệ bỏ luôn chiếu, ngủ trên đất. Cha nói: “Giám mục là cha đã phải xử, ta là con nằm chiếu sao phải lẽ”. Cha Duệ đã chọn những hy sinh tự nguyện để dọn mình đón nhận cuộc tử đạo. Thời gian này cũng có cha Hạnh, linh mục dòng Đaminh bị giam chung. Cha Hạnh trẻ hơn, mới 66 tuổi nên thường thay mặt cha già trả lời cho các quan. Sau khi thấy không làm hai vị đổi ý được nữa, các quan liền làm án gởi về kinh đô: “Chúng tôi đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn Hạnh. Chúng đã bị bọn Tây lừa mà theo đạo Gia Tô từ lâu. Chẳng những chúng tin mà còn giảng đạo ấy cho nhiều kẻ khác tin theo nũa. Xem ra đạo ấy đã thấu tận tâm can bọn chúng đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng tôi luận cho chúng án trảm quyết, để ai lấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thể ấy”.
Chiến thắng vinh quang
Theo luật thời đó, ở tuổi cha Duệ 83 lẽ ra không bị xử tử, nhưng vua Minh Mạng bất chấp cả luật lệ, ký bản án liền. nghe tin ấy, cha Duệ tỏ ra vui mừng, gia tăng việc hãm mình chuẩn bị cho ngày hồng phúc cha vẫn mong đợi. Ngày 24.07, quan cho tách riêng cha Hạnh đi giam nơi khác. Nhưng ngày 01.08, hai vị cùng được đưa ra tòa lần chót trước khi đưa đi xử. Cả hai vị đều khẳng khái tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. cha Duệ và quá yếu sức, lính phải cáng ra pháp trường Bảy Mẫu. Ra đến cửa thành, vì viên quan chủ tọa cuộc xử án chưa đến, hai linh mục phải đứng ngoài nắng mấy giờ liền. một người đưa cha Duệ một chiếc chiếu nhỏ để che nắng, cha cảm ơn từ chối. Suốt hành trình, cha làm dấu Thánh Giá nhiều lần và cầu nguyện cách sốt sắng.
Đến nơi hai vị cầu nguyện chung một lát. Sau đó, lính tháo gông xiềng xích và trói hai vị vào cọc. Theo lệnh quan, hai lý hình thi hành phận sự, chém và tung đầu lên cho mọi người trông thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu hai vị tử đạo. Quân lính chôn cả đầu lẫn xác tại pháp trường, sau các tín hữu xin phép được đưa thi hài về an táng tại Lục Thủy.
Thế là cha Duệ đã thực hiện trọn vẹn lời hứa với vị Giám mục Y: Đi theo ngài đến cùng, để rồi chung hưởng hạnh phúc trường tồn trên Thiên Quốc.
Cùng với vị Giám mục của mình, Đức cha Y, linh mục Bernadô Vũ Văn Duệ được Đức Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Vần Đ
Đaminh TRẦN DUY NINH (1841 - 2/6/1862)
Đức tin mạnh hơn sự chết
“Giác quan khiếp sợ trước những hiểm nguy, những cái sẽ đem đến đau thương và chết chóc. Nhưng với đức tin mạnh mẽ và sống động, giác quan không còn e sợ gì cả, nó biết trước tất cả những gì sẽ xảy đến đều do ý Chúa, và những điều Chúa muốn chỉ sinh ích mà thôi. Như vật, tấc cả những gì sẽ đến vui hay buồn, sức khỏe hay bệnh tật, sống hay chết đều được nó vui nhận trước và dĩ nhiên không còn biết sợ gì”.
Tư tưởng trên đây đã được cha Charles de Foucault, vị khai sáng dòng tiểu đệ trình bày, diễn tả thật chính xác về các vị thánh tử đạo Việt Nam. Các vị biết trước những gian nan và đau khổ sẽ phải chịu, nhưng tin vào Thiên Chúa, các ngài không chút nhát sợ. Sự hiên ngang can trường của các ngài trước bạo lực trần gian thật đáng được muôn đời ca tụng. thánh Đminh Ninh là một trong số các vị oai hùng đó.
Năm 1841, làng Trung Linh, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung (nay là giáo phận Bùi Chu) đón nhận cậu bé Đaminh Ninh chào đời. Làng Trung Linh cũng là xứ Trung Linh, là một làng thuần Công Giáo. Trong giai đoạn đầu công cuộc truyền giáo tại miền bắc Việt Nam, Trung Linh là nơi đặt Toa Giám Mục và có trường đào tạo chủng sinh.
Tuy là một nông dân chất phác, cần cù anh Ninh vẫn cố gắng học thêm chữ Nôm, hy vọng tương lai ngày mai tươi sáng hơn. Anh Ninh được dân làng khen là một Kitô hữu tốt lành, đạo đức. Duy có điều đáng buồn đối với anh, đó là cha mẹ đã ép anh phải kết hôn với một thiếu nữ trong làng. Vì không muốn làm buồn lòng cha mẹ, anh đành miễn cưỡng chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhưng sau ngày cuới, anh vẫn sống như người độc thân, chứ không chung sống với người thiếu nữ đó. Tuy nhiên, anh vẫn cư xử hòa nhã với nàng. Và sau anh nhận thấy mình có phần lỗi, nên đã cố gắng đền bù bằng cuộc sống thánh thiện, nhất là can đảm chấp nhận mọi đau khổ, cực hình vì đức tin và vì lòng mến Chúa.
Chiếu chỉ phân sáp ban hành ngày 05.08.1861 của vua Tự Đức được áp dụng triệt để tại làng Nam Định. Nếu nhiều nơi trước khi bị phân sáp, giáo hữu còn được bán nhà lấy tiền chi tiêu thì ở đây họ bị bắt, bị trói từng năm người một, và chỉ được đem theo mấy nắm cơm đủ ăn trong hai ngày ngắn ngủi.
Thanh niên can trường.
Năm 1862, anh Ninh vừa được 21 tuổi. Anh bị bắt cùng một số giáo hữu khác, và bị giam nhiều trại tù với những lời dụ dỗ, đe dọa, tra tấn để làm cho các tôi tớ Thiên Chúa khiếp sợ mà chối bỏ đức tin. Quan đã dùng nhiều lời hứa hẹn và đe dọa bắt anh Ninh phải chà đạp Thánh Giá nhưng anh can đảm trả lời:
“Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình thì làm sao người Kitô hữu được phép chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thánh trời đất ? Xin quan cứ thi hành điều quan muốn, còn tôi không bao giờ xúc phạm Thánh Giá Chúa đâu”
Trong án phong Chân Phước cho anh Đaminh Ninh, bà Rôsa Hun làm chứng rằng: “Tôi thấy anh bị nhốt tù tại Đông Vi, tuy mang gông cùm xiềng xích nặng nề, anh vẫn vui vẻ tươi cười”.
Trước lòng can đảm, khẳng khái của anh Đaminh Ninh, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân đã kết án trảm quyết. Và bản án được thi hành ngày 02.06.1862 tại pháp trường An Triêm, tỉnh Nam Định.
Ngày 29.04.1951 tại giáo đô Vatican, trong Vương Cung Thánh Đường Phêrô, anh Đaminh Ninh, người thanh niên nông dân nghèo, nhưng cũng là Kitô hữu can trường đã được Đức cha Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh BÙI VĂN ÚY (1812 - 19/12/1839)
“Nếu tôi cả gan bước qua Thánh Giá thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết.”
Thấy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thày trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có cuộc bách hại hay khí vào thăm trong tù ? Nhưng rõ rệt là với thày, phản bội đức tin là phản bội lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi Văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiên Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gởi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thày giảng, thày luôn hoạt động bên cha tại xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh) thì bị bắt, lúc đó thày mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thày Úy đều công nhận thày hiền lành có lòng yêu mến Chúa, đặc biệt là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thày là được đóng vai “Lê Lai thế mạng” để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thày đào hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài.
Thày nói với mọi người: “Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em”.
Ngày 29-06-1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thày Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thày chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thày nói: “Xin cha cứ nói con là thày giảng, may ra cũng được phúc tử đạo với cha”.
Rồi thày xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế quan nói với ngài: “Cha Tự xuất giáo rồi sao anh còn cố chấp thế ?” Thày bình tĩnh trả lời: “Vô lý cha tôi không bao giờ làm như vậy, mà dù có thực thế tôi không bao giờ xuất giáo đâu”.
Lần khác quan như muốn dạy khôn thày: “Anh còn trẻ hãy nghĩ lại và khôn ngoan một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà”. Thày Úy đáp: “Đúng là khúc gỗ thưa quan, nhưng khúc gỗ đó tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi ?”.
Hôm khác khi bị dụ dỗ bước qua Thánh Giá, thày khẳng khái nói: “Thưa quan có giám bước qua mặt Đức Vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi được?”.
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng ta sẽ chém đầu mi”. Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên: “Anh em ơi, tôi sắp được chém đầu rồi”. Nhưng phúc trường sinh đến với thày không quá mau như vậy.
================
Đaminh NGUYỄN VĂN CẨM (1810 - 11/3/1859)
Trên đường nhiệm vụ
Đi bất cứ nơi nào khi trách vụ đòi hỏi
Đó phải chăng là kỷ luật một người lính ?- như vậy thì cha Cẩm đích thực là một người lính của Chúa Kitô, chiến đấu cho tình thương.
Đó phải chăng là đức tính của một người tôi trung ?- Cha Cẩm cũng đúng thực là một người đầy tớ khôn ngoan và trung thành “đúng giờ phân phối thóc gạo cho gia nhân”, và luôn “cầm đèn sáng chờ đợi chủ về”.
Đi bất cứ nơi nào khi trách vụ đòi hỏi. Điều đó có vẻ đơn giản quá, bình thường quá, chưa có nét gì là một cuộc ra đi “vĩ đại”, một cuộc lên đường đảo lộn cuộc đời. Thế nhưng nó vẫn là một cuộc lên đường thực sự trong từng công việc bình thường, và nếu như cái vẻ bề ngoài của một cuộc lên đường còn chưa bộc lộ hết tấm lòng cương quyết, trung kiên của một người lính, một người tôi trung thì trong cuộc đời cha Cẩm, chính cái chết, phải, chính cái chết đã làm trọn tất cả, bộc lộ được những gì cao đẹp nhất của những lần lên đường. Vì thật ra nó chỉ là một cuộc lên đường duy nhất về Nhà Cha.
Linh mục nhiệt thành
Đaminh Cẩm sinh tại làng Cẩm Giàng (hay Cẩm Chương), xứ Kẻ Roi, tỉnh Bắc Ninh (nay là Hà Bắc, gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang). Vì thông minh sắc xảo từ nhỏ, nên cậu Đaminh Cẩm được thu nhận vào nhà Chúa. Sau khi mãn khóa thần học, thầy Cẩm được lãnh chức linh mục. Vị linh mục trẻ trung này chẳng bao lâu đã xin gia nhập dòng ba Đaminh. Cha rất nhiệt thành với việc tông đồ, và được bề trên cũng như mọi người quý mến.
Năm 1848, khi tòa thánh chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Đông (Hải Phòng) và Trung (Bùi Chu) thì cha Đaminh Cẩm tuy sinh quán Bắc Ninh (thuộc giáo phận Đông), lại được cử phục vụ ở giáo phận Trung có số tín hữu đông gấp ba lần. Tại đây khi cuộc bách hại trở nên gay gắt, vì lợi ích của giáo dân cha phải lẩn trốn hết nơi này đến nơi khác. Nhưng mỗi khi trách nhiệm mục vụ đòi hỏi cha Cẩm luôn sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu, dù có nguy cơ bị bắt bớ.
Đầu năm 1859, khi cha về Hà Lan ẩn náu, một người phát hiện ra cha và tố cáo với quan (lúc này người nào khai báo các thừa sai hay linh mục, đều được thưởng tiền bạc chức tước). Do đó quan quân đến vây bắt cha tại Hà Lan ngày 21-01-1859 và giải cha về Hưng Yên.
Trước mặt quan tổng đốc, cha Đaminh Cẩm khẳng khái nhận mình là linh mục Công Giáo và sẵn sàng chấp nhận mọi hình khổ, chư không bao giờ chà đạp Thánh Giá. Sau nhiều lần khuyến dụ và đe dọa nhưng không kết quả, quan Tổng Đốc ra lệnh nhốt cha vào cũi chật hẹp ròng rã mấy tháng trời.
Hào quang thiên quốc
Trong thời gian bị giam, tư cách và đức độ của cha Cẩm đã khiến quân lính cảm kích, nên họ dễ dãi cho phép nhiều giáo hữu lui tới thăm viếng cha. Noi gương thánh Phaolô Tông Đồ, cha nhân cơ hội này tiếp tục giảng Tin Mừng và khuyên nhủ mọi người trung thành giữ vững đức tin, hết lòng đặt trọn niềm cậy trông nơi Chúa. Nhờ các giáo hữu liên lạc, nhiều lần cha đã viết thư cho vị giám mục giáo phận, đức cha Valentinô Vinh, bày tỏ lòng trung kiên với Đức Kitô và mong mỏi khao khát được phúc tử đạo. Đức cha cho linh mục Hương vào thăm và giải tội cho cha Cẩm ngày 30-01.
Khi nhận được tin kết án trảm quyết, cha Đminh Cẩm tỏ vẻ hân hoan vui mừng. Trên đường đến pháp trường cha hiên ngang như một chiến sĩ khải hoàn. Bà Maria Huệ, một giáo dân hiện diện trong giờ hành quyết đã làm chứng: “Khi tới nơi xử cha cầu nguyện một lát, rối vui vẻ làm hiệu cho lý hình thi hành phận sự”.
Quân lính vung gươm chém cha ba nhát mà đầu vẫn chưa đứt. Họ phải cứa đi cứa lại nhiều lần, đầu cha mới lìa khỏi thân. Hôm đó là ngày 11-03-1859. Thi thể sau được rước về an táng ở Cẩm Chương là nguyên quán của vị tử đạo.
Ngày 29-04-1951, Đức thánh cha Piô XII suy tôn cha Đaminh Cẩm cùng với 24 vị tử đạo khác lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh ĐINH ĐẠT (1803 - 18/07/1839)
Dâng sớ biểu lộ niềm tin.
Một ngày mùa hạ năm 1839, vua Minh Mạng rời hoàng cung đi dạo và quan sát dân tình Huế. Tất cả sinh hoạt đều tạm ngưng, mọi người phải dạt vào lề đường, chờ xa gía nhà vua đi qua mới tiếp tục công việc mình được. Nhưng kìa, có hai người lính không thuộc đội cận vệ, bỗng từ đâu xuất hiện, tiến ra và quỳ rạp trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Viên quan nhận sớ trình cho vua xem. Tuy chỉ có hai người lính, nhưng số sớ tên ba người, là các ông Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể, Đinh Đạt. Nội dung lá đơn ấy như sau: “Cha ông chúng tôi đã theo đạo Gai Tô, năm ngoái các quan tra tấn ép buộc bước qua Thánh Giá, chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm không muốn. Nay chúng tôi xin tiếp tục giữ đạo để tròn đạo hiếu với cha ông chúng tôi”.
Đó là biến cố chính đưa đến cái chết tử đạo của ba quân nhân xã Lục Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Augustinô Phan Viết Huy sinh năm 1795 tại làng Hạ Linh, thuở bé có dâng mình cho Chúa, chuẩn bị làm thày giảng, nhưng sau xin ra ngoài lập ga đình, ông đã phục vụ trong quân ngũ mười năm. Người thứ hai là ông Nicolas Bùi Đức Thể sinh năm 1792 tại làng Kiên Trung, tính đến ngày vị bắt, ông mới đi lính được một tháng. Người thứ ba là Đaminh Đinh Đạt sinh năm 1803 tại làng Phú Nhai, tuy ít tuổi nhất nhưng ông đã gia nhập quân đội được 12 năm.
Đâu phải lính là can đảm.
Tổng đốc Nam Định bấy giờ là ông Trịnh Quang Khanh. Năm 1838, ông đã từng bị triệu về kinh và bị khiển trách vì tội lơ là việc thi hành bắt đạo của vua. Từ đó, ông trở thành một thứ “hùm xám” tỉnh Nam Định, thề quyết không đội trời chung với “Gia Tô tả đạo”, cho quân đi lùng bắt khắp nơi. Để công việc có hiệu quả, đối tượng đầu tiên ông quan tâm là thanh lọc lại ngay trong hàng ngũ quân đội, những người ông sẽ phái đi thi hành truy lùng trong đân chúng.
Sau nhiều ngày suy tính kế hoạch và chuẩn bị, Tổng đốc tổ chức đại tiệc chiêu đãi tất cả các binh sĩ Công Giáo ở Nam Định, dựa vào lý lịch của họ. Hôm đó có khoảng 500 anh em đến dự. Trong bữa tiệc, Tổng đốc đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai trung thành với vua. Ông cũng khéo léo đe dọa những ai cố chấp không bỏ tà đạo. Khi tiệc đã tàn, ông cho mời hết thảy vào dinh để thử lòng họ. Tại đây, quan để sẵn những dụng cụ tra tấn như gông cùm, xiềng xích, roi kìm. và đặt tượng Thánh Giá dưới dất. Tất cả được tự do chọn lựa, bước qua ảnh Chuộc Tội, hoặc chịu gia hình thì tùy ý. Tiếc thay trong số 500 lính hôm đó chỉ có 15 người trung kiên, từ chối bước qua tượng ảnh Chúa, còn bao nhiều đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc 15 người kia bị bắt giam vào trong ngục tối.
Ngày hôm sau, quân lính đưa 15 tín hữu này ra công đường, đánh đòn và bắt ép các ông bước qua ảnh Chúa, sáu người sờn lòng bỏ cuộc, chỉ còn 9 người vững vàng trước trận đòn chí tử. Cả 9 bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, Đạt thuộc nhóm 9 người này. riêng ông Huy, vì trước đậy có lấy vợ nhỏ ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam bỏ vợ nhỏ với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở vô tù với anh em.
Ngày thứ ba, chín người trên lại được đem ra trình diện với quan, Tổng đốc hứa thưởng tiền cho ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nge lời, quan ra lệnh đánh đật tàn nhẫn, rồi cho lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ còn năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng phái thêm tướng Lê Văn Đức đem 2000 kinh binh ra tăng viện cho Nam Định. Viên tướng này vừa tới nơi đã là người cộng tác rất đắc lực với Tổng đốc trong cuộc bách hại. Ngày 25.06, khi đem Đức Cha Henares Minh và thày Chiểu ra sử tử, tướng Lê văn Đức cho dẫn năm binh sĩ bướng bỉnh ra pháp trường, có ý hù dọa để các ông sợ. Không ngờ các ông đều tỏ ra hân hoan vì tưởng sắp chết vì đạo.
Chỉ còn ba người trung tín
Thấy thế quan lại cho giải năm ông trở về trại giam. Ít bữa sau, quan truyền gọi năm ông ra tòa, mới đầu quan dùng lời ngon dụ dỗ, nhưng không thành công, liền thịnh lộ sai quân lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lê trên tượng Chúa, các ông liền co chân lên. Họ lấy ro đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân cá ông xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai binh sĩ nữa bỏ cuộc sau trận đòn này, chi còn ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết trả lời với quan rằng: “Các ngài cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng lòng chúng tôi khôngchiều theo, thì chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu”. Quan liền cho lệnh đóng gông thật nặng và giam cả ba vào trong ngục.
Từ đó trở đi, ba ông còn phải chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Khi thì mỗi người 24 roi, khi thì 150 roi. Một lần quan dùng lý luận khuyên các ông bỏ đạo tà, ông Huy thay mặt anh em đáp lại: “Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi theo đạo nào bây giờ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi”. Quan hét lên: “Nếu đạo chúng bay là đạo thật, sao Đức Vua lại nghiêm cấm?”. Bấy giờ ông Huy có dịp sử dụng những gì xưa đã học khi chuẩn bị làm thày giảng, để cắt nghĩa các lẽ đạo và trả lời cách mạch lạc sáng sủa những câu hỏi quan đặt ra. Thấy mình đuối lý, quan cho lệnh giam ba ông với linh mục Giacobê Năm, ông Lý Mã và ông Trùm Đích. Cha Năm hỏi ba ông: “Hôm nay thế nào, được hay thua?”. Các ông đáp: “Chúng con chẳng chịu quá khóa, nên quan đã làm án xử rồi”.
Thế nhưng các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt ba ông bỏ đạo vì “khi dầu đã đứt, chẳng còn phép chi nối lại được nữa”. Giai đoạn này, Trịnh Quang Khanh đang bị ngưng chức Tổng đốc, Tổng trấn Lê Văn Đức tạm thay quyền đã cho lệnh đóng gông và dưa ba chiến sĩ Đức Kitô phơi nắng chỗ công cộng, ông Huy và Thể ở cửa Đông, ông Đạt ở cửa Nam suốt 21 ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ nhục tùy ý. Nhưng quan lại một lần nữa thất bại.
Tháng 10.1838, Trinh Quang Khanh được phục chức Tổng đốc, nên hết lòng tìm cách đền đáp ơn vua. Tổng đốc hco những người đã bỏ đạo trước đây vào ngục thất khuyên dụ dỗ ba ông bỏ đạo, nhưng những người này bị các ông khiển trách là kẻ hèn nhát dại dột, nên mắc cỡ không giám nói năng gì cả. Tổng đồ chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con, thân nhân, bạn bè của ba ông, bắt họ vào nài nỉ dụ dỗ, hy vọng các ông sẽ xiêu lòng. Nhưng cả ba vị vẫn cương quyết trung thành với Chúa.
Một phút lầm lỡ. Và thống hối
Cuối cùng Tổng đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và ra hẹn trong một tháng phải ép ba chiến sĩ đức tin bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau, những người này vẫn chưa hoàn thành được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các kỳ mục và cho lệnh đánh đòn họ trước mặt ba người chiến sĩ Đức Kitô. Và lần này ông thành công. Ông Thể động lòng trước cảnh một bô lão làng Kiên Trung chịu đòn thâm tím vì mình, xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ý bước qua Thập Giá. Quan vỗ tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua Thập Giá. Riêng ông Huy vẫn chưa chịu khuất phục.
Đêm hôm đó, quan cho người vào ngục dụ dỗ ông Huy: “Chẳng ai cười chú đâu, vì chú đã chịu khó rất cam đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng cứ bước đại qua Thập Giá để khỏi rầy rà”. Ông Huy nghe thấy hơi xiêu lòng, lại thấy hai bạn mình được tự do cả rồi, nên sáng hôm sau ông cũng theo chân các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người mười quan tiền và cho trở lại trong quân ngũ.
Thế nhưng ba người lính được tự do trở về nhà lại thấy lòng áy náy, lương tâm cắn rứt, các ông không ngờ vụ án mình không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối trong nhóm 500 binh sĩ trở thành tin buồn khá lớn lao cho tập thể. Có người không tin các ông đã đạp lên Thánh Giá, dù các ông hoàn toàn nhận lỗi nơi mình, họ bảo rằng chắ các quan dùng thuốc mê khiến các ông mất sáng suốt. Thế là ba ông sau khi xưng tội, bàn bạc với nhau và cương quyết lên tỉnh để tuyên xưng đạo một lần nữa.
Lòng can đảm hy hữu
Đến tỉnh, ba ông vào thẳng dinh quan Tổng đốc trình bày nguyện vọng của mình: “Thưa quan, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đã chót dại qúa khóa. Nay chúng tôi xin trả tiền lại cho quan để được giữ đạo Chúa thật lòng”. Quan nghe nói tức giận chửi mắng ba ông thậm tệ, rồi ra lệnh giam vào ngục để tìm cách dụ dỗ như lần trước. Nhưng vì quan đã báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo lên muốn bỏ qua chuyện, chỉ truyền đánh đòn ba ông rồi rồi duổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông trả, quan trao cho hưởng chức ba làng của các ông.
Trở về nhà ba ông cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bãc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên xưng niềm tin. Ba ông hỏi ý kiến cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ý, chứ tội các ông không buộc phải đến bằng cách đó. Cha Chính Jimenô Lâm (sau này làm Giám Mục giáo phận Đông Đàng Ngoài) nghe tin thì viết thư tán thành sáng kiến đó. thế là ba ông ngổi lại với nhau viết một lá đơn cho vua, bày tỏ niềm tin của mình. Ông Đạt cũng ký vào đơn, nhưng vì đang phải công tác với đội binh nên ở lại. Hai ông Huy và Thể có cơ hội tức tốc khăn gói đi vào Huế.
Trước khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải trông cậy vào Chúa hơn là sức mình, phải cầu nguyện nhiều mới có thể can đảm làm chứng cho đạo Chúa. Hai vị xưng tội một lần nữa, chào giã biệt họ hàng thân thích và xin mọi người góp lời cầu nguyện. Sau 20 ngày đi bộ, các ông vào tới kinh đô đầu tháng 05.1839. Một người con ông Huy mới 16 tuổi cũng theo chân người cha để nghe ngóng tin tức.
Theo thủ tục khi đó, ba ông đến nộp đơn ở tòa Tam Pháp chờ đợi. Các quan nhận đơn, nhưng lại bỏ qua không trình lên vua. Trong thời giam chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà Đông, cũng là một tín hữu ở Huế. Sau đó hai vị làm thêm một lá đơn thứ hai, nhưng tòa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ như cũ. Thế là các ông phải tính đến một kế hoạch táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự giá đi dạo trong thành phố. Hai ông đón đường để trình đơn thẳng lên nhà vua. Đọc xong vua nổi giận truyền tống giam cả hai, và giao cho các quan bộ hình cứu xét.
Khổ hình và vinh phúc.
Các quan ở kinh đô khuyến dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi trá tấn đánh đập, nhưng hai nhân chứng vấn cứ trước sau như một, tuyên xưng là những binh sĩ có đạo. Tướng quân Lê Văn Đức ở Nam Định trở về, vì đã từng biết sự gan dạ của hai ông nên nói: “Đừng hy vọng thuyết phục bọn này, đánh chúng chỉ mỏi tay thôi”. Một hôm quan hỏi tại sao trong đơn còn có chữ ký của Đinh Đạt, hai ông trả lời: “ Thưa quan, anh Đạt cũng không chịu quá khóa, nhưng bận việc quân nên không đi với chúng tôi được. Anh ấy dặn: chúng tôi thế nào, anh ấy cũng như vậy”.
Các quan trình bày sự việc lên vua để lãnh ý. Sau đó, theo lệnh vua, quan cho bày trước mặt hai ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ra biển”. Hai ông bày tỏ ý muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng nổi giận truyền viết bản án sau:
“Trước đây ta đã làm án tử hình, nhưng ta thương chẳng muốn giết, nào ngờ chúng đã mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Ta đã mở lối cho chúng ăn năn và chừa cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Gia Tô tả đạo, lại bỏ việc quân vào kinh nộp đơn. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh, đáng ghét, chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem re biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng rồi bỏ xác xuống biển, để ai lấy biết tỏ điều răn cấm .”
Phần sau bản án, vua giao cho Trịnh Quang Khanh việc điều tra ông Đinh Đạt và dặn trình báo lại. Ngày 13.06.1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông lên thuyền chèo ra giữa biển, đặt một Thánh Giá ngay trong thuyền, để thử xem các ông có đổi ý đạp lên chăng. Khi thất vọng, họ trói hai ông vào cột chèo, thay vì chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi bổ thân ra làm bốn, ném xuống biển làm mồi cho cá.
Bổ làm tám cũng được
Về phần ông Đinh Đạt, sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị tâm hồn đón nhận cái chết anh hùng. Cuối tháng 06.1839, một người bạn đồng đội đến báo tin ông Huy và Thể đã bị hành hình, ông đạt tỏ ra rất vui mừng, báo tin cho cha mẹ, bà con, từ giã mọi người. Ông không tính chuyện chạy trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con khóc lóc, ông lựa lời an ủi và quả quyết Chúa đã lo liệu quan phòng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt, ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi thản nhiên đi theo họ lên tỉnh. Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi, suy niệm các mầu nhiệm kinh Mân Côi.
Đến Nam Định, lính đưa ông vào gặp Trịnh Quang Khanh, quan Tổng đốc bảo ông: “Hai bạn của ngươi vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ tà đạo đi để về với vợ con”. Ông Đạt thẳng thắn thưa: “Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều cực hình khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được”. Quan biết có đe dọa cũng không thành công, liền lập án gửi về kinh xin xử giảo.
Ông Đạt khi nghe đọc bản án thì rất bình tĩnh, vui mừng đón nhận cái chết gần kề. Ngày 18.07.1839 ông theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa chăm chú đọc kinh. Đến nơi xử, ông quỳ tr6en chiếu cầu nguyện giây lát, rồi chờ quân lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống. Lý hình đứng hai bên dùng giây xiết cổ ông cho đến khi tắt thở. Tín hữu làng Phú Nhai thương lượng với quan quân đem thi hài vị anh hùng tử đạo về an táng tại khu đất của người anh cả vị anh hùng. Sau hài cốt của ông Đạt được lưu giữ tại nhà thờ Phú Nhai.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ba vị anh hùng tử đạo: Augustinô Phan Viết Huy, Nicôlas Bùi Đình Thể và Đaminh Đinh Đạt lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh HÀ TRỌNG MẬU (1794 - 5/11/1858)
Thánh lễ mạng sống
“Khi cha mậu bị điệu đến nơi xử, tôi thấy cha hết sức bình tĩnh, hai tay chắp lại như khi dâng lễ”.
Lời chứng của bà Maria Di có lẽ cũng nói lên được tâm tình của thánh Đaminh Hà Trọng Mậu trong ngày tử đạo. 30 năm linh mục, với bao nhiêu thánh lễ trên bàn thờ, chắc chắn giờ dây cha cũng hân hoan khi được hiến dâng chính mạng sống mình như Đức Giêsu xưa trên đồi Golgotha. Tại bờ sông Hưng Yên hôm ấy, giữa tiếng quát tháo ồn ào của quân lính và dân chúng, ngài đã quỳ đó thinh lặng, ngây ngất cầu nguyện và nghiêng mình lãnh nhận nhát gươm hồng phúc.
Gian nan chẳng sờn
Năm 1794, làng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, quê hương của thánh Tôma Dụ và Đaminh Đạt, đã được vinh dự chào đón ngày sinh của bé Đaminh Hà Trọng Mậu, vị tử đạo tương lai. Lớn lên cậu xin phép cha mẹ, ông bà Đaminh và Maria Mỹ, dâng mình cho Chúa và chung sống với những bạn đồng chí hướng. Như hạt giống tốt được ươm vào mảnh đất phì nhiêu, nơi đây cậu Mậu được học chữ nghĩa và tập tành các nhân đức. Càng thêm tuổi, cậu càng thêm khôn ngoan và đạo đức, càng được mọi người mến thương.
Tiếp đó, cậu nhận thấy Chúa muốn cho mình tiến xa hơn, nên cậu xin vào chủng viện và kiên trì học tập cho đến ngày thụ phong linh mục. Năm 1829, cùng với 10 linh mục khác trong giáo phận, cha Mậu xin vào dòng Đaminh để có thể kết hiệp mật thiết hơn với Chúa, và gắn bó với nhau trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Năm sau, cả 11 vị khấn dòng. Lớp tập của cha sau này tử đạo bảy vị, sáu vị kia đều thuộc danh sách các Đấng đáng kính chờ được phong lên bậc Chân Phước.(1)
Trải qua những ngày gian khổ dưới cuộc bách hại của vua Minh Mạng, rồi những ngày bình an hơn dưới thời vua Thiệu trị, cho đến mười năm đầy khó khăn, thời vua Tự Đức, cha luôn luôn tỏ ra là một người tận tụy với đoàn chiên, không quản ngại vất vả, không lùi bước trước khó khăn, đem hết tâm trí sức lực mưu ích cho các linh hồn. Cha đảm nhiệm nhiều giáo xứ, nhưng bất cứ nơi nào cần, cha sẵn sàng đến, coi thường mọi hiểm nguy.
Ngày 27.08.1858, quan quân đến vây làng Kẻ Diền và bắt được cha Mậu, những người phục vụ trong nhà xứ và một số giáo dân khác, giải về Hưng Yên. Hơn hai tháng bị giam trong ngục, dầu phải mang gông xiềng và chịu tra tấn nhiều lần, cha vẫn cương quyết tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. Ngược lại, cha biến nhà giam thành một nơi hoạt động mới. Tại đây, cha gặp gỡ và khích lệ các giáo hữu cùng bị giam chấp nhận mọi khổ đau vì niềm tin. Tại đây, cha giúp nhiều tội nhân hóan cải đời sống. Đặc biệt, một số phụ nữ đạo đức tìm cách đưa giáo hữu ở ngoài vào thăm để được xưng tội với cha.
Hiến lễ tình yêu
Mặc dù phải ra tòa nhiều lần, nhưng cha luôn luôn giữ trong mình chuỗi tràng hạt Mân Côi. Cha cố dành ra những giờ rảnh rỗi để cầu nguyện và suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đối với mọi người, cha luôn cư xử cách nhân ái, yêu thương săn sóc, nên ai cũng quý mến cha. Bà Anna Ngoan, một người vẫn thường xuyên vào thăm cha trong tù, khẳng định rằng: “Các lính canh cũng kính nể và khâm phục cha”.
Khi thấy không thể làm cho vị chiến sĩ đức tin bỏ đạo, quan tỉnh Nam Định làm án trảm quyết cho cha và 21 giáo hữu khác. Khi biết tin này, cha Mậu tỏ ra hân hoan, giứp đỡ các giáo hữu xưng tội và chuẩn bị đón nhận hồng phúc tử đạo.
Ngày 05.11.1858, trên đường ra pháp trường, mọi người đi dự đều có cảm tưởng cha đang nghiêm trang cử hành thánh lễ. Ngước mắt lên trời, đôi khi tay chắp lại, cha dẫn đầu đòan người tử đạo. Khi đến nơi xử, bên bờ sông Hưng Yên, cha quỳ gối xuống, tiếp tục cầu nguyện ít lâu, rồi đưa cổ cho lý hình chém. Thi thể cha được mai táng trọng thể tại nhà thờ xứ Mai Linh, tỉnh Nam Định.
Đức Thánh cha Piô XII suy tôn cha Đaminh Hà Trọng Mậu, linh mục dòng Thuyết Giáo lên bậc Chân Phước ngày 29.04.1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh HENARES MINH (XUÂN) (1765 - 26/6/1838)
Lời kinh và ước vọng
Lậy Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của lòng con. Xin Chúa vì cuộc tử nạn thánh, vì công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến bác của con, Đưc Giám mục Đaminh. Xin gìn giữ bác khỏ mọi sự dữ. Xin cho bác yêu Chúa thiết tha, trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bac được phúc đổ máu mình và hiến dâng mạng sống cho tình yêu Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen”(1).
Đó là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam đã soạn gửi về quê nhà cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đã dâng lời nguyện đó hằng ngày, dù em biết rất ít về người bác mình. Khi bà con lối xóm hởi em về ông bác giám mục, em chỉ biết thưa: “Bác tên Đaminh, tu dòng Đaminh, đang truyền giáo ở xa, thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu”. Và chúa đã nhận lời khẩn xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.
Theo tiếng gọi truyền giáo.
Đaminh Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận Cordoda, nước Tây Ban Nha. Một vài năm sau, gia đình dọn về Granada, nơi cậu đã lớn lên và theo học các lớp phổ thông, các phụ huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái mình. Còn bản thân cậu, càng ngày càng sôi sục trong lòng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống tu trì. Năm 16 tuổi, Henares xin nhập dòng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng mãi đến ngày 30.08.1783, cậu mới được lãnh tu phục dòng tại tu viện Guadix (18 tuổi), năm sau thì tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thày Henares đã tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thày xin phép chuyển qua tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề trên đều tiếc nhớ. Thày Đaminh đã nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn thiết của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài: Đã 15 năm giáo phận chưa thêm được một thừa sai nào cả.
Thế là thày Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường đến Phi Luật Tân dưới sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn liền với nhau cách khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, phái đoàn đã cập bến Manila ngày 09.07.1786. tại đây thày Henares vừa tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh trường Santo Tomas. Ngày 20.09.1789 thày thụ phong linh mục và được gửi đi truyền giáo tại Bắc Việt. Khi đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado đã khởi hành trước một năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa sai khác là Vidal và Gatillepa, cả bốn vị đã vào lãnh thổ giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 29.10.1790, trong niềm hân hoan của cả giáo phận, vì khi đó chỉ còn ba vị thừa sai, mà tất cả đều đã cao niên.
Riêng cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt rất nhanh chóng. Sau sáu tháng, cha đã được trao phó việc coi sóc chủng viện Tiên Chu. Trong nhiều năm, cha kiên trì dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và giúp họ rèn luyện các nhân đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh, cha được tỉnh dòng ủy nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha dòng Đaminh tại Việt Nam. Năm sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y lên kế vị, cha Minh được đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức cha Piô VII bổ nhiệm cha làm giám mục hiệu tòa Fez và Giám mục Phó có quyền kế vị của Đức cha Delgado Y. Nhưng tình hình Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc phong mới tới xứ truyền giáo.
Vị mục tử nhân hiền
Ngày 09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng Ngoài. Các thừa sai ngoại quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo dân từ các nơi tuốn về Phú Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh, khởi đầu một giai đoạn bình an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và Henares Minh, hai anh em “sinh đôi” như một số người quen gọi, cùng mang những thao thức như nhau, cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày. từ nay luôn tâm đầu ý hợp, cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị chia nhau đến thăm từng họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ cao, thường chọn cho mình những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng sâu nước độc mà trước đó ít năm, Đức cha Phê đã bỏ mạng vì bệnh sốt rét rừng.
Linh mục Hermosilla Vọng đã viết về Đức cha Minh như sau: “Ngài là một thủ lãnh thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không hề mỏi mệt vì ơn cứu độ các linh hồn và là đấng khao khát mãnh liệt phúc tử đạo. Ngài sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào trách nhiệm đòi hỏi, dù đang nửa đêm khuya vắng. Ngài có lòng đạo đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không ngừng, đồng thời siêng năng nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng thực sự, và như một người cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số nhất. Đó là những nhân đức chính mà ngài luôn nêu gương”.
Với lòng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với mình, nhưng lại rộng lượng với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của giáo phận, ngài vẫn tự may vá lấy y phục của mình, và cố gắng sửa lại những quần áo cũ để phân phát cho người nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là ân nhân của nhiều người bệnh tật. Đi dâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng thuốc phát cho bệnh nhân nan y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu nguyện và chúc lành hơn là nhờ thuốc.
Nếu giờ chưa đến.
Chính tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đã cứu ngài thoát chết. Khi ngài đang ở họ Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ thì bị một nhóm cướp bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng. Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc vấp ngã, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc xô lại trang giành, Đức cha liền nhanh chân láu mình trong một bụi cây rậm rạp gần đó. Đám cướp sục sạo một lát thì trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng báo động đi tìm Đức cha, họ ùa nhau bỏ chạy.
Theo ý Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một buổi trao đổi công khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận lời và đưa ra đề tài: “Không ai được bắt ép người Công Giáo làm việc dị đoan”. Nhưng vì tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc trao đổi phải bãi bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đã nhận định rằng: “Bao lâu còn thiếu ánh sáng bởi trời thì lý luận mấy cũng vô ích”.
Khi vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều cuộc khởi nghĩa: Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân. Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá Vành. Nói chung dân Bắc Hà vẫn còn hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn. Chính Gia Long phải mượn cớ phò Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm Phan Bá Vành ngày càng lớn, năm 1862, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp. Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được ba tháng, mới bị bắt, cuộc chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu, thế nhưng vì trong số tù nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết Đức cha Minh và 10 cha dòng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào “sổ đen” của nhà vua.
Ngày 13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800 quân và voi trận đến vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đã kịp biết tránh đi nơi khác. Dù rất mong mỏi được đổ máu làm chứng cho tình yêu Chúa, Đức cha thường tâm sự rằng tử đạo là ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài thánh ý Chúa. Tiếp theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn, nhưng nói chung giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được bình an. Cho đến tháng 04.1838, vì phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn linh mục, nhà vua biết có sự hiện diện của các ngài. Vua đã khiển trách Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nặng lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết lùng bắt hết các giáo sĩ. Đức cha Minh và thày Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại Kiên Lao, gần chỗ Đức cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y bị bắt, Đức cha Minh đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi quân lính đi ngang, bà Tư lấy nong che mặt cho ngài.
Bản án phải được sửa lại.
Tối hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung Thành, rồi làng Quần Anh và Xương Điền. Khi thấy quân triều đình lảng vảng theo dõi, Đức cha và thày Chiểu xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại giáo nói với các tín hữu: “Coi chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa sai chạy trốn cuộc bách hại mà chưa biết về đâu. Các bác tìm cách đưa ngài vào đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và che dấu giùm cho”. Quá tin vào ông ta, các tín hữu ra mời ngài trở lại, ai ngờ ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thày Chiểu tại nhà mình.
Quan phủ Xuân Trường đối đãi với Đức cha khá tử tế, nhưng vì sợ nhà vua, ông đành phải đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838. tại đinh Tổng đốc, có hai chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần nhau, hai vị nói truyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rõ các vị nói những gì, nhưng chắc chắn quả là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những tâm sự thầm kín. Gần nửa thế kỷ sát cánh bên nhau trên đường về Thiên Quốc. Mọi người thấy rõ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.
Khi quan tòa đòi Đức cha Minh phải ký vào bản án đã viết sẵn, ngài yêu cầu cho nghe trước rồi mới ký. Vừa nghe đọc hai chữ “Tả Đạo”, Đức cha cắt ngang: “Xin quan sửa lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời”. Quan đồng ý và sửa lại. Khi đọc đến chữ “.lừa đảo ngu dân”, Đức cha lại lên tiếng: “Không đúng, chúng tôi không lừa đảo ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính”. Đức cha không chịu ký vào cho đến khi quan ông ý sửa bản văn lại. Ngày 12.06, bản án được gửi về kinh đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày 25.06, Đức cha còn được một ngày để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
Chứng tá cuối cùng.
Một số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đã bỏ tiền ra xin được vinh dự khiêng cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều binh sĩ đã trót nhát sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức cha cầu nguyện và tha thứ. Đức cha đã nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền tội. Trên đường đến Bảy Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng thầm thĩ nguyện kinh và giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương hai bên đường. Thày Chiểu mang gông đi phíaa sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không chịu bước qua Thánh Giá, trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy, Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt, nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều được đưa trở về ngục.
Tại pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên trung anh dũng của người môn đệ quý yêu: thày Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm thày trước. Viên quan đồng ý. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thày cho vị Giám Mục. Ngài trân trọng đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm máu lên Thiên Chúa. Đến lượt mình, Đức cha nghiêng đầu cho lý hình thi hành quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa đã gọi Đức cha Henares Minh về trời lãnh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73 năm trên dương thế với 43 năm phục vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.
Thi hài Đức cha được lý hình an táng ngay tại pháp trường, nửa tháng sau các tín hữu cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn vớt được, các tín hữu đưa về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại, họ long trọng đưa hài cốt Đức cha về tòa Giám mục Bùi Chu.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN VĂN HUYÊN (1817 - 5/6/1862)
Lễ toàn thiêu
Trong hạnh tích 117 vị thánh tử đạo trên đất Việt, chỉ có sáu bản án thiêu sinh, và tất cả đều diễn ra vào tháng 06.1962. Thánh Đaminh Toại và Đaminh Huyên là hai vị đầu tiên được vinh dự trở thành của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa vào đứng ngày vua Tự Đức ký hòa ước nhâm tuất cho phép tự do tôn giáo (06-06-1862). Ba ngày trước khi bản án được thi hành, hai vị đã biết tin mà không chút nhụt chí. Thay vì sợ hãi, hai vị đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. có lẽ như thánh Polycarpo thuở xưa, hai vị đã tin tưởng rằng:
“Đấng đã giúp tôi quyết định chịu đau khổ vì Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Đấng ấy sẽ làm cho lửa dịu lại và cho tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách”.
Không để mất cơ hội
Hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên đều là người làng Đông Thành, tỉnh Thái Bình, đồng thời là tín hữu của làng Đông Thành (Đông Thành, Đại Đồng và Trung Đồng là ba xứ được tách ra từ xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài). Cả hai đã lập gia đình và là những gia trưởng đạo đức, gương mẫu. Hai ông làm nghề đánh cá trên sông Nhị Bình, gần cửa Ba Lạt. Khi bị lính bắt, ông Toại đã trên 50 tuổi, còn ông Huyên 45 tuổi.
Hai ông Toại và Huyên cùng với 16.000 giáo hữu giáo phận Trung là nạn nhân trực tiếp của chiếu chỉ Phân sáp tháng 08.1861 của vua Tự Đức. Theo chiếu chỉ này, quân lính và những dân làng ngoại giáo được phép tràn vào các khu vực Công Giáo để tịch thu tài sản, sau đó bắt trói các giáo hữu đưa lên huyện để khắc trên mà hai chữ “Tả Đạo”, rồi hoặc trao họ cho người ngoại giáo quản lý, hoặc giam chung họ trong ngục.
Làng Đông Thành cũng cùng chung số phận đó. Lính bắt ông Đaminh Huyên và giải lên huyện Quỳnh Côi. Ông Toại vì bị bệnh tật không thể đi bộ theo quân lính được, nên họ đề nghị ông nộp tiền chuộc nếu muốn tự do về xum họp với gia đình. Nhưng ông đã từ chối vì không muốn để mất cơ hội quí báu là hiến dâng mạng sốâng mình minh chứng cho niềm tin và tình yêuvào Thiên Chúa. Ông xin quan cho phép đi xe đến huyện trình diện, để được chung số phận với các giáo hữu cùng xứ đạo.
Kiên Tâm bền trí vì Đức Kitô
Tại huyện Quỳnh Côi, sau khi khẳng định lập trường đức tin của mình, hai ông Toại, Huyên bị tống giam vào ngục tù Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy rõ lòng quả cảm và kiên cường của hai ông. Nào đói, nào khát, nào đòn vọt và ngay cả án tử hình cũng không làm các ông nản lòng. Ngược lại, hai ông tiếp tục khích lệ các bạn kiên trì giữ vững niềm tin. Ông Toại thường nói với các bạn tù: “Nào anh em, hãy can đảm lên ! Chúng ta chịu khổ hình vì Đức Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng, và nếu cần, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúa”.
Nhiều lần bị dẫn đến trước công đường và bị ép buộc chà đạp Thánh giá, hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên khẳng khái phản đối. Các quan thấy khó lòng lay chuyển được hai nhân chứng của Chúa, nên kết án thiêu sinh cả hai vị. Khi biết tin này, hai vị hân hoan tạ ơn Chúa.a rất đông người, hai ông bước vào cũi tre chờ đợi. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng cầu nguyện thật lớn trong khi ngọn lửa phừng phực bốc cao. Không ai ghi lại những lời hai vị đã cầu nguyện khi bị hỏa thiêu, nhưng dựa vào thái độ và tâm tình của các vị, chúng ta có thể liên tưởng đến lời cầu nguyện của thánh Polycarpo trên giàn lửa thủa xưa: “Lạy Chúa các thiên binh, Chúa Tể trời đất, Đấng bênh vực kẻ công chính và những ai bước đi trong sự hiện diện của người. Con là một kẻ bé mọn trong các tôi tớ Chúa đây, xin tạ ơn người đã cho vinh dự được đau khổ, được cầm trong tay triều thiên tử đạo và được kề môi đón nhận chén thương khó. Này đây lạy chúa, hiến tế con sắp hoàn tất trong ngày hôm nay, con sẽ được thấy lời hứa của Người thể hiện. Amen”.
Ngày 29-04-1951, Đức Piô XII đã suy tôn hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên lên hàng Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN ĐỨC MẠO (1818 - 16/6/1862)
Niềm tin được chứng giám
Cuộc đời năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi và Đaminh Nguyên tưởng như đã được trình bày cụ thể trong thư gửi giáo đoàn Do Thái:
“Có những người vì đức tin bị căng nọc, bị đánh đòn, họ đã từ khước giải thoát ngõ hầu được hưởng sự sống hoàn hảo hơn. Có những người chịu thử thách, chịu sự sỉ nhục, chịu đòn vọt, họ còn bị xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, bị cưa sẻ, bị thiêu đốt, bị hiến đạp, bị hành hạ. Hết thảy những người đó đã được thiên Chúa chứng giám nhờ đức tin” (Dt 11, 35-37, 39).
Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chiếu chỉ Phân Sáp, năm giáo hữu đồng hương này đã đồng lao cộng khổ, để cuối cùng đồng vinh quang trên nước trời. Thiên Chúa đã chứng giám cho niềm tin của họ.
Số phận gắn bó với nhau.
Dưới thời vua Tự Đức, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo nằm trong chín làng xã. Do đó làng Ngọc Cục bao gồn hai họ đạo Ngọc Cục (Bổn mạng lễ Truyền Tin) và họ Phú Yêu (Bổn mạng thánh Vinh Sơn).
Ba ông Anrê Tường, Vinh Sơn Tương và Đaminh Nguyễn Đức Mạo. Thuộc họ Phú Yêu. Anrê Tường sinh năm 1812 và Vinh Sơn Tương sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Thân phụ là ông Đaminh Tiên làm Trùm họ và thân mẫu là bà Maria Gương. Ông Tương tuy thua anh hai tuổi, nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn Đaminh Nguyễn Đức Mạo sinh năm 1818, con ông Đaminh Giỏi làm Xã trưởng và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt ông được 44 tuổi và làm Hương quản lo an ninh trâït tự trong làng.
Hai ông Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Đaminh Nguyên sinh năm 1800, con ông Đaminh Duệ làm Xã trưởng. Khi bị bắt ông đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy, con trai ông Đaminh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Còn Đaminh Nhi, người trẻ nhất trong nhóm, sinh năm 1822, con ông Đaminh Vương và bà Catarina Vân.
Năm ông đều đã lập gia đình, đều là những tín hữu nông gia khá giả và tốt bụng, nên được dân làng rất kính nể và tôn trọng. Riêng Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc nên có nhiều cơ hội thực thi đức bác ái và ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có thân thiết với nhau không, nhưng với một số điểm tương đồng trên, các ông đã là những đối tượng đầu tiên được lưu ý khi chiếu chỉ Phân sáp được áp dụng tại làng Ngọc Cục.
Chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 05.05.1861 gồm năm nội dung chính: Phân tán các làng Công Giáo; sáp nhập họ vào ca làng ngoại giáo, tịch thu tài sản ruộng nương; thích tự hai bên má những người theo đạo; rồi giao cho lương dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, năm ông đã bị bắt ngày 14.09.1861. Quan phủ Xuân Trường ra lệnh ép các ông phải chà đạp Thánh Giá. Nhưng các môn đệ Chúa Kitô đã khẳng khái biểu lộ niềm tin của mình, cương quyêt khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Thế là quan giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Tù đày và lời chứng.
Tiếp theo là bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay bị xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần giã man, nhưbng năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo Chúa. Cũng theo chiếu chỉ Phân sáp này, quân lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các ông. Đau vì nhức nhối khủng khiếp và vết pỏhng trên mặt lâu ngày mới khỏi, nhục vì phải trình bày cho mọi người thày dấu hiệu chế diễu khinh mạn niềm tin đạo giáo. Nhưng tất cả các ông nhẫn lại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thàng với đức tin chân chính.
Để kín múc ơn trợ lực của Thiên Chúa, hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng tuyệt đối của mình vào bàn tay quan phòng, và phó dâng đời mình cho thánh ý ngài. Có thể nói, chính nhờ những lời nguyện sốt sắng phát xuất từ đáy con tim đó, các ông đã tìm được nghị lực và can đảm lướt thắng mọi gian nan thử thách. Ngoài ra, các ông còn gíup nhau sám hối những lỗi lầm, và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày để đón chờ hồng phúc tử đạo.
Trong bức thư đề ngày 02.08.1862, linh mục Estévez Nam đã trình bày cơn sốt bắt đạo tại Nam Định như sau:
“Trong tỉnh Nam Định, người Công Giáo bị đuổi khỏi nhà, quân lính chói từng năm người một, họ chỉ được đem theo mấy nắm gạo đủ ănchừng hai ngày. Có 300 giáo hữu đang bị giam, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh cấm tiếp tế lương thực và chỉ mấy ngày sau, 240 người gục chết, những người còn lại hấp hối chờ chết. Ngày 18.05.1862, ông ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43 người, ngày 26 chém 67 người. Ngày 30.05 ông tuyên trói 112 người buông thả sông, rồi hôm sau đến lượt 112 người khác.
“Việc làm của Tổng đốc được các quan phủ huyện noi theo. Người công giáo phải chết hàng trăm, kẻ bị chém, người chịu thiêu sinh trong ngục, hoặc có ai tháo chạy ra ngoài được, cũng bị lý hình cầm gươm dí họ vào lửa cho đến chết. Có lần 150 người bị xử một lúc, lý hình vì không thành thạo, chém đi chém lại chỉ giết được 20 người, số còn lại lính đẩy xuống sông. Nhưng sông lại nho, một số người sống sót lội vào bờ, quân lính tóm bắt, rồi cứ hai người một, buộc vào nhau ném xuống giếng sâu chết cả”.(1).
Riêng với năm chiến sĩ đức tin Anrê Tường, Ving Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi, quan vẫn còn nhân nhượng. Ngày 15.06.1862, một lần nữa, quan yêu cầu các ông chà đạp Thánh Giá, các ông lại từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm ông đem ra phơi nắng suốt cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói khát và mệt lả, ông Đaminh Mạo đại diện cho anh em khẳng khái trả lời: “Sao quan lại dụ dỗ chúng tôi như vậy ? Chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đáu đớn, nên quan khuyên dụ chúng tôi xúc phạm Thiên Chúa ư ? Nếu chà đạp Thánh Giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập thì chúng tôi đã làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo đâu”.
Đón phúc vinh quang.
Tức giận trước những lời trên, quan truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị tôi tớ kiên trung của Chúa. Quân lính điệu các ông ra pháp trường Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các chứng nhân đức tin vui mừng phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin ngài ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thật các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoài ông Đaminh Nhi, cả bốn vị kia đều yêu cầu lý hình, thay vì chém đầu một nhát thì xin họ chém ba nhát để các ông tỏ lòng kính Chúa Ba Ngôi.
Hôm đó là ngày 16.06.1862. Thi thể năm vị anh hùng tuân giáo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay nơi tử đạo, năm sau thì cải táng về nhà thờ họ quê làng.
Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng suy tôn năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Nguyễn Đức Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN HUY NGUYÊN (1800 - 16/6/1862)
Niềm tin được chứng giám
Cuộc đời năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi và Đaminh Nguyên tưởng như đã được trình bày cụ thể trong thư gửi giáo đoàn Do Thái:
“Có những người vì đức tin bị căng nọc, bị đánh đòn, họ đã từ khước giải thoát ngõ hầu được hưởng sự sống hoàn hảo hơn. Có những người chịu thử thách, chịu sự sỉ nhục, chịu đòn vọt, họ còn bị xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, bị cưa sẻ, bị thiêu đốt, bị hiến đạp, bị hành hạ. Hết thảy những người đó đã được thiên Chúa chứng giám nhờ đức tin” (Dt 11, 35-37, 39).
Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chiếu chỉ Phân Sáp, năm giáo hữu đồng hương này đã đồng lao cộng khổ, để cuối cùng đồng vinh quang trên nước trời. Thiên Chúa đã chứng giám cho niềm tin của họ.
Số phận gắn bó với nhau.
Dưới thời vua Tự Đức, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo nằm trong chín làng xã. Do đó làng Ngọc Cục bao gồn hai họ đạo Ngọc Cục (Bổn mạng lễ Truyền Tin) và họ Phú Yêu (Bổn mạng thánh Vinh Sơn).
Ba ông Anrê Tường, Vinh Sơn Tương và Đaminh Nguyễn Đức Mạo. Thuộc họ Phú Yêu. Anrê Tường sinh năm 1812 và Vinh Sơn Tương sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Thân phụ là ông Đaminh Tiên làm Trùm họ và thân mẫu là bà Maria Gương. Ông Tương tuy thua anh hai tuổi, nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn Đaminh Nguyễn Đức Mạo sinh năm 1818, con ông Đaminh Giỏi làm Xã trưởng và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt ông được 44 tuổi và làm Hương quản lo an ninh trâït tự trong làng.
Hai ông Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Đaminh Nguyên sinh năm 1800, con ông Đaminh Duệ làm Xã trưởng. Khi bị bắt ông đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy, con trai ông Đaminh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Còn Đaminh Nhi, người trẻ nhất trong nhóm, sinh năm 1822, con ông Đaminh Vương và bà Catarina Vân.
Năm ông đều đã lập gia đình, đều là những tín hữu nông gia khá giả và tốt bụng, nên được dân làng rất kính nể và tôn trọng. Riêng Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc nên có nhiều cơ hội thực thi đức bác ái và ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có thân thiết với nhau không, nhưng với một số điểm tương đồng trên, các ông đã là những đối tượng đầu tiên được lưu ý khi chiếu chỉ Phân sáp được áp dụng tại làng Ngọc Cục.
Chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 05.05.1861 gồm năm nội dung chính: Phân tán các làng Công Giáo; sáp nhập họ vào ca làng ngoại giáo, tịch thu tài sản ruộng nương; thích tự hai bên má những người theo đạo; rồi giao cho lương dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, năm ông đã bị bắt ngày 14.09.1861. Quan phủ Xuân Trường ra lệnh ép các ông phải chà đạp Thánh Giá. Nhưng các môn đệ Chúa Kitô đã khẳng khái biểu lộ niềm tin của mình, cương quyêt khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Thế là quan giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Tù đày và lời chứng.
Tiếp theo là bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay bị xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần giã man, nhưbng năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo Chúa. Cũng theo chiếu chỉ Phân sáp này, quân lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các ông. Đau vì nhức nhối khủng khiếp và vết pỏhng trên mặt lâu ngày mới khỏi, nhục vì phải trình bày cho mọi người thày dấu hiệu chế diễu khinh mạn niềm tin đạo giáo. Nhưng tất cả các ông nhẫn lại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thàng với đức tin chân chính.
Để kín múc ơn trợ lực của Thiên Chúa, hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng tuyệt đối của mình vào bàn tay quan phòng, và phó dâng đời mình cho thánh ý ngài. Có thể nói, chính nhờ những lời nguyện sốt sắng phát xuất từ đáy con tim đó, các ông đã tìm được nghị lực và can đảm lướt thắng mọi gian nan thử thách. Ngoài ra, các ông còn gíup nhau sám hối những lỗi lầm, và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày để đón chờ hồng phúc tử đạo.
Trong bức thư đề ngày 02.08.1862, linh mục Estévez Nam đã trình bày cơn sốt bắt đạo tại Nam Định như sau:
“Trong tỉnh Nam Định, người Công Giáo bị đuổi khỏi nhà, quân lính chói từng năm người một, họ chỉ được đem theo mấy nắm gạo đủ ănchừng hai ngày. Có 300 giáo hữu đang bị giam, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh cấm tiếp tế lương thực và chỉ mấy ngày sau, 240 người gục chết, những người còn lại hấp hối chờ chết. Ngày 18.05.1862, ông ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43 người, ngày 26 chém 67 người. Ngày 30.05 ông tuyên trói 112 người buông thả sông, rồi hôm sau đến lượt 112 người khác.
“Việc làm của Tổng đốc được các quan phủ huyện noi theo. Người công giáo phải chết hàng trăm, kẻ bị chém, người chịu thiêu sinh trong ngục, hoặc có ai tháo chạy ra ngoài được, cũng bị lý hình cầm gươm dí họ vào lửa cho đến chết. Có lần 150 người bị xử một lúc, lý hình vì không thành thạo, chém đi chém lại chỉ giết được 20 người, số còn lại lính đẩy xuống sông. Nhưng sông lại nho, một số người sống sót lội vào bờ, quân lính tóm bắt, rồi cứ hai người một, buộc vào nhau ném xuống giếng sâu chết cả”.(1).
Riêng với năm chiến sĩ đức tin Anrê Tường, Ving Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi, quan vẫn còn nhân nhượng. Ngày 15.06.1862, một lần nữa, quan yêu cầu các ông chà đạp Thánh Giá, các ông lại từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm ông đem ra phơi nắng suốt cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói khát và mệt lả, ông Đaminh Mạo đại diện cho anh em khẳng khái trả lời: “Sao quan lại dụ dỗ chúng tôi như vậy ? Chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đau đớn, nên quan khuyên dụ chúng tôi xúc phạm Thiên Chúa ư ? Nếu chà đạp Thánh Giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập thì chúng tôi đã làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo đâu”.
Đón phúc vinh quang.
Tức giận trước những lời trên, quan truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị tôi tớ kiên trung của Chúa. Quân lính điệu các ông ra pháp trường Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các chứng nhân đức tin vui mừng phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin ngài ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thật các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoài ông Đaminh Nhi, cả bốn vị kia đều yêu cầu lý hình, thay vì chém đầu một nhát thì xin họ chém ba nhát để các ông tỏ lòng kính Chúa Ba Ngôi.
Hôm đó là ngày 16.06.1862. Thi thể năm vị anh hùng tuân giáo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay nơi tử đạo, năm sau thì cải táng về nhà thờ họ quê làng.
Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng suy tôn năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Nguyễn Đức Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN VĂN HẠNH (1772 - 1/8/1838)
Laurensô Việt Nam.
Chuyện tử đạo thánh Đaminh Hạnh làm chúng ta liên tưởng đến thánh Laurensô phó tế thủa xưa. Bản thân ngài trốn tránh khi xảy ra cuộc bách hại, nhưng khi đã nắm chắc án tử thì can trường trước mọi cực hình. Sau một trận đòn chí tử, vị chứng nhân quay lại hỏi viên quan: “Các ông đánh đủ chưa?”. Rồi chắp tay sau lưng nói tiếp: “Làm đến ông lớn mà còn bất công, bắt một mông chịu cả, còn mông kia chẳng chịu gì hết”. Câu nói đó làm chúng ta chợt nhớ đến thánh Laurensô khi bị nướng trên giường sắt, đã nói với lý hình: “Bên này chín rồi, trở qua bên kia đi thôi”. Câu nói đó có vẻ thách thức, diễu cợt, nhưng nói lên lòng can đảm dám chấp nhận mọi thử thách của một con người đã sẵn sàng hiến chính mạng sống cho Đấng mình yêu.
Đaminh Nguyễn Văn Hạnh sinh năm 1772 tại làng Năng A, tỉnh Nghệ An, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Ngay từ bé cậu đã có nguyện ước làm linh mục, được Đức cha Delgado Y hỗ trợ, và gởi cậu đến học với cha Liêm. Sau khi thụ phong linh mục, cha Hạnh xin gia nhập dòng thánh Đaminh, và khấn ngày 22.08.1826 trong tay bề trên Amandi Chiêu khi đã 54 tuổi. từ ngày đó, cha càng tích cực rao giảng danh Chúa và phục vụ các linh hồn. Lúc vua Minh Mạng bách hại những người công giáo, cha phải làm việc mục vụ cách lén lút, nhưng không bao giờ chịu bó tay.
Năm 1838, cha đến phục vụ ở Quần Anh Hạ. Tới khi tình hình ở đó căng thẳng, cha di chuyển qua làng Trung Thành. Hai người làng Quần Anh hứa đưa cha đến nơi trú ẩn cách an toàn, cha thật thà tin lời đi theo. Ngày 07.07, trên đường đi, chính hai người này bắt cha nộp cho quan. Cha bị giải về thị trấn Nam Định và tống giam chung với cha Bernadô Vũ Văn Duệ, một linh mục triều cùng giáo phận đã bị bắt trước cha bốn ngày.
Ai dại ai khôn
Khi tới cửa thành, cha Hạnh thấy một cây Thập Giá đặt dưới đất ngay lối đi, cha liền đứng lại yêu cầu quan cho lính cất đi. Thấy thái độ dứt khóat của cha, quan cho cất Thánh Giá, bấy giờ người chiến sĩ đức tin mới chịu vào thành, bình tĩnh vui vẻ ra mắt quan tòa. Sau khi hỏi về tuổi, quê quán quan hỏi: “Vậy ông dậy dân chúng những gì?. Cha đáp: “Tôi chỉ người ta làm điều lành, tránh điều dữ thôi”. Quan lại hỏi:
- Tại sao không bước qua Thập Tự?
- Thưa quan, Thập Tự đối với chúng tôi là hình Thánh Giá, tượng trưng cho ơn cứu chuộc, nên không được ai chà đạp, vì đó là một trọng tội.
- Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo rồi được tha về, ông cứ làm như thế ta sẽ tha cho.
Nhưng cha Đaminh Hạnh cương quyết không chịu đạp lên Thánh Giá. Cha bình tĩnh giải thích cho quan các lẽ đạo rồi kết luận: “Kẻ trung thành với Chúa Giêsu, khi chết sẽ được lên Thiên Đàng”. Quan hỏi: “Thế nhưng người không tôn thờ ông Giêsu, chết sẽ đi đâu ?”. Cha đáp: “Xuống hỏa ngục”. Câu trả lời đã làm cho quan giận quá, tiện tay cầm quạt đập ngay vào đầu cha một cái, chửi mắng thậm tệ và cho lính đánh cha 15 roi. Đánh xong, quan bắt cha mang gông xiềng tống ngục.
Cha Hạnh còn phải ra tòa nhiều lần nữa. Một lần quan đưa ra mẫu ảnh Đức Bà, yêu cầu cha đạp lên thay cho Thánh Giá, nhưng cha kính cẩn cầm lấy mà hôn. Việc tôn kính Đức Mẹ ấy được quan “ban thưởng” 100 roi đòn, nhưng cha vui vẻ chấp nhận. Lần khác cha ra tòa với linh mục Duyệt, một người trước đây có nhiều tiếng xấu. Linh mục này bị bắt và đã bỏ đạo. Khi quan bảo bước qua Thập Giá, linh mục Duyệt vâng ngay, bước qua lại mấy lần. Cha Hạnh thấy thế nổi nóng chỉ thẳng mặt nói: “Bớ ông kia ! Hãy xem đầu mình đã bạc, còn sống được bao năm nữa mà cả lòng bỏ Chúa mình vì năm ba ngày tháng chóng qua ru ? Ông làm ô danh đấng bậc mình để được lòng vua dữ ? Ông thêm cực lòng cho Giáo Hội đã nuôi nấng dạy dỗ bấy lâu, đi làm bạn với ma quỷ, chực làm hại đời mình”.
Nhưng kẻ phản bội quay qua cười chế nhạo và nói: “Tôi làm khôn, chỉ có ông là dại dột”. Quan và lính nghe nói vỗ tay reo hò cách đắc thắng. Người chiến sĩ quay ra cãi lý với các quan. Nói một hồi mất bình tĩnh, cha xưng hô “mày tao” nên bị phạt 30 roi đòn. Khi quan ra lệnh ngưng đánh, cha Hạnh ung dung nói: “Các ông đánh đủ chưa?”. Rồi chắp tay sau lưng nói tiếp: “Làm đến ông lớn mà còn bất công, bắt một mông chịu cả, còn mông kia chẳng chịu gì hết”.
Đạo thấm vào tâm can
Sau khi thấy không làm cha Hạnh và cha Duệ bỏ đạo được, quan liền làm án gởi vào kinh đô xin vua Minh Mạng châu phê. Án ấy như sau:
“Chúng tôi đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn Hạnh. Chúng đã bị bọn Tây lừa, mà theo Gia Tô đã lâu. Chẳng những chúng tin, mà lại giảng đạo ấy cho nhiều người khác tin theo nữa. Xem ra đạo ấy đã thấu vào tâm can bọn chúng đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng tôi luận chúng cho chúng án trảm quyết, để ai nấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thế ấy”.
Nghe tin bản án đã được ký, cha Hạnh tỏ ra vui mừng và vững mạnh hơn trước: Cha tranh thủ những giờ giấc có thể để tùy ủy lạo các bạn tù và giải thích về đạo cho các lính gác. Ngày 24.07, cha Fernandez Hiền bị đem đi chém, cha Hạnh được đem đến dinh quan án thì mừng rỡ, tưởng sẽ được tử đạo như cha chính giáo phận, nhưng quan chỉ muốn tách riêng cha qua nhà tù khác.
Tuần lễ cuối cùng ở trong nhà tù của cha Hạnh không còn ghi dấu bằng những trận đòn đánh nữa. Quan cho người này đến người khác vào thăm và xúi cha bỏ đạo. Một lần có người nói: “Ông không thoát chết được đâu”. Cha đáp: “Phải, sự chết thì đã hẳn rồi. Trước tôi cứ ngỡ là được chết với cha chính Hiền, mà tôi chẳng được sự ấy thì lấy làm buồn lắm”. Lần khác, người của quan nói rằng nếu cha bỏ đạo, quan hứa sẽ nuôi dưỡng và đề nghị cho cha làm quan. Cha đáp: “Dù tôi được làm quan ngay hôm nay mặc lòng, tôi cũng không xuất giáo đâu. Tôi chỉ mong được làm con Đức Chúa Trời thôi”.
Chúng tôi về thiên đàng đây
Ngày 01.08.1838, hai cha Bernadô Duệ và Đaminh Hạnh được dẫn đi xử. Từ sáng sớm, khi biết tin đó, cha Hạnh liền chỗi dậy đọc kinh, rồi chào giã biệt và cám ơn các bạn tù đã giúp mình cách này cách khác. Quan cho dẫn hai cha lên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý không. Cha Hạnh trả lời: “Được chết vì đạo là điều tôi mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần thì tôi vui mừng lắm”. Cha Duệ già 83 tuổi thì được lính võng đi trước. Cha Hạnh 66 tuổi mang gông xiềng nặng nề theo sau, tới khi kiệt sức mới được lính cho lên cáng. Thế nhưng cha vẫn vui vẻ nói với các tín hữu đi theo rằng: “Anh chị em ở lại bình an, hai chúng tôi về Thiên Đàng hưởng phúc vô cùng”
Đến pháp trường Bảy Mẫu, cha Hạnh nói với cha già Duệ: “Đến nơi rồi, chúng ta hãy cầu nguyện cho sốt sắng hơn”. Cả hai vị quỳ xuống cầm trí cầu nguyện một lát. Sau đó lính tháo gông xiềng và chói hai vị vào cột. Theo lệnh quan, hai lý hình thi hành phận sự, họ chém và tung đầu lên cho mọi người thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu hai vị tử đạo. Thi hài các ngài được chôn ngay tại pháp trường, sau các tín hữu xin phép được đưa về an táng tại nhà thờ Lục Thủy.
Hai linh mục đã cùng nhau uống cạn chén đắng khổ nạn, cũng được cùng nhau chung hưởng phúc vinh quang.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Đaminh Nguyễn Văn Hạnh và Bernadô Vũ Văn Duệ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN VĂN XUYÊN (1786 - 26/11/1839)
Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe đọa dẫu nhiều,
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi.
Ai mà thắng được trên đời,
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.
Đó là những vần thơ lục bát do thánh Đaminh Xuyên sáng tác trong ngục tù, vừa diễn tả tâm tình của mình vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của các vị tử đạo, lòng tràn đầy niềm tin yêu vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.
Tấm lòng người tu sĩ áo trắng
Đaminh Nguyễn Văn Xuyên còn có tên là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hưng Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy con có trí thông minh, cha mẹ cho cậu đi học chữ Nho, rồi gửi gấm cậu cho Đức cha Delgado Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học giỏi giáo lý. Lớn lên, ngài cho anh vào chủng viện, và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20.4 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trong dòng thánh Đaminh. Từ đó, cha rất nhiệt thành phục vụ các giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng tĩnh tâm, dạy giáo lý và sốt sắng cử hành phụng vụ bí tích.
Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn thánh Vinh sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này dân chúng bị hạn hán mất mùa nhiều năm, và bị giặc Phan Bá Vành quấy phá nên đói nghèo khổ sở. Có lần cha phải dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình. Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.
Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm phụ tá cha Fernandez Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm sau cha về làm quản lý giáo phận Đông Đàng Ngài, giúp Đức cha Delgado Y. khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ các tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18.8, cha đến cử hành lễ mừng thánh Gioakim, bổn mạng họ Phú Đường (họ lẻ xứ Hạ Linh) thì bị bắt. Một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết mặt cha đã đi báo quan kiếm tiền thưởng.
Bền trí trung kiên
Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh rồi cởi áo lễ đi trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ. Quan phủ cười hỏi: “Đưa đây một số bạc, ta tha cho về”. Cha trả lời: “Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu”. Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đem đến chuộc, nhưng quan phủ không dám thả nữa vì trên tỉnh đã biệt.
Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ: “Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên”. Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Định.
Biết cha là quản lý tòa Giám mục, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốn khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng đốc đứng ngay bên thúc giục: “Đánh nữa, mạnh lên cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo”. Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên cực trọng “Giêsu, Maria, xin cứu con !”, cho đến khi bất tỉnh phải khiêng về ngục.
Những lần sau ngài cố gắng cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan tổng đốc cho dùng những cực hình đã man hơn: lấy sắt nung đỏ dí vào cháy từng miếng thịt, cầm kìm nguội, kẹp hay cắt nhiều chỗ trên thân thể . Nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan: “Dù sống dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt”.
Nhiều lần quá đau đớn ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ vị quản lý giáo phận chết sớm, Tổng đốc sai lính đưa cha về ngục, cho mời lang y chữa trị để mong biết được những tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực sự giáo phận chẳng có gì để khai, mặt khác, chẳng bao giờ cha chịu khuất phục bỏ đạo.
Phần thưởng nước trời
Ngày 25.10, quan Tổng đốc lập bản án trảm quyết gởi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha được giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí đến cùng.
Ngày 26.11.1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám quân lính đông đảo võ trang voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình tĩnh vui vẻ, vừa đi vừa cầu nguyện cho tới pháp trường Bảy Mẫu. Dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ thán phục. Quan hỏi lại lần chót có muốn xuất giáo để được tha không. Hai vị trả lời: “Không”, rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.
Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ Chúa được lãnh triều thiên tử đạo tiến thẳng về Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ Chúa trong chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hài cốt ngài về Lục Thủy.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Đaminh Nuyễn Văn Xuyên, linh mục dòng Thuyết giáo lâ bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh NGUYỄN ĐỨC NHI (1822 - 16/6/1862)
Niềm tin được chứng giám
Cuộc đời năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi và Đaminh Nguyên tưởng như đã được trình bày cụ thể trong thư gửi giáo đoàn Do Thái:
“Có những người vì đức tin bị căng nọc, bị đánh đòn, họ đã từ khước giải thoát ngõ hầu được hưởng sự sống hoàn hảo hơn. Có những người chịu thử thách, chịu sự sỉ nhục, chịu đòn vọt, họ còn bị xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, bị cưa sẻ, bị thiêu đốt, bị hiến đạp, bị hành hạ. Hết thảy những người đó đã được thiên Chúa chứng giám nhờ đức tin” (Dt 11, 35-37, 39).
Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chiếu chỉ Phân Sáp, năm giáo hữu đồng hương này đã đồng lao cộng khổ, để cuối cùng đồng vinh quang trên nước trời. Thiên Chúa đã chứng giám cho niềm tin của họ.
Số phận gắn bó với nhau.
Dưới thời vua Tự Đức, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo nằm trong chín làng xã. Do đó làng Ngọc Cục bao gồn hai họ đạo Ngọc Cục (Bổn mạng lễ Truyền Tin) và họ Phú Yêu (Bổn mạng thánh Vinh Sơn).
Ba ông Anrê Tường, Vinh Sơn Tương và Đaminh Nguyễn Đức Mạo. Thuộc họ Phú Yêu. Anrê Tường sinh năm 1812 và Vinh Sơn Tương sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Thân phụ là ông Đaminh Tiên làm Trùm họ và thân mẫu là bà Maria Gương. Ông Tương tuy thua anh hai tuổi, nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn Đaminh Nguyễn Đức Mạo sinh năm 1818, con ông Đaminh Giỏi làm Xã trưởng và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt ông được 44 tuổi và làm Hương quản lo an ninh trâït tự trong làng.
Hai ông Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Đaminh Nguyên sinh năm 1800, con ông Đaminh Duệ làm Xã trưởng. Khi bị bắt ông đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy, con trai ông Đaminh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Còn Đaminh Nhi, người trẻ nhất trong nhóm, sinh năm 1822, con ông Đaminh Vương và bà Catarina Vân.
Năm ông đều đã lập gia đình, đều là những tín hữu nông gia khá giả và tốt bụng, nên được dân làng rất kính nể và tôn trọng. Riêng Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc nên có nhiều cơ hội thực thi đức bác ái và ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có thân thiết với nhau không, nhưng với một số điểm tương đồng trên, các ông đã là những đối tượng đầu tiên được lưu ý khi chiếu chỉ Phân sáp được áp dụng tại làng Ngọc Cục.
Chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 05.05.1861 gồm năm nội dung chính: Phân tán các làng Công Giáo; sáp nhập họ vào ca làng ngoại giáo, tịch thu tài sản ruộng nương; thích tự hai bên má những người theo đạo; rồi giao cho lương dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, năm ông đã bị bắt ngày 14.09.1861. Quan phủ Xuân Trường ra lệnh ép các ông phải chà đạp Thánh Giá. Nhưng các môn đệ Chúa Kitô đã khẳng khái biểu lộ niềm tin của mình, cương quyêt khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Thế là quan giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Tù đày và lời chứng.
Tiếp theo là bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay bị xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần giã man, nhưbng năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo Chúa. Cũng theo chiếu chỉ Phân sáp này, quân lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các ông. Đau vì nhức nhối khủng khiếp và vết pỏhng trên mặt lâu ngày mới khỏi, nhục vì phải trình bày cho mọi người thày dấu hiệu chế diễu khinh mạn niềm tin đạo giáo. Nhưng tất cả các ông nhẫn lại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thàng với đức tin chân chính.
Để kín múc ơn trợ lực của Thiên Chúa, hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng tuyệt đối của mình vào bàn tay quan phòng, và phó dâng đời mình cho thánh ý ngài. Có thể nói, chính nhờ những lời nguyện sốt sắng phát xuất từ đáy con tim đó, các ông đã tìm được nghị lực và can đảm lướt thắng mọi gian nan thử thách. Ngoài ra, các ông còn gíup nhau sám hối những lỗi lầm, và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày để đón chờ hồng phúc tử đạo.
Trong bức thư đề ngày 02.08.1862, linh mục Estévez Nam đã trình bày cơn sốt bắt đạo tại Nam Định như sau:
“Trong tỉnh Nam Định, người Công Giáo bị đuổi khỏi nhà, quân lính chói từng năm người một, họ chỉ được đem theo mấy nắm gạo đủ ănchừng hai ngày. Có 300 giáo hữu đang bị giam, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh cấm tiếp tế lương thực và chỉ mấy ngày sau, 240 người gục chết, những người còn lại hấp hối chờ chết. Ngày 18.05.1862, ông ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43 người, ngày 26 chém 67 người. Ngày 30.05 ông tuyên trói 112 người buông thả sông, rồi hôm sau đến lượt 112 người khác.
“Việc làm của Tổng đốc được các quan phủ huyện noi theo. Người công giáo phải chết hàng trăm, kẻ bị chém, người chịu thiêu sinh trong ngục, hoặc có ai tháo chạy ra ngoài được, cũng bị lý hình cầm gươm dí họ vào lửa cho đến chết. Có lần 150 người bị xử một lúc, lý hình vì không thành thạo, chém đi chém lại chỉ giết được 20 người, số còn lại lính đẩy xuống sông. Nhưng sông lại nho, một số người sống sót lội vào bờ, quân lính tóm bắt, rồi cứ hai người một, buộc vào nhau ném xuống giếng sâu chết cả”.(1).
Riêng với năm chiến sĩ đức tin Anrê Tường, Ving Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi, quan vẫn còn nhân nhượng. Ngày 15.06.1862, một lần nữa, quan yêu cầu các ông chà đạp Thánh Giá, các ông lại từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm ông đem ra phơi nắng suốt cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói khát và mệt lả, ông Đaminh Mạo đại diện cho anh em khẳng khái trả lời: “Sao quan lại dụ dỗ chúng tôi như vậy ? Chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đáu đớn, nên quan khuyên dụ chúng tôi xúc phạm Thiên Chúa ư ? Nếu chà đạp Thánh Giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập thì chúng tôi đã làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo đâu”.
Đón phúc vinh quang.
Tức giận trước những lời trên, quan truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị tôi tớ kiên trung của Chúa. Quân lính điệu các ông ra pháp trường Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các chứng nhân đức tin vui mừng phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin ngài ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thật các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoài ông Đaminh Nhi, cả bốn vị kia đều yêu cầu lý hình, thay vì chém đầu một nhát thì xin họ chém ba nhát để các ông tỏ lòng kính Chúa Ba Ngôi.
Hôm đó là ngày 16.06.1862. Thi thể năm vị anh hùng tuân giáo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay nơi tử đạo, năm sau thì cải táng về nhà thờ họ quê làng.
Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng suy tôn năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Nguyễn Đức Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh PHẠM TRỌNG KHẢM (1780- 13/1/1859)
sinh khoảng năm 1780 trong một gia đình bảy anh em giàu có tại làng Quần Cống tại làng Xã Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc phận Bùi Chu). Thân phụ ông là cụ Phạm Tri Khiêm, một hương chức danh giá được dân làng trọng vọng. Hấp thụ được nhiều tính tốt của cha cậu Khảm nổi tiếng là người con có hiếu. Năm 18 tuổi, anh vâng lời song thân kết hôn cùng cô Anrê phượng, một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống rất thuận hòa, được dân làng tin phục mến yêu. Đặc biệt hai người biết hiệp lực giáo dục và khích lệ con cái học hành. Con trai ông là Cai Thìn cũng làm đến chức Chánh Tổng, được mọi người kính nể và kiên trung làm chứng cho đức tin đến hơi thở cuối cùng với cha của mình. Ba người con gái của ông là bà Nhiêu Côn, Nhiêu Trữ và Hậu Địch cũng được đi học như các con trai, nổi tiếng lanh lợi tháo vác.
Khi bị bắt, vợ cụ Án Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng vừa là hội viên dòng ba, kiêm chức Trùm họ trong giáo xứ. Mọi người đều công nhận cụ là người đạo đức, giàu lòng bác ái và lòng nhiệt tình trong những trách vụ. Các thừa sai, cả các Giám Mục cũng biết tiếng và cũng đến trọ nhà cụ trong những ngày khó khăn. Với giáo xứ cụ cộng tác đắc lực với cha sở trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng cụ là một người đức độ, quan tâm đến nhu cầu mọi người cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho kẻ nghèo khó, và khích lệ mọi người can đảm trước những bách hại. Gia phả con cháu cụ đi lại rằng: “Gia nhân phải kiếm kẻ nghèo khó vào ngồi chung thì cụ mới ăn cơm.”
Vì sẵn của cải, cụ chia sẻ cho mọi người, có lần cụ kiếm cớ đãi cả làng. Cụ cho anh mõ đi rao khắp các hẻm mời mọi người ra ruộng tổ chức đua diều. Ai thắng ai thua không thành vấn đề, miễn là mọi người được một bữa no say.
Khi quân lính đến bao làng Quần Cống, cụ tập họp mọi người lại, khuyên họ bền chí. Để khích lệ những người nhát đảm, cụ nói: “Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh Giá khi quan về, tôi sẽ đuổi ra khỏi làng, sẽ không có chỗ mà chôn xác đâu”. Thế rồi cụ bị bắt, và trên đường áp giải những tín hữu “cố chấp” về Nam Định, cụ Án được tách riêng, nhốt ngay trong thuyền của quan để khỏi ảnh hưởng đến người khác. Nhưng suốt thời gian tù, cụ vẫn là chỗ dựa là nguồn an ủi, là người khích lệ và chia sẻ tinh thần cũng như vật chất cho các bạn tù.
================
Đaminh TRẦN VĂN TOẠI (1812 - 5/6/1862)
Lễ toàn thiêu
Trong hạnh tích 117 vị thánh tử đạo trên đất Việt, chỉ có sáu bản án thiêu sinh, và tất cả đều diễn ra vào tháng 06.1962. Thánh Đaminh Toại và Đaminh Huyên là hai vị đầu tiên được vinh dự trở thành của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa vào đứng ngày vua Tự Đức ký hòa ước nhâm tuất cho phép tự do tôn giáo (06-06-1862). Ba ngày trước khi bản án được thi hành, hai vị đã biết tin mà không chút nhụt chí. Thay vì sợ hãi, hai vị đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. có lẽ như thánh Polycarpo thuở xưa, hai vị đã tin tưởng rằng:
“Đấng đã giúp tôi quyết định chịu đau khổ vì Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Đấng ấy sẽ làm cho lửa dịu lại và cho tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách”.
Không để mất cơ hội
Hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên đều là người làng Đông Thành, tỉnh Thái Bình, đồng thời là tín hữu của làng Đông Thành (Đông Thành, Đại Đồng và Trung Đồng là ba xứ được tách ra từ xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài). Cả hai đã lập gia đình và là những gia trưởng đạo đức, gương mẫu. Hai ông làm nghề đánh cá trên sông Nhị Bình, gần cửa Ba Lạt. Khi bị lính bắt, ông Toại đã trên 50 tuổi, còn ông Huyên 45 tuổi.
Hai ông Toại và Huyên cùng với 16.000 giáo hữu giáo phận Trung là nạn nhân trực tiếp của chiếu chỉ Phân sáp tháng 08.1861 của vua Tự Đức. Theo chiếu chỉ này, quân lính và những dân làng ngoại giáo được phép tràn vào các khu vực Công Giáo để tịch thu tài sản, sau đó bắt trói các giáo hữu đưa lên huyện để khắc trên mà hai chữ “Tả Đạo”, rồi hoặc trao họ cho người ngoại giáo quản lý, hoặc giam chung họ trong ngục.
Làng Đông Thành cũng cùng chung số phận đó. Lính bắt ông Đaminh Huyên và giải lên huyện Quỳnh Côi. Ông Toại vì bị bệnh tật không thể đi bộ theo quân lính được, nên họ đề nghị ông nộp tiền chuộc nếu muốn tự do về xum họp với gia đình. Nhưng ông đã từ chối vì không muốn để mất cơ hội quí báu là hiến dâng mạng sốâng mình minh chứng cho niềm tin và tình yêuvào Thiên Chúa. Ông xin quan cho phép đi xe đến huyện trình diện, để được chung số phận với các giáo hữu cùng xứ đạo.
Kiên Tâm bền trí vì Đức Kitô
Tại huyện Quỳnh Côi, sau khi khẳng định lập trường đức tin của mình, hai ông Toại, Huyên bị tống giam vào ngục tù Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy rõ lòng quả cảm và kiên cường của hai ông. Nào đói, nào khát, nào đòn vọt và ngay cả án tử hình cũng không làm các ông nản lòng. Ngược lại, hai ông tiếp tục khích lệ các bạn kiên trì giữ vững niềm tin. Ông Toại thường nói với các bạn tù: “Nào anh em, hãy can đảm lên ! Chúng ta chịu khổ hình vì Đức Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng, và nếu cần, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúa”.
Nhiều lần bị dẫn đến trước công đường và bị ép buộc chà đạp Thánh giá, hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên khẳng khái phản đối. Các quan thấy khó lòng lay chuyển được hai nhân chứng của Chúa, nên kết án thiêu sinh cả hai vị. Khi biết tin này, hai vị hân hoan tạ ơn Chúa.a rất đông người, hai ông bước vào cũi tre chờ đợi. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng cầu nguyện thật lớn trong khi ngọn lửa phừng phực bốc cao. Không ai ghi lại những lời hai vị đã cầu nguyện khi bị hỏa thiêu, nhưng dựa vào thái độ và tâm tình của các vị, chúng ta có thể liên tưởng đến lời cầu nguyện của thánh Polycarpo trên giàn lửa thủa xưa: “Lạy Chúa các thiên binh, Chúa Tể trời đất, Đấng bênh vực kẻ công chính và những ai bước đi trong sự hiện diện của người. Con là một kẻ bé mọn trong các tôi tớ Chúa đây, xin tạ ơn người đã cho vinh dự được đau khổ, được cầm trong tay triều thiên tử đạo và được kề môi đón nhận chén thương khó. Này đây lạy chúa, hiến tế con sắp hoàn tất trong ngày hôm nay, con sẽ được thấy lời hứa của Người thể hiện. Amen”.
Ngày 29-04-1951, Đức Piô XII đã suy tôn hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên lên hàng Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh VŨ ĐỨC TRẠCH (1793 - 18/9/1840)
Chứng nhân sự sống bất diệt.
“Thưa quan, nếu quan muốn được sự sống bất diệt, xin quan kính lạy Thánh Giá này”.
Vị anh hùng Kitô giáo khi bị ép buộc bước qua Thập Giá, đã bình tĩnh hiên ngang giảng về Thập Giá cho chính viên quan đó là thánh Đaminh Trạch.
Chào đời năm 1793 tại họ Ngoại Vối, tỉnh Nam Định (xứ Ngoại Bồi), Đaminh Trạch vào ở với cha xứ từ bé. Trong thời vua Gia Long, cậu có hoàn cảnh được học đầy đủ chương trình ở chủng viện và thụ phong linh mục năm 30 tuổi. Năm sau, cha xin vào dòng Đaminh và tuyên khấn ngày 03.6.1825.
Không sợ cũng chẳng hối tiếc
Những người làm chứng trong hồ sơ phong thánh ca tụng cha Trạch sống nghiêm ngặt và hết lòng tuân giữ kỷ luật dòng. Tuy mang trong mình chứng bệnh lao phổi nan y, cha vẫn giữ đủ luật ăn chay hãm mình và chu toàn mọi công tác. Cha coi xứ Quần Cống, rồi về Lục Thủy để dưỡng bệnh và kiêm nhiệm việc linh hướng cho các chủng sinh. Năm 1839, cha bị bắt ở Ngọc Cục, nhưng dân làng bỏ ra 200 quan để chuộc cha về. Từ đó, cha ở nhà ông lang Thiện và ông Trùm
Bảo ở Trà Lũ.
Ngày 11.4.1840, khi lên thăm hai linh mục Vinh và Thản ở Ngưỡng Nhân, cha bị quân lính phát hiện. Do tình trạng bệnh hoạn, sức yếu chân chậm, cha không kịp chạy chốn trên đường về Tử Liêu, cha bị bắt và giải về phủ Xuân Trường. sau một thời gian bị giam và tra hỏi ở đây, cha Trạch được chuyển qua ngục thất tỉnh Nam Định.
Sự hiện diện của cha trong ngục là niềm vui và khích lệ cho nhiều Kitô hữu, cả những phạm nhân khác đang bị giam ở đó. mặc dù sức đã kiệt, cha Trạch vẫn cố gắng an ủi khuyên nhủ các giáo hữu và giải tội cho họ, đặc biệt cha đã giúp thày Tôma Toán, sau khi đạp lên Thánh Giá lần thứ hai thống hối trở về với Chúa và can đảm chịu tử đạo. Cha kêu mời anh em cùng cầu nguyện, nhất là đọc kinh Mân Côi. Khuân mặt cha lúc nào cũng vui vẻ, cha thường nói:
“Tuy tôi thể lực yếu đuối, nhưng đã vì đạo mà bị bắt, tôi chẳng sợ gì, cũng chẳng hối tiếc chi”.
Ra tòa lần nào cha cũng bị vặn hỏi về linh mục Hemosilla Vọng dòng Đaminh, vị thừa sai Tây Ban Nha mà quan tưởng là người cuối cùng chưa bị bắt. Quan còn hứa trả tự do nếu cha chịu bước qua Thập Giá và đe dọa: “Hãy nhìn cây Thập Giá kia, một là bước qua, hai là chết”. Cha Đaminh Trạch không trả lời ngay, tự động quỳ xuống hôn kính Thánh Giá rồi quay về phía quan và nói: “Thưa quan, Thánh Giá là giường Chúa Kitô nằm chết thay cho nhân loại, nếu quan muốn sự sống đời đời, xin quan kính lạy Thánh Giá này. Tôi thà chết chứ không chịu bước qua Thánh Giá”.
Cứ để tôi đi trước
Nghe vậy quan Tổng đốc nổi giận tát vào mặt nhà thuyết giáo, rồi đấm đá túi bụi. Quan bắt lính cầm hai đầu gông khiêng cha qua Thánh Giá, nhưng cha co chân lên mặc cho lính đánh đập tàn nhẫn. Vừa mỏi mệt thất vọng, vừa phẫn lộ điên cuồng, các quan đồng thanh kết án xử cha. Ngày 18.9.1840, bản án được vua Minh Mạng châu phê ra tới Nam Định và được thi hành ngay tức khắc. Quan cho một cơ hội ân xá cuối cùng nếu bước qua Thánh Giá, nhưng cha từ chối.
Khi sắp rời ngục đi xử, cha tạm biệt các cha Ngân, Nghị, Thịnh, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài cùng bị giam tại đó. như một người xác tín mình sắp được vào Thiên Quốc bĩnh cửu, cha nói: “Các cha ở lại để tôi đi trước”. Dân chúng hiếu kỳ theo ngài ra pháp trường đông như xem hội. Đến nơi xử, lính tháo gông cho cha. Sau đôi phút cầu nguyện, cha Trạch đưa đầu lãnh nhát gươm tử đạo tiến về Nước Hằng Sống. Thi thể ngài được án táng tại chỗ, năm sau các tín hữu cải táng về nhà chung ở Lục Thủy.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Thuyết giáo, cha Đaminh Trạch lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Đaminh VŨ ĐÌNH TƯỚC (1775 - 2/4/1839)
Kết thúc một thánh lễ
Kể từ lúc bị bắt cho đến lúc chịu chết vì danh Đức Kitô, cuộc tử đạo của Thánh Đaminh Tước chỉ vọn vẹn trong vài tiếng đồng hồ. Thế nhưng đây là cuộc tử đạo có một không hai, viết nên một trang sử độc đáo của Giáo Hội Việt Nam. Vị linh mục đạo đức đã sống những khoảnh khắc cuối cùng của đời mình như một Thánh lễ. Bị đánh trọng thương nằm giữa các tín hữu thân mến và hấp hối trong vũng máu đào của chính mình, thánh nhân vẫn tiếp tục khích lệ anh em, vẫn dâng lời chúc tụng tạ ơn tha thiết và dâng chính mạng sống cho Đức Kitô, Đấng ngài không ngừng gọi tên trong giây phút sau hết.
Dĩ đào vi thượng
Đaminh Vũ Đình Tước sinh năm 1775 tại làng Trung Lao, tỉnh Nam Định. Ngay từ bé cậu đã tỏ ra là người đạo đức vững chắc. Khi được làm linh mục cha Tước tận tụy không biết mỏi mệt trong việc thánh hóa các tín hữu. Ngày 17-04-1811, cha Tước xin nhập dòng Thánh Đaminh và tuyên khấn ngày 18-04 năm sau. Đức cha Delgado Y bổ nhiệm cha coi sóc các tín hữu ở Xương Điền một làng công giáo đông đảo của Giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Từ năm 1838, khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng trở nên mãnh liệt tại giáo phận Đông, cha phải ẩn náu trong nhà các tín hữu. Ông Đaminh Đoài kể rằng: “Cha Đaminh Tước trú ẩn ở nhà tôi hai tháng. Trong thời gian này tôi chứng kiến đời sống đạo đức sâu sa của cha. Ngài thức trắng đêm để cầu nguyện, và dâng thánh lễ ngay từ tảng sáng. Khi đó tôi ra ngoài vườn canh chừng giúp cha. Một hôm tôi hỏi Ngài: “Nếu người ta đến bắt cha, cha sẽ xử trí thế nào ?”. Ngài liền đáp: “Chạy trốn nếu có thể, còn không thể trốn nữa thì vâng theo ý Chúa”. Điều ngài thường lo lắng là làm thế tránh không gây thiệt hại cho chúng tôi, những người cho Ngài trú ẩn”.
Mưu sự tại nhân
Gần nơi cha Tước trú ẩn có một viên quan Bát phẩm tên là Phan, phụ trách huyện Cẩm Hà. Trước đây ông đã từng góp phần bắt Đức Cha Henares Minh và thày Chiểu, được vua thưởng trọng hậu, nên rất sốt sắng trong việc tìm bắt các linh mục khác. Ngày 02-04-1839, có tin mật báo viên quan này liền dẫn 40 người đến bao vây bắt cha Tước tại nhà ông Nhiêu Tĩnh, nơi ngài trọ.
Cha Tước đang dâng lễ, nghe thấy tiếng động vội vàng cởi áo lễ, dự định chạy qua vườn đến nhà một người khác. Nhưng đám người kia đã nhìn thấy và chặn cha lại. Noi gương thày chí thánh xưa trong vườn Cây Dầu, Cha hỏi: “Các ông đi tìm ai ?” và khi họ nói tìm bắt linh mục, cha liền xác định: “Chính tôi đây”. Quả đúng như cha dự đoán trước nếu không trốn kịp thì xin cho ý Chúa được thể hiện. Thế là họ trói cha lại và áp giải về Cẩm Hà, huyện Giao Thủy, Nam Định.
Các tín hữu ở Xương Điền mới đầu tưởng là quân triều đình nên tỏ ra ngần ngừ. Đến khi biết nhóm người này của Bát Phan, liền xin bỏ tiền mua chuộc. Nhưng phe đối phương không chịu, họ muốn nhận tiền thưởng lẫn danh vọng do nhà vua trao tặng. Thế là khi đoàn người vừa di chuyển, các tín hữu liền hô hào nhau cầm gậy gộc rược theo để giải cứu cho người cha thiêng liêng yêu quý, nhiều phụ nữ cũng tham gia vào cuộc giải cứu này.
Thành sự tại thiên
Về phần nhóm người bắt giữ, vì phải lôi theo một “tù nhân” bị trói, thấy khó lòng đạt mục đích, liền chọn giải pháp cuối cùng, thanh toán luôn “đối tượng”trong tầm tay. Theo lệnh của viên chỉ huy, một người tên Ngọc liền bổ lên đầu linh mục một nhát búa, khiến ngài ngã gục trong vũng máu. Sau đó họ tản ra chạy thục mạng để thoát thân. Các tín hữu lúc đó vừa rượt tới, một số ở lại săn sóc cha Tước, còn tất cả nổi nóng đuổi theo đám sát nhân và bắt được ít người, trong đó có cả viên chỉ huy, và đem nộp cho quan xét xử.
Phần cha Tước, ngài tỏ ra rất bình tĩnh trong giây phút hấp hối. Ngước nhìn các bổn đạo đang nức nở vây quanh, cha lựa lời trấn an họ, khích lệ tất cả kiên trung làm chứng cho đức tin. Một tín hữu xé áo định băng vết thương đẫm máu trên đầu cha, nhưng ngài ra dấu cản lại và mời mọi người hiệp ý dâng lời cầu nguyện. Sau đó cha sốt sắng tạ ơn Chúa về những ơn lành đã nhận được trong suốt cuộc đời, nhất là ơn được đổ máu vì đức tin.
Vết thương quá trầm trọng, máu ra nhiều sức lực vị linh mục cạn dần, lời cha nói mỗi lúc càng nhỏ bớt, và cuối cùng họ chỉ nghe được những tiếng thều thào kêu tên cực trọng Đức Kitô. Thánh lễ dở dang buổi sáng giờ đây kết thúc bằng hy lễ mạng sống bằng chính vị chủ tế. Các tín hữu coi ngài như vị tử đạo, nên thấm máu ngài làm thánh tích.
Thi hài cha Tước được đưa về an táng tại nhà thờ Xương Điền. Giáo Hội đã xác nhận chứng tá tử đạo của cha Đaminh Vũ Đình Tước, linh mục dòng thuyết giáo.
Đức Lêo XIII suy tôn ngài lên bậc Chân Phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Vần E
Emmanuel LÊ VĂN PHỤNG (1796 - 31/7/1859)
Vì chính tôi đã tha thứ.
“Con ơi, hãy tha thứ. Đừng tìm báo thù kẻ tố giác cha nhé”. Đó là lời trăn trối cuối cùng của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng cho con trai trước khi bị xử chém. Noi gương Đức Kitô trên Thập Giá xin Chúa cha tha những kẻ hành hạ mình, thánh nhân nài nỉ các bạn hữu sống trọn vẹn giới luật bác ái Kitô Giáo: “Hãy tha thứ cho kẻ thù. Đừng báo oán những kẻ tố giác hay kết án tôi, hãy tha thứ, hãy tha thứ vì chính tôi, tôi đã thứ tha”.
Cho đến muôn đời, mẫu gương và lời nói đó sẽ mãi mãi vang vọng trong lòng người tín hữu Việt Nam.
Xanh vỏ đỏ lòng
Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, thuộc trấn Châu Đốc, Nam Hà. Nhìn bề ngoài, ông Phụng không mấy hấp dẫn, vì vóc dáng có vẻ dữ dằn, lại hay lớn tiếng với mọi người. Nhưng trái lại, nhờ tính cương trực, sự dứt khoát cũng như lòng nhiệt thành với việc chung, ông được bà con tín nhiệm đề bạt làm “câu” (Trùm) họ Đầu Nước. Đáp ứng lại sự tín nhiệm đó, ông Câu Phụng đã góp sức tổ chức giáo họ thêm lớn mạnh ngay trong thời bách hại đạo dưới thời vua Tự Đức.
Nhờ tài đức của ông, họ đạo đã tái thiết được ngôi thánh đường khang trang, cất nhà cho các nữ tu và trở thành khu trú ngụ khá an toàn cho các giáo sĩ. viên quan huyện địa phương một phần vẫn nhận tài trợ của ông, một phần đã thấy rõ sinh hoạt tôn giáo không có gì nguy hiểm, nên cho người báo tin trước khi phải kiểm tra theo lệnh trên, đủ thời giờ để các tín hữu cất dấu ảnh tượng và các vật dụng tôn giáo.
Tai họa bất ngờ
Thế nhưng có điều ông Câu Phụng không ngờ tới là món tiền thưởng của nhà vua vốn có một hấp lực với một vài lương dân trong vùng. Những ngày này chia nhau theo dõi nhà ông, mỗi đêm họ cử người leo lên cây xoài gần đó để quan sát, và họ đã toại nguyện. Cuối năm 1858, họ đã phát hiện một vị thừa sai ngoại quốc Pernot Định đang tạm trú tại nhà ông Câu.
Đêm hôm đó, khi mọi người đã an giấc, cha Pernot ra sân đi dạo để hít thở không khí trong lành và cầu nguyện giữa khí mát trăng sao. Đêm thanh như có phép màu làm tiêu tan đi những mệt nhọc ban ngày và giúp cha hướng về Đấng Tạo Hóa cao thẳm, thầm ước mong các tín hữu Việt Nam sẽ đông đúc như sao ở trên trời. Trước khi khép cửa để vào nhà nẩ nấp, cha còn nói với lại: “Chào các bạn tinh tú nhé. Thực là tồi tệ cho những ai bắt tôi phải sống thế này”.
Thế là hai người rình rập hôm đó mừng rỡ, họ vội vã kéo nhau đi báo cho quan trấn phủ Châu Đốc. Họ tố gíac ông Câu Phụng chứa chấp Tây Dương Đạo Trưởng. Họ cũng không quên xin phái quan lãnh binh đi bắt, chứ đừng báo quan huyện, vì quan này thông đồng với Công Giáo.
Sáng ngày 07.01.1859, ông Câu Phụng chưa hay biết gì cả. Ngoài thừa sai Pernot, còn có cha Phêrô Quý (cha sở mới họ Đầu Nước). Đang trọ tại nhà ông. hai linh mục vẫn dâng lễ như thường. Sau đó, mới có người chạy về báo tin là quan quân Châu Đốc đi thuyền và đi bộ đang tiến đến nhà ông. Ông Phụng liền cử người đưa hai cha đi trước, nhưng cha Quý nhất định ở lại, vì nghĩ mình có thể trà trộn vào dân được, và tìm chỗ ẩn núp ngay trong nhà.
Đến khi quan quân ập vào hạch hỏi và dọa đánh chủ nhà, cha sở Quý tự ra trình diện. Thế là quân lính liền bắt trói ông Câu Phụng, cha Quý và 32 giáo hữu khác áp giải về Châu Đốc. Trước mặt quan, vì có người tố cáo, ông Câu khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón và cho thừa sai nước ngoài trọ tại nhà mình. nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ nhiều lần, ông nhất định không khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai, và cương quyếtk bỏ đạo.
Kỷ vật cuối cùng
Sau sáu tháng giam giữ, không hy vọng gì các tù nhân đổi ý, các quan trấn Châu Đốc làm án gởi về kinh đô xin xử giảo và vua Tự Đức châu phê liền. Ngày 31.07, linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và ông Câu Lê Văn Phụng được đưa ra pháp trường Chà Và. Cả hai vị bình tĩnh, cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi, còn ông Câu thì dặn dò các bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.
Tại pháp trường, ông câu gặp các con mình. ông đeo vào cổ con gái - cô Anna Nhiên - ảnh Thánh Giá và nói: “Con ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Aûnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Ông cũng dặn con trai, đừng chôn cất rầm rộ, và nhớ chôn ông bên cạnh cha sở của mình. Tiếp theo, hai chứng nhân của Chúa quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông Câu. Sau ba tiếng chiêng vang, vị linh mục bị chém dầu, còn ông Câu Emmanuel bị xiết cổ bằng dây thừng do hai người kéo.
Đức Thánh Cha Piô X suy tôn hai vị tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nghĩa cử quảng đại tha thứ của ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng trước giờ tử đạo đã là bài giảng hùng hồn nhất về sự bao dung của đức bác ái Kitô giáo.
================
Emmanuel NGUYỄN VĂN TRIỆU (1756 - 17/9/1798)
Cho đạo tròn hiếu
Là một linh mục giáo phận Đông Đàng Ngoài, vốn biết bao bận rộn vì công tác mục vụ, nhưng cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu vẫn không quên người mẹ già ở quê nhà. Năm 1798 giữa cơn bách hại gay gắt của vua Cảnh Thịnh, nhất là tại kinh đô, cha đã xin phép Bề trên về Phú Xuân thăm mẹ, và ở lại gần ba tháng để gầy dựng cho bà một mái nhà nhỏ xinh. Chính vì muốn trọn đạo hiếu với mẫu thân mà linh mục đã bị bắt.
Không phải Chúa Trịnh mà là Thiên Chúa.
Emmanuel Nguyễn Văn Triệu sinh năm 1756 tại làng Kim Long, Phú Xuân (nay là Huế). Thân phụ cậu là ông Cai Lương, Nguyễn Văn Lương, một võ quan Công Giáo phò chúa Nguyễn đã bị tử trận trong một cuộc chiến với Tây Sơn. Sớm mồ côi cha, cậu Triệu sống với mẹ ở Thợ Đúc, gia nhập quân đội năm 1771 khi mới 15 tuổi. năm 1774, anh cùng các bạn gia nhập quân đội của vua Lê chúa Trịnh, chiếm được Phú Xuân. Đến khi Tây Sơn từ phía Nam đánh lên, trở thành chủ nhân ông mới của Phú Xuân, vệ binh Nguyễn Văn Triệu đành theo Trịnh Khải rút về Thăng Long (1786).
Tháng 6 năm đó, quân Tây Sơn thừa thắng xông lên, tiến ra Bắc lấy cớ phò Lê diệt trịnh. Trịnh Khải phải mổ bụng tự tử. Rồi vua Lê Cảnh Hưng băng hà, Lê Chiêu Thống lên ngôi, miền Bắc lại xảy ra nội chiến giữa hai phe Trịnh Lệ và Trịnh Bồng. Chính bối cảnh nhiễu nhương thay ngôi đổi chúa đó đã làm cho anh vệ binh Triệu phải suy nghĩ và đi đến quyết định dứt khoát cho cuộc đời mình.
Ba mươi tuổi đời, mười lăm năm binh nghiệp với biết bao thăng trầm, Emmanuel Triệu bước vào một khúc quanh mới, giã từ vũ khí để phụng vụ Vua trên trời và qua đó phục vụ tha nhân cách đích thực hơn. Mới đầu, anh được một linh mục dòng Tên ở Hà Nội hướng dẫn, nhưng sau anh được Đức cha Obêlar Khâm giáo phận Đông đàng Ngoài nhận vào học tại trường thần học Trung Linh. Và năm 1793, Đức cha Anlonsô Phê truyền chức linh mục. Khi đó cha Triệu đã 37 tuổi.
Nhờ nền giáo dục chu đáo từ nhỏ, cùng với những kinh nghiệm lâu năm trong đời sống quân ngũ, và nhất là ơn Chúa giúp, cha Emmanuel Triệu trở thành một mục tử hăng say nhiệt tình và làm việc có phương pháp. Sáu năm phục vụ trong giáo phận Đông, cha đã thu hoạch được nhiều kết quả và được các bề trên quý mến.
Đường lao vào tù
Dưới thời vua Cảnh Thịnh (1792-1802) tình hình chính trị trong nước ngày càng phức tạp. Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) tổ chức quân đội ngày càng mạnh, hùng cứ ở Gia Định, hằng năm cứ đến mùa gió nồm lại đem quân ra đánh Huế. Hỗ trợ cho Nguyễn Aùnh có một số quân Pháp do Đức cha Bá Đa Lộc chiêu mộ. Do đó, vua Cảnh Thịnh sinh ra ác cảm với đạo, nhất là cuối năm 1797, khi bắt được lá thư của Nguyễn Aùnh gửi Đức cha Labartatte Bình (Giám mục Đàng Trong) ở Phú Xuân, nhà vua càng nghi ngờ đạo Công Giáo tiếp tay cho giặc.
Một quan văn có đạo, quan Thượng Hồ Cung Điều nhiều lần thanh minh trước mặt nhà vua rằng: “Đạo dạy trung quân vương, hiếu phụ mẫu, chớ có phải đạo dạy làm giặc đâu”. Vua nghe nói thì chần chừ. Nhưng viên quan nội hầu tên Lợi, cứ gièm pha mãi, nên cuối cùng, tháng 8.1798, một chiếu chỉ cấm đạo được ban hành. Trước đó ba tháng, cha Emmanuel Triệu vì thương nhớ mẹ già, nên trở về khu Chợ Đúc, Phú Xuân (Huế). Thật bùi ngùi cảm động sau 12 năm xa cách, hai mẹ con lại gặp nhau. Giờ đây mái tóc của người mẹ đã bạc phơ, còn con nay đã 42 tuổi và là linh mục của Chúa. Cha Triệu thấy xót xa trước cảnh mẫu thân mình phải ăn nhờ ở đậu nhà người khác. Cha quyết định ở lại, cùng với bà con lối xóm, dựng cho mẹ một mái nhà nhỏ để có nơi nương thân. Thời gian này cha Triệu nhân thể cũng đi thăm viếng và dâng lễ tại các họ đạo gần đó. Cha được các tín hữu ở dây thương mến nhiều.
Ngày 07.08.1798, theo chiếu chỉ nhà vua mới ban hành, bốn cơ binh (mỗi cơ 50 quân) bất thần bao vây bốn giáo xứ vùng kinh đô. Tại xứ Thợ Đúc, quan quân có ý tìm cha chính xứ, cha Nhơn, nhưng nhờ quan Thượng Điều đã báo tin, nên ngài đã trốn thoát kịp. Còn cha Triệu thì mới về, nên quan không biết, quan quân bắt một số giáo hữu trong đó có cha Triệu và tra hỏi về các linh mục. Cha Triệu tự nguyện cung khai, nhận mình là người mà họ lùng bắt. Quân lính liền trói tay cha lại dẫn đi. Khi thấy mẹ già khóc lóc thảm thiết, cha Triệu dừng lại nói ít câu từ giã: “Thiên Chúa đã cho con vinh dự làm chứng cho Ngài. Xin mẹ đừng khóc nữa. Mẹ hãy vui lòng vâg theo ý Chúa”.
Vượt qua gian khổ
Tiếp theo đó là 40 ngày đêm thử thách trong cảnh ngục tù. Cổ mang gông, tay chân bị xiềng xích, cha còn bị đưa ra tòa nhiều lần, chịu ba trận đòn dữ dội. Khi các quan thẩm tra lý lịch, cha nói rõ mình sinh quán Phú Xuân, vì hoàn cảnh khó khăn mới phải ra Đàng Ngoài để làm ăn, rồi được học giáo lý trong đạo và làm linh mục. Quan hỏi: “Thày có vợ con ở đây hay ở Đàng Ngoài? Cha đáp: “Tôi không lấy vợ, vì là linh mục nên tôi sống độc thân”.
Ngày 17-8 các quan định kết án voi giày nhưng một viên quan không đồng ý nên vụ án được trì hoãn.
Thời gian ở trong ngục, cha Triệu vẫn giữ được niềm vui vẻ và tin tưởng vào Chúa. Điều an ủi cha nhất, là được một linh mục cải trang vào thăm và giải tội. Thân mẫu cha nhiều lần cũng đến thăm. Cha an ủi bà, xin bà cầu nguyện nhiều cho mình được trung kiên. Ngoài ra, cha tranh thủ mọi giờ rảnh rỗi để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
Giờ phút vinh quang
Ngày xử án được ấn định là 17.9.1798. sáng sớm hôm đó, các quan hỏi cha lần cuối: “Thày có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu thày đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho”. Cha Triệu khẳng khái trả lời: “Thưa không, tôi là đạo trưởng, tôi thà chết chứ không bỏ việc giảng đạo”. Thế là đến gần 10 giờ sáng cha Triệu bị điệu ra pháp trường cùng với sáu tên trộm cướp cũng bị tử hình hôm đó. Cha bước đi bình tĩnh, trang nghiêmnhư một chiến sĩ thận trọng trước giờ lâm chiến. Các tín hữu nghe tin lũ lượt đi phía sau. Đàng trước cha, một người lính cầm thẻ bài đọc ghi bản án: “Tên Triệu, con nhà Nguyễn Văn Lương, chuyên giảng đạo Hoa Lang, quyến rũ dân chúng theo đạo đáng ghê tởm ấy. Vậy y phải trảm quyết”.
Tại Bãi Dâu, nơi thi hành án, cha Triệu quỳ xuống cầu nguyện. Theo thói lệ, quan phát cho mỗi tử tội một quan tiền để ăn uống trước khi chết. Cha từ chối, viên quan liền nói: “Của vua ban không được coi thường”. Cha trả lời: “Vậy xin ai đó cầm tiền giúp tôi, gởi cho người nghèo”. Một người lính thấy thế liền tát vào mặt Ngài một cái. Viên quan nổi giận mắng anh ta: “Chưa đến giờ xử mà mi dám ngạo ngược như thế sao ?”Rồi ông quay qua mời vị chứng nhân đức tin ngồi và nói: “Khi nào đến giờ, tôi sẽ báo cho thày”. Cha Triệu liền ngồi và tiếp tục cầu nguyện.
Đúng giờ ngọ (12 giờ trưa), viên quan nói với vị linh mục: “Giờ đã đến rồi”. Cha Triệu quỳ lên giơ cổ cho lý hình chém. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu an táng tại họ Dương Sơn, sau được cải vào nhà thờ Dương Sơn.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Vần G
Giacôbê ĐỖ MAI NĂM (1781 - 12/8/1838)
Nghe tin quan Tuần phủ đến làng, cha Đỗ Mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chựa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi: “Ông là ai ?” Cha năm vui vẻ trả lời: “Tôi là người nhà này”. Ngay lúc ấy hai người tên Tỷ và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin làm việc trong nhà ông Lý Mỹ, liền đến chỉ vào cha và kêu lên: “Đúng đạo trưởng ở nhà này đây”. Vẫn cũng giọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời: “Phải chính tôi đây”.
Thế là cha bị bắt. Bị bắt một cách bình thản như cuộc đời cha vốn bình thản. Hay có thể nói, cha bị bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như công việc vẫn xảy ra thường ngày trong đời sống của cha vậy.
Bình dân và nhân ái
Giacôbê Đỗ Văn Năm, tên trong sổ là Mai Ngũ, sinh năm 1781, tại làng Đông Biên, Huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cậu Ngũ vào nhà Đức Chúa Trời từ nhỏ, sau đó học tiếng Latinh ở chủng viện Vĩnh trị, khi thành thày giảng thì ở lại giúp chủng viện luôn. Thày Năm hiền hòa, vui vẻ nên trẻ em rất mến và thích thày. Sau đó ít năm, thày được đi học thêm thần học và thụ phong linh mục năm 32 tuổi. Cha Năm đi giúp các xứ đạo đây đó, sau lại về giúp nhà trường Vĩnh Trị khoảng năm 1830.
Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo toàn quốc, chủng viện bị giải tán, cha Năm phải đi ẩn trốn ở nhà các tín hữu. Cha ở nhà ông Trùm Tôn ba năm, họ Kẻ Nguồi, lần khác tại nhà ông Trùm Đích làng Vĩnh Trị. Trong thời gian ẩn trú như thế, cha Năm đã sống rất hòa mình vui vẻ với mọi người. Cha hay kể truyện cho trẻ em hoặc cùng với các chủng sinh giúp nhổ cỏ ruộng cho chủ nhà, cha làm các việc nhỏ mọn chẳng phiền hà bao giờ. Đặc biệt, cha yêu thương săn sóc những người nghèo. Tất cả những gì nhận được, cha thường dành dụm cho họ.
Có người báo cáo làng Vĩnh Trị chứa chấp đạo trưởng. Quan cho lính đến vây làng, bắt được cha Năm cùng với ông Trùm Đích, và con rể ông là ông Lý Mỹ. Cha bị tống giam vào ngục Nam Định.
Gan vàng dạ sắt
Trước mặt quan, khi được khuyên nhủ bỏ đạo, cha Năm khẳng khái thưa: “Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng tôi tôn kính được. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy kẻ khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo thì còn ai chịu chết vì đạo nữa”.
Sau nhiều lần khuyên dụ, biết không làm cha đổi ý được, các quan không tra khảo gì thêm nữa, để cho cha được dễ dàng đi lại, gặp gỡ các bạn tù, nhờ đó cha an ủi, khuyến khích được người trong tù, ban phát bí tích cho họ. Nhất là động viên ông Trùm Đích bị bắt cùng với cha, ông đã luống tuổi và rất sợ hãi khổ hình, cha nói: “Nhờ ơn Chúa giúp sức thì các khổ hình đau đớn thế nào, chúng ta cũng chịu được”. cha nhắc đến gương thánh Laurensô bị nung trên giường sắt, mà vẫn vững tin đến cùng.
Án xử được châu phê. Ngày 22.08 cha Giacôbê Năm cùng với ông Trùm Antôn Đích, ông Micae Lý Mỹ được phúc tử đạo tại pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Cha Giacôbê Năm khi đó được 77 tuổi, thi hành tác vụ linh mục được 25 năm.
Như ngọn đèn luôn tỏa sáng
Suốt cuộc đời, cha Năm luôn sống hiền hòa, bình dị, thoải mái như cái tên Năm bình dị. Cuộc đời thày giảng Năm đầy vui vẻ, và cuộc đời linh mục Năm hoàn toàn giản đơn. Sự đơn giản thoải mái đó, không do hoàn cảnh may mắn dễ dàng, không do điều kiện bên ngoài, nhưng do chính tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa của cha. Cuộc đời xuề xòa vui vẻ của cha đã tỏa trên những người xung quanh cha thứ ánh sáng tuyệt vời của Đức Kitô, Đấng cao cả như thế, mà khi đến trần gian đã luôn sống hiền hòa khiêm tốn, vui với trẻ thơ và vui sống với người cùng khổ.
Trong tình huống “dầu sôi lửa bỏng” lúc đó, chắc chắn lễ mừng ngân khánh linh mục của cha nếu có, cũng chỉ thật âm thầm lặng lẽ. Nhưng diễn phúc cha, vì Thiên Chúa đã đưa người tôi tớ chung tín về nước Trời. Và khỏi phải nói, không một ngân khánh của ai trên trần gian có thể huy hoàng, long trọng để so sánh được với lễ ngân khánh của cha trên Thiên Quốc.
Thi hài ba vị tử đạo được đưa về an táng tại Vĩnh Trị, dân làng kéo chuông, đốt đuốc, đón rước cách long trọng. Sau được đưa về nhà chung ở xứ Kẻ Sở.
Đức Thánh Cha Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan Baotixita TRẦN NGỌC CỎN (1805 - 8/11/1840)
Phải mừng cho tôi chứ!
Đối với ông Gioan Cỏn, việc tử đạo là biến cố ông hân hoan hằng mong đợi. Trên đường ra pháp trường, ông vẫn tười cười chào giã biệt mọi người dù quen hay không. Khi thấy một người đang khóc thương mình, ông dừng lại nói: “Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ ?” Có lẽ ông đã thấy cửa Thiên Đàng đang rộng mở đón tiếp mình.
Gioan Cỏn sonh năm 1805 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và có họ hàng với ông Martinô Thọ. Ông sống bằng nghề nông, cầy sâu cuốc bẫm, chân lấm tay bùn, gia đình tuy nghéo nhưng luôn thuận hòa ấm êm, là một tín hữu sáng suốt và nhiệt thành, ông Cỏn ý thức phải đem Tin Mừng thánh hóa mội trường mình đang sống. Ông đã thành công trong vụ kiện một người Lý trưởng cậy thế chiếm đoạt tiền của dân chúng.
Từ sau vụ kiện đó, uy tín ông càng ngày càng gia tăng cho đến khi ông được dân tín nhiiệm đề cử làm Lý trưởng. trong chức vụ ấy, ông hết lòng tận tụy với việc chung. Tuy nhiên do bạn bè lôi kéo, ông thường bê trễ trong các sinh hoạt tôn giáo. Bù vào đó, ông rất sẵn lòng phục vụ anh em vì đạo. Có lần ngay giữa đêm khuya, ông lặn lội mưa gió mời linh mục đến giúp một bệnh nhân hấp hối. Khi vua Minh Mạng ra lệnh truy lã các thưà sai và linh mục, ông Cỏn bố trí xếp đặt cho các vị đến ẩn trong làng. Ông bị bắt vì tội chứa chấp các đạo trưởng: Cha già Thịnh ở Kẻ Trình bị bệnh nặng và không có chỗ chữa trị, ông Cỏn đón về để cha ở trong nhà cháu mình, để dễ dàng chăm sóc thuốc thang, và thế là hai cha con bị bắt ở đây.
Đạo tại tâm
Ngày 30.5.1840, nghe báo tin ở làng Kẻ Báng có linh mục, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đưa hàng ngàn lính về bao vây làng. Ông chia lính thành những tốp 10 người đi sục sạo hết các xó xỉnh, các bụi rậm. Sau hai ngày lục soát họ bắt được ba linh mục: cha Nghi, cha Ngân và cha Thịnh. Ông Thọ và ông Cỏn cũng bị bắt vì tội chứa chấp đạo trưởng. quan lệnh đóng gôngvà giải tất cả về tỉnh Nam Định.
Một tháng đầu quan bỏ lơ không nói gì đến. Sau đó, cho gọi ra bắt bước qua Thập Giá, các ông không chịu, quan truyền đánh mỗi người 50 roi, rồi bắt phơi nắng cho đến tối không được ăn uống gì cả. Lần khác, quan lại gọi ra và dụ dỗ: “Cứ đạp đi rồi xưng tội là khỏi tội thôi mà”. Hai ông vẫn từ chối. Trịnh Quang Khanh liền cho lính nắm gông khiêng các ngài qua ảnh chuộc tội. Hai ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: “Đạo tại tâm. Quan lớn cưỡng bách mà lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì”.
Thế là quan nổi giận, nảy ra một sáng kiến kinh dị: Khi ba vị linh mục cùng bị bắt vừa chịu tra tấn, máu me loang lổ khắp mình, quan bắt hai ông hoặc liếm máu nơi các vết thương ấy, hoặc bỏ đạo. Hai ông liền quỳ xuống thực hiện điều quan yêu cầu một cách cung kính. Trịnh Quang Khanh vừa rùng mình, vừa kinh ngạc nói với các quan: “Xem kìa ! Bọn chúng kính trọng các đạo trưởng biết bao ! Chẳng lẽ chúng bị bỏ bùa mê sao. Rồi ông truyền đem trói hai ông lại, bắt quỳ trên cát giữa trời nắng gắt suốt ngày.
Chắp cánh cùm gông, roi đòn gió thoảng.
Một lần quan tra hỏi về các thừa sai, ông Thọ trả lời: “Thưa quan, tôi có biết Đức cha Giacôbê, nhưng ngài đã qua đời, còn các thừa sai khác vua bắt hết rồi, còn đâu ? Hơn nữa chúng tôi ở trong tù làm sao biết các vị ấy ở đâu được ?”. Tức giận, quan cho lính hôm đó tự do đánh đập tùy thích. Ông Cỏn chịu được 61 roi thì kiệt sức, máu miệng trào ra, được quân lính khiêng về trại. Còn ông Thọ bị đánh đúng 150 roi. Về sau ông nói với con cái rằng: “50 roi đầu đau đớn khôn tả, còn 100 roi sau, nhờ ơn Chúa, cha thấy nhẹ nhàng như gió thoảng qua vậy”.
Quan thấy hình khổ không làm cho các ông xiêu lòng, nên cho lệnh bắt vợ con để áp lực, buộc các ông bỏ đạo. May măn hai ông biết trước, vội nhắn tin cho gia đình lẩn tránh nơi khác. Tuy thế, quan vẫn nói với các ông: “Nếu ta đưa vợ con các ngươi đến đây để giết thì các ngươi có chịu bỏ đạo không?”. Ông Cỏn đáp: “Thưa quan, cửa nhà vợ con đều do Chúa ban, chúng tôi chẳng có gì tiếc xót cả. nếu vợ con tử đạo, chúng tôi càng mong ước về Thiên Đàng”. Ông Thọ nói thêm: “Gông cùm và roi vọt của quan là hai cánh đưa chúng tôi bay về Thiên Quốc”.
Nghe thế, quan càng giận dữ hành hạ ác liệt hơn nữa: Ban ngày phơi nắng, ban đêm bắt nằm ngoài cống rãnh nước thải của trại tù, và bớt phần ăn suốt tuần lễ. Đến ngày thứ bày, cô Thuyên con gái ông Thọ tìm cách vào thăm cha. Thấy cha nằm dài bất tỉnh, cô lấy nước rót vào miệng, nhưng phải khá lâu ông mới hồi tỉnh nhận ra con mình. Lần khác, khi gặp lại con cái, ông nói với chúng những lời dặn dò sau hết.
Bản án trảm quyết gởi vào kinh đô và được vua Minh Mạng ký duyệt. Ngày 06.11, các ông biết tin, tìm cách gặp các cha cũng bị bắt để xưng tội và chuẩn bị tâm hồn. Ngày 08.11.1840, cùng với ba vị linh mục, hai ông bị điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Dọc đường hai vị vẫn tươi cười chào hỏi mọi người. đến nơi, hai ông quỳ cầu nguyện một lát, rồi đưa tay cho quân lính trói vào cọc. Theo lệnh quan, lý hình vung gươm, đưa các ngài về Quê Hương mong ước. Một vị 35 tuổi, một vị 53 tuổi, từ nay mãi mãi bên nhau trong vinh quang bất diệt. Thi hài hai đấng tử đạo được đưa về an táng ở xứ Kẻ Báng.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH (1796 - 28/4/1840)
Lời cảm tạ
Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn.
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài.
Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan và hai thày Hiếu, Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.
Định mệnh nối kết ba con người
Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường dẫn theo một vài thày giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thày cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thày Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.
Trước lời đường mật
Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: “Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá”. Cha trả lời: “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết”. Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:
“Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết bao năm nay ?
- Thế ông không muốn sống à ?
- Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.
- Ai bảo ông là có Thiên Đàng.
- Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng.
- Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?
- Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ Người”.
Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay lòng đổi dạ.
Thái độ hai thày giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thày cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều: “Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin”. Niềm an ủi lớn nhất của hai thày là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thày coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?”. Quan hỏi: “Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?”. Cha nói: “Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được”.
Lời chứng cuối cùng và bài ca phục sinh
Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người “lính” Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi về triều đình xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thày giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thày một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời, ngài nói:
“Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật”.
Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thày hiệp ý cầu nguyện với linh mục:
“Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực”.
Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thày giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự: “Allêluia, Allêluia, Allêluia”. Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thày Hiếu 63 tuổi, thày Thành 44 tuổi. Thày giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.
Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thày Phêrô Nguyển Văn Hiếu và Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan
“Sách có câu: Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.
Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu). Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !” (Launay III, tr.37-38).
================
Gioan CHARLES CORNAY TÂN (1809 - 20/9/1837)
Thanh gươm sẽ xức dầu cho con
“Lạy Chúa xin nhận lời con thống hối thay cho việc xưng tội, và máu con đổ ra thay cho bí tích xức dầu. Lương tâm con không vướng mắc tội trọng nào, nhưng không vì thế, con coi mình là công chính. Xin Đức Maria chứng gíam cho việc thống hối, và thanh gươm sẽ xức dầu cho con”.
Đó là lời cầu nguyện và lời chia sẻ chân thành của linh mục Gioan Tân trong ngày bị xử tử. Trước mặt cha giờ đây, một Thiên Chúa công bằng xét định tội phúc, cũng là một Thiên Chúa yêu thương khoan hồng tất cả, khi con người dám dâng trọn vẹn vì tình yêu ngài.
Xin chọn nơi này làm quê hương
Gioan Cornay sinh ngày 28.02.1809, tại Loudun, nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Thời niên thiếu, ngoài việc học hành, cậu chỉ vui chơi với chúng bạn. Hết bậc trung học, được Chúa kêu gọi, cậu xin vào chủng viện Saumur, Mont Morillon, và sau đó vào đại chủng viện Thừa Sai Paris năm 1830. Năm sau thày lãnh chức phó tế, và xuống tàu đi giảng đạo ở Viễn Đông. Khi đến Macao, bề trên phái thày đến tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, nhưng vì khi đó đường vào Quảng Đông bị cấm ngặt, thày phải đến Việt Nam, có ý đi bộ theo lối Vân Nam cho an toàn hơn.
Đến Việt Nam thày lấy tên là Tân và ở xứ An Tân chờ đợi. Chẳng may hai giáo hữu Trung Hoa qua đất Việt Nam để đón thày, khi đến Hà Nội lại mắc bệnh dịch tả và qua đời, nên thày Tân liền xuống giáo phận Nam, được Đức cha Harvard Du truyền chức linh mục ngày 20.04.1836, cha chính thức xin ở lại Việt Nam, và được gửi đến xứ Bầu Nọ giúp thừa sai Marette. Hỗ trợ cho cha có hai thày giảng Phaolô Mỹ và Phêrô Đường, sau cũng bị bắt một ngày với cha.
Với cha Tân, Việt Nam là quê hương thứ hai mà cha rất thân thương. Khi mang bệnh nặng, nhiều người đã khuyên cha về Pháp chữa trị, cha nói rằng: “Được Chúa sai đến đây, tôi sẽ không chịu bỏ về, dù phải chết đi nữa”. Và sau này cha đã toại nguyện.
Tình ngay lý gian
Ở làng Bầu Nọ có một người tên Đức chỉ huy một băng cướp, đã bị các tín hữu bắt nộp cho quan. Để trả thù, anh tố cáo dân làng Bầu Nọ che dấu linh mục Âu Châu. Khi ấy, quan Trấn Sơn Tây Lê Văn Đức cũng chẳng thiết tha với lệnh bách hại đạo cho lắm, nên cũng lờ đi. Anh liền tố cáo cha Tân xúi dân nổi lọan, y dặn vợ là Yến giả xin học đạo để biết chỗ cha ở, rồi lén đến chôn giấu vũ khí trước khi báo cho quan. Lần này y thành công. Quan nghe tin có nổi loạn, liền đưa đạo quân gồm 1500 lính đến bao vây làng Bầu Nọ ngày 20.6.1837.
Mới đầu viên Lý Trưởng Bầu Nọ cũng là người Công Giáo, đã tìm cách che chở cho cha Tân, nhưng khi quan đưa ông tới chỗ giấu gươm giáo và đánh đòn điều tra, ông liền tiết lộ chỗ của vị thừa sai. Lúc ấy cha Tân đang núp trong bụi rậm, thấy gươm giáo của lính đâm ngay bên mình, biết là không thoát khỏi, cha đứng dậy bước ra trình diện. Quan liền sai lính đóng gông nhốt vào cũi giải về Sơn Tây.
Cha kể lại trong một lá thư rằng: “Thứ năm ngày 22.6, đoàn áp tải khởi hành từ sớm. Suốt con đường, tôi cầu nguyện nói chuyện và ca hát không ngừng. Dân chúng tụ tập và khen tôi vui vẻ quá”. Tiếng hát của cha khá độc đáo và kích thích sự tò mò của nhiều người. Mấy ngày liền, quan bắt cha phải hát, rồi mới cho ăn. Cha liền chọn một khúc thánh ca chúc tụng Đức Mẹ để hát. Từ đây cha bị nhốt vào tù gần ba tháng.
Nhận được tin, vua Minh Mạng ủy quyền cho các quan tỉnh xử án. Các quan cho điệu cha ra tòa, ép cha nhận tội phiến loạn. Cha trả lời: “Thưa quan, chúng tôi chỉ chuyền giảng đạo dạy người ta làm lành lánh dữ, dạy con cái kính thảo cha mẹ, dạy dân vâng phục vua quan. Tôi đâu thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống đối nhà vua được.
Ngày 11.8, cha bị 50 roi kép bện bằng nhiều sợi dây, dầu mỗi sợi dây có một miếng chì, khiến thân thể cha bị rách da xé thịt, máu tuôn thấm cả y phục. Thế nhưng, cha không một lời kêu trách, đứng lên cha lại tiếp tục hát thánh ca. Tám ngày sau, quan bắt cha đạp lên Thánh Giá, cha ôm Thánh Giá lên hôn một cách cung kính. Lính đánh cha nát ba cây roi mây trước khi trả cha về ngục. Lần khác, khi ép tội làm loạn, cha khẳng khái tuyên bố: “Không, tôi thà chịu đủ mọi cực hình, hơn là nhận tội không phạm đó. được sống đấy, nhưng phải mang tiếng xấu suốt đời”.
Chết vẫn còn hát ca
Cuối cùng quan kết án cha phải chém đầu, nhưng khi gửi vào Huế, vua Minh Mạng sửa thành án lăng trì. Nhận được tin do cha Jaccaard Phan báo, cha Tân viết thư cảm ơn và gởi lời vĩnh biệt mọi người. Cha viết thư về cho gia đình:
“Cha mẹ yêu quý, đừng buồn về cái chết của con. Đó không phải là ngày than khóc, mà là ngày vui mừng. Xin hãy nghĩ rằng sau những dau khổ ngắn ngủi con chịu thì con sẽ luôn nhớ đến cha mẹ trên Trời cao. Xin nhận nơi đây tấm lòng thảo hiếu của con. Cornay”.
Ngày 20.9.1837, cha bị đưa ra pháp trường Năm Mẫu ngoài thành Sơn Tây. Ngồi trong cũi giữa đoàn lính tráng đông đảo, cha vẫn vui vẻ tươi cười đọc kinh vả hát thánh ca. Đến nơi xử, cha xin phép cầu nguyện một lát, rồi tự cởi áo và nằm trên thảm trải sẵn. Lý hình đóng bốn cọc bốn phía, trói chân tay ngài vào đó.
Theo luật xử án lăng trì, lẽ ra phải chặt chân tay trước, nhưng viên quan đã tỏ ra nhân đạo hơn, cho chém đầu cha trước, rồi mới đến tay chân. Cuối cùng phân xử thân mình cha làm bốn khúc. Toán lý hình thấy lòng cam đảm của tử tội thì mơ ước hão huyền: Họ móc gan của vị thừa sai rồi ăn sống, có kẻ liếm máu còn đọng lại trên gươm đã chém đầu cha, họ hy vọng nhờ đó họ thêm can đảm.
Được phép quan, tìn hữu xứ Bách Lộc đến chôn cất thi thể vị tử đạo tại chỗ. Hai tháng sau đem về an táng tại Chiêu Ửng.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Cornay tân lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan ĐOÀN VIẾT ÐẠT (1765 - 28/10/1798)
Hiến mạng vì đòan chiên.
“Người mục tử nhân lành hiến mạng sống cho đòan chiên” (Ga 10,11b). Đó là lời Đức Giêsu, đã được thánh Gioan Đạt đem ra thực hiện một cách tuyệt hảo. Đang khi quân lính truy bắt, cha có thừa cơ hội trốn thoát, nhưng vì thương các tín hữu đang bị tra khảo, thấy quân lính tàn nhẫn đánh đập họ vì mình, cha đã tình nguyện ra trình diện.
Gioan Đạt mở mắt chào đời năm 1765 tại làng Khê Cầu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa, giáo phận Tây Đàng Ngoài. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin phép mẹ để hoàn toàn hiến thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, cậu xin vào chủng viện, sau đó, đi giúp xứ một thời gian. Đến năm 1798, thày mơí thụ phong linh mục.
Cha Gioan Đạt được phái đến xứ Hảo Nho, Thân Phú. Vị tân linh mục hết sức lo lắng cho các tín hữu nên được mọi người yêu quý. Cha chính giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận xét: “Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức tuân phục và khó nghèo. Cha luôn chu toàn mọi bổn phận, nên Đức cha và các vị thừa sai đều qúy mến. Lời cha giảng có sức mạnh đặc biệt, có sức thuyết phục lòng người”.
Mới thi hành tác vụ linh mục được 6 tháng, vua Cảnh Thịnh ra sắc lệnh bắt đạo gắt gao hơn trước. Quan trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. cha Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lén về giáo xứ ban các bí tích.
Một hôm cha vừa hoàn tất thánh lễ an táng tại tư gia thì quân lính ập đến. Giáo hữu đưa cha ra sau nhà, và chỉ lối cho cha thoát thân. Thế nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ ra đi. Vì khi đó, lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, nên đang tra tấn chủ nhà, ông Trùm Mới và một số tín hữ khác. Như Đức Giêsu xưa yêu cầu quân Do Thái để các tông đồ được an toàn, cha cũng tự nguyện ra trình diện. Ngài nói: “Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều”.
Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn cùng với thày Tâm và ba vị trong Ban chức giáo xứ. Các giáo hữu ở đó định cậy đông người dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha biết ý, cản họ lại: “Cứ để tôi vâng theo thánh ý Chúa, anh chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, nhớ cầu nguyện cho tôi được vững vàng đến cùng”. Trên đường áp giải cha về Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cha đội, nhưng quân lính không cho.
Chứng tá trong tù
Hai tháng tù tại Đình Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong hoàn cảnh đó mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho mọi người bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói: “Tử đạo là phúc cao trọng An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm”.
Lương dân sống gần trại giam cũng cảm mến thương cha. Một thiếu phụ lòng ngay đưa cha một chai độc dược để kết liễu cuộ cđời khổ đau trong tù ngục. Cha từ chối và giải thích cho bà biết: “Người Công Giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không chấp nhận việc tự tử”. Đặc biệt cha còn cảm hóa được cả đám lính canh ngục. Mới dầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi ca gác, họ lại bắt các tín hữu đút lót tiền, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy được lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có thiện cảm và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho một người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi vào cho cha. Lần khác, cha nói với họ rằng: “Khi nào tôi được phúc lên trời, tôi sẽ chẳng quên anh em dưới thế”.
Ông Thiềng, cai ngục, tỏ lòng quý mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo nghĩa thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ”.
Nhiều lần, cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Ông Hoàng Đệ là em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc chà Thánh Giá, và dù đã áp dụng nhiều hình thức tra tấn dã man, nhưng ông vẫn hoàn toàn thất bại. Có hôm ông yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống cầm lấy ảnh và hôn kính cách sốt sắng.
Hiến lễ dâng Thiên Chúa
Trung tuần tháng 10, ông Hoàng Đệ gọi cha ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ cha lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin mừng đến với cha. Cha Huấn xứ Bạch Bát giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội và đem cho cha Mình Thánh Chúa.
Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Cha Đạt, cổ đeo gông nặng trĩu, phải lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã tiến ra pháp trường Tinh hà. Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện. Khi các quan cho phép, tìn hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng. Cha khuyên họ: “Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa”.
Một hồi chiêng nồi lên, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can đảm. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28.10.1798, khi đó cha Đạt mới 33 tuổi, với chưa đầy một năm phục vụ trong chức linh mục.
Đời sống cha Gioan Đạt là mẫu gương sáng ngời về tình yêu. Yêu lý tưởng, cha hiến thân tu hành, yêu anh em, cha tự nguyện nộp mình, và yêu Thiên Chúa, cha hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài vị tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Đạt lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan ĐOÀN TRINH HOAN (1798 - 26/5/1861)
Theo Đức Kitô
Đức Kitô đã chết để cứu độ nhân loại. Thánh Gioan Hoan đã ý thức cuộc tử đạo là cách noi gương Chúa tuyệt hảo nhất, và tự nguyện đón nhận nó. Trong những ngày cuối cùng, cha đã mượn lời thánh Phaolô để khuyên nhủ những bạn tù rằng:
“Anh em hãy theo gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô (1Cr 11,1). Khi đến phiên mình, anh em hãy theo đường khổ giá tôi sắp đi đây”.
Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798 tại họ Kim Long, Phú Xuân (Huế) trong một gia đình nề nếp, đạo hạnh, nhờ sự hỗ trợ của gia đình, cậu đã dâng mình cho Chúa, và theo học tại chủng viện Pénang (Mã Lai) của hội Thừa Sai Paris. Về sau học song thần học, năm 1836, thày Gioan về nước thụ phong linh mục tại Sài Gòn, phục vụ đắc lực cho Giáo Hội Việt Nam.
Vì sứ mạng tông đồ.
Trong 26 năm linh mục, cha Gioan Hoan đã lãnh nhận nhiều nhiệm sở. Cha nhiệt tình hoạt động nhưng điềm tĩnh, thận trọng và yêu thương mọi người. Hơn nữa, cha có biệt tài nói chuyện rất duyên dáng, nên ở đâu cũng được mọi người quý mến. Dưới thời vua Tự Đức, cha là một trong những linh mục Việt Nam có uy tín nhất do khả năng, tuổi tác và kinh nghiệm hoạt động lâu năm. Dù phải thay đổi chỗ ở liên tục, thực tế cha phải sống ở trên thuyền nhiều hơn trên đất liền, cha vẫn kiên tâm đầu tư tim óc vào việc đào tạo các thày giảng và cổ động hỗ trợ ơn gọi linh mục nơi các thanh thiếu niên. Cha hướng dẫn và giới thiệu nhiều bạn trẻ vào chủng viện của giáo phận.
Đầu năm 1861, nhân dịp lễ Hiển Linh, cha đến xứ Sáo Bùn (Quảng Bình) để thăm viếng, khích lệ các giáo hữu, giải tội và giúp họ mừng lễ. Như thường lệ, cha đến trọ nhà ông Trùm Phượng. Tối ngày 03.01, quan quân nghe tin báo đến bao vây và truy bắt, cha chạy ra sông tìm đường đi trốn, không ngờ vừa đến bờ sông thì gặp ngay một toán lính đi đến. Cha định núp sau một đống củi, nhưng không kịp. Lính bắt và giải cha vào Đồng Hới. Khi đó cha đã 63 tuổi.
Trước tòa án, quan tỉnh đã cho dùng mọi hình thức tra tấn dã man. Ông cho đánh đập tàn nhẫn, rồi cho nung đỏ kìm sắt kẹp vào đùi và tay cha, để bắt cha bước qua Thập Gía và khai thác tin tức về Giáo Hội. Thế nhưng ông đã thất bại hoàn toàn. Dù đau đớn đến lỗi có khi ngất xỉu, cha Gioan Hoan vẫn cắn răng không nói một lời, không tiết lộ những gia đình cha đã trú ngụ, và dĩ nhiên không chịu chối đạo. Ông trùm Phượng và bảy tín hữu khác cùng bị bắt ở Sáo Bún cũng theo gương cha, không tiết lộ chi tiết nào có hại đến những người khác. Cha Hoan và ông trùn Phượng bị kết án xử tử, còn những người kia phải lưu đày chung thân.
Khu vực giam cha Hoan cũng có nhiều Kitô hữu, vì chiến dịch bắt đạo tháng 10.1859 đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, và riêng ở Huế thì tập chung mọi tín hữu trên 50 tuổi. Nhà vua trù tính kế hoạch làm áp lực với quân Pháp để họ triệt thoái các tàu bè ở Cửa Hàn. Nhờ tài xã giao lịch thiệp, cha Hoan đã chiếm được thiện cảm của toàn lính canh ngục. Ngài có thể dễ dàng đến các phòng giam khác của khu vực để thăm viếng các tín hữu.
Trong năm tháng tù giam, cha Hoan dành rất nhiều thời giờ để giải tội, chúc lành và khích lệ các tín hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa ở ngoài gởi vào, cha rước lễ và chia sẻ cho anh em. Thật cảm động biết bao hình ảnh người cha già, tay chân cũng mang xiềng, cổ cũng đeo gông và nắm chắc bản án vì đức tin, đến gặp từng người bạn sắp ra pháp trường để nói đôi lời ủy lạo và ban cho họ “của ăn đàng”. Chính Bánh Trường Sinh, lương thực thiêng liêng đó đã củng cố sức mạnh cho họ trên hành trình cuối cùng về nhà Cha.
Ngày 25.05, trước ngày bị chém đầu, vị mục tử còn đi một vòng thăm các bạn tù lần cuối, khuyên nhủ họ: “Giờ cuối cùng của tôi không còn xa. Phần anh em, những người con yêu quý, anh em còn ở lại trên trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cầu nguyện cho tôi hoàn thành ý Chúa cho trọn”.
Sau khi nghe đọc bản án, cha nói: “con tạ ơn Chúa, Ngài đã cho con biết trước giờ đổ máu vì danh Ngài”.
Dưới bóng Nữ Vương tử đạo
Tối hôm đó cha thức thật khuya để ủy lạo bạn hữu và giải tội cho một vài người. Sáng sớm hôm sau, tù nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và giã từ cha. Cha nói: “Thưa anh em, tôi dám xin mượn lời thánh Phaolô để nói với anh em rằng: Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô”. Cha con vui vẻ hàn huyên mãi không dứt, cho đến khi có lệnh ra pháp trường. Cha nhanh nhẹn đứng lên, cổ vẫn đeo gông nặng trĩu bước theo viên cai ngục.
Ra đến cửa, cha gặp lại ông Phượng, người đã cho cha trú ngụ cũng bị đem đi xử, hai toán toán lính cầm bản án đi phía trước: “Người này tên Hoan, Gia Tô đạo trưởng, dạy đạo tà và quyến rũ dân chúng. Vi phạm đến luật nhà nước là một trọng tội. Phải đem đi xử trảm ngay”. Đến pháp trường, hai vị quỳ trên chiếu đã trải sẵn. Quan hỏi vị tông đồ có muốn trói vào cột không, cha trả lời: “Không cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện nhận cái chết, tôi đã chẳng đến đây. Xin cho tôi vài phút để cầu nguyện”.
Sau đó cha ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa, giơ tay giải tội cho ông Phượng và ra dấu sẵn sàng. Viên lý hình được chỉ định thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội nên nhờ người lý hình khác. Anh lý hình không quen đã phải chém đến ba nhát, sau đó dùng gươm cứa đứt miếng da còn sót lại.
Trước đó, khi cha cởi áo, thấy hai mảnh “Áo Đức Bà” cha đeo phất phới trước ngực, một người lính tưởng là thứ gì quý giá thì xin, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô trả lời: “Cái này tôi không thể cho ai được. Đây là hình ảnh Đức Nữ Vương và là bà Chúa của tôi”.
Giờ đây vị tử đạo đã được Chúa đón về trời để gặp Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo mà cha hằng tôn kính. Đức Thánh Cha Piô X suy tôn linh mục Gioan Đoàn Trinh Hoan lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan Louis BONNARD HƯƠNG (1824 - 1/5/1852)
Quê hương và trầm hương
Cuộc đời thánh Louis Hương, và nhất là cuộc tử đạo của Ngài gắn liền với tên gọi đã được Đức Cha Retordd Liêu đặt cho khi mới tới Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ ý của vị giám mục qua lá thư gởi cho thánh nhân ở trong tù.
“Tôi đã chúc lành cho cha khi đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa là người cha của quê hương là hương trầm và là hương thơm. Chính lúc này đây quê hương yêu dấu đó đang xuất hiện cho cha trong ánh huy hoàng, vì cha sắp là một trong những công dân hạnh phúc. Chính lúc này đây hương trầm chuẩn bị đốt lên trên bàn thờ tử đạo và bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu, chính lúc này đây hương thơm đáng ca ngợi sẽ làm hài lòng Đức Giêsu như bình hương của cô Malađêna, sẽ làm cho Thiên Thần và loài người, trời và đất hân hoan vì hương vị ngọt ngào của nó.”
Vậy đó, suốt đời thánh nhân đã rao giảng về quê hương trên trời, đã chịu đốt cháy trong lao khổ và tỏa hương thơm ngào ngạt cho ngàn muôn thế hệ.
Gioan Louis Bonnard sinh ngày 01-03-1824 tại St. Chisrtoten-Jarret, giáo phận Lyon, nước Pháp. Năm 12 tuổi, cha mẹ lo liệu cho cậu vào chủng viện Alixe. Tuy học hành không xuất sắc, cậu được mọi người mến thương vì tính hiền lành và đời sống đạo đức. Trong thời gian này, cậu được nghe nhiều tin tức và mẫu gương truyền giáo ở vùng Viễn Đông, nên cũng ước ao sang Việt Nam giảng đạo. Ngày 04-11-1846, Bonnard xin vào hội Thừa Sai Paris hoàn tất chương trình thần học và thụ phong linh mục ngày 14-12-1848. Đầu năm 1849, cha Bonnard lên đường sang Việt Nam.
Khi vừa đến Phố Mới (Singapour), các bề trên định cử cha sang Ai Lao. Nhưng vì đường bộ không thể đi được, cha phải vòng về Hương Cảng tìm đường khác. Cuối cùng các bề trên quyết định bổ nhiệm cha vào Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương và tạo điều kiện học ngôn ngữ và phong tục ngôn ngữ Việt Nam.
Trái chín của trời cao
Sau đó Đức Cha đặt cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời 5 linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Báng, nhiều tín hữu ở chung quanh cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một số tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về giúp cho xứ của mình. Khi đó vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt, nên cha lưỡng lự mãi nhận lời. Ngày 21-03-1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ cha ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em thì thấy quân lính đến bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện, quân lính đi nhanh quá cha nói với họ rằng: “Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội” lính mới đi chậm lại.
Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan huyện không tiếp. Đức cha gởi thư cho cha Hương như sau: “Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho miền truyền giáo. Có thể thấy rõ rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu của Đức Kito âkhổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha bỏ Kẻ Báng để chui đầu ngõ cụt Bối Xuyên?”
“Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái biết bao nhiêu thành quả. Những bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức « Thôi, tôi sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài cha là trái cây chín mọng giữa trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về.”
Ngọt ngào biết bao đau khổ vì Đức Kitô
Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải Ngài đến Nam Định. Hơn một tháng tù cha bị đưa ra tra khảo bốn lần. Cũng như các vị thừa sai khác, quan Tổng Đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những gì làm tại Việt Nam . nhiều lần các quan đã hỏi những nơi cha đã đi qua hay đã trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp: “Các ngài muốn đánh thì cứ đánh, chư đừng mong tìm được một lời có hại đến tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết. Các ngài sẽ lầm to nếu tôi tiết lộ điều gì dù rất nhỏ”. Khi các quan nói cha đạp lên Thánh Giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời: “Tôi đã nói tôi không sợ đòn đánh hoặc cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả.. Tôi không đến đây để chối đạo, hay làm gương xấu cho các Kitô hữu..”
Trong một lá thư cha Hương tâm sự rằng: “Nói chung trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức kitô: 'Các con đừng sợ phải trả lời những gì các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con'. (Mt.10,20). Thực vậy tôi không thấy bối rối chút nào, không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam dễ dàng và lưu loát như thế”.
Thứ sáu tuần thánh năm đó, Đức Cha Liêu tìm gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục giải tội và đưa mình thánh. Cha Hương tâm sự: “Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến thế, khi mang trong mình vua các Thiên Thần. Quả thật phải vô tù mang gông xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô Đấng chúng ta hằng yêu mến, thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao ? Ồ, không ngược lại tôi thấy vui mừng vì có thể nói như thánh Phaolô: “Người tù của Đức Kitô'.
Cha Hương cũng viết tư an ủi song thân rằng: “Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mừng vì được phúc trọng ấy sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên Đàng, khi đó chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa.”
Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo thì viết án gởi về kinh đô rằng: “Chúng thần đã tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây một loại trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử hình”
Nhận được tin về bản án, Đức Cha Liêu viết vào tù:
“Xin cha cứ bình an. Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ. Cha xin tôi ban phép lành, nhưng tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến muôn đời, phải tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là “CỐ HƯƠNG » Nguyện xin sức mạnh của Chúa cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. Nguyện xin công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón nhận nghành vạn tuế tử đạo”
Trong tay ngài, lạy chúa !
Và đây là bảng di chúc của vị chứng nhân: “Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên trời. trông cậy vào lòng nhân từ của Đức Kitô, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội lỗi cho tôi, tôi tự nguyện hiến dâng mạng sống và máu vì yêu thương Người và vì những linh hồn yêu dấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai thứ 7, ngày 01-05, lễ thánh Philiphê và Giacôbê Tông Đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong tay Ngài lạy Chúa xin phó thác linh hồn con ngừơi tù của Đức Kitô”.
Sáng ngày 01-05-1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi cha quỳ trên chiếu cầu nguyện. Cha phải chờ mộr giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông, phải chạy vền nhà kiếm. Sau đó họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kỷ niệm, nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu tử đạo được đưa lên thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó Đức Cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ và an táng vị tử đạo trong chủng viện.
Ngày 27-05-1900, Đức Giáo Hoàng Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Gioan THÉOPHANE VÉNARD VEN (1829 - 2/2/1861)
Nụ cười bất tận
Tạp chí “Những người ra đi” (1) số dành riêng cho hội thừa sai Pari đã phác họa chân dung vị thánh Tử Đạo trẻ trung, linh mục Théophane VÉNARD VEN như sau: “Phải nói rằng khi anh chào đời một đóa hồng nở trên môi, một cánh chim cất tiếng líu lo bên tai. Bởi vì khi anh diễn tả ý mình, lời anh tràn ngập những hình ảnh dễ thương dịu dàng duyên dáng. Mối tình thân từ nhỏ cũng như sau này, anh càng duy trì bền vững ngày càng đậm đà, ngọt ngào và thánh thiện.
“Đời anh là một bài ca trong lúc vui lúc buồn. Từ những biến cố thời học sinh cho đến lòng sốt sắn khi gia nhập hàng tư tế. Anh hát lên khi rời đất Pháp, anh hát lên khi thấy đất Việt Nam.
“Trong những lá thư dài và thường xuyên, anh kể lại cho gia đình từng chi tiết anh gặp trong đời. Đối với anh đời tông đồ sao mà thoải mái, vui tươi dễ yêu đến thế ! Anh thi vị hóa tất cả: Với anh việc cực nhọc thành nhẹ nhàng, gánh nặng nên nhẹ nhõm, bệnh tật không làm anh nản chí, anh coi như cơ hội thưởng ném những giây phút nghỉ ngơi, các cuộc hành trình qua đồng lầy, núi cao hay trên đường sỏi đá, anh diễn tả dưới màu sắc tươi mát như đi dạo giữa mùa xuân. Anh quả là cây huệ có sức mạnh của cây sồi.
Chúng ta chỉ có thể đoán ra những cực hình anh chịu, vì anh mô tả chúng đằng sau những cánh hoa kỳ diệu, mà anh không ngừng gieo trồng tung vãi mọi nơi cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Những cánh hoa đó nở rộ trong công việc của anh, nở trong những cực hình, nở trong cũi gỗ, nở trên những dụng cụ tra tấn và nở ngay trên mảnh đất thấm máu đào của anh. Quan tòa cũng trở thành bạn hữu, lý hình cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ, đối với anh, nhát gươm chém đầu định mệnh cũng chỉ là “ngắt nhẹ cánh hoa tuyển lựa, để trang hoàng trên bàn thờ”.
Tìm viên ngọc Viễn Đông
Gioan Théophane Vénard sinh ngày 21-11-1829 sinh tại Saint Loup sur Thouet, thuộc thị trấn Deux Sèvres nước Pháp. Thân phụ ông là Gioan Vénard, thân mẫu là bà Marie Gueret. Gioan Théophane Vénard chịu ảnh hưởng rất nhiều nơi thân phụ. Chính ông dạy dỗ và gợi lên trong cậu ước nguyện làm linh mục. Cũng chính ông gởi gắm cậu cho cha xứ để học tiếng Latinh. Năm 14 tuổi, thân mẫu cậu qua đời, chị mélanie trở thành người bảo mẫu hiền dịu, đã cùng với thân phụ chăm sóc khích lệ cậu vượt qua mọi khó khăn thời chủng viện, và thư từ thường xuyên với linh mục Vénard trên bước đường truyền giáo sau này.
Mãn khóa triết học sau này, thày Vénard được chuyển qua giáo phận Poitiers tiếp tục khóa thần học (1848). Qua các thư từ gởi cho thân phụ, ta biết thầy Vénard tại Poitiers đã thao thức nhiều về việc truyền giáo. Do đó, ngay sau khi lãng chức phó tế, thầy xin gia nhập hội thừa sai giáo phận. Năm 1852, thầy được Đức cha Piô phong chức linh mục, vị tân linh mục nôn nao chờ ngày được phái dến Việt Nam.
Ngày 23-09-1852, cha xuống tàu ở cảng Anvers để thế chân thừa sai mới bị trục xuất khỏi Việt Nam. Sau bốn tháng rưỡi bập bềnh trên biển cả, cha Vénard đến Singapo. Nơi đây cha gặp bốn chủng sinh Việt Nam với những xúc động sâu xa, vì cha coi họ là anh em của các vị tử đạo. Sau đó cha được đưa đến Hồng Kông chờ cơ hội. Ở đây cha nỗ lực học thêm tiếng Hán. Trong một lá thư viết từ Paris, cha Darran nói với cha Vénard rằng: “Thưa cha, viên ngọc quý Việt Nam được trao cho cha rồi đó.” (02.1854).
Ngày 13-07-1854 cha cập bến Cửa Cấm, và được tiếp đón cách long trọng tại tòa Giám Mục Vĩnh Trị, trụ sở Đức Cha Retord Liêu đang phụ trách giáo phận Tây Đằng Ngoài. Sau vài tháng học tiếng cha tháp tùng Đức Cha đi kinh lý khắp nơi, và dạy học ở chủng viện. Đầu tháng 03-1857, viên tri huyện Vĩnh Trị là bạn thân Đức Cha Retord, trước khi đem quân đến vây bắt, ông đã báo tin cho biết, nhờ đó Đức Cha Retord và cha Charbonnier chạy thoát (cha Lê Bảo Tịnh ra trình diện). Từ đây bắt đầu những ngày lưu lạc của cha Ven, nay đây mai đó không lúc nào yên ổn.
Tù tội vì yêu thương
Ngày 30-11-1860, nhân lúc cha đang ở Kẻ Bèo, viên Cai Đội đem 5,6 chiếc thuyền chở khoảng 20 người đến vậy bắt cha. Cha liền trốn giữa vách đôi của căn nhà, cai đội thét lớn tiếng: “Tây dương đạo trưởng đâu ra đây ngay”. Thầy giảng Phêrô Khang tìm cách nói tránh đi: “Ở đây chỉ có tôi thôi. Ông Cai thương tôi được nhờ, ông Cai bắt tôi đành chịu”. Vì đã được mật báo, viên cai đội cho lệnh trói thầy, rồi đi thẳng tới vách nhà vị thừa sai đang ẩn, và đập thật mạnh bật tung miếng ván che ra, bắt cha Vénard Ven nhốt vào củi giải về Thăng Long (Hà Nội). Trong những ngày chờ đợi, một viên tổng trấn đối xử với cha một cách lịch sự. Ông cho đóng một chiếc cũi rộng hơn một chút và trói cha bằng sợi dây xích nhẹ nhất. Thỉnh thoảng còn mời cha lên phủ ăn cơm như người tự do. Nhưng thời gian đó kéo dài không bao lâu.
Trong lá thư gởi cho gia đình, qua chị Mélanie, cha kể: “Em đã đến Kẻ Chợ (tên cũ của Hà Nội). Cả nhà thử tưởng tượng coi: Ngồi bó gối trong cũi gỗ, tám người lính khiêng hai bên, đám đông dân chúng ồn ào bu lại nhìn xem. Em nghe họ nói: 'Chàng Âu Châu này dễ thương quá. Anh ta thản nhiên và vui tươi như đi dự lễ tiệc, chẳng tỏ vẻ gì là sợ hãi cả'. Em cầu nguyện với Nữ Vương các Thánh Tử Đạo, xin Đức Mẹ phù trợ cho người tôi tớ nhỏ bé của Mẹ. Mới đầu quan tòa cho em uống một chén trà. Em bị ngồi cũi nhưng em uống một cách thản nhiên. Rồi quan tra hỏi như thường lệ:
- Anh đến An Nam để làm gì ?
- Tôi đến đây chỉ để giảng đạo thật.
- Anh bao nhiêu tuổi rồi ?
- Thưa, ba mươi mốt.
Viên quan tỏ vẻ thương cảm thốt lên: “Hắn còn trẻ quá”. Rồi ông hỏi: “Ai sai anh đến đây?” Em đã đáp: “Không phải vua quan đất Pháp gởi tôi đi. Tôi muốn đi rao giảng đạo lành cho mọi người, và các bề trên trong đạo gởi tôi đến Việt Nam.”
Khi viên quan muốn gán cho cha tội xâm lược của Pháp, cha khẳng khái trả lời: “Không bao giờ chúng tôi ủng hộ quân viễn chinh đâu. Nếu không tin cứ để tôi đến gặp họ, tôi sẽ khiển trách việc họ đến gây chiến. Nếu tôi thất bại xin tình nguyện về đây nộp mạng.
- Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ thoát chết.
- Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được ? Tôi thiết nghĩ cuộc sống đời này đâu quá quý, đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo.
Ngày 03-01-1861, cha viết thư cho Đức Cha Theurel: “Gươm đã ở kề sát bên cổ mà con chẳng rùng mình chút nào. Thiên Chúa nhân lành đã hộ trợ sự yếu đuối của con, nên con thấy vui mừng. Thỉnh thoảng con lại cất cao tiếng hát trong cung điệu này:
Lạy Mẹ dấu yêu
Xin thương đặt con
Trong Quê đời đời
Bên thánh nhan Người.
Lạy Mẹ Vô Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới đầu gươm của lý hình, xin nhận lấy tôi tớ nhỏ bé như trái nho chín được hái, như bông hồng nở rộ, được ngắt về dâng kính Mẹ AVE MARIA”.
Nhờ một giáo hữu tên Hương dẫn lối, linh mục Thịnh đã đến bên cũi của vị thừa sai giải tội cho cha. Sau lại nhờ một bà đạo đức chuyển cho cha một hộp nhỏ đựng mình thánh chúa. Cha Vénard Ven cung kính chầu thánh thể cho đến nửa đêm, rồi mới chịu lễ. Một lần khi trao mình thánh bị phát hiện, bà này nhanh miệng giải thích là thuốc bổ để trị bệnh.
Ngàn thu vĩnh phúc
Ngày 02-02-1861, nghe quan tuyên đọc bản án trảm quyết, cha Vénard Ven liền mặc áo lông cừu trắng toát mà cha may riêng để mặc trong ngày tử đạo. Cha muốn mặc trang phục đại lễ. Một toán lính độ 200 người và hai sĩ quan cỡi voi áp giải vị anh hùng đức tin ra pháp trường. Suốt nửa giờ hành trình, cha không ngừng hát thánh ca và kết thúc bằng lời kinh “Magnificat”, lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ thuở xưa. Tới nơi đã định, lính tháo gông cùm cho cha. Cha liền đứng trên chiếc chiếu đã được trải sẵn, và nhìn khắp tứ phía có ý tìm cha Thịnh để lãnh ơn tha thứ lần cuối. Nhưng cha Thịnh vì không rõ giờ hành quyết nên chưa đến.
Một lý hình thấy chiếc áo cha mặc đẹp quá nên tình nguyện chém cha. Anh ta nói dối rằng cha phải xử lăng trì để cha cởi áo ra cho hắn lấy. Hắn còn đòi đút tiền để chém sao cho mau chết. Vị anh hùng chỉ cười và nói: “Có hề chi đâu, càng lâu càng tốt”. Rồi đưa tay cho hắn trói vào cột, ba hồi chiêng trống vừa dứt, lý hình vung gươm chém lần thứ nhất, gươm trượt qua một bên vào má. Nhát gươm thứ hai y bổ đầu cha ra làm đôi. Năm đó cha Ven mới 32 tuổi.
Các giáo hữu phải nộp tiền để xin an táng thi hài và chuộc lại y phục của cha. Còn thủ cấp của cha thì bị bêu lên cây ba ngày rồi thả trôi sông, sau các thuyền chài vớt được đem về tôn kính. Năm 1865, Đức thánh cha Piô X suy tôn cha Gioan Théophane Vénard Ven lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng rất ngưỡng mộ đời sống và những suy tư của cha Gioan Théophane Vénard Ven, thánh nữ đã trích dẫn nguyên đoạn văn cha viết cho thân phụ rồi tiếp: “Tư tưởng và tâm hồn của tôi cũng giống như tư tưởng và tâm hồn của ngài.”
================
Giuse ĐẶNG ĐÌNH VIÊN (1758 - 21/8/1838)
Noi gương Đấng chăn chiên lành
Đang trốn trong vườn mía, linh mục Đặng Đình Viên bỗng bàng hoàng nghe tiếng kêu thảm thiết của đứa bé con người chủ nhà đã cho cha trú ẩn. Thì ra, quan quân đang tra hỏi để cậu bé chỉ chỗ cha ẩn trốn.
“Giêsu, Maria, cứu con với !”
Quả là chua xót khi nghe thấy tiếng kêu la đau đớn trong cung giọng ngây thơ đó ! Cha Viên có thể chịu nổi những tiếng kêu xé lòng đứt ruột đó không ? Làm chủ chiên phải sẵn sàng phục vụ đàn chiên. Nếu vì sứ vụ, cha đã phải trốn tránh quan quyền thì lúc này đây, cũng chính sứ vụ đó thúc đẩy cha phải ra mặt để cứu đứa trẻ. Cha bước ra khỏi khu vườn mía kín đáo và nói: “Tôi là đạo trưởng Viên các anh đang tìm bắt đây. Xin đừng làm khổ đứa trẻ này nữa”.
Tuổi xanh và lý tưởng
Giuse Đặng Đình Viên còn có tên là Lương. Sinh năm 1785 tại làng Tiên Chu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Khi còn nhỏ, cậu sống và học hành ở họ Vân, Huyện Ân Thi là quê ngoại của cậu. Khi cha mẹ qua đời, cậu Viên theo giúp các linh mục thừa sai, nên được vào chủng viện.
Năm 1821, thày Viên thụ phong linh mục và coi sóc giáo hữu làng Lục Thủy, tỉnh Nam Định. Hai năm sau, cha được cử đi giảng đạo ở xứ Bắc, giúp các họ Đông Bài, Thiết Nham, Như Thiết, An Mỹ. Suốt 17 năm thi hành sứ vụ linh mục, cha Viên nổi tiếng là linh mục đạo đức, siêng năng đối với mọi công việc, làm sáng danh Chúa, cha được mọi người nhận biết và yêu mến.
Ngày 17.04.1838, thày giảng Vũ văn Lân được cha cử đi lãnh dầu thứ Năm Tuần Thánh bị bắt cùng với sáu bức thư của cha gởi cho hai Đức cha và bốn linh mục khác. Các quan định giấu nhẹm sáu bức thư này đi, nhưng Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại đem về kheo với vua Minh Mạng. Vua liền thịnh nộ cho rằng quan phía Bắc bao che cho tà đạo và dọa truất chức quan Trịnh Quang Khanh nếu không bắt được người gởi thư và những người được thư gởi đến. Tuần phủ Hưng Yên là Hà Thúc Lương được lệnh bằng mọi giá phải bắt cha Viên, nếu không phải chịu tội thay.
Không ngờ chỉ một chút bất cẩn, những lá thư của cha Viên đã là nguyên nhân một chiến dịch bách hại đẫm máu tại Nam Định và Hưng Yên. Hai Đức cha Delgado Y và Henarez Minh, cha Chính Hiền và bao vị tử đạo, chưa kể những tổn thất về cơ sở và việc xáo trộn mọi sinh hoạt tôn giáo ở các giáo xứ.
Tất cả vì con chiên
Tại Hưng Yên, quan quân lục soát khắp nơi mà vẫn không bắt được cha Viên. Các quan phải dùng mọi mưu: họ giả mạo thư của gia đình cha và mua chuộc hai người bà con với cha cũng là người công giáo, cầm thư để đi tìm người chỉ chỗ cha trốn.
Ngày 01.08,1838, sau khi biết chắc được cha đang trốn ở họ Cầu Chay, xã Như Thiết, quan cho lính đến vây bắt, nhưng cha đã kịp thời chạy vào khu vườn mía rậm rạp. Éo le thay, các quan quân tức giận vì bắt hụt cha, đã dùng mưu đồ bắt ngay đứa con trai chủ nhà mà cha đang ẩn ra tra khảo. Chính sự đau đớn và tiếng kêu la thảm khốc của cậu bé đã làm cha xúc động và ra trình diện. Thế là cha đã cho em không phải một bát nước lã, mà là chính bản thân của cha. Hành vi cao thượng đó chắc chắn đã do từ tấm gương tuyệt vời của Đấng chấp nhận hy sinh chính mạng sống để cứu độ nhân loại.
Phúc vinh tử đạo
Tại tỉnh Hưng Yên, các quan bắt cha Viên dịch các bức thư của cha đã bị tịch thu trước đây ra tiếng Việt. Đến khi thấy các thư đó không có gì là bí mật hay âm mưu cả, họ liền khuyên cha chối đạo để tha về, cha Viên cương quyết trả lời: “Dù có chết tôi cũng không quá khóa. Tôi là đạo trưởng mà quá khóa thì ai theo đạo nữa ?”. Ngày 03.08, các quan gởi án về kinh xin xử trảm. Ngày 21.08, án lệnh về đến tỉnh. Các quan cố thuyết phục cha lần cuối nhưng vô hiệu, nên tuyên đọc bản án và đem thi hành ngay hôm đó. Thẻ bài của cha ghi như sau: “Đạo trưởng Đặng Đình Viên, tùng gian tà đạo, liên lạc đạo trưởng Tây Nam, tụ tập đạo đồ, đạo chủng, đạo thư, bất khẳng quá khóa, vi phạm quốc pháp, luật hình trảm quyết”.
Dịch là: “Linh mục Đặng Đình Viên theo đạo tà, liên lạc với các linh mục Tây và Việt, tụ tập giáo dân, chủng sinh, tích trữ sách đạo, không chịu bước qua thập giá, vi phạm luật nước, luật xử phải chém”
Trên đường ra pháp trường Ba Tòa, cha Viên sung sướng cảm động tạ ơn Chúa. Khi đó hai người họ hàng đã tiết lộ chỗ cha ẩn đến xin cha tha thứ. Cha nhân từ nói: “Cha tha cho các con.”. Cũng như Chúa Giêsu trước giây phút cuối cùng trên Thập Giá sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại và giết Ngài, giờ đây cha Viên vui mừng ban lời thứ tha cho hai người nộp mình.
Sau khi ăn chút cơm, cha Viên quỳ trên chiếc chăn bông được trải sẵn, ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Giờ hành xử đã đến, lý hình vung gươm, đưa vị chứng nhân Đức Kitô đầy lòng trắc ẩn lên đài vinh quang tử đạo. Các tín hữu ùa vào thấm máu vị tử đạo. Một người lính thấy vậy liền lấy áo Ngài cắt ra bán cho họ nữa. Hôm đó là ngày 21 tháng 8 năm 1838. Thi hài cha đã được khoảng 300 tín hữu rước long trọng về an táng tại nhà thờ Tiên Chu.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Giuse Đặng Đình Viên lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Giuse FERNANDEZ HiỀN (1775 - 24/7/1838)
Cuộc hội ngộ trong tù.
Khi bị thẩm vấn về các thừa sai, linh mục Fernandez Hiền liền nhận là có quen thân với hai Giám mục Delgado Y và Henares Minh. Cha xin quan cho gặp mặt vì biết hai vị đang bị giam cầm ở đây. Cuộc gặp kéo dài gần tiếng đồng hồ, mỗi vị một cũi. Nhưng cũng đủ để ba vị thủ lãnh giáo phận Đông trao đổi, an ủi và khích lệ nhau. Đức cha Delgado Y vì bệnh nặng nên ít nói hơn. Nhưng bỗng nhiên ngài hỏi cao giọng bằng tiếng Việt, chắc có ý cho quan quân nghe được: “Này cha bề trên phụ tỉnh, cha đã sẵn lòng tự nguyện để người ta chém đầu chưa ?” Không chút ngần ngừ, cha chính Hiền trả lời: “Dĩ nhiên đã sẵn sàng”. Các quan và lính tráng có mặt hôm đó đều ngạc nhiên hết sức khi thấy những tù nhân của họ nói đến cái chết cận kề, mà vẫn bình tĩnh, nếu không nói là vui vẻ nữa.
Hai ngày sau, tân tư của cha Hiền được khẳng định rõ hơn cho các quan: “Xin các ngài biết cho, không bao giờ tôi chà đạp Thánh Giá. Còn việc về nước (Tây Ban Nha) thì tôi không muốn, vì tôi đến đây với ước nguyện là giảng đạo Chúa Kitô, đạo chân chính duy nhất giúp con người sống tốt đẹp ở đời này và đạt hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Tôi sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho người dân Việt biết đạo Thiên Chúa là đạo thật. Đó là mục đích và niềm vui của tôi”.
Hành trình rao giảng
Giuse Fernandez sinh ngày 03.12.1775 trong một gia đình đạo đức ở Ventosa de la Cuesta, tỉnh Valladolid, giáo phận Avila, Tây Ban Nha. Cha mẹ cậu rất hân hoan khi cậu xin vào dòng Đaminh, và coi đó là một vinh dự cũng như đặc ân Chúa ban cho gia đình. Tại tu viện thánh Phaolô (ở Valladolid) cậu tuyên khấn ngày 02.08.1796, khi mới 17 tuổi. sau đó thày Fernandez học triết lý và thần học, rồi được thụ phong linh mục.
Để thực hiện hoài bão truyền bá Tin Mừng cho niền Viễn Đông, cha Fernandez xin chuyển qua Tỉnh Hạt Rất Thánh Mân Côi và tới Manila (Phi Luật Tân) ngày 16.04.1805. Từ đây ngài đến Macao cùng với ba cha dòng Đaminh khác: Luis Villanova, Giacôbê Mateo và Manuel Gonzalez. Ngày 18.02.1806, bốn tu sĩ thuyết giáo theo một tàu của Anh vào bến Cửu Hàn (Đà Nẵng). Từ đây, bốn vị riệng rẽ đi bộ lên giáo phận Đông Đàng Ngoài, trời có bão, các thuyền bè không ai giám chở. Tháng 6 năm đó, cha Fernandez đến được trụ sở Bề trên phụ tỉnh.
Việt Nam thời này đang dưới quyền Gia Long, các thừa sai tương đối tự do giảng đạo. Sau một vài tháng học tiếng, vị tông đồ trẻ tuổi đã bắt tay vào công việc truyền giáo hăng say. Vốn bản tính hiền lành, khiêm tốn và nhã nhặn, cha Hiền được mọi người cả giáo lẫn lương đều quí mến. Nhờ đó cha đã giúp nhiều lương dân đón nhận đức tin, nhất là tại làng Xuân Dục.
Giáo xứ cha Hiền phụ trách lâu nhất là Kiên Lao, nơi cha đã nâng số tín hữu lên đến 5.000 khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Từ đây cha phụ trách chủng viện của giáo phận. Năm 1837, sau một cơn bệnh kiết lỵ suýt chết, tỉnh dòng trao cho cha chức vụ Bề Trên Phụ Tỉnh. Cha vâng lời nhận trách nhiệm với sự trợ giúp của linh mục phụ tá Hermosilla Vọng. Tuy làm cha chính có vài tháng, cha đã phải lãnh trách nhiệm trong giai đọan bão tố của giáo phận Đông. Những lá thư của cha Viên bị tịch thu đã tố cáo sự hiện diện của các linh mục ngoại quốc tại Nam Định.
Cô đơn và niềm an ủi.
Trong cơn truy lùng gắt gao của Tổng đốc Trịnh Quang Khanh năm 1838, cha Hiền đang ở chủng viện Ninh Cường, được giáo dân yêu cầu dọn đi nơi khác: “xin cha thương chúng con mà lánh đi nơi khác, kẻo nếu họ bắt được cha ở đây, chúng con sẽ mất hết tài sản và có lẽ mất cả đầu nữa”. Thế là vị linh mục 63 tuổi đang mang trọng bịnh, đành phải ra về Quần Liêu, có hai thày giảng theo giúp đỡ ngài.
Khi đến Quần Liêu, giáo hữu ở đây cũng lo sợ không kém bên Ninh Cường. Vì sợ liên lụy, họ đã xin ngài đừng ở lại. Một lần nữa cha Hiền và hai thày giảng lại ra đi mà không biết đến đâu, vừa đi vừa nghĩ đến gương của Thày Chí Thánh: “Cáo có hang chim trời có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu”. Nhưng may mắn thay, đang tình trạng bế tắc đó thì một linh mục Việt Nam xuất hiện.
Cha Phêrô Tuần đang coi xứ Lác Môn khi biết tin, liền đến Quần Liêu can thiệp. Cha trách các tín hữu ở đây bội bạc, và yêu cầu họ cho cha Hiền lưu lại vài ngày. Cha Tuần cũng quyết định ở lại để tìm chỗ ẩn mới cho vị thừa sai. Hai ngày sau, hai cha vượt sông qua giáo phận Tây đàng Ngoài, ghé vào xứ Kim Sơn. Nhưng vừa đến nơi thì hay tin quan tỉnh Nam Định đã ra lệnh cho quan địa phương lùng bắt hai vị rồi. Dân xứ Kim Sơn vì thế không giám lưu giữ, họ mời hai vị linh mục lên một chiếc thuyền nhỏ rồi đưa các vị vào vùng xình lầy gần đó. Địa điểm này tuy an toàn không bị truy lùng, nhưng quả là gian khổ vì bùn lầy tanh hôi, ban ngày thì nắng cháy da, đêm về thì làm mồi cho muỗi đốt.
Con đường thập giá.
Cũng may có cha xứ Kim Sơn khi biết tình trạng bi đát của hai chứng nhân đức tin liền tìm cách thu xếp. Hai ngày sau, ngài cho người rước hai cha về trú ở nhà ông Bát Biên (hàm Bát Phẩm), là người thọ ơn cha xứ nhiều lần. Hơn nữa ông này ngoại giáo nên ở đây an toàn hơn. Thực tế Bát Biên xử với hai vị rất tốt suốt tám ngày liền, trước khi lập mưu giao nộp để lãnh thưởng.
Đêm 18.06, ông ta nói dối rằng: “Con nghe tin quan biết hai cha ở đây, và quan quân sắp đến vây làng, con phải đem hai cha đi nơi khác, an toàn hơn”. Rồi ông ta mời cha chính Hiền xuống thuyền đem nộp ngài cho quan quân trên bờ sông Qui hậu. Sau đó, về nói dối để chở cha Tuần đi nộp tiếp. Nhờ việc tố giác này, Bát Biên được vua Minh Mạng tăng thêm một cấp quan và thưởng cho 100 nén bạc.
Đêm hôm đó, hai môn đệ Chúa Kitô bị giam tại huyện, các ngài giải tội cho nhau và khích lệ nhau chịu đựng gian khổ dù phải chết. Sáng hôm sau, quân lính điệu hai cha lên Ninh Bình, cha Hiền bị nhốt trong cũi bằng tre, cha Tuần phải mang gông nặng. Ngày 22.06, hai cha được giải về Nam Định, các quan và lính võ trang ra đón hai cha giữa tiếng hò reo chiến thắng. Sau đó họ giam mỗi vị một nơi.
Ngồi bó gối trong cũi tại ngục Nam Định, cha Hiền phải chịu đói khát, và nhất là cơn nóng nực. có lẽ ngài đã chết tại đó nếu không được anh Đường, một tín hữu tốt bụng đến tiếp cứu. Anh đã bỏ tiền ra mua chuộc lính gác để được vào tiếp tế mỗi ngày một ít lương thực. Mấy ngày đầu, anh còn phải giúp ngài đưa từng miếng cơm, ngụm nước vào miệng vị linh mục quá kiệt sức đến độ tự mình không thể ăn uống được nữa.
Một tháng trong tù, nhiều lần cha bị đưa ra tòa để đối chất. Quan Tổng đốc mới Lê Văn Đức điều tra ngài về lý lịch, đến đây làm gì, bao lâu ? Cha cố trả lời vắn tắt để không liên lụy đến ai. Cha nói: “Từ ngày vua cấm đạo, chúng tôi mạnh ai nấy chốn, chẳng biết ai ở đâu cả”. Quan hứa sẽ đặt cha làm thông dịch viên nếu chịu bỏ đạo, cha đáp: “Tôi đến đây không để phục vụ vua chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng đạo Đức Chúa Trời thôi”. Thế rồi, cha xin được gặp hai Đức cha đã bị giam trước, và bình tĩnh tỏ lòng sẵn sàng chết vì đức tin theo vị chủ chăn của mình. Thấy không thể làm cha bỏ đạo, đạp lên Thánh Giá, các quan họp nhau và nên án trảm quyết ngài. Bản án của cha và cha Tuần được vua Minh Mạng châu phê tới Nam Định ngày 18.07. Cha Phêrô Tuần vì tuổi già sức yếu, đã về với Chúa trước đó ba ngày.
Giây phút vinh quang.
Sáng ngày 24.07, trước khi đem đi xử, các quan còn khuyên dụ cha Hiền lần cuối: “Lát nữa ông sẽ bị chém đầu nếu không đạp lên Thập Giá. Hãy quyết định lại đi, ông sẽ được tha về Âu châu”. Vị chứng nhân trả lời: “Tôi không chịu đạp lên Thánh Giá, các ông muốn chém thì cứ chém”. Sau đó nhốt cha trong cũi, các quan để mặc dân chúng đến xem chế nhạo. Họ kéo đến chửi mắng, bứt tóc giật râu hoặc thò tay đấm vào người cha.
Khoảng 2 giờ chiều, quan quân mới đưa vị linh mục đến pháp trường Bẩy Mẫu. Khi quân lính kéo ngài ra khỏi cũi và ném lên chiếu, ngài hầu như không gượng dậy nổi, phần vì đau mệt, phần thì đói lả, ngài nằm sõng soài ra đó. Tuy thế, cặp mắt của vị anh hùng vẫn hướng về trời cao, dâng lên Thiên Chúa hy tế đời mình và dâng lời cảm tạ sốt sắng qua 32 năm đã được phúc làm chứng cho Thiên Chúa ở Việt Nam. Lý hình vung gươm xử chém đang lúc chứng nhân còn chìm sâu trong ý nguyện.
Đầu vị tử đạo phải bêu ba ngày trước khi bị ném xuống sông. Các giáo hữu đem áo quan theo sẵn, đút tiền để đưa thi hài ngài về án táng tại chủng viện Lục Thủy. Hiện hài cốt ngài còn để tại nhà thờ Phú Nhai.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn cha Giuse Fernandez Hiền, dòng Đaminh, lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
================
Giuse NGÔ DUY HIỂN (1796 - 9/5/1840)
Người tông đồ kính thánh giá
Ấn tượng đẹp nhất trong cuộc tử đạo của thánh Giuse Hiển là hình ảnh cụ già 71 tuổi, sau bao cực hình tra tấn ban ngày, mỗi tối nằm dài trong nhà lao nắn nót vẽ trên vải từng mẫu ảnh thánh giá mỹ thuật, với những nét hoa văn tinh tế, khi giáo hữu đến thăm cha phát cho mỗi người mỗi mẫu, khuyên họ cung kính suy ngẫm và xin ơn bền đỗ. Có người được ban ơn lạ vì mang trên mình hình ảnh thánh giá đó. Thế là trong tù cha vẫn phát động phong trào suy tôn thánh giá ở Nam Định. Về sau, vì số người đến xin ảnh nhiều quá cha phải nhờ một anh bạn tù khắc mẫu Thánh Giá đó vào gỗ rồi dùng mực in ra nhiều bản mới cung ứng đủ nhu cầu.
Giuse Hiển sinh năm 1796 tại làng Quần Anh Hạ. Tỉnh Nam Định. Từ thuở bé, gia đình đã gởi gấm cậu đến sống với Đức Cha Delgado Y dòng Đaminh. Sau khi học xong thần học, thày Hiển được thụ phong linh mục và được gởi đi du học ở Manila. Ngày 12-01-1812, cha được lãnh áo dòng Đaminh và năm sau vào khấn dòng. Trở về Việt Nam cha giúp nhiều giáo xứ, lâu nhất là xứ Cao Mộc. Mọi người công nhận cha sống thánh thiện, miệt mài với kinh nguyện và cha sống hoán cải lòng người. Ai nghe cha khuyên nhủ cũng thấy lòng mình sốt sắng muốn canh tân sửa đổi đời sống sao cho xứng danh kitô hữu.
Khi vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo, cha Hiển là bạn đồng hành với Giám Mục Henares Minh trên đường lưu lạc. Năm 1838, khi Đức Cha về Xương Điền, Ngài xin về quê cũ là Quần Anh, sau lại di chuyển qua Hưng Nghĩa rồi ở họ Trung Thành suốt 9 tháng. Tuy khó khăn và luôn luôn trốn, cha vẫn cố tìm cách phục vụ cộng đồng dân Chúa cách đắc lực, cha thăm viếng từng nhà, an ủi từng người và trao ban bí tích.
Vững vàng trong thử thách.
Tối 20.12.1839, cha Hiển đi xức dầu và giải tội cho ông Đội Nhật đang hấp hối, ông đã bỏ xưng tội lâu năm và muốn được giọn mình chết lành. Một người ngoại giáo phát giác và tố cáo với Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Quan liền đem quân đến vây kín làng Trung Thành. Thấy khó trốn thoát, cha cử hành một thánh lễ sốt sắng để chuẩn bị lãnh phúc tử đạo. Đến khi trời vừa tảng sáng, quân lính tìm bắt được cha và lôi ra trước đình làng.
Vì chối không chịu đạp lên Thánh Giá, quan cho đánh cha 40 roi, tiết đông giá rét góp phần làm những vết roi thêm tê buốt. Sau đó, quan truyền lấy nước lạnh dội từ trên đầu xuống, các vết thương đang rướm máu nay gặp nước thì tím bầm lại, quả đau đớn và xót xa ! Dầu vậy, cha Hiển vẫn không hề than thở rên la một lời, cha chỉ kêu tên cực trọng Đức Giêsu và suy niệm về cuộc thương khó Chúa khi xưa.
Hai ngày sau, vị linh mục được giải về Nam Định và bị giam giữ hơn năm tháng. Là một tu sĩ dòng thuyết giáo, cha không quên sứ mạng truyền bá Tin Mừng. Ngay ở trong tù, cha vẫn dạy đạo và rửa tội ch một vài tân tòng, khuyến khích các tín hữu kiên trung xưng đạo ngay trước những cực hình tra tấn. Đặc biệt cha giúp thày Tôma Toán đã một lần đạp lên Thánh Giá, tìm lại được can đảm tuyên xưng niềm tin cho đến ngày lãnh triều thiên tử đạo. Những mẫu ảnh Thánh Giá cha phổ biến, đã gây được một phong trào tôn sùng Thánh Giá, giúp người nhút nhát thêm nghị lực, giúp tội nhân hoán cải, và nhiều người sắp chết tìm lại được an bình.
Rất nhiều lần cha bị đưa ra đối chất trước tòa. Các quan khi thì tra tấn dã man, khi thì dùng lời dụ dỗ ngọt ngào, nhưng trước sau như một, cha dứt khoát không chịu xuất giáo. Cha nói: “Tôi đã già chẳng sông được bao lâu nữa, tôi sẵn sàng chết vì Đấng đã chết cho tôi”