Nhật Ký Lòng Chúa TX
Nơi Linh Hồn Tôi
Thánh Faustina
1~25
Ôi Tình Yêu Hằng Hữu,
Chúa truyền vẽ bức hình của Chúa
Và tỏ cho chúng con nguồn mạch lòng xót thương khôn dò,
Chúa chúc lành cho bất cứ ai đến với những luồng sáng của Chúa,
một linh hồn đen đủi cũng được trở nên trắng tinh như tuyết
Ôi Chúa Giêsu ngọt ngào,
chính nơi đây Chúa đã thiết lập ngai tòa xót thương của Chúa,
để đem đến niềm vui và hi vọng cho nhân loại tội lỗi.
Từ Trái Tim rộng mở của Chúa như một nguồn mạch tinh khiết
trào tuôn an ủi cho trái tim và linh hồn hối nhân.
Ước chi lời chúc tụng và vinh quang cho bức hình này
không bao giờ ngưng trào dâng từ tâm hồn nhân loại.
Ước chi mọi trái tim đều dâng lời ca tụng lòng xót thương Chúa,
bây giờ, trong từng giờ, và muôn kiếp muôn đời.
Ôi Thiên Chúa của con.
Khi nhìn về tương lai, con thấy rợn rùng,
nhưng tại sao lại phải lao vào tương lai?
Chỉ có giây phút hiện tại là quí giá với con mà thôi,
vì biết đâu tương lai sẽ không bao giờ đến với hồn con.
Con không còn khả năng để thay đổi, sửa sai, hay thêm thắt vào quá khứ;
Đến các nhà thông thái và ngôn sứ còn chẳng làm nổi điều ấy,
và như thế điều gì thuộc về quá khứ, con phải giao phó cho Thiên Chúa.
Ôi giây phút hiện tại, ngươi thuộc về tôi, tất cả trọn vẹn.
Tôi muốn tận dụng ngươi hết sức có thể.
Mặc dù con yếu đuối bé bỏng,
nhưng Chúa ban cho con hồng ân quyền toàn năng Chúa.
Vì thế, tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa,
con bước trên đường đời như một em nhỏ.
Hằng ngày con dâng hiến lên Chúa trái tim
cháy bỏng tình yêu cho Chúa được vinh quang hơn.
Ôi Giêsu của con,
nhờ tín thác vào Chúa,
con đan kết hàng ngàn vòng hoa,
và con biết rồi chúng sẽ nở rộ tất cả,
khi thái dương của Chúa nở rộ trên chúng.
Ôi Nhiệm Tích Cực Thánh cao vời
che khuất Thiên Chúa của con!
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy ở với con từng phút giây,
và đừng ngại ngự đến lòng con.
Nguyện Chúa được tôn thờ,
lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực Thánh,
bây giờ và mãi mãi.
Nguyện Chúa được tôn thờ
nơi mọi công trình và mọi thụ tạo của Chúa.
Lạy Chúa,
Ước chi Lòng Thương Xót hải hà của Chúa được ngưỡng mộ và chúc vinh.
Lạy Chúa,
con sẽ ghi lại những cuộc gặp gỡ giữa hồn con với Chúa,
những giây phút Chúa ghé đến thăm hồn con.
Con sẽ viết về Chúa,
lạy Đấng Vô Cùng trong tình thương dành cho linh hồn khốn nạn của con.
Thánh ý Chúa là sự sống của linh hồn con.
Con đã lãnh nhận mệnh lệnh này qua vị đại diện dưới thế của Chúa,
người giải thích thánh ý Chúa cho con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa thấy việc ghi chép như thế thật khó khăn cho con,
con không có khả năng ghi lại rõ ràng những điều cảm nghiệm trong linh hồn.
Lạy Chúa, Một cây bút có được ghi lại rằng nhiều lần nó không sao viết nổi một chữ hay không?
Nhưng lạy Chúa, Chúa truyền lệnh phải viết, và thế là đủ cho con rồi.
Năm lên bảy tuổi, tôi đã nghiệm được tiếng gọi Chúa dứt khoát, hồng ân mời gọi vào bậc sống tu trì.
Năm lên bảy tuổi, lần đầu tiên trong đời tôi đã nghe được tiếng Chúa trong tâm hồn,
đó là lời mời gọi tôi theo đuổi một nếp sống trọn lành hơn.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng nghe theo tiếng gọi ân sủng ấy.
Tôi chẳng gặp được một ai giải thích cho tôi về điều này.
Năm mười tám tuổi, tôi tha thiết xin cha mẹ cho vào dòng, nhưng các ngài đã cương quyết từ chối.
Sau lần từ chối ấy, tôi đã quay về với những sự phù phiếm ở đời, không còn lưu tâm đến ơn gọi, mặc dù tâm hồn tôi không được thỏa nguyện trong những điều ấy.
Tiếng gọi thánh ân không ngừng gây cho tôi rất nhiều trăn trở;
vậy mà tôi đã cố gắng bóp nghẹt bằng những thú vui.
Tận thâm tâm, tôi đã lẩn tránh Chúa, dành trọn trái tim cho các thụ tạo.
Tuy nhiên, ơn Chúa đã chiến thắng lòng tôi.
Lần kia, cùng với người em gái, tôi đi tham dự một buổi khiêu vũ.
Giữa lúc ai nấy đang vui chơi thì linh hồn tôi lại cảm thấy những ray rứt đay nghiến.
Khi bắt đầu khiêu vũ, tôi bỗng thấy Chúa Giêsu ở ngay bên cạnh
Người đang chịu cực hình, y phục bị tước lột, toàn thân đầy thương tích, và Người than van với tôi những lời này :
Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ?
Con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?
Lúc ấy, tiếng nhạc dìu dặt bỗng ngưng bặt, những người khiêu vũ với tôi chẳng còn thấy đâu cả.
Ở đó chỉ còn Chúa Giêsu và tôi.
Tôi ngồi xuống cạnh người em yêu quí của tôi, giả vờ nhức đầu để che đậy những điều xảy ra trong linh hồn.
Một lúc sau, tôi lẻn ra về, bỏ mặc em tôi ở lại với những người khác, và tôi đi về hướng vương cung thánh đường thánh Stanislaus Kotska.
Trời đã nhá nhem tối, trong thánh đường chỉ còn một vài người.
Không màng đến những gì đang xảy ra chung quanh, tôi sấp mình xuống trước Thánh Thể và nài xin Chúa dủ lòng thương cho tôi được biết sẽ phải làm gì kế tiếp.
Lúc đó, tôi đã nghe được những lời này:
Con hãy lập tức đi Warsaw.
Con sẽ vào một tu viện ở đó.
Tôi ngừng cầu nguyện, trỗi dậy trở về nhà và lo liệu những gì cần giải quyết.
Tôi đã hết sức cố gắng để thổ lộ với chị tôi những điều diễn ra trong linh hồn tôi.
Tôi nhờ chị thưa lời từ biệt với cha mẹ, và thế là ngoài bộ đồ duy nhất trên người, không có một hành lý nào khác, tôi đã đến Warsaw.
Khi bước xuống xe lửa và thấy mạnh ai đi đường nấy, tôi bàng hoàng hoảng sợ.
Tôi sẽ làm gì đây? Phải hướng về ai đây trong khi không quen biết một ai?
Thế là tôi cầu với Mẹ Thiên Chúa: “Lạy Mẹ Maria, xin dìu dắt, hướng dẫn con.”
Lập tức trong lòng tôi nghe được những lời bảo tôi rời bỏ thành phố và đến một làng lân cận, ở đó, tôi sẽ tìm được một chỗ trọ an toàn qua đêm.
Tôi đã làm theo, và quả thực mọi sự xảy ra đúng như lời Mẹ Thiên Chúa đã dạy tôi.
Sáng sớm hôm sau, tôi trở lại thành phố và ghé vào nhà thờ đầu tiên, tôi gặp được nhà thờ thánh Giacôbê trên đường Grojecka tại Ochota, ngoại ô của thành phố Warsaw.
Ở đó, tôi bắt đầu cầu nguyện để được biết thánh ý Chúa rõ hơn. Các thánh lễ được cử hành liên tiếp.
Trong một thánh lễ, tôi đã được nghe lời này: Con hãy đến gặp vị linh mục ấy (cha James Dabrowski, cha sở giáo xứ thánh Giacôbê) và cho ngài biết tất cả; ngài sẽ dạy con phải làm gì tiếp theo.
Sau thánh lễ, tôi lên phòng áo và kể cho vị linh mục tất cả những gì đang diễn ra trong linh hồn tôi, và xin ngài cho biết nên dâng mình ở đâu, trong dòng tu nào.
Lúc đầu, vị linh mục ấy ngạc nhiên, nhưng ngài dạy tôi hãy mạnh mẽ tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu tương lai cho tôi.
Ngài nói: “Bây giờ, cha sẽ gởi con đến trọ với một bà đạo đức (bà Aldona Lipszycowa), và con hãy ở lại đó cho đến khi vào tu viện.”
Khi tôi đến gặp người phụ nữ ấy. Bà đã tiếp đón tôi rất nồng hậu.
Trong thời gian ngụ tại nhà bà, tôi để ý tìm một tu viện, nhưng gõ cửa tu viện nào cũng bị từ chối.
Nỗi buồn nặng trĩu tâm hồn, tôi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin giúp con. Xin đừng bỏ con lẻ loi!”
Cuối cùng, tôi đã gõ cửa nhà dòng của chúng tôi.
Mẹ Bề Trên, tức là Mẹ Tổng Quyền Michael hiện nay, ra gặp tôi.
Sau một lúc nói chuyện, Mẹ đã bảo tôi đến gặp Chủ Nhân nhà dòng và hỏi xem Người có nhận tôi không.
Tôi hiểu ngay sẽ phải xin điều ấy với Chúa Giêsu.
Hết sức vui mừng, tôi lên nhà nguyện và xin Chúa Giêsu: “Thưa Chủ Nhân của nhà này, Chúa có nhận con không? Một nữ tu ở đây đã dạy con phải thưa với Chúa như vậy.”
Tức thì tôi nghe được lời này: Cha nhận. Con ở trong Trái Tim Cha.
Khi tôi ra khỏi nhà nguyện, Mẹ Bề Trên liền hỏi: “A! Chúa đã nhận rồi phải không?”
Tôi thưa, “Vâng ạ.”
Mẹ nói: “Nếu Chúa đã nhận thì tôi cũng nhận.”
Tôi đã được nhận vào dòng như thế.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, tôi vẫn phải sống ngoài thế gian hơn một năm nữa với với người phụ nữ đạo đức là bà Aldona Lipszycowa, nhưng không trở về nhà quê.
Hồi đó, tôi phải đương đầu với nhiều khó khăn, nhưng Thiên Chúa đã ban tràn đầy ân sủng của Người cho tôi. Một niềm khao khát Thiên Chúa ngày càng thấm thía trong tôi.
Người phụ nữ ấy tuy đạo đức, nhưng không hiểu được hạnh phúc của đời tu trì, nên bà đã theo lòng tốt mà sắp đặt những chương trình cho cuộc đời tôi.
Tuy nhiên, tôi cảm thấy tôi có một tâm hồn lớn lao, không gì có thể lấp đầy. Và vì thế, tôi đã dành trọn vẹn niềm khao khát của mình cho Thiên Chúa.
17- Cuối cùng, cánh cửa tu viện cũng mở ra đón nhận tôi. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 8 năm 1925.
Vào chiều tối, vọng lễ Nữ Vương các Thiên Thần. Tôi cảm thấy hạnh phúc trào tràn.
Lúc ấy, dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng.
Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn.
20- Sau đó một thời gian ngắn, tôi ngã bệnh do kiệt sức.
Mẹ Bề Trên quí yêu đã cho tôi cùng hai chị khác đến Skolimow, một nơi không xa Warsaw, để dưỡng sức.
Lúc ấy, tôi hỏi Chúa nên cầu nguyện cho ai khác nữa. Chúa Giêsu đáp rằng tối hôm sau Người sẽ tỏ cho tôi biết.
Đêm hôm sau, tôi được thấy Thiên Thần Bản Mệnh và ngài ra lệnh cho tôi đi theo.
Tôi đang ở trong một nơi mù mịt, đầy những lửa cháy. Trong đó có rất nhiều linh hồn đang quằn quại. Các ngài cầu nguyện sốt sắng, nhưng lại không lãnh nhận được gì; chỉ chúng ta mới giúp đỡ họ được. Những ngọn lửa đang thiêu đốt các vị ấy không chạm vào tôi chút nào.
Tôi hỏi các linh hồn ấy đau khổ nào làm các ngài cay cực nhất. Họ đồng thanh đáp cực hình kinh khiếp nhất của họ chính là nỗi khao khát Thiên Chúa.
Tôi cũng thấy Đức Mẹ xuống thăm các linh hồn trong luyện ngục. Các linh hồn xưng tụng Mẹ là “Sao Biển.” Mẹ mang theo sự dịu mát cho các linh hồn.
Tôi muốn nói chuyện với các linh hồn thêm một lúc nữa, nhưng thiên thần Bản Mệnh đã vẫy tôi về. Chúng tôi ra khỏi ngục tù đau đớn ấy.
Tôi nghe một tiếng nói trong lòng: “Lòng nhân lành của Cha không muốn điều ấy, nhưng phép công bình đòi hỏi như vậy”.
Kể từ đó, tôi kết hợp mật thiết hơn với các linh hồn đau khổ ấy.
22- Ngày tôi được mặc áo dòng, Chúa đã cho tôi biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thấy rõ tôi đang hiến thân cho điều gì.
Tôi đã trải nghiệm một giây phút của nỗi đau đớn ấy. Nhưng lúc đó, Thiên Chúa lại trào đổ cho linh hồn tôi những niềm an ủi vô bờ.
23- Gần hết năm đầu trong thời gian tập viện, bóng tối đã bắt đầu bao phủ linh hồn tôi.
Tôi không còn thấy ủi an trong lúc cầu nguyện, và phải hết sức cố gắng để nguyện gẫm. Nỗi sợ hãi bắt đầu xâm chiếm tôi.
Càng đi sâu vào bản thân, tôi chỉ thấy toàn những khốn nạn thê thảm, nhưng tôi cũng thấy rõ ràng sự thánh thiện cao vời của Thiên Chúa.
Tôi không dám ngước mắt chiêm ngắm Thiên Chúa, nhưng sấp mình tận cát bụi dưới chân Người và khẩn nài Lòng Thương Xót.
Linh hồn tôi sống trong tình trạng ấy gần sáu tháng trời. Mẹ Giám Tập Mary Joseph đã đem đến cho tôi sự can đảm trong quãng thời gian não nề ấy. Nhưng nỗi đau càng ngày càng tê tái.
Năm thứ hai trong thời gian tập viện của tôi gần đến. Mỗi khi nghĩ đến việc tuyên giữ các lời khấn, linh hồn tôi run giùng.
Tôi không hiểu mình đang đọc gì. Tôi không thể nguyện gẫm, dường như những kinh nguyện của tôi không làm cho Chúa thỏa lòng. Việc tôi lãnh nhận các nhiệm tích hình như chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa nhiều hơn mà thôi. Nhưng dù vậy, cha giải tội Theodore vẫn không cho tôi bỏ rước lễ một lần nào.
Thiên Chúa đang hoạt động một cách hết sức lạ kỳ trong linh hồn tôi. Tôi không hiểu gì về những điều cha giải tội chỉ dạy. Những chân lý đức tin giản đơn cũng trở nên không sao hiểu nổi đối với tôi. Linh hồn tôi ở trong cảnh phiền muộn, không tìm đâu được niềm an ủi.
Và rồi đến tình trạng tôi yên trí mình đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Tư tưởng khủng khiếp này xuyên thấu linh hồn tôi.
Giữa cơn thống khổ ấy, linh hồn tôi bắt đầu cảm nghiệm nỗi tang tóc sự chết. Tôi đã muốn chết cho xong mà không sao chết được.
Một tư tưởng lởn vởn đến với tôi: Cố gắng tập tành các nhân đức để làm gì? Tại sao lại phải khổ chế bản thân trong khi mọi sự đều ghớm ghiếc trước mặt Chúa?
Khi trình bày điều này với Mẹ Giám Tập, tôi đã được trả lời thế này: “Chị yêu quí. Chị hãy biết Thiên Chúa đã tuyển chọn chị để sống mật thiết với Người trên thiên đàng. Chị hãy hết lòng tín thác vào Chúa Giêsu.”
Nghĩ đến việc bị Thiên Chúa ruồng bỏ là một cực hình thực sự kinh hoàng đối với những người bị đọa phạt.
Tôi chạy đến với các thương tích Chúa Giêsu và lập đi lập lại những lời tín thác, nhưng những lời này đối với tôi lại trở thành một cực hình phũ phàng hơn nữa.
Tôi đến với Thánh Thể và ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán rằng, người mẹ không quên được đứa con nhỏ của bà, Chúa cũng không bao giờ quên thụ tạo của Chúa, và cho dù người mẹ có quên con bà đi nữa, thì Ta, Thiên Chúa, cũng không bao giờ quên được thụ tạo của Ta. Lạy Chúa Giêsu, Chúa có nghe lời rên xiết của linh hồn con không? Xin đoái nghe những lời than van đớn đau của đứa con nhỏ của Chúa. Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa, bởi vì trời đất có thể qua đi, nhưng lời Chúa phán sẽ vững bền mãi mãi.”
Tuy vậy, tôi vẫn không tìm được một giây phút khuây khỏa.
Tôi đến với Thánh Thể và ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán rằng, người mẹ không quên được đứa con nhỏ của bà, Chúa cũng không bao giờ quên thụ tạo của Chúa, và cho dù người mẹ có quên con bà đi nữa, thì Ta, Thiên Chúa, cũng không bao giờ quên được thụ tạo của Ta. Lạy Chúa Giêsu, Chúa có nghe lời rên xiết của linh hồn con không? Xin đoái nghe những lời than van đớn đau của đứa con nhỏ của Chúa. Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa, bởi vì trời đất có thể qua đi, nhưng lời Chúa phán sẽ vững bền mãi mãi.”
Tuy vậy, tôi vẫn không tìm được một giây phút khuây khỏa.
Tôi đến với Thánh Thể và ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán rằng, người mẹ không quên được đứa con nhỏ của bà, Chúa cũng không bao giờ quên thụ tạo của Chúa, và cho dù người mẹ có quên con bà đi nữa, thì Ta, Thiên Chúa, cũng không bao giờ quên được thụ tạo của Ta. Lạy Chúa Giêsu, Chúa có nghe lời rên xiết của linh hồn con không? Xin đoái nghe những lời than van đớn đau của đứa con nhỏ của Chúa. Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa, bởi vì trời đất có thể qua đi, nhưng lời Chúa phán sẽ vững bền mãi mãi.”
Tuy vậy, tôi vẫn không tìm được một giây phút khuây khỏa.
24- Một ngày kia, ngay khi vừa tỉnh giấc và đang đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, tôi bỗng bị đè bẹp dưới nỗi ê chề. Bóng tối tràn ngập linh hồn tôi.
Tôi đã ráng sức chiến đấu cho đến trưa.
Đến chiều, những nỗi hãi hùng kinh hoàng bắt đầu xâm chiếm tôi. Sức lực thân xác cũng bắt đầu lìa bỏ tôi.
Tôi đi nhanh về phòng, quì gối trước tượng Chuộc Tội và cất tiếng kêu xin Chúa thương xót. Nhưng Chúa Giêsu không đoái hoài đến những lời than khóc của tôi. Tôi cảm thấy sức lực đã cạn kiệt hoàn toàn. Tôi sấp mình xuống đất. Nỗi thất vọng tràn ngập tất cả linh hồn tôi.
Tôi đã chịu những cơn cực hình khủng khiếp không khác gì những cực hình hỏa ngục. Tôi phải ở trong thảm trạng ấy suốt ba khắc đồng hồ.
Tôi muốn đi gặp Mẹ Giám Tập, nhưng quá rã rời. Tôi muốn hét lên nhưng không sao thành tiếng.
May mắn thay, một chị tập sinh khác (chị Placida Putyra) đi vào phòng của tôi. Thấy tôi trong tình trạng kỳ lạ ấy, chị đi báo ngay cho Mẹ Giám Tập biết. Và mẹ đến lập tức.
Vừa bước vào phòng tôi, Mẹ đã lên tiếng: “Nhân danh đức vâng lời, chị hãy chỗi dậy khỏi mặt đất.”
Lập tức có một năng lực nâng tôi dậy và tôi đứng sát bên mẹ Giám Tập. Với những lời dịu dàng, mẹ bắt đầu giải thích cho tôi đây là một thử thách Chúa gửi đến, mẹ nói: “Chị hãy hết lòng tín thác. Thiên Chúa lúc nào cũng là Cha chúng ta, kể cả khi Người gửi thử thách đến cho chúng ta.”
Trở về với những nhiệm vụ của mình, tôi như vừa ra khỏi phần mộ, các giác quan tràn ngập những điều linh hồn tôi đã trải nghiệm.
Trong giờ Kinh Chiều, linh hồn tôi bắt đầu quằn quại giữa tối tăm kinh khủng. Tôi thấy mình ở dưới quyền lực của Thiên Chúa công thẳng, còn tôi là đối tượng cơn nghĩa nộ của Người.
Trong những giờ phút kinh hoàng ấy, tôi đã thưa lên: “Lạy Chúa Giêsu, trong Phúc Âm Chúa đã tự ví như một người mẹ rất dịu hiền. Con tín thác vào Lời Chúa, vì Chúa là Chân Lý và là Sự Sống. Lạy Chúa Giêsu, dù thế nào đi nữa, con vẫn tín thác nơi Chúa, bất chấp mọi cảm giác nội tâm chống lại niềm cậy trông. Xin hãy thực hiện những gì Chúa muốn về con. Con sẽ không bao giờ bỏ Chúa, vì Chúa là nguồn mạch sức sống của con.”
Chỉ những ai đã từng trải qua những giờ phút tương tự mới có thể hiểu được nỗi khốn cực ấy của linh hồn khủng khiếp như thế nào.
25- Đêm hôm đó, Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi, Mẹ bồng Chúa Giêsu Hài Nhi trên tay.
Linh hồn tràn ngập niềm vui, tôi thưa: “Lạy Mẹ Maria, Hiền Mẫu của con, Mẹ có biết con phải đau khổ kinh khủng thế nào không?”
Mẹ Thiên Chúa trả lời: “Mẹ biết con đau khổ nhiều, nhưng con đừng sợ hãi! Mẹ chia sẻ nỗi khổ đau của con, và Mẹ sẽ luôn làm như thế”.
Mẹ mỉm cười thân ái rồi biến đi.
Lập tức, một nguồn sức mạnh và can đảm lớn lao lại bùng dậy trong linh hồn tôi; nhưng việc đó cũng kéo dài được một ngày.
Dường như hỏa ngục đã dấy mưu chống lại tôi. Một sự thù ghét kinh khủng bắt đầu bộc phát trong linh hồn, tôi căm ghét tất cả những gì là thánh thiện và thuộc về Chúa. Dường như những cực hình tinh thần này sẽ là kiếp phận suốt quãng đời còn lại của tôi.
Tôi hướng về Thánh Thể và thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, Tình Quân của con, Chúa không thấy linh hồn con đang hao mòn vì khao khát Chúa hay sao? Sao Chúa nỡ ẩn mặt với một con tim thành tâm mến Chúa như vậy? Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho con; nguyện thánh ý Chúa được thực hiện nơi con. Con sẽ chịu đau khổ lặng thinh như một chú chim câu, không lời thở than. Con sẽ không để cho lòng mình thốt ra dù một lời than vãn não nề.”
=============
26~50
26- Cuối năm tập. Đau khổ không dịu bớt.
Tình trạng suy nhược thể lý miễn chước cho tôi tất cả những việc thiêng liêng chung với cộng đoàn; tức là chúng sẽ được bù lại bằng những lời than thở vắn tắt.
Thứ Sáu tuần Thánh, ngày 16 tháng 4 năm 1928, Chúa Giêsu làm trái tim tôi bừng cháy trong ngọn lửa tình yêu của Người. Điều này xảy ra trong giờ chầu tối. Bỗng nhiên, sự Hiện Diện Thần Linh xâm chiếm tôi và làm tôi quên hết mọi sự.
Chúa Giêsu cho tôi hiểu biết Người đã chịu đau khổ cho tôi như thế nào. Việc này xảy ra rất nhanh. Một niềm khao khát mãnh liệt-một niềm thao thức yêu mến Chúa.
27- Tuyên lời khấn tạm lần đầu tiên, ngày 30 tháng 4 năm 1928. Một ước vọng muốn hủy mình vì Chúa với một tình yêu tích cực, nhưng là một tình yêu không ai nhận thấy, ngay cả những chị em gần gũi nhất với tôi.
Tuy nhiên, sau khi tuyên khấn, cảnh tối tăm vẫn tiếp tục ngự trị trong linh hồn tôi gần nửa năm nữa.Một lần nọ, khi tôi đang cầu nguyện, Chúa Giêsu chiếm đoạt toàn thể linh hồn tôi. Bóng tối tan biến, và tôi nghe được trong mình những lời sau đây: “Con là niềm vui của Cha. Con là hoan lạc của Cha”.
Từ lúc đó, tôi cảm nhận được Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn; tức là ở trong tôi. Tôi cảm thấy được ngập lút trong ánh sáng Thần Linh. Cũng từ lúc đó, linh hồn được ở trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, như một con trẻ với người cha yêu quí của mình.
29- Khi nghe biết về mối tương giao thân mật giữa tôi với Chúa Giêsu, một vị bề trên (có lẽ Mẹ Jane) đã xác quyết là tôi đang lừa dối mình.
Mẹ cho tôi biết Chúa Giêsu chỉ tương giao thân mật như thế với các vị thánh, chứ không phải với hạng tội lỗi “giống như chị đâu, chị à!”
Sau đó, tôi dường như không còn tín nhiệm vào Chúa Giêsu.
Trong một lần chuyện vãn với Chúa vào buổi sáng, tôi thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa có phải là ảo tưởng hay không?”
Chúa Giêsu đã trả lời: “Tình yêu của Cha không lừa dối ai”.
30- Vào một dịp kia, khi đang suy ngắm về Chúa Ba Ngôi, về yếu tính của Thiên Chúa, tôi thực lòng muốn biết và thấu hiểu Thiên Chúa là Đấng nào…
Bỗng nhiên, linh hồn tôi được cất lên như thể sang thế giới bên kia. Tôi nhìn thấy một vầng sáng không sao đến gần được, và trong ánh sáng đó, xuất hiện như ba nguồn sáng mà tôi không thể hiểu. Và từ ánh sáng ấy phát ra những lời dưới dạng sấm chớp bao phủ cả trời đất. Tôi cảm thấy rất buồn vì không thể hiểu gì cả.
Bỗng nhiên, Chúa Cứu Thế vô cùng khả ái từ trong biển ánh sáng không thể đến gần ấy bước ra, tuyệt vời khôn tả với những thương tích ngời sáng của Người. Và từ ánh sáng ấy phát ra lời: “Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu Tự Yếu Tính, không ai dò thấu được Người, dù là tâm trí thiên thần hay nhân loại”.
Chúa Giêsu phán với tôi: “Con hãy nhận biết Thiên Chúa bằng cách chiêm ngắm các ưu phẩm của Người”.
Một lúc sau, Chúa giơ tay ban phước lành rồi biến đi.
31- Một lần kia, tôi nhận thấy một đám người rất đông ở bên trong và phía trước nhà nguyện. Họ ở cả ngoài đường nữa vì trong nhà nguyện không còn chỗ. Nhà nguyện được trang trí để mừng lễ.
Có rất đông giáo sĩ gần bàn thờ, cũng có chị em chúng tôi và các nữ tu của nhiều dòng khác nữa.
Ai nấy đang chờ đợi một người bước lên cung thánh trước bàn thờ.
Bỗng tôi nghe có tiếng nói rằng chính tôi là người phải lên chỗ ấy ở trước bàn thờ.
Nhưng ngay khi tôi vừa rời hành lang, băng qua khoảng sân, và tiến vào nhà nguyện theo tiếng nói đã kêu gọi tôi, thì mọi người bắt đầu ném vào tôi với bất cứ thứ gì họ đang có trong tay: bùn, đá, cát, chổi… khiến tôi bắt đầu lưỡng lự không muốn tiến lên.
Nhưng tiếng nói kia vẫn kêu gọi tôi thành khẩn hơn nữa, thành ra tôi can đảm bước đi.
Khi tôi vào nhà nguyện, các vị bề trên, các nữ tu, các học sinh, và kể cả cha mẹ tôi đều tra tay đánh tôi bằng bất cứ thứ gì họ có. Vì thế, dù muốn dù không, tôi đành phải nhanh chóng bước lên chỗ trước bàn thờ.
Ngay khi tôi vừa lên nơi đó, cũng những học sinh, nữ tu, các bề trên ấy, và cả cha mẹ tôi nữa, tất cả đều bắt đầu giơ tay xin tôi ban ơn lành. Còn tôi không còn ác cảm với họ nữa tuy họ đã ném đủ thứ vào mình tôi.
Tôi ngạc nhiên vì cảm thấy một tình thương yêu rất đặc biệt đối với những người vừa cưỡng ép tôi phải đi nhanh chóng đến chỗ dành sẵn cho tôi.
Đồng thời, linh hồn tôi dạt dào niềm hạnh phúc khôn tả và nghe được những lời này: “Con hãy làm bất cứ điều gì con muốn. Con hãy phân phát các ơn lành như ý con, cho bất cứ ai con muốn, và bất cứ khi nào con muốn”.
Và ngay lúc đó, thị kiến chấm dứt.
35- Ôi, giả như có được một cha linh hướng ngay từ ban đầu, có lẽ tôi đã không phí phạm rất nhiều ơn Chúa đến thế.
Cha giải tội giúp đỡ rất nhiều, nhưng ngài cũng có thể gây ra rất nhiều tai hại cho linh hồn.
Ôi, các cha giải tội phải cẩn trọng lưu ý đến hoạt động của ơn Chúa trong linh hồn các hối nhân.
Đó thực là một vấn đề hết sức quan trọng.
Qua các ơn Chúa ban cho một linh hồn, người ta có thể nhận biết mức độ tương thân giữa họ với Thiên Chúa.
36- Một lần kia, tôi bị triệu đến tòa Chúa phán xét.
Tôi đứng một mình trước mặt Chúa.
Chúa Giêsu xuất hiện như chúng ta thấy Người trong cuộc Thương Khó.
Một lúc sau, những thương tích đều biến mất, ngoại trừ năm dấu thánh ở chân, tay và cạnh sườn của Người.
Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy tình trạng đích thực của linh hồn tôi như Thiên Chúa nhìn thâý vậy.
Tôi có thể nhìn thấy tất cả những gì làm mất lòng Chúa.
Tôi không biết rằng những sai phạm cho dù mọn mạy đến đâu đi nữa cũng đều phải trả lẽ.
Thật là một phút giây kinh hoàng! Ai có thể tả được? Đứng trước tôn nhan Thiên Chúa ba lần Thánh!
Chúa Giêsu hỏi tôi: “Con là ai?”
Tôi thưa lại: “Lạy Chúa, con là nữ tì của Chúa. Con đã phạm tội đáng phải phạt một ngày trong lửa luyện ngục”.
Tôi muốn lập tức gieo mình vào những ngọn lửa luyện ngục, nhưng Chúa Giêsu cản tôi lại và phán:
“Con muốn điều nào hơn. Hoặc là bây giờ chịu phạt một ngày trong luyện ngục, hoặc là một thời gian ngắn trên trần gian?”
Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, con muốn được đau khổ trong luyện ngục hơn, nhưng con cũng muốn chịu cả những đau khổ lớn lao nhất trên trần gian, mặc dù phải chịu cho đến tận thế.”
Chúa Giêsu đáp: “Một điều cũng đủ. Con sẽ trở về trần gian và con sẽ chịu nhiều đau khổ, nhưng không lâu đâu. Con sẽ hoàn tất thánh ý và những mong ước của Cha, và một đầy tớ trung thành của Cha sẽ giúp con thực hiện điều ấy. Bây giờ, con hãy tựa đầu vào lòng Cha, vào trái tim Cha mà hấp thụ sức mạnh và dũng khí để chịu những đau khổ này, bởi vì con sẽ không tìm được khuây khỏa, trợ giúp, hoặc ủi an ở bất cứ nơi nào khác. Con hãy biết có nhiều điều, rất nhiều điều cho con chịu đựng, nhưng đừng để những điều ấy làm con hoảng sợ. Cha ở với con!”
37- Ngay sau đó, tôi ngã bệnh.
Tình trạng yếu nhược thể lý đối với tôi là một trường dạy nhẫn nại.
Chỉ có Chúa Giêsu mới biết tôi phải dùng bao nhiêu nghị lực và ý chí để hoàn thành việc bổn phận.
38- Để thanh luyện một linh hồn, Chúa Giêsu dùng bất cứ khí cụ nào Người muốn.
Linh hồn tôi đã bị các thụ tạo xa lánh hoàn toàn.
Những ý hướng tốt lành nhất của tôi cũng bị chị em hiểu lầm.
Một hình thức đau khổ thật tê tái, nhưng Thiên Chúa lại để như vậy, mà chúng ta phải chấp nhận bởi vì nhờ đó chúng ta mới trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Suốt một thời gian dài tôi vẫn không sao hiểu nổi một điều: đó là tại sao Chúa Giêsu truyền cho tôi phải trình bày tất cả mọi việc cho các bề trên của tôi, nhưng các ngài lại không tin những điều tôi nói, và đối xử với tôi một cách thương hại như thể tôi đang dối mình hoặc bị ảo tưởng.
Thế là vì tin mình đang bị ảo tưởng, trong lòng tôi dốc quyết lẩn tránh Chúa Giêsu vì sợ các ảo tưởng kia.
Nhưng ơn Chúa vẫn dõi theo tôi từng bước, và Thiên Chúa đã phán dạy tôi trong những lúc ít ngờ tới nhất.
39- Một ngày kia, Chúa Giêsu cho tôi biết Người sẽ thực hiện thanh tẩy thành phố xinh đẹp nhất của đất nước tôi (có lẽ là Warsaw).
Cuộc thanh tẩy này sẽ như cuộc thanh tẩy Thiên Chúa đã trừng phạt hai thành Sodoma và Gomora.
Tôi nhìn thấy cơn nghĩa nộ kinh khủng của Thiên Chúa và cơn rùng mình xuyên thấu tâm hồn tôi.
Tôi thầm thì cầu nguyện.
Sau một lúc, Chúa Giêsu phán với tôi rằng:
“Con nhỏ của Cha, con hãy liên kết mật thiết với Cha trong cuộc Hiến Tế của Cha. Hãy dâng Máu Thánh và các Thương Tích của Cha lên Chúa Cha để đền bù tội lỗi của thành phố ấy. Con hãy không ngừng lập lại việc ấy trong thánh lễ. Con hãy làm như vậy trong bảy ngày”.
Vào ngày thứ bảy, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trong vầng mây sáng ngời và tôi lên tiếng xin Người đoái thương thành phố và toàn thể đất nước chúng tôi.
Chúa Giêsu nhìn xuống rất nhân lành.
Khi nhìn thấy vẻ nhân lành của Chúa Giêsu, tôi liền khẩn nài Người chúc lành.
Ngay lúc đó, Chúa Giêsu phán rằng: “Vì con mà Cha chúc lành cho toàn thể tổ quốc của con”.
Rồi Người giơ rộng tay ban phép lành trên toàn thể đất nước chúng tôi. Nhìn thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa, linh hồn tôi tràn ngập một niềm vui vô bờ.
40- Năm 1929. Một lần kia, trong giờ thánh lễ, tôi cảm nhận được sự gần gũi với Thiên Chúa rất đặc biệt, mặc dù tôi cố ngoảnh đi và trốn tránh Người.
Trong nhiều dịp, tôi đã lẩn tránh Thiên Chúa vì không muốn trở thành nạn nhân của thần dữ như nhiều người đã hơn một lần cho tôi biết về trường hợp như vậy. Và tình trạng phấp phỏng này kéo dài một thời gian.
Trong thánh lễ, trước giờ hiệp lễ, chúng tôi tuyên lại các lời khấn. Khi chúng tôi rời hàng ghế quì và bắt đầu tuyên đọc công thức khấn, Chúa Giêsu trong y phục trắng với dây thắt lưng bằng vàng, bỗng hiện đến bên cạnh tôi và phán:
“Cha dành cho con một tình yêu muôn thưở để sự thanh khiết của con không bị mờ ố và một dấu chỉ là con sẽ không bao giờ phải chịu cám dỗ về đức khiết tịnh”.
Chúa Giêsu cởi dây đai lưng của Người ra và thắt cho tôi.
Kể từ đó, tôi không bao giờ bị tấn công trong tâm hồn hoặc trong trí khôn về nhân đức này.
Về sau, tôi hiểu ra đó là một trong những ơn trọng đại nhất mà Đức Thánh Trinh Nữ Maria đã xin cho tôi, bởi vì trong suốt nhiều năm tôi vẫn nài xin Mẹ ơn ấy.
Cũng từ đó, tôi cảm thấy càng ngày càng sùng kính Mẹ Thiên Chúa hơn. Mẹ đã dạy cho tôi biết yêu mến Thiên Chúa trong tâm hồn và thực thi thánh ý Người trong mọi sự.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là niềm vui, bởi vì nhờ Mẹ, Thiên Chúa đã giáng thế đến với tâm hồn của con.
41- Một lần kia, tôi nhìn thấy một đầy tớ của Chúa gặp nguy cơ sắp phạm tội trọng.
Tôi liền kêu nài Chúa đoái thương đổ xuống trên tôi mọi khổ hình hỏa ngục và tất cả những đau khổ Người muốn, để vị linh mục này được giải thoát, và được cất khỏi dịp tội.
Chúa Giêsu đã nhận lời, và ngay lúc ấy, tôi cảm nhận có một mão gai trên đầu.
Những chiếc gai độc dữ đâm phập vào đầu tôi đến tận óc não.
Cơn đau kéo dài suốt ba tiếng đồng hồ.
Người đầy tớ của Chúa được cứu thoát khỏi tội, và linh hồn ngài được mạnh mẽ nhờ một hồng ân đặc biệt của Chúa.
42- Một lần kia, vào ngày lễ Giáng Sinh (năm 1928), tôi cảm nghiệm được quyền toàn năng và sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc tôi.
Và một lần nữa, tôi trốn tránh cuộc hội kiến nội tâm với Chúa.
Tôi xin phép Mẹ Bề Trên ban phép cho tôi đi Jozefinek để thăm các chị em ở đó.
Mẹ Bề Trên đồng ý, và chúng tôi khởi hành ngay sau bữa trưa hôm đó.
Các chị đứng chờ tại cổng tu viện trong lúc tôi chạy về phòng để lấy áo choàng.
Khi trở lại, lúc đi gần đến nhà nguyện nhỏ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang đứng ở ngưỡng cửa.
Người phán với tôi: “Con cứ đi, nhưng Cha sẽ lấy mất trái tim của con”.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy không còn trái tim trong lồng ngực nữa.
Các chị em quở trách vì đã muộn mà tôi còn chần chừ phía sau, thế là tôi nhanh chóng đi cùng với họ.
Tuy vậy, một cảm giác nôn nao làm tôi khó chịu, và một nỗi thao thức kỳ lạ xâm chiếm linh hồn tôi, mặc dù không ai biết điều gì đang xảy ra, ngoại trừ một mình Thiên Chúa.
Sau khi đến Jozefinek được vài phút, tôi giục các chị: “thôi chúng ta hãy trở về.”
Các chị đòi ít là phải nghỉ ngơi một lúc, nhưng linh hồn tôi không tìm được một chút bình an.
Tôi giải thích phải trở về trước khi trời tối; và bởi vì quãng đường khá xa, nên chúng tôi phải lập tức trở về.
Khi gặp chúng tôi ở nhà ngoài, Mẹ Bề Trên hỏi: “Các chị vẫn chưa đi hay là đã về rồi vậy?”
Tôi thưa chúng tôi đã trở về bởi vì không muốn về lúc trời tối.
Tôi cởi áo khoác và đi ngay vào nhà nguyện nhỏ.
Ngay khi tôi bước vào, Chúa Giêsu đã phán bảo: “Con hãy đi gặp Mẹ Bề Trên và thưa rằng con đã về, không phải vì muốn về đến nhà trước khi trời tối, nhưng vì Cha đã lấy mất trái tim của con”.
Mặc dù điều này thật khó khăn đối với tôi, nhưng tôi cũng đi gặp Mẹ Bề Trên và thành thật trình bày lý do vì sao tôi trở về sớm như vậy, và tôi xin lỗi Chúa về tất cả những điều đã làm phật lòng Người.
Khi đó, Chúa Giêsu ban tràn đầy niềm vui cho tôi.
Tôi đã hiểu, ngoài Chúa, chẳng tìm đâu có được sự thỏa nguyện.
46- Tôi thường cảm nhận cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong thân xác tôi, mặc dù người khác không nhận ra được điều này, và tôi vui mừng vì Chúa Giêsu đã muốn như vậy.
Nhưng điều này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn.
Những đau khổ này làm bùng lên nơi linh hồn tôi một tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn bất tử.
Tình yêu chịu được mọi sự, tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu không sợ hãi gì cả…
47- Ngày 22 tháng 2 năm 1931. Vào buổi tối, lúc đang ở trong phòng, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu trong y phục màu trắng. Một tay Người giơ lên trong tư thế ban phép lành, tay kia chạm vào ngực áo. Từ phía dưới trang phục, hơi chếch một bên ngực, phát ra hai luồng sáng lớn, một màu đỏ, và một màu xanh nhạt.
Trong thinh lặng, tôi chăm chú chiêm ngắm Chúa. Linh hồn tôi bàng hoàng trong niềm kính sợ, nhưng cũng dạt dào hoan lạc.
Sau một lúc, Chúa Giêsu phán bảo tôi:
“Hãy vẽ một bức hình theo như mẫu con nhìn thấy, với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Cha ước mong bức hình này được tôn kính, trước là trong nhà nguyện của các con và khắp thế giới”.
48- “Cha hứa rằng linh hồn nào tôn kính bức hình này sẽ không bị hư mất.
Cha cũng hứa cho họ vinh thắng những kẻ thù ngay trên thế gian này, nhất là trong giờ lâm tử.
Chính Cha sẽ bảo vệ họ như vinh quang riêng của Cha”.
49- Khi trình bày với cha giải tội, tôi được trả lời rằng:
“Điều ấy chỉ về linh hồn chị. Chắc chắn chị hãy vẽ hình ảnh Chúa vào linh hồn chị.”
Và khi ra khỏi tòa giải tội, tôi lại được nghe những lời sau đây: “Hình ảnh của Cha đã có trong linh hồn con rồi. Cha ước ao có một lễ kính thờ Lòng Thương Xót của Cha. Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh. Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha.
50- Chúa nói: “Cha ước mong các linh mục hãy rao giảng về Lòng Thương Xót khôn lường của Cha cho các tội nhân.
Đừng để họ sợ hãi không dám đến gần bên Cha.
Những ngọn lửa thương xót đang bừng cháy trong Cha kêu gào đòi được phung phát. Cha muốn trào đổ cho các linh hồn này”.
Chúa Giêsu than thở với tôi:
“Sự hoài nghi của các linh hồn đang xé nát lòng Cha.
Sự hoài nghi của một linh hồn ưu tuyển còn làm Cha đau đớn hơn nữa.
Mặc dù Cha dành cho họ một tình yêu vô hạn, nhưng họ vẫn không tín thác vào Cha. Thậm chí cái chết của Cha vẫn không đủ với họ.
Khốn cho linh hồn nào lạm dụng những ân sủng này”.
=============
51~75
51- Khi tôi thưa với Mẹ Bề Trên Rose, cho Mẹ biết Chúa đã yêu cầu tôi điều ấy.
Mẹ trả lời chắc Chúa Giêsu sẽ cho một dấu chỉ để chúng tôi có thể nhận ra Người rõ ràng hơn.
Khi tôi xin Chúa Giêsu một dấu chỉ minh chứng “Chúa thực sự là Chúa, là Thiên Chúa của con, và yêu cầu ấy xuất phát từ Chúa.”
Trong lòng tôi đã nghe được lời này: “Cha sẽ làm sáng tỏ tất cả điều này với Bề Trên của con bằng các ân sủng Cha sẽ ban qua bức hình này”.
52- Khi tôi cố trốn tránh những sôi động trong lòng, Chúa phán với tôi rằng trong ngày phán xét, Người sẽ bắt tôi trả lẽ về một số rất đông các linh hồn.
Một lần kia, quá kiệt sức vì muôn vàn khó khăn ập xuống trên mình tôi, vì những điều Chúa Giêsu đã phán dạy và đã truyền vẽ bức hình, tôi quyết định đến với cha Andrasz trước ngày vĩnh thệ, xin ngài chước cho tôi tất cả những sôi động nội tâm và trách nhiệm về bức hình.
Sau khi nghe tôi trình bày, cha Andrasz trả lời:
“Này chị, tôi chẳng miễn cho chị một điều nào cả. Chị không có quyền trốn tránh những sôi động ấy, nhưng phải tuyệt đối – tôi nói đây, tuyệt đối – phải thưa lại những điều ấy cho cha giải tội của chị. Nếu không, chị sẽ bị lầm lạc, bất kể những ơn trọng đại chị đang được lãnh nhận từ Thiên Chúa”.
53- “Bây giờ chị đến cáo mình với tôi, nhưng nên biết rằng chị cần phải có một cha giải tội thường xuyên; tức là một cha linh hướng.”
Tôi hết sức xao xuyến vì điều này, tưởng rằng sẽ được giải thoát khỏi mọi sự, nào ngờ lại đảo lộn tất cả - một lệnh truyền rõ rệt bắt phải tuân theo những yêu sách của Chúa Giêsu.
Và giờ đây lại thêm một cực hình mới, đó là tôi chưa có cha giải tội thường xuyên.
Mặc dù vẫn cáo mình với vị linh mục ấy trong một thời gian, nhưng tôi không thể thổ lộ với ngài về những ân sủng của linh hồn tôi, và điều này làm tôi khổ tâm không sao tả xiết.
Vì thế tôi nài xin Chúa Giêsu hãy trao những ân sủng này cho một linh hồn nào khác, bởi vì tôi không biết lợi dụng, và như thế là phung phí đi:
“Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương con. Xin đừng trao phó những điều cao trọng thế này cho con. Như Chúa thấy, con chỉ là một hạt bụi hoàn toàn bất xứng.”
Nhưng lòng nhân lành của Chúa Giêsu thật vô cùng.
Người đã hứa ban một trợ lực hữu hình cho tôi ngay ở đời này, và sau đó một thời gian ngắn, tôi đã nhận được ơn ấy tại Vilnius, qua cha Sopocko.
Nhờ một thị kiến nội tâm, tôi đã biết ngài trước khi đến Vilnius.
Một ngày nọ, tôi nhìn thấy ngài trong nhà nguyện của chúng tôi ở giữa bàn thờ và tòa giải tội, và bỗng nhiên tôi được nghe một tiếng nói trong tâm hồn: “Đây là sự trợ lực hữu hình cho con trên trần gian. Ngài sẽ giúp con thực thi thánh ý Cha trên trần gian”.
Một ngày nọ, tôi nhìn thấy ngài trong nhà nguyện của chúng tôi ở giữa bàn thờ và tòa giải tội, và bỗng nhiên tôi được nghe một tiếng nói trong tâm hồn: “Đây là sự trợ lực hữu hình cho con trên trần gian. Ngài sẽ giúp con thực thi thánh ý Cha trên trần gian”.
54- Một ngày nọ, mệt nhoài vì sự bấp bênh này, tôi nài xin Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con, hay là một ông kẹ nào vậy?
Bởi vì các bề trên của con bảo rằng có rất nhiều thứ ảo tưởng và ma quỷ. Nếu Chúa là Thiên Chúa của con, con khẩn nài Chúa chúc lành cho con.”
Khi ấy, Chúa Giêsu giơ rộng tay ban phép lành trên tôi, và tôi cũng làm dấu thánh giá.
Khi tôi xin Chúa Giêsu tha lỗi về lời chất vấn, Chúa cho biết tôi không làm phật ý Người vì câu hỏi ấy, và niềm tin tưởng của tôi đã làm thỏa lòng Người rất nhiều.
55- Năm 1933- Lời Khuyên Thiêng Liêng của cha Andrasz, S.J. dành cho tôi:
- Thứ nhất: Chị không được trốn tránh những sôi động, nhưng phải luôn trình bày mọi sự cho cha giải tội. Nếu chị nhận thấy những sôi động nội tâm này dành cho riêng chị, tức là đem lại lợi ích cho linh hồn chị hoặc cho các linh hồn, tôi khuyên chị hãy nghe theo các sôi động ấy. Chị không được thờ ơ, nhưng luôn phải làm theo các sôi động ấy, sau khi đã bàn hỏi với cha giải tội của chị.
- Thứ hai: Nếu các sôi động không phù hợp với đức tin hay tinh thần Giáo Hội, chị phải vứt bỏ ngay tức khắc, như thể từ thần dữ mà ra.
- Thứ ba: Nếu những sôi động không nhắm đến các linh hồn nói chung, cũng không mưu ích cho họ, chị không nên coi trọng làm gì, tốt hơn hãy bỏ qua.
Tuy nhiên, chị không nên tự mình quyết định cách này hay cách khác vì rất dễ dàng bị lầm lạc, dù chị có những đặc ân trọng đại Chúa ban.
Hãy khiêm nhượng, khiêm nhượng, và luôn phải khiêm nhượng, vì chúng ta không thể tự mình làm được việc gì. Tất cả hoàn toàn chỉ là ơn Chúa mà thôi.
Chị cho tôi biết Thiên Chúa đòi các linh hồn phải có một niềm tín thác cao độ; vậy bây giờ, chị phải là người trước tiên chứng tỏ niềm tín thác ấy. Một điều nữa – hãy đón nhận tất cả với sự bình thản.
Những lời của một cha giải tội:
“Này chị, Thiên Chúa đang chuẩn bị nhiều ơn thánh đặc biệt cho chị, nhưng chị phải cố gắng làm cho đời sống chị trong sáng như pha lê trước mặt Chúa. Đừng bận tâm đến những điều người khác nghĩ về chị. Thiên Chúa đủ cho chị rồi; một mình Người mà thôi.”
Những lời của một cha giải tội:
“Này chị, Thiên Chúa đang chuẩn bị nhiều ơn thánh đặc biệt cho chị, nhưng chị phải cố gắng làm cho đời sống chị trong sáng như pha lê trước mặt Chúa. Đừng bận tâm đến những điều người khác nghĩ về chị. Thiên Chúa đủ cho chị rồi; một mình Người mà thôi.”
Gần cuối thời gian năm tập của tôi, một cha giải tội (có lẽ cha Theodare) bảo tôi:
“Chị hãy sống một đời thực hành điều thiện để tôi có thể viết lên những trang về đời sống ấy thế này: ‘Chị ấy đã sống một đời thực hành điều thiện.’ Nguyện xin Chúa hãy thực hiện điều này nơi chị.”
Lần khác, cha giải tội ấy lại nói với tôi:
“Trước mặt Chúa, chị hãy hành xử như bà góa trong Phúc Âm. Mặc dù đồng bạc bỏ vào thùng chẳng có giá trị bao nhiêu; nhưng trước mặt Thiên Chúa, nó lại quí giá hơn tất cả những đồ dâng cúng lớn lao của người khác.
Vào một dịp khác, tôi nhận được lời hướng dẫn thế này:
“Chị hãy xử sự sao cho mọi người tiếp xúc với chị đều ra đi trong vui vẻ. Hãy gieo hạnh phúc chung quanh, bởi vì chị đã được lãnh nhận nhiều từ Thiên Chúa, vậy chị hãy ban phát quảng đại cho tha nhân. Họ từ giã chị với tâm hồn tràn ngập niềm vui, mặc dù họ chẳng hề chạm đến gấu áo của chị. Chị hãy nhớ cho kỹ những lời tôi đang nói với chị lúc này.”
Một lần khác, ngài đã chỉ dẫn cho tôi thế này:
“Hãy để Thiên Chúa đẩy thuyền của chị ra chỗ nước sâu, đến những nơi sâu thẳm không thể dò thấu của đời sống nội tâm.”
Đây là một đôi điều trong cuộc thưa chuyện với Mẹ Giám Tập (Mary Joseph) khi thời gian năm tập của tôi gần mãn:
“Này chị, chị hãy để đức đơn sơ và khiêm tốn trở nên những nét đặc trưng của linh hồn chị. Chị hãy sống như một con trẻ bé bỏng, bằng lòng với tất cả, vui tươi trong mọi hoàn cảnh.
Nơi người khác lo âu, nhờ đức đơn sơ và khiêm tốn, chị sẽ vượt qua một cách an lành.
Này chị, chị hãy nhớ suốt đời: nước chảy từ núi cao xuống các thung lũng thế nào, ơn Chúa cũng đổ xuống cho các linh hồn khiêm nhượng như thế.”
56- Lạy Chúa, con quá hiểu Chúa đòi con phải sống thời thơ ấu thiêng liêng, bởi vì lúc nào Chúa cũng đòi con về điều ấy qua các vị đại diện của Chúa.
Trong thời gian đầu của cuộc sống tu trì, đau khổ cũng như nghịch cảnh làm tôi sợ hãi và hốt hoảng. Vì thế, tôi đã liên lỉ cầu nguyện, nài xin Chúa Giêsu củng cố và ban sức mạnh Thần Khí Người cho tôi để có thể thi hành thánh ý Người trong mọi sự, bởi vì ngay từ ban đầu, tôi đã ý thức được sụ yếu đuối của mình.
Tôi quá hiểu bản thân mình, bởi vì mục đích này, Chúa Giêsu đã mở mắt linh hồn tôi. Tôi là một vực thẳm khốn cùng, và do đó tôi hiểu được những gì tốt lành nơi linh hồn tôi đều do ơn Chúa. Nhờ biết được nỗi khốn nạn của mình, nên đồng thời tôi cũng nhận ra Lòng Thương Xót lớn lao của Chúa.
Lạy Chúa, trong cuộc sống nội tâm của con, với mắt bên này, con nhìn vào vực thẳm khốn cùng và đớn hèn của con, với mắt bên kia, con nhìn vào vực thẳm đầy xót thương của Chúa.
57- Lạy Chúa Giêsu, Chúa là sự sống của đời con.
Chúa quá biết con không khát khao điều gì ngoài vinh quang cho Danh Chúa và các linh hồn được nhận biết lòng nhân lành của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao các linh hồn lại lẩn tránh Chúa?
Con không hiểu nổi điều ấy.
Ôi, giả như con có thể xẻ trái tim thành từng mảnh nhỏ để dâng lên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, như vậy, mỗi mảnh như một con tim trọn vẹn đầy đủ để phần nào bù lại cho những con tim không yêu mến Chúa!
Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa với từng giọt máu của con, và con sung sướng nếu được đổ máu vì Chúa để nên một chứng từ cho tình yêu chân thành của con.
Lạy Chúa, càng nhận biết Chúa, con càng thấy mình không hiểu Chúa, nhưng việc “không hiểu Chúa” làm cho con nhận ra Chúa cao trọng biết bao!
Và lạy Chúa, việc thiếu khả năng hiểu biết Chúa làm trái tim con nồng cháy vì Chúa.
Từ khi Chúa cho con được cắm chặt ánh nhìn của hồn con vào Chúa, lạy Chúa Giêsu, con đã được bình an và chẳng còn ước mơ gì khác. Con đã tìm được phần phúc của mình trong giây phút hồn con được mất hút trong Chúa, đối tượng duy nhất của khối tình con.
Lạy Chúa Giêsu, nếu sánh với Chúa, mọi sự chỉ là số không. Đau khổ, chống đối, nhục nhã, thất bại và hoài nghi trên nẻo đường con đi chỉ là những viên đá lửa làm bùng lên ngọn lửa tình yêu con dành cho Chúa.
Những khát vọng của con thật điên rồ và không thể đạt được.
Con muốn giấu không cho Chúa biết con đang đau khổ.
Con muốn những nổ lực và việc lành của con không bao giờ được thưởng công.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần thưởng duy nhất của con. Một mình Chúa đã đủ cho con rồi. Ôi, Kho Tàng của lòng con!
Lạy Chúa Giêsu, con muốn chia sẻ cảm thông với đau khổ của những người chung quanh nhưng giấu không cho họ, và cả Chúa nữa, biết đến những đau khổ của riêng con.
Đau khổ là một hồng ân trọng đại;
Qua đau khổ, linh hồn sẽ được nên giống Đấng Cứu Độ;
Trong đau khổ, tình yêu được tinh luyện.
Đau khổ càng lớn lao, tình yêu càng tinh ròng.
62- Ôi cuộc đời thật buồn tẻ và đơn điệu, nhưng lại có biết bao kho tàng quí báu!
Khi nhìn mọi sự bằng con mắt đức tin, không có hai giờ đồng hồ nào giống hệt nhau, cảnh buồn tẻ và đơn điệu biến mất. Ơn thánh ban cho tôi trong giờ này sẽ không được lập lại trong giờ sau. Điều ấy cũng có thể ban lại cho tôi, nhưng không phải cùng một ơn như trước.
Thời gian trôi qua, không bao giờ trở lại. Những việc gồm chứa trong đó không bao giờ thay đổi nữa; được đóng lại bằng niêm ấn cho cõi đời đời.
66- Ôi kho tàng vô tận của ý hướng ngay lành, điều làm cho mọi hoạt động của chúng ta trở nên trọn hảo và đẹp lòng Thiên Chúa!
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa biết con yếu đuối dường nào; vì vậy, xin Chúa hãy luôn ở bên con; hướng dẫn các hoạt động của con và toàn thể hữu thể của con. Chúa là Thầy Dạy tuyệt hảo duy nhất của con!
Quả thật, lạy Chúa Giêsu,
Con hoảng sợ khi nhìn vào nỗi khốn nạn của mình, nhưng đồng thời, con cũng an tâm vì lòng nhân ái của Chúa muôn đời vẫn thắng vượt nỗi khốn nạn của con. Tâm tình này bao phủ con trong quyền năng Chúa.
Ôi niềm vui tuôn trào từ việc biết mình!
Ôi Đấng là Chân Lý bất biến, lòng tín thành của Chúa bền vững thiên thu!
67- Sau ngày tuyên khấn lần đầu, tôi ngã bệnh (có lẽ bệnh lao phổi bộc phát). Dù được sự chăm sóc tận tình của các bề trên cũng như nỗ lực của các bác sĩ, tôi vẫn cảm thấy bệnh tình không hề thuyên giảm chút nào.
Những lời dị nghị vọng đến tai tôi, ngụ ý rằng tôi giả vờ bệnh. Khi nghe biết điều đó, nỗi đau khổ của tôi tăng thêm gấp đôi và da diết suốt thời gian dài.
Một ngày kia, tôi than thở với Chúa Giêsu rằng tôi đang trở nên gánh nặng cho các chị em. Chúa Giêsu trả lời:
“Không phải con sống cho chị em, nhưng là cho các linh hồn, và các linh hồn sẽ được hưởng nhờ lợi ích từ những đau khổ của con. Việc đau khổ triền miên của con sẽ đem lại cho họ ánh sáng và sức mạnh để chấp nhận thánh ý Cha”.
68- Đối với tôi, đau khổ tê tái nhất là những kinh nguyện và những việc lành của tôi hình như đều không làm vui lòng Thiên Chúa. Tôi không dám ngước mắt lên trời.
Điều đó làm tôi đau đớn trong các giờ đạo đức chung tại nhà nguyện, đến độ một ngày kia, sau giờ kinh, Mẹ Bề Trên (Raphael) vời tôi đến và nói:
“Này chị, chị hãy hãy xin Chúa ban ơn thánh và ủi an, bởi vì chính tôi thấy và các chị em khác cũng cho tôi biết, chỉ nhìn chị mà thôi cũng thấy tội nghiệp. Tôi thực sự không biết phải làm gì với chị bây giờ, chị ạ. Tôi truyền cho chị thôi đừng làm khổ bản thân một cách vô lý nữa.”
Những lần bàn hỏi với Mẹ Bề Trên không làm tôi khuây khỏa, cũng không làm sáng sủa được điều gì. Ngược lại, bóng tối che khuất Thiên Chúa còn dày đặc hơn.
Tôi kêu cứu trong tòa giải tội, nhưng cũng chẳng thấy gì. Một linh mục thánh thiện muốn giúp đỡ, nhưng tôi khổ thân đến độ không xác định được nỗi khổ của mình, và điều đó càng làm tôi cay cực hơn nữa.
Một nỗi buồn đến chết xuyên thấu linh hồn tôi đến độ không sao giấu nổi và lộ ra trước mắt những người chung quanh. Tôi mất hết hi vọng. Bóng đêm mỗi lúc một tối tăm hơn.
Linh mục giải tội nói với tôi rằng: “Này chị, tôi nhìn thấy những ơn thánh rất đặc biệt ở nơi chị, và tôi không lo lắng chút nào cho chị cả. Tại sao chị tự làm khổ bản thân như thế?”
Nhưng lúc đó, tôi không hiểu ngài nói gì cả, và hết sức kinh ngạc khi nghe phải đọc kinh Te Deum hoặc kinh Magnificat, hoặc phải chạy quanh vườn vào buổi tối, hoặc phải cười to mười lần để làm việc đền tội. Những việc đền tội này rất lạ kỳ đối với tôi; nhưng cả vị linh mục ấy cũng không thể giúp đỡ tôi được bao nhiêu.
Rõ ràng, Thiên Chúa muốn tôi tôn vinh Người bằng đau khổ.
Vị linh mục an ủi tôi khi bảo rằng trong hoàn cảnh hiện thời, tôi làm đẹp lòng Chúa hơn cả những khi được dạt dào ơn an ủi lớn lao:
“Đó thật là một ơn vô cùng trọng đại, bởi vì trong tất cả những cực hình linh hồn chị đang trải qua, chị không hề làm mất lòng Thiên Chúa, mà còn gắng tập các nhân đức. Tôi nhìn vào linh hồn chị và thấy những chương trình vĩ đại cùng những ơn thánh đặc biệt của Chúa trong đó; và khi thấy điều này, tôi cám tạ Thiên Chúa.”
Bất kể những điều ấy, linh hồn tôi vẫn trong tình trạng thảm sầu.
Giữa những khổ hình không sao tả được, tôi cố gắng bắt chước người mù để tín thác vào sự hướng dẫn của Chúa, nắm thật chặt lấy tay Người, và không xa rời đức vâng lời một phút giây.
Đó là sự an toàn duy nhất của tôi trong cơn thử thách khắc nghiệt này.
69- Lạy Chúa Giêsu, Chân Lý hằng hữu,
Xin hãy củng cố những sức lực mỏng manh của con.
Chúa ơi, Chúa có thể làm được mọi sự.
Con biết nếu không có Chúa, mọi nỗ lực của con đều là vô ích.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin đừng ẩn nấp con nữa, vì con không thể sống được nếu thiếu Chúa. Xin hãy lắng nghe tiếng than van của hồn con. Lòng Chúa Thương Xót không cạn kiệt, lạy Chúa, xin dủ lòng thương đến nỗi khốn cùng của con.
Lòng Chúa Thương Xót vượt quá trí hiểu của mọi thiên thần và loài người hợp lại; và như thế, mặc dù dường như Chúa không nghe tiếng con, nhưng con vẫn trọn niềm tín thác vào đại dương thương xót của Chúa,
Và con biết niềm cậy trông của con sẽ không bị dối lừa.
70- Chỉ một mình Chúa Giêsu mới biết mức độ gian truân và khó khăn chừng nào để chu toàn bổn phận, trong lúc linh hồn chịu cay cực, sức lực bị yếu nhược, và tâm trí bị tăm tối.
Trong cái lặng thinh của tâm hồn, tôi vẫn thưa lên:
“Lạy Chúa Kitô, nguyện ước cho hoan lạc, danh dự, và vinh quang đều thuộc về Chúa, còn đau khổ là kỷ phần cho con.
Con sẽ không chần chừ một bước trên đường theo Chúa, cho dù gai nhọn làm nhức nhối chân con.”
72- Lạy Chúa Giêsu, Chân Lý hằng hữu và Sự Sống của chúng con,
Con kêu lên Chúa và khẩn nài Lòng Thương Xót của Chúa cho các tội nhân khốn cùng.
Ôi Trái Tim rất dịu hiền, lân tuất, và thương xót vô bờ, con van xin Chúa cho các tội nhân đáng thương.
Lạy Thánh Tâm cực thánh, nguồn mạch thương xót chiếu giãi những luồng sáng ân sủng tràn ngập trên toàn nhân loại, con van nài Chúa ban ánh sáng cho các tội nhân khốn cùng.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy nhớ lại cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa, và đừng để các linh hồn đã được cứu chuộc bằng giá Máu cực trọng của Chúa phải hư mất.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi suy gẫm về giá chuộc quá đắt của Máu Thánh Chúa, con lại được vui mừng ngất ngây, vì chỉ một giọt mà thôi cũng quá đủ cho phần rỗi tất cả các tội nhân.
Mặc dù tội lỗi là vực thẳm của sự độc dữ và vong ân, nhưng không bao giờ có thể sánh được với giá chuộc đã trả thay cho chúng con. Vì thế, ước chi mọi linh hồn hãy tín thác vào cuộc Khổ Nạn và trông cậy vào lượng thương xót của Chúa. Chúa không từ chối tình thương với bất kỳ ai.
Trời đất có thể đổi dời, nhưng lòng thương xót của Chúa sẽ không bao giờ cạn kiệt.
Chúa ơi! Một niềm hoan lạc mênh mang cháy lên trong tâm hồn con khi chiêm ngắm lòng nhân lành vô hạn của Chúa.
Ôi Chúa Giêsu, con mong ước đem mọi tội nhân đến bên chân Chúa, để họ cũng được tôn vinh Lòng Thương Xót của Chúa cho đến muôn đời.
73- Lạy Chúa Giêsu của con,
Mặc dù đêm đen thăm thẳm đang bủa vây con tư bề, và những bóng mây mù đang che mất chân trời, nhưng con biết mặt trời không bao giờ đi khỏi.
Lạy Chúa, dù không thấu hiểu được Chúa và cũng không nắm vững đường lối của Chúa, nhưng con vẫn tín thác vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Lạy Chúa, nếu thánh ý Chúa muốn con sống trong tăm tối như vậy mãi mãi, nguyện Chúa được chúc tụng.
Con chỉ xin Chúa một điều: đó là đừng để con xúc phạm đến Chúa cách nào.
Lạy Chúa Giêsu của con, một mình Chúa biết những thao thức và những đớn đau của lòng con. Con vui mừng vì có thể chịu khổ vì Chúa, mặc dù ít ỏi.
Khi cảm thấy những đau khổ vượt quá sức mình, tôi đến nương náu nơi Chúa trong bí tích Thánh Thể, và thưa với Người trong thinh lặng sâu xa.
74- Một ngày nọ, tôi không sao tìm được một chút bình an vì cảm thấy bị thôi thúc phải lo liệu việc thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, và nhờ vẽ bức hình Chúa Thương Xót.
Một cái gì đó bao trùm hữu thể tôi, và tôi sợ mình bị ảo tưởng. Tuy nhiên, những nghi ngờ này lúc nào cũng từ bên ngoài, bởi vì từ nơi sâu sâu thẳm trong linh hồn, tôi cảm thấy chính Chúa là Đấng đang thấu nhập hữu thể tôi.
Lúc đó vị linh mục giải tội cho tôi biết con người thường gặp ảo tưởng, và tôi nhận ra ngài có phần sợ giải tội cho tôi. Đây là một cực hình đối với tôi.
Thấy mình nhận được quá ít trợ lực của người đời, tôi càng hướng về Chúa Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt vời.
Một lần kia, vì quá nghi ngờ, không biết những lời tôi nghe được có xuất phát từ Chúa hay không, tôi thưa chuyện với Chúa Giêsu trong lòng, nhưng không thốt ra lời.
Thình lình một sức mạnh nội tâm xâm chiếm tôi, khiến tôi thưa lên:
“Nếu Đấng đang thông hiệp và trao đổi với con thực sự là Thiên Chúa của con, thì con nài xin Chúa hãy làm cho người học sinh nội trú này đi xưng tội ngay hôm nay. Dấu chỉ này sẽ giúp con an lòng.”
Ngay lúc đó, người thiếu nữ đó xin đi xưng tội.
Mẹ phụ trách lớp ngạc nhiên vì sự thay đổi đột ngột nơi thiếu nữ kia, nhưng Mẹ cũng cho mời ngay một vị linh mục, và thiếu nữ này xin tội với lòng sám hối thành thực.
Ngay lúc ấy, tôi nghe được một tiếng nói trong lòng: “Bây giờ, con có tin vào Cha hay chưa?”
Và một lần nữa, một sức mạnh lạ lùng lại chiếm đoạt linh hồn tôi, làm cho tôi mạnh mẽ và an lòng đến độ ngạc nhiên vì sao tôi đã nghi ngờ đến thế, dù chỉ một giây phút.
75- Nhưng các mối nghi nan này bao giờ cũng từ bên ngoài mà đến, đưa tôi đến chỗ khép kín với bản thân mỗi ngày một hơn.
Trong một lần cáo mình, tôi cảm thấy vị linh mục có vẻ bất an nên không trình bày tâm hồn, nhưng chỉ xưng tội với ngài mà thôi.
Một vị linh mục không bình an với bản thân thì làm sao rọi chiếu bình an cho một linh hồn khác được.
Ôi các linh mục,
Các ngài là những ngọn nến soi chiếu linh hồn người ta, chớ gì ánh sáng của các ngài đừng bao giờ bị lu mờ.
Lúc ấy, tôi hiểu thánh ý Chúa chưa muốn tôi thổ lộ tâm hồn hoàn toàn. Về sau, Chúa đã ban cho tôi ơn này.
=============
76~100
76- Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn tâm trí con, chiếm đoạt trọn vẹn hữu thể con, ấp ủ con trong nơi thẳm sâu của Trái Tim Chúa, và bảo vệ con trước những đợt tấn công của kẻ thù.
Niềm hi vọng duy nhất của con là ở nơi Chúa.
Xin Chúa hãy phán qua miệng con, để dù con là một sự xấu xa đích thực, cũng thấy mình được mạnh sức và khôn ngoan, hầu người ta nhận biết rằng công trình này là của Chúa và xuất phát từ Chúa.
77- Tâm trí tôi trở nên mù mịt lạ kỳ, xem ra không một chân lí nào còn rõ ràng với tôi nữa.
Khi người ta nói với tôi về Thiên Chúa, tâm hồn tôi nên như một tảng đá. Tôi không thể kín múc được từ những lời ấy một cảm tình yêu mến để dâng cho Chúa.
Khi cố gắng bằng hành vi ý chí để sống mật thiết với Chúa, tôi cảm nghiệm những cực hình khủng khiếp, và dường như tôi đang làm Thiên Chúa thêm thịnh nộ.
Tôi không thể nào nguyện gẫm được như đã quen trước kia. Tôi cảm thấy trong linh hồn một khoảng trống bao la và không thể lấy gì lấp đầy được. Tôi bắt đầu cảm thấy một cơn đói khát ngấu nghiến và mong mỏi Thiên Chúa, nhưng tôi nhìn thấy nỗi bất lực hoàn toàn của mình.
Tôi cố gắng đọc chậm, từng câu một, và nguyện gẫm bằng cách đó, nhưng điều này cũng chẳng đi đến đâu. Tôi chẳng hiểu những điều tôi đọc. Vực thẳm khốn nạn của tôi lúc nào cũng hiện ra trước mắt.
Mỗi lần vào nhà nguyện để làm việc thiêng liêng, tôi lại trải qua những cực hình và những cám dỗ ghê rợn hơn nữa.
Hơn một lần, trong suốt thánh lễ, tôi đã chiến đấu chống lại các tư tưởng phạm thượng chực bộc phát khỏi môi miệng. Tôi cảm thấy ghét cay ghét đắng các bí tích, và như thể chẳng được lợi ích gì từ đó cả. Chỉ vì vâng lời cha giải tội nên tôi mới thường xuyên lãnh thụ các bí tích, và sự vâng phục tối mặt này là con đường duy nhất để tôi bước theo, và là niềm hi vọng sống còn cuối cùng cho tôi.
Cha giải tội đã giải thích cho tôi rằng những thử thách này là do Thiên Chúa gửi đến, và trong tình trạng của tôi, không những tôi không xúc phạm đến Chúa mà còn làm đẹp lòng Người. Ngài nói: “Đây là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương và đặt nhiều tin tưởng nơi chị, bởi vì Người đang gửi cho chị những thử thách thế này.” Nhưng những lời ấy chẳng làm tôi nhẹ nhõm và dường như chẳng áp dụng được cho tôi chút nào.
Một điều làm tôi ngạc nhiên: sự kiện thường xảy ra là những cực hình kinh khủng làm tôi hết sức đau khổ kia bỗng nhiên biến mất khi tôi vào tòa giải tội. Nhưng khi vừa rời tòa, thì tất cả những cực hình ấy lại chộp bắt lấy tôi một cách hung bạo hơn trước.
Khi ấy, tôi thường sấp mặt trước Thánh Thể và lập đi lập lại lời này: “Mặc dù Chúa giết con, con vẫn tín thác nơi Chúa!” (x. G 13:15).
Dường như tôi sẽ chết giữa những thống khổ này. Nhưng đối với tôi, tư tưởng khủng khiếp nhất là đinh ninh rằng mình đã bị Thiên Chúa loại bỏ.
Thế rồi những tư tưởng khác ập đến với tôi: Tại sao phải cố gắng đắc thủ các nhân đức và làm những việc lành? Tại sao lại phải hành xác và hủy mình? Khấn dòng, cầu nguyện, hi sinh và bỏ mình được ích gì? Tại sao lúc nào cũng phải hy sinh bản thân? Được ích gì, nếu như tôi đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ? Tại sao lại phải thực hiện những cố gắng này?
Và ở đây, chỉ mình Thiên Chúa mới biết những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi.
78- Một lần kia, khi bị đè bẹp dưới đau khổ ghê rợn này, tôi vào nhà nguyện và thân thưa với Chúa tận đáy lòng:
“Xin Chúa hãy thực hiện những gì Chúa muốn nơi con, lạy Chúa Giêsu. Con xin thờ phượng Chúa trong mọi sự. Nguyện thánh ý Chúa được nên trọn nơi con. Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ ca ngợi Lòng Thương Xót của Chúa.”
Nhờ hành vi suy phục này, những cực hình khủng khiếp kia đã rời bỏ tôi. Bỗng nhiên, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu. Người nói với tôi: “Cha luôn ngự trong trái tim con”.
Một niềm vui khôn xiết tràn ngập linh hồn tôi, và tình yêu Thiên Chúa bao la lại nung đốt tâm hồn tôi.
Tôi thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thử thách quá sức chúng ta.
Ô! Tôi không sợ hãi gì cả. Nếu Thiên Chúa gửi đau khổ lớn lao cho một linh hồn, thì Người sẽ nâng đỡ bằng một ân sủng còn lớn lao hơn, mặc dù chúng ta không nhận ra được điều ấy.
Một hành vi tín thác trong những giờ phút ấy đem lại vinh quang rạng ngời cho Thiên Chúa, hơn là tất cả những giờ cầu nguyện êm đềm khác trôi qua trong an ủi.
Giờ đây, tôi thấy nếu Thiên Chúa muốn để một linh hồn trong bóng đêm, thì không sách vở nào, không cha giải tội nào có thể đem lại ánh sáng cho nó được.
79- Lạy Mẹ Maria là Từ Mẫu và là Tôn Chủ của con, con xin dâng Mẹ linh hồn và thân xác, cuộc sống và cái chết, cùng tất cả những gì sau đó của con. Con xin phó dâng mọi sự trong tay Mẹ.
Ôi Hiền Mẫu của con, xin Mẹ bảo bọc linh hồn con dưới áo choàng khiết trinh của Mẹ, và ban ơn để con có trái tim, linh hồn và thân xác trắng trong.
Xin hãy dùng sức mạnh của Mẹ mà bảo vệ con khỏi mọi kẻ thù, nhất là những người che đậy ác tâm của họ sau mặt nạ nhân đức.
Ôi Bông Huệ khả ái, Mẹ là tấm gương cho con. Ôi Từ Mẫu của con!
80- Lạy Chúa Giêsu, Thiên Chúa chịu giam cầm vì tình yêu. Khi con suy về tình yêu Chúa và Chúa đã hủy mình vì con như thế nào, các giác quan của con hóa ra bất lực. Chúa đã che giấu vẻ uy linh cao vời của Chúa và hạ mình đến chỗ đớn hèn là con.
Lạy Vua Vinh Hiển, dù Chúa che khuất vẻ đẹp thần linh, nhưng mắt linh hồn con vẫn xé toang được bức màn. Con thấy các ca đoàn thiên thần không ngừng tôn vinh, các quyền thần không dứt tiếng chúc tụng và tung hô: Thánh, Thánh, Thánh…
Ôi, nào ai hiểu được khối tình yêu và Lòng Thương Xót vô tận của Chúa dành cho chúng con!
Lạy Đấng chịu giam cầm vì yêu, con xin nhốt trái tim đớn hèn của con trong nhà tạm này để được tôn thờ Chúa suốt ngày đêm. Con biết không có gì ngăn trở việc tôn thờ này, mặc dù thân xác cách biệt, nhưng tâm hồn con luôn ở bên Chúa. Không gì có thể làm nguôi tình mến con dâng lên Chúa. Không còn một cản ngăn nào đối với con nữa.
Lạy Chúa Giêsu của con, con sẽ an ủi Chúa về mọi vô ơn, lộng ngôn, nguội lạnh, thù hận và phạm thánh của các kẻ dữ.
Lạy Chúa Giêsu, con muốn được toàn thiêu như một lễ vật tinh tuyền và tiêu tan trước tòa Chúa ẩn thân. Con không ngừng kêu nài Chúa cho các linh hồn tội lỗi đáng thương.
81- Lạy Ba Ngôi Chí Thánh, Thiên Chúa Nhất Thể Bất Phân, nguyện Chúa được chúc tụng vì tặng ân và giao ước tuyệt vời này của Lòng Thương Xót.
Lạy Chúa Giêsu của con, để đền thay những kẻ lộng ngôn, con sẽ nín lặng khi bị trách mắng bất công, và qua đó đền tạ phần nào cho Chúa.
Trong linh hồn con, con vẫn hát dâng Chúa một khúc ca bất tận, không ai ngờ đến hoặc hiểu được điều này. Khúc ca của linh hồn con chỉ mình Chúa biết. Lạy Đấng Tạo Hóa và Thiên Chúa của con!
82- Con sẽ không để bị lôi cuốn vào cơn lốc công việc đến độ quên Chúa.
Con sẽ tận dụng mọi giờ phút rảnh rỗi để quấn quít bên chân Thầy Chí Thánh ẩn ngự trong Bí Tích Thánh Thể. Người vẫn dạy dỗ tôi suốt từ những năm tháng thời ấu thơ của tôi.
83- Con hãy viết về điều này: Trước khi đến trong tư cách Thẩm Phán chí công, Cha sẽ đến trong tư cách Vua Tình Thương.
Trước ngày phán xét, một dấu chỉ trên trời sẽ được ban cho mọi người:
Tất cả ánh sáng trên trời sẽ bị tắt đi, và bóng tối kinh khủng sẽ bao trùm toàn thể địa cầu. Bấy giờ, người ta sẽ nhìn thấy hình Thánh Giá trên bầu trời. Và từ các thương tích mở ra trên tay và chân Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh, sẽ có những luồng sáng chói chang chiếu tỏa địa cầu trong một thời gian. Điều này sẽ xảy ra trước ngày sau hết.
84- Kính lạy Máu và Nước đã tuôn trào ra từ Trái Tim Chúa Giêsu, như suối nguồn thương xót chúng con, con tín thác vào Chúa!
86- Một lần kia, khi nhìn thấy cha giải tội của tôi (có lẽ là cha Sopocko) phải chịu đau khổ vì công việc Chúa đang thực hiện qua ngài, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi một lúc và tôi thưa cùng Chúa:
“Lạy Chúa Giêsu, đây là công việc của Chúa, thế mà Chúa nỡ đối xử như vậy với ngài hay sao? Con thấy hình như Chúa đang gây khó cho ngài, trong khi Chúa lại ban lệnh cho ngài thực hiện.”
Chúa đáp: “Con hãy viết rằng, ánh nhìn của Cha ngày đêm luôn dõi theo ngài, và Cha tha phép cho những gian nan này xảy đến là để tăng thêm công phúc cho ngài mà thôi.
Cha ban thưởng không dựa vào thành quả, nhưng vào sự nhẫn nại và khó khăn người ta phải chịu vì Cha”.
90- Một ngày kia, trong lòng tôi nhìn thấy cha giải tội của tôi phải đau khổ rất nhiều. Các đồng bạn lìa bỏ cha, trong lúc mọi người đứng lên chống đối cha, còn sức khỏe phần xác của cha lại kiệt quệ.
Tôi nhìn thấy cha như một chùm nho được chủ vườn chọn hái, và rồi ném vào máy ép đau khổ.
Linh hồn của cha đôi lúc ngập ngụa những nghi nan về công cuộc này và về tôi.
Thấy Chúa xem ra cũng chống lại cha, tôi hỏi sao Chúa lại xử với ngài như vậy, khác nào đặt các vật cản không cho ngài thực hiện những điều Chúa hoàn tất. Và Chúa phán với tôi:
“Cha xử với ngài như vậy để minh chứng công cuộc này là của Cha. Con hãy nói ngài đừng sợ hãi. Ánh nhìn của Cha ngày đêm luôn dõi theo ngài. Số hào quang làm nên triều thiên của ngài sẽ nhiều bằng số linh hồn được cứu vớt nhờ công cuộc này. Cha ban thưởng không dựa trên thành công , nhưng trên đau khổ vì công việc”.
91- Lạy Chúa Giêsu của con, một mình Chúa biết những bách hại con đang phải chịu chỉ vì trung tín với Chúa, và tuân theo những lệnh truyền của Chúa.
Chúa là dũng lực của con, xin nâng đỡ để con có thể thực hiện những gì Chúa đòi hỏi.
Tự mình con, con chỉ là hư vô, nhưng khi được Chúa phù trợ, mọi khó khăn không còn là gì đối với con nữa.
Lạy Chúa, con thấy rất rõ ràng, từ khi linh hồn con lần đầu tiên được nhận biết Chúa, cuộc đời con đã là một cuộc chiến triền miên, ngày càng khốc liệt hơn.
Mỗi sáng, trong giờ nguyện ngẫm, con chuẩn bị cho một ngày chiến đấu.
Việc hiệp lễ bảo đảm cho con rằng con sẽ chiến thắng. Và quả đúng như vậy.
Con sợ hãi ngày mà con sẽ không được rước lễ. Bánh của Những Người Mạnh đem đến cho con tất cả những dũng lực cần thiết để bước đi trong sứ mạng, và can trường chu toàn những điều Chúa đòi hỏi. Can trường và sức mạnh trong con không phải của con, nhưng là của Đấng ngự trong con – đó là Chúa Thánh Thể.
Lạy Chúa Giêsu của con, những hiểu lầm thật quá kinh hoàng. Nhiều khi, nếu không nhờ Thánh Thể, chắc con không thể can đảm dấn bước trên đường Chúa đã vạch sẵn cho con.
92- Xỉ nhục là lương thực hằng ngày của tôi.
Tôi biết tân nương sẽ chia sẻ mọi sự với tân lang; như vậy, chiếc áo phỉ báng của Người cũng sẽ bao phủ lên thân tôi.
Trong khi chất chứa đầy đau khổ, tôi cố gắng nín lặng vì không tin vào lưỡi của mình. Những lúc ấy, chiếc lưỡi có xu hướng biện minh cho bản thân, trong khi bổn phận của nó là phải giúp tôi ca tụng Thiên Chúa về mọi phúc lành và ân huệ Người ban.
94- Lạy Thiên Chúa của con,
Xin đốt lửa tình yêu Chúa trong tâm hồn con, để thần trí con không bị yếu nhược giữa những phong ba, đau khổ và thử thách.
Chúa biết con yếu đuối nhường nào. Tình yêu có thể làm được mọi sự.
95- Hiểu Biết Chúa Hơn và Nỗi Sợ Hãi của Linh Hồn
Lúc đầu, Thiên Chúa tỏ mình qua sự thánh thiện, đức công bình và lòng nhân lành - tức là Lòng Thương Xót của Người.
Linh hồn không nhận biết tất cả điều này ngay một lúc, nhưng từng chút một, như những tia chớp; tức là khi Thiên Chúa đến gần. Nhưng điều này không kéo dài lâu, bởi vì linh hồn không thể chịu nổi ánh sáng như thế.
Trong giờ cầu nguyện, linh hồn cảm nhận được những tia chớp của ánh sáng này khiến nó không sao cầu nguyện được như trước kia. Linh hồn cố gắng hết sức để ép mình cầu nguyện như trước, nhưng vô ích, nó hoàn toàn không còn khả năng để tiếp tục cầu nguyện như trước khi nhận được ánh sáng này.
Ánh sáng này đã chạm đến linh hồn và sống động trong đó, không gì có thể dập tắt hay làm giảm đi được. Tia chớp Tri Thức Thiên Chúa này cuốn hút linh hồn và làm nó bừng cháy tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng tia chớp này đồng thời cũng làm cho linh hồn được biết mình; linh hồn thấy tất cả nội tâm mình trong một ánh sáng siêu việt, và nó trỗi dậy trong tỉnh thức và kinh hãi. Tuy nhiên, linh hồn không thể ở mãi dưới những ảnh hưởng của sự kinh hãi, nhưng bắt đầu thanh luyện, khiêm tốn và tự hạ trước nhan Thiên Chúa.
Những ánh sáng này càng chói chang và thường xuyên hơn, thì càng xuyên thấu linh hồn và linh hồn càng trở nên tinh sạch hơn. Tuy nhiên, nếu như linh hồn trung thành và can đảm đáp ứng những ơn thánh đầu tiên ấy, Thiên Chúa sẽ ban dư đầy an ủi và hiến mình cho linh hồn đến độ có thể cảm nhận được.
Có thể nói có những giây phút linh hồn tham dự và hoan hưởng ân tình thân mật với Thiên Chúa. Linh hồn tin đã đạt đến mức hoàn thiện được tiền định cho mình, bởi lẽ những khuyết điểm và bất toàn của linh hồn đang ngủ yên, và điều này khiến linh hồn tưởng chúng ta không còn nữa. Không còn gì là khó khăn, linh hồn sẵn sàng làm mọi sự.
Linh hồn bắt đầu gieo mình vào Thiên Chúa và cảm hưởng những hoan lạc thần linh. Linh hồn được ân sủng mang đi và không nghĩ gì đến thời gian thử thách và thanh tẩy sẽ đến. Và quả thực, tình trạng này không kéo dài lâu. Những thời khắc khác sẽ mau đến. Tuy nhiên, tôi phải thêm rằng linh hồn vẫn có thể đáp ứng trung thành với ơn Chúa nếu như có được một cha giải tội từng trải để linh hồn có thể thổ lộ mọi sự.
96- Những thử thách của Thiên Chúa gởi đến cho một linh hồn được Người ưu ái đặc biệt. Những thử thách và bóng tối. Satan.
Tình yêu linh hồn đối với Thiên Chúa vẫn chưa phải là thứ tình yêu mà Chúa muốn thấy.
Linh hồn bỗng nhiên mất hết tri thức giác cảm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Những khuyết điểm và bất toàn đủ loại trỗi dậy, và linh hồn phải chiến đấu mãnh liệt để chống lại. Tất cả mọi sai lỗi ngóc đầu dậy, nhưng sự cảnh tỉnh của linh hồn thật lớn lao.
Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trước kia nhường chỗ cho tình trạng lạnh lẽo và khô khan thiêng liêng. Linh hồn không còn cảm hứng gì nữa đối với các việc thiêng liêng; không thể cầu nguyện, dù theo cách thế cũ, hay theo cách thế mà linh hồn vừa mới bắt đầu cầu nguyện. Linh hồn vùng vẫy hết cách nhưng không sao được thỏa nguyện.
Thiên Chúa đã ẩn mặt và linh hồn không tìm được an ủi nơi các thụ tạo, mà cũng chẳng thụ tạo nào tìm ra cách để an ủi linh hồn. Linh hồn khắc khoải khát mong Thiên Chúa nhưng chỉ thấy nỗi khốn cùng của mình. Nó bắt đầu cảm nhận ra phép công thẳng của Thiên Chúa; dường như linh hồn đã đánh mất mọi ân huệ Thiên Chúa ban cho; tâm trí mịt mù, tăm tối phủ đầy; những nỗi cực hình khôn xiết đã bắt đầu.
Linh hồn cố gắng giãi bày tình trạng của mình cho cha giải tội nhưng không được thông cảm, mà còn bị một sự áy náy ngày càng gia tăng tấn công dữ dội. Satan bắt đầu ra tay.
97- Đức tin chao đảo dưới ảnh hưởng này. Cuộc chiến đấu thật kinh hoàng. Linh hồn cố gắng hết sức để bám chặt đến Thiên Chúa bằng một hành vi ý chí.
Được phép của Thiên Chúa, Satan càng lộng hành: đức cậy, đức mến bị thử thách. Những cám dỗ này thật ghê rợn. Có thể nói Thiên Chúa nâng đỡ linh hồn trong thầm kín. Tuy linh hồn không nhận ra, nhưng nếu không có điều ấy, có lẽ linh hồn không thể đứng vững; và Thiên Chúa quá biết Người có thể tha phép những gì xảy đến với một linh hồn.
Linh hồn bị cám dỗ đừng tin tưởng các chân lý mặc khải và đừng chân thành với cha giải tội. Satan rỉ rón: “Hãy xem, có ai hiểu ngươi đâu; tại sao lại tỏ lộ tất cả chuyện này làm gì?”
Những lời ấy làm linh hồn kinh hãi cứ văng vẳng bên tai, và dường như chính linh hồn cũng đang thốt ra những lời ấy để chống lại Thiên Chúa. Linh hồn thấy điều không muốn thấy, nghe điều không muốn nghe. Và thật kinh khủng, nếu linh hồn không có một cha giải tội từng trải!
Linh hồn một mình ì ạch vác tất cả gánh nặng. Tuy nhiên, linh hồn phải nỗ lực hết sức để tìm cho được một cha giải tội kinh nghiệm, vì họ có thể quị ngã dước sức nặng và đã đến sát bờ vực thẳm.
Tất cả những thử thách này rất nặng nề và gian nan. Thiên Chúa không gửi cho các linh hồn chưa được tiếp nhận vào nghĩa tình với Người và nếm hưởng những hoan lạc thiêng liêng.
Hơn nữa ở đây, Thiên Chúa có những chương trình riêng mà chúng ta không sao hiểu thấu. Thiên Chúa thường chuẩn bị linh hồn như thế cho các chương trình và công cuộc lớn lao của Người trong tương lai. Chúa muốn thử luyện linh hồn như một thứ vàng tinh ròng.
Hơn nữa ở đây, Thiên Chúa có những chương trình riêng mà chúng ta không sao hiểu thấu. Thiên Chúa thường chuẩn bị linh hồn như thế cho các chương trình và công cuộc lớn lao của Người trong tương lai. Chúa muốn thử luyện linh hồn như một thứ vàng tinh ròng.
Nhưng đây chưa phải là kết thúc cuộc thử thách; còn một cuộc thử thách vượt trên các thử thách khác: linh hồn bị Thiên Chúa ruồng rẫy.
98- Khi linh hồn khải thắng những cuộc thử thách trước kia, mặc dù có thể vấp ngã đây đó, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng và khiêm tốn kêu cầu Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương cứu kẻo con chết mất!” Và linh hồn vẫn phải tiếp tục chiến đấu.
Tuy nhiên, đến lúc này, linh hồn còn bị chìm ngập giữa bóng đêm kinh hoàng. Linh hồn thấy nơi mình chỉ toàn tội lỗi. Nó cảm thấy hãi hùng, thấy bị Thiên Chúa loại bỏ hoàn toàn. Nó thấy mình là đối tượng bị Thiên Chúa ghét bỏ. Chỉ còn một bước chân nữa là linh hồn đến chỗ tuyệt vọng.
Linh hồn cố gắng hết sức để tự vệ; ra sức khơi dậy niềm tin; nhưng lời cầu nguyện ấy biến nên một cực hình cho nó, dường như chỉ khiến cho Thiên Chúa thêm thịnh nộ. Linh hồn thấy mình chới với trên vách đá chót vót, sát bên bờ vực thẳm.
Linh hồn bị lôi cuốn đến với Chúa nhưng lại cảm thấy bị cự tuyệt. Tất cả mọi đau khổ và cực hình thế gian này chẳng là gì nếu sánh với cảm giác mà linh hồn đang bị đẩy vào, tức là bị Thiên Chúa loại bỏ.
Không ai làm cho linh hồn được khuây khỏa. Nó hoàn toàn cô độc, không được ai chở che. Linh hồn ngước mắt về thiên đàng, nhưng đinh ninh thiên đàng không có chỗ cho mình – đối với nó, tất cả đều đã mất mát.
Linh hồn ngày càng lún sâu hơn vào tăm tối này đến tăm tối kia, dường như vĩnh viễn đã đánh mất Thiên Chúa là Đấng trước kia nó đã từng thiết tha yêu mến. Ý nghĩ đó là một cực hình không thể tả xiết. Nhưng linh hồn không đầu hàng và cố gắng vươn tầm nhìn về thiên đàng, nhưng vô ích! Điều này làm cho nỗi cực hình càng thêm ghê rợn hơn nữa.
Nếu Thiên Chúa muốn giữ linh hồn trong cảnh tối tăm như thế thì không ai có thể đem lại ánh sáng cho nó được. Một cách sống động đầy kinh hoàng, linh hồn cảm thấy bị Thiên Chúa loại bỏ. Từ lòng nó phát ra những tiếng than não nề, thống thiết đến độ không một linh mục nào hiểu thấu, trừ phi chính ngài cũng từng trải qua thử thách như vậy.
Trong thảm cảnh đó, thần dữ còn trút thêm thống khổ cho linh hồn và chế giễu: “Ngươi còn lì lợm trung thành nữa không? Phần thuởng cho ngươi đấy. Ngươi nằm trong quyền lực của tao rồi!”
Nhưng Satan chỉ có thể chì chiết linh hồn đến mức độ Thiên Chúa cho phép mà thôi, vì Thiên Chúa biết chúng ta có thể chịu đựng đến đâu. Satan eo xèo: “Ngươi được những gì qua sự khổ chế và qua sự trung thành với luật dòng của ngươi nào? Tất cả những cố gắng ấy ích lợi gì đâu? Ngươi đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ rồi!”
Hai tiếng ruồng bỏ trở thành một mồi lửa xuyên qua mọi tế bào thần kinh, thấu tận xương tủy. Nó xuyên thấu toàn thể hữu thể. Cơn thử thách lên đến cực điểm. Linh hồn không còn tìm sự trợ giúp ở đâu nữa. Linh hồn co rúm lại với chính mình và không còn nhìn thấy gì nữa; như thể đã chấp nhận cực hình bị ruồng bỏ.
Đây là giờ khắc tôi không còn gì để nói. Đây là cơn hấp hối của linh hồn.
100- Khi đó, sức lực thể lý của tôi cũng bắt đầu kiệt quệ, tôi không chu toàn được các nhiệm vụ của mình nữa. Tôi cũng không thể giấu được những đau khổ. Mặc dù không thốt ra một lời than vãn, nhưng dáng vẻ đớn đau trên khuôn mặt tôi đã bộc lộ hết.
Mẹ Bề Trên cho tôi biết các chị em đến nói với Mẹ rằng, khi thấy tôi trong nhà nguyện, họ đã xúc động vì thấy tôi quá thê thảm. Vâng, mặc dù cố gắng hết sức, nhưng linh hồn vẫn không thể che giấu được nỗi khổ ấy.
=============
101~125
101- Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ mình Chúa biết linh hồn bị đắm chìm giữa những tăm tối rên xiết thế nào giữa nỗi cực hình, và dù vậy, vẫn khao khát Chúa như một bờ môi khô lả khát nước. Linh hồn tàn lụi héo hắt, chết mà không chết, có thể nói là không sao chết được. Tất cả cố gắng của linh hồn đều không đến đâu; nó bị đè dưới một bàn tay mạnh mẽ.
Giờ đây, linh hồn nằm dưới quyền lực Đấng Chí Công. Mọi cám dỗ bên ngoài đều ngừng lại. Mọi vật chung quanh đều im tiếng. Khác nào xác chết không còn tiếp xúc với vạn vật chung quanh, trót cả linh hồn nằm trong bàn tay của Thiên Chúa Công Thẳng, Thiên Chúa Ba Lần Thánh, và bị loại bỏ muôn đời!
Đây là giờ phút tột cùng, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thử thách linh hồn đến vậy, vì chỉ mình Người mới biết linh hồn có thể chịu đựng đến đâu.
Khi đã ngập thấu trong thứ lửa hỏa ngục này, có thể nói linh hồn đã gục đầu chán chường tuyệt vọng.
Linh hồn tôi đã cảm nghiệm giờ phút này những khi ở một mình trong phòng riêng. Khi linh hồn tôi bắt đầu chìm đắm trong nỗi ê chề này, tôi cảm thấy kết cuộc đã gần kề. Nhưng tôi nắm chặt lấy tượng Chuộc Tội và ghì xiết trong tay.
Linh hồn tôi đã cảm nghiệm giờ phút này những khi ở một mình trong phòng riêng. Khi linh hồn tôi bắt đầu chìm đắm trong nỗi ê chề này, tôi cảm thấy kết cuộc đã gần kề. Nhưng tôi nắm chặt lấy tượng Chuộc Tội và ghì xiết trong tay.
Giờ đây, tôi cảm thấy thân xác đang tách khỏi linh hồn, và dù muốn đến gặp các bề trên, nhưng tôi không còn sức lực. Tôi thốt lên những lời sau hết: “Con tín thác nơi Lòng Thương Xót Chúa!” – và đối với tôi, dường như tôi đang làm Thiên Chúa thịnh nộ thêm.
Giờ đây, tôi cảm thấy thân xác đang tách khỏi linh hồn, và dù muốn đến gặp các bề trên, nhưng tôi không còn sức lực. Tôi thốt lên những lời sau hết: “Con tín thác nơi Lòng Thương Xót Chúa!” – và đối với tôi, dường như tôi đang làm Thiên Chúa thịnh nộ thêm.
Giờ đây, chìm đắm trong nỗi tuyệt vọng, tất cả còn lại với tôi chỉ là một tiếng rên não ruột thỉnh thoảng phát ra từ linh hồn. Linh hồn trong cơn thống khổ - dường như tôi đang trong thảm trạng ấy, bởi vì tự sức mình, tôi không sao vượt khỏi đó được.
Mỗi lần nhớ đến Chúa là mỗi lần khơi ra một đại dương đau khổ khôn tả. Tuy vậy, vẫn có một cái gì trong linh hồn níu kéo đến với Chúa, mặc dù điều này chỉ làm đau khổ thêm. Việc tưởng nhớ đến tình yêu Thiên Chúa trước kia đã từng ấp ủ linh hồn cũng là một nỗi khổ cho nó. Ánh nhìn của Người xuyên thấu, và mọi sự trong linh hồn bị cháy lên dưới ánh nhìn này.
102- Một lúc sau, một chị vào phòng và nhìn thấy tôi đã gần như chết. Chị hốt hoảng chạy tìm Mẹ Giám Tập. Mẹ đến và nhân danh đức vâng lời truyền cho tôi trỗi dậy khỏi mặt đất. Sức lực tôi liền phục hồi, tôi trỗi dậy, run rẩy.
Mẹ Giám Tập nhận ra tình trạng linh hồn tôi, và nói cho tôi biết về lòng nhân lành vô biên Thiên Chúa. Mẹ nói: “Này chị, chị đừng ngã lòng vì sự gì cả. Tôi truyền điều này cho chị nhân danh đức vâng lời.”
Sau đó, Mẹ còn nói thêm: “Này chị, bây giờ tôi thấy Thiên Chúa đang kêu gọi chị lên một cấp độ thánh thiện cao vời. Chúa muốn kéo chị đến gần bên Người. Vì thế, Người đã tha phép cho những điều này xảy đến với chị sớm sủa như vậy. Này chị, chị hãy trung thành với Thiên Chúa bởi vì đây là dấu cho thấy Người muốn chị có được một chỗ cao trọng trên thiên đàng.”
Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu gì về những lời ấy. Khi vào nhà nguyện, tôi cảm thấy linh hồn như thể đã được giải thoát khỏi mọi sự, như thể vừa mới từ bàn tay Chúa mà ra. Tôi nhận ra tính bất khả xâm phạm của linh hồn. Tôi cảm thấy mình là một đứa trẻ bé bỏng.
103- Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa trong lòng. Người phán với tôi: “Hỡi ái nữ của Cha. Đừng sợ! Cha ở với con”.
Ngay giây phút ấy, mọi tăm tối và cực hình đều biến mất. Các giác quan tôi dạt dào niềm vui sướng khôn tả, và các tài năng của linh hồn tôi chứa chan ánh sáng.
104- Tôi muốn nói thêm, mặc dù linh hồn tôi đã ở trong những tia sáng tình yêu Thiên Chúa, nhưng các dấu vết cực hình quá khứ vẫn hằn lại trên thân xác tôi hai ngày nữa: mặt tái xanh như chết, cặp mắt thì đỏ ngầu.
Chỉ mình Chúa Giêsu mới biết tôi đã chịu đựng những gì. Những điều tôi viết ra đây thật chẳng là gì so với thực tế. Tôi không thể diễn tả bằng ngôn từ; dường như tôi đã từ thế giới bên kia trở về.
Tôi cảm thấy gớm ghét mọi thụ tạo. Tôi nép sát vào Thiên Chúa như một con trẻ ôm bầu sữa mẹ. Giờ đây, tôi nhìn mọi sự đã khác xưa. Tắt một lời, tôi ý thức được những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong linh hồn tôi, và tôi nhờ đó mà sống được.
Tôi rùng mình khi hồi tưởng cực hình đã qua. Có lẽ không sao tin nổi con người mà lại có thể chịu đựng đến thế, nếu chính bản thân chưa từng trải nghiệm. Đây là một đau khổ thuần túy tinh thần.
106- Mặc dù đó là những điều kinh hãi, nhưng linh hồn không nên quá khiếp sợ, bởi Thiên Chúa không bao giờ thử thách chúng ta quá sức chịu đựng. Đàng khác, cũng có thể Chúa không bao giờ gửi cho chúng ta những đau khổ ấy.
Nhưng tôi viết điều này bởi vì nếu Chúa vui lòng để một linh hồn trải qua những đau khổ ấy, thì họ không nên sợ hãi, vì điều này tùy thuộc vào chính bản thân họ, nếu họ trung thành với Thiên Chúa.
106- Mặc dù đó là những điều kinh hãi, nhưng linh hồn không nên quá khiếp sợ, bởi Thiên Chúa không bao giờ thử thách chúng ta quá sức chịu đựng. Đàng khác, cũng có thể Chúa không bao giờ gửi cho chúng ta những đau khổ ấy.
Nhưng tôi viết điều này bởi vì nếu Chúa vui lòng để một linh hồn trải qua những đau khổ ấy, thì họ không nên sợ hãi, vì điều này tùy thuộc vào chính bản thân họ, nếu họ trung thành với Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không làm hại linh hồn bởi chính Người là tình yêu, và chính vì tình yêu vô cùng ấy mà Người đã đưa linh hồn ra hiện hữu. Tuy nhiên, giữa cơn đau khổ, chính tôi cũng chẳng hiểu ra điều này.
107- Lạy Chúa của con, con biết mình không thuộc về thế gian.
Lạy Chúa, Chúa đã trào đổ cho linh hồn con ý thức sâu xa về điều này. Con được hiệp thông với cõi trời nhiều hơn với cõi đất, mặc dù con không xao lãng với những bổn phận của mình.
108- Trong những thời gian ấy, tôi không có cha linh hướng mà cũng không được hướng dẫn gì cả. Tôi khẩn nài Chúa, nhưng Người vẫn không ban cho tôi một vị linh hướng.
Chính Chúa Giêsu là Thầy Dạy của tôi ngay từ tấm bé cho đến lúc này. Chúa đồng hành với tôi qua những sa mạc và mọi hiểm nguy. Tôi thấy rõ ràng chỉ một mình Chúa có thể dìu dắt tôi băng qua những hiểm nguy nhường ấy một cách an lành. Linh hồn tôi không bị hoen ố, và thắng vượt những trắc trở gian nan một cách khải hoàn.
Về sau, Chúa mới ban cho tôi một cha linh hướng.
109- Sau những đau khổ ấy, linh hồn thấy mình trong một tình trạng hết sức tinh sạch và thân mật với Thiên Chúa. Nhưng tôi xin thêm rằng, ngay trong thời gian cực hình ấy, tuy ở bên Thiên Chúa, nhưng linh hồn lại bị mù. Cái nhìn của linh hồn bị chìm trong tăm tối.
Thiên Chúa vẫn ở gần gũi với linh hồn đau khổ, nhưng tất cả bí mật là ở chỗ linh hồn chẳng nhận biết điều này. Thực vậy, linh hồn thừa nhận không những Thiên Chúa đã ruồng bỏ nó, mà nó còn là đối tượng gớm ghét của Người. Con mắt của linh hồn đau khổ thật mù lòa biết bao!
Khi tiếp xúc với ánh sáng thần linh, linh hồn khẳng định ánh sáng ấy không hề hiện hữu, chỉ vì ánh sáng quá chói chang ấy đã làm cho linh hồn bị quáng.
Tuy vậy, về sau, tôi biết Thiên Chúa đã gần gũi với một linh hồn trong những giây phút như thế hơn bao giờ hết, bởi vì nếu chỉ được trợ lực bằng ân sủng thông thường, ắt hẳn linh hồn không thể chịu nổi những thử thách này. Quyền toàn năng và ân sủng ngoại thường của Chúa nhất định phải hoạt động ở đây, vì nếu không, linh hồn có lẽ đã thất bại ngay từ đau khổ ban đầu.
110- Lạy Tôn Sư chí thánh, điều xảy ra trong linh hồn con là công việc của riêng Chúa!
Lạy Chúa, Chúa đã không ngần ngại để linh hồn con đứng bên bờ vực thẳm hun hút, khiếp hãi, và rồi gọi con trở về bên Chúa. Đây là những mầu nhiệm khôn thấu của Chúa.
114- Ôi, êm ái thay bài thánh ca của linh hồn giữa đau khổ!
Toàn thể thiên đàng sung sướng nơi linh hồn này, nhất là khi họ đang được Thiên Chúa thử thách. Họ hát lên như than vãn nỗi niềm khát mong Thiên Chúa của mình.
Vẻ đẹp của họ thật cao khiết vì xuất phát từ Thiên Chúa. Linh hồn dò dẫm băng qua miền rừng rậm của cuộc đời, bị đả thương vì tình yêu Thiên Chúa. Nhưng họ chỉ chạm một chân xuống đất mà thôi.
115- Khi vượt qua những thử thách này, linh hồn sẽ khiêm nhượng thẳm sâu. Sự tinh sạch của họ thật đáng quý.
Có thể nói linh hồn biết mà không cần suy tư về những gì phải làm và phải chịu đựng trong từng giây phút. Họ cảm nhận được cả cái chạm khẽ nhất của ân sủng và rất trung thành với Thiên Chúa. Họ nhận ra Thiên Chúa từ đằng xa và lúc nào cũng hoan hỉ trong Người. Họ nhận ra Thiên Chúa rất nhanh chóng nơi các linh hồn khác, và nói chung là trong cảnh vực sống của mình.
Linh hồn này đã được chính Thiên Chúa thanh luyện. Thiên Chúa, Đấng Thuần Thần, đưa linh hồn vào cuộc sống thuần túy thiêng liêng. Chính Thiên Chúa chuẩn bị và thanh luyện linh hồn trước tiên; tức là làm cho họ có khả năng hiệp thông mật thiết với Người. Linh hồn, trong trạng thái an nghỉ của tình yêu, hiệp thông trong tinh thần với Thiên Chúa. Họ thưa chuyện với Thiên Chúa mà không cần diễn tả qua các giác quan. Thiên Chúa ban tràn đầy ánh sáng cho họ.
Tâm trí được soi sáng nhìn thấy rõ ràng và phân biệt được những mức độ khác nhau trong đời sống thiêng liêng. Tâm trí nhận ra tình trạng ấy khi sự kết hợp với Thiên Chúa còn bất toàn: nơi đâu các giác quan còn dính dáng và tâm trí còn liên kết với các giác quan – chắc chắn đã được nâng cao và đặc biệt – thì nơi ấy vẫn chưa hoàn hảo.
Có một cấp độ kết hợp với Thiên Chúa cao hơn và hoàn hảo hơn, đó là sự kết hợp trí năng. Ở đây, linh hồn an toàn hơn vì không vướng phải những ảo tưởng; đời sống tinh thần tinh tuyền hơn và sâu lắng hơn. Trong một cuộc sống mà các giác quan còn dính dáng thì vẫn còn nguy cơ ảo tưởng. Sự thận trọng phải có một vai trò quan trọng, cho linh hồn và cả cho cha giải tội.
Rồi sẽ có những thời gian Thiên Chúa đưa linh hồn đến một tình trạng thiêng liêng thuần túy. Các giác quan đều mù mịt và dường như đã chết. Linh hồn được gắn bó mật thiết với Thiên Chúa; ngụp lặn trong Thiên Tính; tri thức của nó được sung thực và hoàn hảo, chứ không phải rời rạc như trước kia, nhưng trọn vẹn và tuyệt đối. Linh hồn vui mừng ở điều này.
Nhưng tôi muốn nói thêm nữa về những giờ phút của thử thách; trong những giờ phút ấy, cha giải tội phải nhẫn nại với linh hồn như thế. Nhưng chính linh hồn cũng phải nhẫn nại với chính mình hơn nữa.
116- Lạy Chúa Giêsu của con,
Chúa biết linh hồn con trải qua những gì khi hồi tưởng về những nỗi khổ này.
Con thường ngạc nhiên vì sao các thiên thần và các thánh lại cứ điềm nhiên khi thấy một linh hồn đau khổ đến thế. Tuy nhiên, các ngài dành cho chúng ta một tình yêu đặc biệt trong những giờ phút ấy.
Linh hồn tôi thường than van cùng Thiên Chúa như một đứa trẻ kêu khóc ầm ĩ khi được mẹ lau mặt cho nhưng lại không nhận ra bà.
Lạy Chúa Giêsu của con,
Nguyện chúc danh dự và vinh quang đều thuộc về Chúa trong những thử thách tình yêu này!
Vĩ đại và bao la thay lòng xót thương của Chúa.
Lạy Chúa, tất cả những gì Chúa đã định cho linh hồn con, đều thấm đẫm lượng thương xót của Chúa.
117- Tôi cũng đề cập ở đây rằng những ai đang sống với một người như thế không nên gây thêm cho họ những đau khổ bên ngoài nữa.
Quả thật, khi chén của linh hồn đã đầy, chỉ cần thêm một giọt nhỏ cũng là quá nhiều, và chén đắng sẽ tràn. Và ai sẽ phải trả lẽ cho một linh hồn như thế?
Chúng ta ý tứ đừng gia thêm đau khổ cho người khác, bởi vì như thế là mất lòng Chúa.
Nếu chị em hay bề trên nào đã biết, hoặc thậm chí còn nghi ngờ, về một linh hồn đang đau khổ vì thử thách như thế, mà còn gây thêm đau khổ cho họ thì phạm tội nặng nề, chính Thiên Chúa đòi họ phải trả lẽ cho một linh hồn như thế.
Ở đây, tôi không nói đến các trường hợp tự bản tính là tội, nhưng về những điều không phải là tội. Chúng ta hãy cảnh giác đừng chất thêm gánh nặng cho một linh hồn như thế.
Đây là một lỗi nặng và thường gặp trong đời sống tu trì. Tức là khi thấy một linh hồn đau khổ, chúng ta luôn luôn muốn chất thêm đau khổ cho họ.
Tôi không nói mọi người, nhưng cũng có một số người hành xử như thế. Chúng ta tự tiện đưa ra đủ thứ xét đoán, và cứ lặp đi lặp lại những lời ấy trong lúc lẽ ra nên im lặng thì tốt hơn.
118- Cái lưỡi là một cơ phận nhỏ bé, nhưng lại làm những điều lớn lao.
Một tu sĩ không giữ thinh lặng thì chẳng bao giờ đạt đến thánh thiện; tức là không bao giờ nên thánh.
Tu sĩ ấy đừng tự làm “loãng” mình – trừ khi chính Thánh Thần Thiên Chúa qua tu sĩ ấy mà lên tiếng, chỉ khi ấy, tu sĩ không được câm nín. Nhưng để nghe được tiếng Chúa, người ta phải giữ tĩnh lặng trong linh hồn và thinh lặng bên ngoài. Không phải sự thinh lặng ủ dột, nhưng là sự tĩnh lặng nội tâm, tức là việc tưởng nhớ đến Chúa.
Người ta có thể nói rất nhiều mà không phá vỡ sự tĩnh lặng, và ngược lại, có thể nói rất ít mà vẫn thường xuyên phá vỡ sự tĩnh lặng.
Ôi, sự thiệt hại do việc phá thinh lặng gây ra thật không sao bù đắp được! Chúng ta gây ra rất nhiều thiệt hại cho người lân cận, và thậm chí cho cả bản thân chúng ta.
Theo thiển ý và theo kinh nghiệm của tôi, luật giữ thinh lặng phải giữ vị trí hàng đầu.
Thiên Chúa không ban mình cho một linh hồn lắm miệng. Họ như một con ong đực trong một tổ, ồn ào mọi nơi mà không chịu hút mật. Một linh hồn lắm miệng sẽ rỗng tuếch nội tâm. Họ thiếu cả những nhân đức thiết yếu và sự thân mật với Thiên Chúa.
Một đời sống nội tâm sâu xa, một cuộc sống bình an, và một nếp sống tĩnh lặng là những nơi có Thiên Chúa ngự trị là một vấn đề không cần bàn luận thêm nữa.
Một linh hồn náo động, quấy phá sự tĩnh lặng của người khác, là một linh hồn không bao giờ nếm hưởng được sự ngọt ngào của sự tĩnh lặng nội tâm.
Tôi đã thấy nhiều linh hồn dưới những tầng sâu hỏa ngục chỉ vì không giữ thinh lặng. Họ cho tôi biết như thế khi tôi hỏi về nguyên nhân trầm luân của họ. Đây là linh hồn của các tu sĩ.
Lạy Chúa, thật đớn đau khi nghĩ rằng lẽ ra họ đã được lên thiên đàng, mà còn là những vị thánh nữa!
Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót!
119- Tôi run giùng khi nghĩ đến phải trả lẽ về cái lưỡi của mình.
Có sự sống mà cũng có sự chết ở nơi cái lưỡi.
Đôi khi chúng ta giết người bằng lưỡi. Chúng ta là những kẻ giết người thật sự. Thế mà chúng ta vẫn coi đó là chuyện nhỏ hay sao?
Tôi thật sự không hiểu nổi những lương tâm như thế. Tôi biết một chị kia khi nghe tiếng người ta xì xèo về một điều nọ của mình, chị liền ngã bệnh trầm trọng. Chị đã mất rất nhiều máu và khóc lóc rất nhiều, đưa đến hậu quả vô cùng thê thảm. Không phải lưỡi gươm, mà là cái lưỡi đã gây nên tất cả điều ấy.
Lạy Chúa Giêsu thinh lặng của con, xin thương xót chúng con!
120- Tôi đã nói loanh quanh về đề tài thinh lặng. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn bàn đến, nhưng là cuộc sống của linh hồn với Thiên Chúa và việc đáp ứng ân sủng.
Một khi đã được thanh luyện và giao tiếp thân mật với Thiên Chúa, linh hồn bắt đầu vận dụng tất cả sức lực trong mình để bước theo Người. Tuy vậy, linh hồn không thể tự sức làm được việc gì. Một mình Thiên Chúa liệu định mọi sự. Linh hồn biết và ý thức được điều đó. Họ vẫn còn trong chốn lưu đầy và quá hiểu vẫn còn những ngày mây mù mưa bão, nhưng giờ đây, ắt hẳn linh hồn phải nhìn sự vật một cách khác hẳn trước kia. Linh hồn không tìm sự an tâm trong bình an giả tạo, nhưng sẵn sàng để chiến đấu.
Linh hồn biết mình xuất thân từ dòng tộc chinh chiến. Giờ đây, linh hồn đã ý thức hơn về mọi sự. Linh hồn biết mình thuộc về dòng dõi vương giả nên lưu tâm đến những gì cao trọng và lương thiện.
121- Sau những cuộc thanh luyện qua lửa ấy, Chúa sẽ trào đổ một thác ân sủng xuống cho linh hồn. Linh hồn hoan hưởng sự kết hợp thân mật với Thiên Chúa. Họ được nhiều thị kiến, cả thể xác lẫn trí năng, nghe được nhiều tiếng nói siêu nhiên và đôi khi cả những mệnh lệnh rõ ràng. Mặc dù được những ân sủng này, nhưng linh hồn vẫn thấy chưa đủ.
Thực vậy, xét ra cũng là kết quả ơn Chúa. Linh hồn thấy mình thiếu thốn hơn trước vì lúc này phải đương đầu với nhiều nguy hiểm và dễ dàng trở thành miếng mồi cho các ảo tưởng.
Linh hồn phải nài xin Thiên Chúa ban cho một vị linh hướng; nhưng không phải chỉ cầu nguyện suông, mà còn phải gắng hết sức tìm cho được một vị hướng dẫn chuyên môn trong những vấn đề này, như một viên chỉ huy phải biết rõ những con đường dẫn quân ra trận.
Một linh hồn kết hợp với Chúa phải được trang bị sẵn sàng cho những trận chiến dữ dội và hết sức gian truân.
+ Chúa sẽ ngự đến với linh hồn một cách đặc biệt sau những thanh luyện và nước mắt, nhưng linh hồn không phải lúc nào cũng hợp tác với ơn Chúa. Không phải vì linh hồn không sẵn lòng hợp tác, nhưng vì gặp quá nhiều khó khăn cả trong lẫn ngoài đến độ thực sự phải coi là một phép lạ nếu giữ được linh hồn trên những đỉnh cao ấy. Trong vấn đề này, linh hồn tuyệt đối cần phải có một vị linh hướng.
Người ta thường gieo hoài nghi vào linh hồn tôi, và chính tôi đôi lúc cũng hoảng sợ khi nghĩ rằng mình dù sao cũng là một con người ngu xuẩn, không hiểu biết bao nhiêu, nhất là về các vấn đề thiêng liêng.
Khi những nỗi nghi ngờ gia tăng, tôi đã đi tìm ánh sáng nơi cha giải tội hoặc các vị bề trên. Nhưng tôi đã không đạt được điều mình trông đợi.
122- Khi tôi thổ lộ vấn đề này cho các bề trên, một vị (có lẽ là mẹ Michael hoặc mẹ Mary Joseph) đã hiểu biết linh hồn tôi và con đường Chúa muốn tôi đi. Tôi nghe theo lời khuyên của Mẹ và đã tiến bộ rất nhanh trên đường trọn lành, nhưng việc này chẳng được bao lâu.
Khi giải bày linh hồn một cách tường tận hơn, tôi đã không đạt được điều mình mong ước; dường như vị bề trên cho rằng những ân huệ mà tôi là đối tượng chỉ là điều hoang tưởng, thành ra tôi chẳng nhận thêm được sự trợ giúp nào nữa.
Mẹ nói với tôi rằng không thể có chuyện Thiên Chúa kết tình nghĩa thân thiết với các thụ tạo của Người như thế: “Này chị, tôi sợ cho chị đấy! Biết đâu đây không phải là một hình thức ảo tưởng nào đó! Tốt hơn chị nên tìm lời khuyên của một linh mục.”
Nhưng cha giải tội cũng chẳng hiểu tôi, ngài nói: “Chị ơi, chị nên bàn hỏi những vấn đề này với các bề trên của chị thì hơn.”
Thế là tôi đi từ các bề trên đến với cha giải tội, rồi lại đi từ cha giải tội vòng về với các bề trên, thế mà cũng chẳng tìm được sự bình an. Những hồng ân linh thánh lại trở thành những đau khổ lớn lao cho tôi.
Hơn một lần, tôi đã thẳng thắn bộc bạch cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con sợ Chúa. Có lẽ Chúa không phải là một ông ma đấy chứ?”
Lúc nào Chúa Giêsu cũng trấn an, nhưng tôi vẫn cứ hoài nghi.
Tuy nhiên, thật lạ lùng. Tôi càng hoài nghi, Chúa Giêsu càng ban cho tôi nhiều bằng chứng, cho thấy những việc này do Chúa mà ra.
123- Khi thấy các bề trên không làm cho tâm trí tôi được thanh thản, tôi đã quyết định không nói gì về các vấn đề thuần túy nội tâm này nữa.
Bên ngoài, tôi cố gắng - như một nữ tu tốt lành - trình bày mọi sự cho bề trên, nhưng về nhu cầu tâm hồn, tôi chỉ nói trong tòa cáo giải.
Dựa trên nhiều nguyên nhân rất xác thực, tôi biết rằng một người nữ không được mời gọi để phân định những mầu nhiệm thế này. Tôi đã để mình chịu nhiều đau khổ không cần thiết.
Trong suốt một thời gian dài, tôi bị coi như một kẻ bị quỷ ám, bị nhìn bằng ánh mắt thương hại, và bề trên đã thực thi nhiều biện pháp phòng ngừa đối với tôi.
Tin đồn đến tai tôi là các chị em đã coi tôi là một kẻ như thế. Và bầu trời vẫn còn u ám quanh tôi.
Tôi bắt đầu lãng tránh các ơn này, nhưng điều ấy vượt quá sức tôi.
Bỗng nhiên, tôi bị bao phủ trong tình trạng tịnh hiệp - ngược với ý tôi - tôi đã được chìm đắm trong Thiên Chúa, và Người đã giữ tôi trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Người.
124- Trong những thời gian đầu, linh hồn tôi lúc nào cũng có phần lo sợ, nhưng về sau, được tràn ngập niềm bình an và sức mạnh lạ lùng.
125- Tất cả những điều này vẫn có thể chịu đựng nổi. Nhưng khi Chúa truyền tôi phải vẽ bức hình ấy, người ta bắt đầu công khai nói và coi tôi là một người cuồng loạn, bị hoang tưởng, và những lời đồn thổi ấy ngày càng rõ hơn.
Một chị đã đến nói riêng với tôi. Chị gợi bằng những lời thương hại: “Này chị, tôi nghe người ta nói chị là người hoang tưởng, và chị có nhiều thị kiến. Người chị em đáng thương của tôi ơi, chị hãy giữ mình trong vấn đề này.”
Chị ấy rất chân tình, thành thực kể cho tôi nghe những gì chị đã biết được. Nhưng hằng ngày, tôi vẫn phải nghe những chuyện như thế. Một mình Chúa biết tôi phải mệt mã thế nào.
=============
126~155
126- Tuy nhiên, tôi quyết tâm chịu đựng tất cả trong im lặng và không giải thích gì khi được hỏi.
Một số người cảm thấy khó chịu vì sự nín lặng của tôi, nhất là những người tọc mạch.
Một số khác chín chắn hơn đã nói: “Chị Faustina ắt phải rất thân mật với Chúa, mới có sức chịu nhiều đau khổ như vậy.”
Dường như tôi phải đương đầu với hai nhóm quan tòa. Tôi ráng sức giữ thinh lặng trong ngoài, không nói gì về mình, ngay cả khi một số chị em đến hỏi thẳng. Cặp môi tôi được niêm lại.
Tôi chịu đựng như một chú chim bồ câu, không hề than vãn. Nhưng một số chị em dường như thấy hứng thú trong việc làm khổ tôi theo khả năng của họ.
Sự nhẫn nhục của tôi chọc tức họ, nhưng Thiên Chúa đã cho tôi nhiều sức mạnh nội tâm để chịu đựng một cách bình lặng.
127- Biết rằng không thể tìm được ai trợ giúp trong những giờ phút thế này, tôi bắt đầu cầu nguyện, và xin Chúa ban cho một cha giải tội.
Ước mong duy nhất của tôi là có một vị linh mục nào đó nói với tôi thế này: “Chị hãy an lòng, chị đang đi đúng đường!” hoặc: “Chị hãy vứt hết những thứ này đi, vì chúng không xuất phát từ Chúa!”
Nhưng tôi không sao tìm được một linh mục vững tin đủ để nhân danh Chúa mà cho tôi một ý kiến như thế. Và thế là sự phập phồng vẫn cứ còn mãi.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thánh ý Chúa muốn con sống mãi trong sự phấp phỏng này, nguyện thánh danh Chúa được chúc tụng!
Lạy Chúa, con nài xin Chúa hướng dẫn linh hồn con, và ở với con, vì con chỉ là hư vô.
Nhưng tôi không sao tìm được một linh mục vững tin đủ để nhân danh Chúa mà cho tôi một ý kiến như thế. Và thế là sự phập phồng vẫn cứ còn mãi.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thánh ý Chúa muốn con sống mãi trong sự phấp phỏng này, nguyện thánh danh Chúa được chúc tụng!
Lạy Chúa, con nài xin Chúa hướng dẫn linh hồn con, và ở với con, vì con chỉ là hư vô.
128- Thế là tôi phải chịu xét đoán tư bề. Không có gì nơi tôi thoát được sự xét đoán của chị em.
Nhưng giờ đây, sau khi đã chán chê, họ bắt đầu để tôi yên.
Linh hồn thê thảm của tôi tìm được một chút nghỉ ngơi, và tôi biết Chúa vẫn ở rất gần bên tôi trong những giờ phút bách hại như thế.
Cuộc đình chiến này chỉ tạm ngưng một thời gian ngắn. Một trận cuồng phong khác lại nổi lên.
Và lúc này, đối với họ, những sự ngờ vực trước kia đã trở thành những sự kiện có thật. Và một lần nữa, tôi lại phải nghe những bài ca cũ. Có lẽ Chúa muốn như thế.
Nhưng thật lạ lùng, ngay cả bề ngoài tôi cũng bắt đầu cảm thấy những sự thất bại đủ thứ. Việc này kéo thêm nhiều thứ đau khổ đủ loại ập xuống trên tôi mà chỉ mình Chúa biết. Nhưng tôi cố gắng hết sức để chu toàn mọi việc với ý hướng thật ngay lành.
Giờ đây, tôi có thể thấy mình đang bị theo dõi mọi nơi như một tên trộm: trong nhà nguyện; trong lúc đang chu toàn các bổn phận; trong phòng riêng.
Tôi biết hiện giờ, ngoài sự hiện diện của Thiên Chúa, tôi còn ở trước sự hiện diện nhân loại nữa.
Và tôi phải nói, hơn một lần, sự hiện diện nhân loại này đã làm tôi hết sức khó chịu.
Có những lúc, tôi tự hỏi không biết có nên cởi đồ để tắm rửa hay không. Thực vậy, ngay cả chiếc giường đáng thương của tôi cũng nhiều lần bị lục lọi. Hơn một lần, tôi đã phải nực cười vì biết họ thậm chí cũng không chịu để yên cho chiếc giường của tôi. Một chị cho tôi biết tối nào chị cũng đến phòng tôi để xem tôi ở trên giường như thế nào.
Tuy nhiên, bề trên vẫn là bề trên. Dù các ngài làm tôi nhục nhã và lắm khi còn gây cho tôi đủ loại hoài nghi, nhưng các ngài luôn ban phép cho tôi làm theo những điều Chúa truyền. Mặc dù không theo cách tôi xin, nhưng bằng một cách khác, các ngài đã làm trọn những yêu sách của Chúa, và ban phép cho tôi thực hiện tất cả việc khổ hạnh và hãm mình mà Chúa yêu cầu.
Một ngày kia, một vị bề trên (có lẽ mẹ Jane) đã nổi cơn tam bành, và làm tôi nhục nhã đến độ nghĩ mình không thể chịu nổi.
Mẹ nói rằng: “Cái chị dở hơi, đồ thị kiến điên khùng! Xéo khỏi cái phòng này ngay! Đừng có mà nói vớ vẩn, chị kia!”
Mẹ tiếp tục trút xuống đầu tôi mọi thứ có thể nghĩ ra.
Tôi về phòng riêng, gục mặt trước tượng thánh giá, rồi ngước nhìn lên Chúa Giêsu mà không sao thốt lên được nửa lời.
Tuy nhiên, tôi giấu mọi chuyện không cho ai biết, và giả bộ như không có gì xảy ra giữa chúng tôi.
129- Satan luôn luôn lợi dụng những giờ phút như thế.
Những tư tưởng chán chường bắt đầu nổi lên: Đây là phần thưởng cho ngươi về sự trung thành và thực tâm của ngươi đấy! Làm sao có thể chân thành trong khi lại bị hiểu lầm như thế?
Lạy Chúa Giêsu, con không thể tiếp tục được nữa.
Tôi lại ngã gục xuống đất dưới sức nặng, toát đẫm mồ hôi, và nỗi sợ hãi bắt đầu lấn lướt.
Trong lòng, tôi không còn một ai để nương tựa. Đột nhiên, tôi nghe được một tiếng nói trong linh hồn: “Đừng sợ! Cha ở với con!”
Và một ánh sáng soi chiếu tâm trí tôi. Tôi đã hiểu rằng không nên đầu hàng trước những phiền sầu như thế.
Tôi được tràn đầy sức mạnh, và ra khỏi phòng với lòng can đảm mới mẻ để chịu đựng đau khổ.
130- Tuy nhiên, tôi bắt đầu dở chứng phần nào lơ đểnh. Tôi không còn chú tâm đến những sôi động nội tâm và tìm cách giải khuây.
Nhưng bất chấp sự ồn ào và lơ đễnh ấy, tôi vẫn thấy những gì đang xảy ra trong linh hồn. Tiếng Chúa rất rõ ràng và không gì có thể bóp nghẹt.
Tôi bắt đầu lẩn tránh các cuộc gặp gỡ với Chúa trong linh hồn, vì không muốn trở thành miếng mồi cho những ảo tưởng.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, Thiên Chúa vẫn đeo bám tôi bằng các ân huệ của Người, và thực sự tôi cảm nghiệm đắp đổi giữa cực hình với niềm vui.
Ở đây, tôi không đề cập đến những thị kiến và ân sủng tràn trề Chúa đã ban cho tôi trong thời gian này, vì đã trình bày ở một nơi khác.
131- Tôi chỉ đề cập ở đây những đau khổ đã lên đến tột cùng, và quyết định chấm dứt các mối nghi nan này trước khi vĩnh thệ.
Trong suốt thời gian thử luyện, tôi cầu xin ơn soi sáng cho vị linh mục mà tôi sẽ giải trình cặn kẽ tâm hồn. Tôi đã xin Chúa đích thân giúp đỡ và ban cho tôi ơn có thể trình bày hết mọi bí nhiệm giữa tôi với Người, và cho dù vị linh mục quyết định thế nào đi nữa, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận như từ Chúa Giêsu.
Phán quyết của ngài về tôi thế nào không thành vấn đề. Tất cả những gì tôi ước ao chỉ là sự thật và một câu trả lời dứt khoát cho các vấn đề. Tôi phó trót mình trong tay Chúa và tất cả những gì hồn tôi ước muốn chỉ là sự thật.
Tôi không thể tiếp tục sống mãi trong tình trạng hoài nghi, mặc dù tận thâm tâm, tôi biết chắc những điều này từ Chúa mà đến, và tôi sẵn sàng hiến mạng sống cho điều này. Tuy nhiên, tôi đặt ý kiến cha giải tội lên trên hết, quyết tâm làm theo điều ngài cho là tốt nhất, và hành động theo lời khuyên của ngài.
Tôi trông đợi giờ phút quyết định cho chiều hướng hoạt động trong quãng đời còn lại của mình. Tôi biết mọi sự sẽ phụ thuộc vào điều này. Những gì ngài nói với tôi có phù hợp hay đối nghịch hoàn toàn với những sôi động của tôi đi nữa không thành vấn đề; điều này không còn là vấn đề với tôi nữa. Tôi chỉ muốn biết và muốn bước theo sự thật mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa có thể giúp con! Từ giây phút này, con đã làm lại từ đầu. Con giấu tất cả mọi ân sủng trong linh hồn con, và chờ đợi vị được Chúa gởi đến cho con.
Trong lòng không chút nghi ngờ, tôi đã xin Chúa đoái thương trợ giúp trong phút giây này, và một ơn can đảm đã ban xuống cho linh hồn tôi.
132- Một lần nữa, tôi phải nói rằng có một số cha giải tội xem có vẻ là những vị linh hướng thật thụ, nhưng chỉ khi nào mọi việc đều suôn sẻ. Khi linh hồn ấy có nhu cầu nhiều hơn thì các ngài liền lúng túng, hoặc là không thể hoặc là không muốn hiểu biết về linh hồn này. Các ngài muốn tống khứ linh hồn ấy càng sớm càng tốt.
Nhưng nếu cứ khiêm nhượng, linh hồn sẽ luôn luôn tìm được ích lợi bằng cách này hay cách khác. Đôi khi, chính Thiên Chúa cũng chiếu giãi một tia sáng vào những nơi kín nhiệm trong linh hồn vì sự vì sự khiêm nhường và đức tin của họ.
Cha giải tội cũng thỉnh thoảng nói ra một điều gì đó mà ngài không có chủ ý, hoặc chính ngài cũng không ý thức. Ôi, chớ gì linh hồn hãy tin đó là những lời của chính Chúa Giêsu!
Mặc dù chúng ta nên tin rằng mọi lời trong tòa cáo giải là lời của Chúa, nhưng điều tôi vừa đề cập ở trên là điều trực tiếp xuất phát từ Chúa. Linh hồn nhận ra vị linh mục không tự tin đủ nên mới thốt ra lời ngài không muốn nói. Đây là cách Chúa tưởng thưởng cho lòng tin.
Chính tôi đã nhiều lần kinh nghiệm điều này. Có một vị linh mục rất uyên bác và đáng kính (có lẽ cha Wilkowski, linh mục giải tội cho các nữ tu tại Plock). Đôi khi tôi tình cờ xưng tội với ngài trong tòa cáo giải, lúc nào ngài cũng nghiêm khắc và chống đối các vấn đề tôi kể cho ngài.
Nhưng có một lần nọ, ngài nói với tôi: “Này chị, chị hãy nhớ rằng nếu Thiên Chúa đang đòi hỏi chị điều này, thì chị không nên chống lại với Người. Đôi khi Thiên Chúa muốn được chúc tụng chỉ bằng cách này mà thôi. Chị hãy an lòng. Điều gì Thiên Chúa đã khởi sự, Người sẽ hoàn tất. Nhưng tôi nói với chị điều này: hãy trung thành với Thiên Chúa, và hãy khiêm nhượng. Một lần nữa: là hãy khiêm nhượng. Chị hãy nhớ cho kỹ những điều tôi nói với chị hôm nay.”
Tôi cảm thấy hoan hỉ và tưởng rằng vị linh mục này có lẽ đã hiểu được tôi. Nhưng hóa ra sau đó tôi không bao giờ gặp ngài trong tòa cáo giải nữa.
133- Một lần kia, một vị bề trên có tuổi (có lẽ Mẹ Jane) triệu tôi đến và trút xuống đầu tôi như thể những cơn lôi đình, đến nỗi tôi không còn biết trời trăng gì nữa.
Nhưng sau một lúc, tôi hiểu ra đó là về vấn đề mà tôi không kiểm soát được.
Mẹ nói với tôi: “Chị kia! Vứt ra khỏi đầu chị ngay! Chúa Giêsu mà lại tâm tình như thế với một kẻ bất toàn khốn nạn như chị đấy à! Chị hãy nhớ, chỉ có linh hồn thánh thiện mới được Chúa Giêsu kết thân như vậy mà thôi!”
Tôi công nhận Mẹ có lý, vì thực sự tôi chỉ là một kẻ hư đốn, nhưng tôi vẫn tín thác vào lượng từ bi của Chúa.
Khi gặp Chúa, tôi sấp mình và thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, hình như Chúa không kết giao thân mật với những phường xấu xa như con.”
Chúa đáp: “Hỡi ái nữ của Cha. Hãy an lòng! Chính qua sự khốn cùng như thế mà Cha muốn biểu hiện sức mạnh Lòng Thương Xót của Cha”.
Tôi hiểu ra vị bề trên này chỉ muốn huấn nhục cho tôi một trận nhớ đời mà thôi.
134- Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã thử thách con quá nhiều trong cuộc đời ngắn ngủi của con!
Con đã hiểu ra được nhiều, nhưng dù vậy, điều ấy vẫn làm cho con ngỡ ngàng.
Ôi, phó thác toàn thân cho Thiên Chúa, và để Người toàn quyền tự do hành động trong linh hồn ta thật là điều tốt lành biết bao!
135- Trong thời gian thử thách lần thứ ba, Chúa đã cho tôi hiểu rằng tôi nên hiến thân để Người có thể sử dụng tôi theo ý Người muốn.
Tôi sẽ đến trước thánh nhan như một của lễ hiến tế.
Lúc đầu, tôi hết sức kinh hoảng vì thấy mình quá khốn nạn và biết rõ trường hợp của mình.
Một lần nữa tôi lại thưa Chúa: “Con là chính sự khốn nạn làm sao có thể trở nên của lễ đền bồi cho người khác?”
Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Hôm nay, con không hiểu điều này. Ngày mai, trong giờ chầu của con, Cha sẽ cho con hiểu.”
Trái tim tôi run rẩy, linh hồn tôi cũng thế, vì những lời Chúa đi sâu vào hồn tôi. Lời của Thiên Chúa đang sống động.
Đến giờ đi chầu, trong lòng, tôi cảm thấy mình đã tiến vào thánh điện Thiên Chúa hằng sống, uy nghi Người cao cả vô biên. Chúa đã tỏ cho tôi biết ngay những bậc thần thánh trong sạch nhất cũng chẳng là gì trước thánh nhan Người.
Mặc dù tôi không thấy gì bên ngoài, nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm lấy tôi. Ngay lúc đó, trí năng tôi được soi sáng một cách lạ thường. Một thị kiến đi qua con mắt linh hồn tôi giống như thị kiến của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu.
Lúc đầu là các đau khổ thể lý và mọi hoàn cảnh chung quanh làm gia tăng thêm, rồi đến tất cả những đau khổ tinh thần, và những đau khổ không ai biết đến. Mọi sự đều hiện ra trong cuộc thị kiến: những nghi ngờ, hiểu lầm, mất thanh danh…
Ở đây, tôi chỉ tóm lược, nhưng lúc bấy giờ tôi được biết rõ ràng đến nỗi những gì tôi phải trải qua sau này đều không có gì khác biệt với những điều tôi được nhận thức lúc ấy. Tên tôi sẽ là: “hy sinh.”
Khi thị kiến chấm dứt, vầng trán của tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh. Chúa Giêsu cho biết rằng cho dù tôi không chấp nhận điều ấy, tôi vẫn được rỗi linh hồn. Chúa cũng không giảm bớt những ân sủng, và vẫn tiếp tục mối tương giao mật thiết với tôi như trước, để dù tôi không sẵn lòng thực hiện hy sinh này đi nữa thì lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng khong vì thế mà giảm bớt.
136- Và Chúa cho tôi biết rõ toàn bộ mầu nhiệm ấy tùy thuộc vào tôi, với các tài năng của tôi được sử dụng hoàn toàn trong sự tự do chấp nhận hy sinh. Toàn bộ sức mạnh và giá trị trước uy nhan Chúa đều hệ ở hành vi tự do và ý thức này.
Cho dù trong những điều tôi đã hiến thân chấp nhận, không một điều nào xảy ra đi nữa, thì trước mặt Chúa, tất cả đều giống như đã được hoàn tất rồi vậy.
Lúc đó, tôi nhận ra mình đang đi vào sự kết hiệp với Đấng Uy Quyền vô cùng. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đang chờ đợi lời đáp, chờ đợi sự đồng thuận của tôi.
Lúc đó, linh hồn tôi được chìm ngập trong Chúa và tôi thưa:
“Xin hãy dùng con như Chúa muốn. Con xin phó mình cho thánh ý Chúa. Vì từ hôm nay, thánh ý Chúa sẽ là lương thực cho con. Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ trung thành với những mệnh lệnh của Chúa. Xin Chúa hãy sử dụng con tùy ý Chúa. Ôi lạy Chúa, con nài xin Chúa hãy ở với con trong mọi giây phút cuộc đời.”
137- Sự hiện diện của Thiên Chúa bỗng thấu nhập tôi, sau khi tôi đã chấp nhận hy sinh với tất cả tâm hồn và ý chí. Linh hồn tôi được ngập lút trong Thiên Chúa và chan chứa hạnh phúc đến độ không thể nào viết ra được dù chỉ một phần nhỏ nhất.
Tôi cảm nhận sự Uy Nghi của Người đang bao phủ tôi. Tôi được tan chảy nên một với Thiên Chúa một cách ngoại thường. Tôi biết Thiên Chúa rất hài lòng với tôi, và ngược lại, linh hồn tôi cũng được đắm đuối trong Người.
Ý thức mình được hiệp nhất với Thiên Chúa, tôi cảm thấy được yêu thương đặc biệt, và đáp lại, tôi cũng yêu mến Người bằng tất cả linh hồn. Một mầu nhiệm lớn lao đã diễn ra trong giờ chầu ấy, một mầu nhiệm giữa Thiên Chúa và tôi. Tôi dường như được chết vì tình yêu khi bắt gặp trong ánh nhìn của Người.
Tôi hàn huyên rất nhiều với Chúa, tuy không thốt nên lời. Và Chúa phán với tôi:
“Con là niềm hoan lạc của Trái Tim Cha. Từ nay trở đi, mỗi hành vi của con, dù nhỏ bé nhất, cũng sẽ là một niềm hoan lạc cho mắt Cha, bất cứ con làm điều gì”.
Trong giây phút ấy, tôi cảm thấy được biến đổi hoàn toàn. Thân xác trần gian của tôi vẫn còn như cũ, nhưng linh hồn tôi đã ra khác; nơi đó, Thiên Chúa giờ đây đang sống với tất cả niềm hoan lạc của Người. Đây không phải là một cảm giác, nhưng là một thực tại có ý thức mà không gì có thể làm phôi pha đi được.
138- Một mầu nhiệm vĩ đại đã được thực hiện giữa Thiên Chúa và tôi. Ơn can đảm và sức mạnh vẫn lưu lại trong linh hồn tôi.
Khi giờ chầu kết thúc, tôi ra về và bình tĩnh đương đầu với tất cả những gì trước kia làm tôi sợ hãi.
Tôi vừa bước tới hành lang, một đau khổ sỉ nhục kinh khủng đã chờ ở đó. Tôi chấp nhận với lòng suy phục thánh ý cao cả, và yêu mến nép vào Trái Tim Chúa Giêsu để Người biết tôi đã sẵn sàng, và vì đó nên tôi đã hiến thân.
Đau khổ dường như từ lòng đất trồi lên. Đến Mẹ Margaret cũng ngạc nhiên. Đối với người khác, nhiều điều trôi qua êm đềm, vì quả thật chẳng có gì đáng lưu tâm. Nhưng trong trường hợp của tôi, không có gì trôi qua êm đềm; mỗi lời nói đều bị mổ xẻ, mỗi bước đi đều bị dòm ngó.
Một chị nói với tôi: “Này chị, chị hãy sẵn sàng để đón nhận một thánh giá nhỏ từ tay Mẹ Bề Trên. Em cảm thấy tội nghiệp cho chị.”
Nhưng đối với tôi, tận thậm tâm tôi vui mừng vì điều đó đã sẵn sàng từ lâu. Khi nhìn thấy lòng can đảm của tôi, chị ấy rất ngạc nhiên.
Giờ đây, tôi hiểu ra, một linh hồn tự sức mình chẳng thể làm được gì cả, nhưng với Chúa, nó có thể làm được mọi sự.
Hãy nhìn những gì ơn Chúa có thể thực hiện. Con số các linh hồn luôn luôn tỉnh thức với các ơn Chúa rất ít ỏi. Con số các linh hồn trung thành với các ơn soi động ấy lại còn ít ỏi hơn nữa.
139- Một linh hồn dù trung thành với Thiên Chúa cũng không thể xác minh được những soi động của mình; họ phải đặt chúng dưới sự kiểm soát của một linh mục khôn ngoan sáng suốt; và vẫn phải nghi ngờ cho đến khi nào hoàn toàn chắc chắn mới thôi.
Linh hồn không nên dựa vào tư kiến mà tin vào các soi động này và tất cả những ơn cao cả khác nữa, bởi vì như thế, họ có thể liều mình chịu nhiều tổn thiệt.
Mặc dù một linh hồn có thể phân biệt được tức khắc những soi động giả tạo với những soi động từ Thiên Chúa, tuy nhiên, họ vẫn phải cẩn trọng, vì có nhiều điểm thiếu chắc chắn.
Thiên Chúa thỏa lòng và vui mừng khi thấy một linh hồn chỉ vì Người mà cẩn trọng với chính Người. Vì linh hồn yêu mến Thiên Chúa, nên họ cần phải thận trọng, cân nhắc, và tìm sự trợ giúp để đảm bảo rằng chính Thiên Chúa là Đấng hành động trong họ.
Và một khi cha giải tội khôn ngoan đã xác định điều này, linh hồn sẽ được bình an và phó mình cho Chúa theo những đường lối của Người, tức là theo các chỉ dẫn của cha giải tội.
140- Tình yêu tinh ròng có khả năng làm được nhiều điều vĩ đại, và không bị quị ngã trước khó khăn hoặc chống đối.
Giữa những gian truân trắc trở, tình yêu mãnh liệt thế nào, thì trong đời sống nhọc nhằn và ảm đạm hằng ngày nó cũng kiên trung như thế.
Tình yêu biết chỉ có một điều cần thiết để làm thỏa lòng Thiên Chúa: đó là làm những việc nhỏ mọn nhất vì tình yêu – tình yêu, và luôn luôn là tình yêu.
Tình yêu tinh ròng không bao giờ sai lầm. Ánh sáng của nó phong phú lạ lùng. Tình yêu không làm điều gì để Thiên Chúa phiền lòng, rất khéo léo trong việc làm những điều vui lòng Thiên Chúa, và không ai bằng tình yêu ở điểm này.
Tình yêu vui sướng khi được hủy mình và cháy lên như một lễ vật tinh tuyền. Tình yêu càng hiến thân, càng hạnh phúc.
Hơn nữa, không ai có thể cảm nhận những nguy hiểm từ đằng xa cho bằng tình yêu; nó biết cách nhận diện và cũng biết cách đương đầu.
141- Các đau khổ của tôi sắp sửa chấm dứt.
Chúa ban cho tôi sự trợ giúp như Người đã hứa. Tôi có thể nhận ra điều này qua hai vị linh mục: đó là cha Andrasz và cha Sôpocko.
Trong tuần tĩnh tâm trước khi vĩnh thệ, lần đầu tiên tôi được hoàn toàn bình an nhờ cha Andrasz, và sau đó, tôi cũng được cha Sopocko hướng dẫn cùng một đường lối như vậy.
Thế là lời Chúa hứa đã được ứng nghiệm.
142- Khi bình an trở lại và được dạy cho biết đi theo những nẻo đường của Chúa, thần trí tôi đã vui mừng trong Chúa và dường như tôi đang chạy chứ không phải đi nữa.
Đôi cánh tôi giang rộng để bay, bay vút thẳng vào chính nguồn nóng mặt trời và không chịu đáp xuống cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa, và linh hồn tôi được mãi mãi mất hút trong Người. Tôi đã phó mình hoàn toàn cho hoạt động của ân sủng.
Thiên Chúa cúi sát xuống với linh hồn tôi. Tôi không thối lui cũng không chống cưỡng, nhưng mất hút trong Chúa là kho tàng duy nhất của tôi. Tôi được nên một với Người. Vực ngăn cách giữa chúng tôi, giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, dường như biến mất.
Trong suốt mấy ngày, linh hồn tôi ở trong tình trạng xuất thần liên lỉ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không rời tôi một phút giây.
Linh hồn tôi ở trong sự hợp nhất yêu đương liên lỉ với Chúa. Nhưng điều này không mảy may làm gián đoạn việc chu toàn các phận vụ của tôi.
Tôi cảm thấy được biến đổi trong tình yêu. Tôi bị bốc cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Tôi không ngừng mất hút trong Chúa. Chúa lôi kéo tôi đến với Người một cách mạnh mẽ và mãnh liệt đến độ nhiều khi tôi không ý thức mình còn trên trần gian.
Tôi đã cản trở và sợ hãi ơn thánh Chúa trong một thời gian dài, và giờ đây, chính Thiên Chúa, qua cha Andrasz, đã cất đi tất cả những khó khăn.
Linh hồn tôi đã được điều hướng về Mặt Trời và tươi nở dưới những tia sáng của một mình Người. Tôi không còn hiểu gì khác nữa… (câu văn bị cắt ngang ở đây, và khởi đầu một tư tưởng hoàn toàn mới ngay ở hàng kế tiếp).
143- Tôi đã phung phí rất nhiều ơn Chúa vì lúc nào cũng sợ bị ảo tưởng.
Thiên Chúa đã lôi cuốn tôi đến với Người mạnh mẽ, và tôi không có sức cưỡng lại trong những lúc bỗng nhiên được ngập lút trong Người.
Vào những lúc ấy, Chúa Giêsu đổ tràn cho tôi một niềm an bình lớn lao, đến độ về sau, dù cố gắng ưu tư tôi cũng không sao làm được.
Và lúc đó, tôi đã nghe những lời này trong tâm hồn:
“Để con được vững tâm rằng chính Cha là người yêu sách con tất cả những điều này, Cha sẽ cho con một niềm bình an sâu thẳm. Cho dù con muốn cảm nghiệm phiền não và sợ hãi, hôm nay con cũng không có sức mà làm như vậy, nhưng tình yêu sẽ ngập lút linh hồn con đến độ quên cả bản thân”.
145- Ôi, linh hồn tôi khốn nạn biết bao vì đã phí phạm quá nhiều ơn Chúa!
Tôi đã lạc xa Chúa, nhưng Người vẫn đeo bám tôi với nhiều ân sủng. Rất nhiều lần tôi đã cảm nghiệm được ơn Chúa giữa những lúc bất ngờ nhất.
Từ khi Chúa ban cho tôi một cha linh hướng, tôi đã trung thành với ơn thánh hơn. Nhờ cha linh hướng và sự lưu tâm của ngài dành cho linh hồn tôi, tôi đã biết được ý nghĩa của linh hướng và Chúa Giêsu quan tâm thế nào đến việc ấy.
Chúa trách tôi về các lỗi phạm rất nhỏ mọn, và nhấn mạnh rằng chính Người thẩm định vấn đề tôi phải trình bày với cha giải tội; và Người còn nói thêm rằng: “Bất kỳ sự đối nghịch nào với cha giải tội, cũng phạm đến chính Cha”.
Dưới sự hướng dẫn của ngài, linh hồn tôi bắt đầu nghiệm được sự trầm lặng và bình an sâu xa, tôi nhiều lần được nghe trong tâm hồn những lời này: “Con hãy tự củng cố để chiến đấu”.
+ Chúa Giêsu thường tỏ cho tôi biết những gì Người không ưa thích trong linh hồn tôi, và hơn một lần, Người đã quở trách về những điều xem ra có vẻ nhỏ mọn nhưng thực sự lại rất hệ trọng. Chúa đã cảnh cáo và thử thách tôi như một người thầy.
Suốt nhiều năm, Người đích thân giáo dục tôi cho đến khi ban cho tôi một vị linh hướng. Trước kia, chính Chúa giải thích cho tôi những điều tôi không hiểu, còn bây giờ, Người bảo tôi hãy hỏi cha giải tội về mọi sự.
Chúa thường phán: “Cha sẽ giải thích cho con qua miệng lưỡi ngài. Con hãy an tâm.”
Khi trình bày vấn đề với cha linh hướng, tôi chưa bao giờ nhận được một câu trả lời trái ngược với điều Chúa muốn về tôi. Chúa Giêsu có lúc cũng yêu cầu tôi một điều chưa ai từng biết, nhưng sau đó, khi tôi quì trong tòa cáo giải, cha giải tội cũng truyền cho tôi một điều giống hệt như thế, tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra hiếm họa mà thôi.
+ Khi một linh hồn nhận được nhiều ánh sáng và soi động trong một thời gian dài, và khi các cha giải tội đã xác định được nguồn gốc những soi động này và làm cho linh hồn vững tâm; nếu tình yêu của linh hồn mãnh liệt, Chúa Giêsu lúc này tỏ cho linh hồn biết đến giờ phải đem ra thực hiện những gì họ đã lãnh nhận.
Linh hồn nhận thấy Thiên Chúa đang tín nhiệm họ và điều này củng cố họ rất nhiều. Linh hồn biết rằng để trung thành, họ phải đương đầu với khó khăn tư bề, nhưng họ vẫn tin tưởng vào Chúa và nhờ niềm tin ấy mà đạt đến chỗ Thiên Chúa mời gọi.
Linh hồn nhận thấy Thiên Chúa đang tín nhiệm họ và điều này củng cố họ rất nhiều. Linh hồn biết rằng để trung thành, họ phải đương đầu với khó khăn tư bề, nhưng họ vẫn tin tưởng vào Chúa và nhờ niềm tin ấy mà đạt đến chỗ Thiên Chúa mời gọi.
Những khó khăn không làm linh hồn kinh hãi, nhưng có thể nói đó là lương thực hằng ngày của họ. Những đau khổ không làm linh hồn khiếp sợ hoặc hoảng hốt, vì một chiến binh thường xuyên xông pha trận tuyến không hề hoảng sợ trước tiếng gầm thét của đại bác. Không những không hoảng sợ, linh hồn còn lắng tai để xác định kẻ thù từ đâu xông đánh để tiêu diệt chúng.
Linh hồn không hành động mù quáng, nhưng xem xét và suy tính mọi sự kỹ lưỡng. Linh hồn không tự tín, nhưng cầu nguyện sốt sắng và tìm lời khuyên của những chiến binh kinh nghiệm và khôn ngoan hơn. Mỗi khi hành động như thế, linh hồn hầu như bao giờ cũng chiến thắng.
Có những cuộc tấn công mà linh hồn không có thời giờ suy nghĩ hoặc tìm hỏi ý kiến; khi ấy linh hồn phải xông vào cuộc chiến sống còn. Nhiều khi không cần đáp lại lời nào, linh hồn cứ việc chạy đến nương ẩn nơi thương tích Trái Tim Chúa Giêsu là ích lợi nhất. Do chính hành vi này của linh hồn mà quân thù bị đánh bại.
Trong thời gian bình an cũng như trong thời gian chiến đấu, linh hồn vẫn không ngừng cố gắng. Linh hồn phải nỗ lực và hết mình phấn đấu; nếu không sẽ không có cơ hội để chiến thắng.
Tôi coi thời gian bình an là thời gian để chuẩn bị cho chiến thắng. Linh hồn phải luôn tỉnh thức, tỉnh thức, tỉnh thức. Linh hồn suy nghĩ như thế sẽ nhận được nhiều ánh sáng. Một linh hồn vô ăn vô lo sẽ liều gặp nguy cơ thất bại và cũng đừng ngạc nhiên khi bị sa ngã.
Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng Hướng Dẫn của linh hồn, ai chịu để cho Chúa huấn luyện là người khôn ngoan biết bao! Nhưng để được Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động trong linh hồn, cần phải có sự bình an và tịnh tâm.
146- Nhờ các hình thức cầu nguyện, linh hồn tự vũ trang cho cuộc chiến.
Cho dù bất cứ tình trạng nào, linh hồn cũng phải cố gắng.
Một linh hồn trong sạch và xinh đẹp cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ đánh mất vẻ đẹp của mình.
Một linh hồn gắng đạt đến sự trong sạch cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ không bao giờ đạt được.
Một linh hồn mới hoán cải cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ sa ngã trở lại.
Một linh hồn đắm chìm trong tội lỗi cũng phải cầu nguyện để có sức chỗi dậy.
Linh hồn nào cũng buộc phải cầu nguyện, bởi vì mọi ân sủng đều đến với linh hồn qua cầu nguyện.
147- Tôi nhớ mình đã nhận được nhiều ánh sáng trong nửa giờ chầu sấp mình trước Thánh Thể mỗi ngày trong mùa Chay. Lúc đó, tôi biết mình và biết Chúa nhiều hơn.
Tuy được phép bề trên, nhưng tôi vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc cầu nguyện như thế.
Ước chi linh hồn hãy biết rằng để cầu nguyện và trung thành trong việc cầu nguyện, người ta phải vũ trang với lòng nhẫn nại và can trường để đương đầu với khó khăn trong ngoài.
Những khó khăn bên trong là sự chán nản, khô khan, nặng lòng nặng trí, và những cám dỗ. Những khó khăn bên ngoài là sự trọng kính của tha nhân và thời giờ. Chúng ta phải giữ thời giờ đã dành cho việc cầu nguyện.
Đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi: khi không cầu nguyện vào giờ dành riêng, nếu để về sau tôi sẽ không thể cầu nguyện vì phải chu toàn các việc bổn phận; hoặc giả như xoay xở được để cầu nguyện, thì tôi cũng làm hết sức khó khăn, bởi vì đầu óc cứ suy nghĩ đến việc bổn phận. Tôi cũng nghiệm thấy sự khó khăn này, đó là khi linh hồn đã cầu nguyện sốt sắng và kết thúc trong tình trạng trầm lặng sâu xa, nhiều người chống lại tình trạng trầm lặng ấy; vì thế, linh hồn phải nhẫn nại để trung thành với việc cầu nguyện.
Điều thường xảy ra với tôi là khi được đắm đuối trong Chúa, tôi đã gặt hái từ việc cầu nguyện được nhiều kết quả, và sự hiện diện của Thiên Chúa đồng hành với tôi suốt ngày. Và lúc làm việc sẽ có nhiều trầm lặng, nhiều chính xác và nỗ lực hơn trong phận sự, điều này xảy ra vào khi tôi chịu nhiều khiển trách nhất vì lơ đễnh trong phận sự và thờ ơ với mọi sự; bởi vì các linh hồn ít tịnh tâm cũng muốn người khác nên giống họ, và trở thành nguồn ân hận cho họ.
148- Một linh hồn cao thượng và tinh tế, dù giản dị nhất, nhưng vẫn là một linh hồn rất khôn ngoan tế nhị.
Họ nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự, tìm được Người ở mọi nơi, và biết cách tìm thấy Người ngay trong những điều kín nhiệm nhất.
Linh hồn thấy mọi sự đều quan trọng, quí trọng mọi sự, và tạ ơn Thiên Chúa trong mọi sự. Họ tìm được lợi ích cho linh hồn trong mọi sự, và dâng mọi vinh quang về Thiên Chúa.
Linh hồn đặt trót niềm tín thác vào Thiên Chúa và không xao xuyến khi đến thời gian thử thách. Linh hồn biết Thiên Chúa luôn luôn là một Hiền Phụ tốt lành, và họ coi thường ý kiến trần gian.
Linh hồn trung thành tuân theo ngay cả hơi thở khẽ nhất của Chúa Thánh Thần; vui mừng với Vị Khách Hiền Lương, và bám chặt lấy Người như một em bé với mẹ hiền. Nơi nào các linh hồn khác không còn lối đi và sợ hãi, thì linh hồn này vượt qua dễ dàng, không hề sợ hãi.
149- Khi muốn ở gần gũi và hướng dẫn một linh hồn, Chúa sẽ loại bỏ tất cả những gì bề ngoài.
Khi ngã bệnh được đưa đến phòng y tế, tôi thấy rất khó chịu. Chỉ có hai chị em chúng tôi ở đó. Các chị em trong dòng đến thăm chị N., trong khi chẳng ai đoái hoài tới tôi. Quả thật, chỉ có một phòng y tế, nhưng mỗi người lại có gian riêng của mình. Những đêm mùa đông thật đằng đẵng, chị N. có điện và ống nghe đài phát thanh, trong khi tôi không thể dọn bài nguyện ngắm vì thiếu điện.
Gần hai tuần lễ như thế trôi qua, một buổi tối kia, tôi thở than với Chúa vì quá đau khổ và không thể dọn bài nguyện ngắm vì thiếu điện. Chúa nói rằng người sẽ đến vào buổi tối và dạy tôi những chủ điểm cho bài nguyện ngắm hôm sau.
Những chủ điểm này xoay quanh việc Thương Khó của Người. chúa phán với tôi: “Con hãy suy về những đau khổ của Cha trước tòa Philatô”.
Và như thế, từng chủ điểm một, tôi suy ngắm về cuộc Thương Khó của Chúa suốt một tuần lễ.
Từ lúc đó, một niềm vui lớn lao đến với linh hồn tôi, và tôi không còn mong đợi ai đến thăm hoặc chờ ánh điện nữa. Chúa Giêsu đã quá đủ cho tôi trong mọi sự.
Các bề trên thực sự rất quan tâm đến bệnh nhân, nhưng Chúa lại muốn tôi cảm thấy bị bỏ rơi. Vị tôn sư tuyệt vời này đã loại bỏ mọi thụ tạo để mình người có thể hoạt động.
Không ít lần tôi đã trải qua những đau khổ và cay cực như thế, đến nỗi Mẹ M. (có lẽ mẹ Margaret) đã nói với tôi:
“Này chị, trên đường đi của chị, những đau khổ trồi lên từ lòng đất. Tôi nhìn chị như một người bị đóng đinh. Nhưng tôi thấy Chúa Giêsu có nhúng tay trong vụ này. Chị hãy trung thành với Người.”
150- Tôi muốn ghi lại một giấc mơ của tôi về thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Khi còn trong thời gian nhà tập, tôi gặp phải một số khó khăn mà tôi không biết làm cách nào để vượt qua. Đó là những khó khăn nội tâm nhưng lại liên quan đến các gian nan bên ngoài.
Tôi làm các tuần cửu nhật kính các vị thánh, nhưng tình hình càng lúc càng khó khăn hơn.
Những đau khổ làm tôi tan nát đến độ không biết làm thế nào để sống còn, nhưng bỗng nhiên tôi lóe lên một tư tưởng là cầu nguyện với Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Tôi bắt đầu tuần cửu nhật với Thánh Nữ, bởi vì trước khi vào dòng, tôi đã có lòng sùng kính ngài đặc biệt. Sau đó, tôi có phần thờ ơ với lòng sùng kính này, nhưng vì có nhu cầu, tôi lại bắt đầu cầu nguyện với ngài một cách sốt sắng. Đến ngày thứ năm trong tuần cửu nhật, tôi chiêm bao gặp được thánh nữ Têrêsa như thể ngài còn sống trên trần gian.
Chị thánh giấu không cho tôi biết ngài là một vị thánh và lên tiếng an ủi, bảo tôi đừng lo âu về vấn đề này, nhưng hãy tín thác hơn vào Thiên Chúa . Thánh Nữ nói: “Chị cũng đã chịu đau khổ nhiều.”
Nhưng tôi hết lòng tin tưởng vào thánh nữ và đáp lại: “Hình như em thấy chị có đau khổ gì đâu.”
Nhưng thánh nữ Têrêsa xác quyết chắc rằng chị thánh đã trải qua rất nhiều đau khổ: “Này em, em hãy biết rằng ba ngày nữa, sự khó sẽ đến hồi kết cuộc hạnh phúc”
Vì tôi chưa sẵn lòng tin tưởng, thánh nữ mới tỏ cho tôi biết ngài là một vị thánh. Lúc ấy, niềm vui lớn lao tràn ngập linh hồn tôi, và tôi nói với chị thánh: “Chị là một vị thánh à?”
Thánh nữ đáp: “Đúng vậy, chị là một vị thánh. Em hãy tin rằng vấn đề này rồi sẽ được giải quyết trong ba ngày nữa”
Và tôi nói: “Chị Têrêsa đáng yêu ơi, chị hãy cho em biết em có được lên thiên đàng không?”
Thánh nữ đáp: “Có! Em sẽ được lên thiên đàng”
“Em có trở thành một vị thánh không?”
Thánh nữ lại đáp: “Có! Em sẽ trở thành một vị thánh.”
“Nhưng này chị Têrêsa nhỏ ơi, em có sẽ trở thành một vị thánh được nâng lên bàn thờ như chị không?”
Chị thánh trả lời: “Có, em cũng sẽ thành một vị thánh giống như chị nhưng phải tín thác vào Chúa Giêsu.”
Khi đó tôi mới hỏi ba mẹ tôi có được lên thiên đàng không, sẽ [câu này bỏ dở] và chị thánh đáp là có.
Tôi còn hỏi thêm: “Các anh chị em của em có được lên thiên đàng không?”
Thánh nữ trả lời không dứt khoát, nhưng bảo tôi cầu nguyện nhiều cho họ. Tôi đã hiểu ra họ cần nhiều lời cầu nguyện.
Đây là một giấc mơ. Và như châm ngôn nói, những giấc mơ là những ảo ảnh. Thiên Chúa là đức tin. Tuy nhiên, ba ngày sau, sự khó đã được giải quyết xuôi xắn như thánh nữ đã tiên báo. Và mọi việc xảy ra đúng như những gì thánh nữ đã nói trước.
Tuy là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ ý nghĩa.
151- Một lần kia, lúc tôi ở trong nhà bếp với chị N., chị có phần khó chịu với tôi, và như một hình phạt, chị ra lệnh cho tôi phải ngồi trên bàn trong lúc chị vất vả làm việc lau chùi, rủa ráy. Đang khi ngồi như vậy, các chị khác đi qua và rất ngạc nhiên khi thấy tôi ngồi trên bàn và mỗi người bình luận một câu. Chị này bảo rằng tôi là đồ lười, chị khác thì nói: “Thứ kỳ cục!”
Lúc đó, tôi mới là một thỉnh sinh. Các chị khác lại nói, “Chị ta rồi sẽ ra thứ nữ tu gì đây?” Tuy nhiên tôi vẫn không xuống khỏi bàn vì chị N. nhân danh đức vâng lời ra lệnh cho tôi ngồi như thế đến khi nào chị cho xuống mới thôi. Thực vậy, chỉ mình Chúa biết việc ấy đòi phải có bao nhiêu hành vi bỏ mình. Tôi cảm thấy xấu hổ chết đi được.
Lúc đó, tôi mới là một thỉnh sinh. Các chị khác lại nói, “Chị ta rồi sẽ ra thứ nữ tu gì đây?” Tuy nhiên tôi vẫn không xuống khỏi bàn vì chị N. nhân danh đức vâng lời ra lệnh cho tôi ngồi như thế đến khi nào chị cho xuống mới thôi. Thực vậy, chỉ mình Chúa biết việc ấy đòi phải có bao nhiêu hành vi bỏ mình. Tôi cảm thấy xấu hổ chết đi được.
Thiên Chúa vẫn thường để những điều như thế xẩy ra để huấn luyện con người nội tâm của tôi, nhưng Người cũng bù đắp nỗi nhục nhã ấy bằng một an ủi lớn lao. Trong giờ chầu phép lành hôm ấy, tôi được nhìn thấy Chúa trong vẻ đẹp vô cùng.
Chúa Giêsu nhìn tôi một cách từ ái và phán: “Ái nữ của Cha, con đừng sợ đau khổ. Cha ở với con.”
152- Một lần kia, tôi phải trực đêm.
Tâm trí hết sức ưu tư về việc vẽ bức hình, tôi không biết phải theo đường nào, vì lúc nào người ta cũng ra sức thuyết phục tôi rằng tất cả những điều ấy chỉ là ảo tưởng.
Đàng khác, một vị linh mục lại nói có lẽ Thiên Chúa muốn được thờ phượng qua bức hình này, và do đó, tôi phải gắng liệu mà nhờ vẽ.
Trong lúc đó, linh hồn tôi cực kỳ uể oải.
Khi vào nhà nguyện nhỏ, tôi gục đầu sát vào nhà tạm, gõ cửa và thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhìn đến những khó khăn kinh khủng về việc vẽ bức hình mà con đang phải gánh chịu.”
Và tôi nghe một tiếng nói từ nhà tạm: “Ái nữ của Cha, những đau khổ của con sẽ không còn lâu nữa đâu”.
153- Một ngày kia, tôi nhìn thấy hai con đường.
Một con đường thênh thang, đầy cát mịn và hoa lá, tràn đầy lạc thú, tiếng nhạc, và mọi trò tiêu khiển. Người ta đi lại trên con đường ấy, múa hát và vui vẻ. Họ đã đi đến cùng đường mà không biết. Và ở cuối đường này là một vực thẳm kinh khủng; tức là hỏa ngục. Các linh hồn sa xuống đó một cách mù quáng. Họ đi thế nào thì sa xuống đó như vậy. Và con số ấy rất đông, không thể đếm xuể.
Tôi còn nhìn thấy một con đường nữa, đúng ra là một nẻo hẹp, rải rác đầy gai góc và đá sỏi. Những người đi trên con đường này khóc lóc vì đủ loại đau thương ập xuống trên họ. Một số người ngã xuống trên đá sỏi, nhưng lập tức đứng dậy và tiếp tục đi. Ở cuối con đường này là một khu vườn lộng lẫy chan chứa mọi hạnh phúc, và các linh hồn này đều được vào nơi ấy. Ngay lúc đó họ quên hết những đau thương của mình.
154- Một lần kia, khi có một giờ chầu tại tu viện các nữ tu dòng Thánh Gia, chiều tối, tôi cùng một chị khác đi sang đó.
Ngay khi vừa vào nhà nguyện, sự hiện diện của Chúa ngập tràn linh hồn tôi. Tôi thầm thĩ nguyện xin như thường lệ.
Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa, và Người phán với tôi:
“Con hãy biết nếu con thờ ơ với việc vẽ bức tranh và toàn bộ công cuộc của Lòng Thương Xót Chúa, con sẽ phải trả lẽ vì rất đông các linh hồn trong ngày phán xét.”
Sau những lời của Chúa, một nỗi sợ hãi tràn ngập linh hồn tôi, và sự kinh hoàng chộp bắt tôi. Tôi cố gắng hết sức nhưng không sao trấn tĩnh được. Những lời này vang vọng bên tai tôi. Như vậy, trong ngày phán xét, không những tôi phải trả lẽ về bản thân, mà còn về các linh hồn khác nữa. Những lời này xé nát tâm hồn tôi.
Khi về đến nhà, tôi đến với Chúa Giêsu Nhỏ, sấp mình trước Thánh Thể và thân thưa với Chúa:
“Con sẽ làm hết sức mình, nhưng nài xin Chúa luôn luôn ở với con và ban sức mạnh cho con thực thi thánh ý Chúa; vì Chúa có thể làm mọi sự, trong khi tự sức mình, con không làm gì được”.
155- Điều xảy ra là ít lâu nay, nhiều lúc trong linh hồn tôi cảm nghiệm có một linh hồn nào đó đang cầu nguyện cho tôi; và tương tự, tôi cũng cảm thấy trong linh hồn tôi có một linh hồn nào đó cần tôi cầu nguyện, mặc dù họ không ngỏ lời với tôi về điều ấy.
Đó là một cảm giác bồn chồn, như thể có ai đó đang gọi tôi; và khi cầu nguyện tôi được bằng an trở lại.
=============
156~180
156- Một lần kia, tôi khao khát được rước Chúa, nhưng vì một nghi nan, nên tôi không hiệp lễ. Tôi rất khổ não vì điều này. Dường như tâm hồn tôi vỡ ra vì nỗi đau đớn.
Khi tôi bắt đầu làm việc, tâm hồn tôi tràn ngập nỗi cay đắng. Chúa Giêsu thình lình đứng bên cạnh tôi và phán:
“Ái nữ của Cha, con đừng bỏ hiệp lễ, trừ khi biết rõ sự sa ngã của con thật nghiêm trọng; ngoài ra, đừng để nỗi nghi nan nào ngăn cản con hiệp nhất với Cha trong mầu nhiệm tình yêu của Cha. Những lỗi nhỏ mọn của con sẽ biến mất trong tình yêu Cha như một mẩu rơm được ném giữa hỏa lò khổng lồ. Con hãy biết rằng con làm cho Cha đau khổ rất nhiều khi không tiếp nhận Cha trong giờ hiệp lễ”.
157- Vào buổi tối, khi vào nhà nguyện nhỏ, tôi nghe những lời này trong linh hồn:
“Ái nữ của Cha ơi, con hãy suy nghĩ về những lời này: ‘Trong cơn xao xuyến bồi hồi, Người cầu nguyện càng khẩn thiết hơn’ (Lc 22:44).
Khi bắt đầu suy kỹ hơn về những lời này, rất nhiều ánh sáng đã tràn vào linh hồn tôi.
Tôi biết chúng ta cần phải kiên bền trong cầu nguyện, và thường thì phần rỗi chúng ta tùy thuộc vào lời cầu nguyện khó khăn ấy.
158- Khi tôi ở Kiekrz (1930) để thay cho một chị tại đó trong một thời gian ngắn, vào buổi chiều, tôi đi dạo trong vườn và dừng lại bên bờ hồ; tôi đứng đó một hồi lâu nhìn ngắm cảnh vật chung quanh. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa Giesu bên cạnh, và Người âu yếm nói với tôi:
“Tất cả đây Cha đã tạo dựng cho con, hỡi Bạn Tình của Cha; con hãy biết rằng mọi vẻ đẹp này chẳng là gì nếu sánh với những gì Cha đã chuẩn bị cho con trong cõi đời đời”.
Linh hồn tôi tràn ngập an ủi đến nỗi tôi lưu lại đó cho đến tận chiều tối, nhưng với tôi dường như chỉ là một thoáng giây phút ngắn ngủi. Hôm ấy là ngày rãnh rỗi tôi được dành làm ngày tĩnh tâm, thành ra tôi được tự do cầu nguyện.
Ôi, Thiên Chúa nhân lành vô cùng đeo đuổi chúng ta một cách từ ái biết bao!
Điều thường xảy ra là Thiên Chúa đã ban cho tôi những hồng ân lớn lao nhất, vào những lúc bất ngờ nhất.
159- Ôi Bánh Thánh vì con chịu giam hãm trong chén vàng,
Ước chi băng qua hoang mạc lưu đầy lớn rộng này
Mà con vẫn trong sạch, nguyên tuyền và vô tì vết;
Ôi, xin ban cho con ơn ấy nhờ quyền năng tình yêu Chúa
Để điều này trở thành sự thật.
Ôi Bánh Thánh, xin nhận lấy linh hồn con làm nơi cư ngụ,
Ôi tình yêu thương tinh ròng nhất của Trái Tim Chúa!
Xin đẩy lùi bóng tối bằng sự rạng ngời của Chúa.
Xin đừng từ chối ơn Thánh Chúa cho một linh hồn khiêm nhượng.
Ôi Bánh Thánh, niềm hoan lạc của cả thiên đàng,
Mặc dù vẻ đẹp của Chúa bị che khuất
Và được gói gọn trong một miếng bánh nhỏ,
Nhưng đức tin mãnh liệt vẫn xé được bức màn.
160- Ngày thập tự chinh, ngày mồng 5 trong tháng, tình cờ trùng vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đây là ngày tôi được chầu Chúa Giêsu.
Bổn phận của tôi là đền tạ mọi xúc phạm và các hành vi bất kính với Chúa, hôm nay cũng phải cầu nguyện để đừng xảy ra một tội phạm thánh nào.
Hôm nay, linh hồn tôi bừng cháy một tình yêu đặc biệt đối với Thánh Thể. Dường như tôi đã biến thành một ngọn lửa cháy phừng.
Lúc tôi sắp rước lễ, một Bánh Thánh thứ hai sà xuống tay áo vị linh mục khiến tôi không biết phải rước Bánh Thánh nào. Tôi ngần ngừ một lúc, linh mục khó chịu dùng tay ra dấu bảo tôi rước lễ. Khi tôi rước Bánh Thánh linh mục trao cho, Bánh Thánh kia lại sà vào tay tôi. Vị linh mục đi theo rào quanh bàn thờ tiếp tục cho hiệp lễ, đang lúc đó, tôi giữ Chúa Giêsu trong bàn tay. Khi linh mục trở lại gần đến, tôi nâng Bánh Thánh lên để ngài đặt vào chén thánh, bởi vì tôi đã rước Bánh Thánh thứ nhất và chưa nuốt xong nên không sao nói cho ngài biết Bánh Thánh kia đã sà xuống trước.
Đang lúc cầm Bánh Thánh trong tay, tôi cảm nghiệm một tình yêu mãnh liệt đến nỗi suốt ngày hôm ấy không thể ăn uống được, và các giác quan vẫn chưa trở lại bình thường.
Tôi được nghe những lời này từ Bánh Thánh: “Cha ước ao được ngự nơi bàn tay, chứ không phải chỉ trong tâm hồn con mà thôi”.
Lúc đó, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Nhưng vị linh mục đến gần lần kế tiếp, tôi chỉ còn nhìn thấy Bánh Thánh mà thôi.
161- Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Vô Nhiễm,
Trái Tim Mẹ như pha lê tinh tuyền,
Mẹ là sức mạnh của con, ôi mũi neo kiên vững!
Mẹ là khiên thuẫn, bảo vệ cho con tim yếu đuối này.
Lạy Mẹ Maria, mẹ tinh tuyền, tinh tuyền khôn sánh;
Vừa là Trinh Nữ, vừa là Hiền Mẫu,
Mẹ xinh đẹp như vầng dương, không chút bợn nhơ,
Và linh hồn Mẹ thật không gì sánh được.
Vẻ đẹp của Mẹ làm ngây ngất ánh mắt Đấng Ba Lần Thánh.
Người đã xuống thế, lìa bỏ ngai cửu trùng vĩnh cửu,
Và mặc lấy Thịt Máu của Trái Tim Mẹ
Nằm gọn trong Lòng Đồng Trinh của Mẹ suốt chín tháng trời.
Lạy Mẹ Đồng Trinh, tinh tuyền hơn mọi bông huệ,
Trái tim Mẹ là nhà tạm đầu tiên nơi trần thế cho Chúa Giêsu.
Chỉ vì không đâu sâu thẳm hơn lòng khiêm nhượng của Mẹ
Mẹ được nâng cao trên mọi ca đoàn thiên thần và toàn thể các thánh.
Lạy Mẹ Maria, Từ Mẫu ngọt ngào của con,
on dâng lên Mẹ hồn xác, và trái tim nghèo khó của con.
Mẹ hãy là người bảo vệ cho cuộc đời con,
Nhất là trong giờ lâm tử, trong cuộc chiến cuối cùng của con.
163- Năm 1937
+ Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa.
+ Lạy Chúa, con muốn hoàn toàn được biến đổi trong Lòng Thương Xót của Chúa và trở nên hình ảnh sống động của Chúa! Ước gì tình thương khôn dò, ưu phẩm vĩ đại nhất trong các ưu phẩm của Chúa, trào thông qua trái tim và linh hồn con mà đến với người lân cận của con.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho mắt con biết xót thương để con không bao giờ nghi ngờ hay xét đoán theo bề ngoài, nhưng chỉ tìm kiếm những vẻ đẹp nơi linh hồn những người chung quanh, và đến để trợ giúp họ.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho tai con biết xót thương để con biết lắng nghe những nhu cầu của người lân cận và đừng lãnh đạm trước những đau đớn và than van của họ.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho lưỡi con biết xót thương để con không bao giờ nói lời tiêu cực về người lân cận, nhưng biết ủi an và tha thứ cho mọi người.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho tay con biết xót thương và tràn đầy những việc tốt lành để con chỉ biết mưu ích cho người lân cận, và gánh vác những việc khó khăn nhọc nhằn hơn.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho chân con biết xót thương để con biết thắng vượt nỗi mệt nhọc và chán nản của bản thân, mà mau mắn giúp đỡ người lân cận. Nghỉ ngơi thực sự của con là phục vụ người khác.
Xin giúp con, lạy Chúa, cho tim con biết xót thương để con biết cảm nghiệm nỗi tân toan của người lân cận. Con sẽ không khước từ trái tim trước bất cứ ai. Con sẽ thành tâm với cả những người mà con biết sẽ phụ lòng thành của con. Con sẽ tự khóa mình trong Trái Tim hay thương của Chúa. Con sẽ gánh chịu khốn khó của mình trong im lặng. Lạy Chúa, chớ gì Lòng Thương Xót Chúa hãy ngự trị nơi con.
+ Chính Chúa truyền cho con phải thực hành ba cấp độ xót thương.
Thứ nhất: hành vi xót thương, thuộc bất cứ hình thức nào.
Thứ hai: ngôn từ xót thương – nếu không thể thực hiện hành vi xót thương, con sẽ giúp đỡ bằng lời nói.
Thứ ba: cầu nguyện – nếu không thể tỏ lòng xót thương bằng việc làm hay lời nói, con vẫn luôn có thể thực hiện được bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện của con sẽ đến đươc cả những nơi con không sao đến được bằng thân xác.
Ôi! Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con trong Chúa vì Chúa có thể làm được mọi sự.
164- Warsaw, 1933
Kỳ Thử trước Vĩnh Thệ.
Khi biết sắp sửa được vào kỳ thử, tim tôi rộn ràng niềm vui vì nghĩ đến hồng ân bao la, tức là được vĩnh thệ.
Tôi đến trước Thánh Thể, và khi đắm mình trong lời kinh tạ ơn, tôi đã được nghe những lời sau đây trong tâm hồn:
“Con nhỏ của Cha ơi! Con là niềm vui của Cha, là niềm an ủi của Trái Tim Cha. Cha ban cho con những hồng ân nhiều tùy sức con có thể lãnh nhận. Mỗi khi muốn Cha được hạnh phúc, con hãy nói cho thế giới biết về Lòng Thương Xót bao la khôn dò của Cha”.
165- Một vài tuần lễ trước, được nghe biết về kỳ thử, tôi ghé vào nhà nguyện một lúc, và Chúa Giêsu phán bảo tôi:
“Lúc này các bề trên đang quyết định cho nữ tu nào sẽ được tuyên khấn trọn đời. Không phải mọi nữ tu đều được lãnh nhận hồng ân này, nhưng đó là vì lỗi của họ. Ai không lợi dụng những ơn nhỏ sẽ không được lãnh nhận những ơn lớn. Còn với con, hỡi con nhỏ của Cha, hồng ân này sẽ được ban cho con”.
166- Trong cầu nguyện, tôi luôn tìm được ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí, mặc dù có những giờ phút thật rầy rà và đau đớn, đôi khi khó mà tưởng tượng được những điều này lại có thể xảy ra trong một tu viện.
Thật kỳ lạ, Thiên Chúa nhiều khi lại tha phép cho xảy ra, nhưng luôn luôn để làm sáng tỏ hoặc vun trồng nhân đức nơi một linh hồn.
Đó là nguyên nhân của những cuộc thử thách.
167- Hôm nay (tháng 11 năm 1932), tôi đã đến Warsaw để dự kỳ thử thứ ba.
Sau khi gặp gỡ thân mật các bề trên yêu quí, tôi ghé vào nhà nguyện nhỏ một lúc. Bỗng nhiên, sự hiện diện của Chúa chiếm đoạt linh hồn tôi, và tôi được nghe những lời này:
“Ái nữ của Cha ơi! Cha ước mong trái tim con sẽ được đào luyện theo gương Trái Tim từ ái của Cha. Con phải được thấm nhuần Lòng Thương Xót của Cha”.
Mẹ Giám Tập (Margaret) yêu quí liền hỏi tôi đã tham dự tuần tĩnh tâm năm nay chưa, và tôi thưa lại – chưa. “Thế thì chị phải tĩnh tâm ít là ba ngày.”
Xin cảm tạ Chúa, tại Walendo đang tổ chức tuần tĩnh tâm tám ngày và tôi có thể tham dự. Nhưng những khó khăn lại nổi lên về việc tôi tham dự cuộc tĩnh tâm ấy.
Một chị kia ra sức chống đối việc tôi tham dự và dường như tôi không đi được nữa.
Sau bữa tối, tôi lên nhà nguyện để chầu năm phút. Thình lình tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu, Người phán với tôi:
“Ái nữ của Cha ơi! Cha đang chuẩn bị nhiều ơn thánh cho con lãnh nhận trong tuần tĩnh tâm sẽ bắt đầu vào ngày mai”.
Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, cuộc tĩnh tâm đã khai mạc rồi nhưng con không được đi.”
Chúa phán với tôi: “Con hãy sẵn sàng, bởi vì ngày mai con sẽ bắt đầu tĩnh tâm. Về việc đi của con, Cha sẽ sắp đặt với các bề trên”.
Và ngay lúc ấy, Chúa Giêsu liền biến đi. Tôi tự hỏi không biết việc ấy sẽ xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó một lúc, tôi vứt bỏ những tư tưởng ấy và chuyên chú cầu nguyện, nài xin Chúa Thánh Thần ban ánh sáng để thấy được tất cả nỗi đớn hèn của mình.
Một lúc sau, tôi rời nhà nguyện nhỏ để đi lo các việc phận sự. Ngay lúc ấy, Mẹ Tổng Quyền (Michael) gọi tôi lại và nói:
“Này chị, hôm nay chị sẽ đi Walendow với Mẹ Valeria để ngày mai có thể bắt đầu tĩnh tâm ngay. May là Mẹ Valeria tình cờ ở đây, và chị em có thể đi với nhau được rồi.”
Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, tôi đã có mặt ở Walendow. Trong lòng tôi hồi tưởng, và nhận ra chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể an bài các việc như vậy mà thôi.
168- Khi người chị em đã mạnh mẽ chống đối việc tôi tham dự tĩnh tâm nhìn thấy tôi, chị tỏ vẻ ngạc nhiên và bất mãn. Không để ý đến điều ấy, tôi chào chị một cách thân ái, rồi đi viếng Chúa để tìm biết phải sống tuần tĩnh tâm này thế nào.
169- Cuộc chuyện vãn giữa Chúa và tôi trước cuộc tĩnh tâm.
Chúa Giêsu cho tôi biết cuộc tĩnh tâm này hơi khác với những lần tĩnh tâm khác:
“Con hãy cố gắng duy trì sự bình an sâu xa về những cuộc tiếp xúc giữa con với Cha. Cha sẽ cất hết mọi nghi nan trong vấn đề này. Cha biết con an tâm khi Cha đang nói với con, nhưng ngay khi Cha ngưng nói, con lại bắt đầu moi tìm những hoài nghi. Nhưng Cha muốn con biết rằng Cha sẽ củng cố linh hồn con đến độ dù con muốn ưu tư đi nữa, điều đó cũng không tùy sức ở con.
Như một bằng chứng cho thấy chính Cha đang nói với con đây, vào ngày thứ hai trong tuần tĩnh tâm, con hãy đến xưng tội với vị linh mục giảng phòng. Con hãy đến gặp ngài ngay sau giờ giảng và trình bày cho ngài mọi nghi nan của con về Cha. Cha sẽ trả lời cho con qua môi miệng của ngài, và sau đó những nỗi sợ hãi của con sẽ tan biến.
Trong tuần tĩnh tâm này, con hãy giữ thinh lặng thật kỹ lưỡng như thể không có sự gì chung quanh. Con hãy nói với Cha và với cha giải tội của con, và chỉ xin các bề trên của con các việc hãm mình mà thôi”.
Tôi cảm nhận được một niềm vui mênh mang, vì Chúa đã tỏ lòng nhân ái với tôi và đã hạ xuống vì tôi.
170- Ngày thứ nhất trong tuần tĩnh tâm.
Tôi cố gắng vào nhà nguyện trước tiên vào buổi sáng hôm ấy. Trước giờ nguyện ngắm, tôi dùng ít phút để cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ.
Tôi tha thiết nài nỉ Mẹ Thiên Chúa xin cho tôi ơn trung thành với những soi động nội tâm và trung thành thực thi thánh ý Chúa, cho dù thế nào đi nữa.
Tôi bắt đầu tuần tĩnh tâm bằng một lòng can đảm rất đặc biệt.
171- Chiến đấu để giữ thinh lặng.
Như thường lệ, chị em từ những tu viện các nơi kéo về dự tĩnh tâm.
Một chị đã lâu không gặp, đến phòng và bảo có ít điều muốn nói với tôi. Tôi không đáp lại. Và khi thấy tôi không muốn phá thinh lặng, chị liền nói: “Tôi không ngờ chị lại kì cục đến thế đấy, chị ạ.”
Rồi chị ấy bỏ đi thẳng. Tôi quá hiểu chị ấy chẳng có chuyện gì ngoài việc muốn thỏa tính tự ái tò mò mà thôi.
Lạy Chúa, xin giữ gìn con trong sự trung thành.
172- Cha giảng phòng từ Mỹ đến. Ngài mới đến Ba Lan một thời gian ngắn, và tình cờ ngài giảng tĩnh tâm cho chúng tôi lần này.
Từ con người của ngài toát ra một sức sống nội tâm sâu xa. Dáng vẻ của ngài minh chứng cho sự vĩ đại tinh thần ấy. Nét khổ chế và trầm lặng nổi bật nơi vị linh mục này.
Nhưng dù vậy, tôi vẫn cảm thấy khó khăn để trình bày với ngài về tâm hồn và những hồng ân tôi đã lãnh nhận. Bao giờ tôi cũng dễ xưng thú tội lỗi, nhưng về các hồng ân, thực sự tôi phải cố gắng hết mình, và rốt cuộc tôi cũng chẳng nói gì được cả.
173- Những cám dỗ của Satan trong tuần tĩnh tâm.
Tôi cảm thấy một nỗi sợ hãi kỳ lạ vì lo lắng vị linh mục sẽ không hiểu, hoặc không có thời giờ để nghe tất cả những điều tôi trình bày.
Tôi phải nói tất cả điều này cho ngài cách nào đây?
Nếu là cha Bukowski, tôi có thể trình bày dễ dàng hơn, còn cha Dòng Tên này, tôi mới gặp lần đầu...
Lúc ấy, tôi nhớ lại lời cha Bukowski đã khuyên dạy, ít ra tôi cũng phải ghi lại ít điều vắn tắt về những ơn soi sáng Chúa ban trong tuần tĩnh tâm, và trình bày ngắn gọn cho ngài về những ơn soi sáng ấy.
Lạy Chúa tôi, một ngày rưỡi đã trôi qua êm đềm, và giờ đây, cuộc chiến sống còn đang khởi đầu. Nửa tiếng nữa giờ giảng phòng sẽ bắt đầu, và sau đó tôi sẽ đi xưng tội.
Satan ra sức thuyết phục tôi tin rằng nếu các bề trên đã bảo đời sống nội tâm của tôi chỉ là một ảo tưởng, vậy cớ gì tôi lại phải bàn hỏi và làm phiền đến cha giải tội? Mẹ X. (có lẽ Mẹ Jane) đã chẳng bảo rằng Chúa Giêsu không hề kết thân với những linh hồn khốn nạn như ngươi hay sao? Cha giải tội cũng sẽ nói với ngươi giống hệt như thế thôi. Tại sao lại phải kể lể hết cho ngài? Những điều này đâu phải là tội, mà Mẹ X. cũng đã cho ngươi biết tất cả cuộc kết thân với Chúa Giêsu chỉ là mơ màng và thuần túy cuồng loạn mà thôi. Vậy tại sao phải kể cho cha giải tội làm gì? Tốt hơn, ngươi hãy vứt quách cái điều như những ảo tưởng này đi là xong. Hãy xem, vì chúng mà ngươi đã chịu biết bao xỉ nhục, và còn bao nhiêu nữa đang chờ đợi. Tất cả chị em đều biết ngươi là đứa cuồng loạn.
Với tất cả sức mạnh của linh hồn, tôi đã kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu! ”
174- Vào lúc ấy, vị linh mục đi vào và bắt đầu giảng. Ngài giảng rất ngắn gọn như đang có gì vội vã.
Sau bài giảng, ngài đi thẳng vào tòa giải tội. Nhìn thấy không có ai vào xưng tội, tôi bật dậy khỏi bàn quì và loáng một cái đã ở trong tòa cáo giải. Không còn thời giờ để cân nhắc gì nữa.
Thay vì kể với cha giải tội những hoài nghi đã gieo rắc trong tôi về các lần tiếp xúc vói Chúa Giêsu, tôi lại bắt đầu trình bày vói ngài những cám dỗ tôi vừa mới nói đến ở trên.
Cha giải tội hiểu ra ngay tình trạng của tôi và nói:
“Này chị! Chị nghi ngờ Chúa Giêsu chỉ vì Người đối xử với chị quá nhân lành. Được, này chị, chị hãy hoàn toàn an tâm. Chúa Giêsu là Thầy của chị, việc giao tiếp giữa chị với Người không phải là mơ màng, cuồng loạn, hoặc ảo tưởng đâu. Chị hãy biết chị đang đi đúng đường. Hãy cố gắng trung thành với những ân sủng này. Chị không được tự tiện trốn tránh đâu.
Này chị! Chị không cần phải nói cho các bề trên của chị về những ân sủng nội tâm này, trừ khi chính Chúa Giêsu truyền rõ ràng phải làm như vậy, và ngay cả khi ấy, chị cũng nên bàn hỏi với cha giải tội trước đã. Nhưng nếu Chúa Giêsu đòi hỏi điều gì bên ngoài, trong trường hợp này, sau khi bàn hỏi với cha giải tội, chị hãy thực hiện điều Chúa truyền, cho dù điều ấy đòi chị phải trả giá đắt đi nữa.
Đàng khác, chị cũng phải trình bày cho cha giải tội tất cả mọi sự. Tuyệt đối không còn con đường nào khác cho chị đâu, chị ạ. Chị hãy cầu nguyện để có được một cha linh hướng, nếu không, chị sẽ phí phạm những ân huệ lớn lao của Chúa.
Tôi nhắc lại một lần nữa, chị hãy an tâm; chị đang đi đúng đường. Đừng để ý gì khác. Hãy cứ luôn luôn trung thành với Chúa Giêsu, mặc kệ người ta nói gì về chị. Chính các linh hồn khốn cùng mới được Chúa Giêsu kết thân mật thiết như thế. Chị càng hạ mình, Chúa Giêsu càng kết hợp vói chị hơn nữa.”
175- Khi tôi rời tòa cáo giải, niềm vui khôn tả dạt dào linh hồn, thành ra tôi phải rúc vào một chỗ kín đáo trong vườn để lánh các chị em và để tâm hồn được tràn trải với Chúa.
Sự hiện diện của Chúa thấu nhập tôi. Lập tức toàn thể cái hư vô của tôi được đắm đuối trong Người. Đồng thời tôi cảm thấy - đúng hơn là nhận thức rõ ràng - Ba Ngôi Thiên Chúa đang ẩn ngự trong tôi.
Tôi hoan hưởng một niềm an bình trong linh hồn, đến nỗi phải ngạc nhiên vì sao trước đó tôi lại có nhiều nghi ngại đến thế.
176- Quyết định: Trung thành vói các soi động bên trong, cho dù không biết sẽ phải trả giá đến đâu. Tôi không được tự ý làm một điều gì mà không bàn hỏi trước với cha giải tội.
177- Tuyên lại lời khấn dòng.
Ban sáng, ngay từ lúc tỉnh giấc, thần trí tôi đã hoàn toàn đắm chìm trong Thiên Chúa, giữa đại dương tình ái. Tôi nghiệm thấy hoàn toàn được ngập lút trong Người.
Trong giờ thánh lễ, tình yêu Chúa của tôi lên đến cực điểm. Sau khi tuyên lại lời khấn và hiệp lễ, tôi chợt nhìn thấy Chúa Giêsu, Người phán bảo tôi một cách âu yếm:
“Ái nữ của Cha ơi! con hãy nhìn ngắm Trái Tim nhân lành của Cha”.
Khi chiêm ngắm Thánh Tâm cực trọng, tôi cũng được thấy cả những luồng sáng như được vẽ trong bức hình, cùng với Máu và Nước từ đó trào ra, và tôi đã hiểu Lòng Thương Xót Chúa bao la dường nào.
Chúa Giêsu lại phán bảo tôi một cách dịu dàng:
“Hỡi ái nữ của Cha! Con hãy nói cho các linh mục về Lòng Thương Xót khôn lường của Cha. Những ngọn lửa thương xót đang bừng cháy trong Cha, kêu gào đòi được phung phát. Cha muốn trào đổ mãi cho các linh hồn; trái lại, các linh hồn lại không muốn tin vào lòng nhân lành của Cha”.
Bỗng nhiên Chúa Giêsu biến đi. Nhưng suốt ngày, thần trí tôi cứ đắm đuối trong sự hiện diện như sờ được của Chúa, mặc dù có tiếng râm ran trò chuyện thường xảy ra sau cuộc tĩnh tâm. Nhưng điều ấy không làm phiền tôi chút nào. Thần trí tôi ở trong Chúa, mặc dù bên ngoài tôi tham gia vào các cuộc chuyện trò, thậm chí còn đi thăm Derdy nữa.
178- Hôm nay, chúng tôi bắt đầu kỳ thử thứ ba.
Cả ba chị em chúng tôi gặp nhau tại phòng Mẹ Margaret, bởi vì các chị khác cũng đang chuẩn bị kỳ thử của họ tại nhà tập viện.
Mẹ Margaret khai mạc bằng một kinh nguyện, giải thích cho chúng tôi biết kỳ thử thứ ba gồm những gì, và sau đó Mẹ nói về hồng ân vĩnh thệ lớn lao như thế nào.
Bỗng nhiên, tôi òa lên khóc. Lập tức mọi ơn Chúa ban đều hiện về trước mắt linh hồn, tôi thấy mình quá nhơ nhớp và tệ bạc với Chúa.
Các chị em lên tiếng quở trách: “Sao chị lại khóc rống lên thế?”
Nhưng Mẹ Margaret đến bênh vực tôi. Mẹ nói không có gì phải ngạc nhiên cả.
Vào cuối giờ, tôi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Và như một kẻ xấu xa đốn mạt nhất, tôi khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa, xin Người chữa lành và thanh tẩy linh hồn tội nghiệp của tôi.
Lúc đó, tôi được nghe những lời này:
“Ái nữ của Cha ơi! Tất cả những khốn nạn của con đã được tiêu tan trong ngọn lửa tình yêu của Cha, như một nhánh cây nhỏ được ném vào lò lửa hừng hực. Bằng cách hạ mình như vậy, con kín múc cho mình và cho các linh hồn khác tất cả biển nguồn xót thương của Cha”.
Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, xin uốn nắn trái tim khốn nạn của con theo niềm hoan lạc thần linh của Chúa.”
179- Trong suốt kỳ thử thứ ba, nhiệm vụ của tôi là giúp chị phụ trách nhà may. Nhiệm vụ này đã cho tôi nhiều dịp thực tập nhân đức. Đôi khi tôi phải đưa đồ đến cho một số chị em những ba lần, thế mà họ vẫn chưa vừa lòng.
Nhưng tôi cũng nhận ra nhân đức cao vời của một số chị. Các chị này lúc nào cũng chỉ xin những đồ kém nhất của ban may.
Tôi thán phục tinh thần khiêm tốn và khổ chế của các chị.
180- Trong mùa Vọng, một nỗi niềm khao khát Chúa mãnh liệt trỗi dậy trong linh hồn tôi. Thần trí tôi bay vút về Chúa với tất cả sức mạnh.
Trong thời gian đó, Chúa đã ban cho tôi rất nhiều ánh sáng để hiểu biết các ưu phẩm của Người.
Ưu phẩm thứ nhất Chúa đã cho tôi biết đó là sự thánh thiện của Người. Sự thánh thiện của Chúa thật cao vời đến độ mọi quyền thần và dũng thần đều run giùng trước thánh nhan Người.
Các thiên thần tinh sạch nhất còn phải che mặt và mất hút trong niềm khâm sùng bất tận. Các ngài đồng thanh diễn tả hình thức tôn sùng cao trọng nhất, đó là lời tung hô Thánh, Thánh, Thánh.
Sự thánh thiện Thiên Chúa được trào đổ trên Giáo Hội của Người và mọi linh hồn sống trong đó, nhưng không phải cùng một mức độ như nhau. Có những linh hồn hoàn toàn được Thiên Chúa thấu nhập, và cũng có những linh hồn gần như chỉ thoi thóp.
Tri thức thứ hai Chúa ban cho tôi liên quan đến đức công bình của Người. Đức công bình của Chúa thật vĩ đại và thấu tận cốt lõi các vật. Mọi vật hiện ra trước thánh nhan Chúa trong sự thật trần trụi, và không gì có thể chống lại Người.
Ưu phẩm thứ ba là tình yêu và Lòng Thương Xót.
Tôi hiểu rằng tình yêu và Lòng Thương Xót là ưu phẩm cao trọng nhất. Ưu phẩm này liên kết các thụ tạo với Đấng Tạo Hóa. Tình yêu hải hà và lòng xót thương thẳm sâu đã được biểu hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể và công trình Cứu Độ nhân loại. Và chính ở đây, tôi đã nhìn ra lòng xót thương là ưu phẩm lớn lao nhất trong mọi ưu phẩm của Thiên Chúa.