MẸ MARIA SỨ GIẢ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

BÀI  12 - 23
(của Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi)

12. Mẹ hiện ra tại Pontmain, Pháp, 1871

Sơ lược bối cảnh nơi Đức Mẹ hiện ra lần thứ bốn tại Nước Pháp trong thời gian 1858-1871: Nước Pháp trong hoàn cảnh tương đối thịnh vượng và ổn định mọi mặt. Tuy nhiên những chống đối Hoàng Đế Napoleon III và những tính toán của ông, đã đưa ông tới quyết định sai lầm gây ra Cuộc Chiến Crimea với Đức-Phổ. Ông tuyên chiến ngày 19 tháng 7, 1870 và kéo quân ra biên giới Đức-Pháp.

Ngày 4 tháng 8, 1870, quân Phổ vượt biên giới tràn vào Pháp, và bắt Hoàng Đế Napoleon III. Tại Paris, các phe chống đối truất phế ông khiếm diện. Ngày 16 tháng 1, 1871, quân Phổ tới vùng Brittany, chỉ cách Paris khoảng 250 cây số, cách thị trấn Laval và xóm Pontmain chỉ 15 cây số. Dân chúng sống trong lo âu phập phồng.

Gần 6 giờ chiều ngày 17 tháng 1 năm 1871, tại nông trại của ông Cesar Barbadette ở xóm Pontmain, thuộc thị xã Laval, cách Paris khoảng 230 cây số (kilomètre) về phía Tây, bà Detais tới để báo tin cho gia đình về người con trai là August Friteau, ở mặt trận Pháp-Phổ tại biên giới Đức-Pháp. Lúc đó ông Cesar đang giúp hai cậu con làm bài.

Khi bà Detais tới, cậu Eugène Barbadette, 12 tuổi, và Joseph, 10 tuổi, tuy yêu mến anh cùng mẹ khác cha là August Friteau, nhưng hai cậu không ở lại nghe tin tức, mà ra ngoài nhìn trời ngắm sao. Eugène nhìn lên trời phía nhà ông Augustine Guidecod, gần nhất ở phía bên kia đường, nhưng không thấy ánh sao nào. Cậu đang phân vân không biết tại sao. Trong khi Eugène chăm chú nhìn vào khoảng bầu trời không ánh sao đó, bất chợt cậu thấy một "Vị Phụ Nữ Đẹp" đứng cách nóc nhà ông Augustine khoảng 6 hoặc 7 mét. Thoạt mới thấy hiện tượng này, Eugène nghĩ rằng đó là dấu báo anh cùng mẹ khác cha của cậu tử trận. Nhưng sau cậu đổi ý nghĩ vì thấy Vị Phụ Nữ mỉm cười.

Eugène gọi bảo bà Detais nhìn vào nhà ông Guidecoq xem có thấy gì không. Bà Detais nói bà không thấy gì cả. Ông Cesar và Joseph lúc này tới cửa, nhưng ông Cesar không thấy gì cả, còn Joseph la lên "Có Vị Phụ Nữ đẹp và cao lớn" đứng trên không phía trên nóc nhà đó. Hai cậu thích thú trao đổi với nhau về những gì các cậu nhìn thấy.

Lời cậu Eugène nói sau này "Vị Phụ Nữ có khuôn mặt trái soan, luôn có nụ cười tuyệt vời trên môi. Người mặc áo dài xanh dương đậm, rộng và không có dây lưng. Trên áo có những ngôi sao vàng kim lóng lánh. Chân Người mang hài cùng mầu với áo và có viền vàng kim. Người đội khăn choàng mầu đen, phủ một phần trán, che mái tóc và hai tai, phủ xuống qua vai. Trên khăn choàng là chiếc mãovàng cẩn kim cương."

Trong khi đó ông Cesar và bà Detais vẫn không thấy gì cả. Bà Detais ra về, ba cha con ông Cesar đi vào trong nhà. Ít phút sau ông bố bảo Eugène ra coi lại xem cậu có còn thấy gì nữa không. Eugène ra cửa nhìn và nói với ông bố: "Thưa bố, có, Vị Phụ Nữ vẫn còn đó." Bà Victoria, mẹ của Eugène và Joseph, từ trong bếp bước ra nhìn, nhưng bà cũng không thấy gì cả. Trong khi đó Joseph vỗ tay mừng "Vị Phụ Nữ đẹp", nhưng bà mẹ bảo cậu đừng làm ồn vì mọi người đang nhìn vào gia đình.

Những tiếng nói lớn của hai cậu con trai làm lối xóm để ý. Bà Victoria bảo hai cậu đọc năm kinh Kính Mừng, rồi bà bảo hai cậu lại nhìn lên. Các cậu nói vẫn nhìn thấy Đấng Hiện Ra. Bà mẹ đeo kính lên mắt và chăm chú nhìn, nhưng cũng không thấy gì cả. Bà bảo mọi người đi vào ăn tối. Hai cậu đi vào trong nhà, nhưng mắt vẫn ngoái nhìn sang phía nhà ông Augustine.

Ăn xong, hai cậu lập tức chạy ra, và Vị Phụ Nữ vẫn yên tĩnh đứng đó. Hai cậu nói Vị Phụ Nữ đó tầm vóc bằng sơ Vitaline. Ông bà Cesar cho người đi mời sơ Vitaline tới. Sơ Vitaline cũng không thấy gì, và cùng bà Victoria trở lại nhà của sơ. Tại đây sơ Vitaline gặp Francoise Richer, 11 tuổi, Jeanne-Marie Lebosse, 9 tuổi, dẫn hai bé này tới nông trại của gia đình Barbadette, nhưng không nói với hai cô bé về thị kiến. Khi tới nơi, và vẫn chưa gặp hai cậu con trai, hai cô bé này đồng thanh nói hai cô thấy một "Vị Phụ Nữ đẹp mặc áo mầu xanh có những ngôi sao bằng vàng", y như hai cậu con trai đã nói.

Sơ Marie-Edouard tới, nhưng cũng không thấy gì. Nhưng sơ nghĩ rằng các bé thơ có thể được thị kiến. Sơ Marie tới nhà ông Friteau, gần nhà ông Barbadette, dẫn cháu của ông Friteau là Eugèn Friteau tới, nhưng chú bé này không thấy gì cả. Sơ Marie-Edouart chạy tới nhà xứ, nói với cha sở (đã già và tật bệnh): "Có phép lạ, một thị kiến! " Mấy đứa bé thấy Đức Trinh Nữ!" và mời cha mau tới nhà ông Barbadette. Rồi sơ chạy đi trước tới nơi có thị kiến. Tại đây sơ quì gối cầu nguyện kinh Mân Côi. Trong khi đó, bà vợ ông Boitin với cô con gái là Augustine Boitin, 2 tuổi, tới. Cô bé Augustine Boitin thích thú chỉ tay lên trời, la lên "Chúa Giêsu, Chúa Giêsu!"

Lúc này có khoảng năm mươi người hiện diện, và cha sở cũng đã tới nơi hỏi các thiếu niên nhìn thấy gì. Các cô cậu nói với cha sở như đã nói với nhiều người trước đó. Từ lúc này trở đi, thị kiến thay đổi lần lần.

Eugène kể lại:

"Một Thánh Giá mầu đỏ xuất hiện trên áo Vị Phụ Nữ nơi vị trí trái tim. Thánh Giá này lớn dần và Đức Mẹ phải lấy tay áp vào ngực. Lúc này Đức Mẹ đứng trong một vầng sáng hình bầu dục. Trong khuôn này có bốn cây nến (đèn cầy) chưa thắp sáng. Các ngôi sao trên nền trời bên ngoài vầng ánh sáng bắt đầu di chuyển sắp thành hai hàng dưới chân Đức Mẹ; lúc này các ngôi sao trên áo Đức Mẹ cũng tăng thêm nhiều hơn."

Số người tới mỗi lúc mỗi đông hơn. Một số người ca hát, một số người quì gối. Giữa lúc này, anh Joseph Babin, một người ở Pontmain, lớn tiếng nói:

"Quân Phổ đã ở Laval rồi! Chúng ta phải cầu nguyện!"

Lúc này, thị kiến sang một cảnh khác. Đức Mẹ đưa hai tay lên quá tầm vai, lòng bàn tay hướng ra ngoài (dấu này được coi là dấu Đức Mẹ ngăn chặn không cho quân Phổ tràn tới). Kế đến một mặt phẳngrộng mầu trắng hiện ra dưới chân Đức Mẹ và bầu ánh sáng hình bầu dục, và dường như một bàn tay vô hình đang viết chữ rất đẹp trên nền đó.

Sơ Marie Edouart và sơ Vitaline hướng dẫn đám đông hát kinh Magnificat và các ca khúc khác. Hát xong, mọi người quì thinh lặng, chỉ đôi khi các bé được thị kiến nói lên những cảnh mới của thị kiến hoặc các mẫu tự xuất hiện. Lần lượt các câu sau đây hiện ra trên nền trắng:

+ "Mais priez mes enfants = Nhưng, các con của Mẹ, các con phải cầu nguyện."

+ "Dieu vous exaucera en peu de temps = Thiên Chúa sẽ sớm nhận lời cầu nguyện của các con."

Khi câu thứ hai xuất hiện, Thánh Giá nơi ngực Đức Mẹ tăng kích thước, và Đức Mẹ phải lấy tay áp Thánh Giá vào ngực.

+ "Mon Fils se laisse toucher = Con của Mẹ xúc động." Thánh Giá biến đi khi câu thứ ba này xuất hiện.

Đức Mẹ đưa tay ra và một ngôi sao di chuyển lần lượt thắp sáng bốn cây nến, rồi đến đậu trên mão nơi đầu Đức Mẹ. Sau khi bốn cây nến được thắp sáng, Đức Mẹ hạ tay xuống, và hai Thánh Giá nhỏ mầu trắng xuất hiện trên hai vai Đức Mẹ.

Đến lúc này, các em được thị kiến đều nói một tấm khăn voan mầu trắng lớn từ chân Đức Mẹ từ từ bay lên che khuất dần dần từ chân Đức Mẹ trở lên, cuối cùng chỉ còn khuôn mặt với nụ cười nhìn xuống các em được thị kiến. Sau cùng mặt Đức Mẹ cũng biến mất.

Thấy các em được thị kiến im lặng, cha sở hỏi:

"Các con còn thấy Đức Mẹ chứ?"

Các em đồng thanh đáp:

"Thưa cha, không ạ. Đức Mẹ biến đi rồi."

Ngày hôm sau, tin tức về Đức Mẹ hiện ra tại Pontmain loan truyền tới Paris, và chỉ ba ngày sau được loan truyền khắp Nước Pháp.

Một sự kiện lịch sử cần ghi nhớ là khoảng 5g30 chiều ngày 17 tháng 1, 1871, quân đội Đức ngừng không tiến vào thị trấn Laval, khi Đức Mẹ bắt đầu hiện ra. Tin loan truyền là Tướng Schmidt, chỉ huy quân Phổ, nói: "Chúng tôi không thể tiến xa hơn. Phía xa xa, về hướng Brittany, Đức Bà, không rõ hình, cản đường."

Nông trại của gia đình Barbadette sớm trở nên một linh địa, mà hằng ngày nhiều người tới cầu nguyện.

Ngày 2 tháng 2, 1875, đức giám mục Wicart, giáo phận Laval, tuyên bố:

"Chúng tôi nhìn nhận rằng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Eugène Barbadette, Joseph Barbadette, Francoise Richer, Jeanne-Marie Lebosse, tại xóm Pontmain. Chúng tôi, hết lòng khiêm nhượng và phục tòng, đặt phán quyết này dưới quyền Đức Thánh Cha, Trung Tâm Kết Hiệp và đầu não bất khả ngộ về chân lý của toàn thể Giáo Hội."

Đại thánh đường được khởi đầu xây dựng trên phần đất nông trại của gia đình Barbadette vào năm 1872. Kế đến nông trại của gia đình Guidecoq và khu vực nhà thờ giáo xứ cũng nhường chỗ cho toàn thể khu vực đại thánh đường nguy nga. Một tượng Đức Mẹ đứng tại phần đất nơi có ngôi nhà của gia đình Guidecoq mà Đức Mẹ đã đứng khi hiện ra. (1)

***

(1) Một điều đáng lưu ý là trong thập niên 1960, tại Việt Nam, một Vương Cung Thánh Đường kết tình chị em với đại thánh đường Pontmain được dâng kính Đức Mẹ Pontmain, Mẹ Hy Vọng và Hòa Bình.

Thánh đường này là Vương Cung Thánh Đường Sàigòn (Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn), có tượng Đức Mẹ Hòa Bình ở công viên Hòa Bình trước cửa thánh đường, nhìn thẳng đường Tự Do.

13. Mẹ hiện ra tại Knock, Ái Nhĩ Lan, năm 1879

Những năm trước 1879, Ái Nhĩ Lan phải chịu đựng những khủng hoảng khốn đốn về chính trị, kinh tế, tôn giáo, và những lãnh vực khác. Những lần mất mùa khoai đói kém từ các năm 1840 đến 1851 là những đại họa xứ này phải chịu mà các quốc gia lân bang không cứu trợ.

Tình trạng kỳ thị trầm trọng giữa các giới quí phái và bình dân, giữa các chủ nhân và nhân công, giữa Công Giáo với Tin Lành, Anh Giáo, giữa người Ái Nhĩ Lan với người Anh. Trầm trọng nhất là giữa gới giầu với người nghèo nơi các xí nghiệp và nông trại.

Knock là một xóm nhỏ ở trên đồi nhìn xuống bãi lầy mênh mông, gần thị trấn Tuam ở giữa vùng lầy này. Vào thời gian Đức Mẹ hiện ra tại Knock, nơi này là một xóm nhỏ xa xôi hẻo lánh, nghèo nàn, ít ai biết. Nhà nguyện tại Knock được dựng lên vào năm 1829 khi Giáo Hội Công Giáo tại Ái Nhĩ Lan được chút tự do hành đạo. Nhà nguyện nhỏ này trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo cho vùng Knock và Aghamore thuộc giáo phận Tuam. Nhưng khi nạn đói kinh hoàng xảy ra năm 1879, chỉ còn khoảng 18 gia đình ở lại Knock và vùng lân cận.

Ngày 21 tháng 8, 1879, Tổng Phó Tế Cavanaugh đi thăm các giáo dân trở về nhà xứ (nơi linh mục hoặc tu sĩ thuộc giáo xứ cư ngụ). Chị Mary McLoughlin, người trông coi nhà xứ, giúp Phó Tế Cavanaugh hong quần áo sũng nước của ngài và chuẩn bị bữa ăn tối và nơi ngụ cho ngài.

Khoảng 7g30 tối, Mary Beirne, con gái bà Margaret Beirne (cũng gọi là bà góa Beirne), tới nhà thờ để khóa cửa, cô thấy những hình người hoặc thứ gì sáng, nhưng cô không để ý. Cũng khoảng thời gian đó, bà Carty đi ngang qua nhà thờ và thấy những hình tượng đó; bà nghĩ bụng "Lại một cuộc lạc quyên đóng góp nữa, Chúa ơi, xin giúp chúng con." Khoảng 8g30 tối, chị Mary McLoughlin rời nhà xứ đi thăm người bạn là bà Margaret Beirne. Khi chị bước đi ngang qua nhà thờ trong cơn mưa tầm tã, chị thấy ở đầu nhà thờ có "những khuôn mặt đẹp đẽ mà lạ và một bàn thờ." Mặc dầu chị thấy có ánh sáng chung quanh các khuôn mặt đó, nhưng chị cho rằng thầy phó tế đã đặt mua các tượng đó từ Dublin đem tới và để ngoài mưa như thế. Không nghĩ gì thêm, chị tiếp tục đi tới nhà bà Margaret Beirne.

Tới nhà bà Margaret Beirne, chị Mary McLoughlin nói với bà này về điều bà thấy ở đầu nhà thờ trên đường tới đây. Cô con gái của bà chủ nhà cũng chia sẻ câu chuyện, và tình nguyện đi với chị Mary trở lại nhà xứ. Chị Mary McLoughlin và Mary Beirne thấy những hình ảnh lúc trước bây giờ càng sáng hơn. Hai người thấy các hình người đó dường như đứng trên đầu những lá cỏ, nhưng chân không chạm các lá cỏ đó. Hai chị cũng thấy là mưa không làm ướt đám cỏ ở đầu nhà thờ. Hai chị nhận ra hình ảnh thánh Giuse, Đức Mẹ và thánh Gioan (Tông Đồ).

Hai chị ngạc nhiên, và Mary Beirne chạy về báo cho mẹ và chị là Catherine Beirne, cô cháu gái là Catherine Murray, 8 tuổi, và anh/em trai của cô là Dominick. Mary Beirne hối những người này chạy mau tới nhà thờ vì "Đức Trinh Nữ ở đó." Dominick bảo Mary (Beirne) đừng tự lừa dối mình. Nhưng Mary bất chấp và vội vàng chạy đi. Dominick khuyên mẹ đi tìm chị về "Đừng để người lối xóm cười." Bà góa Beirne tới nhà thờ mà ướt sũng mưa, bà thấy các hình ảnh đó mà lúc này rực sáng hơn. Không lâu sau đó Dominick, Catherine Murray và một số người lối xóm cũng tới. Tất cả những người này đều chứng kiến việc hiện ra. Catherine Murray chạy đi kiếm dì Margaret và nhiều người lối xóm khác cũng tới. Hầu như tất cả mọi người ở xóm Knock đều tới, nhìn thấy việc hiện ra; mọi người hiện diện đều được bao bọc trong bầu ánh sáng mầu bạc êm dịu bao quanh các hình thánh. Thị kiến hôm nay kéo dài tới khoảng 11 giờ khuya.

Bà góa Beirne, một trong các người được thị kiến nói:

"Tôi lập tức đi tới nơi được chỉ. Khi tới nơi, tôi thấy rõ ràng ba hình ảnh. Lập tức tôi tới hôn, như tôi nghĩ, chân Đức Trinh Nữ; nhưng tôi không cảm thấy gì trong vòng tay ôm của tôi mà chỉ là bức tường phía sau ảnh đó, và tôi tự hỏi tại sao tôi không sờ được bằng tay tôi những hình ảnh tôi nhìn thấy rõ ràng."

Bà Bridget Trench, lúc đó 75 tuổi, nói:

"Hình ảnh ba vị có vẻ bất động, tựa như các pho tượng; các hình ảnh đứng gần đầu nhà thờ và dường như cách đầu lá cỏ khoảng hai gang tay. Đức Trinh Nữ đứng giữa; Người mặc áo trắng, và có khăn choàng phủ từ đỉnh đầu tới chân.

"Hai bàn tay của Đức Trinh Nữ đưa lên cao như linh mục khi cầu nguyện trong Thánh Lễ. Tôi thấy rõ hai chân Đức Trinh Nữ và ba lần cố gắng hôn chân Người; Đức Trinh Nữ đội trên đầu thứ gì giống như vương miện, và cặp mắt Người nhìn lên trời.

"Lúc đó trời mưa như trút, nhưng không một giọt mưa nào rơi trên ba hình thánh đó. Tôi cẩn thận sờ đất, đất hoàn toàn khô. Gió từ hướng nam thổi tới, thẳng vào đầu nhà thờ, nhưng không một giọt nước mưa nào rơi vào nơi các hình thánh đứng. Tôi không thấy có cử động nào nơi các hình thánh."

Chị Mary Beirne nói:

"(Hình ảnh) Đức Trinh Nữ bằng tầm vóc người thực, hình thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ không quá lớn hoặc quá cao so với hình Đức Trinh Nữ; ba vị đứng cách tường đầu nhà thờ một khoảng, và cách mặt đất khoảng một gang rưỡi hoặc hai gang tay."

"Đức Trinh Nữ đứng thẳng, cặp mắt ngước nhìn lên trời, hai bàn tay ngửa và đưa lên cao qua khỏi vai hoặc cao hơn một chút; Người mặc áo choàng rộng mầu trắng; trên đầu Người có vương miện vàng."

"Hình thánh Giuse, đầu ngài hơi nghiêng về phía Đức Trinh Nữ, như thể ngài tỏ lòng tôn kính Đức Trinh Nữ; thánh Giuse có mái tóc và râu mầu muối tiêu. Hình ảnh thứ ba có vẻ là thánh Gioan Tông Đồ."

"Một con chiên đứng trên bàn thờ, nhìn vào thánh Gioan Tông Đồ. Tôi không nhìn thấy hình thánh giá hoặc ảnh chịu nạn nào cả. Tôi thấy những ngôi sao vàng kim trên mình và chung quanh con chiên. Tôi nhìn hình ảnh này từ lúc 8g15 đến 9g30 tối. Trong thời gian này trời mưa tầm tã."

Đức Mẹ, Thánh Giuse và Thánh Gioan Tông Đồ hiện ra tại Knock tất cả khoảng bốn lần. Lần thứ hai vào ngày 2 tháng 1, 1880. Lần này Tổng Phó Tế Cavanaugh và hai người khác nữa chứng kiến. Lần thứ ba vào đêm 5 tháng 1, 1880. Lần này có đông người thị kiến và hai viên chức Hoàng Gia Ái Nhĩ Lan đồn trú tại Knock giữ trật tự. Đêm 6 tháng 1, 1880, rất đông người hơn nữa được thị kiến, có cả những người từ thị xã Claremorris lân cận cũng tới và được thị kiến.

Trong những lần hiện ra này, có những hiện tượng lạ lùng như những trái cầu rực sáng hoặc những vòng hào quang di chuyển tới lui trên thánh đường và các nơi khác trong khu vực Knock. Nhiều người cho hiện tượng này do khí vùng lầy phát ra. Nhưng những ý kiến đó đã bị các phép lạ chữa lành bệnh xảy ra tại Knock đánh bại. Những phép lạ điển hình là một phụ nữ, 28 tuổi, bị điếc từ lúc 6 tuổi, đã nghe lại được sau khi đến cầu nguyện tại thánh đường Knock. Michael Ansborough và John Mckenna, bị mù khoảng 10 năm, lại được sáng mắt. Bà Mary Prendergast, suốt nhiều năm không đi đứng được, đã khỏi bệnh đứng lên đi lại không cần ai giúp, sau khi được đưa tới đầu nhà thờ nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ hiện ra. Tới nay đã có hơn ba trăm phép lạ chữa lành bệnh tại Knock, tuy nhiên các phép lạ này không được khảo nghiệm và chứng minh theo tiêu chuẩn tại Lộ Đức.

Giáo quyền chưa có cơ hội xét và chính thức nhìn nhận sự kiện thiên đàng hiện ra tại Knock, vì hai lần ủy ban điều tra được thành lập đều không đem lại kết quả cuối cùng. Tuy nhiên mỗi năm vẫn có hàng ngàn người đến Knock để cầu nguyện và xin ơn.

Đức Mẹ hiện ra tại Knock, Ái Nhĩ Lan, được gọi là "Đức Mẹ Thinh Lặng" vì trong những lần hiện ra tại đây, Đức Mẹ không nói lời nào cả. Người ta coi việc Đức Mẹ hiện ra tại Knock là để an ủi và cứu trợ con cái Mẹ. Chính nhờ sự kiện này mà chỉ vài năm sau, một trận đói khác xảy ra tại vùng này, đã được các quốc gia lân bang gởi thực phẩm cứu trợ tới Ái Nhĩ Lan kịp thời.

Tới nay, thánh đường nhỏ tại Knock vẫn là một linh địa hành hương. Một phi trường được thiết lập phía ngoài Knock để thỏa mãn nhu cầu di chuyển. Đầu nhà thờ phía nam, nơi Đức Mẹ thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ hiện ra, nay được bao bằng kính.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tới viếng nhà nguyện Knock khi đến thăm Ái Nhĩ Lan. Việc Đức Thánh Cha tới thăm nơi thiên đàng hiện ra được coi là mặc nhiên công nhận sự việc.

14. Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles, Pháp, 1896

Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles đặc biệt khác với những lần trước.

Khoảng 4 giờ chiều một ngày tháng Ba năm 1896, một cậu học sinh từ trong lớp học liếc nhìn qua cửa sổ ngó ra cánh đồng, cậu nhìn thấy một Vị Phụ Nữ đẹp từ trời từ từ xuống. Cậu kêu lên và các học sinh khác trong lớp, cả cô giáo (nữ tu), ùa tới các cửa sổ và nhìn thấy cũng hình ảnh đó. Vị Phụ Nữ đáp xuống đứng trên một cây sồi ở giữa cánh đồng trống.

Sáu mươi học sinh và ba nữ tu rời trường chạy tới cánh đồng để nhìn gần Vị Phụ Nữ đẹp. Tất cả đều nhìn thấy Đấng Hiện Ra. Đức Mẹ đứng trong vòng ánh sáng hình bầu dục phát ra tia sáng mầu lá cây, đỏ, hồng, xanh dương, và vàng. Vị Phụ Nữ có dáng vóc người thực, mặc áo rộng theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, lấp loáng và mầu sắc thay đổi. Tuy nhiên không phải chỉ có học sinh và các nữ tu tới đó, mà nhiều người cũng tới và thấy Đấng Hiện Ra. Đa số người hiện diện quì gối cầu nguyện. Mọi người tin rằng Đức Mẹ hiện ra. Một lát sau, Đức Mẹ biến đi. Nhưng thị kiến xảy ra liên tiếp những ngày sau đó và cách quãng trong thời gian bốn năm. Các lần thị kiến đều xảy ra giữa ban ngày. Sau những lần đầu, các người được thị kiến về sau thường ở trong tình trạng xuất thần, bất tỉnh, tuy nhiên mắt họ dán vào nơi thị kiến, và không phản ứng trước những châm chích, ngắt nhéo, hoặc vỗ mạnh vào má.

Ngày ngày số người tới và được thị kiến càng đông. Nhưng không phải mọi người đều nhìn thấy Đức Mẹ, và không phải mọi người đều thấy những cảnh giống nhau. Diễn tiến này xảy ra nhiều giai đoạn và nhiều cảnh đối chọi nhau khiến người ta có nhiều nghi vấn và  ý kiến khác nhau. Những hình ảnh người ta thấy có tính cách tiên tri và khải huyền, những biến cố hãi hùng như thời gian tận thế. Một số người thị kiến các thánh, thiên thần, quỉ, và những hình ảnh ghê sợ khác. Nhiều người được thị kiến cảnh chiến đấu giữa các thiên thần và ma quỉ. Nhiều người được thị kiến biến đổi cơ thể, vặn vẹo hoặc co quắp thân thể, cách lạ lùng mà chỉ sau này người ta mới hiểu đó là hình ảnh của những biến cố khủng khiếp sẽ xảy ra.

Một số người được thị kiến nhắc lại lời Đức Mẹ kêu gọi mọi người cầu nguyện. Thiên Chúa gởi Mẹ Maria đến với con cái trần gian để cảnh cáo, kêu gọi con cái Chúa và Mẹ ăn năn thống hối; để báo trước những thiên tai mà con cái Mẹ cần phải cầu nguyện để được cứu thoát hoặc được giảm thiểu; để thông báo thánh ý Thiên Chúa cho con cái Mẹ tuân theo hầu mưu cầu hạnh phúc đời này và đời sau.

Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles trong thời kỳ tương đối ổn định, thịnh vượng. Không ai ngờ được những kinh hoàng sớm xuất hiện, và Thời Đại Vô Chính Phủ (1903-1906) xảy ra ngay sau lần Đức Mẹ hiện ra này và sau đó là Thế Chiến I. Toàn thể khu vực chung quanh Tilly-Sur-Seulles và duyên hải Normandy trở nên chiến địa kinh hoàng, những chiến hào, bùn lầy, những vũ khí giết người, bệnh tật, đói khát, chết chóc, hàng ngàn xác chết rữa nát không ai chôn cất và những nấm mồ tập thể. Thế Chiến I kéo dài bốn năm với những khốc liệt khủng khiếp được báo trước qua các hình ảnh của các người được thị kiến trong thời gian bốn năm những lần Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles.

15. Mẹ hiện ra tại Mantara, Lebanon, năm 1908-1911

Mantara, ngoại ô của thị xã Sidon, cũng gọi là Saida, ở miền đồi núi phía nam Núi Lebanon. Năm 1908, một số khu nhà tranh nghèo nàn nằm giữa vùng đồi núi và thành phố Sidon. Sidon là một trong các hải cảng quang trọng phía đông Địa Trung Hải của người Phoenicians và được dựng lên khoảng 1400 năm trước Chúa giáng sinh, và năng được nhắc tới trong Phúc Âm.

Tại một trong những xóm làng ở vùng Mantara, có một xóm/làng Kitô hữu Ai Cập, tại đây có một hang đá rộng (rộng và sâu hơn hang đá Lộ Đức). Tương truyền rằng tại hang đá này, thánh nữ Maria Magdalena đã nhiều lần hiện ra. Đức Trinh Nữ cũng một số lần hiện ra tại đây. Lưu truyền rằng thánh Maria Magdalena đẹp nhưng không đẹp bằng Đức Trinh Nữ, thánh Maria Magdalena nhỏ con hơn Đức Trinh Nữ, nhưng tóc thánh nữ vàng hơn.

Lưu truyền rằng thánh Maria Magdalena yêu cầu hang đá này phải là "nơi hoàn toàn yên lặng, không ai ăn uống gì tại đây. Nơi này phải triệt để im lặng dành cho những trái tim chờ đợi Chúa Giêsu Kitô trở lại."

Một nhà nguyện nhỏ có tường, có vách ngăn và cửa sổ, được dựng trong lòng hang đá này, nhưng vào năm 1908, khi có sự kiện thiên đàng hiện ra tại đây được nói trong chương này, thì hầu như hư tàn. Trong những năm 1908 đến 1911, nhiều người nói họ nhìn thấy một bóng sáng hiện ra ở trong hang đá hoặc phía ngoài gần đó, nhưng suốt bốn năm đó không có sự việc đặc biệt nào được ghi nhận. Từ ngày có tin là người ta thấy bóng sáng hiện ra tại hang đá ở Mantara, Bề Trên Nicola Halabi đôi khi đến dâng thánh lễ tại đây. Vì thế một bàn thờ được thiết lập thoạt đầu ở cửa hang đá, sau di vào trong hang đá. Hai hoặc ba căn phòng trong nhà nguyện được sửa lại.

Sáng sớm ngày 11 tháng 6, 1911, Bề Trên Nicola Halabi dâng thánh lễ tại đây và có khoảng 60 người tham dự. Khoảng 7 giờ tối, một nhóm phỏng chừng 50 phụ nữ trở lại hang đá. Bảy người trong số 50 người này tới gần hang đá trước và họ bị lóa mắt vì làn ánh sáng từ bàn thờ ở trong nhà nguyện phát ra (nhà nguyện cách cửa hang đá chừng 10 mét). Thoạt tiên, các bà này nghĩ bầu ánh sáng đó là phản chiếu ánh mặt trời đang lặn ở phía sau lưng họ. Nhưng cường độ ánh sáng càng tăng thêm và bắt đầu phát ra nhiều mầu sắc kỳ lạ. Các bà này không im lặng được nữa, mà la lên báo cho các người khác tới coi sự lạ. Có khoảng 60 người đã vào hang đá và tất cả đều lóa nắt, vì ánh sáng cực mạnh đến độ không thể nhìn thẳng vào bầu ánh sáng đó được.

Nhưng chỉ ít phút sau, ánh sáng giảm cường độ và trở nên những bóng mây sáng từ đó tỏa ra những tia sáng muôn mầu và những ánh sáng lóng lánh khác. Ở giữa bầu ánh sáng đó, người ta thấy một Vị Phụ Nữ mà mọi người lập tức nhìn nhận là Đức Trinh Nữ vì Người bồng Chúa Hài Đồng.

Một số bà chạy xuống đồi lớn tiếng báo tin Đức Trinh Nữ Maria hiện ra. Tin Đức Mẹ hiện ra đã mau chóng loan truyền khắc các làng xóm lân cận, và rất đông người đến hang đá, trong số đó có cả Bề Trên Nicola Halabi và vị phụ tá. Đức Mẹ hiện ra lần này lâu khoảng hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Tất cả những người tới gần bàn thờ lúc này đều được thấy Đức Mẹ. Đức Mẹ còn hiện ra ba hoặc bốn lần vào những ngày kế tiếp. Tờ báo địa phương ước lượng có trên 400 người đã được thấy Đức Mẹ.

Đức Mẹ hiện ra bồng Chúa Hài Đồng đứng trong bầu ánh sáng. Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ không nói gì, nhưng nhìn đám đông tụ họp, trong khi đó Đức Trinh Nữ âu yếm đón nhận tất cả bằng cách gật đầu, ánh mắt nhìn, cử động của hai bàn tay, và nụ cười hài lòng.

Những xáo trộn chính trị tại vùng Trung Đông nhất là những biến cố tại Lebanon trong thế kỷ này đã khiến ít người lưu ý tới Mantara.

16. Mẹ hiện ra tại Belgique, năm 1910

Bà Berthe Petit, một phụ nữ người Belgique (Bỉ), 1870-1943, được thị kiến Chúa Giêsu và Mẹ Maria nhiều lần.

Năm 1910, bà thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria nhập làm một, Chúa Giêsu nói với bà:

"Con phải nghĩ đến Trái Tim Mẹ Cha như nghĩ đến Thánh Tâm Cha; sống trong Trái Tim này như con mưu tìm sống trong Thánh Tâm Cha; tận hiến cho Trái Tim Mẹ Cha như con tận hiến cho Thánh Tâm Cha. Con phải truyền bá lòng yêu mến Trái Tim này hoàn toàn hiệp nhất với Thánh Tâm Cha."

Một vài ngày sau, Chúa Giêsu hiện ra nói với bà Berthe:

"Thế giới phải được tận hiến cho Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ của Cha, như được tận hiến cho Thánh Tâm Cha."

Bà Berthe thấy cảnh cả thế giới được đổi mới nhờ sự tận hiến này.

Từ các năm 1914 - 1945, bà Berthe được nhiều mạc khải về các biến cố tương lai và ý nghĩa tiềm ẩn của các biến cố đó. Khi Quận Công Ferdinand, Nước Áo, bị ám sát ở Sarajevo, Chúa Giêsu nói:

"Bây giờ các biến cố khởi đầu dồn dập xuất hiện dẫn tới sự biểu lộ cả thể của đức công thẳng của Cha."

Khi Hiệp Ước (Hòa Bình) được ký kết, Chúa nói:

"Chẳng bao lâu người ta sẽ thấy bấp bênh chừng nào cái nền hòa bình được thiết lập mà không có Cha và không có sự chứng kiến của đại diện Cha (Đức Thánh Cha). Quốc gia coi như bị đánh bại đó, sức mạnh của nó chỉ tạm thời giảm thiểu, vẫn còn là mối đe dọa đối với đất nước quê hương của con và Nước Pháp. ... Chiến tranh sẽ lại bùng lên khắp nơi; những cuộc nội chiến, những xung đột chủng tộc. Điều đáng lẽ ra hết sức vĩ đại, hết sức chân thực, hết sức đẹp đẽ, hết sức lâu bền, bị trì hoãn ... Nhân loại đang xô tới cơn bão lốc kinh sợ, cơn lốc này sẽ chia rẽ các quốc gia hơn nữa, toàn thể các kế hoạch của loài người sẽ bị xóa sạch. ..."

Năm 1922, Chúa nói về "... thiên tai kinh hoàng sẽ xảy ra làm đảo lộn hết tất cả mọi toan tính hiện tại của loài người và những chính sách khốn nạn của họ."

Tháng 1 năm 1940, Chúa bảo bà Berthe Petit:

"Nước Bỉ sẽ bị xâm chiếm."

Việc này xảy ra đúng 3 tháng sau. Năm 1941, Chúa bảo đảm với bà rằng Nước Bỉ sẽ lại phồn thịnh và "việc giải phóng nước đó là việc của hai Thánh Tâm."

Sau cùng, năm 1942, trước khi bà từ trần và 2 năm trước khi bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima, Chúa Giêsu nói với bà Berthe:

"Một cơn lốc kinh hoàng sắp sửa xảy ra. Người ta sẽ thấy rằng những sức mạnh được phóng đi trong lúc tức giận như thế sẽ sớm bị thả lỏng. Ngay bây giờ hoặc không bao giờ là lúc tất cả loài người tận hiến cho Trái Tim Tân Khổ Mẹ của Cha."

"Do sự chấp nhận của Người trên đồi Calvary, Mẹ của Cha đã chia sẻ tất cả mọi đau đớn thống khổ của Cha. Tôn sùng Trái Tim Mẹ của Cha kết hợp với Thánh Tâm Cha sẽ đem lại hòa bình, thứ hòa bình đích thực rất năng được nài xin nhưng vẫn còn quá ít xứng đáng."

Để tiêu biểu cho việc sùng kính này, Chúa Giêsu chỉ cho bà Berthe ảnh Đức Mẹ được kính tại Nữ Tu Viện Biển Đức ở Olligenies, Nước Bỉ. Năm 1918, khi quân đội chiếm đóng rút lui khỏi trường học của nhà dòng, một nữ tu tìm thấy nơi hầm nhà một hình tục tĩu dán trên tấm bìa cứng. Xé tấm hình dơ bẩn đó đi, chị nữ tu khám phá ra ảnh Mẹ Maria, nơi tay cầm bông huệ trắng, tay phải chỉ vào Trái Tim Tân Khổ của Mẹ, Trái Tim Mẹ bị lưỡi gươm xuyên thấu và rực lửa chung quanh. Các nữ tu Biển Đức đặt ảnh Đức Mẹ nơi trang nghiêm và chẳng bao lâu nhiều người cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ  Trái Tim Tân Khổ này đã được nhiều ơn lành. Bà Berthe và các cộng sự in ảnh này để phổ biến, có kèm theo lời nguyện: "Lạy Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con chạy đến kêu cầu Mẹ."

LƯỢC TRÍCH VIỆC ĐỀN TẠ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU 9 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG

Liên kết với lời Chúa Giêsu nói với bà Berthe về việc đền tạ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, chúng tôi sơ lược lại việc Rước Lễ Tận Hiến Đền Tạ Thánh Tâm Chúa chín thứ Sáu đầu tháng mà Chúa đã dạy thánh Mary Margarette Alacoque. Việc đền tạ Thánh Tâm Chúa các thứ Sáu đầu tháng rất phổ biến và thịnh hành khắp thế giới.

Sau đây là lời Chúa Giêsu nói với thánh nữ Mary Margarette Alacoque về Mười Hai Điều Trái Tim Cực Thánh Chúa hứa cho những ai xưng tội rước Lễ tận hiến đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu chín thứ Sáu đầu tháng liên tiếp:

1. Cha sẽ ban mọi ơn lành cần thiết cho cuộc sống của những  người đó.

2. Cha sẽ ban hòa bình trong gia đình họ.

3. Cha sẽ an ủi họ trong mọi cơn bối rối gian nguy.

4. Những người đó sẽ tìm được nơi Thánh Tâm Cha chốn nương náuvững chắc an toàn trong suốt cuộc sống và nhất là trong giời lâm chung (giờ chết).

5. Cha sẽ đổ tràn đầy ân sủng trên mọi việc những người đó làm.

6. Những kẻ tội lỗi sẽ tìm thấy trong Thánh Tâm Cha biển nguồn thương xót vô tận.

7. Những linh hồn khô khan sẽ trở nên sốt sắng.

8. Những linh hồn sốt sắng sẽ mau chóng tiến tới trọn lành.

9. Cha sẽ chúc lành cho các gia đình nơi ảnh Thánh Tâm Cha được trưng bày và tôn kính.

10. Cha sẽ ban cho các linh mục sức mạnh đánh động những tâm hồn chai đá nhất.

11. Cha sẽ viết tên những ai truyền bá việc sùng kính này nơi Thánh Tâm Cha, và những tên đó sẽ không khi nào bị xóa.

12. Tình yêu toàn năng của Thánh Tâm Cha sẽ ban cho tất cả những ai rước Lễ chín Thứ Sáu đầu tháng liên tiếp ơn thống hối trong giờ lâm chung; những người này sẽ không chết trong khi mất lòng Cha; cũng không chết mà không được lãnh các Phép Bí Tích; Thánh Tâm Cha sẽ là nơi nương náu an toàn bảo đảm cho những người này trong giờ phút cuối cùng cuộc đời họ."

Thánh Magarita nói tiếp:  

"... và Chúa cho con thấy Chúa hết sức khao khát được mọi người yêu mến, Chúa khao khát lôi kéo người ta ra khỏi đường lối diệt vong mà Satan xô đẩy biết bao người vào đó. Tình yêu khao khát của Thánh Tâm Chúa thúc đẩy Chúa tỏ ra cho mọi người thấy Thánh Tâm Chúa chứa đựng mọi kho tàng yêu mến, xót thương, ân sủng, thánh hóa và cứu độ, để những ai ao ước tận hiến cho Chúa, hết lòng làm vinh danh Chúa và làm cho nhiều người yêu mến Chúa, được tràn đầy mọi kho tàng thánh thiện mà Thánh Tâm Chúa là nguồn mạch. Chúa phải được tôn thờ dưới hình ảnh Thánh Tâm, và ảnh Thánh Tâm phải được trưng bày tôn kính cách đặc biệt, Chúa sẽ tuôn đổ tràn đầy thánh sủng và ân huệ. Việc tận hiến này là nỗ lực sau cùng của lòng yêu thương Chúa ban cho nhân loại trong thời đại sau cùng này để kéo nhân loại ra khỏi bạo quyền của Satan mà Chúa muốn tận diệt, và do đó đưa nhân loại vào cuộc sống tự do ngọt ngào của tình Chúa yêu thương ngự trị mà Chúa muốn bồi đắp trong tâm hồn những ai yêu mến việc tận hiến này."

Sơ lược về thánh Mary Margarette Alacoque:

Thánh Mary Margarette Alacoque sinh ngày 22 tháng 7 năm 1647 tại l'Hautecour, Burgundy, Pháp. Khi thánh nữ tám tuổi, cha của thánh nữ qua đời và gia đình gởi thánh nữ vào trường các nữ tu dòng thánh Clara Khó Nghèo tại Charolles. Thánh nữ bị bịnh đau khớp xương làm cho liệt suốt năm năm cho tới tuổi mười lăm. Thánh nữ sớm yêu mến Phép Thánh Thể. Thánh nữ từ chối hôn nhân và năm 1671 nhập nữ tu viện Thăm Viếng tại Paray le Monial và tuyên khấn một năm sau đó. Khi thánh nữ hai mươi tuổi, Chúa Giêsu bắt đầu hiện ra với thánh nữ. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1673 và liên tiếp một năm rưỡi, thánh nữ được Chúa mạc khải cho nhiều điều. Trong các mạc khải này Chúa cho thánh nữ biết thánh nữ được Chúa chọn làm dụng cụ truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa, chỉ dạy thánh nữ những điều liên quan đến việc Đền Tạ Thánh Tâm Chúa chín Thứ Sáu đầu tháng và Giờ Thánh, và yêu cầu Giáo Hội lập Lễ Thánh Tâm Chúa.  

Bị bề trên, Mẹ de Saumaise, từ chối khi theo đuổi các chỉ dẫn mà thánh nữ nhận được trong các thị kiến, sau cùng thánh nữ thuyết phục được Mẹ Bề Trên, nhưng không thuyết phục được nhóm các nhà thần học về tính cách xác thực của những lần Chúa hiện ra, cũng không đạt được sự tin tưởng của các chị em trong dòng. Thánh nữ được thánh Claud la Colombière, cha giải tội của nhà dòng trong một thời gian, ngài tuyên bố các lần Chúa hiện ra là đích thực. Năm 1683, việc chống đối chấm dứt khi Mẹ Melin được cử làm bề trên và cử thánh nữ Mary Margarette làm phụ tá. Về sau thánh nữ giữ chức giáo tập. Từ năm 1686, riêng nhà dòng bắt đầu mừng lễ Thánh Tâm Chúa. Hai năm sau một nguyện đường được xây dựng để tôn kính Thánh Tâm Chúa được xây dựng tại Paray le Monial. Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa đã sớm được thể hiện tại nhiều tu viện khác của dòng Thăm Viếng.

Thánh Mary Margarette Alacoque từ trần tại Paray le Monial ngày 17 tháng 10 năm 1690 và được phong hiển thánh năm 1920. Thánh Mary Margarette Alacoque, thánh Gioan Eudes, thánh Claud La Colombière được xưng tụng là "các thánh của Thánh Tâm Chúa". Năm 1675, Đức Thánh Cha Clement XIII chính thức nhìn nhận việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa trong Giáo Hội.

**

Xin coi mạc khải về Đền Tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ 5 thứ Bảy đầu tháng trong phần Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, và "Kết Hợp với Mẹ con cầu nguyện Kinh Mân Côi" do Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi góp nhặt.

17. Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha, năm 1917

Những thập niên cuối thế kỷ 19 và hai thập niên đầu thế kỷ 20 là thời kỳ đen tối và cũng đặc biệt nhất trong lịch sử quốc gia và dân tộc Bồ Đào Nha. Quốc gia này vốn theo thể chế quân chủ và hầu như toàn tòng Công Giáo, cho tới những năm 1890-1899 và thập kỷ đầu thế kỷ 20, Bồ Đào Nha là một quốc gia quân chủ và mộ đạo gắn liền với Giáo Hội Công Giáo. Thống kê nói vào thời gian này có lúc cứ 9 người thì 2 người là linh mục hoặc tu sĩ.

Từ những năm cuối thế kỷ 19, các lực lượng chống hoàng gia và giáo hội bắt đầu thành hình. Năm 1900, các lực lượng này kết hợp với nhau trong chủ trương "vị vua cuối cùng sẽ bị treo cổ cùng với ruột gan của vị linh mục cuối cùng." Năm 1908, vua Charles I và hoàng thái tử bị ám sát. Năm 1910 vua Manuel I trốn sang Anh Quốc, và chính thể cộng hòa cách mạnh cầm quyền. Chính quyền này theo chủ trương Marxist, vô thần, xã hội, tự do tư tưởng. Chính quyền mới đã cai trị dựa trên căn bản khủng bố tàn bạo và gây sợ hãi.

Thống kê cho thấy trong các năm 1911-1916, ít nhất 17 ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ bị giết, hoặc riêng rẽ hoặc tập thể. Đôi khi ruột gan và đầu của người bị giết bị treo vào cây sào đem riễu ngoài đường phố để khủng bố tinh thần các linh mục, tu sĩ, còn sót lại. Tất cả các thánh đường đều bị đóng cửa hoặc tiêu hủy. Không một ai dám đi dự Thánh Lễ, cả kinh Mân Côi cũng không dám cầu nguyện công khai. Ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh bị chà đạp giữa đường phố. Sự sợ hãi thống trị - và tôn giáo như đã chết. Trong khi đó Thế Chiến I, một trong những đại ác họa của nhân loại, xảy ra tại Âu Châu.

THIÊN THẦN DỌN ĐƯỜNG

Năm 1915, Lucia dos Santos, một cô bé mập mạp, 8 tuổi, thuộc xóm Aljustrel, giáo sứ Fatima, cùng với hai chị em cô Maria Rosa và Teresa Matias và cô Maria Justino thuộc xóm Velha, đang chăn cừu tại núi Cabeco. Ăn trưa xong, bốn cô đọc kinh Mân Côi theo truyền thống yêu mến Đức Mẹ tại miền Fatima. Chính lúc đó các cô thấy một bóng người trắng hơn tuyết bay là là trên ngọn cây trong thung lũng phía dưới chân các cô. Riêng Lucia thấy bóng dáng này ba lần, nhưng không biết là gì.

Đến năm 1916, bóng trắng này chính là thiên thần ba lần hiện ra với Lucia, và hai em họ là Jacinta và Francisco Marto. Lần thứ nhất khi ba chị em đang chăn cừu cho gia đình tại Chousa Velha. Thiên thần hiện ra với các em trong hang đá nơi các em ăn trưa và đọc kinh Mân Côi xong. Thiên thần nói với các em:

"Các bé đừng sợ. Tôi là Thiên Thần Hòa Bình. Mời các bé cầu nguyện chung với tôi."

Nói xong, thiên thần quì sấp mình tới khi trán chạm đất. Các bé cũng bắt chước thiên thần trong tư thế phủ phục đó. Khi đó thiên thần dâng lời nguyện:

"Lạy Thiên Chúa, con tin, con thờ lạy, con trông cậy, và con yêu mến Chúa. Con tha thiết xin Chúa tha thứ cho những kẻ không tin, không thờ lạy, không cậy trông, và không yêu mến Chúa."

Sau khi dâng ba lần lời nguyện này, thiên thần nói với các bé:

"Các bé hãy cầu nguyện như vậy. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria lắng nghe lời các bé cầu nguyện."

Thiên thần hiện ra lần thứ hai với các bé tại núi Cabeco, trên đường các bé dẫn đàn cừu về nhà khoảng 9 hoặc 10 giờ sáng vì trời quá nóng. Thiên thần hỏi:

"Các bé đang làm gì thế? Các bé hãy cầu nguyện, cầu nguyện thiệt nhiều! Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Maria yêu thương các bé. Các bé hãy liên tục dâng lời cầu nguyện và hy sinh lên Thiên Chúa Tối Cao."

Lucia hỏi:

"Làm cách nào chúng con dâng được các hy sinh?"

Thiên thần đáp:

"Các bé hy sinh trong bất cứ điều gì có thể, và dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tạ vì tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và làm của lễ cầu xin cho người tội lỗi ăn năn trở lại. Bằng cách này, các bé xin được hòa bình cho quê hương các bé. Tôi là Thiên Thần bảo vệ, Thiên Thần của nước Bồ Đào Nha. Trên hết, các bé hãy tiếp nhận và vâng chịu những đau khổ Chúa sẽ gởi đến cho các bé."

Thiên thần hiện ra lần thứ ba vào mùa thu năm 1916. Cũng chính tại hốc đá núi Cabeco, ba chị em mục tử đọc kinh Mân Côi và lời cầu nguyện Thiên Thần dạy xong. Thiên thần hiện ra, trong tay cầm Chén Thánh, và trên Chén Thánh, Thiên Thần cầm Bánh Thánh. Từ Bánh Thánh những Giọt Máu chảy vào trong Chén Thánh. Để Chén Thánh và Bánh Thánh trên không trung, Thiên Thần quì sấp mình xuống đất, đọc ba lần lời cầu nguyện sau đây:

"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, con thờ lạy Chúa thẳm sâu và dâng lên Chúa Thân Xác, Máu và Linh Hồn Cực Châu Báu và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô, hiện diện trong các Nhà Chầu trên khắp thế giới, để đền tạ những tội xúc phạm, những tội bất kính và hững hờ chính Chúa Giêsu Kitô phải chịu. Nhờ công nghiệp vô cùng Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và công nghiệp vô cùng Đức Maria, con nài xin Chúa thánh hóa các người tội lỗi khốn nạn."

Thiên Thần đứng dậy, cầm Chén Thánh và Bánh Thánh, đặt Bánh Thánh vào lưỡi Lucia. Thiên Thần cho Jacinta và Francisco uống Máu Thánh. Khi phân phát Mình và Máu Thánh Chúa cho ba bé, Thiên Thần nói:

"Các em hãy ăn Mình và uống Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô bị loài người xúc phạm kinh khủng. Các bé hãy làm việc đền tạ vì tội lỗi nhân loại và an ủi Thiên Chúa của các bé."

Thiên Thần lại sấp mình xuống đất đọc chung với các bé ba lần lời nguyện: "Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh ..." Sau đó Thiên Thần biến đi.

ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ NHẤT

Chúa Nhật, 13 tháng 5, 1917, sau khi đọc kinh Mân Côi, ba chị em Lucia, Jacinta và Francisco, đang chơi vui ở sườn đồi Cova da Iria, Fatima, bất chợp các bé thấy làn ánh sáng lạ như chớp. Ba chị em bàn nhau gom cừu định dẫn về vì sợ bão. Khi gần tới cây sồi lớn, các bé thấy một làn chớp sáng hơn nữa từ cây sồi phát ra. Lucia, Jacinta và Francisco dừng chân nhìn lên và thấy một Vị Phụ Nữ xinh đẹp đứng trên đỉnh cây sồi. Người nói:

"Các con đừng sợ. Mẹ không làm hại các con đâu."

Các bé lặng lẽ ngây ngất chiêm ngưỡng Đấng Hiện Ra.

Sau một lúc chiêm ngưỡng say sưa, Lucia mạnh dạn hỏi:

"Thưa Bà, Bà từ đâu tới?"

Vị Phụ Nữ từ ái trả lời:

"Mẹ từ thiên đàng đến."

Cô bé hỏi tiếp:

"Và Bà muốn chúng con làm gì?"

Người đáp:

"Mẹ đến xin cả ba các con đến đây sáu tháng liên tiếp, vào ngày 13 mỗi tháng, cũng giờ này. Khi đó Mẹ sẽ cho các con biết Mẹ là Ai, và Mẹ muốn điều gì. Sau đó Mẹ sẽ trở lại đây lần thứ bảy."

Được khích lệ, Lucia hỏi thêm:

"Con có được lên thiên đàng không?"

"Có, con sẽ được lên thiên đàng."

"Còn Jacinta?"

"Có."

"Còn Francisco?"

"Nó cũng được lên thiên đàng, nhưng nó phải đọc rất nhiều kinh Mân Côi."

Lucia hỏi về người bạn mới qua đời:

"Chị Maria das Neves có ở trên thiên đàng không?"

"Có."

"Còn Amelia?"

"Cô đó sẽ phải ở luyện ngục cho tới tận thế."

Sau khi trả lời các câu hỏi của Lucia, Đức Mẹ đưa ra lời yêu cầu quan trọng:

"Các con có vui lòng tận hiến cho Thiên Chúa và chịu các đau khổ Chúa muốn gởi đến cho các con, để đền tạ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và van xin cho các kẻ tội lỗi ăn năn trở lại không?"  

Lucia thấy lời yêu cầu này tương tự lời yêu cầu của Thiên Thần lúc trước, và tin rằng hai em họ cũng đồng ý, cô đáp:

"Thưa Bà, chúng con vui lòng."

Các bé xúc động, và quì xuống sốt sắng dâng lời nguyện thiên thần dạy:

"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, con thờ lạy Chúa. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa trong Phép Thánh Thể."

Lúc sau, Đức Mẹ nói:

"Các con hãy đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin hòa bình và chấm dứt chiến tranh."

Tới đây Đức Mẹ biến đi.

ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ HAI

Ngày 13 tháng 6, 1917, Lucia, Jacinta và Francisco không dẫn đàn cừu đi chăn, mà lên đồi Cova da Iria với nhiều người đi theo. Mọi người đọc kinh Mân Côi, nhưng lâu quá không thấy Đức Mẹ tới. Mọi người chia trí, các bé cũng đứng lên một lúc. Lucia lại yêu cầu mọi người cầu nguyện kinh Mân Côi, khi người ta muốn đọc kinh cầu, Lucia nói: "không đủ giờ đọc kinh cầu đâu." Ngay sau đó Lucia mừng rỡ reo lên: "Jacinta à, kìa Đức Mẹ tới ! Tia sáng vừa mới lóe lên." Lập tức người ta thấy ba bé trong tình trạng xuất thần.

Sau một lúc im lặng chiêm ngưỡng, Lucia hỏi:

"Thưa Bà, Bà muốn con làm gì?"

Đức Mẹ nói:

"Mẹ muốn các con đến đây ngày 13 tháng tới, và Mẹ muốn các con đọc kinh Mân Côi hàng ngày."

Sau đó Đức Mẹ vui vẻ nói:

"Mẹ muốn các con học chữ. Rồi Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ muốn gì."

Nhớ đến những ơn người ta nhờ Lucia chuyển lên Đức Mẹ, cô nói:

"Có một người tật nguyền xin Đức Mẹ chữa anh ta."

Đức Mẹ đáp:

"Con hãy nói cho anh ấy biết nếu anh ta ăn năn thống hối, anh ta sẽ được chữa lành trong vòng một năm."

Lucia sung sướng vì được Đức Mẹ nhận lời, đã xin:

"Con muốn xin Đức Mẹ đưa chúng con về thiên đàng."

Đức Mẹ trả lời:

"Được, chẳng bao lâu nữa Mẹ sẽ đưa Jacinta và Francisco về thiên đàng, nhưng con phải ở lại thế gian lâu hơn. Chúa Giêsu muốn dùng con làm cho thế giới biết và kính yêu Mẹ. Chúa Giêsu muốn thiết lập trên khắp thế giới việc kính yêu Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Mẹ hứa ban ơn rỗi linh hồn. Những linh hồn này sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng Thánh Ngai Thiên Chúa."

"Con sẽ phải ở lại thế gian lâu hơn" như lưỡi kiếm xuyên thấu trái tim thơ ngây của Lucia.

Cô bé hỏi: 

"Con phải ở lại thế gian này một mình sao?"

Đức Mẹ trả lời:

"Không, con à. Có phải điều này làm cho con đau khổ lắm không? Con đừng nản lòng. Mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con đâu. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ là nơi con náu ẩn và là đường đưa con tới Thiên Chúa."

Khi nói lời này, Đức Mẹ mở rộng hai bàn tay và ánh sáng từ bàn tay Đức Mẹ tỏa ra bao bọc các bé.

Mải mê chiêm ngưỡng Đức Mẹ, các bé thấy Người đưa chuỗi tràng hạt ra như thể nài nỉ các bé nhận và ấp xâu chuỗi vào trái tim. Kế đó các bé bị thu hút bởi Trái Tim bị những mũi gai lớn đâm thấu mọi phía. Các bé hiểu rằng đang chiêm ngưỡng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bị xúc phạm vì tội lỗi loài người, và Trái Tim này mong được đền tạ.

Đến đây, Đức Mẹ biến đi. Lucia kêu lên: "Nhìn kìa, Nếu các ông bà muốn thấy Đức Mẹ. Người ra đi kia kìa! Đức Mẹ đi kia kìa!"

ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ BA

HỎA NGỤC, CHIẾN TRANH VÀ TRÁI TIM VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI MẸ MARIA

Ngày 13 tháng 7, 1917, Lucia, Jacinta và Francisco có rất nhiều người cùng đi lên đồi Cova da Iria. Tới nơi, Lucia xướng và mọi người đáp kinh Mân Côi. Đọc kinh xong, Lucia đứng lên, nhìn về hướng đông, từ đó Đức Mẹ thường đi tới. Lập tức Lucia la lên bảo mọi người đang dùng dù che nắng giữa trưa: "Xin các ông bà gấp dù lại! Các ông bà hãy gấp dù lại! Đức Mẹ đã tới rồi đó!"

Các bé vui sướng chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Lúc sau, Lucia hỏi Đức Mẹ:

"Thưa Đức Mẹ, hôm nay Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"

"Mẹ muốn các con trở lại đây ngày 13 tháng tới và tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng này dâng kính Đức Mẹ Mân Côi, để xin được hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ một mình Mẹ mới cứu giúp được các con."

Lucia nói tiếp:

"Thưa Bà, con muốn xin Bà cho chúng con biết Bà là Ai. Và xin Bà làm phép lạ để mọi nguời tin Bà đã hiện ra với chúng con."

Vắn tắt Đức Mẹ loan báo quyết định của Người:

"Các con hãy tiếp tục đến đây mỗi tháng. Đến tháng 10, Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ là Ai và Mẹ muốn gì. Và Mẹ sẽ làm một phép lạ mọi người đều thấy và phải tin."

Lucia xin Đức Mẹ chữa lành một số người, và Đức Mẹ hứa chữa cho một số nếu những người đó đọc kinh Mân Côi.

Sau đó Đức Mẹ nói:

"Các con hãy hy sinh bản thân các con cho các kẻ tội lỗi, và năng nhắc lại, nhất là sau mỗi lần các con làm việc hy sinh cho kẻ tội lỗi: 'Lạy Chúa Giêsu, chính vì lòng yêu mến Chúa, xin cho các kẻ tội lỗi ăn năn thống hối, và để đền tạ những tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria'."

Khi nói những lời này, Đức Mẹ mở rộng hai bàn tay như dáng điệu của linh mục khi chúc: "Chúa ở cùng anh chị em" trong Thánh Lễ. Lập tức Lucia kêu lên kinh sợ. Chỉ những người ở gần các bé nhất nghe được tiếng kêu này. Nhưng tất cả những người có thể nhìn được mặt các bé đều thấy rõ thình lình sắc diện các bé biểu lộ vẻ kinh hoàng và đau khổ. Vì khi Đức Mẹ mở hai bàn tay ra, những tia sáng phản chiếu từ tay Đức Mẹ như xuyên qua trái đất, và hỏa ngục mở ra trước cặp mắt kinh hoàng của các bé. Rúng động toàn thân, các bé ngước mắt lên cầu khẩn. Bằng giọng hết sức nhân từ xót thương Đức Mẹ nói:

"Các con đã nhìn thấy hỏa ngục, nơi linh hồn những kẻ tội lỗi phải tới. Để cứu các linh hồn đó, Thiên Chúa muốn thiết lập khắp thế giới việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

“Nếu nhân loại thi hành điều Mẹ dạy, nhiều linh hồn sẽ được cứu vớt và sẽ có hòa bình.

"Chiến tranh này sắp chấm dứt, nhưng nếu loài người không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một chiến tranh khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong triều đại Đức Thánh Cha Piô XI. Khi nào các con thấy một đêm bừng sáng do làn ánh sáng lạ, các con biết đó là dấu Thiên Chúa cho biết Người sắp phạt thế giới vì tội ác của nhân loại bằng chiến tranh, đói khát, bắt bớ Giáo Hội và Đức Thánh Cha.

"Để ngăn cản điều này, Mẹ đến yêu cầu dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và rước Lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng.

"Nếu người ta tuân theo những lời Mẹ yêu cầu, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc tai ương khắp thế giới, xúi giục chiến tranh, đàn áp Giáo Hội, những người lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị xóa trên bản đồ.

"Sau cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ vinh thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng nước Nga cho Mẹ và nước đó sẽ trở lại, và một thời gian hòa bình sẽ được ban cho thế giới.  

"Ở Bồ Đào Nha, đức tin sẽ mãi mãi được duy trì."  

Vì những lý do không tiết lộ, Đức Mẹ muốn thị kiến về hỏa ngục và lời tiên tri khủng khiếp về tai họa của thế giới phải được giữ kín. Đức Mẹ bảo các bé:

"Các con đừng nói điều này với bất cứ ai. Tuy nhiên các con có thế nói cho Francisco biết" (Francisco được thấy Đức Mẹ, nhưng không nghe được các lời Đức Mẹ nói).

Ngưng một lúc, Đức Mẹ nói tiếp:

"Khi các con đọc kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm, các con hãy dâng lời nguyện:

'Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi hỏa ngục, xin hướng dẫn mọi linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn'." 

ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ BỐN

KHÔNG VÀO NGÀY 13 THÁNG 8, MÀ 18 THÁNG 8, 1917

Ngày 13 tháng 8, 1917, khu đồi Cova da Ira đông đầy người chờ đợi các bé được thị kiến đến đón Đức Mẹ hiện ra. Nhưng đã quá trưa không thấy bóng dáng các bé đâu, mọi người nóng lòng trao đổi những nghi vấn về việc xảy ra cho các bé. Các bé không đến Cova da Iria được vì bị viên thị trưởng xí gạt bắt cóc đem đi mất. Tại tòa thị chính, các em bị phỉnh gạt, hăm dọa bỏ vào chảo dầu sôi, nạt nộ đủ cách, bị nhốt qua đêm trong nhà giam cùng với các phạm nhân, nhưng rồi sau cùng, viên thị trưởng vốn là người vô thần chịu đầu hàng và ngày hôm sau tha các em.

Bốn ngày sau khi các em được trở về, ngày 18 tháng 8, 1917, lúc khoảng 4 giờ chiều, người ta thấy nhiệt độ thình lình giảm xuống, đồng thời mặt trời nhuộm cả vùng quê và mọi vật bằng nhiều mầu sắc khác nhau như đã xảy ra tại Cova da Iria hôm 13 tháng này. Đức Mẹ hiện ra với các em trên cây sồi tại Os Valinhos, một đồng cỏ ỡ giữa Aljustrel và Núi Cabeco.  

Sau khi ngây ngất vì những yêu kiều diễm lệ của Đức Mẹ, Lucia hỏi:

"Thưa Đức Mẹ, Đức Mẹ muốn con làm gì?"

Đức Mẹ đáp:

"Mẹ muốn các con tiếp tục đến Cova da Iria ngày 13 mỗi tháng và tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Đến tháng chót, Mẹ sẽ làm phép lạ để mọi người phải tin. Tiếc thay, nếu người ta không đem các con tới thị trấn, hẳn phép lạ còn vĩ đại hơn."

Đức Mẹ chấm dứt phần thông điệp bằng giọng vui vẻ nói:

"Chúa Hài Đồng Giêsu sẽ cùng với thánh Giuse đến ban phép lành cho thế giới, và Thiên Chúa sẽ ban hòa bình cho thế giới."

Lúc đó Lucia nhớ bà Maria Cerreira đã bảo cô hỏi Đức Mẹ về số tiền người ta dâng cúng mà bà đang giữ, cô bé hỏi:

"Phải làm gì với số tiền người ta để lại dâng cúng tại Cova da Iria?"

Đức Mẹ đáp:

"Sẽ làm hai chiếc kiệu mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Con và Jacinta với hai cô gái khác, mặc áo trắng, khiêng một kiệu, Francisco và ba bé trai khác khiêng chiếc kia. Số tiền trên hai chiếc kiệu đó sẽ phải dùng để mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi."

Lucia dâng lên lời cầu khẩn người ta nhờ bé chuyển lên Đức Mẹ:

"Nhiều người bệnh hoạn nhờ con xin Đức Mẹ chữa họ."

"Được, Mẹ sẽ chữa lành một số người trong vòng một năm."

Đức Mẹ nói tiếp mà nét mặt Người rất buồn:

"Các con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện thiệt nhiều, và các con hãy dâng hy sinh cho các kẻ tội lỗi, nhiều linh hồn sa hỏa ngục chỉ vì không có ai dâng hy sinh và cầu nguyện cho."

ĐỨC MẸ HIỆN RA NGÀY 13 THÁNG 9, 1917

Có tới ba mươi ngàn người từ rất xa đến cùng với những người ở gần, ở địa phương, đón Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria ngày 13 tháng 9, 1917. Trong số này không thiếu những nhân viên chìm của chính quyền, và người vô thần. Giáo quyền cũng quan tâm theo dõi.

Giờ ngọ (12 giờ trưa) điểm, mặt trời trong vắt chói chang trên nền trời. Tiếng chuông báo kinh Truyền Tin vọng lên từ tháp chuông thánh đường Anthony. Mọi người theo dõi, mặt trời dịu dần, mờ đi tới độ nhìn thấy những ngôi sao. Bất chợt Lucia ngưng đọc kinh, mặt rạng rỡ, cô reo lên: "Kìa, Đức Mẹ đó! Tôi thấy Đức Mẹ!"

Nhiều người nhìn thấy bầu ánh sáng trắng di chuyển từ hướng Đông đi tới và ngưng lại trên cây sồi.

Trong khi mọi người chứng kiến những thay đổi ánh sáng của mặt trời, các em đắm chìm trong thị kiến Đức Mẹ. Sau một lúc chiêm ngắm, Lucia hỏi:

"Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"

Đức Mẹ đáp:

"Các con hãy tiếp tục cầu nguyện kinh Mân Côi để xin chấm dứt chiến tranh. Đến tháng 10, Thiên Chúa sẽ hiện ra, Đức Mẹ Bảy Sự (Đức Mẹ Sầu Bi) và Đức Mẹ Núi Carmel cũng sẽ hiện ra. Thánh Giuse cùng với Chúa Hài Đồng sẽ đến ban phép lành cho thế giới."

Đến đây Đức Mẹ ngưng nói, nét mặt bớt uy nghiêm và bằng giọng hết sức dịu dàng, Đức Mẹ nói tiếp:

"Thiên Chúa hài lòng với những hy sinh các con dâng, nhưng Chúa không muốn các con ngủ với thắt lưng vải đó. Các con chỉ mang thắt lưng đó ban ngày thôi."

(Ba em tự sáng chế và mang thắt lưng bằng vải cứng đâm vào da để dâng hy sinh cầu nguyện cho kẻ tội lỗi như Đức Mẹ dạy các em).

Kế đó, Lucia nói với Đức Mẹ:

"Người ta nhờ con xin Đức Mẹ nhiều điều, một người câm điếc xin được chữa lành, những ơn xin ăn năn thống hối ... và những ơn xin chữa lành mọi thứ bệnh tật."

Đức Mẹ trả lời:

"Mẹ sẽ chữa một số, nhưng không phải tất cả, trong vòng một năm."

Nhớ lại lời bà Maria Carreira và một số người ngoan đạo khác mong muốn một nhà nguyện được kiến thiết ngay tại chính nơi Đức Mẹ hiện ra, và nhờ Lucia hỏi Đức Mẹ có cho phép dùng một phần tiền dâng cúng tại Cova da Iria vào mục đích này không. Lucia hỏi:

"Đức Mẹ có muốn một nhà nguyện nhỏ được kiến thiết tại chính nơi này với số tiền người ta để lại dâng cúng không?"

Đức Mẹ đáp:

"Có, Mẹ muốn một nhà nguyện nhỏ được xây cất ngay tại chỗ này để dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Nhưng con nói với người ta chỉ dùng một nửa số tiền vào việc xây nhà nguyện thôi. Nửa số tiền con lại sẽ dùng vào việc tôn kính và mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Hai cỗ kiệu được mua bằng số tiền dâng cúng, phần còn lại được khiêng trên hai kiệu tới nhà thờ giáo xứ trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi. Con và Jacinta với hai bé gái khác kiệu một cỗ; Francisco và ba bé trai khác khiêng chiếc kia."

Đức Mẹ biến đi sau khi hứa ban phép lạ cả thể vào ngày 13 tháng 10, 1917.

ĐỨC MẸ HIỆN RA NGÀY 13 THÁNG 10, 1917

PHÉP LẠ MẶT TRỜI VŨ

Ngày 13 tháng 10, 1917, trời mưa như trút, nhưng người ta đoàn đoàn lũ lũ từ muôn phương xa xôi đã bằng mọi phương tiện đến Cova da Iria, nhiều người đến từ hôm trước. Lucia, Jacinta và Francisco phải được nhiều người lớn hộ tống mới đến được nơi cây sồi. Quá giờ ngọ (giờ chính quyền), nhưng chưa thấy dấu hiệu Đức Mẹ hiện ra, nhiều người trong đó có cả một linh mục, vốn hoài nghi, cố lôi các em ra khỏi chỗ các em đang chờ đón Đức Mẹ. Lucia và hai em kiên trì, cưỡng lại mọi sức xô đẩy.

Chỉ ít phút sau đó, Lucia ngẩng đầu lên để tiếng nói vọng đi xa: "Xin im lặng! Xin mọi người im lặng! Đức Mẹ đang đến! Chúng tôi vừa mới thấy làn chớp sáng của Người." Bây giờ mới đúng là giờ ngọ theo mặt trời.

Lucia, Jacinta và Francisco, lúc này hoàn toàn đắm mình trong Đức Mẹ sáng chói, hôm nay Đức Mẹ rực rỡ hơn những lần trước. Đức Mẹ sáng chói đến độ những tia sáng từ Đức Mẹ tỏa ra, dù không làm hư mắt các bé, cũng khiến các bé hấp háy lim dim mắt. Ngoại trừ ánh sáng rực rỡ hơn, Đức Mẹ vẫn y hệt những lần hiện ra trước. Đức Mẹ cũng mặc chiếc áo ánh sáng trắng đó, tay Người cũng chắp lại và xâu chuỗi đeo giữa hai bàn tay vòng qua lưng bàn tay phải, vẻ diễm kiều của Người vẫn y như vậy. Lucia quá ngây ngất quên cả nói, Jacinta thúc cùi chỏ (khuỷu tay) vào Lucia và nói: "Lucia, chị nói với Đức Mẹ đi chứ! Đức Mẹ đang chờ đợi đó!"

Bừng tỉnh, Lucia nói với Vị Khách từ thiên đàng:

"Thưa Đức Mẹ, Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"

Đức Mẹ nói:

"Mẹ muốn một nhà nguyện được xây cất tại chính chỗ này để dâng kính ĐỨC MẸ MÂN CÔI. Các con hãy tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Chiến tranh này sắp chấm dứt và các binh sĩ sẽ hồi hương."

Vì Đức Mẹ đã hứa hôm nay Người sẽ cho biết Người là Ai, Lucia hỏi:

"Xin Bà vui lòng cho chúng con biết tên của Bà."

Đức Mẹ trả lời:

"Mẹ là ĐỨC MẸ MÂN CÔI."

Nhớ đến vô số lời khấn nguyện người ta nhờ cô dâng lên, Lucia nói:

"Con có nhiều ơn muốn xin, nhiều người xin ơn lành bệnh và thống hối ăn năn."

Đức Mẹ trả lời:

"Mẹ sẽ ban một số ơn xin, nhưng không phải tất cả. Những người đó phải cải đổi đời sống và xin tha thứ tội lỗi của họ."

Rồi với nét mặt hết sức buồn sầu làm các bé xúc động, Đức Mẹ nói thêm:

"Người ta không được xúc phạm đến Thiên Chúa thêm nữa, vì Thiên Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều rồi."

Sau khi nói lời cuối cùng này, Đức Mẹ ra đi, quay mình lướt lên từ từ về hướng đông. Lucia nhìn mặt trời và lớn tiếng kêu: "Hãy nhìn mặt trời kìa!" Phép lạ vĩ đại mặt trời vũ bắt đầu.

  ***

Sơ lược về Lucia, Jacinta và Francisco sau ngày Đức Mẹ hiện ra.

Khi hiện ra lần thứ nhất, ngày 13 tháng 5 năm 1917, Đức Mẹ hứa sớm đưa Francisco và Jacinta về thiên đàng, Lucia còn phải ở lại để truyền bá việc yêu mến đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

* Ngày 4 tháng 4 năm 1919, Francisco được Mẹ Maria đưa về thiên đàng qua bệnh phổi.

* Ngày 20 tháng 2 năm 1920, Mẹ đưa Jacinta về thiên đàng cũng qua bệnh phổi.

* Ngày 16 tháng 6 năm 1921, chị Lucia vào nội trú tại nhà dòng các nữ tu dòng thánh Dorothy tại Aliso de Villa. Ngày 2 tháng 10 năm 1925, chị vào nhà tập lấy tên là Irma Maria des Dores (chị Maria Đức Mẹ Sầu Bi). Chị khấn trọn đời ngày 3 tháng 10 năm 1934, và hiện nay (1999) chị vẫn còn sống.

***

Các đoàn hành hương ngày càng đông, và các phép lạ ngày càng nhiều. Ngày 26 tháng 6, 1927, đức giám mục José Correira da Silva chính thức tới thăm Fatima. Ngày 13 tháng 10, 1930, trước hơn một trăm ngàn người hiện diện, đức giám mục đọc văn kiện cảm động kết thúc bằng lời tuyên bố:

"Chúng tôi cho rằng đúng:

1.- Tuyên bố xứng đáng tin tưởng những thị kiến các bé mục tử được thấy tại Cova da Iria, giáo xứ Fatima, thuộc giáo phận chúng tôi, vào những ngày 13 các tháng từ tháng 5 đến tháng 10, năm 1917.

2. Chính thức cho phép việc tôn kính Đức Mẹ tại Fatima.

José, Giám Mục Leiria

Leiria, ngày 13 tháng 10, 1930

ĐỀN TẠ TRÁI TIM MẸ CÁC THỨ BẢY ĐẦU THÁNG và DÂNG HIẾN NƯỚC NGA

Để bổ túc thông điệp về "Rước Lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng", ngày 10 tháng 12 năm 1925, Mẹ Maria và Chúa Hài Đồng hiện ra với chị Lucia tại nhà dòng ở thành phố TUY, Tây Ban Nha. Đức Mẹ cho chị Lucia thấy Trái Tim Mẹ, và Chúa Hài Đồng buồn rầu nói:

"Con hãy xót thương Trái Tim rất hiền dịu này liên tiếp chịu tử đạo vì sự bội bạc của loài người mà chẳng có ai an ủi bằng việc đền tạ."

Kế đó, Đức Mẹ ban thông điệp chính yếu này:

"Này con của Mẹ, con hãy nhìn Trái Tim Mẹ bị gai nhọn vây quanh, loài người đâm những gai nhọn này vào Trái Tim Mẹ mỗi lần người ta lộng ngôn và bội bạc.

"Ít nhất, con hãy cố gắng an ủi Mẹ. Mẹ hứa ban ơn cứu rỗi, giúp đỡ cần thiết trong giờ cuối cùng của cuộc đời, cho những ai thành tâm đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ bằng cách XƯNG TỘI, RƯỚC MÌNH THÁNH CHÚA, CẦU NGUYỆN NĂM CHỤC KINH MÂN CÔI VÀ CÙNG VỚI MẸ SUY GẪM MƯỜI LĂM MẦU NHIỆM MÂN CÔI TRONG MƯỜI LĂM PHÚT, NĂM THỨ BẢY ĐẦU THÁNG LIÊN TIẾP."

Trong một tài liệu đề ngày 21 tháng 9, 1939, đức giám mục giáo phận Leiria giải thích một số điểm về việc đền tạ Trái Tim Mẹ Maria như sau:

"Việc xưng tội có thể được thực hiện trong vòng 8 ngày trước ngày thứ Bảy đầu mỗi tháng, miễn là rước Lễ trong tình trạng có ân nghĩa với Chúa. Nếu một người quên lập tâm đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Maria, thì việc lập tâm có thể được lập vào lần xưng tội kế tiếp.

"Việc suy gẫm gồm một hoặc nhiều mầu nhiệm; việc này hiển nhiên bao gồm hết cả mười lăm mầu nhiệm hoặc riêng rẽ từng mầu nhiệm một, tùy theo cá nhân ưa thích hoặc lòng tận hiến; TUY NHIÊN MỖI THÁNG SUY GẪM MỘT MẦU NHIỆM THÌ TỐT HƠN."

Ngày 10 tháng 12, 1929, Đức Mẹ ban cho chị Lucia đầy đủ thông điệp về việc dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ khi chị đang quì chầu Thánh Thể lúc nửa đêm. Đức Mẹ nói:

"Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha kết hợp với toàn thể các giám mục khắp thế giới thi hành việc dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Thiên Chúa sẽ cứu nước đó bằng cách này."

Việc này đã được các Đức Thánh Cha Piô XII, Phaolô VI thi hành nhưng không đạt điều kiện được yêu cầu.

Nước Nga và thế giới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 13 tháng 5, 1982. Ròng rã một năm trời, Đức Gioan Phaolô II đã chuẩn bị mọi việc nhất là gởi thơ kêu gọi các giám mục toàn cầu kết hợp với Đức Thánh Cha trong việc dâng hiến này dịp Ngài tới Fatima cảm tạ Đức Mẹ đã duy trì mạng sống của Ngài. Lần này được coi là toàn thể các giám mục khắp thế giới, theo tỉ lệ tối đa, hợp ý với Đức Thánh Cha trong việc dâng hiến này. Và chỉ một số năm sau nước Nga và khối Đông Âu đã trở lại như lời Đức Mẹ hứa.

18. Mẹ hiện ra tại Beauraing, Belgique, năm 1932-1933

Thôn Beauraing, thuộc miền Ardennes, cách thị trấn Namur 48 cây số về phía nam, cách biên giới Pháp-Bỉ 9 cây số về phía đông. Năm 1932, Beauraing là một thôn nhỏ ít ai biết và cũng không có tên trên nhiều bản đồ.

Khoảng 6g30 chiều ngày 29 tháng 11, 1932, Fernande và Albert Voisin, có 2 người con gái của ông bà Degeimbre cùng đi, đến đón em là Gilberte Voisin ở trường các Nữ Tu dòng Christian Doctrine. Gần cổng trường có hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Trong khi chờ đợi Gilberte từ tu viện đi ra, Albert Voisin tình cờ nhìn về phía hang đá Đức Mẹ, cậu thấy thứ gì sáng mờ mờ. Cậu có vẻ sợ hãi. Kế đến cả ba cô kia cũng nhìn thấy bóng sáng đó. Khi Gilberte Voisin từ trong tu viện đi ra, cô bé cũng nhìn thấy hiện tượng đó. Các cô cậu thôi không nhìn vào bóng sáng nữa mà ra về.

Ngày hôm sau, 30 tháng 11, 1932, các cô cậu lại thấy hiện tượng bóng sáng hôm trước tại đài Đức Mẹ. Ngày 1 tháng 12, 1832, cũng vậy. Hôm nay các cô cậu nói cho bà Degeimbre biết về bóng sáng các cô cậu nhìn thấy ở đài Đức Mẹ. Bà Degeimbre cùng với một vài người bà con và lối xóm đi đến nơi xem thế nào. Các bà đi cùng với Albert, Fernande Voisin và Andrée Degeimbre.

Tới nơi, Fernande, Albert Voisin và Andrée Degeimbre thấy Vị Phụ Nữ hiện ra, cả ba cô cậu lập tức quì gối đọc kinh Kính Mừng Maria. Bà Degeimbre và các người lớn khác không nhìn thấy gì. Vì nóng lòng muốn tìm hiểu, bà Degeimbre bước tới gần hang đá. Andrée Degeimbre, con gái bà, la lên:

"Má! Má đừng bước thêm bước nào nữa! Má đứng ngay vào chỗ Đức Mẹ đứng đó!"

Đức Mẹ biến đi.

Chiều thứ Sáu, 2-12-1932, ông bố của Gilberte Voisin đến đón cô. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, cả năm cô cậu và một nhóm người lớn trở lại hang đá Đức Mẹ. Vừa mới tới nơi lập tức các cô cậu cùng có cảm giác ngây ngất, xuất thần, quì xuống và lớn tiếng đọc kinh "Kính Mừng Maria" khiến các người lớn ngạc nhiên.

Những lần trước, các cô cậu chỉ thấy bóng dáng khuôn mặt người ta, nhưng lần này các cô cậu thấy một "Vị Phụ Nữ đẹp". Sau khi đọc kinh "Kính Mừng", Albert Voisin bất chợt hỏi:

"Thưa Bà, Bà có phải là Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội không?"

Vị Phụ Nữ gật đầu xác nhận.

Albert lại hỏi:

"Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"

Đức Mẹ đáp:

"Mẹ muốn các con tốt lành."

Tới đây Đức Mẹ biến đi.

Lối 9 giờ tối, các em trở lại hang đá Đức Mẹ, lần này những người lớn đi theo đông hơn. Lần này (lần thứ hai trong ngày) cũng xảy ra như lần trước, nhưng khác là riêng Andrée Degeimbre  được Đức Mẹ bảo phải "tốt lành."

Chúa Nhật, 4-12-1932, cả năm cô cậu trở lại hang đá Đức Mẹ, có nhiều người lớn đi theo. Trong số này có một lão bà khiếm thị, và một thiếu niên khập khiễng cũng trạc tuổi các em. Khi Đức Mẹ hiện ra, Albert xin Đức Mẹ chữa hai người đó. Rồi không chờ kết quả lời xin Đức Mẹ chữa hai người, cậu hỏi tiếp:

"Ngày nào chúng con phải tới?"

Đức Mẹ đáp:

"Ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội."

Đến đây Andrée Degeimbre, lớn nhất trong 5 cô cậu, hỏi:

"Chúng con có phải xin xây nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ không?"

Đức Mẹ đáp:

"Có."

Đức Mẹ biến đi.

Thứ Hai, 5 tháng 12, 1932, khi Đức Mẹ hiện ra, Albert Voisin xin Đức Mẹ làm phép lạ, nhưng Đức Mẹ không đáp. Khi cậu lặp lại lời xin và không được trả lời, cậu khóc. Nhưng khi cậu hỏi:

"Bao giờ chúng con lại tới đây?"

Đức Mẹ đáp:

"Tối nay."

Tối ngày 5 tháng 12, 1932, Đức Mẹ lại hiện ra như đã hứa. Ngày thứ Ba, 6 tháng 12, 1932, Đức Mẹ cũng hiện ra hai lần, nhắc lại lời yêu cầu các bé trở lại vào ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, thứ Năm, 8 tháng 12, 1932.

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 1932, rất đông người đã chờ sẵn tại hang đá Đức Mẹ khi năm thiếu niên được thị kiến tới nơi. Cả phóng viên báo chí cũng chờ sẵn. Qua báo chí, tin Đức Mẹ hiện ra tại Beauraing đã mau chóng phổ biến khắp nước Bỉ. Người ta từ khắp nơi trong nước bắt đầu đến Beauraing. Các em được thị kiến và hai gia đình bị báo giới và những người hiếu kỳ vây quanh để phỏng vấn, tìm hiểu. Khi đáp lời phỏng vấn, Fernande và Albert Voisin một đôi lần nói Đấng Hiện Ra là Đức Trinh Nữ.

Ngày 8 tháng 12, 1832, ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, có tới mười ngàn người đến nơi Đức Mẹ hiện ra gần cổng nhà dòng tại Beauring. Hôm nay Đức Mẹ đến sớm hơn, ở lại lâu hơn, và rực rỡ hơn. Một phái đoàn y khoa, do bác sĩ Maistriaux hướng dẫn, đã thí nghiệm thể lý các em được thị kiến khi Đức Mẹ hiện ra và các em trong tình trạng xuất thần. Cây quẹt đỏ lửa châm vào lòng bàn tay, nhéo thật mạnh, cả đến đâm mũi nhọn vào má, nhưng các em không phản ứng gì. Khi thị kiến chấm dứt, các bác sĩ khám nghiệm các em thì những chỗ trên bàn tay bị đốt, chỗ má bị đâm, không còn dấu vết gì.

Ngày 17 tháng 12, 1932, các em được thị kiến lại nói chuyện với Đức Mẹ, các em đồng thanh hỏi:

"Theo lời các linh mục, chúng con xin Đức Mẹ cho chúng con biết Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"

Người ta nghe các em đồng thanh đáp:

"Vâng, chúng con sẽ xin xây nhà nguyện tại đây."

Ngày 23 tháng 12, 1932, khi trả lời câu hỏi chi tiết về linh địa, Đức Mẹ đáp:

"Để mọi người tới hành hương."

Ngày Áp Lễ Giáng Sinh, có ít nhất sáu ngàn người đến hang đá Đức Mẹ. Lần này các em xin Đức Mẹ làm phép lạ chữa lành những người bệnh tật hiện diện. Nhưng hình như Đức Mẹ không nhận lời xin. Sau lần này, một vài em đôi khi không được thị kiến Đức Mẹ, riêng Albert Voisin ít nhất ba lần không được thị kiến khi Đức Mẹ hiện ra.

Thứ Hai, 2 tháng 1, 1933, Đức Mẹ nói:

"Ngày mai Mẹ sẽ nói riêng với từng người các con."

Ngày 3 tháng 1, 1933, Fernande Voisin không được thị kiến phần đầu, và chỉ được Đức Mẹ nói riêng với lời:

"Adieu = Từ biệt."

Gilberte Degeimbre nghe Đức Mẹ nói:

"Từ biệt. Mẹ sẽ cải hóa các tội nhân."

Albert Voisin nói Đức Mẹ dạy cậu điều gì mà cậu không được nhắc lại với người khác. Khi bị cật vấn, cậu chỉ nói:

"Ồ, thông điệp đó khá buồn nếu người ta muốn biết."

Việc kiến thiết linh địa mới gặp khó khăn và hàng giáo phẩm cũng hoài nghi, không cho phép chính thức tổ chức hành hương tới Beauraing. Sáu tháng đầu năm 1933, sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại đây hầu như chìm dần vào quên lãng, vì không có phép lạ nào xảy ra. Nhưng sự việc đổi mới khi Đức Mẹ làm phép lạ chữa lành ông Tilman Come, 58 tuổi.

Ông Tilman Come ở thôn Pontaury, cách Beauraing gần 50 cây số, bị tê bại vì liệt xương sống, ông đau đớn gần chết. Ông nài nỉ bà vợ đưa tới Beauraing. Ngày 11 tháng 6, 1933, ông bà lên đường. Dọc đường ông Tilman bị đau đớn kinh khủng. Khi tới hang đá Đức Mẹ, ông đọc được một vài kinh "Kính Mừng Maria." Sau khi chờ một lúc, không thấy bệnh tật thuyên giảm, ông tính quay về Pontaury. Ngay lúc đó một cơn đau dữ dội xảy đến với ông, ông lớn tiếng nói với bà vợ: "Tôi chết mất!" Tiếng kêu đau đớn này khiến đám đông người hành hương xót xa cho cái đau đớn của ông. Nhưng lập tức, trước mắt ngỡ ngàng của mọi người, ông Tilman Come đứng dậy, bước ra khỏi xe, đứng thẳng lên, dang tay dang chân, cái đau đớn đã biến mất.

Tin tức về phép lạ lành bệnh mau chóng loan truyền khắp Beauraing. Ông Tilman và mọi người hiện diện quì gối và từ trái tim thốt lên "lời tâm thành tạ ân." Sau đó ông Tilman nói cho những người chung quanh ông biết về giây phút lạ lùng đó. Ông nói ông không còn biết đến những gì chung quanh ông, trong một phút xuất thần ông thị kiến Đức Mẹ mỉm cười nhân từ nhìn ông và bảo ông Người "sẽ gặp ông ngày mai."

Trên đường về Pontaury, ông Tilman ghé lại Hastière tham dự Thánh Lễ, và khi về tới Pontaury ông chầu Mình Thánh Chúa tại nhà thờ. Sáng hôm sau ông đi bộ 3 cây số đến Mettet, đáp xe lửa đi Beauraing để giữ hẹn với Đức Mẹ, và trước đám đông đang chờ đợi, ông được thị kiến Đức Mẹ.

Lần này Đức Mẹ nói với ông Tilman:

"Mẹ đến đây vì danh dự Nước Bỉ và để bảo vệ đất nước này khỏi lại bị xâm lăng. Các con phải mau mắn lên."

Tin này có nghĩa Nước Bỉ lại bị xâm lăng, điều này hầu như không thể xảy ra, vì Nước Bỉ đã được hiệp ước quốc tế bảo đảm.

Tin tức này lập tức loan truyền khắp nước. Bốn ngày sau, 16 tháng 6, 1933, ông Tilman trở lại hang đá, và có năm em được thị kiến trước, các em được Đức Mẹ nhắc lại yêu cầu:

"Một nhà nguyện, một nhà nguyện lớn."

Từ đây ông Tilman trở nên người được thị kiến chính. Đức Mẹ hiện ra với ông nhiều lần cho tới tháng 8, 1933. Một trong những lần Đức Mẹ hiện ra với ông Tilman, Đức Mẹ cho biết Người muốn được tôn xưng là "ĐỨC MẸ BEAURAING" và ký thác cho ông nhiều bí mật. Ông Tilman đã được hội đồng y khoa và giáo sĩ chất vấn, khám nghiệm trong nhiều giờ.

Linh địa Beauraing được thiết lập không phải tại địa điểm nơi Đức Mẹ hiện ra gần nhà dòng, mà ở phía bên kia đường xe lửa. Đức Mẹ chỉ dẫn nhiều chi tiết về kiến thiết bàn thờ trong thánh đường này.

Sau phép lạ chữa ông Tilman Come, nhiều người khác được Đức Mẹ chữa lành tại linh địa Beauraing. Vào cuối tháng 8 năm 1933, hàng ngày có nhiều ngàn khách hành hương viếng nơi Đức Mẹ hiện ra tại đây.

Năm 1935, đức giám mục tại Namur chỉ định một ủy ban điều tra sự kiện Beauraing, nhưng ngài từ trần trước khi cuộc điều tra kết thúc. Đức giám mục André Marie Charue, kế vị, tiếp tục công việc của ngài.

Ngày 2 tháng 2 năm 1943, trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân Đức chiến đóng Nước Bỉ, đức giám mục André cho phép việc tôn kính Đức Mẹ tại Beauraing.

Ngày 2 tháng 7 năm 1949, đức giám mục chỉ thị cho các linh mục trong giáo phận xác nhận rằng: "ĐỨC NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG thực sự đã hiện ra với năm thiếu niên tại Beauraing. Ngài chính thức chấp nhận việc quyên góp xây dựng thánh đường và linh địa Beauraing. Thánh đường tôn kính MẸ THIÊN CHÚA, ĐỨC NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG được dâng hiến ngày 21 tháng 8 năm 1954.

19. Mẹ hiện ra tại Banneux, Belgique, năm 1933

Banneux là một làng nhỏ, rất nghèo, cách Beauraing hơn 80 cây số về phía đông bắc, cách thị trấn Liège 16 cây số về phía đông. Một đặc điểm của Banneux là dân cư đều là tín hữu Công Giáo, nhưng rất nhiều người bị ảnh hưởng chủ nghĩa xã hội Marxist, họ cố tránh xa lánh Giáo Hội.

Ông Julian Beco, cha của Mariette Beco (người được thị kiến), bị thất nghiệp, ít khi ra khỏi nhà. Vì hầu như mất đức tin, ông Julian không để cho vợ con tiếp xúc với giáo xứ.

Mariette Beco, 12 tuổi, lớn nhất trong các con ông bà Beco, chào đời vào ngày Lễ Truyền Tin, 25 tháng 3 năm 1921. Cô bỏ học, không những chỉ vì không thích học, mà còn vì phải thay mẹ săn sóc các em và làm việc phụ giúp ngân quỹ gia đình.

Chiều tối thứ Bảy, 15 tháng 1, 1933, Mariette nhìn qua cửa sổ ngóng các em về trễ. Đêm đó không trăng sao, tuyết rơi lất phất. Khi nhìn qua bụi cây trong vườn nhỏ của gia đình, Mariette thấy một bóng dáng phụ nữ sáng mờ mờ. Mariette nói chuyện này với mẹ của cô, mà bà nghĩ rằng là chuyện hoang đường.

Mariette lại nhìn thấy bóng dáng đó. Khi nhìn rõ ràng, cô nhận ra đó chính là Đức Trinh Nữ. Đức Trinh Nữ ở trong bầu ánh sáng hình bầu dục. Áo dài của Người trắng tinh và sáng chói, kín ở cổ, khăn thắt lưng mầu xanh đẹp lạ lùng thả xuống đầu gối bên trái. Khăn choàng cũng trắng tinh như áo dài, che đầu và vai Đức Trinh Nữ. Bàn chân phải của Người có bông hồng vàng kim lộ ra dưới gấu áo dài. Người đeo chuỗi Mân Côi nơi cánh tay phải.

Khi ông Julian được con gái cho biết về thị kiến, ông dửng dưng, cho đó là ảnh hưởng các việc xảy ra tại Beauraing. Ngày hôm sau, Mariette đi học trở lại sau nhiều tuần lễ vắng mặt.

Tại trường học, cô kể chuyện thị kiến với một bạn học. Người bạn học của Mariette nghĩ rằng cần phải cho cha sở, cha Jamin, biết việc này. Cha Jamin cũng không để ý nhiều tới sự việc, vì ngài cũng nghĩ rằng đó là ảnh hưởng Beauraing.

Thứ Hai, 16 tháng 1, 1933, Mariette lại được thấy Đức Mẹ khi cô đi ra vườn giữa lúc trời lạnh cóng. Cha của cô kinh ngạc khi thấy cô đang quì cầu nguyện giữa trời lạnh đông đá. Thứ Tư, 18 tháng 1, 1933, trời lạnh buốt đông đá, nhưng người ta lại thấy Mariette quì cầu nguyện ở vườn, và không thể nào thuyết phục cô đi vào trong nhà được. Ông bố của Mariette hết sức bối rối. Ông đi tìm cha Jamin thay vì nhờ lối xóm giúp đưa Mariette vaò trong nhà. Bà mẹ, bà Louise Beco, và một người em của Mariette thấy cô xuất thần, đi từ vườn ra đường, vừa đi vừa nói: "Người gọi con." Mấy người đó cầm đèn đi theo cô cho tới khi Mariette quì xuống bên đường và cô thấy một dòng nước gần đó. Cô thọc hai bàn tay xuống nước và hình như tỉnh lại. Khi người ta hỏi, cô nói Đức Mẹ bảo cô:

"Suối nước này được dành riêng cho Mẹ,"  rồi nói:

"Tạm biệt."

Ngày hôm sau, cha Jamin đến nhà ông Beco tìm hiểu sự việc, lúc đó, trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông Julian Beco xin xưng tội. Sáng hôm sau, 20 tháng 1, 1933, ông đi lễ, và những người nhóm Marxist tại Banneux chế nhạo ông về việc này.

Trong vườn, Mariette hỏi Đức Mẹ:

"Người là Ai?"

Người đáp:

"Mẹ là Đức Trinh Nữ của người nghèo khó."

Lúc ở suối nước, Mariette hỏi Đức Mẹ ý nghĩa lời Đức Mẹ nói:

"Suối nước này dành riêng cho Mẹ",

Đức Mẹ giải thích là suối nước đó "dành cho mọi dân tộc, cho những người bệnh tật"  và nói:

"Mẹ đến cứu giúp những người bệnh tật."

Mặc dầu trước kia Đức Mẹ đã nói "Từ biệt", Mariette vẫn tối tối quì cầu nguyện trong vườn. Đức Mẹ lại hiện ra vào các ngày 11, 12 và 20 tháng 2, 1933 và lần cuối cùng vào ngày 2 tháng 3, 1933. Khi hiện ra ngày 2 tháng 3, Đức Mẹ ban cho Mariette nhiều thông điệp "bí mật", và trước khi từ biệt lần chót, Đức Mẹ nói:

"Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa. Con hãy cầu nguyện nhiều. Từ biệt con."

Dòng nước nhỏ đã trở nên dòng suối lớn và hầu như lập tức nhiều người được lành bệnh nhờ nước suối này. Một ủy ban gồm hai bác sĩ y khoa và hai linh mục và một số người địa phương đã cấp thời xem xét các dữ kiện. Kết quả cuộc điều tra, các thành viên đều tuyên bố rằng không có điều gì dối trá về phía Mariette và gia đình cô. Mariette khỏe mạnh thể chất và tâm trí bình thường, không có dấu gì bất thường. Sau đó ít lâu Mariette vào nội trú để tránh khỏi bị chất vấn bởi quá nhiều phóng viên và người muốn tìm hiểu.

Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Banneux được đức giám mục Kerkhofs, giáo phận Liège, báo cáo trực tiếp về Tòa Thánh vào cuối năm 1941. Chỉ trong thời gian hết sức ngắn, Tòa Thánh đã phúc đáp và việc sùng kính Đức Trinh Nữ của người nghèo hầu như lập tức được chính thức long trọng bắt đầu.

Một bệnh viện 250 giường dành cho người nghèo đã sớm được xây cất tại Banneux. Nhiều bệnh viện khác được xây dựng tiếp theo. Các bệnh viện này đều do các nữ tu thuộc chín dòng khác nhau điều khiển.

20. Mẹ hiện ra tại Kerizinen, Pháp, năm 1938

Lần này Đức Mẹ chọn hiện ra tại Kerizinen, một xóm nhỏ chỉ có dăm ba ngôi nhà vách đá cũ kỹ, nghèo nàn. Kerizinen cách eo biển Manche trên bờ Đại Tây Dương khoảng 2 cây số về phía bắc, cách Paris 480 cây số về phía Tây.

Người được Đức Mẹ chọn làm thông tín viên là Jeanne Louise Ramonel, lúc đó 36 tuổi, tàn tật, độc thân, sống cô đơn. Jeanne Louise sinh năm 1910. Chị có tất cả tám anh chị em. Những người này đều trưởng thành, có gia đình và ở riêng hoặc đi làm ăn xa. Khi được hai tuổi, Jeanne Louise bị bệnh tê bại. Năm 1936, cha sở thu xếp đưa chị đến Lộ Đức. Sức khỏe của chị dần dần khả quan hơn, chị tập tễnh bước đi được và tự làm lấy những việc cần thiết cho mình.

Ngày 15 tháng 9 năm 1938, Jeanne Louise đang ngồi đan áo và trông chừng con bò sữa của chị gặm cỏ ở đồng cỏ gần nhà. Bất chợt chị thấy một trái cầu ánh sáng hiện ra trước mắt chị và đứng cách mặt đất khoảng một mét. Bầu ánh sáng tỏa rộng ra, chị thấy trong chính giữa là một Phụ Nữ Trẻ Đẹp mà chị tin chắc là Đức Trinh Nữ. Jeanne quì xuống, và Đức Mẹ nói:

"Đừng sợ! Mẹ không làm hại con đâu! Con sẽ thấy Mẹ vào những lần khác nhau trong những năm tới. Khi đó Mẹ sẽ nói cho con biết Mẹ là Ai và muốn con làm gì. Một cuộc chiến mới đang đe dọa Âu Châu. Mẹ sẽ làm chậm cuộc chiến đó một vài tháng, vì Mẹ không thể bưng tai làm ngơ hết sức nhiều lời cầu nguyện xin hòa bình dâng lên Mẹ tại Lộ Đức vào lúc này."

Tới đây Đức Mẹ biến đi. Jeanne Lousise đã không nói với ai về thị kiến này.

Ngày 7 tháng 10 năm 1938, lễ Đức Mẹ Mân Côi, và đúng vào sinh nhật thứ 37 của chị, Đức Mẹ hiện ra nói với chị:

"Thế giới không ngưng xúc phạm Thiên Chúa bằng những tội nặng nề kinh khủng, nhất là các tội thuộc giới răn thứ sáu và thứ chín. Vì thế cuộc chiến này là hình phạt vì quá nhiều tội lỗi đó."

Đức Mẹ nói tiếp:

"Nhưng Thiên Chúa quá xót thương và ban cho các con phương tiện ơn cứu độ: hòa bình, các con sẽ sớm có hòa bình nếu các con biết cách mưu cầu. Nhưng để được hòa bình, người ta cần phải sống cuộc đời cầu nguyện, hy sinh, đền tội. Các thiếu niên, đặc biệt là các nhóm cầu nguyện, cần phải năng cầu nguyện kinh Mân Côi, kèm lời nguyện 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi hỏa ngục, xin đem hết thảy các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót của Chúa hơn' để cầu xin cho kẻ tội lỗi. Con hãy nói với cha sở rằng ngài phải công bố thông điệp này. Mẹ sẽ ban cho thông điệp này sức mạnh siêu nhiên đánh động các tâm hồn."

Jeanne Lousise lập tức báo cho cha sở về lần thị kiến này và thị kiến thứ nhất như Đức Mẹ bảo. Nhưng cha sở cấm chị không được nói điều đó với ai. Vì thế suốt 9 năm, cho tới lần thị kiến thứ mười ba, chỉ có chị Jeanne Louise và cha sở biết về thị kiến và các thông điệp của Đức Mẹ trong các thị kiến đó.

Ngày 1 tháng 12 năm 1939, Đức Mẹ hiện ra và khuyên chị Jeanne:

"Các con hãy nhớ chắc phải võ trang bằng lời cầu nguyện và hy sinh trong khi quân đội của các con (Pháp) đang chiến đấu."

Ngày 2 tháng 4 năm 1940, Đức Mẹ cảnh cáo:

"Người ta không cầu nguyện nhiều như trong tháng đầu cuộc chiến. Vì sự chểnh mảng này, các con (Pháp) sẽ phải chịu đau khổ, mà phần chính là các binh sĩ của các con. Nhiều người sẽ bị cầm tù. Nhiều người sẽ chết vì đói khát và khốn khổ."

Đức Mẹ hiện ra ban thông điệp cho chị Jeanne Louise vào đầu tháng 5 năm 1940, khi nước Bỉ vừa mới bị Đức xâm lăng. Đức Mẹ nói:

"Các con dân Pháp của Mẹ, những giờ phút nghiêm trọng sẽ sớm đến với các con! Đất nước các con bị kẻ thù đe dọa xâm lấn."

Ngày 8 tháng 5 năm 1941, Đức Mẹ nói:

"Chẳng bao lâu nữa, nước Nga sẽ giúp làm nhẹ cuộc chiến. Kẻ thù của các con sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Nhưng, bắt đầu từ giây phút này, các con phải cầu nguyện, cầu nguyện thiệt nhiều. Hỡi các linh hồn Kitô hữu, vì kẻ thù vĩ đại này của Giáo Hội (= Cộng Sản), sau cuộc chiến, sẽ hiện diện hầu khắp nơi, và chúng gây khó khăn nhiều cho Giáo Hội."

(Chúng ta thấy thông điệp ngày 8-5-1941 có nội dung rất gần thông điệp Đức Mẹ ban ngày 13-7-1917 tại Fatima. Bắt đầu từ năm 1950, Cộng sản lan tràn khắp thế giới như thác lũ và là mối đe dọa lớn cho các dân tộc, là khó khăn lớn cho Giáo Hội).

Ngày 1 tháng 5 năm 1944, chị Jeanne Louise thấy một cảnh bao la trước mặt: Ở một góc, có những người đang kéo lá cờ đỏ lên. Một số linh mục cố cản họ, nhưng các ngài bị họ đe dọa, hành hạ, và ném đá. Trong một góc, ma quỉ đang hết sức khoái chí, cổ võ những người đang kéo lá cờ đỏ. Trong một chỗ khác, hình Đức Trinh Nữ đang khóc, và có hàng chữ  "Hình Ảnh Của Chủ Nghĩa Cộng Sản."

Sau khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ 13, ngày 4 tháng 10 năm 1947, chị Jeanne Louise lần nữa chống nạng đi bộ hơn 2 cây số đến gặp cha sở tại Plounevez Lochrist để báo cho ngài những lời Đức Mẹ. Một cô bé tình cờ nghe tường tận đối thoại giữa cha sở và chị Jeanne Louise. Ngay sau đó, cô bé chạy tới trường học nói cho mọi người biết Đức Mẹ hiện ra với chị Jeanne Louise. Lần đầu tiên các thông điệp Đức Mẹ dạy chị Jeanne Louise được loan báo cho công chúng.

Chỉ ít lâu sau, một đài Đức Mẹ được dựng lên ở đồng cỏ. Người ta bắt đầu đến cầu nguyện tại đây, và chị Jeanne thuật lại cho mọi người các thông điệp của Đức Mẹ từ lần thứ nhất đến lần thứ hai mươi mốt.

Cuối tháng 5 năm 1949, Đức Mẹ làm phép lạ đầu tiên tại Kerizinen chữa lành một phụ nữ nguy tử tại bệnh viện. Sau khi các tín hữu dâng hoa cầu nguyện tuần chín ngày tại đài Đức Mẹ để cầu nguyện cho bệnh nhân nói trên, và Đức Mẹ hiện ra lần thứ 22, nhiều người thấy bầu ánh sáng đáp xuống nhà chị Jeanne. Sau thị kiến, chị Jeanne yêu cầu lấy một số hoa dâng tại đài Đức Mẹ, chị kết thành vòng hoa nhỏ, và nhờ đưa tới cho bệnh nhân. Ngay khi vòng hoa vừa được đặt xuống giường người phụ nữ, bà này lập tức bắt đầu nói, ngồi lên, và khỏi bệnh. Khi tin này được loan ra, không chờ kết quả của hội đồng giám định y khoa, cũng không chờ đức giám mục chấp thuận, mọi người đều cho là phép lạ thực sự.

Khi Đức Mẹ hiện ra ngày 6 tháng 8 năm 1949, chị Jeanne Louise xin Đức Mẹ cho dân cư ở đây một suối nước, vì người ta phải đi gần 2 cây số mới lấy được nước. Đức Mẹ hứa cho, nhưng tới năm 1952, người ta mới được hưởng nước suối này.

Ngày 9 tháng 12 năm 1949, Đức Mẹ bảo Jeanne Louise:

"Con hãy đến trình đức giám mục rằng Mẹ muốn ngài tổ chức cầu nguyện và hành hương tại đây, và một nhà nguyện được xây dựng tại đây. Tại đây, Con của Mẹ sẽ làm những phép lạ mà Chúa đã làm tại đây trước kia. Mẹ muốn các phép lạ đó được tái diễn, đặc biệt vì những người tội lỗi."

Nhưng đức giám mục đã không làm gì cả. Một số dân cư tại đây tự nguyện dựng lên một kiến trúc sơ sài nơi Đức Mẹ hiện ra. Bên trong có tượng Đức Mẹ được tạc theo chị Jeanne Louise mô tả. Trong các thập niên 1950 - 1960, vào những dịp lễ, có tới 5 hoặc 6 ngàn người tụ họp tại nhà nguyện nhỏ này, và điều này làm giáo quyền không hài lòng.

Ngày 8 tháng 12 năm 1953, Đức Mẹ làm phép lạ mặt trời, bông tuyết, hoa và hương thơm, tương tự phép lạ mặt trời vũ tại Fatima ngày 13 tháng 10 năm 1917, nhưng khác là mặt trời tách ra làm hai mảnh và xoay ngược chiều nhau trước mắt hơn ngàn người hiện diện.

Trong thông điệp ngày 12 tháng 12 năm 1955, Đức Mẹ bảo chị Jeanne:

"Con hãy xin đức giám mục thành lập trong các giáo xứ 'Hội Con Cái Mẹ', mà Mẹ đã nói tới vào những năm đầu."

Và Đức Mẹ nói tiếp:

"Ma quỉ đã tung ra hết mọi mưu kế xảo quyệt của nó để những lần Mẹ hiện ra không được nhìn nhận tại Brittany, nhưng bất chấp nó, Mẹ sẽ vinh thắng."

Đức Mẹ đã hiện ra với chị Jeanne Louise ít nhất 71 lần. Nhưng tiếc rằng các thông điệp của Mẹ không được ghi lại, phổ biến đầy đủ và cấp thời, và giáo quyền địa phương đã không quan tâm tới, nếu không nói là cố ý chống lại. Một số giáo dân đạo đức tại Canada, Pháp và Bỉ cố gắng thu thập, phổ biến các thông điệp và tinh thần thông điệp tại Kerizinen.

21. Mẹ hiện ra tại Montichari, Nước Ý, năm 1947-1966

Người được Mẹ Maria chọn làm thông tín viên lần này là chị Pierina Gilli, lúc đó 36 tuổi, và nơi Đức Mẹ hiện ra là một bệnh viện tại Montichiari, nơi chị Pierina làm việc.

Montichiari nằm giữa vùng đồng bằng phì nhiêu của sông Pô, cách San Damiano khoảng 98 cây số về phía tây bắc, cách thành phố Brescia khoảng 60 cây số về phía đông nam. Fontanelle là ngoại ô của Montichiari, nơi chị Pierina Gilli chào đời ngày 3 tháng 8 năm 1911.

Hôm đó, chị Pierina đang làm việc một mình trong phòng tại bệnh viện, một vị phụ nữ tuyệt đẹp (Đức Mẹ) bất chợt hiện ra với chị. Đức Mẹ mặc áo dài mầu tím, khăn choàng đầu mầu trắng. Đức Mẹ rất buồn, mắt đẫm lệ, nhiều giọt lệ rơi xuống sàn nhà. Ngực Đức Mẹ bị ba mũi gươm xuyên qua.

Đức Mẹ chỉ nói:

"Cầu nguyện - Thống Hối - Đền Tội."  

Sau đó Người nín thinh, những giọt lệ lóng lánh rơi xuống sàn nhà. Đức Mẹ biến đi.

Chúa nhật, 13 tháng 6 năm 1947, Đức Mẹ trở lại lúc sáng sớm. Lần này Đức Mẹ mặc toàn trắng và thay vì ba mũi gươm là ba bông hồng - trắng, đỏ và vàng kim. Chị Pierina hỏi:

"Xin Người vui lòng cho con biết Người là Ai?"

Đức Mẹ mỉn cười nói:

"Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ tất cả các con."

Lúc đó Đức Mẹ ban thông điệp khá dài liên quan đến việc sùng kính mới dâng cho Mẹ và những sắp xếp các dòng tu và linh mục.

Đức Mẹ muốn ngày 13 hàng tháng được dành là "Ngày Của Mẹ Maria", ngày tôn vinh "Hoa Hồng Huyền Nhiệm" và vào ngày này, Đức Mẹ sẽ ban cho những ai tôn vinh Mẹ "tràn đầy ơn sủng và sự thánh hóa cao cả."

Đến đây Đức Mẹ giải thích ý nghĩa ba mũi gươm đã đâm vào ngực Mẹ trong lần hiện ra trước:

* lưỡi gươm thứ nhất là sự mất ơn gọi linh mục và tu sĩ;

* lưỡi gươm thứ hai là các linh mục và tu sĩ sống trong tội trọng;

* lưỡi gươm thứ ba là các linh mục và tu sĩ phạm tội phản nghịch của Juda Iscariot, những người này bỏ ơn gọi, mất đức tin cùng hạnh phúc vĩnh cửu và trở nên kẻ thù của giáo hội.

Kế đến Đức Mẹ giải thích ý nghĩa ba bông hồng:

* bông hồng trắng có nghĩa là tinh thần cầu nguyện;

* bông hồng đỏ là tinh thần đền tạ và hy sinh;

* bông hồng hoàng kim là tinh thần ăn năn thống hối.

Ngày 22 tháng 10 năm 1947, Đức Mẹ nói:

"Con của Mẹ mỏi mệt vì những xúc phạm triền miên và muốn thi hành đức công bằng của Ngài. Vì thế Mẹ đặt mình làm trung gian giữa Chúa và nhân loại, đặc biệt là những linh hồn được thánh hiến."

Tại nhà thờ giáo xứ, ngày 16 tháng 11 năm 1947, một số người hiện diện thấy chị Pierina xuất thần. Đức Mẹ nói:

"Con của Mẹ, Chúa chúng ta, mỏi mệt vì quá nhiều xúc phạm, những xúc phạm nặng nề, những tội chống lại đức trong sạch thánh thiện."

Sau một chút, Đức Mẹ nói tiếp:

"Chúa muốn gởi đến một trận lụt khác hoặc một hình phạt khác. Mẹ đã can thiệp. Mẹ khẩn thiết yêu cầu các linh mục bằng tình yêu mà cảnh cáo mọi người rằng họ không được phạm các tội đó nữa."

Tiếp sau khi Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ xứ Montichiari, nhiều phép lạ nhãn tiền chữa lành bệnh đã xảy ra. Nhưng đức giám mục Giacinto Tredici, giáo phận Brescia, ra lệnh cho chị Pierina chấm dứt thị kiến và vào làm việc tại tu viện ở Brescia. Chị vâng lời và làm việc tại đây mười chín năm. Trong thời gian này, các lần thị kiến hầu như không còn xảy ra.

Nhưng vào tháng 2 năm 1966, khi chị Pierina đang cầu nguyện trong phòng, Đức Mẹ lại hiện ra cho chị biết Đức Mẹ sẽ hiện ra tại Fontanelle vào Chúa Nhật Phục Sinh, 17 tháng 4, 1966. Khi đức giám mục được báo cáo tin này, ngài cấm chị Pierina không được nói với ai, cũng không được về Fontanella.

Dẫu vậy, chị Pierina đã đi cùng với một người bạn về Fontanella và dừng lại nơi giếng nước cũ có bậc đá đi xuống. Chính tại giếng nước này, Đức Mẹ lại hiện ra sau kinh Truyền Tin. Đức Mẹ nói:

"Con của Mẹ yêu thương vô cùng, và Chúa gởi Mẹ đến đây ban cho giếng nước này sức chữa lành bệnh tật. Để làm dấu ăn năn thống hối và thanh tẩy, con hãy quì gối và hôn bậc trên cùng này!"

Chị Pierina đã thi hành như Đức Mẹ dạy:

"Bây giờ con lại hôn các bậc bước lên bước xuống và đặt ở đây một Tượng Chịu Nạn!"

Bằng tay trái, Đức Mẹ ghi dấu nơi đặt Tượng Chịu Nạn. Đức Mẹ nói tiếp:

"Trước tiên các bệnh nhân và các con cái của Mẹ phải xin Con của Mẹ tha thứ tội lỗi họ, kế đó họ yêu mến hôn thánh giá này, sau đó múc nước uống. Con hãy lấy bùn, thoa vào hai bàn tay con, rồi rửa bằng nước giếng đó! Việc này cho thấy tội lỗi trở thành bùn và bụi dơ nơi trái tim các con cái Mẹ, nhưng được thanh tẩy trong nước ân sủng, các linh hồn lại trở nên thanh sạch và xứng đáng hưởng ân sủng.

"Mẹ ước muốn các người bệnh tật và tất cả mọi con cái của Mẹ đến giếng nước này. Nhiệm vụ của con là tại đây nhận các người bệnh tật và tất cả người người cần con giúp đỡ."

Tới đây Đức Mẹ bay lên không trung. Người dang rộng hai cánh tay và áo choàng của Mẹ phủ khắp khoảng mênh mông trên bầu trời. Nơi cánh tay Đức Mẹ có chuỗi mân côi mầu trắng.

Rất nhiều bệnh nhân tật nguyền được lành nhờ ăn năn thống hối và dùng nước giếng Đức Mẹ, và sự việc Đức Mẹ hiện ra với chị Pierina được bán chính thức nhìn nhận.

Vào thời gian này xảy ra chuyện là một kiến trúc có tên "Lâu Đài Thánh Maria" được rao bán, có người định mua để biến nơi đó thành một hộp đêm ma quỉ. Tuy nhiên các mưu kế đó bị phá tan và Đức Ông Luigi Novarese đã mua lâu đài đó và biến thành nhà thương nối liền với viện dưỡng lão các linh mục. Ngày khánh thành long trọng, cha sở tại Montichiari, đức ông Rossi, đã mời đức giám mục Fatima, João  Pereira Vencancio, tới dự.

Bây giờ chị Pierina được giáo quyền cho phép đón Đức Mẹ hiện ra. Đức Mẹ tiếp tục hiện ra với chị ít nhất thêm 36 lần, tuy không đều đặn, cho tới hết năm 1976.

Ngày 20 tháng 4 năm 1969, chị Pierina viết: "Đức Mẹ đã hứa ban dấu lạ trên trời để đẩy mau chiến thắng của Người." Nơi dấu lạ xảy ra là nhà thờ ở Fontanelle.

Tới ngày đó, nhiều người đã tới sớm để cầu nguyện. Trời giông bão, bầu trời đen kịt, gió lạnh. Thình lình, một khoảng trống hiện ra trên mây. Khoảng trống đó trở nên tối hơn, cho tới khi tưởng chừng màn đêm xuống. Người ta nhìn đồng hồ, nhưng chỉ mới 4 giờ chiều.

Giữa bầu trời đen kịt, người ta nhìn rõ các ngôi sao lóng lánh. Các ngôi sao tiếp tục chớp sáng cho tới khi một triều thiên lớn gồm 12 ngôi sao hiện ra. Mặt trời từ xa tắp lúc này tới gần hơn, lớn hơn và sa xuống phía người ta. Rồi đổi thành mầu đỏ với nhiều tia sáng đẹp mắt. Mặt trời như rung rinh lắc lư vì gió bão, và tưởng chừng rớt xuống.

Mọi người hoảng hốt. Nhiều người quì xuống cầu nguyện. Mặt trời ngừng rơi, bắt đầu xoay trên trục, phóng ra những ngọn lữa lớn xuống trái đất. Khắp bầu trời nhuộm đỏ. Cảnh tượng kinh hoàng và không thể hiểu.

Bất chợt, mặt trời trở lại khoảng trống đen lúc trước. Các đám mây trở thành mầu trắng tuyết. Mặt trời bình thường lại xuất hiện, mầu trắng bệch và vẫn còn trong khoảng đen, rồi từ từ di chuyển. Mặt trời đứng im một lúc trong vòng triều thiên mười haingôi sao. Kế đó, mặt trời tách ra tạo thành hình thánh giá ánh sáng rực rỡ.

Trong thời gian này, cả bầu trời đổi thành mầu vàng. Mặt trời lại ra khỏi hành lang tối, tựa như sao chổi, nhưng lần này nó di chuyển từ từ, lắc lư và như nhảy tới nhảy lui.

Một lúc sau, khoảng tối trở nên sáng lại. Các ngôi sao mờ đi. Mây vẫn còn bao phủ bầu trời. Nhiều người tại Lonato, cách xa 12 hoặc 13 cây số, nhìn thấy hiện tượng lạ mặt trời tại Montichiari.

22. Mẹ hiện ra tại Lipa, Phi luật tân, năm 1948-1949

Lipa là một thị xã nhỏ, gần thị xã Rosario, thuộc tỉnh Batangas, cách Manila khoảng 10 cây số về phía đông nam. Lipa và Rosario thuộc vùng núi trên độ cao 500 mét. Dân cư vùng này sống thiếu thốn nhiều về vật chất. Tại đây có nhà dòng Carmel rất cổ kính. Các nữ tu Carmel tận lực giúp đỡ người nghèo khó tại đây. Trong số các nữ tu này là chị Teresita Castillo, người được Đức Mẹ chọn làm thông tín viên.

Chiều ngày 12 tháng 9 năm 1948, chị Teresita ở một mình trong vườn nhà dòng, nơi có nhiều cây nho gần bức tường. Chị nghe tiếng gọi tên chị. Chị quay lại nhìn xem ai gọi và thấy một đám mây trắng nhỏ ở trước khóm nho. Từ đám mây này tỏa ra những tia sáng rực rỡ. Thoạt tiên chị không nhìn rõ người trong đám mây. Từ đám mây tiếng nói vọng ra:

"Con đừng sợ. Con hãy hôn đất đi. Con hãy làm bất cứ điều gì Mẹ bảo con làm. Con hãy đến thăm Mẹ tại chính chỗ này 15 ngày liên tiếp. Con hãy ăn một vài cọng cỏ đi."

Ngày hôm sau, 13 tháng 9, 1948, chị Teresita nhìn rõ Đức Mẹ trong đám mây. Đức Mẹ nói:

"Người ta không tin lời Mẹ. Con của Mẹ, con hãy cầu nguyện, cầu nguyện nhiều vì sự đàn áp. Điều Mẹ xin ở đây cũng là chính điều Mẹ đã xin tại Fatima. Con hãy nói cho mọi người biết điều này."

Sau thị kiến ngày 13-9-48, những cánh hoa hồng bắt đầu từ trời rơi xuống vườn, khắp khuôn viên nhà dòng, và bên ngoài nữa. Mặc dầu trời gió lộng, các cánh hoa đó không bị gió cản trở hoặc xáo trộn, cho tới khi xuống tới đất các cánh hoa đó mới chịu ảnh hưởng của gió. Hàng trăm người đã lượm những cánh hoa có hương thơm ngào ngạt này.

Đức Mẹ đã hiện ra với chị Teresita đủ 15 lần. Một đôi lần Đức Mẹ xưng mình là "Mẹ Maria, Đấng Trung Gian Mọi Ơn Lành" và yêu cầu thiết lập một đài dâng kính Đức Mẹ tại chính nơi Đức Mẹ hiện ra.

Những cánh hoa hồng không phải chỉ mưa xuống ngày 13 tháng 9, 1948, mà tiếp tục trong tháng 10, và 5 ngày liên tiếp trong tháng 11, 1948. Người ta thi nhau lượm hết các cánh hoa hồng này và cung kính giữ. Nhiều ơn lành bệnh nhờ uống nước nấu những cánh hoa hồng này được ghi nhận.

Ngày 23 tháng 3, 1949, khắp cả thị trấn, mọi người bất chợt nhìn lên và thấy Đức Mẹ đứng giữa đám mây. Chung quanh Đức Mẹ có những vòng hào quang màu đỏ, xanh, vàng, và lá cây. Hình ảnh Đức Mẹ trên đám mây này là hình ảnh ba chiều, vì một số người ở thẳng trước mặt Đức Mẹ thấy trọn vẹn khuôn mặt, nhưng những người ở phía bên nhìn thấy mặt Đức Mẹ đứng nghiêng. Đức Mẹ hiện ra lạ lùng này lâu trên hai tiếng đồng hồ để những người từ Rosario tới kịp chiêm ngưỡng. Một số người nói họ thấy Đức Mẹ từ xa 5 hoặc 6 cây số.

Một đài kính Đức Mẹ được lập tại nơi Đức Mẹ hiện ra, và thánh đường Lipa được dâng kính Đức Mẹ, Đấng Bầu Cử Muôn Ơn Lành. Những cánh hoa hồng từ trời mưa xuống đã được bọc trong bao plastic và gởi đi khắp thế giới.

23. Mẹ hiện ra tại Necedah, Wisconsin, Hoa kỳ, năm 1949-51

Tại Necedah, tiểu bang Wisconsin, Hoa kỳ, Đức Mẹ hiện ra với bà Mary Ann Hoof, lúc đó 40 tuổi, có chồng con.

Bà nói đêm 12 tháng 11 năm 1949, khi đang cầu nguyện, bà nghe tiếng khua trong phòng khách. Bà tới tìm hiểu thì thấy thứ gì giống như ánh sáng mầu trắng. Thoạt tiên bà nghĩ đó là một trong các con của bà, nhưng khi nhìn kỹ, bà thấy một khuôn mặt nhỏ nhắn có khăn choàng đầu. Bà sợ và lui vào trong phòng. Nhưng bóng đó đi theo, ngừng lại cách đầu giường của bà khoảng hơn một mét, và đứng lặng lẽ nhìn bà. Bà Mary hết sức sợ hãi. Nhưng rồi bóng đó biến đi.

Thời gian lặng lẽ qua, đến ngày 7 tháng 4 năm 1950, bà thấy Xác Chúa Giêsu trên Thánh Giá, treo trên tường, rực sáng và kích thước của tượng lớn gấp hai. Một tiếng nói từ tượng Khổ Giá vọng ra:

"Này, con của Cha, con hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, cầu nguyện tha thiết. Con của Cha, con phải vác thánh giá nặng, nhưng khắp thế giới người ta phải vác thánh giá nặng hơn và đau khổ vì kẻ thù của Thiên Chúa nếu các con không cầu nguyện. Các con hãy cầu nguyện, cầu nguyện tha thiết bằng trái tim."

Lễ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, ngày 28 tháng 5 năm 1950, bà Mary Ann nói:

"Tôi thấy bóng mờ mầu xanh ở phía mấy cây nhỏ trong vườn, có tiếng bảo tôi rằng Thánh Nữ đến. Cho tới nay tôi vẫn gọi Người là Thánh Nữ vì tôi chưa thực sự biết Người là ai. Tôi bước ra ngoài. Ngay khi bước ra khỏi cửa, bóng mầu xanh lướt qua các ngọn cây rồi hiện thành hình Đức Mẹ. Người đứng cách mặt đất khoảng một mét, mỉm cười, hai tay dang rộng."

Ngày 29 tháng 5 năm 1950, Đức Mẹ hiện ra nói với bà Mary Ann: 

"Hỡi Nước Mỹ, tỉnh dậy đi! Kẻ thù của Thiên Chúa đang bò khắp Nước Mỹ! Tất cả mơi người phải cùng nhau hoạt động chống lại kẻ thù của Thiên Chúa! Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện theo ý này! Các con phải cầu nguyện cho Nước Nga trở lại!"

Ngày 16 tháng 6 năm 1950, lúc đó hơn một ngàn người tụ họp tại nhà gia đình Van Hoof và Nơi Thánh (nơi Đức Mẹ đứng khi hiện ra), có linh mục Lengowski, cha sở giáo xứ thánh Phanxicô và các chú giúp lễ cũng hiện diện. Đức Mẹ hiện ra ban thông điệp quan trọng:

"Với hàng giáo phẩm tại Hoa Kỳ! Quá nhiều người các con tham lam vật chất và đặt khoái lạc trước nhiệm vụ. Các con phải tự khiêm và làm gương cho các tín hữu. Các con hãy nhớ các con làm việc cho Chúa Giêsu ở trần gian. Các con phải tận lực kêu gọi đưa giáo dân của các con trở lại Giáo Hội.

"Nếu các con không nghe lời Mẹ lúc này, các con là những người đang suy thoái, các con sẽ chịu đau khổ kinh khủng vì những bạo hành và hình phạt tương tự xảy ra tại các quốc gia bị thanh lọc (= các nước cộng sản). Tất cả các con đều biết bom nguyên tử với sức hủy diệt của nó đang ở trong tay kẻ thù.

"Con hãy nói điều này với các linh mục của con và tất cả các linh mục khắp Hoa Kỳ và khắp thế giới. Có quá nhiều người coi xa hoa phè phưỡn trọng hơn các nhiệm vụ của họ đối với Thiên Chúa.

"Các con đừng gây chiến với nhau. Ghen ghét hận thù giữa các tôn giáo chính là điều kẻ thùđang mưu cầu. Các linh mục phải là những mục tử đích thực, trương cao Chân Lý và Đường Lối của Luật Chúa không phân biệt một ai."

Giữa trưa ngày 15 tháng 8 năm 1950, Đức Mẹ ban cho bà Mary Ann thông điệp dài mà chỉ một vài phần được trích sau đây:

"... Kẻ thù ở khắp các ngành của chính phủ, lực lượng dân sự, truyền thông, quân đội, hàng linh mục, các mục sư và cả những người giúp việc khách sạn ...

"... Các nữ gián điệp làm việc cho kẻ thù bay tới bay lui các thành phố, nữ phái của họ giúp họ đi lại dễ dàng...

"...  Có tới 30 ngàn cán bộ cộng sản được huấn luyện làm linh mục để xâm nhập Giáo Hội Công Giáo. Hàng ngũ các mục sư cũng bị những mục sư đỏ xâm nhập và vận động hủy diệt các tôn giáo. ...

"... Tất cả phải cùng nhau hoạt động chống lại kẻ thù của Thiên Chúa, mà nó (= tay sai ma quỉ) lúc này rất mạnh. Các con hãy nhớ các Giới Răn, Đường Thánh Giá vì kẻ thù của Thiên Chúa hiện diện khắp nước Mỹ. Hẳn các con ngạc nhiên khi bộ áo lông chiên được lột ra và chúng sẽ xông lên - khắp chung quanh các con – mặc dầu một số hoạt động như là Kitô hữu - chúng có Satan trong tim ...

"... Các linh mục không thể đơn phương làm việc này, người Công Giáo cũng không thể đơn phương làm việc này. Đó là lý do tất cả phải làm việc chung với nhau, không phải bằng ghen tị và hận thù, mà bằng yêu thương, yêu thương người khác... Hững hờ và phạm thượng làm đau lòng Chúa chúng ta. ...

"... Vũ khí chỉ hủy diệt và tiếp tục hủy diệt ... Nhưng tất cả các con phải nhớ những lời Mẹ cảnh cáo tại Fatima, Lipa và La Salette. Mẹ cảnh cáo các con ngày đó. Mẹ lại cảnh cáo các con nữa. ...

"... Sự tàn phá của Cộng Sản lúc này khởi đầu tại Triều Tiên, nhưng sẽ không ngừng tại đó nếu chúng ta không cầu nguyện. Nó chỉ mới khởi đầu tại Triều Tiên - một nửa nước Mỹ lâm chiến với kẻ thù của Thiên Chúa."

Mặc dầu những người mộ mến Đức Mẹ tuốn đến Necedah và nhiều phép lạ lành bệnh, cải hối, và những sự lạ lùng được nhiều người chứng kiến tại chính nơi hoặc gần nơi Đức Mẹ hiện ra với bà Mary Ann, giáo quyền địa phương liên hệ phạt vạ treo bà Mary Ann và sáu người nhiệt thành nhất phổ biến tin tức và thông điệp của Đức Mẹ tại đây.